CÁC GIAI ĐOẠN HUẤN LUYỆN
“Cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hợp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,13).
I. THỈNH TU
55 Khi một ứng sinh đến tìm hiểu ơn gọi, đan viện ân cần đón tiếp và cho ở nhà khách ít lâu để hồi tâm.
56 Trong thời gian ấy, ứng sinh sẽ được Tập sư hướng dẫn trong việc tìm hiểu ơn gọi, dựa trên những tiêu chuẩn đã được ghi trong Tu luật hay trong Hiến pháp Hội dòng (x. TL 58; HP 68-69).
57 Ứng sinh hãy xuất trình các hồ sơ cá nhân cần thiết như: Thư giới thiệu của cha xứ, chứng thư rửa tội và thêm sức, đơn xin nhập tu. Ngoài ra, nếu trước đó, ứng sinh đã ở trong một tu viện hay chủng viện nào, còn phải có giấy giới thiệu của Bề trên nơi đó và những hồ sơ liên hệ.
58 Tập sư cần lưu tâm các khoản Giáo luật liên quan đến điều kiện nhập tu (x. GL 642-643). Ngài phải loại bỏ những người không có đủ sức khỏe tâm thần và thể xác để giữ luật chung (x. HP 69,2).
59 Nếu nhận thấy ứng sinh có khả năng đáp ứng ơn gọi đan tu, Tập sư sẽ đưa ứng sinh vào Tập viện để tiếp tục huấn luyện về đời sống đan tu.
60 Trong giờ hội chung gần nhất, Tập sư giới thiệu ứng sinh với Bề trên và toàn thể cộng đoàn. Cộng đoàn bày tỏ sự niềm nở và giúp đỡ ứng sinh vượt qua mọi ưu tư và sợ sệt lúc ban đầu.
61 Ứng sinh được chính thức nhận vào bậc thỉnh tu theo Nghi thức của Hội dòng và được gọi là thỉnh sinh.
62 Mục đích của giai đoạn thỉnh tu không những để nhận xét khả năng sống ơn gọi của ứng sinh, mà còn nhằm bổ túc giáo lý và văn hóa, đồng thời chuyển hướng dần từ nếp sống ngoài đời vào nếp sống đặc biệt của Tập viện (x. ĐMHL 11,1).
63 Để được nhận vào bậc thỉnh tu, ứng sinh phải hội đủ những điều kiện sau đây:
- Phải đạt tới mức trưởng thành nhân bản và Kitô giáo (x. HL 43c).
- Đã học xong chương trình văn hóa phổ thông. Tuy nhiên, Bề trên cũng có thể chuẩn chước cho một vài trường hợp đặc biệt, miễn là họ có triển vọng trở thành những đan sĩ quân bình và thánh thiện (x. QNTH 1993; HL 43d).
- Quân bình về tình cảm và phái tính, nghĩa là có khả năng chấp nhận người khác, dù nam hay nữ, mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của họ (x. HL 43d).
64 Bề trên đặt một hay nhiều đan sĩ khấn trọng có khả năng cần thiết cộng tác với Tập sư trong việc hướng dẫn các thỉnh sinh (x. HL 44d). Thời gian thỉnh tu ít nhất là sáu tháng, khi có lý do chính đáng và sau khi hỏi ý kiến Hội đồng Cố vấn, Bề trên có thể kéo dài hay rút ngắn thời hạn thỉnh tu, tuy nhiên không dưới ba tháng hoặc trên hai mươi bốn tháng (x. HP 70).
II. TẬP TU
65 Khóa tập là thời kỳ truyền thụ cho tập sinh những điều thiết yếu của đời đan tu và giúp họ thực tập các Lời khuyên Phúc Âm theo tôn chỉ của Hội dòng. Họ phải được rèn luyện lòng trí theo tinh thần của Dòng, đồng thời trắc nghiệm về ý hướng và khả năng (x. HP 73; GL 646).
