Thứ Bảy, 27 Tháng Bảy, 2024

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số14: CANH TÂN

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM

   

 Nội san linh đạo đan tu

 

CANH TÂN

 

Số 14 – Tháng 01 năm 2014

 

 

LỜI NGỎ

Đáp lại lời mời gọi của Công Đồng Vat II và nhất là của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: “Canh tân, đổi mới”, “Hạt giống chiêm niệm” số 14 xin trân trọng gửi đến quí Viện Phụ, quí Bề Trên và toàn thể anh chị em trong Hội Dòng những bài nghiên cứu, suy tư và chia sẻ xoay quanh tiêu đề “Canh tân”.
Nói đến canh tân là nhắc lại một điều gì rất quen thuộc trong đời sống đan tu. Vì, canh tân, đổi mới mỗi ngày là công việc mà các đan sĩ phải thực hiện như là bổn phận phải chu toàn trong đời sống thánh hiến. Thế nhưng, nội san số 14 không có tham vọng làm một chuyên đề nghiên cứu về chủ đề này, nhưng chỉ muốn nêu lên một vài nét chấm phá để Hội Dòng chúng ta nhìn lại chính mình và khích lệ mọi người canh tân, đổi mới nên giống Chúa Kitô hơn.
Với lời khấn “cải quá, tự tân”, canh tân được nhìn nhận như là nhu cầu thiết thực và khẩn thiết cho những ai tận hiến đời mình trong đời sống đan tu chiêm niệm. Khẩn thiết không phải chỉ vì để tồn tại và phát triển, nhưng là để truyền giáo, nghĩa là để người ta nhận biết và đón nhận Chúa Kitô vào trong cuộc đời của mình. Tuy nhiên, công cuộc canh tân không phải là sáng kiến của một cá nhân nào mà là sự đáp trả lời mời gọi của Chúa Thánh Thần; Ngài là hồn sống của Giáo Hội. Dầu vậy, việc đáp trả của chúng ta có thể lệch hướng, nếu không nhận ra được dấu chỉ của thời đại và không cùng chung với bước đi của Giáo Hội. Sự lệch hướng đó có thể do không có khả năng biện phân; cũng có thể vì những lợi ích nhỏ nhoi của mình và rất thường là kết quả của việc sa sút đời sống thiêng liêng.
Thực tế ấy được phản ánh trong các bài viết của tập san. Hy vọng những suy tư của các tác giả có thể trở nên thức ăn bổ ích cho mỗi anh chị em trong việc đổi mới chính mình, và góp phần vào việc canh tân Hội Dòng hợp với thánh ý Thiên Chúa, nhờ đó Đức Kitô được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của các đan sĩ.
Hân hạnh trao đến quí Bề Trên, quí anh chị em trong Hội Dòng tập nội san nhỏ bé này như là món quà nhỏ bé trước thềm năm mới 2014.

 

Ban Biên Tập

 

 MỤC LỤC

 

 

 

 

CHÚA THÁNH THẦN

 FM. Duy Ân    

 

LỜI MỞ

Lời mở đầu trích từ Thông Điệp của Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về Chúa Thánh Thần gợi ý giúp định hướng về đề tài này.

• Trong Thiên Chúa Ba Ngôi
“Tận đời sống thẳm sâu của mình “Thiên Chúa là Tình yêu” (I Ga 4,8-16). Tình yêu thuộc về bản thể Thiên Chúa và chung cho cả Ba Ngôi. Còn Chúa Thánh Thần là tình yêu bản vị (Amor personnalis = Personna Amor) với tư cách là Thần Khí của Chúa Cha và Chúa Con” (Thông điệp Dominum vivificantem.10).

• Trong thế giới tạo thành.
“Chúa Thánh Thần là Tình yêu và là ân huệ bất thụ tạo, từ nơi Ngài như là từ một nguồn mạch (fons vivus) xuất phát mọi ân ban cho các thụ tạo: Ơn hiện hữu cho mọi vật qua việc sáng tạo. Ân sủng cho loài người qua toàn bộ kế hoạch cứu độ” (Ibid.10).
Vậy, trong kế hoạch chung của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta ghi nhận các tác động đa dạng của Chúa Thánh Thần vào hai thời điểm then chốt của công trình sáng tạo và công trình cứu chuộc (x. GLHTCG 257).

I/ CHÚA THÁNH THẦN TRONG CÔNG TRÌNH SÁNG TẠO.

• Thời nguyên thủy

Công trình sáng tạo được thực hiện qua tác động của Thần Khí Thiên Chúa: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm và Thần Khí bay lượn trên mặt nước” (St 1,1-2).
Việc tạo dựng con người được sách Sáng Thế diễn tả trong hai tường thuật đầy ý nghĩa:
– Với hình ảnh Thiên Chúa: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27).
– Với hơi thở thần linh: Sách Sáng Thế còn diễn tả con người được tác tạo theo một nguồn cảm hứng khác: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy từ bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7).
Hình ảnh Thiên Chúa cũng như Hơi thở Thần Linh ám chỉ con người được mời gọi hiệp thông với Thiên Chúa (x. GS 12).
Cả hai trình thuật nói lên tình trạng tinh tuyền nguyên thủy của con người qua tác động của Thần Khí Thiên Chúa, mặc dầu con người chỉ duy trì được một thời gian ngắn.

• Thời chuẩn bị chương trình cứu chuộc
Sách Sáng Thế ngay từ chương III cho thấy nguyên tổ loài người đã sa ngã mà xa lìa Thiên Chúa, mất đi ơn công chính nguyên thủy và mang lấy các hậu quả của tội cùng với cái chết do tội. Dù vậy, Thiên Chúa mở cho loài người con đường hy vọng với Lời Hứa ban Đấng Cứu Độ. Đây là “Tin Mừng tiên khởi (Protevangile)” (x.St 3,15) dành cho con người. Thiên Chúa áp dụng một tiến trình sư phạm, (Thánh Phaolô dùng từ Pedagogia) (x.Gl 3,24-25) qua tác động của Thần Khí hướng về công trình cứu chuộc sẽ thực hiện. Vì thế, tín biểu của Hội Thánh xác nhận: Chúa Thánh Thần là Đấng“dùng các tiên tri mà phán dạy”, Thư Dothái ghi nhận thêm về sự kiện này: “ bằng nhiều lần và nhiều cách” (x. Dt 1,1), nhưng luôn theo “kế hoạch yêu thương Thiên Chúa đã dự liệu từ trước trong Đức Giêsu Kitô” (Ep 1,9) chứng tỏ muôn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Các sứ điệp Chúa Thánh Thần phán dạy xác thực đến độ truyền thống đã đánh giá tuyên sấm của ngôn sứ Isaia là “Tin Mừng thứ năm” hoặc “Tin Mừng của Cựu Ước”.
Tuy nhiên, cũng cần ghi nhận tác động rộng mở của Thần Khí cách ngoại thường theo kế hoạch yêu thương toàn diện của Thiên Chúa. Bởi đó, Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã lưu ý:“Ta phải đi ngược về trước, để ý đến tất cả tác động của Chúa Thánh Thần trước Đức Kitô, ngay từ thưở ban đầu, trong toàn thế giới và cách riêng trong kế hoạch cứu độ thời Cựu Ước. Thật vậy, tác động đó được thực hiện mọi nơi, mọi thời, ngay trong từng con người, theo kế hoạch cứu độ đời đời. Trong kế hoạch này, tác động của Chúa Thánh Thần được liên kết mật thiết với mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc, mầu nhiệm này đã ảnh hưởng tới những ai đã tin vào Đức Kitô như Đấng phải đến” (Ibid.53).
Dù vậy, phải nhìn nhận diễn tiến lịch sử cứu độ được chính thức khai mở với thời viên mãn khi Đấng Cứu Thế xuất hiện qua quyền năng tác động của Chúa Thánh Thần.

II. CHÚA THÁNH THẦN TRONG CÔNG TRÌNH CỨU CHUỘC

Thư Galata trình bày một cách tổng hợp: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4,4-6). Có thể coi đây như một tóm kết bao gồm Mầu Nhiệm Nhập Thể và cả Mầu Nhiệm Cứu độ.

• Mầu nhiệm nhập thể và nhập thế

Tác động của Chúa Thánh Thần thật đa dạng trên con người và sứ vụ của Đấng Cứu Thế: Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ là do quyền năng Chúa Thánh Thần, như đã được truyền tin cho Đức Trinh nữ Maria (x. Lc 1,26-38) và loan báo cho Thánh Giuse (x. Mt 1,18-25).
Tin mừng cũng ghi lại tác động của Chúa Thánh Thần trên một vài nhân vật liên quan đến xuất hiện của Đấng Cứu Thế: Bà Êlizabeth được Thần Khí tác động đã tuyên xưng Thánh Mẫu Maria là “Mẹ của Chúa tôi” (x. Lc 1,41-45), còn cụ già Simêon được Thần Khí thúc đẩy tìm đến với Hài Nhi Giêsu và đã tiên báo về sứ vụ của Ngài (x. Lc 2,27-35).
Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể với sứ vụ Cứu Thế của Chúa Giêsu còn được thư Philip diễn tả rất cụ thể: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe Danh Thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,6-11).
Như thế, Ngôi Lời Nhập Thể đã hội nhập trọn vẹn vào thân phận làm người, để cứu độ con người. Thật đáng ghi nhận sự kiện, Đấng Cứu Thế cùng với gia đình Nagiarét trải qua 30 năm cuộc sống chìm sâu trong đời thường của cảnh nghèo hèn. Thư Dothái xác định về thực trạng này: “Vị Thượng tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15).
Cũng vì thế, Đức Giêsu đã được “Thần Khí dẫn vào hoang địa để cho quỷ cám dỗ”(và đã thắng nó) (x. Mt 4,1-11).

• Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng được xức dầu “Messia”

Đức Giêsu được Thần Khí xức dầu và hoạt động công khai: “Đức Giêsu đến Nazarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sa-bát và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên Tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong Tôi, để Tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai Tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” ( Lc 4,16-22); (x. Is 61,1-2).
Với tư cách là Đấng được xức dầu “Messia” (Christus), Đức Kitô loan báo Tin Mừng, chữa lành bệnh nhân (x. Mt 4,23) và trừ quỷ. Chính trong việc trừ quỷ, Ngài dùng quyền năng của Thần Khí Thiên Chúa, dưới biểu tượng là “ngón tay của Thiên Chúa” (x. Mt 12,28; Lc 11,20). Tất cả hướng về mục tiêu hoàn thành công trình cứu độ.

• Mầu nhiệm Vượt Qua hoàn tất ơn cứu độ

Với cuộc xuất hành hoàn tất tại Giêrusalem (x. Lc 9,31), Chúa Giêsu dưới tác động của Chúa Thánh Thần, đã chấp nhận khổ hình Thập Giá để tiến vào vinh quang Phục Sinh: “Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống” (Dt 9,14). Nhờ hiến tế này, chúng ta được giải thoát khỏi tội để “sống cuộc đời công chính” (x.1Pr 2,24).
Quả thật, nhờ Phép Rửa, “Chúng ta được nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6,5). Đó là do tác động Thần Khí làm cho Đức Kitô phục sinh (x. 1Pr 3,18), cũng là Thần Khí hoạt động trong chúng ta (x. Rm 8,11). Như Đức Kitô đã tiên báo về “Nước Hằng Sống” (x. Ga 7,37-38; Ga 20,22), hiểu về Thần Khí được Chúa Giêsu Kitô Phục sinh công khai trao ban trong ngày lễ Ngũ Tuần (x.Cv 2, 4-13).

 

III. LỄ NGŨ TUẦN: KHỞI ĐIỂM MỚI CỦA CHÚA THÁNH THẦN

• Thời của Hội Thánh.

Biến cố Lễ Ngũ Tuần đánh dấu khai sinh Hội Thánh. Từ nay, Chúa Thánh Thần là linh hồn của Hội Thánh và ban phát mọi thứ linh ân như Công Vụ Tông đồ kể lại. Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhận xét cách chính xác: “Với biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, thời của Giáo Hội đã bắt đầu, đang tiếp tục, kéo dài qua các thế kỷ và các thế hệ. Trong thế kỷ của chúng ta, lúc mà nhân loại tiến gần tới năm 2000 sau Đức Kitô (thông điệp này được viết năm 1986), thời của Giáo Hội này đã được biểu lộ đặc biệt trong Công Đồng Vaticanô II, là Công Đồng của thời đại chúng ta. Thật thế, Công Đồng này đã được biết một cách đặc biệt là Công Đồng tập trung vào Giáo Hội: Một Công Đồng lấy Giáo Hội làm chủ đề. Đồng thời giáo huấn của Công Đồng lại chính yếu quy về Thần Khí, thấm nhuần chân lý về Chúa Thánh Thần là linh hồn của Hội Thánh” (Thông điệp về Chúa Thánh Thần số 26). Hơn nữa, vì được kết hợp với Đức Giêsu Kitô như Thân Mình với Đầu (x. Cl 1,18) Hội Thánh trở thành Mầu nhiệm cứu độ phổ quát “dấu chỉ và khí cụ của sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại” (LG 1).
Quả thật, sau biến cố khởi điểm từ Nhà Tiệc Ly, Chúa Thánh Thần không ngừng tác động trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh. Thật ra, “Sứ vụ của Hội Thánh không phải là được thêm vào sứ vụ của Đức Kitô và của Chúa Thánh Thần, nhưng là bí tích của sứ vụ đó” (GLHTCG.738), nhằm triển khai và hiện tại hóa kế hoạch của Thiên Chúa qua Hội Thánh.

• Bảo toàn kho tàng đức tin.

Trước hết, xuyên qua các Tông Đồ và các Giám Mục kế vị các Ngài, Chúa Thánh Thần, “Đấng Bảo Trợ” và là “Thần Khí sự thật” không ngừng tác động và hướng dẫn Hội Thánh để bảo toàn “kho tàng giáo lý” (Depositum Fidei), (x. 2Tm 1,12-14; 6,20), vì Hội Thánh của Thiên Chúa hằng sống là “cột trụ và điểm tựa của chân lý” (2Tm 3,15). Thật là ý nghĩa, nơi một bức thư của các Tông Đồ trong cộng đoàn đầu tiên tại Giêrusalem đã xác nhận: “Chúng tôi và Thánh Thần quyết định” (x. Cv 5,32; 9,31; 15,28). Đặc biệt sứ vụ của Hội Thánh liên quan đến lưu truyền mạc khải, để nhờ Thánh truyền xuyên qua Huấn quyền giải thích Lời Chúa là Thánh Kinh do Chúa Thánh Thần linh hứng (x. GLHTCG 80-87).

• Phân phát các nhiệm tích.

Sứ vụ trọng đại khác của Hội Thánh là ban các nhiệm tích là những dấu chỉ có hiệu lực thông ban ơn cứu độ, bởi vì như các Giáo Phụ ghi nhận: những gì trong Cựu Ước là hình ảnh tiền trưng, thì nay trở thành hiện thực (Figura transit in veritatem). Ví dụ: Giải phóng khỏi nô lệ Ai Cập, tiên báo việc nhờ Chúa Giêsu giải cứu khỏi tội lỗi (x. Mt 1,35; Ga 8, 34-36). Manna bánh bởi Trời, nay là Bánh Thánh Thể, Bánh hằng sống (x. Ga 6,33-35). Trong các bí tích của Hội Thánh, quan trọng hơn cả là hai bí tích Thánh Tẩy và Thánh Thể. Hiệu lực bí tích là do tác động của Chúa Thánh Thần: “qua các bí tích của Hội Thánh, Đức Kitô truyền thông cho các chi thể của Người Thần Khí của Người, là Đấng Thánh và là Đấng Thánh Hóa” (GLHTCG 739).

IV. TÁC ĐỘNG ĐA DẠNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN

Các tín hữu được mời gọi khéo quản lý ân ban thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa (x. 1Pr 4,10). Cũng vậy, Kitô hữu cần biết tiếp nhận và sống các ân huệ do tác động đa dạng của Chúa Thánh Thần, đặc biệt chú trọng vào hai mục liên quan đến Tình Yêu và Sự Sống.

• Thánh Thần Tình yêu.

“Thiên Chúa là Tình yêu” (I Ga 4,8.16).
“Thiên Chúa đổ Tình yêu của Người vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Chính nhờ tình mến Thánh Thần ban cho chúng ta (x. Cl 1,8), mà chúng ta được hiệp thông với Thiên Chúa (x. 2Cr 13,13). Vì “Ai đã kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người” (1Cr 6,17). “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được rằng: Chúng ta ở lại trong Người, và Người ở lại trong chúng ta, đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta” (I Ga 4,13).
Hơn nữa, Thánh Thần Tình Yêu đem lại sự hiệp nhất giữa các tâm hồn, trong đời sống huynh đệ: “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau. Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4,3-6).
Có thể nói kết ước thân tình được thể hiện trong Thánh Thần Tình yêu quả là một thiên Tình Sử Thiên Chúa Ba Ngôi dành cho con người, cho mỗi người (x. Gc 4,4-5). Cũng vì thế, Kinh Thánh do Thần Khí linh hứng (x. 2Pr 1,21) được tiếp nhận như một bản Tình Thư, được Thần Khí khắc ghi trong lòng tín hữu (x. 2 Cr 3,3; Dt 10,16) và thể hiện trong cuộc sống.

• Thánh Thần ban sự sống

Đặc biệt, chúng ta cùng với Hội Thánh tuyên xưng Chúa Thánh Thần là “Đấng ban sự sống” (Tín biểu Công đồng chung Constantinopoli năm 381).
Như vậy, tác động đa dạng của Chúa Thánh Thần được quy về sự sống, thiết tưởng vì sự sống là nguyên lý căn bản của hiện hữu và hoạt động (x. Cv 17,18). Sự sống đây phải hiểu về sự sống thần linh, phát xuất từ Thiên Chúa hằng sống. Quả thật, Chúa Giêsu Kitô tự xác định là Sự Sống (x. Ga 14,6), đồng thời Ngài quy hướng về Thiên Chúa Cha là nguồn sống (x. Ga 6,57); còn Chúa Thánh Thần là “Hơi thở” (RUAH; Spiritus) ban sự sống thần linh cho con người khi tạo dựng (x. St 2,7) và sự sống ấy sau khi mất đi vì sa ngã, lại được tái sinh trong Thần Khí của Đức Kitô Phục Sinh (x. Ga 3,5; 20,22).
Sự sống Chúa Thánh Thần trao ban là “sự sống đời đời” (x. Ga 17,2-3; Rm 5,21) “là sự sống mới” (x. Rm 8,11; 6,4), mới đến tận căn, vì như Chúa Giêsu đã xác quyết: nhờ sinh lại bởi Thánh Thần (x.Ga 3,5) mới được vào Nước Trời. Như thế, con người trở thành “tạo vật mới” (x.2Cr 5,17; Gl 6,15), thành “con người mới” (x.Ep 4,24), và sống theo “giới răn mới” (x. Ga 13,34), thuộc về “giao ước mới” “dựa vào Thần Khí” (x. 2Cr 3,6). Thánh Âutinh cảm hứng theo sự canh tân tận căn này do Chúa Thánh Thần đã nói đến ân huệ của Kitô hữu là được hát “bài ca mới”, hay đúng hơn, không chỉ hát mà là sống bài ca mới bằng cả cuộc đời và con người.
Thiết tưởng căn bản tác động canh tân của Chúa Thánh Thần nơi Hội Thánh cũng như nơi các Kitô hữu phải khởi đầu từ đây để từ đó được phát huy trong các hình thức và phương cách của cuộc sống.
Bởi vậy, các tín hữu được mời gọi sống bởi Thần Khí và sống theo Thần Khí: “Nếu chúng ta sống bởi Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5,25) và cụ thể hơn nữa: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gl 5,16). Nhờ đó, dẹp bỏ được bao lỗi phạm và gian ác (x. Gl 5, 19-21). Trái lại, qua tác động của Thần Khí, trổ sinh các hoa trái tốt lành: “Hoa quả của Thần Khí” (x. Gl 5,22-23).
Cộng thêm vào những gì đã được trình bày trên đây, xin được ghi nhận về tác động đa dạng của Chúa Thánh Thần, nhưng dưới hình thức đơn giản, liệt kê các trích dẫn theo một số đề mục:

• Thánh Thần sự thật.

– “Thần Khí Sự Thật được sai đến ở với chúng ta luôn mãi” (x. Ga 14,16).
– “Ở trong anh em, ở giữa anh em” (x. Ga 14,16-17).
– “Dạy mọi điều” (Ga 14,26).
– “Dẫn đến sự thật toàn vẹn” (x. Ga 16,17).
-“Đâu có Thần Khí, đó có tự do” (x. 2Cr 3,17).
-“Thấu suốt mọi sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (x.1Cr 2,10-16).
– “Nhờ Thần Khí hội được mọi chiều Tình Yêu Đức Kitô” (x. Ep 3,16-19).
– “Hãy sám hối, sẽ nhận được Thánh Thần” (x. Cv 2,38; Ga 16,8-11).
– “Chúa Thánh Thần thánh hóa (x. 1Pr 1,2) toàn diện con người” (x.1Th 5,19-23).
– “Anh em là Đền Thờ Thánh Thần” (I Cr 3,16).
– “Thân xác anh em là Đền Thờ Thánh Thần” (1Cr 6,19).

• Thánh Thần nghĩa tử.