66 Trước khi thỉnh sinh lãnh áo dòng, Tập sư cho Bề trên biết về tình trạng ơn gọi của thỉnh sinh.
- Thông báo cho cộng đoàn biết ít là trước một tháng, để anh chị em kịp thời góp ý xây dựng với Bề trên hay với Tập sư.
- Giúp thỉnh sinh tĩnh tâm đủ tám ngày.
- Lễ nghi mặc áo Dòng theo Nghi thức của Hội dòng.
67 Thỉnh sinh chọn một vị thánh để làm Đấng bảo trợ và noi gương. Tên vị thánh bổn mạng hoặc để nguyên như trong bản văn chính thức của Giáo hội hoặc phiên âm thế nào để khi nghe qua, người ta còn nhận ra được vị thánh đó (x. QNTH 1993).
Khi ký tên: Trước hết ghi Thánh Danh Maria để ký thác đời mình cho Đức Mẹ, tiếp đến tên vị thánh và họ tên mình, có thể ghi thêm dấu hiệu riêng của Dòng. Ví dụ: F.M.(Frater Maria) Michael Trần Văn Biện O.Cist.
Khi lãnh áo dòng, anh chị em được gọi là tập sinh.
68 Khóa tập trong Hội dòng được chia làm hai năm: Năm tập theo Giáo luật và năm tập theo Hiến pháp Hội dòng. Trong năm tập theo Giáo luật (Tập I), tập sinh tạm ngưng các liên hệ xã hội qua thư từ, tiếp khách, các phương tiện thông tin, các môn học tổng quát để chỉ chuyên chú vào các môn học đào tạo đời đan tu. Còn năm tập theo Hiến pháp (Tập II), tập sinh vẫn tiếp tục việc huấn luyện ở Tập viện theo chương trình của ban Huấn luyện đan tu của Hội dòng (x. HP 81; GL 652,5).
69 Chương trình huấn luyện tập sinh gồm các môn đã được đề ra trong Giáo luật (x. GL 652,2) và theo sự phân bố của ban Huấn luyện Hội dòng.
70 Ý thức tầm quan trọng của việc đồng hành, tập sinh hãy thường xuyên gặp gỡ Tập sư để được hướng dẫn về đời sống nội tâm và ơn gọi (x. GL 652,3).
71 Kết thúc năm tập theo Giáo luật, tập sinh phải xác định lại ý chí tận hiến trước Bề trên và cộng đoàn theo Nghi thức Hội dòng (x.TL 58).
72 Ba tháng trước khi khấn, Tập sư thông báo cho cộng đoàn biết để góp ý xây dựng. Việc bỏ phiếu chấp thuận cho khấn thuộc thẩm quyền của Hội đồng Cố vấn (x. HP 25,1 và 82).
73 Trước ngày khấn, tập sinh phải làm tờ nhượng quyền quản lý tài sản riêng (x. GL 668; HP 83).
74 Mãn khóa tập, tập sinh tuyên khấn tạm. Khi có lý do, Bề trên có thể gia hạn, nhưng không quá sáu tháng (x. GL 653,2).
75 Trường hợp nguy tử, nếu tập sinh muốn khấn khẩn cấp thì đọc: “Thưa cha, con hứa vâng phục cha theo Tu luật Thánh phụ Biển Đức.” Sau đó, nếu bình phục, lời khấn đó không còn giá trị. Đương sự lại mặc áo tập sinh và tiếp tục chương trình huấn luyện bình thường cho đến ngày khấn tạm.
III. KHẤN TẠM
76 Để việc khấn tạm hữu hiệu, phải hội đủ các điều kiện:
- Đủ hai mươi tuổi trọn.
- Đã tập hữu hiệu.
- Đã được chấp nhận theo Luật.
- Không bị ép buộc, lừa gạt hay vì sợ hãi cách trầm trọng.
- Đọc công khai lời tuyên khấn.
- Được Bề trên hợp pháp, hoặc do vị ngài ủy quyền nhận lời khấn (x. GL 656).
77 Tuần tĩnh tâm chuẩn bị khấn là mười ngày.
Tập sinh viết bản Tuyên Khấn theo mẫu chung của Hiến pháp Hội dòng (x. HP 85,2).
78 Lễ nghi khấn tạm được cử hành theo Nghi thức của Hội dòng. Anh chị em khấn tạm được gọi là đan sĩ khấn tạm (x. HP 109; QNTH 2022).
79 Anh chị em khấn tạm vẫn tiếp tục được huấn luyện về đời sống đan tu.
80 Trong suốt thời gian huấn luyện, không nên trao cho họ những chức vụ hay công tác nào cản trở việc huấn luyện (x. GL 660,2; HP 88).
81 Trong chương trình học, phải ưu tiên cho môn Triết học, Thần học, Thánh Kinh, Tu đức, đặc biệt những môn học liên quan đến đời sống đan tu (x. DT 7).
82 Anh chị em được cử đi học nên nhớ rằng: Việc học không nhằm phát triển con người theo những mục tiêu cá nhân, nhưng nhằm đáp ứng những nhu cầu của cộng đoàn và của Giáo hội (x. HL 65). “Các tu sĩ cần ý thức rằng: Không phải ôm đồm nhiều khoa học, nhưng phải nhắm tới một khoa học duy nhất, đó là khoa học Đức Tin và Tin Mừng” (HL 61b).
83 Theo truyền thống đan tu, các tu sinh và đan sĩ vẫn có linh hướng hay cố vấn tinh thần. Các vị này phải được Bề trên chỉ định. Trách vụ chính của vị này là nhận định tác động của Thiên Chúa, hướng dẫn họ theo đường lối của Người và nuôi dưỡng họ bằng một nền đạo đức chắc chắn, và bằng thực hành cầu nguyện. (x. HL 63a).
84 Ít là sáu tháng trước khi khấn trọng, Bề trên sắp xếp cho các ứng sinh sống trong đan viện và rút khỏi những công tác bận rộn hằng ngày, để chuẩn bị kỹ càng hơn (x. HL 64).
IV. KHẤN TRỌNG
85 Khấn trọng là cao điểm của cuộc hành trình thánh hiến. Vì thế, đan sĩ khấn tạm cần được huấn luyện nghiêm túc về Lời khấn, Tu luật, Hiến pháp, Thói lệ và đời sống thiêng liêng.
86 Mãn hạn khấn tạm ba năm, khấn sinh được tự do viết đơn xin khấn trọng hoặc xin khấn gia hạn.
- Trường hợp khấn sinh xin khấn gia hạn, thì sau khi thỉnh ý Hội đồng Cố vấn, Bề trên có thể cho đương sự khấn gia hạn theo luật định (x. GL 657,2).
- Trường hợp khấn sinh xin khấn trọng, quyền chấp nhận cho khấn trọng thuộc Bề trên và với sự đồng ý của Hội đồng Đan viện bằng phiếu kín với đa số tuyệt đối trên tổng số phiếu có giá trị.
Tuy nhiên, nếu trong khi xét, Bề trên và Hội đồng Đan viện nhận thấy khấn sinh chưa đủ điều kiện khấn trọng, thì Bề trên có thể gợi ý cho đương sự xin khấn gia hạn theo luật định.
Khi Hội đồng Đan viện đồng ý cho khấn, nếu còn hoài nghi về sự xứng hợp của khấn sinh, Bề trên có quyền không cho khấn hay cho khấn lại sau khi thỉnh ý Hội đồng Cố vấn. Tuy nhiên, thời gian khấn lại không kéo dài quá chín năm, kể từ lần khấn thứ nhất (x. HP 89). Sau đó, nếu Bề trên chấp thuận cho đương sự khấn trọng, thì cũng cần sự đồng ý của Hội đồng Đan viện bằng phiếu kín.
87 Lễ nghi khấn trọng được cử hành theo Nghi thức Hội dòng.
Anh chị em khấn trọng được gọi là đan sĩ khấn trọng.