– Do tác động Chúa Thánh Thần (x. Gl 4,4-6; Rm 8,14-15).
– Bởi Tình Yêu Thiên Chúa Cha (x. 1Ga 3,1).
– Nhờ ân sủng Chúa Giêsu Kitô (x. Ga 1,12; Gl 3,26).
– Sinh bởi Thiên Chúa (x.1Ga 4,7).
– Con Thiên Chúa căn cứ ở sống yêu thương (x. 1Ga 3,10).
– Sống theo hướng dẫn của Thần Khí Thiên Chúa (x. Rm 8,14).
– “Hiện bây giờ chúng ta là Con Thiên Chúa” (1Ga 3,2)

• Thánh Thần thờ phượng

– Thánh Thần cầu thay nguyện giúp (x. Rm 8,26-27).
– “Hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần” (Gđ 21); (x. Ep 6,18).
– “Thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga 4,23-24).
– Những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí của Người (x. Pl 3,3).
– Con người nội tâm được củng cố nhờ Thần Khí (x. Ep 3,16).
– “Để tỏ lòng biết ơn, hãy hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng” (Cl 3,16; Ep 5,18-20).
– “Ngày đó (nhờ Thần Khí) anh em sẽ biết rằng: Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (Ga 14,20; x. Ga 14,23).

• Thánh Thần ban sức mạnh, sai đi làm chứng.

– Nhờ sức mạnh của Thánh Thần được sai đi (x. Cv 1,8).
– “Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương và biết tự chủ” (2Tm 1,7).
– Ơn gọi làm tông đồ: Dây chuyền được Chúa “sai đi” (x. Ga 17,18; Ga 20,21).
– Cùng với Thần Khí Sự Thật làm chứng về Đức Kitô (x. Ga 15,26).
– “Chính Thần Khí là chứng nhân và Thần Khí là Sự Thật” (1Ga 5,6).

V. XUẤT PHÁT TỪ BA NGÔI, QUY HƯỚNG VỀ BA NGÔI

Tất cả nhiệm cục cứu độ có Ba Ngôi là nguồn gốc, đồng thời là cùng đích. Đó là nội dung diễn tiến của toàn bộ kế hoạch yêu thương Thiên Chúa dành cho con người.
“Lịch sử cứu độ chính là lịch sử của đường lối và phương thế, mà Thiên Chúa thật và duy nhất là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dùng để tự mạc khải cho con người, và giao hòa và kết hợp với Ngài những ai từ bỏ tội lỗi” (GLHTCG.234).
“Cùng đích của toàn bộ Nhiệm cục Thần Linh là đưa các thụ tạo đến hợp nhất trọn vẹn với Ba Ngôi diễm phúc. Nhưng ngay từ bây giờ, chúng ta được kêu gọi trở nên nơi cư ngụ của Ba Ngôi Chí Thánh. Chúa nói: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23) (GLHTCG.260).
Cả Ba Ngôi cùng hiệp chung trong mỗi công trình, nhưng với đặc tính riêng của ngôi vị mình, như Lời Chúa chứng tỏ:
– “Thật vậy, nhờ Người, (Chúa Kitô) liên kết chúng ta trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2,18).
– Cũng là do: “ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình thương của Thiên Chúa Cha và ơn hiệp thông của Thánh Thần” (2Cr 13,13).
Như vậy, có nghĩa là niềm tin cũng như sứ vụ và đời sống Kitô hữu luôn mang chiều kích Ba Ngôi. Vì thế, Chúa Giêsu xác định “Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga 4,23). Và vì “quy luật của cầu nguyện là quy luật của niềm tin” (Lex orandi, lex credendi), các nghi thức và kinh nguyện của Hội Thánh đều mang tính Ba Ngôi. Đặc biệt trong Thánh lễ được coi là “chóp đỉnh và nguồn mạch của đời sống Kitô” (LG.11), vinh tụng ca trung tâm được quy về Ba Ngôi cực thánh.“Chính nhờ Người (Đức Kitô), với Người và trong Người mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về Thiên Chúa là Cha, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời”.
Còn Thánh phụ Biển Đức, với xác tín “Không lấy gì làm hơn thần vụ” (opus Dei), (x. TL 43,5), đã quy định: Trong các giờ kinh, mỗi lần kết thúc Thánh Vịnh, cộng đoàn đứng lên, cúi mình để tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi (x. Tl 9,16). Cũng vậy, trong nghi thức tuyên khấn có thêm kinh Vinh danh Chúa Ba Ngôi (x. TL 58,22).
Không những thế, các tâm hồn, như thánh nữ Elizabeth Chúa Ba Ngôi còn tiến sâu hơn, đã tự chọn danh xưng “Laus gloriae – ca ngợi vinh quang”, vì muốn cả cuộc đời và con người trở thành lời ngợi ca cho vinh quang ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi (x. GLHTCG 260).

 

THAY LỜI KẾT:

Mạc khải Thần Linh chứng tỏ: Trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần có một vai trò đặc biệt. Trước hết, bởi vì “Chúa Thánh Thần đã mạc khải một cách đầy đủ Mầu nhiệm Ba Ngôi chí thánh” (Ibid 244); đồng thời, “chính Chúa Thánh Thần hoàn thành công trình thánh hóa nơi các chi thể của Hội Thánh” (Ibid 739). Vì thế, “Hội Thánh tự bản chất và trong tất cả các chi thể của mình được sai đi để loan báo và làm chứng, hiện tại hóa và truyền bá mầu nhiệm hiệp thông của Ba Ngôi chí thánh” (Ibid 738).

Bài viết này đã có dịp trình bày các tác động đa dạng của Chúa Thánh Thần, nơi các tín hữu.

Giờ đây, chỉ xin thêm vài ghi nhận thực tế cho đời sống tâm linh.

Kinh Thánh, do Thần Khí linh hứng cảnh tỉnh:

  • “Đừng làm phiền lòng Thánh Thần” (Ep 4,30).
  • “Đừng dập tắt Thánh Thần” (1Th 5,19).

Trái lại hãy sống gắn bó với Thần Khí Thiên Chúa.

Trong thư Roma, Thánh Phaolô dùng cụm từ “Hướng đi của Thần Khí” (x. Rm 8,6) hướng dẫn chúng ta trong cuộc sống. Cũng cần nhờ Thần Khí mà phân định về sự khác biệt và đối nghịch giữa tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa và của con người (x. Is 55,8-9), hoặc theo trình bày của Thánh Phaolô, giữa Thần Khí và xác thịt (x. Gl 5,16-17). Xác thịt đây được hiểu như “sống theo tính tự nhiên, không có Thần Khí” (Giuđa 19).

Trái lại Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn sống theo mô thức của Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể (x. Ga 16,14-16): Từ trong tâm thức (x. Pl 2,5; 1Cr 2,16) cho đến cách sống của Đức Giêsu Kitô (x. 1Ga 2,6); vì hướng dẫn của Thần Khí nhằm mục đích dẫn tới “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô” (x. Rm 8, 29).

Còn xét về tính chất tác động của Thần Khí, thường được nêu lên hai đặc tính xem ra đối nghịch, nhưng kỳ thực lại bổ sung nhau: “mãnh liệt và dịu hiền” (fortiter et suaviter). Đức Thánh Cha Phanxico trong các huấn từ hay nhắc nhở: “Đừng ngại lội ngược dòng, đừng sợ sự mới mẻ của Chúa Thánh Thần, đừng sợ sống dịu hiền”.

Thiết tưởng cũng cần lưu tâm đến hướng ưu tiên của Thần Khí như Tin Mừng ghi lại.

Được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: Lạy Cha là Chúa tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu kín, không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21).

Ưu tiên của những kẻ bé mọn này còn được tăng thêm vì được Chúa tự đồng hóa với họ. Trong cuộc thẩm phán cánh chung, Thiên Chúa chính thức tuyên bố: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).

Chúa Thánh Thần tác động từ nguyên thủy tạo dựng, xuyên qua toàn bộ nhiệm cục cứu độ trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi; cũng chính Ngài linh hứng lời ngợi ca, tôn vinh, cảm tạ dâng lên Thiên Chúa (x. Ep 5, 18-20; Cl 3, 16-17).

 “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,16-17). Trong đó hòa nhập bài ca của Con Chiên hiến tế (x. Kh 15, 3) và cung điệu tuyệt vời của tất cả những kẻ bé mọn, cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Đấng sinh hạ Chúa Cứu Thế do quyền năng Chúa Thánh Thần, cũng là Đấng tự nhận là nữ tỳ hèn mọn, để chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi về những kỳ công cao cả đã thực hiện (x. Lc 1,46-55).

Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần(Ep 1,3). Tất cả là do “ân sủng Đức Giêsu Kitô, Tình Yêu của Thiên Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần (x. 2Cr 13,13). Amen! Halleluia! (Kh 19,4).

 

 

 

 

 

 

THÔNG ĐIỆP LUMEN FIDEI

 FM. Dominico Phạm Văn Hiền

 

“Tôi biết tôi tin vào ai” (2Tm 1,12)

Phát biểu như thế, thánh Phaolo khẳng định đối tượng niềm tin của mình: không phải là một lý thuyết hay một ý thức hệ, nhưng là một con người, Đức Giêsu. Ngài là “Ánh sáng đến trong thế gian”, mà người nhà của Ngài, tức dân tộc Do thái, đã không đón nhận Ngài (Ga 1,10-11). Chính thánh Phaolo cũng đã qua một thời bị thành kiến tôn giáo che chắn đôi mắt và không nhận ra áng sáng thật. Nhưng trong biến cố ngã ngựa trước cổng thành Damas, cái vảy thành kiến kia đã bong ra khỏi đôi mắt thịt để từ nay ông nhìn Đức Kitô với đôi mắt mới (x. 2Cr 5,16-17). Thánh Phụ Benado đã ví Đức Kitô như một lò lửa, bất cứ thụ tạo nào đến gần, cũng được biến đổi. Kỳ diệu thay, từ sư tử khát máu, Phaolo trở nên “như người mẹ ấp ủ con thơ, đến nỗi không những loan báo Tin Mừng, mà còn dám thí mạng vì họ nữa” (1Tx 2,7-8). Phaolo đúng là một chứng tá sống động về Ánh Sáng đầy quyền năng của Đức Kitô. Quyền năng ấy, trong thông điệp Lumen Fidei, Đức Thánh Cha Phanxicô, dám xác quyết là mãnh liệt hơn Thần Mặt Trời Bất Khuất, Invictus Solis, của đế quốc Roma! Chính để củng cố niềm tin cộng đoàn dân Chúa, đang bị chao đảo giữa một thế giới vô tín, thông điệp này đã được viết ra, do bàn tay của hai vị Giáo Hoàng Phanxicô và Benedicto XVI (LF 7)
Khung sườn tổng quát:

Thông điệp mang tên LUMEN FIDEI (hai chữ đầu).
Ngoài phần dẫn nhập (số 1-7), thông điệp này được chia thành 4 chương:
Chương 1: Với câu trích “Chúng ta tin vào tình yêu” (1Ga 4,16), Đức Thánh Cha diễn tả tiến trình đức tin từ Cựu ước đến Tân ước.
Chương 2, mở đầu với câu: “Nếu anh em không tin, anh em sẽ không hiểu” (Is 7,9) xác định tầm quan trọng của đức tin trong việc tìm chân lý.
Chương 3 với câu mở “Tôi truyền lại cho anh em điều tôi đã nhận lãnh” (1Cr l5,3), đề cập đến bổn phận làm cho ánh sáng đức tin lan toả muôn phương.
Chương 4: “Thiên Chúa chuẩn bị cho họ một thành” (Dt 11,16). Đức Thánh Cha khuyên mọi người sống đức tin trong mọi môi trường: gia đình và xã hội.
Thông điệp kết thúc với lời mời gọi: “Hãy hướng về Đức Maria, Mẹ của Hội thánh, và gương mẫu đức tin cho chúng ta” (số 58- 60).
Dựa trên khung sườn tổng quát ấy, giờ đây xin đi vào nội dung của thông điệp.

 

LUMEN FIDEI – ÁNH SÁNG ĐỨC TIN

Ngày chúng ta nhận lãnh bí tích thanh tẩy, chúng ta trở thành một thụ tạo mới với ba nhân đức đối thần, Tin, Cậy, Mến, như ba khả năng tiếp cận với Thiên Chúa mạc khải. Người ta có thể hình dung đức tin như chiếc máy radio (đài). Máy cần có điện, nếu không cũng trở thành vô ích. Ánh Sáng đức tin của chúng ta, chính là Đức Kitô. Ngài đã xác quyết: “Ta đem lửa bởi trời xuống, và Ta muốn gì nếu không phải cho nó bừng cháy lên” (Lc 12,49). Ánh Sáng của Chúa Kitô rọi chiếu vào đêm đen của tử thần. Hẳn thật một khi đã có Ánh Sáng Chúa Kitô, đức tin sẽ như cánh cửa mở tung (x. Cv 14,27), khả dĩ dẫn chúng ta vào trong sự thông hiệp với Thiên Chúa (1Ga 1,3). Khả năng đức tin đã được chứng minh bằng chính lịch sử cứu độ.


CHƯƠNG I
CHÚNG TA TIN VÀO TÌNH YÊU (1Ga 4,16)

Đức Thánh Cha mời gọi Hội Thánh nhìn lại quá trình Tình Yêu qua hai giao ước: Cũ và Mới.
Có lẽ bạn sẽ thắc mắc: Tin là chấp nhận một thực tại nào đó là có thật, chứ sao lại tin vào tình yêu? Trong thông điệp Spe salvi, Đức Benedicto XVI đã cho biết: Trong Thánh Kinh, ba nhân đức tin, cậy, mến có thể được hoán chuyển cho nhau. Lại nữa, TIN là tin vào chứ không phải tin có; tin vào đồng nghĩa với trông cậy; và lòng trông cậy càng thêm vững, khi biết Thiên Chúa rất thương mình.
Nói đến niềm tin, Đức Thánh Cha nghĩ ngay đến tổ phụ Abraham. Ngài đúng là cha của mọi kẻ tin (Rm 4,11). Bởi Araham đã lên đường khi vừa nghe tiếng Giavê gọi. Đức tin của ngài đúng là một cuộc phiêu lưu- ra đi, chẳng cần biết rõ điểm đến! Đức tin ấy đồng thời quảng đại đến độ hy sinh cả người con duy nhất. Thánh Phaolo xác quyết: “Abraham đã tin cả khi không còn gì để tin”. Triết gia Kierkegaard dám đặt vào miệng Tổ phụ Abraham câu nói bất hủ: “Credo quia absurdum, tôi tin vì đó là một nghịch lý’.
Còn dân tộc Israel thì sao, họ có tiếp bước theo Tổ phụ Abraham trên đường đức tin không (Rm 4,18)?
Lịch sử cứu độ Israel khởi đi từ sáng kiến tình thương của Giavê: “Ta chạnh lòng thương dân ta đang ở Ai Cập…”. Hẳn thật qua trung gian Môsê, Thiên Chúa đã giải thoát dân Ngài khỏi ách nô lệ, đồng thời mở ra một chương trình giáo dục đức tin suốt 40 năm. Khoa sư phạm của Giavê vừa cứng rắn vừa kiên nhẫn. Nhưng cuối cùng các ngôn sứ phải thú nhận: Israel là một dân tộc cứng đầu và vô ơn. Chỉ cần Chúa lánh mặt đi là họ đã bỏ Ngài để thờ lạy bò vàng, do chính tay họ làm ra !
May thay còn có ông Môsê làm trung gian để bênh đỡ họ. Ông được khen là người lãnh đạo hiền hậu nhất Israel. Ông là cột trụ nâng đỡ niềm tin dân tộc ông và xứng đáng là tiền thân của Đấng Cứu Tinh sẽ đến, Đức Giêsu Kitô.
Đức tin trong Tân ước (số 15-18)
Tổ Phụ Abraham là cha mọi kẻ tin, nhưng ông hướng về Chúa Kitô. Trong Ngài, niềm tin của ông đạt tới sự viên mãn: “Abraham vui mừng vì hy vọng thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ” (Ga 8,56). Như thế, Đức tin vào Chúa Kitô đạt tới đỉnh cao của Mạc khải: “Đến như Con Một Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, chẳng lẽ Thiên Chúa lại không rộng ban tất cả cho chúng ta” (8,32). Chính Thánh Phaolô cũng quả quyết: “Đức Kitô ở trong anh em, là niềm hy vọng vinh quang” (Cl 1,27).
Đức Kitô hẳn thật đã chứng minh tình yêu của Ngài qua cái chết và Phục sinh. Qua cái chết, Ngài thực hiện câu nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). “Qua mầu nhiệm Phục sinh Ngài bày tỏ quyền năng ban sự sống cho những ai mong đợi thế giới vĩnh cửu” (1Cr 15,12).

 

CHƯƠNG II
VAI TRÒ CỦA ĐỨC TIN TRONG VIỆC BIẾT CHÂN LÝ

Mục 1 (s. 23-25)

Mở đầu chương hai, Đức Thánh Cha trích Is 7,9 theo bản dịch 70: “Nếu bạn không tin, bạn sẽ không hiểu (không biết sự thật)”. Trong nguyên bản Hipri: “Nếu bạn không tin, bạn không đứng vững”. Như thế nếu đúc kết hai bản văn, theo tác giả thông điệp, chúng ta sẽ có một khẳng định sau đây: Đức tin chỉ vững chắc khi đối tượng của nó là sự thật. Như thế một chuyện hoang đường, dù hấp dẫn đến đâu cũng không được tin là có thật.
Trong số 25, Đức Thánh Cha Phanxicô nêu rõ liên hệ chặt chẽ giữa đức tin và chân lý. Phải chăng đây là điểm hệ trọng nhất cho người thời nay, vì người ta chỉ tin những gì khoa học kỹ thuật nói, còn những chân lý tôn giáo bị gạt bỏ qua một bên. Thật ra, cần trở về với căn gốc của niềm tin: Tin Thiên Chúa sáng tạo và Cha của mọi người, Chính Thiên Chúa cho nhà khoa học hiện hữu và trí thông minh để nghiên cứu khoa học. Vậy trước hết phải tin vào Thiên Chúa!

 

Mục 2 (số 26-28):

Tin là nhận biết chân lý và tình yêu.
Thông thường người ta bảo chân lý là đối tượng của lý trí. Đúng thế, nhưng lý trí nhân loại bị giới hạn trong các thụ tạo mà thôi. Còn đức tin có khả năng vươn lên trên thế giới hữu hạn để đạt tới Thiên Chúa. Thánh Phaolô xác quyết “Ta tin trong lòng” (Rm 10,10). Theo Thánh Kinh, Lòng là nguồn phát sinh mọi tâm tình, là cửa thông với Thiên Chúa Tình yêu. Vì thánh Gioan khẳng định: chỉ có tình yêu mới biết Thiên Chúa (x.1Ga 4,16). Tình yêu nói đây, không phải những tình cảm ướt át trôi nổi (số 27). Quả thật, tự bản chất, tình yêu là sự hy sinh bản thân cho người mình yêu (x. Ga 15,13). Người ta chỉ yêu thật, khi biết người kia cũng đang thực tình yêu mình. Đó là một kinh nghiệm chi phối toàn bộ cuộc sống của người đang yêu. Theo nghĩa này, thánh Gregorio Cả quả quyết: “Amor ipse notitia est, tình yêu tự nó, cũng là một nhận thức”.
Làm sao chúng ta có kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa (số 28)? Thưa qua lịch sử cứu độ. Dân Do thái nhấn mạnh ký ức về các phúc lành họ đã lãnh nhận. Chúng ta nhận ra điều ấy đặc biệt trong các Thánh vịnh, ví dụ 78, 136, 118 v.v… Nhờ ký ức đó, niềm tin vào quyền năng và sự trung thành của Thiên Chúa thêm vững chắc. Sự trung thành của Thiên Chúa bảo đảm Ngài là Chân Lý.

Mục 3: Tin do bởi Nghe và bởi Thấy (số 29-31)

Đạo chúng ta đặt cơ sở trên Mạc Khải. Và Mạc khải là Thiên Chúa đến nói với con người như với những người bạn (Vatican II, DV 2). Trong cuộc đối thoại này, hai giác quan hoạt động mạnh nhất là thính giác và thị giác. Theo nghĩa này, thánh Phaolô xác nhận với giáo đoàn Roma: “Tin là bởi NGHE”. (Rm 10,17). Hẳn thật, Abraham đã nghe tiếng Chúa gọi, ông TIN và đã lên đường; Đức Maria đã nhận sứ điệp Thiên Chúa, và Người đã tin, thưa Fiat…
Tin đồng thời cũng do bởi THẤY.
Chúa nói với Martha: “Nếu con Tin, con sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa” (Ga 11,40). Nghe và thấy cho ta khả năng đụng chạm đến Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã tổng hợp trong câu bất hủ: “Tangere autem corde, hoc est credere- đụng chạm bằng con tim, ấy là tin vậy”.