Để đánh dấu ngày vui mừng này, cộng đoàn cần tổ chức thế nào khả dĩ nói lên niềm hân hoan đó nhưng vẫn giữ nét đơn giản của đời sống đan tu (x. QNTH 1993).
88 Sau khi khấn trọng, đan sĩ vẫn tiếp tục chương trình huấn luyện thường kỳ mà ban Huấn luyện đan tu của Hội dòng đề ra.
V. ĐỜI SỐNG CHUNG
1. NẾP SỐNG HUYNH ĐỆ
89 Cộng đoàn đan viện được tình yêu của Chúa Kitô quy tụ thành một gia đình thiêng liêng. Sự hiệp nhất các thành viên đảm bảo cho sự phát triển và trở thành nguồn suối ơn phúc cho cộng đoàn.
90 Bác ái huynh đệ là giới răn mới của Chúa Kitô. Người đan sĩ có tình huynh đệ biết kính nhường anh chị em, ôn hòa từ tốn với mọi người, vâng phục và chịu đựng lẫn nhau (x. TL 72).
91 Về cách xưng hô: Anh chị em gọi Bề trên Cả là Đức Tổng phụ; gọi Bề trên Nhà là Viện phụ, Viện mẫu hay Viện trưởng; gọi linh mục là cha hoặc là anh, tự xưng là con hay là em. Linh mục gọi anh em là anh hoặc là em và tự xưng là anh hay là em. Anh em gọi nhau là anh hay em tùy trường hợp (x. TL 63). Trong cộng đoàn, các đan sĩ linh mục giữ thứ tự theo ngày mặc áo dòng và thi hành các tác vụ theo chức năng linh mục.
Khi gặp nhau, anh chị em niềm nở cúi đầu chào nhau.
92 Anh chị em triệt để tôn trọng quyền lợi người khác, nhất là trong những gì thuộc phạm vi lương tâm. Vì thế không được lục soát giấy tờ, sách vở, đồ dùng của anh chị em. Nếu gặp thấy anh chị em để thất lạc đồ vật gì, hãy trả lại cho anh chị em hoặc nộp cho Bề trên. Tuyệt đối không được vào phòng anh chị em, trừ khi có phép Bề trên.
2. HỘI CHUNG VÀ PHÒNG HỘI
93 Các giờ hội chung nói lên tình hợp nhất trong đan viện. Vì thế, mỗi ngày có buổi hội chung, trong đó anh chị em nghe Tu luật và Bề trên giải thích hoặc thông báo những tin tức cần thiết.
94 Khi triệu tập Hội đồng Cố vấn, Hội đồng Đan viện hay toàn thể cộng đoàn, Bề trên cần thông báo thời giờ và nội dung để anh chị em có thời gian chuẩn bị, cầu nguyện và suy xét.
95 Mọi người tự do phát biểu ý kiến cách khiêm tốn và ngắn gọn, khi cần hỏi ý kiến mọi người có mặt, thì người nhỏ nhất sẽ nói trước. Khi phát biểu, mỗi người đứng lên. Tuy nhiên, Bề trên có thể định cách khác. Không ai được ngắt lời, hoặc đối đáp khi người khác đang nói. Chỉ Bề trên (hoặc hướng dẫn viên) có quyền can thiệp và điều hành sao cho buổi họp được diễn tiến tốt đẹp.
96 Khi thành thực phát biểu ý kiến xây dựng, anh chị em đã chu toàn nghĩa vụ. Nếu quyết định của Bề trên không phù hợp với ý kiến của mình, trong tinh thần siêu nhiên, anh chị em hãy vui vẻ chấp nhận và sẵn sàng thi hành (x. TL 3).
97 Các giờ hội chung thường diễn ra trong phòng hội. Trong phòng này có treo tượng Thánh Giá, dưới Thánh Giá là chỗ của Bề trên, bên phải là Bề trên phó, phía dưới là chỗ của cộng đoàn. Trong phòng hội, anh chị em ngồi theo thứ tự ngày mặc áo dòng. Những anh chị em trong cùng một lớp thì ngồi theo thứ tự ngày vào dòng, nhưng đan sĩ khấn trọng ngồi trước đan sĩ khấn tạm, tiếp đến là tập sinh và thỉnh sinh. Tuy nhiên, Bề trên có thể sắp xếp cách khác.
98 Vào phòng hội, anh chị em bái kính Thánh Giá, rồi đứng cúi chào anh chị em bên cạnh, lớn trước nhỏ sau; còn anh chị em được chào, vẫn ngồi, cúi đầu đáp lễ.
KHAI MẠC GIỜ HỘI
Thỉnh viên: “Xin cha chúc lành.”
Chủ sự: “Xin Thiên Chúa toàn năng ban cho chúng ta một đêm bình an và kết thúc cuộc đời viên mãn.”
KẾT THÚC GIỜ HỘI
Ca trưởng xướng Thánh vịnh 129, cộng đoàn đọc tiếp với Vinh Tụng Ca.
Bề trên: “Lạy Chúa, xin cứu thoát các linh hồn.”
Cộng đoàn: “Khỏi hình khổ luyện ngục.”
Bề trên: “Lạy Chúa là Đấng rất mực khoan dung, hằng thiết tha cho mọi người được ơn cứu độ, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria và toàn thể các thánh, xin cho anh chị em trong dòng, ông bà, cha mẹ, anh chị em, thân bằng quyến thuộc và ân nhân chúng con đã lìa thế được chung hưởng hạnh phúc muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.”
Cộng đoàn : “Amen.”
3. TẠ LỖI TRONG NẾP SỐNG CHUNG
99 Để bảo vệ kỷ luật và giúp anh chị em tiến đức, hàng tháng, vào ngày tĩnh tâm, cộng đoàn hồi tâm và có buổi sinh hoạt chung để cùng nhau xây dựng nếp sống cộng đoàn.
100 Để cụ thể ý muốn hoán cải bản thân, anh chị em chấp nhận việc đền tội. Các hình thức đền tội công khai có tác dụng tái lập trật tự trong cộng đoàn và hoàn lại sự an bình cho cá nhân. Tuy nhiên, anh chị em chỉ đạt được thành quả đó, nếu chấp nhận việc đền tội cách ý thức và tự nguyện trong tinh thần siêu nhiên (x. Dt 12,11).
101 Khi sai lỗi hoặc làm hư hại vật gì, anh chị em hãy trình báo với người có trách nhiệm liên hệ. Nếu có Bề trên hiện diện, anh chị em hãy mau mắn đến thú lỗi.
102 Bề trên tùy hoàn cảnh áp dụng những việc đền tội theo Tu luật Thánh phụ Biển Đức và có thể ra những việc đền tội khác như quỳ (dang tay), đọc kinh đền tội trong nhà cơm…
103 Khi làm việc đền tội tại nhà cơm, anh chị em làm khi cộng đoàn bắt đầu dùng bữa. Tuy nhiên, các việc đền tội trên không nên thi hành vào ngày Chúa Nhật, Lễ nghỉ, hoặc khi có khách hiện diện, trừ khi Bề trên dạy làm.
4. NỘI VI
104 Đi tìm Thiên Chúa là đối tượng duy nhất trong thanh vắng và thinh lặng, nên đan sĩ cần có một khung cảnh thích hợp để “chuyên cần cầu nguyện và hy sinh.” Khung cảnh ấy là nội vi. Luật nội vi phải được tuân giữ nghiêm nhặt trong các đan viện sống đời chiêm niệm. Bề trên và Hội đồng Cố vấn có nhiệm vụ định rõ ranh giới nội vi (x. HP 143).
105 Không ai được ra khỏi nội vi, và cũng không được đưa người ngoài vào nội vi, trừ khi Bề trên ban phép (x. GL 667). Nếu nội vi có cửa thông với nhà khách, thì phải đóng cửa ấy luôn kẻo người lạ tự do ra vào.