 

Mục 4: Cuộc đối thoại giữa lý trí và đức tin (s. 26-28)

Khi loan báo đức tin cho các dân có văn hoá Hi lạp, giáo Hội sơ khai chạm trán với triết lý sùng thượng lý trí như thuyết Platon, Aristotes. Dù muốn hay không Giáo Hội vẫn phải mở ra một cuộc đối thoại nghiêm túc. Cuộc đối thoại ấy vẫn kéo dài cho đến ngày hôm nay. Do đó, Đức Gioan Phaolô II đã công bố thông điệp Fides et Ratio. Nhưng đi tiên phong trong cuộc đối thoại này phải kể thánh Justino, Clement thành Alexandria, nhất là thánh Augustinô. Thánh tiến sĩ thành Hippone đã mô tả cuộc tìm kiếm chân lý của ngài trong sách De Confessione ngang qua các triết thuyết thời ngài. Dĩ nhiên không thuyết nào làm Augustino thoả mãn, nên vào năm 387 ngài đã xin chịu phép thánh tẩy và tin vào Chúa Ki-tô, nguồn chân lý duy nhất. Ngài vô cùng hân hoan vì đã tìm được ánh sáng đức tin. Nhưng ngài hiểu thế nào về ánh sáng ấy? Theo ngài, vì Thiên Chúa vừa là chân lý vừa là tình yêu, nên ánh sáng đức tin cũng là ánh sáng tình yêu. Trong thông điệp Lumen Fidei, Đức Thánh Cha than phiền: Ngày nay người ta coi đức tin như một cái gì riêng tư, không thể áp đặt cho người khác theo lối độc tài quá khích.
Đức Thánh Cha trả lời ngộ nhận ấy: Nếu đức tin là chân lý của tình yêu thì không bao giờ kéo theo nguy cơ độc tài quá khích được. Vì tình yêu chân chính tự nó mở đường cho sự gặp gỡ với tha nhân. Nói cách khác, chân lý của tình yêu đi vào lòng người với tâm tình bao dung và khiêm hạ, chứ không cố chấp và khép kín. Đức tin như thế cho phép chúng ta đến với bất cứ người nào đang lần mò đi tìm Thiên Chúa, vì qua chúng ta họ tìm được ánh sao như ba đạo sĩ xưa kia (x. Mt 2,1-12).
Kết thúc chương II, Đức Thánh Cha nêu cao vai trò của các nhà thần học. Họ là những bậc thầy có nhiệm vụ khai sáng và tổng hợp những chân lý mạc khải. Có thể nói các ngài là những bàn tay nối dài của Huấn quyền Giáo Hội. Tuy nhiên, chân lý mạc khải xuất phát từ Thiên Chúa cần được tiếp nhận không như một lý thuyết suông, nhưng trước hết phải tâm niệm với tinh thần khiêm tốn. Tất cả các nhà thần học lỗi lạc của Giáo Hội như Basilio, Augustino hay Thoma Aquino… đều là những người có đời sống nội tâm rất phong phú.

 

CHƯƠNG III
TÔI TRUYỀN LẠI CHO ANH EM NHỮNG GÌ TÔI ĐÃ LÃNH NHẬN (1Cr 15,3)

Trong chương ba này Đức Thánh Cha đề cập đến việc truyền bá đức tin.


Mục 1 (37-39)

Mở đầu chương ba, Đức Thánh Cha nêu lý do tại sao Kitô hữu phải loan báo đức tin:
Vì họ đã mở lòng ra cho tình yêu Thiên Chúa, vì họ đã nghe tiếng nói của Ngài, và nhất là họ đã nhìn thấy ánh sáng của Ngài. Hẳn thật thánh Phaolô đã ý thức ân huệ lớn lao của một vị tông đồ: “Chúng tôi đã nghe nên chúng tôi nói” (2Cr 4,12). Như ngọn nến trong đêm vọng Phục sinh, ánh sáng nó được tiếp qua hàng trăm ngọn nến khác; hoặc như hạt lúa mì gieo trong ruộng đã mọc lên, trổ sinh nhiều bông hạt khác.
Truyền bá đức tin, như thế, là bổn phận của mọi Kitô hữu và những ai tha thiết với tương lai Giáo Hội. Chính ý thức truyền giáo này mà qua 200 năm đã thúc bách các nhà truyền giáo đến mọi chân trời góc biển để Nước Chúa được hiển trị trong mọi tâm hồn.
Một thắc mắc thường được đặt ra: Giáo huấn mà Đức Kitô dạy cách đây hai nghìn năm làm sao chuyển lại nguyên vẹn đến hôm nay được? Các thế hệ trong Hội Thánh kết nối nhau qua các mối tương quan và ký ức, quen gọi là thánh truyền do Thánh Thần của Chúa. Trong Tin Mừng, chính Chúa Kitô đã coi Chúa Thánh Thần như bộ nhớ và trí hiểu của Giáo Hội (Ga 14,26; 16,13).
Như vậy chúng ta tin là tin với Giáo Hội. Đức tin không cô lập chúng ta, trái lại mở ra một con đường dẫn tới thông hiệp. Đức Thánh Cha kết thúc mục này với xác quyết: “Ai tin, sẽ không đơn độc, ai tin, sẽ thấy đôi mắt như mở rộng thêm nhãn giới”.

 

Mục 2 : Vai trò các bí tích trong việc truyền bá đức tin (số 40-45).

Như đã chứng minh, ánh sáng đức tin lan toả cả chiều dài lẫn chiều rộng, dài trên hai nghìn năm, rộng khắp mặt đất!
Yếu tố phụng tự đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong lãnh vực đức tin. Vì Hội Thánh thường được các giáo phụ định nghĩa như một tập thể được triệu tập để thờ phượng, Coetus convocatus ad cultum. Tuy nhiên phụng tự chỉ chiếu toả ánh sáng, khi được cử hành với đức tin sống động: mỗi người như gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa Ba Ngôi (40). Sau đây, thiết nghĩ cần tìm hiểu vai trò của hai bí tích chính: Rửa tội và Thánh Thể.

Bí tích ThanhTẩy (41-43)
Thông thường, điều kiện số một để trở nên thành viên Giáo Hội là lãnh nhận bí tích thanh tẩy. Là Bí tích, nghi thức thanh tẩy diễn tả một cuộc đổi mới toàn diện:
– Qua việc dìm vào trong nước, dự tòng như chết đi cho tội.
– Với việc đọc tên Chúa Ba Ngôi, họ trở thành một thụ tạo mới và có tương quan đặc biệt với Chúa Ba Ngôi.
Vì được đổi mới như thế, người lãnh bí tích Thanh Tẩy bỏ cái tôi ích kỷ hẹp hòi, có một con tim vĩ đại để kết hợp với Đức Kitô. Ý nghĩa thâm sâu này cần nắm vững, nhờ được chuẩn bị kỹ càng hơn trong thời gian dự tòng.
Đối với trẻ em, khi nhận phép Thanh tẩy, chúng không tự mình tuyên xưng đức tin. Nhưng cha mẹ hay người đỡ đầu sẽ làm thay. Như thế cha mẹ không những sinh con về thể xác, mà còn cho con một hướng đi mới, nhằm đạt tới sự sống vĩnh cửu.

Bí tích Thánh Thể (44).
Trong thánh lễ, sau lời Truyền phép, linh mục nói: Đây là Mầu nhiệm đức tin. Đúng thế, không có đức tin, chúng ta không bao giờ thờ lạy bánh và rượu sau khi truyền phép.
Thánh Thể mô tả hai trục lộ (axe): trục giữa quá khứ và tương lai, nghĩa là vừa là một sự nhắc lại một kỷ niệm quá khứ mà còn mở ra cho tương lai, tức sự sống đời đời.
Trục lộ thứ hai giữa yếu tố hữu hình: tức bánh và rượu, và yếu tố vô hình, đó là Mình Máu Chúa Kitô.
Ở đây, Chúa Giêsu cho thấy: những thực tại tầm thường như bánh rượu cũng có thể được thăng hoa để trở nên Mình Máu Ngài.
Cùng với các bí tích như môi trường loan báo đức tin, Giáo Hội còn cống hiến cho ta ba phương thế khác, không kém phần hữu hiệu, đó là Tuyên xưng đức tin, Cầu nguyện và thực thi Mười giới răn.
Tuyên xưng đức tin.
Với cụm từ này, Đức Thánh Cha muốn ám chỉ việc tuyên xưng đức tin qua kinh Credo. Các tín hữu trong các thế kỷ đầu có thói quen tuyên đọc Kinh Tin Kính. Cấu trúc Kinh Tin Kính là tuyên xưng Ba Ngôi. Trước hết là Chúa Cha, Đấng sáng tạo và quan phòng vạn vật. Thứ đến là Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể là Đấng Cứu chuộc qua cái chết và phục sinh của Ngài.
Sau hết, tuy vắn tắt nhưng cũng nêu rõ vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần.
Việc tuyên xưng Ba Ngôi, theo Đức Thánh Cha Phanxicô liên kết người tuyên xưng với mầu nhiệm được tuyên xưng (45).

Cầu Nguyện (45)

Với bốn tâm tình: ca ngợi, cảm tạ, cầu xin và sám hối, kinh Lạy Cha, Pater, cho phép các Kitô hữu cảm nhận những tâm tình con thảo của Chúa Giêsu, đồng thời nhìn mọi sự với đôi mắt của Ngài (46).
Mười giới răn
Mười giới răn, hiểu theo nghĩa tích cực, là những cách diễn tả tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Bản tính Thiên Chúa là tình yêu, nên không gì tuyên chứng cho Ngài bằng thập điều. Đức Kitô đã quả quyết: “Cứ dấu này, người ta sẽ nhận biết chúng con là môn đệ thầy, là các con thương yêu nhau” (Ga 13,35). Đức Thánh Cha Phanxicô còn nói cách thi vị: “Đây là những cách thế kéo chúng ta ra khỏi hoang địa của cái tôi ích kỷ hẹp hòi để gia nhập vào một cuộc đối thoại thân tình với Thiên Chúa và với tha nhân” (46c).


Mục 3

Tính duy nhất và toàn vẹn của đức tin
Truyền bá đức tin là bổn phận số một của Kitô hữu. Nhưng đức tin nào đây? Thưa đức tin duy nhất của Hội Thánh. Vì thánh Leo Cả khẳng định: “Đức tin không duy nhất không còn là đức tin”. Đức tin duy nhất, khi hội đủ các điều kiện sau đây:
– Khi mọi Kitô hữu tuyên xưng một Thiên Chúa, sáng tạo, quan phòng và Cha mọi loài.
– Khi mọi con cái Thiên Chúa chỉ nhận Đức Kitô, Đấng đã nhập thể, cứu thế và phục sinh.
– Khi mọi người chia sẻ một niềm tin trong một Hội Thánh duy nhất.
Đức tin không những duy nhất mà còn toàn vẹn nữa. Thế nào là toàn vẹn? Thưa khi mọi người chấp nhận nội dung Kinh Tin Kính và cùng hiểu một cách như nhau.

 

CHƯƠNG IV
THIÊN CHÚA CHUẨN BỊ CHO CÁC NGÀI MỘT THÀNH (Dt 11,16)

Chương cuối cùng này bàn đến việc sống đức tin.

 

Mục 1 (s. 50-51)
Đức tin và công ích (la foi et le bien commun)

Trong đời sống xã hội, không gì quan trọng bằng công ích. Vì xã hội là một tập thể liên đới trong việc xây dựng “ngôi nhà chung” của nhân loại.Thông điệp nêu hai vị tổ phụ làm mẫu : Nôê và Abraham. Ông Nôê đã đóng một chiếc tàu vĩ đại để chứa người và súc vật (Dt 11,7); còn ông Abraham sau khi nghe lời Chúa gọi, đã đi vào vùng đất xa lạ. Mặc dù gia đình ông sống nghề du mục, ông vẫn mong đợi một thành, do Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng (Dt 11, 9-12). Tác giả thư Do Thái nhấn mạnh, ngôi nhà chung nhân loại được kiên vững khi có Thiên Chúa hiện diện.
Đức tin hoà quyện với tình yêu Thiên Chúa đó luôn nhằm phục vụ công lý và hoà bình trong nhân loại. Hẳn thật, sự liên kết của tập thể loài người không thể do lợi nhuận trần thế, nhưng do niềm vui, xuất phát từ sự hiện diện của Thiên Chúa. Vì xã hội nào có Thiên Chúa hiện diện sẽ vững bền.
Đức Thánh Cha còn nhấn mạnh: sở dĩ việc cai trị của Samuel và Đavid xưa đã đạt kết quả, là vì các Ngài được Thiên Chúa hướng dẫn và chúc phúc.

 

Mục 2 (52-53)
Đức tin và gia đình

Gia đình là định chế do Thiên Chúa thiết lập, vì thế đức tin phải toả sáng trong sự phối hợp nam nữ, trong việc sinh hạ con cái, nhất là trong việc giáo dục đức tin. Đức tin trưởng thành sẽ mở ra cho con cái một cái nhìn khoáng đạt, kêu mời sự dấn thân. Vì qua kinh nghiệm các Đại hội Giới trẻ, họ khao khát một đời sống cao quý, khả dĩ phục vụ Nước Chúa trong một ơn gọi nào đó. Hẳn thật đức tin không phải là nơi trú ẩn cho những tâm hồn nhát đảm; trái lại, một khi được tình yêu Đức Kitô thúc đẩy, đức tin sẽ mở cho tuổi trẻ một chân trời mới mẻ.

 

Mục 3 (54-55)
Đức tin là một ánh sáng cho nếp sống xã hội.

Trên đây, Đức Thánh Cha đã nêu rõ tính quan trọng của đức tin trong đời sống gia đình, thì ở đây ngài còn nhấn mạnh hơn nữa trong nếp sống xã hội.
Hẳn thật, ngày nay, người ta nói nhiều đến tình huynh đệ. Nhưng làm sao có tình huynh đệ vững chắc, nếu không quy chiếu Tình Cha Chung của nhân loại? Hơn bao giờ hết, đức tin phải giúp con người nhận diện Thiên Chúa là Cha trong xã hội loài người.
Dĩ nhiên, ai trong chúng ta cũng đã cảm nhận tình Cha ấy qua thân phụ của mình. Tuy nhiên chỉ có đức tin mới mở rộng tầm nhìn về một tình Cha phổ quát.
Sống tình huynh đệ, chúng ta cần nhận ra sự độc đáo của mỗi cá nhân cũng như tình yêu mà Thiên Chúa dành cho họ. Qua mầu nhiệm nhập thể, Chúa Giêsu đã nâng cao tới tuyệt đỉnh thiên chức làm người của chúng ta!

 

Mục 4 (s. 55)
Đức tin và tình yêu Thiên Chúa trong thiên nhiên.

Ngày nay môi trường thiên nhiên bị tàn phá một cách bừa bãi. Với đức tin, chúng ta sẽ coi thiên nhiên như một hồng ân, mà ta có bổn phận chăm sóc và bảo vệ.
Ngoài ra đức tin còn giúp chúng ta phát kiến nhiều mô hình mới để phát triển vạn vật cũng như lãnh đạo thế giới trong công bình chính trực. Đặc biệt đối với những sai phạm trong xã hội, đức tin cho chúng ta một cái nhìn lạc quan để khám phá những điểm tốt xuyên qua bóng đêm tội lỗi. Ngay trong những tranh chấp mâu thuẫn, người có đức tin vẫn kiên nhẫn coi chúng như những mắt xích cần thiết cho tiến trình xây dựng sự hiệp nhất.
Vậy chúng ta phải liệu cho đức tin của mình ngày thêm vững mạnh, vì việc suy yếu của đức tin làm cho cuộc sống chao đảo, cũng như niềm tin tưởng giữa người với người có nguy cơ bị tiêu tan.
Đức tin soi sáng cho cuộc sống xã hội. Nó mang tính sáng tạo cho mỗi giai đoạn lịch sử, khi nó đặt tất cả vào trong tương quan với Thiên Chúa Cha, Ngài là nguyên uỷ và cứu cánh vạn vật.


Mục 5 (s. 56-57)
Đức tin là sức mạnh ủi an trong đau khổ

Chiến sĩ Tin Mừng luôn đối mặt với gian khổ. Thánh Phaolô đã vượt thắng tất cả nhờ đức tin. Cùng với vịnh gia, ngài hiên ngang tuyên bố: “Tôi đã tin nên tôi mới nói’ (2Cr 4,13) “Tôi giữ đức tin cả khi tôi nói: ôi nhục nhã ê chề” (Tv 116,10). Và đây là lý do:
Trước hết, càng đau khổ, quyền năng của Chúa càng rạng rỡ (x. 2Cr 4,7-12).
Thứ đến chính trong gian truân mới chứng tỏ chúng ta rao giảng Đức Kitô chứ không phải chính mình (x. 2Cr 4,5). Hẳn thật, tác giả thư Do thái đã tuyên chứng rằng mọi sứ giả Tin Mừng đều chịu đau khổ vì đức tin (x. Dt 11,35-38). Như thế, người môn đệ Chúa Kitô không loại bỏ đau khổ, trái lại coi đó như cơ hội làm tăng trưởng đức tin và tình mến, đôi mắt họ đăm đăm nhìn Chúa Giêsu trên thập giá, và nghe như có tiếng ngài gọi: “Hãy theo Ta” (Mt 4,19).
Nhưng đối với đau khổ của thế giới hôm nay chúng ta phải có thái độ nào?
Đức Thánh Cha khẳng định: Ánh sáng đức tin không làm chúng ta quên những khổ đau của thế giới.
Thật vậy, những người đau khổ hôm nay phải được coi như trung gian mang lại ánh sáng đức tin cho chúng ta. Đối với thánh Phanxicô, trung gian đó là những người phong cùi. Đối với chân phước Teresa Calcutta, đó là dân nghèo trên khắp thế giới. Những người nghèo khổ ấy mang trong mình cả một mầu nhiệm, vì thế khi tiếp cận với họ, dù chúng ta không làm tan biến đau khổ và cũng không sao giải thích được lý do của đau khổ, thì ít ra cũng thắp lên được một ngọn đèn, khả dĩ soi bước chân mình đang lần mò trong đêm đen. Chừng ấy thiết nghĩ đủ cho một cuộc hành trình rồi!
Thiên Chúa ít khi ban cho người bất hạnh khả năng lý giải đau khổ của mình, tuy nhiên chính sự hiện diện của họ đủ vén mở cho ta thấy phần nào mầu nhiệm chất chứa nơi họ. Mỗi đau khổ thật ra có một giá trị riêng. Chính Chúa Kitô đã trải qua đau khổ, nhờ đó Ngài muốn chia sẻ nỗi đau của nhân loại (x. Dt 2,10). Hẳn thật Ngài đã cho đau khổ một ý nghĩa mới, khi ‘khai mở và kiện toàn đức tin của ta’ (Dt 12,2).

Tóm lại
Đức tin soi sáng chúng ta trong việc phục vụ công ích, vì đức tin cũng vén mở một niềm hy vọng. Niềm hy vọng này đặt nền tảng trên mầu nhiệm Phục sinh, nên nó đem đến cho đau khổ một giá trị vĩnh cửu (x. 2 Cr 4,16).
Như thế, nhờ động năng của ba nhân đức đối thần Tin, Cậy, Mến thúc đẩy, tín hữu Chúa Kitô hăng say tiến bước trong hành trình trần thế, với đôi tay luôn rộng mở, họ đón nhận mọi người hầu xây dựng ngôi nhà chung mà Đức Kitô vẽ mẫu và xây lên (x. Dt 11,4).
Tuy nhiên, khi sống trên đời này, chúng ta đừng để ai cướp mất niềm hy vọng của mình với những hứa hẹn về những giải pháp và đề nghị nhất thời, sợ rằng cuộc sống chúng ta như một không gian bị phân mảnh; trái lại hãy biến cuộc đời mình thành thời gian, đang hướng vọng về quê hương bất diệt thiên đàng!


Mục 6 (s. 58-59)
Gương mẫu đức tin của Mẹ Maria
“Phúc cho em vì đã tin” (Lc 1,45)

Lời Chúa được ví như hạt giống. Nhưng để nó trở thành cây và cho nhiều hoa trái, cần được gieo vào mảnh đất tốt. Trong Tin Mừng theo thánh Luca, đất tốt ấy ám chỉ trước tiên tâm hồn Đức Maria. Vì Người đã nghe và đón nhận Lời Chúa với tâm hồn cao thượng và đại lượng (x. Lc 8,15). Lời ca tụng của bà Elisabeth đã nối kết đức tin của Đức Maria với việc Người tiếp nhận Lời Chúa.
Đã hẳn trước Đức Maria, trong Cựu Ước, đã có nhiều phụ nữ tiếp nhận Lời Chúa và sinh hoa kết trái. Nhưng nơi Đức Mẹ, Lời Chúa chính là Ngôi Hai, mà Ngài đón nhận vào tâm hồn như một ánh sáng viên mãn. Đức tin của Mẹ làm cho hành trình đức tin của các Tổ Phụ Cựu Ước đạt tới niềm vui tràn đầy. Thánh Justino đã khẳng định: “Đức Maria đã cưu mang cả đức tin lẫn niềm vui”.
Đúng thế, nơi Đức Maria đã thực hiện điều tôi đã phát biểu trước đây: “Người tin dấn thân trọn vẹn cho điều mình tin”. Ngài tin gì? Ngài tin rằng việc thụ thai cách khiết tịnh của mình (không có sự can thiệp của đàn ông) bảo đảm rằng Đức Kitô là Con duy nhất của Thiên Chúa. Khi nhập thể, Ngài đã cho lịch sử một khởi điểm mới và một ánh sáng mới.
Phần Đức Maria, Ngài đảm bảo cho Chúa Giêsu một thân xác thật để có thể đau khổ thật, chết thật và sống lại thật.
Vì lòng tin, Đức Maria đã hiện diện dưới cây Thánh giá và trong tuần “tĩnh tâm” đầu tiên của các tông đồ, cũng như sau đó, Ngày Chúa Thánh Linh Hiện Xuống. Với sự gắn bó mật thiết giữa Đức Maria và Giáo Hội, nên thật là xứng hợp Giáo Hội tôn vinh Mẹ như mẫu gương rạng ngời về đức tin.


Hiệp thông với Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng ta dâng lên Mẹ lời cầu nguyện chân thành đầy tình con thảo:
Lạy Mẹ, xin giúp đỡ đức tin của chúng con !
Xin mở tai chúng con để lắng nghe Lời Chúa và nhận ra giọng của Thiên Chúa cùng lời mời gọi của Người.
Xin đánh thức trong chúng con ước muốn đi theo bước chân Người, ra đi từ vùng đất của chúng con và nhận ra lời hứa của Người.
Xin giúp chúng con để chúng con được tình yêu của Người chạm đến, và để chúng con có thể chạm vào Người trong đức tin.
Xin giúp chúng con phó thác hoàn toàn cho Người và tin vào tình yêu của Người, đặc biệt là trong những lúc bị thử thách của thập giá, khi đức tin của chúng con được mời gọi đến trưởng thành.
Xin gieo trong đức tin chúng con niềm vui của Đấng Phục Sinh.
Xin nhắc nhở chúng con rằng những người tin không bao giờ một mình.
Xin dạy chúng con rằng những người tin không bao giờ một mình.
Xin dạy chúng con nhìn tất cả mọi sự với cặp mắt của Chúa Giêsu, để Người có thể là ánh sáng cho cuộc hành trình của chúng con. Và xin cho ánh sáng đức tin này luôn luôn lớn lên trong chúng con, cho đến một ngày không có hoàng hôn, chính là Đức Kitô, Con Mẹ và Chúa chúng con!

 

 

 

 

 

 

 

VÀI SUY TƯ VỀ ƯỚC MƠ

CỦA CHA TỔ PHỤ BIỂN ĐỨC THUẬN :

“TRỞ THÀNH THẦY DÒNG THẬT,

THẦY DÒNG THÁNH”

 Savio Vinh. PS

 

Lời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI về việc “nên thánh” cứ vang vọng trong tôi, nhắc cho tôi nhớ lại những gì khi còn nhỏ tôi bị cuốn hút vào đó là những câu chuyện trong “sấm truyền cũ” và các câu chuyện về cuộc đời của các vị thánh. Chính chứng từ sống động của họ – chứ không phải những lời hùng biện -, đã lay chuyển bao tâm hồn đi tìm Chân, Thiện, Mỹ. Vì sống như một chứng nhân, các ngài đã trở nên thầy dạy qua mọi thời gian, và “tiếng các ngài vang cùng trái đất.”

Tôi nhớ rõ, chính những “chuyện các thánh”, nơi ghi lại cách sống thánh thiện, an hòa và mối tình của các ngài dành cho Đức Giêsu rất cụ thể, đã làm cho tôi, dù chưa hiểu biết gì về Chúa, lại có thể đụng chạm, gặp gỡ được tình thương vô biên của Thiên Chúa. Và rồi “lời giảng vô thanh” kia đã thúc dục tôi đi tìm gặp Đấng đã biến đổi những con người bình thường kia trở thành thánh nhân. Rồi rất nhiều lần, trên hành trình cuộc sống, tôi đã gặp những người cũng bị cuốn hút vì “gương lành” nơi những chứng nhân của tình yêu Giêsu.

Có một người đã đặt mục tiêu cho cuộc đời tôi “đi tu để nên thánh”, con người đó đã được cuốn hút bởi chính Vị Thầy Giêsu. Hôm nay tôi muốn mời quí độc giả cùng tôi hướng đến Cha Henri Denis Biển Đức Thuận, Tổ Phụ Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam. Nhân dịp kết thúc “Năm Đức Tin”, chúng ta được tái khởi động để “tái khám phá ra ý định làm thầy dòng của ngài”, để từ đó, chúng ta cùng Giáo Hội bước vào năm sống chiều kích “tái truyền giáo và tân phúc âm hoá”. Như thế đan sĩ cùng cảm thức với Giáo Hội để tái khám phá ơn gọi nên thánh và sứ vụ truyền giáo của mình. Nhưng để đạt được những mục tiêu đó, mỗi người trong chúng ta phải thực hiện công cuộc canh tân, khởi phát từ chính mình.

 

I.THẦY DÒNG THẬT

Đọc lại hạnh tích và di ngôn của cha Biển Đức Thuận, chúng ta thấy rõ thao thức và trăn trở của ngài là trở nên “thầy dòng”. Nhưng thầy dòng như thế nào? Cả cuộc đời ngài là một hành trình đi tìm kiếm để sống ơn gọi làm “thầy dòng thật, thầy dòng thánh”. Mục tiêu đó được nhắm tới trong các giai đoạn khác nhau, từ ơn gọi trở thành thừa sai, để đến miền đất xa lạ với tư cách là một nhà truyền giáo nhiệt thành, một đan sĩ sống đời chiêm niệm. Ngài đã bỏ tất cả sau lưng, gia đình, quê hương mà không một lần trở lại… để chỉ hướng tới một điều: nên thánh và giúp người khác nên thánh. Những điều từ bỏ đầu tiên đó là tiền đề của chuỗi những từ bỏ liên tiếp.

Cha Henri Denis đã rời chủng viện, không còn đảm nhận vai trò của một giáo sư, một công việc thật cao quí là truyền thụ kiến thức cho các linh mục tương lai. Có thể ngài vẫn là một linh mục thánh thiện trong vai trò một giáo sư, mang ích lợi cho Giáo Hội và cho người khác. Thế nhưng ngài vẫn thao thức để cho mọi người nhận biết Chúa. Phải nói chính tình yêu Đức Kitô đã thúc bách ngài đi ra khỏi mình để quan tâm đến người khác, vì phần rỗi người khác… Khi còn là một giáo sư, ngài đã hiện thực tư chất của một nhà mô phạm đầy kinh nghiệm trong công việc giáo dục, với trái tim và tinh thần “đầy Thần khí”. Dầu vậy, ngài không dừng lại và bằng lòng với chính mình mà còn mong ước cho nhiều người nhận biết Chúa hơn, cho khắp cả Đông Dương.

Cha Henri Denis đón nhận bài sai để dấn thân mục vụ giáo xứ. Trong vai trò là cha xứ, ngài luôn lo lắng cho có nhiều người trở lại đạo. Công việc này là một thách đố lớn, không dễ dàng, vì còn phải lo cho người có đạo và những người chưa biết Chúa. Ngài đã viết cho song thân về sự kiện ngài bị khánh kiệt vì công cuộc này.

Điều ngài khao khát khôn nguôi ngay giữa công việc mục vụ, đó là muốn trở thành thầy dòng, “thầy dòng thật và thầy dòng thánh”, không những cho chính bản thân mà cho mọi tâm hồn thiện chí muốn sống đời đan tu.

Dù rằng gặp trở ngại từ nhiều phía, ngài vẫn quyết tâm thực hiện cho bằng được “ước mơ” trở thành thầy dòng, và một đan viện được thành hình. Với cơ thể “thiếu năm mươi tư ký mới đủ một trăm cân”, nhưng cha có một ý chí quật cường, đức tin kiên vững, dấn thân bắt tay xây dựng dòng Đức Bà Việt Nam tại Phước Sơn.

Trong các lá thư và những lời Giáo huấn của mình, Cha Tổ Phụ Biển ĐứcThuận đã cho chúng ta thấy điều trăn trở hàng đầu của ngài là muốn có “những thầy dòng thật và thánh”. Như vậy ngài mở ra một hướng nhắm tới cho đan viện tương lai, để tránh những cách sống không đúng với bản chất của thầy dòng. Có thể đó là những thầy dòng nhãn hiệu, thiếu thực chất, vì thói đời và tính thế gian còn quá mạnh nơi họ. Cha Tổ Phụ đã nói đến mối nguy cơ của “nhà dòng hư” khi các thành viên ăn nói, xử sự “như người đời”, nghĩa là theo lề thói thế gian.

Thế giới hôm nay tràn đầy những thứ giả, và người ta có thể làm giả bất cứ cái gì. Sự giả trá này chứng minh sự sa đoạ và lệch lạc của lương tâm con người đang hướng về sự xấu. Từ nhận thức lệch lạc và chủ thuyết tương đối hoá đến chủ nghĩa hưởng thụ và tục hóa, người ta sống vô cảm trước mọi đau khổ của người khác, sẵn sàng khai thác người khác để thủ lợi cho mình; trong đời tu một cách nào đó cũng chịu ảnh hưởng các trào lưu thế tục này. Do đó, cần một công cuộc canh tân để trở thành những tu sĩ thật sự và thánh thiện. Nghĩa là trở về với ơn gọi và căn tính của đời thánh hiến. Như thế, chúng ta mới có thể nói đến chứng từ đáng tin, chân thực cho thế giới đầy gian trá này và mới có thể rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô bằng những lời nói đi đôi với những hành động khả tín.

 

1/ Thầy dòng thật sống sự thật

Đời thánh hiến là cuộc đời làm chứng nhân cho Chúa; mà Chúa Giêsu xác định với chúng ta: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Thánh Phaolô đã từng khuyên nhủ hai môn sinh của ngài là Timôthê và Titô về một đời sống tinh tuyền và không đáng trách, nghĩa là luôn sống dưới ánh sáng và là con cái của sự sáng. Thầy dòng sống sự thật là thầy dòng được chính Thánh Thần dẫn vào tương quan thân mật với Thiên Chúa trong sự gặp gỡ liên lỉ với Ngài. Cũng từ sự gặp gỡ đó mà đan sĩ hiểu ra chân lý của Thiên Chúa “chân lý toàn vẹn” (x.Ga 16,13). Chân lý đó là nhận biết Thiên Chúa là Cha yêu thương, luôn quan tâm đến chúng ta (x. Ga 17,3).

Sống sự thật là luôn sống theo chỉ dẫn của Chúa Thánh Thần; chính Ngài là tác giả xây dựng ngôi đền Thiên Chúa. Chính Ngài cũng là chân lý dẫn đưa ta đến sự nhận biết về chính ta và bản chất tội lỗi nơi ta. Sống trong Thần Khí, theo Thần Khí chỉ dẫn là tránh xa những đam mê xác thịt; sống tự do làm con Thiên Chúa; hiểu ra được các giá trị của đau khổ (x. Rm 8,18).

Thầy dòng sống sự thật là thầy dòng luôn sống trước sự hiện diện của Chúa, và để Lời Chúa qui chiếu đời sống của mình. Vì chỉ có sự thật mới mang lại tự do, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định rằng: “sự thật sẽ giải thoát các con” (Ga 8,34). Trong giờ phút linh thiêng khi cầu nguyện, Chúa Giêsu đã xin cùng Chúa Cha thánh hiến các môn đệ của Ngài: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ, lời Cha là sự thật” (Ga 17,17).

Khi nói đến sự thật, là đề cập một vấn đề khó khăn gây nhức nhối cho những ai thao thức với vận mệnh của con người, của đời sống thánh hiến tu trì, khi mà chuyện “gian lận” xảy ra như là “chuyện bình thường”. Giả dối là một lối sống khá phổ biến trong rất nhiều môi trường, nơi học đường, công sở, trong gia đình và ngay cả trong cộng đoàn tu trì.

Nếu sống trong môi trường có nhiều gian dối, khó tránh khỏi tầm ảnh hưởng trên sự phán đoán và hành động. Người ta sẽ bất chấp lương tâm, không để ý đến công bình, và đánh mất sự liêm chính. Người ta thích gian dối hơn sự thật. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta yêu chuộng bóng tối hơn ánh sáng…” (Ga 1,5). “vì các việc họ làm đều xấu xa còn những kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách… thiên hạ thấy việc họ làm thực hiện trong Thiên Chúa”

Xin đề nghị một vài yếu tố để có thể sống sự thật, và tiến tới “thầy dòng thật”.

a.Yêu mến sự thật.

Sự thật đáng quí, ai cũng mến chuộng cả; chỉ những ai có tâm hồn tà vạy, mới sợ hãi phải đối diện với sự thật.

+ Sự thật sẽ đem lại cho chúng ta sự tự do của con cái Thiên Chúa. Gian dối được coi là mưu mô của ma quỉ, nhằm dẫn đưa chúng ta đến chỗ thoả hiệp và đi tìm những cái thấp hèn. Khi đã thành tội, nó trói cột ta vào lo lắng, sợ hãi và lúc nào cũng sống trong hồi hộp, bất an. Chỉ ai sống sự thật với lương tâm, với ý thức mới là người bình an thật.

+ Người sống sự thật là đi theo và tuân thủ những chỉ dẫn và đòi hỏi của Tin Mừng. Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Chúa Giêsu đã lên án thái độ sống không thật của những người biệt phái: họ không có Lời Chúa cư ngụ trong lòng, và vì thế, họ hành xử chỉ để tôn vinh mình và tôn vinh lẫn nhau, thay vì tôn vinh Thiên Chúa. Họ xây dựng một hệ thống trên nền tảng luật lệ con người. Như vậy, sống thật luôn là một thách đố cho những ai tin vào Thiên Chúa, yêu mến sự thật.

b/ Xét xử trong sự thật

Trong Tin Mừng, chúng ta thấy chỉ vì đã nói sự thật mà đầu thánh Gioan Tẩy Giả rơi xuống, bởi một vị vua coi trò giải trí, coi danh dự lời nói hơn mạng sống một người công chính. Mạng sống con người thua một vũ điệu! Quan tổng trấn Philatô, chỉ vì sợ hãi mà không dám đứng về phía sự thật, ông không hiểu “sự thật là gì.”

Phán đoán theo sự thật là nhận diện thực tại trong ánh sáng Lời Chúa. Chính vì khi người ta đặt cái tôi, quyền lực, tiền bạc và biết bao điều khác lên trên giá trị hướng dẫn của Lời Chúa, thì lúc đó đã thiếu vắng sự thật.

Thánh Biển Đức, trong chương 7 nói về đức khiêm nhường, đã cho thấy ở bậc thứ nhất và thứ bảy đều nêu lên sự quan trọng khi ta ý thức mình là gì trước mặt Thiên Chúa, điều đó giúp ta sống thật như “mình là”, không ảo tưởng về chính mình nữa. Khi nhận biết mọi sự trong sự thật, là nhìn vạn vật với thực chất của nó, không tôn thờ và đẩy nó lên trở thành thần tượng. Hiện trạng hôm nay cho thấy người ta tôn thờ thành công bằng cách “tiến thân” bất chấp giá trị luân lý, giá trị văn hoá, miễn là thành đạt, có quyền và có tiền là được.

Đan sĩ cũng bị “thị trường hoá ơn gọi” tức là bị đẩy đến lối sống thực dụng và đi tìm kiếm sự hiện diện giữa đời với thành công và danh vọng, coi đời tu như một phương tiện, một cơ hội để thể hiện bản thân và tài năng của mình. Một khi cuộc sống chỉ đi tìm tiến thân sẽ dẫn đến sống thiếu vắng sự thật trong nhận thức và lối sống; họ tìm cách bưng bít, che đậy để có cơ may thành đạt. Sống thật không những phải nhận thức rõ bản chất của mọi sự để có phán đoán cho công tâm; mà còn phải gây dựng men muối của sự thật giữa nền văn minh sự chết.

c/ Làm chứng cho sự thật

Thầy dòng phải là người làm chứng cho Sự thật, “vì qua việc làm của các con, mà người ta ca tụng Cha trên trời”, luôn làm chứng tá bằng đời sống của mình và thường xuyên tâm niệm “ánh mắt Thiên Chúa ngày đêm xem xét” mình. Nên dù phải sống có thiệt thòi đôi chút thì họ vẫn ý thức mình đang sống đúng bản chất của con cái Thiên Chúa.

Để sống sự thật, đan sĩ phải được bén rễ sâu từ sự gặp gỡ với Lời Chúa, để Lời Chúa biến đổi. Sự biến đổi mà Cha Tổ Phụ gọi là “giết con người cũ” để biết suy xét, sống như thầy dòng. Trong lá thư gửi cho mẹ ngài, Cha Tổ Phụ đã nói “việc khó không phải là ăn chay, đánh tội, thức khuya dậy sớm mà là sống như thầy dòng, suy xét như thầy dòng”. Thật vậy, vì sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian đã là điều khó với đan sĩ ngày xưa; thì với đan sĩ ngày nay, được sống trong các văn hoá của thế giới thông tin mạng, việc trở nên thầy dòng, và suy xét như thầy dòng quả là một thách đố không nhỏ.

Khi sống như thầy dòng, suy xét như thầy dòng là đan sĩ đã diễn tả được sứ điệp Lời Chúa qua cuộc sống. Phần nhiều, người ta dễ bị chinh phục bởi các đan sĩ có cách sống đơn sơ, thanh thoát; hơn một đan sĩ có ngôn từ và cung cách tiến bộ “của thời thượng”. Vì người ta mong muốn đan sĩ phải là người của Chúa, có Chúa, để để cầu nguyện cho họ.

Đan sĩ lấy Đức Kitô làm mẫu gương, và học tập lối sống của thầy Chí Thánh qua Lời Chúa và “không lấy gì làm hơn Đức Kitô”, “không gì hơn tình yêu của Đức Kitô”. Từ đó dù gặp thuận lợi, hay khó khăn, đan sĩ luôn sống tâm tình tạ ơn Chúa; “cho dẫu cháy nhà, hay bị đổi đi nơi khác vẫn bình an”, vì biết mình đã chiếm được kho tàng mà không ai có thể dành được là chính Đức Kitô và tình yêu của Ngài.

Thầy dòng thật là thầy dòng sống với những hồng ân mà Thiên Chúa trao tặng cho mình. Chính Chúa dựng nên chúng ta cho Chúa và Ngài gọi mỗi người vì chính họ và vì Ngài muốn (x. Mc 3,16). Ngài ban cho họ có khả năng chu toàn ơn gọi của mình. Trong cái nhìn tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta nhận ra Thiên Chúa gọi mỗi người chúng ta làm đan sĩ cũng là một điều khó hiểu! nhưng Ngài gọi tôi vì Ngài muốn. Tôi phải sống ơn gọi của tôi bằng chính con người của mình và để cho ơn Chúa và tình thương của Ngài hoạt động trong tôi. Thánh Phaolô đã phải thốt lên cùng mọi người dân Corintô “tôi có là gì là bởi ơn Chúa” nên ngài cố gắng “không để cho ơn Chúa ban cho mình ra vô ích”.

Đan sĩ cần sống sự khiêm tốn này, vì đó là nền tảng và bản chất đời đan tu.  Ý thức kho tàng của mình là chính Chúa, nên mỗi ngày đan sĩ cố gắng trở nên thầy dòng thật. Thầy dòng thật luôn ý thức đang đi tìm kho tàng Nước Trời, đang cố gắng hoạ lại con người của Đức Giêsu. Thầy dòng thật cả khi sống với nhau trong việc đón nhận người khác là chính họ, với những giới hạn giới hạn của họ. Chúng ta ý thức người anh em là người Chúa chọn như họ là, và cần thiết ở bên tôi để tôi có cơ hội nên thánh.

 

II.THẦY DÒNG THÁNH

 Bản chất của người Kitô hữu là được gọi để nên thánh; vì Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, và cho con người thông chia sự thánh thiện của Ngài. Bởi thế, Chúa Giêsu mời gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Nhưng do tham vọng con người đã nghiêng chiều theo điều xấu, đi tìm ý riêng của mình, nên đã đánh mất ân sủng và cách xa Thiên Chúa.

Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “thành công lớn nhất của đời người là nên thánh” và như vậy chúng ta có thể nói: nếu con người không đạt được sự thánh thiện là một thất bại lớn nhất của con người.

Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận luôn tập chú vào sự nên thánh ở nơi bản thân ngài, và dạy các môn sinh luôn ước ao vươn tới sự thánh thiện của một thầy dòng. Để sống làm một thầy dòng thánh thiện không phải là dễ, như đã khẳng định, nhưng không phải là không đạt được. Chính lòng khao khát giúp con người vươn tới điều mong ước, như thánh Augustino đã trải nghiệm khi thân thưa với Chúa: “Lòng con khao khát mãi, cho đến lúc được nghỉ yên trong Chúa”. Niềm khao khát đó rất cần thiết để “ở với Chúa” và được Ngài sai đi. Vì chỉ khi người đan sĩ trở nên thầy dòng thánh thiện mới có ích cho Giáo Hội. Vậy để trở thành thầy dòng thánh thiện chúng ta phải là con người cầu nguyện, hít thở và dìm mình trong sự gặp gỡ Thiên Chúa liên lỷ.

Thầy dòng thánh là thầy dòng biết sống mầu nhiệm thập giá của Đức Giêsu trong ơn gọi của mình, là một hành trình tiến về nhà Cha bằng cách đi qua cửa hẹp. Cửa hẹp này được Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận gọi là sự hãm mình, nghĩa là tiết chế trước những hưởng thụ và vô trật tự. Cho nên thầy dòng thánh luôn được hiểu như người biết từ bỏ những cám dỗ của ma quỉ, xác thịt và thế gian để sống cho Chúa và cho anh em.

Sự hãm mình bên trong xuất phát từ một cảm nghiệm gặp gỡ được Thiên Chúa, và con tim được Ngài chiếm hữu, một tâm hồn thánh muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Đấng Tình quân. Vì thế, tâm hồn say sưa chiêm ngắm Thiên Chúa qua Ngôi Lời Nhập Thể và tìm dịp để có thể diễn tả hy sinh chứng tỏ tình yêu của mình với Thiên Chúa, “Đấng đã yêu tôi và hiến mạng vì tôi”. Như vậy hãm mình bề trong lại là điều Thiên Chúa yêu thích hơn cả. Vì nó diễn tả tâm tình sâu kín và chi phối mọi chọn lựa trong cuộc sống của đan sĩ.