5. XUẤT HÀNH
106 Công đồng Vaticano II nhắc bảo chúng ta: Nhiệm vụ chính yếu của đan sĩ là phục vụ Thiên Chúa uy linh trong nội vi đan viện và nhất tâm phụng sự Thiên Chúa trong thanh vắng và thinh lặng (x. DT 7;9). Vì thế, Bề trên chỉ cho phép xuất hành khi có nhu cầu chính đáng như:
- Khi cha mẹ đau ốm nặng, anh chị em được về thăm. Còn ông bà, anh chị em ruột đau ốm, tùy theo Bề trên giải quyết trong các trường hợp đặc biệt.
- Cha mẹ qua đời, anh chị em được về mười ngày không kể thời gian đi và về.
- Khi ông bà nội ngoại, anh chị em ruột và vợ chồng của họ qua đời, anh chị em được về, thời gian tối đa bảy ngày không kể ngày đi và về.
- Anh chị em được phép về thăm gia đình cứ bốn năm một lần, thời gian mười ngày không kể thời gian đi và về. Tạ ơn dịp khấn trọng và chịu chức linh mục là mười lăm ngày, không kể thời gian đi và về, nhưng phải giữ tinh thần đơn sơ của Hội dòng (x. QNTH 2014, khóa I).
107 Trước khi xuất hành, anh chị em đến Bề trên xin phép lành.
108 Khi xuất hành qua đêm, anh chị em xin cộng đoàn cầu nguyện. Cuối giờ kinh gần đó, đương sự ra đứng giữa nhà nguyện, trước cấp cung thánh, cúi sâu về phía bàn thờ để cộng đoàn cầu nguyện cho mình theo Nghi thức Hội dòng. Nếu đông người cùng xuất hành, người lớn hơn đứng giữa, anh chị em nhỏ ở hai bên.
109 Anh chị em xuất hành được phép đến nơi mình có công tác được ủy nhiệm mà thôi. Nếu phải ngủ qua đêm ở ngoài, anh chị em đến trụ sở hay các cộng đoàn của Hội dòng gần đó. Lúc ở ngoài đan viện, anh chị em hãy sống xứng đáng là một đan sĩ chiêm niệm.
110 Khi trở về đan viện, anh chị em vào nhà nguyện cảm tạ Chúa, đoạn đến Bề trên xin phép lành, trình bày công việc, trình sổ chi tiêu. Cuối giờ kinh liền đó, anh chị em ấy ra giữa nhà nguyện, trước cấp cung thánh, cúi sâu về phía bàn thờ, quỳ xin cộng đoàn cầu nguyện cho.
6. LỜI KHẤN VĨNH CƯ VÀ SỰ XUẤT DÒNG
111 Cha thánh Biển Đức muốn các đan sĩ gắn bó với cộng đoàn như một gia đình, Ngài truyền thực hiện mọi sinh hoạt trong nội vi đan viện (x. TL 66).
112 Một đan sĩ được Bề trên gởi đến trong một nhà thuộc Hội dòng vì một nhu cầu nào đó, anh chị em ấy sẽ được sắp xếp theo thứ tự ngày mặc áo dòng.
Trong trường hợp đổi Dòng, mọi thủ tục phải được tiến hành theo Giáo luật và Hiến pháp Hội dòng (x. GL 684,3; HP 116).
113 Khi tu sĩ Dòng khác xin gia nhập, Bề trên cẩn thận nghiên cứu kỹ càng như đối với một thỉnh sinh (x. GL 643-644). Nhưng phải tùy tuổi, tùy trình độ văn hóa, chức nghiệp mà ứng xử theo tinh thần của Tu luật (x. TL 60-61).
114 Đối với các anh chị em đào tu hay bội tu, Bề trên đối đãi với tất cả tình thương và khôn ngoan của một Chúa chiên lành (x. HP 114; 115; GL 665,2).