Còn hãm mình bề ngoài, là cách diễn tả đức tin và tình yêu sâu xa của một tâm hồn đã được Chúa cuốn hút. Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”. Thật vậy, đức tin là tâm tình sâu xa, nó được cụ thể bằng hành động. Đức tin được củng cố bằng lòng cậy trông. Làm sao cậy trông nếu tâm hồn không yêu mến? mức độ yêu mến tỉ lệ thuận với đức tin và đức cậy. Mà tin và cậy là gì? chẳng ai hiểu nếu không phải ngôn ngữ của đức tin và đức cậy chính là đức ái. Thánh Phaolô khẳng định: “Tôi biết tôi tin vào ai” (2Tm 1,12). Đức ái được đức tin hướng dẫn để đạt đến sự thánh thiện của tình yêu. Đan sĩ học được nơi Đức Giêsu tình yêu thánh thiện đó, và vươn lên tầm vóc viên mãn của Đức Giêsu Kitô. Bởi thế, chính tình yêu của Đức Kitô thúc bách đan sĩ dấn thân phục vụ Tin Mừng không mệt mỏi.

– Đan sĩ nên thánh là để cho ơn thánh sủng hoạt động nơi mình, luôn sống trước sự hiện diện của Chúa, ngước nhìn lên Chúa, noi gương Chúa và Lời Chúa là kim chỉ nam cho cuộc đời mình. Như thánh Phêrô đã nhờ ánh mắt của Chúa để hối cải và trở lại. Một khi sống sự hiện diện của Chúa, chắc chắn đan sĩ không sống giả dối hai mặt.

– Đan sĩ thánh thiện cũng là thầy dòng sống luật Chúa và luật dòng. Trong Cựu ước Thiên Chúa hứa với dân Israel “nếu các người tuân giữ luật Ta, và đi trước mặt ta, ta sẽ làm cho ngươi trở thành một dân tộc lớn, lại sẽ bảo vệ ngươi…”. Cha Tổ Phụ thường nhắc nhở các đan sĩ của ngài: “muốn nên thánh phải giữ luật dòng”.

THAY LỜI KẾT

Với một vài ý tưởng nhỏ bé, người viết muốn diễn đạt một chút mong ước cá nhân khởi đi từ khao khát của Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận là có những “thầy dòng thật và thầy dòng thánh”. Đó cũng là điều Giáo Hội muốn có nơi những người sống ơn gọi thánh hiến. Sống thật và sống thánh không gì khác hơn là sống noi theo gương Chúa Kitô. Thế nhưng, đan sĩ vẫn là những con người mỏng dòn, bị cuốn hút bởi những trào lưu tục hóa và chủ thuyết tương đối, nên họ cần phải chiến đấu cách mạnh mẽ, kiên trì trong cuộc chiến thiêng liêng, để không những chính mình được tỏa sáng bởi ánh sáng của Chúa Kitô và Tin Mừng, mà còn cho bao nhiêu người khác trong xã hội đang cần đến ánh sáng cứu độ của Chúa. Muốn được vậy, không gì khác hơn đan sĩ phải tái khám phá căn tính của đời tu. Như thế, khi sống thật và sống thánh, đan sĩ sẽ góp phần chuyển tải dưỡng chất cho toàn thân cây là Giáo Hội, xây dựng nền văn minh tình thương trong xã hội và hiện thực công cuộc canh tân, bắt đầu từ bản thân rồi lan rộng ra môi trường chung quanh. Phải chăng đó là bước đi cần thiết mà mỗi chúng ta sẽ thực hiện cho một tương lai tươi sáng, cho một mùa xuân đang đến.

 

 

 

 

 

 

CANH TÂN TINH THẦN HAY CƠ CHẾ

 

Théophane Vénard, TP

 

Trong những ngày gần đây, người Kitô hữu khắp nơi đang chứng kiến những bước khởi đầu của một cuộc canh tân, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã vạch ra từ khi Ngài được chọn làm Giáo Hoàng. Đây không phải là một điều gì mới mà là sự tiếp nối công trình của Công đồng Vat II. Canh tân để cập nhật (aggiornamento) với thời đại và để cho thế giới hôm này được tăng trưởng trong đức tin. Chính vì vậy, trong một buổi triều kiến gần đây, Đức Phanxicô đã trấn an: “Hãy cầu xin ân sủng để đừng sợ canh tân Phúc Âm, đừng sợ hãi sự đổi mới của Chúa Thánh Thần, cũng như đừng sợ hãi thay đổi những cơ cấu già nua lỗi thời đang vây phủ chúng ta . . .”. Kế đến, Ngài tiếp tục quảng diễn: “Chúng ta đừng sợ hãi đổi mới những cơ cấu của Giáo Hội . . . Là người Kittô hữu không chỉ “thi hành các điều răn sẵn có”, nhưng còn thực hành những điều mới được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Rượu mới phải đựng trong bình mới, như lời Chúa Giêsu phán trong Phúc Âm ngày hôm nay”[1] .
Gợi hứng từ lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng, người viết xin mạn phép đề cập đến một trong những vấn đề đã và đang được bàn thảo: “Canh tân tinh thần hay cơ chế?”. Vấn đề này có tầm mức quá rộng so với chủ đích của tập san. Nên ở đây, chỉ nêu lên một vài suy nghĩ chứ không nhằm phê bình, và được gói gọn trong phạm vi đời sống thánh hiến, đặc biệt là đời sống chiêm niệm. Theo hướng đi này, xin được trình bày bốn vấn đề:
– Canh tân tinh thần hay cơ chế?
– Tinh thần nào?
– Canh tân để làm gì?
– Vài suy tư về việc canh tân trong đời sống đan tu Việt Nam hôm nay

 

 I.Canh tân tinh thần hay cơ chế?

Ngay từ Giáo Hội sơ khai, khi Kitô giáo bắt đầu những bước chập chững sống tinh thần Tin Mừng Chúa Kitô thì cả hình thức suy tư, cũng như cách thức thể hiện đã chịu ảnh hưởng Do thái giáo rất nhiều. Tính chất “Do thái-Kitô giáo” là điều cần thiết cho bước khởi đầu của một tinh thần mới và đó là điều hết sức tự nhiên. Bởi lẽ những tín hữu tiên khởi là những người gốc Do thái. Họ đã sống, đã suy tư và đã thực hành những nghi lễ của Do thái giáo, nên không thể một sớm một chiều họ có thể thay đổi để thực hành và theo một cơ chế mới mà không tổn thương việc sống đức tin của họ.
Tuy nhiên, theo thời gian, tính chất “Do thái-Kitô giáo” nơi các tín hữu tiên khởi phát sinh nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Một trong những giải quyết đầu tiên là vấn đề cắt bì đã được bàn thảo tại Công đồng Giêrusalem. Đến thế kỷ thứ II, tính chất “Do thái-Kitô giáo” càng trở nên trầm trọng hơn đến nỗi có thể làm lu mờ tính Ki-tô trong đời sống của các cộng đoàn và cản trở việc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc như thánh Phaolô đã cảnh báo. Điều này càng thúc bách một cuộc giải phóng để có một hướng đi hoàn toàn mới hầu nuôi dưỡng và tăng trưởng đức tin nơi các tín hữu. Chính vì thế, Giáo Hội vào thế kỷ thứ II đã nhất quyết đi theo lựa chọn mà thánh Phaolô đã cổ võ, không chấp nhận ù lì trong chiếc nôi ban đầu: “Do thái-Kitô giáo”, nhưng là hướng đến sự khai mở với các nền văn hoá khác để thực hiện tính phổ quát của Tin Mừng Chúa Ki-tô.
Cùng với dòng chảy của thời gian, Giáo Hội đã trải qua biết bao cuộc canh tân, trong đó phải kể đến công cuộc canh tân của Công đồng Vaticanô II. Công cuộc canh tân này đã mang lại một làn gió mới và dẫn đưa Giáo Hội từng bước vượt qua những cuộc khủng hoảng của thời đại. Dầu theo khuynh hướng nào đi nữa, người ta cũng phải chấp nhận rằng: Công đồng đã có một cuộc đổi mới toàn diện xét về suy tư thần học, cơ cấu và việc trở về nguồn cội Tin Mừng. Về suy tư thần học, một trong những điểm nổi bật đó là suy tư Giáo Hội dưới ánh sáng của Tin Mừng. Thay vì nhìn Giáo Hội như là một kim tự tháp, Công đồng đã trình bày Giáo Hội là Dân Thiên Chúa, là Thân Mình của Đức Kitô; từ đó, việc tổ chức và điều hành Giáo Hội mang tính chất phân quyền và liên đới, đề cao tính tông đồ đoàn. Các triều đại Giáo Hoàng kế tiếp vẫn tiếp tục công trình canh tân này, mà đặc biệt Đức đương kim Giáo Hoàng đang cổ võ cho việc đổi mới các cơ cấu vốn đã lỗi thời. Đổi mới để làm gì nếu không phải là để mở ra đón nhận làn gió mới của Thánh Thần trong thời đại mới.
Lịch sử của đời sống thánh hiến cũng đã trải qua nhiều biến đổi, mà việc biến đổi mang tính chất quyết liệt nhất là công cuộc canh tân của Công đồng Vaticanô II. Theo các nghị phụ việc canh tân đời sống tu trì của Công đồng lệ thuộc phần lớn vào việc canh tân quyền bính. Quyền bính được suy tư và thực thi theo ánh sáng và tinh thần Tin Mừng hơn. Theo đó, Công đồng đề nghị một mô thức mới cho đời tu: mô thức vâng phục tự do hay là mô thức đối thoại để thay thế cho mô thức truyền thống: bề trên-bề dưới. Việc thay thế này không phải vì nó sai trái, nhưng vì mô thức cũ không còn hợp thời, không thích ứng với tâm thức hiện đại và lời mời gọi của Chúa Thánh Thần.
Như vậy, lịch sử Giáo Hội và lịch sử đời sống thánh hiến là một minh chứng: “Rượu mới phải đổ vào bầu da mới”. Rượu mới là tinh thần của Đấng sáng lập được diễn tả theo phương thức mới, và cần phải có một “cơ chế” mới phù hợp với nó. Tuy nhiên, “những cải cách về cơ cấu và tổ chức là chuyện phụ thuộc. Cuộc cải cách đầu tiên phải là cải tổ về cách hiện hữu, cách sống, về lối sống”[2].Thế mà, cách hiện hữu, cách sống và lối sống chính là “mới trong nhiệt thành, mới trong phương pháp, mới trong lối diễn tả”[3]

 

 II. Tinh thần nào?

Sắc lệnh “Đức Ái Hoàn Hảo” mời gọi các tu sĩ phải trung thành với tinh thần và tri ý của Đấng sáng lập, vì đây là căn tính và nền tảng cho ơn gọi sống đời thánh hiến. Là căn tính và nền tảng, vì tinh thần và mục đích của Đấng sáng lập không phải là một sáng kiến cá nhân, cũng không phải phát xuất từ nhục thể, nhưng là tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo Hội, vì Giáo Hội, cho Giáo Hội và thuộc về sự thánh thiện của Giáo Hội. Như vậy, theo kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, đây là một đặc sủng. Đặc sủng được Thiên Chúa ban cho Giáo Hội và vì lợi ích Giáo Hội, đồng thời cũng là hoa trái của Thần Khí đang hoạt động trong Giáo Hội[4] . Các tu sĩ đón nhận qua Vị sáng lập và phải có bổn phận giữ gìn ơn huệ này. Đây là một đặc ân, nhưng cũng là một bổn phận. Bởi thế, trung thành với tinh thần Đấng sáng lập giúp các tu sĩ phục vụ Giáo Hội đắc lực nhất và làm phong phú ơn ban của Thiên Chúa. Đức Gioan Phaolô II trong bài nói chuyện với các bề trên tổng quyền nam vào ngày 24.11.1978 tái khẳng định sự hiện diện của các đặc sủng khác nhau tại chính nguồn gốc của mỗi Hội dòng. Theo Ngài “Mỗi đấng sáng lập, dưới sự linh hứng của Thần khí mà Chúa Kitô đã hứa ban cho Giáo hội, đã nhận được một ân huệ đặc biệt. Đấng sáng lập là một dụng cụ đặc biệt của Chúa Kitô cho công cuộc cứu độ của Ngài, nó sống mãi trong lịch sử nhân loại. Giáo hội đã dần dần nhận ra những đặc sủng này, xem xét chúng và khi Giáo hội thấy chúng xác thực, đã dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và gìn giữ chúng trong đời sống cộng đoàn để cho chúng luôn đơm bông kết trái.”
Trung thành với tinh thần và tri ý của Đấng sáng lập không có nghĩa là rập khuôn lối sống. Thực tế cho hay các Hội dòng đã thực hiện những cập nhật để thích nghi với thời đại, đáp ứng nhu cầu hiện tại của Giáo Hội. Việc làm này không có gì mâu thuẫn trong việc trung thành với tinh thần và tri ý của Đấng sáng lập. Không mâu thuẫn, vì đặc sủng được ban cho Đấng sáng lập có hai mục đích là bước theo Chúa Kitô để nên đồng hình đồng dạng với Ngài; và đặc biệt là đáp ứng lại nhu cầu hiện tại cấp bách của Giáo Hội. Như vậy, đặc sủng của Đấng sáng lập luôn có tính ngôn sứ. Các Ngài là ngôn sứ được sai đến để nói về tình thương của Thiên Chúa cho thế giới. Tiếng nói của ngôn sứ luôn luôn là hiện tại. Tiếng nói ấy giúp con người nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với họ vào lúc này và ở đây. Do đó, tiếng nói ngôn sứ không bao giờ là tiếng nói của quá khứ. Theo nghĩa này mà Đức Pio XII đã nhắn nhủ các tu sĩ là “phải làm những gì mà Đấng sáng lập, nếu còn sống, sẽ làm. Chắc chắn trong một số trường hợp họ sẽ lập lại những gì mà Đấng sáng lập của họ đã làm; nhưng cũng chắc chắn rằng một số sáng kiến mà Đấng sáng lập đã chọn trong thời của họ, họ sẽ không chọn chúng đối với bối cảnh hiện nay”[5] .
Theo tinh thần đó, các tu sĩ phải là những người chú giải đặc sủng Đấng sáng lập trong thời đại của mình. Thế nhưng chú giải không phải là kể lại nguyên văn, nhưng là làm cho người khác thấu hiểu. Nghĩa là nhà chú giải phải chuyển sứ điệp của bản văn theo ngôn ngữ và trình độ của người nghe. Do đó, việc chú giải đòi hỏi tu sĩ phải có hai khả năng:
– Biết cách để đọc ra những dấu chỉ của thời đại, nghĩa là nhận ra được hoạt động của Chúa Thánh Thần trong thời hiện tại.
– Tìm ra phương cách để đáp lại những nhu cầu của Giáo Hội và xã hội trong thế giới hiện tại.
Như vậy, tinh thần mà chúng ta phải sống và thực hiện trong hiện tại gồm hai tiêu chuẩn: đặc sủng của Đấng sáng lập và thích ứng với nhu cầu của Giáo Hội trong thời hiện tại. Tuy nhiên, việc chú giải để nhận ra tinh thần mới mà Chúa Thánh Thần đang thúc đẩy trong hoàn cảnh hiện tại là một điều khó. Khó vì chính sự biện phân của chúng ta và khó vì chúng ta không nhận ra được dấu chỉ thời đại mà Chúa Thánh Thần đang tác động trong thế giới này. Vì thế, để có một chú giải đúng, tu sĩ phải dựa trên huấn quyền của Giáo Hội và quy chiếu về Tin Mừng để xem việc chú giải của chúng ta có dẫn đưa đến đức ái hay không và có phục vụ cho sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội không?

 

III. Canh tân để làm gì?

1. Canh tân để tồn tại

Bước vào ngàn năm thứ ba, theo thống kê trên toàn cầu hiện nay Hội Thánh Công Giáo có 801.185 nữ tu, 55.057 tu huynh không thụ phong linh mục, và 139.397 linh mục dòng. Số liệu không bao gồm 30.687 phó tế vĩnh viễn thuộc các hội dòng hoặc tu hội đời. Con số nam nữ tu sĩ đã giảm 18,7%, từ 1 triệu 225.056 xuống còn 995.639 trong khoảng thời gian từ năm 1978 đến năm 2000. Mức giảm sút đáng kinh ngạc xảy ra trong hàng ngũ các tu huynh không thụ phong linh mục: từ 75.802 xuống còn 55.057, tức 27%, trong cùng thời gian trên. Nữ tu giảm 19,1%, linh mục dòng giảm 12%.Con số các tu sĩ được phân bổ như sau: 16,4% sống ở Châu Á, tăng so với 9% của năm 1978; Châu Phi 7%, tăng so với tỉ lệ 4,25% hồi năm 1978; Châu Mỹ 29,6%, hầu như không thay đổi; Châu Âu đang đi xuống nay còn 45%, đảo ngược với tỉ lệ 54% của năm 1978[6] . Đứng trước sự sút giảm trầm trọng này, Thánh Bộ Các Tu Hội Ðời Sống Thánh Hiến Và Hội Ðoàn Ðời Sống Tông Đồ đã mở một cuộc họp khoáng đại để tìm ra phương cách canh tân đời sống tu trì. Kết quả cuộc họp này là một tài liệu dày 60 trang, với tiêu đề: “Tái Khởi Hành Từ Chúa Ki-tô: Một Cuộc Dấn Thân Ðược Canh Tân Cho Ðời Sống Thánh Hiến Trong Thiên Niên Kỷ Thứ Ba”. Với tài liệu này, Toà thánh muốn thực hiện một cuộc canh tân triệt để nhằm giảm thiểu tối đa số tu sĩ lìa bỏ đời tu và cổ võ các thanh niên nam nữ thiện chí dấn thân trong ơn gọi tu trì.

 2.Canh tân để tăng trưởng

Đời sống tu trì không thuộc phẩm trật, nhưng thuộc về sự thánh thiện của Giáo Hội. Cũng như Giáo Hội vừa hữu hình và vừa vô hình, đời sống thánh hiến được mời gọi theo sát Đức Kitô và nên đồng hình đồng dạng với Ngài, nhưng cũng mặc lấy một cơ cấu nhất định nào đó. Các cơ cấu chịu chi phối của tâm thức thời đại và hoàn cảnh xã hội, nên nó cũng sẽ tuân theo quy luật tự nhiên: đào thải để tăng trưởng. Bởi thế, mới đây trong một bài nói chuyện về canh tân, Đức Phanxicô đã nhắc lại quy luật này: “Trong đời sống người Kitô hữu cũng như đời sống của Giáo Hội, có những cấu trúc cổ xưa, những cơ cấu già nua: điều cần thiết là phải đổi mới! Và Giáo Hội luôn chú trọng điều này, là luôn cởi mở đối thoại với tất cả mọi nền văn hóa”. “Giáo Hội luôn tự do: Chúa Thánh Thần đưa Giáo Hội tiến tới. Tin Mừng dạy cho chúng ta điều đó: tự do để tìm kiếm những điều mới trong Phúc Âm, trong đời sống của chúng ta, cũng như trong các cơ cấu tổ chức”.

3. Canh tân để thực thi sứ mệnh

Điều cốt yếu nhất của việc canh tân trong đời sống thánh hiến hệ tại ở việc canh tân để sống và thực thi sứ mệnh tốt hơn. Thế mà, đặc sủng nơi Đấng sáng lập luôn luôn đi kèm với một sứ mệnh[7].Sứ mệnh đó nhằm công ích và thiện ích của Giáo Hội, đồng thời đáp lại nhu cầu của thời đại. Huấn thị “Xuất phát lại từ Đức Ki-tô” đã chỉ rõ đó là sứ mệnh truyền giáo[8]. Sứ mệnh này không thể tách rời khỏi đặc sủng; trái lại, quyện vào nhau như thành một thực thể bất phân chia đến nỗi nếu tách khỏi mục đích này thì đặc sủng không còn ý nghĩa nữa. Vì thế, Đức Gioan Phaolô II trong tông huấn “Đời sống thánh hiến” đã trình bày ơn gọi đời sống thánh hiến như là một cuộc xuống núi với Chúa Giêsu và xem đó là ưu tiên số một của ơn gọi tu trì[9] . Để xuống núi và đồng hành với sứ mệnh của Giáo Hội, tu sĩ phải nhận ra dấu chỉ của thời đại và tiếng nói của Chúa Thánh Linh để đáp ứng những nhu cầu của thời hiện đại. Công việc này đòi hỏi đời sống tu phải canh tân cho phù hợp với thời đại như thánh Phaolô đã sống và đã trải nghiệm: “Đối với Do thái, tôi trở nên giống như người Do thái để chinh phục người Do thái” (1Cr 9,20).

 

 IV. Vài suy tư về một cuộc canh tân trong đời sống đan tu Việt Nam hôm nay

Chủ đích mà cha Tổ Phụ nhắm đến khi lập Dòng Đức Bà Việt Nam là truyền giáo. Đây là thành quả của kinh nghiệm và việc nhận ra dấu chỉ của Chúa Thánh Thần. Trải qua hơn 90 năm, Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam đã có vai trò nào và đóng góp được gì cho sứ mệnh truyền giáo? Có lẽ không thể chỉ ra con số hay thống kê những thành quả mà không có thiếu sót, nhưng có một điều chúng ta cần phải nhìn lại: Hội Dòng đã thể hiện như thế nào trong việc sống sứ mệnh của mình?
Theo bảng thống kê, số tín hữu Việt Nam kể từ năm 1960 đến 2010 chỉ tăng 1%. Vào thời điểm hiện tại, tỉ lệ người công giáo là 7,11% dân số (năm 2011). Trong khi đó, số tín hữu Tin Lành từ con số 400.000 năm 1999 và đến nay họ đã tăng trên dưới 800.000 tín hữu. Con số tăng gần như gấp đôi. Mặt khác, Giáo Hội tại Á Châu qua mấy trăm năm truyền giáo chỉ gần 130 triệu tín hữu; trái lại, phái Ngũ Tuần từ con số một vài người cách đây 100 năm, nay đã đạt tới dấu mốc 165 triệu tại Á Châu. Nếu nhìn vào thực tế, Giáo Hội Công giáo có một tổ chức bài bản, vững mạnh và cơ sở vật chất khá vững chắc. Điều gì làm cho người ta không cảm nhận được Thiên Chúa trong Giáo Hội Công Giáo?
Nhìn lại lịch sử và qua Thượng Hội Đồng Giám mục tại Á Châu năm 1999, nhất là tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu” của Đức Gioan Phaolô II (6.11.1999) đã chỉ ra rằng: Giáo Hội qua các thời kỳ chú trọng quá nhiều đến việc tổ chức, xây dựng, công tác mục vụ, lo đối phó với những học thuyết sai lạc và về khía cạnh đạo đức, người ta hướng về việc noi gương các thánh hơn là noi gương Chúa Giêsu; quá chú trọng các lễ nghi, nhưng không đặt trọng tâm vào việc nuôi dưỡng và làm cho đời sống thiêng liêng tăng trưởng. Nếu diễn tả theo cách nói của Đức Gioan Phaolô II, có thể nói: chúng ta đã bỏ quên Chúa Giêsu hay ít ra là trình bày một Chúa Giêsu quá xa lạ và trừu tượng. Chính vì vậy, Đức thánh cha mời gọi cần phải phát xuất lại từ Chúa Kitô, vì Ngài là quà tặng của Thiên Chúa cho Á Châu (x. Tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu”, số 10).
Phát xuất lại từ Đức Kitô cũng là điểm nhấn trong huấn thị của Bộ Đời Sống Thánh Hiến và Hiệp Hội Tông Đồ năm 2002. Theo huấn thị, các tu sĩ hãy trở về với nguồn sống là Chúa Kitô hơn là tập trung vào vị Sáng lập dòng. Có nghĩa là phải để cho đời sống Chúa Kitô diễn tả trong tất cả mọi hoạt động của đời sống thánh hiến và điều này thích hợp cho những con người tại Á Châu, hướng về chữ “Tâm” hơn là chữ “Lý”. Ghi nhận đặc tính này mà ban tổ chức đại hội Truyền giáo tại Á Châu tổ chức tại Chiang Mai, Thái Lan đã sử dụng cụm từ “Kể lại câu chuyện Giêsu” làm đề tài cho đại hội. Chúa Giêsu chỉ là Ngài thật khi được kể lại, được mô tả lại bằng chính cuộc sống của các môn sinh. Mô tả là ngôn ngữ của kinh nghiệm sống mà con người ngày nay đang cần đến như Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Con người ngày nay cần chứng nhân hơn là thầy dạy”.
Với thực tế trên, thiết nghĩ cũng là chất liệu để cho Hội Dòng chúng ta suy tư về việc canh tân hầu có thể sống sứ mệnh truyền giáo theo trí ý của Cha Tổ Phụ. Canh tân không phải để sống dễ dãi, không phải để có một cộng đoàn theo mô hình dân chủ, thay cho mô hình quân chủ, nhưng là để cho cộng đoàn sống và diễn lại cuộc sống của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu sẽ làm gì, sẽ nói gì trong cuộc sống hiện tại? Chúa Giêsu muốn gì nơi chúng ta? Cha Tổ Phụ đã trả lời rất là đơn sơ: “Hãy nhìn Chúa Giêsu xem Ngài sống thế nào, Ngài ăn uống thế nào….”


Kết luận

Có 9 điều mà Đức Phanxicô ưu tư khi thực hiện cuộc cải tổ Giáo Hội trong triều đại giáo hoàng của ngài. Trong đó, điều quan trọng nhất mà ngài thường nhắc đi nhắc lại nơi các bài giảng và bài nói chuyện là: chấm dứt lối sống giáo sĩ trị và lối sống đạo đức giả đang ăn sâu trong não trạng và cung cách của các giáo sĩ, tu sĩ, cũng như trong cách điều hành của Giáo Hội. Vì cung cách này tạo nên một lối sống gia trưởng, trưởng giả và bao cấp [10] . Nó cản trở chúng ta “đi ra khỏi mình” để đến với tha nhân, đến với thế giới và đồng thời nó đẩy người ta xa cách Giáo Hội, xa cách Chúa Kitô. Cung cách này tôn mình như là khuôn mẫu để người khác phải theo. Ai không thuận với khuôn khổ này đều bị loại trừ. Chính vì cung cách đó mà đã 50 năm sau cuộc cải tổ của Công đồng Vaticanô II, đời sống Giáo Hội chưa được biến đổi bao nhiêu.

Ưu tư của Đức Giáo Hoàng cũng là điều mà chúng ta cần phải suy tư lại để có thể thực hiện đặc sủng của Cha Tổ Phụ một cách hữu hiệu nhất. Và đó cũng là một lời mời gọi đầy thách đố với Hội Dòng chúng ta trước nhu cầu canh tân tinh thần và cơ chế.

 

 

 


[1]http://giuseanbinh.net/home/tin-giao-hoi/giao-hoi-hoan-vu/2569-c-thanh-cha-hay-cu-xin-an-sng–ng-s-canh-tan-phuc-am-thay-i-cac-c-cu-li-hi.html 

[2]Trích trong bài phỏng vấn của tạp chí văn hoá Dòng Tên, ngày 19.9.2013

[3]Đức Gioan Phao-lô II tại hội nghị các Giám Mục Mỹ Châu La-tinh, ngày 9.3.1983  

[4]Văn kiện của bộ tu sĩ và giám mục, số 11

[5] www.conggiaovietnam.net/index.php, Lm, GB Trần hữu Hạnh, fsf, Đặc sủng của Đấng sáng lập

[6] www.catholic.org.tw/vntaiwan/02news/tin374.htm

[7] Văn kiện “Những yếu tố cốt yếu của đời tu”, số 23

[8] Huấn thị “Xuất phát lại từ Đức Ki-tô” số 9 

[9] VC số 19; 25; 72

[10] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, bài giảng ngày 20.11.2013

 

 

 

 

 

 

MẦM XANH

 

Linh Giang

Mầm xanh nẩy mộng ban đầu
Yêu thương đâu dễ,  Ai người dấu yêu
Đi tìm chân lý cao siêu
Nhấp nho mấy  thửơ như triều sóng dâng
Bao lần thầm nhủ xin vâng
Bấy lần cảm nhận bâng khuâng chưa tròn
Vui buồn thấm đượm lòng son
Hoa thơm trái ngọt Cha còn chờ con

                                        

 

 

 

 

 

CANH TÂN

CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY

 

Duyên Thập Tự

 

Hai từ “canh tân” thường cho chúng ta cảm tưởng đối diện với một công cuộc đổi mới lớn lao, vĩ đại. Người ta nói đến công cuộc canh tân Giáo Hội, đời sống tu trì hay cuộc sống Kitô hữu. Xã hội cũng luôn đề cập đến việc đổi mới tư duy hay cơ chế. Ngay trong Kinh Thánh, từ “metanoia” cũng được xem như là một công cuộc hoán cải và canh tân tận căn, đổi mới lối suy nghĩ và canh tân nếp sống. Canh tân luôn mang hình thái vĩ mô.

Nhưng làm sao có cuộc canh tân vĩ đại, trên bình diện rộng lớn, nếu việc đổi mới đó không bắt đầu bằng những “việc nhỏ”, khởi từ những điều bình thường. Nghĩa là việc canh tân cũng cần mang hình thái vi mô. Toàn bộ cuộc sống chỉ được canh tân, nếu mỗi ngày sống được canh tân.
Chính trong hướng suy tư đó, tôi muốn mời độc giả cùng với tôi suy tư về việc canh tân cuộc sống hằng ngày. Nhưng tại sao lại là cuộc sống hằng ngày? Có những điều gì làm cho chúng ta ngủ quên, không còn ý thức về điều mình sống, và vì thế, đời sống trở nên già cỗi, làm mất đi sức sống? Và đâu là phương thế giúp tái sinh và canh tân mỗi ngày sống? Tôi muốn ngỏ lời với quí độc giả là những người đang sống ơn gọi đan tu, một cuộc sống “êm trôi” trong khung cảnh đan viện. Nhưng, trộm nghĩ rằng những suy tư cá nhân cũng có thể giúp gợi nên một vài ý tưởng cho những ai đang muốn làm mới lại nhịp sống mỗi ngày.

1. TẤT CẢ ĐÃ ĐƯỢC LẬP TRÌNH

Nếp sống đan tu, dù ở Tây phương hay Đông phương, ngày xưa cũng như hôm nay, đều mang một đặc tính chung là “ổn định”. Từ ổn định ở đây muốn diễn tả việc tổ chức nếp sống đã được qui định hóa và trở thành “nề nếp”. Nói theo ngôn ngữ tin học, đó là một cuộc sống đã được “lập trình”. Đây là một yếu tố đặc thù của bất cứ hình thái đan tu nào. Không có tính ổn định, không thể sống và phát triển đời đan tu được. Hình ảnh thường được sử dụng để nói lên tính chất này, đó là hình ảnh một cây được ươm trồng trên một mảnh đất: Cây chỉ có thể sống và phát triển khi nó được “định cư” để bộ rễ có thể an toàn bám rễ sâu trong lòng đất. Trái lại, nếu cứ bị bứng đi, di dời liên tục, sức sống sẽ suy tàn và khô héo là chuyện phải xảy ra. Trong truyền thống đan tu Biển Đức, lời khấn “vĩnh cư” hay “an định” là một diễn tả cụ thể mối ưu tư “cắm rễ” căn bản đó.
Nếp sống đan tu được lập trình trong từng chi tiết: thời khóa biểu thường nhật và những ngày lễ, những qui định trong các cử hành phụng vụ cho đến những thái độ và cử chỉ cần phải có ở những nơi chốn trong đan viện. Tất cả đều hướng tới một sự trật tự bên ngoài và bình an nội tâm, là hai điều kiện cần thiết để ơn gọi đan tu được tăng trưởng.
Nhưng, nếu sự ổn định của một nếp sống được lập trình, mang lại rất nhiều hoa trái cho những tâm hồn nhiệt thành tìm kiếm Thiên Chúa trong cô tịch của nếp sống đan tu, thì sự ổn định đó cũng ngầm chứa mối nguy cơ cho những ai “kéo lê” cuộc sống trong sự mơ ngủ. Thật vậy, với một cuộc sống mà hầu như tất cả đều “có sẵn”, chúng ta dễ bị “ngái ngủ” trong sự đơn điệu, trong một nhịp sống “không có gì mới lạ dưới ánh mặt trời”. Nói một cách khác, ý thức về cuộc sống hiện tại, về điều “ở đây và lúc này”, có thể bị mờ nhạt. Hình ảnh “bóng ma vật vờ” được sử dụng để diễn tả tình trạng trên chắc cũng không xa thực tế là bao. Họ không sống hiện tại nhưng mơ tưởng hay “chiêm bao” như diễn ngữ Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã sử dụng trong các bài giáo huấn của ngài.
Tình trạng và tâm trạng trên hé lộ cho thấy một vấn đề căn cốt, đó là cuộc sống đã trở nên “cũ xưa” và “già cỗi” không còn sức bật hay vươn lên. Tất cả đã được lập trình sẵn và vì thế chẳng còn điều gì mới và chỉ việc nhắm mắt bước đi! Hậu quả đương nhiên là sự trì trệ. Chính vì thế, canh tân là vấn đề khẩn thiết, phải được bắt đầu bằng những gì trong tầm tay và thuộc về cuộc sống thường nhật.

 

2. DỪNG LẠI

Như đã nói trên, nguy cơ lớn trong đời tu nói chung và đời đan tu nói riêng, đó là “trì trệ”, “kéo lê” cuộc sống. Vẫn bước đi đó, nhưng tâm trạng nặng nề và nhất là nhãn quan bị màu đen che khuất, nhãn giới bị thu hẹp. Bước đi với đôi mắt mở nhưng tâm hồn thì mơ màng: mơ mà mở mắt. Như vậy, điều quan trọng trước tiên là “dừng lại”’
Trước hết, dừng lại “chuyến xe cuộc đời” tại những trạm nghỉ. Nếu không dừng lại để kiểm tra, nguy cơ “trật đường rầy” và “lạc hướng” sẽ dẫn đến những hậu quả to lớn. Những trạm nghỉ, đó là những giờ phút thinh lặng mà ngôn ngữ tu đức gọi là “xét mình”, “tự vấn lương tâm”. Đây là những trạm nghỉ để chúng ta trở về với căn nhà nội tâm, đặt cho chính mình những câu hỏi liên quan đến cuộc sống. Tôi đang mong ước điều gì nhất? Đâu là kho tàng mà lòng tôi đang gắn bó? Hướng đi của tôi có chính xác không: tôi tìm kiếm Thiên Chúa hay những ngẫu tượng nào? Nhiệt tâm của tôi, tốt lành hay cay đắng (x. TL 72)? Và những câu hỏi hết sức hiện sinh, thiết thực với chính nếp sống hằng ngày. Nếu không biết dừng lại, nếu không trở về với nội tâm của mình, chúng ta dễ dàng bị mê hoặc và bị lôi cuốn vào những thứ phù vân hay bước đi lững thững với nhịp điệu vô hồn. Cả hai thái cực đó đều nguy hiểm cho sống đan tu nếu muốn nó có ý nghĩa.
Tiếp đến, dừng lại nơi “hiện tại”. Nghĩa là chú tâm đến những gì đang sống và hoạt động. “Đây là thời ân sủng, đây là ngày cứu độ”. “Ngày hôm nay” không chỉ là khác với hôm qua hay ngày mai, nhưng lại là chính “kairos”: thời cứu độ. Chúa Giêsu đã tuyên bố hôm nay ứng nghiệm lời đã được viết ngày xưa. Dừng lại với ngày hôm nay là sống ý thức và ý thức lại điều bản thân đang thực hiện hay suy nghĩ. Về phương diện suy tư, diễn ngữ “cầm giữ trí lòng” – mà Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận sử dụng – là điều hết sức quan trọng trong tiến trình “hiện tại hóa” tâm hồn mình. Các linh phụ đan tu, đặc biệt các linh phụ sa mạc rất hiểu rõ tình trạng của tâm trí con người. Nó giống như một bãi chiến trường ngổn ngang hay như một guồng kéo nước luôn xoay chuyển dưới sức tác động của dòng nước chuyển động không ngừng. Vấn đề “lo ra”, “chia trí” mà chúng ta thường gặp trong cuộc sống, đó là hiện tượng của một tâm trí không sống lúc này và nơi đây “tâm bất tại”. Như vậy, điều quan trọng không những là dừng lại mà dừng lại để chú tâm vào đối tượng hiện tại. Công cuộc canh tân không thể thực hiện được và không đạt kết quả, nếu chúng ta vẫn cứ “bắt bóng”: chạy theo những “ảo ảnh” do mình vẽ ra, mà không dừng lại nơi chính thực tại.
Cuối cùng, dừng lại để “nạp năng lượng”. Nếu như những bộ máy cơ học cần phải được bảo trì, sửa chữa, và các động vật cần phải có thời gian nghỉ ngơi, thì huống chi là con người. Đơn điệu của đời sống đan tu cũng có thể gây ra trạng thái “ngái ngủ” như chúng ta nói trên, và vì ngái ngủ nên không đủ tỉnh thức để lắng nghe. Do đó cần phải dừng lại để lắng nghe “Chúa Thánh Thần nói gì”. Chính Chúa Thánh Thần sẽ tỏ lộ để nhìn thấy rõ hiện trạng của mỗi người trong chúng ta. Chúa Giêsu đã nói trong Tin Mừng theo thánh Gioan: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn đưa anh em đến sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13). Trong sự thật toàn vẹn đó, có sự thật về bản thân mỗi người chúng ta. Việc trở về nội tâm – căn nhà nội tâm – để nghe được tiếng Chúa Thánh Thần là hết sức cần thiết và khẩn thiết. Tiếng nói của Chúa Thánh Thần chính là tiếng nói của Chúa Giêsu, của Lời Chúa, “Người không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại” (Ga 16,13). Và cũng chính Chúa Thánh Thần đến để minh chứng về sự sai lầm, về sự công chính và tội lỗi (x. Ga 16,8-9). Nghĩa là đặt để con người đối diện với những câu hỏi căn bản, những vấn đề thật sự và nghiêm trọng.
Như vậy, dừng lại để nạp năng lượng nghĩa là tự vấn xem tình trạng bản thân như thế nào, để rồi đến với Nguồn Suối là chính Chúa Kitô. Không thể có sự canh tân và lớn mạnh – qua việc nạp năng lượng – nếu không có sự “tự vấn lương tâm”. Tự vấn để xét xem sức mạnh của tôi thế nào, đâu là nguồn suối của những sức lực đó và tình trạng sức khỏe tâm linh của tôi ra sao. Dừng lại để lắng nghe Chúa Thánh Thần nói gì với chúng ta về những điều đó. Có một nguy cơ khác, đó là tự ru ngủ mình coi như không có gì nguy hiểm, là chạy với tình trạng mê ngủ dựa trên một sự an toàn giả tạo. Chính tác giả sách Khải huyền đã cảnh giác: “Hãy viết cho thiên thần của Hội Thánh Laodikia: Đây là lời của Đấng Amen, là chứng nhân trung thành và chân thật, là Khởi Nguyên của mọi loài Thiên Chúa tạo dựng. Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta. Ngươi nói: “Tôi giàu có, tôi đã làm giàu, tôi chẳng thiếu thốn chi”; nhưng ngươi không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần truồng. Vì thế, Ta khuyên ngươi đến với Ta mà mua vàng đã thử để làm giàu, mua áo trắng để mặc khiến ngươi khỏi xấu hổ vì để lộ thân thể trần truồng, mua thuốc để xức mắt cho ngươi nhìn thấy được.” (Kh 3,14-18).
Dừng lại để nhìn thấy con đường đã đi qua và tái định hướng bước đường trước mắt luôn là những thời điểm thật quan trọng trong tiến trình canh tân.

3. MỘT TRÁI TIM TINH TUYỀN

Công cuộc canh tân mỗi ngày không phải chỉ là việc “trùng tu” hay “xếp đặt cho ngay ngắn” những thứ bên ngoài như những thái độ và cử chỉ, lời nói, ngay cả chương trình sống. Những điều đó đương nhiên cần thiết phải được đổi mới. Nhưng thiết tưởng, điều quan trọng nhất lại thuộc thế giới nội tâm. Một khi đời sống nội tâm được canh tân, thì những điều bên ngoài sẽ được đổi mới như là hoa trái tất yếu.
Để có thể đạt đến trái tim tinh tuyền hay đúng hơn, để đón nhận một trái tim mới, chúng ta cần phải thực hiện một số giai đoạn căn bản. Nhưng trước tiên chúng ta cần thẩm định tầm quan trọng của sự sẵn sàng hay sự sắp sẵn của con tim trước tác động của Thiên Chúa.
Thật vậy, con tim của mỗi người trong chúng ta, là nơi bị tác động bởi những thần trí khác nhau. Đã hơn một lần, Chúa Giêsu khiển trách các môn đệ là để cho con tim bị tác động và chịu ảnh hưởng của những tinh thần hay thần trí không phải của Ngài. Chúa đã trách ông Phêrô không có những tư tưởng của Chúa khi ông can ngăn Ngài đi trên con đường tự hiến qua cái chết trên thập giá, hay khi Chúa khiển trách hai ông Giacôbê và Gioan, khi muốn khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt những người dân thành không cho Chúa và các môn đệ đi qua để lên Giêrusalem. Điều này cho chúng ta nhận thấy rằng những tâm tình – những chuyển động của con tim – là nguồn phát sinh ra những lời nói và cử chỉ, hành động.
Cho nên, điều đầu tiên là chúng ta phải chú ý đến những chuyển động trong tâm hồn, trong con tim. Giáo phụ Origène đã nhìn thấy con tim là trung tâm của cuộc chiến thiêng liêng, nơi diễn ra những tranh chấp giữa các thần trí của Thiên Chúa và thần trí của ma quỉ, mà cuộc chiến giữa dân Israel và dân Amalếch là hình ảnh tiêu biểu (Xh 17,8-15). Sau đó, các linh phụ như Evagre và Jean Casien đã triển khai từ kinh nghiệm sa mạc để áp dụng vào cuộc sống của ẩn sĩ hay đan sĩ cộng tu. Các ngài nhấn mạnh đến việc canh giữ tâm hồn, canh giữ trí lòng hay canh chừng các tư tưởng. Tất cả những điều đó diễn tả tầm quan trọng của việc quan sát và thẩm định thái độ nội tâm của con tim và những chuyển động của con tim. Vì thế, không thể có cuộc canh tân đích thực nếu không bắt đầu bằng việc trở về với trái tim của mình, như chúng ta vừa nói ở trên.
Tiếp đến, chúng ta cần phải khẳng định tầm quan trọng của sự tinh tuyền trong con tim. Kinh Thánh đã nói đến con tim tinh tuyền như là điều kiện để nhìn thấy Thiên Chúa, để đạt đến ơn cứu độ và phát sinh hoa trái từ những việc làm cụ thể.
Lạy Chúa, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy” (Tv 50,12).
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8).
Ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người? Đó là kẻ tay sạch lòng thanh” (Tv 23,4).
Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến phát xuất từ tâm hồn trong sạch, lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình” (1Tm 1,5).
Anh hãy tránh xa các đam mê của tuổi trẻ, cố gắng trở nên người công chính, giàu lòng tin và lòng mến, ăn ở thuận hòa cùng những ai kêu cầu Chúa với tấm lòng trong sạch” (2Tm 2,22).
Nhưng để trái tim đạt đến sự tinh tuyền, chúng ta phải thiết tha cầu nguyện. Lời cầu nguyện của vua Đavid trong thánh vịnh 50 là mẫu gương cho những ai khao khát con tim tinh tuyền. Thật vậy, vua Đavid đã kinh nghiệm thế nào là gánh nặng của tội lỗi, khi con người hạ sinh trong tội, qua cuộc sống và dòng thời gian, tội chồng chất trên tội. Chính trong tâm trạng khổ đau vì tội lỗi và nhất là lòng thống hối khiêm cung với con tim tan nát, ông đã thiết tha cầu xin Thiên Chúa ban cho ông sự tinh tuyền của con tim.
“Lạy Chúa”, một tiếng kêu lên, một lời thân thưa, với tất cả sự trịnh trọng. Ông ý thức sâu xa sự nghiêm trọng của hoàn cảnh. Chúng ta chỉ có thể canh tân thật sự từ trong sâu thẳm lòng chúng ta, nếu chúng ta có một mối tương giao thân tình với Thiên Chúa, tin tưởng vào quyền năng và tình yêu của Ngài.
“Xin tạo cho con”: động từ tạo dựng nhắc nhớ cho chúng ta việc Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ hữu hình và vô hình. Chúa Kitô là khuôn mẫu để mọi sự được hiện hữu. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, cái mới đã có đây rồi” (2Cr 5,17). Và trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô, ngài lại nhấn mạnh: “Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Giêsu Kitô, để sống và thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2,10). Như vậy, con tim tinh tuyền là hoa trái hay là kết quả ân sủng của Thiên Chúa trong chúng ta. Việc canh tân phải bắt nguồn từ chính nguồn sống viên mãn của Thiên Chúa được hiện thực trong Chúa Kitô. Nhưng chúng ta cũng kinh nghiệm là trái tim của chúng ta rất dễ bị tổn thương vì tội lỗi, và khó thanh luyện. Vì thế, việc cầu xin Thiên Chúa tạo dựng hay tái tạo trái tim chúng ta là điều cần thiết. Không thể có con tim tinh tuyền để mọi sự bên ngoài được canh tân, nếu không nhờ ơn thánh Chúa. Và ơn thánh Chúa chẳng tác động nếu chúng ta không khao khát được diễn tả bằng việc thiết tha cầu xin.
“Cho con”: cho con hay trong con. Lời cầu xin canh tân trước hết phải nhắm đến mình, phải bắt đầu từ chính mình. Có nhiều khi chúng ta cầu nguyện cho ai đó được ơn hoán cải, ơn trở lại, ơn sống tinh tuyền, nhưng chúng ta lại quên mất chính mình, như thể việc đó không liên quan đến mình và bản thân cũng chẳng cần đến những ơn phúc đó. Thánh Phaolô đã xác tín một cách sâu xa: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi” (1Tm 1,15). Như thế, cầu xin Thiên Chúa tạo dựng trong mình, cho mình, là một ý thức cần thiết để khởi đầu công cuộc canh tân đúng hướng. Kinh nhiệm cho thấy, chúng ta thường hướng “mũi dùi” vào người khác, với những trách móc và lên án nhưng lại quên mất chính mình! Và vì thế, chúng ta vẫn cứ luẩn quẩn, không tiến lên, không vươn cao được.
“Một trái tim trong sạch”. Đây là trọng tâm của lời cầu xin. Một con tim tinh tuyền, trong suốt như pha lê, nghĩa là không có gì ngăn cản tác động thánh hóa của Thiên Chúa. Ở đây không chỉ có nghĩa luân lý, nhưng căn bản hơn, đó chính là sự tinh tuyền bản thể. Con tim không chỉ là nơi phát sinh những tình cảm, nhưng đó là nơi cư ngụ của lương tâm, nơi sâu thẳm mà chỉ có Thiên Chúa dò thấu, và là nơi của những tương giao sâu xa nhất. Con tim được tinh tuyền, cuộc sống sẽ tinh tuyền và những cử chỉ sẽ tinh tuyền, nghĩa là trong sáng.
Và lời cầu nguyện tiếp theo là sự canh tân: canh tân một tinh thần, “metanoia”. Một con tim tinh tuyền bao giờ cũng đi đôi với tinh thần được canh tân và cuộc sống được đổi mới.
Trước lời cầu xin tha thiết có được một trái tim tinh tuyền, nên chúng ta cầu nguyện cho chính mình (một ơn phúc tuyệt vời), mà Thiên Chúa lại chẳng trao ban cho chúng ta hay sao? Chúng ta hãy đọc lại Lời Thiên Chúa nói qua ngôn sứ Êdêkien và hãy đọc chậm rãi để từng lời của Thiên Chúa thấm nhập vào tâm hồn.
“Rồi Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành.” (Ed 36,25-27).
Một trái tim mới! Một thần trí mới! Một trái tim bằng thịt biết yêu thương! Một thần trí của Thiên Chúa! Được đổi mới từ bên trong (metanoia) và cuộc sống được canh tân, để từ đây thuộc trọn về Chúa: “Các ngươi là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi” (Ed 36,28). Một niềm vui dạt dào trong con tim được đổi mới.

4. TÌM LẠI NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ

Chúng ta trở lại với lời cầu nguyện tuyệt vời của vua Đavíd trong thánh vịnh 50. Sau khi đã khẩn xin Chúa “tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy”, vua Đavíd liền cầu xin: “Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ” (c.14a). Niềm vui ơn cứu độ thuộc về hai phía: Thiên Chúa và con người.
Về phía Thiên Chúa, chúng ta như nhìn thấy niềm vui trên khuôn mặt Thiên Chúa và cả những ai trên thiên đàng: “Trên trời ai nấy sẽ vui mừng vì một người ăn năn sám hối, hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,7).
Phía con người, trái tim dạt dào niềm vui như trường hợp viên thái giám được ông Philípphê giải thích Kinh Thánh liên quan đến Tin Mừng Đức Giêsu và chịu phép rửa trong niềm tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Viên thái giám “tiếp tục cuộc hành trình, lòng đầy hoan hỉ” (Cv 8,39).
Những ai sống lâu năm trong cuộc sống tu trì, đặc biệt đời đan tu, chắc chắn đã kinh nghiệm sự chán chường, bị “con quỉ ban trưa” ám. Những năng lực, những nhiệt tâm của mối tình đầu với Thiên Chúa, những hăng say trong cộng đoàn với nhịp sống thường ngày, nay bỗng nhiên như tan biến hết và nhụt chí! Chỉ còn lại sự chán chường và mệt mỏi! Và, như chúng ta nói trên kia, cuộc sống sẽ kéo lê và sống vật vờ như những bóng ma trong đan viện. Vì thế, để cuộc canh tân mang tính lâu dài và sâu xa, cần phải có niềm vui, “niềm vui ơn cứu độ”, niềm vui của chính Chúa Giê-su (Ga 15,11). Những niềm vui của trần gian và mang tính trần thế không vững bền được. Trái lại, niềm vui của Chúa, một khi đã lãnh nhận với con tim tinh tuyền, sẽ nên trọn vẹn, sung mãn. Niềm vui của Chúa cũng sẽ là niềm vui của mỗi chúng ta và niềm vui đó (niềm vui ơn cứu độ) sẽ lại ban cho chúng ta niềm vui sống với nhịp điệu hằng ngày, với những gì bình thường nhất, dung dị nhất, nhưng lại vĩ đại nhất, vì có Chúa trong đó.
Niềm vui ơn cứu độ – niềm vui của Chúa, niềm vui sống – được xây dựng trên một số yếu tố:
Trước hết, đó là sự khám phá hay tái khám phá ra tình yêu Thiên Chúa: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1Ga 3,1). Sự canh tân mà chúng ta thực hiện, chính là làm mới lại Tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa luôn mới, nhưng phía chúng ta, chúng ta đã làm cho Tình Yêu đó nên cũ kỹ. Khi đáp lại mối tình của Thiên Chúa bằng tình yêu hiếu thảo đối với Cha Trên Trời, cuộc sống hằng ngày với những sinh hoạt, những diễn tiến công việc, chúng ta sẽ tìm thấy “hương vị ngọt ngào của tình yêu”. Bất cứ điều gì sẽ chỉ “có hồn” khi nó “có tình yêu”.
Tiếp đến, đó là cảm nghiệm lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa: “Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay, người Chúa không hạch tội và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 31,1-2). Và được hòa giải với Thiên Chúa: “Nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hòa giải với Người, phương chi bây giờ chúng ta đã được hòa giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy” (Rm 5,10). Cuộc canh tân thật sự là một cuộc giải thoát và mang lại niềm vui tròn đầy vì không còn bị trì kéo “bởi những gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình” (Dt 12,1). Niềm vui được Thiên Chúa thứ tha luôn là động lực cho niềm vui sống hằng ngày.
Cuối cùng là được vinh dự ghi tên mình trong sách Hằng sống và niềm tin vững bền được hưởng ơn cứu độ: “Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời” (Lc 10,20). Người ta chỉ cảm nghiệm được sự đổi mới có giá trị khi nó mang lại thành quả lớn lao, xứng đáng với những hy sinh đã thực hiện.
Sở dĩ cuộc sống hằng ngày của chúng ta trì trệ, nặng nề và mất hương vị, vì chúng ta cứ dán mắt vào những thực tại chóng qua để tình cảm buồn vui của chúng ta cũng cũng theo nhịp đổi thay của chúng. Công cuộc canh tân phải đưa chúng ta lên một “tầm cao”, “mắt hướng về Chúa Giêsu” (Dt 12,2), “tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3,1). Chính ánh sáng trên cao này dọi chiếu những thực tại hằng ngày mà chúng ta đang thực hiện dưới đất và đưa chúng tới tầm mức viên mãn.

KẾT LUẬN

“Từ bắt đầu này đến bắt đầu kia”: Đây không chỉ là một sự chuyển động của thời gian như giây phút này tiếp giây phút kia; cũng không chỉ là những xê dịch trong không gian như bước này tiếp đến bước nọ. Nhưng đây phải là một “linh đạo” cho chúng ta, những người muốn thực hiện một cuộc canh tân cuộc sống hằng ngày. Thật vậy, thời gian vẫn qua đi và không gian vẫn chuyển động, nhưng con người có khởi hành trong không gian và thời gian với một “con tim” và cuộc sống mới không?
Mỗi ngày được bắt đầu với những khởi điểm khác nhau cho những con người tổ chức đời mình một cách khác biệt. Có người lấy đêm làm ngày, có người lấy ngày làm đêm. Có người thức dậy cùng với tiếng chim hót đón bình minh. Cũng có người bắt đầu một ngày sống khi mặt trời đúng ngọ. Khởi điểm khác nhau theo thời gian và cả nhịp sống, nhưng đó vẫn là sự bắt đầu, là một khởi hành mới cho một ngày mới. Có những người với công việc mới, cuộc gặp gỡ mới, những khuôn mặt mới; nhưng cũng có những người đi theo một lộ trình sắp sẵn, với những sinh hoạt “mỗi ngày như mọi ngày”, gặp gỡ những con người “sống chết có nhau” cả cuộc đời. Điều quan trọng vẫn là nội tâm con người khi sử dụng nội lực để làm mới mỗi ngày sống mà khởi điểm là duy nhất.
Trong truyền thống đan tu, ngày sống bắt đầu với tiếng chuông báo thức và ngay sau đó là lời mời gọi “chúng ta hãy chúc tụng Chúa” và lời đáp “tạ ơn Chúa”. Một nghi thức cho một ngày mới. Nghi thức này xem ra làm phiền lòng những ai đang “ngái ngủ” vì bị gọi dậy khỏi giấc ngủ mê, nhưng lại là một âm vang của điều mà các đan sĩ sống mỗi ngày. “Chúc tụng” và “tạ ơn” phải chăng là nội dung của cuộc đời đan sĩ vui tươi, hạnh phúc phụng thờ và tôn vinh Thiên Chúa, trong cộng đoàn, và tạo nên nhịp sống mỗi ngày?
Mỗi ngày sống bắt đầu, để vui sống, chứ không phải để sống ủ rũ hay lê chân bước không hồn. Hãy canh tân ngay chính khởi điểm của một ngày mới, nếu muốn cùng tận cũng được đổi mới. Như máy vi tính cần phải được khởi động lại để một chương trình hoạt động tốt sau khi được cài đặt hay để loại trừ những trục trặc, nhưng thứ vi-rút tác hại. Cuộc đời đan sĩ cũng cần được tái khởi động, không phải một cách “tự động” – automatic – mà thôi, nhưng với tất cả ý thức. Nhưng đâu là khởi điểm mỗi ngày và tận điểm của mỗi ngày sống và cả cuộc đời của chúng ta? Tác giả thư Do-thái đã xác định và mời gọi chúng ta hướng nhìn Khởi Điểm và Tận Điểm đó: “Hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,1-2). Như vậy, việc canh tân cuộc sống hằng ngày không gì khác hơn là “tái khởi hành” từ Chúa Kitô.

 

 

 

 

 

 

 

NHỮNG THÁCH ĐỐ

LỜI KHẤN CANH TÂN

TRONG XÃ HỘI NGÀY NAY  

Mai Thi, CSĐD

 

Trong điệp khúc của bài hát “Xin Giữ Con”, nhạc sỹ Mi Trầm có viết: “Nguyện xin Chúa giúp con bắt đầu và lại bắt đầu, dù khi thất vọng dù khi mỏi mòn con vẫn cậy trông. Nguyện xin Chúa giúp con bắt đầu và lại bắt đầu, này con chiến thắng, này con chiến thắng tươi sáng hy vọng”. Cùng với Điệp khúc, cả 3 câu phiên khúc, tác giả gởi vào đó tâm tình của lời cầu nguyện tha thiết và niềm xác tín vững vàng dâng lên Thiên Chúa.
Ý tưởng bài hát trên đây phần nào giống nội dung lời khấn Canh tân của các đan sĩ: bắt đầu lại tức là làm mới lại, canh tân đời sống. Đan sĩ được biết đến như những Kitô hữu được mời gọi theo sát Đức Kitô hơn, sống các giáo huấn của Tin Mừng qua việc hoán cải và canh tân, cụ thể theo tinh thần và đặc sủng của Đấng sáng lập dòng. Riêng với các nam nữ đan sĩ sống theo tu luật thánh Biển Đức thì khấn Canh tân đòi buộc mỗi ngày đan sĩ phải thay đổi đời sống và tha thiết cầu xin cho được ơn đổi mới đúng như Chúa muốn.
Tâm lý chung, ai cũng thích những điều mới mẻ, muốn có cái gì khác… nhưng rất dễ lệch lạc, quá lố hay ít ra có một sự nhầm lẫn ít nhiều nếu chúng ta không tuân theo nguyên tắc nền tảng nào đó. Lời khấn Canh tân của đan sĩ cũng vậy. Có thể kể ra đây một số quan điểm đi ngược với lời khấn Canh tân, như chủ trương an phận với hiện tại (tốt rồi, chuẩn không cần chỉnh); đồng thời, dường như qua cách sống này biểu hiện thái độ sống tự mãn. Bên cạnh đó, có quan điểm khác cũng đi ngược với tinh thần “nên hoàn thiện” là nhóm người sợ thay đổi, sợ phiền phức hoặc chỉ canh tân khi có điều kiện. Ngoài ra, còn một khuynh hướng nữa là rất thích canh tân nhưng một cách tùy tiện, đi ngoài căn tính và không theo chuẩn mực nào cả. Tất cả những “phong cách” đó đã, đang và sẽ còn tồn tại như những thách đố đời đan tu, nếu các đan sĩ còn muốn theo sát lời khuyên của Tin Mừng và tinh thần của thánh tổ Biển Đức khởi xướng.
Trong bài này, người viết chỉ mạo muội đặt vài vấn đề với mong muốn đơn giản để chúng ta, đặc biệt là các đan sĩ trẻ, có dịp suy nghĩ, quan tâm và điều chỉnh nếu chúng ta đang ở xa tinh thần của lời khấn Canh tân.

1. An phận với mình.

Thái độ khép kín, không sẵn sàng, tự cho là đủ… rõ ràng đi ngược với ý nghĩa và mục đích của lời khấn Canh tân. Một khi đan sĩ đã long trọng khấn không ngừng cải đổi nếp sống, lúc đó họ làm một tác động dâng hiến trọn vẹn và mạnh mẽ trong việc phát triển nhân cách và tinh thần Phúc âm. Những đan sĩ chủ trương “mọi sự đã đủ”, thì ở bất cứ lãnh vực nào họ cũng chỉ muốn sống châm ngôn “vũ như cẩn”; mọi cái đều bất di bất dịch. Cái nguy hiểm cho đời sống thiêng liêng của đan sĩ đó là quen lờn và bằng lòng với nếp sống tà tà của mình, mất ý thức về ơn gọi nên thánh. Đó là lý do đầu tiên khiến mình theo đuổi đời sống dâng hiến. Thường những người lớn tuổi dễ mắc phải sai lầm này; nhưng cũng không loại trừ những người trẻ có suy nghĩ và quan điểm của những cụ già bảo thủ và đôi khi cố thủ. Khi được chất vấn, chúng ta nghe họ phán như đinh đóng cột: “Tôi là vậy, chấp nhận hay không mặc kệ”. Một thách đố cho chúng ta.
Muốn ra khỏi lập trường cố hữu không đáng khuyến khích đó, đòi buộc họ giữ tinh thần cởi mở, ra khỏi mình, dám đối diện với mình… nhờ đó mới sống tích cực lời khấn Canh tân được. Mỗi ngày và mọi ngày đan sĩ được mời gọi không ngừng vươn tới đức ái hoàn hảo và cố gắng khắc phục những chủ trương thiếu tích cực mà họ phải đối mặt trong cuộc sống. Ngoài ra, việc thay đổi ý thức về ơn gọi và những hành vi dấn thân cho lý tưởng đã chọn là điều các vị hữu trách cần quan tâm. Chúng ta trở về với nguyên tắc của Hiến pháp Hội dòng khi đòi buộc cách minh nhiên rằng: “Lời khấn Canh tân buộc đan sĩ mỗi ngày tiến tới” (Hiến Pháp số 105). Thật vậy, chẳng có ông thánh, bà thánh nào tự cho mình đã hoàn hảo mà không cần cố gắng tiến lên nữa.
Cũng như các tu sĩ trong các hội dòng khác, một đan sĩ đích thực là một đan sĩ không bao giờ cho mình đã tới đích của sự hoàn thiện. Có lẽ những người chủ trương “an phận thủ thường” với cuộc sống hiện tại đã quên qui luật đơn giản nhưng vô cùng quan trọng: “Sống là tiến”. Các đan sĩ cũng không được miễn trừ khỏi nguyên tắc bất di bất dịch đó. Một đan sĩ sẽ lỗi lời khấn Canh tân cách nghiêm trọng, một khi quyết định không tiến tới trong bậc trọn lành với tất cả ý thức và tự do dâng hiến. Tự ru ngủ mình chẳng khác chi còn sống nhưng đã chết.

2. Sợ thay đổi.

Cũng chẳng khác những đan sĩ chủ trương “đủ rồi” như vừa trình bày trên đây. Nhóm người chúng ta sẽ bàn đến tiếp sau đây mang một hình thái khác: “Sợ thay đổi”. Họ không sẵn sàng bỏ đi những thói quen cố hữu. Đối với tinh thần lời khấn Canh tân cũng như những chỉ dẫn trong sắc lệnh Canh tân thích nghi dòng tu của Công đồng Vaticanô II đó là đừng sợ thay đổi, cần có máu phiêu lưu bằng lòng can đảm và lòng tin để vượt qua tất cả. Quy luật thanh lọc, chọn lựa trong cuộc sống bao giờ cũng có tính thời sự. Vẫn mãi như vậy, “lời khấn Canh tân không ngừng vươn lên mức hoàn hảo của nhân đức khiêm tốn trong nếp sống đan tu, hầu xây dựng toàn vẹn Nước Thiên Chúa nơi thể xác cũng như tâm hồn”.
Cuộc sống ổn định và tương đối đầy đủ dễ dẫn các đan sĩ trở thành những con người ươn lười, nhu nhược. Một khi đan sĩ thiếu sáng suốt và quyết tâm mạnh sẽ tạo nên những con người có thái độ bạc nhược, sống không lý tưởng, ngại hy sinh…. Khi được hỏi thăm sức khỏe và công tác, những đan sĩ trẻ hay nói đùa “cơm ba bữa, quần áo mặc cả ngày”, “không làm cũng có cơm ăn ấy mà” hay tệ hơn “đọc kinh nhiều có thêm tí da tí thịt nào đâu”… Ngang qua những câu trả lời đó thì không phải chỉ là hài hước, nhưng dường như có cái gì đó không ổn khiến ta suy nghĩ. Phải chăng môi trường thuận lợi hình thành nếp sống “nước chảy bèo trôi”, người ta sống sao tôi sống vậy, sống dựa dẫm, cầu an, thụ động và ích kỷ đã chẳng khởi đi từ việc sợ thay đổi?
Thánh Biển Đức đưa ra lời khấn Canh tân nhằm nhắc nhở các đan sĩ ý thức đời sống đan tu là một cuộc đổi đời không ngừng, một cuộc lột xác liên tục, một cuộc phục sinh từ cõi chết với Chúa Kitô. Lời khấn Canh tân trong qui luật thánh tổ Biển Đức như là bản tóm đại cương tất cả nội dung các lời khấn và những đòi buộc của đời đan tu: Sửa đổi cách ăn nết ở, thay đổi đời sống phù hợp với giáo huấn của Tin Mừng. Khi thiết lập lời khấn Canh tân trong qui luật của mình, thánh Biển Đức buộc các đan sĩ phải hòa hợp đời mình với những nguyên tắc và thói tục của đời đan tu theo cách chỉ dẫn và lệnh truyền của qui luật: Sống một cuộc đời toàn hiến cho Chúa trong đời đan tu.
Nếu ý nghĩa đầu tiên của từ “Conversio” trong tiếng Latinh mang ý nghĩa trở lại thì đối với thánh Biển Đức, hành động từ bỏ thế gian để vào đan viện là hành động trở lại đầu tiên, và người đan sĩ sẽ mãi mãi là người trở lại cho đến khi đạt được mục đích cuối cùng là ơn cứu độ. Trong ý nghĩa này người ta có lý khi ví đời sống đan sĩ là cuộc tử đạo liên lỉ. Quả thật, khấn Canh tân là hứa sửa đổi cách ăn nết ở cho phù hợp với đời sống đan tu: Thực hiện liên tục và không bao giờ đủ. Có lẽ ngay giây phút này các đan sĩ cần noi gương Tiên tri Giêrêmia khiêm tốn cầu nguyện: “Lạy Chúa, giờ đây chúng con quyết tâm trở về với Chúa, bởi vì Chúa là Thiên Chúa và là Cha của chúng con” (Gr 3, 21).

 

3. Canh tân với điều kiện.

Ngoài những người muốn an phận thủ thường hay sợ thay đổi như đã đề cập trên đây, còn một số khác muốn thay đổi nhưng đòi điều kiện.
Quả thực, để biến đổi, đòi hỏi mỗi cá nhân thực hiện việc hoán cải sâu xa. Hoán cải, biến đổi có nghĩa là dám dấn thân, chọn lựa một cuộc sống hoàn toàn khác và tiếp đến là sống trong chân lý nơi môi trường mới mẻ này. Tinh thần lời khấn Canh tân vẫn là “tác động hiến dâng một cách trọn vẹn bản thân, và kiên cường phấn đấu khắc phục những tồn tại tiêu cực để phát triển nhân cách theo tinh thần Tin Mừng”.
Chúa Giêsu đã đòi hỏi các môn đệ “các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời” (Mt 5,48). Mục đích và lý tưởng của đời đan tu là thực hiện nghĩa vụ đó: Theo Chúa Giêsu và bắt chước nếp sống của Người. Đan sĩ cần tinh thần dấn thân triệt để bằng ý chí kiên quyết sống vươn lên không ngừng trong nếp sống đan tu (x. Tu luật 58,73) tránh tình trạng “hữu danh vô thực” với sự dấn thân nửa vời. Cám dỗ này vẫn đang thách thức lời khấn Canh tân của các đan sĩ.
Con người có khuynh hướng tự nhiên muốn tìm sự dễ dãi, an nhàn. Trí tuệ và ý chí thì muốn vươn lên, muốn hoàn thiện nhưng bắt tay vào công việc thì bản năng lên tiếng: “tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt nặng nề”. Đan sĩ rơi vào tình huống phân vân trước khi phải quyết định một chọn lựa dứt khoát. Kinh nghiệm về điều này, thánh tông đồ Phaolô cũng đã thốt lên: “vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Thánh Bênađô đã nói: “Đường nhân đức không đi lên sẽ bị đi xuống”. Chính vì thế các đan sĩ liên tục được mời gọi hướng lên và tiến tới đúng như lời cam kết của mình: gột rửa con người cũ và mặc lấy con người mới trong Đức Kitô (x. Rm 6,6). Dù ở tình trạng nào cũng can đảm chỗi dậy trong tinh thần sám hối và bắt đầu lại đời sống nhờ ơn Chúa cùng với nỗ lực bản thân. Đan sĩ hướng về một tương lai đầy tin tưởng và hy vọng với lòng quyết tâm cải hóa như một tác động liên tục suốt cuộc đời. Về điều này, Huấn thị “Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô” số 1 có đoạn viết: “Người tu sĩ được Chúa Thánh Thần mời gọi hoán cải không ngừng để chiều kích ngôn sứ của ơn gọi mang lấy một sinh lực mới. Thật vậy, khi họ “được mời gọi dâng hiến cuộc đời để phụng sự Nước Thiên Chúa, bằng cách từ bỏ mọi sự và noi gương nếp sống của Chúa Giêsu Kitô sát hơn, họ đảm nhận vai trò cao cả là giáo dục toàn thể Dân Thiên Chúa” (x. Đức Gioan Phaolô II, Sứ điệp gởi phiên họp khoáng đại của Thánh Bộ Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội Tông đồ (21/9/2001): L’Osservatore Romano, 289/2001).
Khởi đi từ “tiếng gọi Thần linh”, và muốn theo bước chân của bạn tình Giêsu, các đan sĩ chấp nhận mất mọi sự ở đời này để trở nên “một hy lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa” (Rm 12, 1). Việc tận hiến đó chỉ có giá trị bao lâu người đan sĩ dám ra khỏi mình, canh tân đời sống, ngõ hầu trở thành con người mới. Nhưng vấn đề đặt ra là Canh tân như thế nào mới là điều đáng nói?

4. Canh Tân mất gốc.

Những người theo khuynh hướng này thường là những người trẻ. Thay vì tái lập lại căn tính dòng tu, họ cổ súy cho việc thay đổi; mặc sức đưa ra những sáng kiến, mất niềm tin và phương hướng sống. Họ thích thay đổi nhưng mọi điều mà họ cho là hay do họ sáng chế thì không thực sự tái sinh trong Đức Kitô, điều mà thánh Phaolô gọi là “trở thành một tạo vật mới” (2Cr 5,17). Tắt một lời, họ sáng tạo nhưng thiếu trung thành.
Tất nhiên, chúng ta cũng đừng bảo thủ, bắt mọi người phải sống y như thủa ban đầu lúc lập dòng. Điều đó chúng ta không mong sẽ làm được và có lẽ cũng hợp với ý muốn của Chúa. Một ví dụ nhỏ có thể làm sáng tỏ vấn đề này: không lẽ vì áp dụng đúng Tu luật mà chúng ta cứ giữ những hình phạt hay những hình thức “vâng lời tối mặt” như thời thánh Biển Đức? Canh tân đúng nghĩa là “lột xác” để tồn tại; nghĩa là làm lại cuộc đời, hướng về tương lai với mục tiêu tinh tuyền. Cái tinh ròng nói ở đây là lột xác trong Chúa Kitô chứ không phải làm theo ý riêng mình.
Công đồng Vaticanô II trong những văn kiện đề cập đến dòng tu đã dùng các kiểu nói khác nhau để chuyển tải cùng một nội dung như: Trở về nguồn, tìm lại căn tính của mình, bảo tồn ý muốn và tinh thần của vị Sáng lập dòng…. Bên cạnh đó, các Nghị phụ của Công đồng cũng tha thiết khuyên và đưa ra khuyến cáo các dòng là phải trung thành với tinh thần của Đấng sáng lập: Chừng nào đi ra ngoài là dòng biến chất và có nguy cơ gặp khủng hoảng.
Đối với những đan sĩ thích thay đổi, đành rằng họ có khả năng sáng tạo, biết nhìn xa trông rộng, không quá lệ thuộc vào người khác nhưng cũng phải xem điều đó có xuất phát từ Thần Khí không? Có những phong trào cấp tiến và khó có thể chấp nhận được trong nếp sống đan tu chiêm niệm. Ví dụ: Việc thúc đẩy tiến trình chịu chức thánh cách thái quá, sẵn sàng bỏ đọc kinh chứ không bỏ giải trí, hoặc vì muốn lôi cuốn người khác theo đạo chấp nhận hòa đồng với nếp sống của người ta như ăn uống, nói năng, hành xử như người thế gian. Những “ý thức hệ” đó nhen nhúm và lan rộng tạo nên những bất đồng, chia rẽ, dẫn đến nhiều thứ rối loạn và vô trật tự trong cộng đoàn. Nhiều người cho rằng luật lệ nhà dòng quá nhiệm nhặt, lối sống trong đan viện không hợp thời…. rồi đưa ra đủ mọi thứ sáng kiến đưa ra để sửa đổi, tăng giảm sao cho phù hợp với sở thích riêng của mình. Hành vi “xé rào”, muốn cải cách toàn diện… chẳng giải quyết được gì chỉ khiến mình mất bình an. Tiêu cực chồng lên tiêu cực, không xây dựng và thăng tiến đời sống được. Lẽ tất nhiên không nên bám chặt lấy quá khứ, cần “gạn đục khơi trong” và tiên vàn canh tân trong Chúa Giêsu Kitô.
Canh tân đúng nghĩa, trước tiên, phải khởi đi từ cá nhân, từng đan sĩ biến đổi đời sống mình theo lời kêu mời của Đức Kitô. Có thế, cộng đoàn mới được tiến triển và lớn mạnh trong Đức Kitô. Điều tiên quyết là: Hãy để Người chạm đến từng ngỏ ngách trong cuộc sống hằng ngày.

Thay Lời Kết:

Bốn khuynh hướng sống nghịch lại Lời khấn Canh tân như đã trình bày trên giúp đan sĩ “xét mình” về cách ăn nết ở mỗi ngày. Bỏ qua những khuynh hướng lệch lạc đó để “vượt qua” bằng việc canh tân đích thực. Canh tân đúng nghĩa không hệ tại ở việc trở về sống lại lịch sử nguyên thủy của dòng như lúc sáng lập, nhưng đúng hơn là xác định lại mình đang ở mức độ nào để cố gắng vươn lên. Sống trong một thời đại và môi trường khác lúc được khai sinh, các đan viện nói chung và từng đan sĩ nói riêng cần thích ứng một số thay đổi nào đó, vì luật cho con người chứ không phải ngược lại. Tuy nhiên, muốn thay đổi tất cả mà thiếu phương hướng và mất gốc cũng là một trong những thách đố khiến ta không sống sung mãn lời khấn Canh tân. Các đan sĩ phải làm sao trở nên “những tạo thành mới” như Thiên Chúa và Giáo hội mong muốn.
Mọi thay đổi trong đời sống chúng ta phải dựa trên nguyên tắc bất di bất dịch là lấy Chúa Giêsu làm kiểu mẫu. Trong Sắc lệnh “Đức Ái Hoàn Hảo” số 2 khi nói về việc canh tân và thích nghi đời tu, có viết: “Các tu sĩ đi theo Đức Kitô như tiêu chuẩn tối hậu của đời tu; trung thành với tinh thần, ý định của Đấng sáng lập; tham dự vào đời sống Giáo hội hôm nay; tìm hiểu và thích nghi vào hoàn cảnh thế giới hiện đại; canh tân đời sống thiêng liêng của mỗi người”.

 

……………………………………………………………

Sách tham khảo:
1- Đời sống Đan tu và lý tưởng Phúc âm, Lm Đa-Minh Trần Minh Công, 1996.
2- Đời sống thánh hiến, An-rê Đỗ Xuân Quế OP, 2004.
3- Đời thánh hiến và lời khấn dòng, Ban huấn luyện Hội dòng Xitô Thánh gia, 1995.

 

 

 

 

 

 

 

 

“SỐNG NGHÈO”

CON ĐƯỜNG CANH TÂN GIÁO HỘI

 

Vạn Bích Tâm

 Khi bước đi giữa những thực tại trần gian, chúng ta thấy có những người đặt múc đích đời mình nơi của cải vật chất và xem đó như là cứu cánh. Có những người tự tôn coi mình là cái rốn của vũ trụ. Hoặc có những người khác chọn Thiên Chúa như cùng đích cuộc đời.
Việc định hướng đó rất quan trọng, vì nó sẽ kéo theo nhiều hệ lụy trong cách sống. Định hướng sai lầm sẽ dẫn đến những chọn lựa không đúng, họ có thể lấy cái tôi để tìm khoái lạc, sở hữu của cải, ham hố địa vị và thi thố quyền lực. Trái lại, định hướng đúng là họa lại hình ảnh Đức Kitô, một Đức Kitô khó nghèo và khiêm hạ. Cuộc đời của chúng ta sẽ mãi đổi mới theo khuôn mẫu đó và có khả năng canh tân cả những gì bên ngoài chúng ta.
Nhưng việc định hướng theo khuôn mẫu “Đức Kitô nghèo” có thật sự hấp dẫn chăng?
Ngày nay, hầu như mọi người đang đổ xô đi tìm tiến tài, danh vọng để cuộc sống trở nên thoải mái, càng nhiều hưởng thụ càng tốt. Vậy, nếu chúng ta đề nghị “con đường nghèo” như một lộ trình canh tân, có đi ngược đường tiến của xã hội không? Có phản lại văn minh, phát triển không?
Trong bài viết này, xin được chia sẻ một vài suy tư vụn vặt, với ước mong cùng họa lại tiếng mời gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người đã làm vang vọng ước mong “một Giáo Hội nghèo và cho người nghèo”. Phải chăng danh hiệu “Phanxicô” đã phản ảnh một phần nào mong muốn này? Thiết tưởng đây không phải việc chạy theo “mốt”, thời thượng, nhưng vấn đề đặt ra thật căn bản cho chứng từ đáng tin của Giáo Hội. Vì thế, xin mạn phép đặt ra một số câu hỏi, trước hết cho chính bản thân: Tại sao lại chọn sống nghèo? Đâu là mẫu gương sống nghèo? Giáo Hội mời gọi đan sĩ hiện thực sống nghèo như thế nào? Và làm sao hiện thực lời mời gọi sống nghèo để góp phần vào việc canh tân Giáo Hội?

1. CHỌN SỐNG NGHÈO

Ngay từ lúc sáng tạo, Thiên Chúa đã dẫn con người vào trong trật tự của một thế giới quy chiếu vào Thiên Chúa, như chuẩn mực của mọi sinh hoạt tự nhiên và siêu nhiên, để họ hưởng nếm sự hài hòa và hạnh phúc nguyên thủy. Tác giả sách Sáng Thế diễn tả Adam và Evà hằng ngày đi dạo trong vườn địa đàng, vui tươi chuyện trò thân tình với Thiên Chúa, đó là một niềm hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy đã bị phá vỡ bởi sự sa ngã, bất tuân của Nguyên tổ do ma quỷ cám dỗ. Nguyên tổ bị khai trừ khỏi địa đàng, đó là dấu chỉ của sự thất bại. Vì ghen tỵ, Cain đã giết Abel em ruột mình dẫn đến huynh đệ tương tàn. Vì muốn lấy mình làm trung tâm, con người đã xây dựng tháp Babel để ghi nhớ kỳ công của chính tay mình làm ra. Hậu quả là không còn hiểu nhau và bị phân tán.
Nhưng phải chăng Thiên Chúa thất bại trước những tham vọng và thảm trạng đổ vỡ của nhân loại? Hẳn không, Thiên Chúa là một Thiên Chúa yêu thương, Ngài không bao giờ muốn con người kéo lê cuộc sống trong sự chia rẽ, bất an vô tận, nên đã sai Con Một chí ái đến trần gian, chia sẻ cuộc sống với con người, “chịu mọi thử thách về mọi phương diện giống như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Con Thiên Chúa đã nhập thể, mặc lấy thân nô lệ, trở nên người trần thế và thông chia kiếp nghèo cùng nhân thế: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Hơn thế nữa, Ngài chịu chết chuộc tội cho nhân loại, để giao hòa con người với Thiên Chúa và đem lại cho con người sự bình an. Chính Đức Giêsu đã chọn con đường nghèo để diễn tả khuôn mặt của một Thiên Chúa yêu thương, đặc biệt yêu thương những con người nghèo khổ. Ngài đã chọn các môn đệ và chia sẻ cuộc sống với họ, dạy họ sống nghèo để họ cùng những ai đón nhận Tin Mừng, được nghiệm thấy niềm hạnh phúc của con đường “nghèo” (x. Mt 5,3; Lc 6,20).
Bước theo con đường Đức Giêsu đã đi, Giáo Hội trải qua bao thế hệ, đã có những con người thành tâm thiện chí tiếp tục sống trọn sự nghèo khó với thao thức canh tân Giáo Hội, như thánh Phanxicô Assisi. Vậy chúng ta hãy noi gương cuộc sống khó nghèo của thánh Phanxicô Assisi qua việc canh tân Giáo Hội bằng cách sống nghèo.
“Phanxicô, con hãy đi và sửa chữa nhà thờ của Cha bị hư hại”. Đó là tiếng Chúa từ Thánh giá nói với thánh nhân ba lần. Lời này chứa đựng một mời gọi sâu xa và có tầm mức lớn hơn. Phanxicô lập tức tu sửa nhà thờ thánh Đamianô, nhưng tình trạng suy sụp của thánh đường lại biểu thị tình trạng thê thảm đáng âu lo của chính Giáo Hội thời ấy, khi đức tin hời hợt không có khả năng đào tạo và biến đổi cuộc sống con người; hàng giáo sĩ ít hăng say, lòng nhiệt thành sút giảm, nguội lạnh. Tình trạng đời sống người Kitô hữu trở nên trống rỗng từ bên trong, kéo theo sự rạn nứt của sự hiệp nhất trong lòng Giáo Hội với việc các phong trào lạc giáo nảy sinh. Tuy nhiên, trong Giáo Hội đổ nát ấy, “Đấng chịu đóng đinh” trên Thánh Giá vẫn ở trung tâm và lên tiếng mời gọi canh tân Giáo Hội của Ngài bằng một đức tin triệt để và tình yêu nồng cháy đối với Thiên Chúa và Giáo Hội.
Vậy con đường mà thánh Phanxicô đã chọn lựa để góp phần canh tân Giáo Hội thời bấy giờ là con đường nào? Đó là con đường “sống nghèo”. Nhưng tại sao thánh Phanxicô lại muốn trở nên nghèo hèn? Câu trả lời duy nhất: thánh nhân muốn nên giống Ðức Kitô. Chính vì thế, thánh nhân đã chọn con đường sống nghèo và khiêm tốn, để diễn tả sự hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân từ của Thiên Chúa. Cuộc sống nghèo khó của thánh nhân là một dấu chỉ cho thấy những của cải vật chất đời này không làm cho con người thỏa mãn và hạnh phúc. Còn niềm vui đích thực thì xuất phát từ lòng yêu mến Thiên Chúa và mô phỏng đời sống mình theo gương Đức Giêsu. Đức thánh cha Phanxicô đã khẳng định: thánh Phanxicô diễn tả một Chúa Kitô-khác. Người thật là hình ảnh sống động của Chúa Kitô. Người cũng được gọi là “em của Đức Giêsu”. Thật thế, lý tưởng mà thánh nhân hằng ấp ủ là nên giống Chúa Giêsu; từ đó phát sinh lòng khao khát chiêm ngưỡng Chúa Kitô của Phúc âm, yêu mến Chúa mạnh mẽ và bắt chước các nhân đức của Chúa. Thánh nhân đã sống nghèo trong nội tâm và diễn tả ra bên ngoài, ngài muốn trao lại điều đó cho Giáo Hội, vì là một giá trị thật đặc biệt.
Quả thật, đời sống thánh thiện sâu xa và tinh thần nghèo khó tận căn của Thánh Phanxicô Assisi đã ảnh hưởng sâu đậm trong lòng người, đã cuốn hút các tâm hồn hướng thiện và biết quay trở về với Chúa. Qua đó đã góp phần xây dựng, canh tân Giáo Hội và mang lại cho xã hội một bầu không khí hài hoà và huynh đệ hơn. Chính nhà độc tài Stalin đã phải thú nhận: “Thế giới này chỉ cần có mười người như thánh Phanxicô Assisi, thì đã đủ để thay đổi được bộ mặt của mình”.

 

2. CHỌN SỐNG NGHÈO NHƯ CHÚA GIÊSU

Để khám phá lại tinh thần của việc sống nghèo, chúng ta cần trở về nguồn Kinh Thánh để kín múc nơi đó giá trị đích thực của sự khó nghèo nơi chính Thiên Chúa và nhất là nơi cuộc sống của Đức Giêsu Kitô, Đấng mà những người sống đời thánh hiến ước mong bước theo thật sát. Các bản văn Kinh Thánh Cựu Ước cho thấy Thiên Chúa là Đấng chọn lựa người nghèo, là Thiên Chúa của người nghèo. Ngài đã chọn một dân tộc nhỏ bé, nghèo hèn để làm dân riêng và Ngài luôn yêu thương, dìu dắt và che chở họ khỏi những tấn công của những thế lực mạnh mẽ, giầu có hơn, và nhất là được nhận biết những mạc khải cao siêu của Thiên Chúa trong suốt hành trình lịch sử của họ (x. Dnl 4,32-38). Sự tuyển chọn người nghèo của Thiên Chúa là một mầu nhiệm luôn gây ngạc nhiên cho mọi người thời bấy giờ và cho tất cả chúng ta, những người sống trong thời đại hôm nay.
Mầu nhiệm này lại càng gây ngỡ ngàng hơn khi chính Thiên Chúa siêu việt và đầy uy nghi ấy đã hạ mình xuống trở thành Hài Nhi Giêsu, nhỏ bé, khó nghèo, không một mái nhà để nương thân. Qua Mầu Nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa đã đến với con người và sống giữa những người nghèo để đem ơn cứu độ cho muôn dân.
Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Làm Người và là Đấng Emmanuel, đã chọn cho mình một cách sống nghèo trong khi thi hành sứ mạng: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20). Chính Đức Giêsu là mẫu gương của việc sống nghèo khó. Ngài không lấy cái nghèo như là cùng đích của đời sống, nhưng chiều sâu khó nghèo của Đức Giêsu được tỏ bày trong việc Ngài đón nhận mọi sự từ Chúa Cha và dâng trọn vẹn cho Chúa Cha tất cả những gì thuộc về Ngài [1] (x. Ga 17,7.10). Đó là sự nghèo khó để lệ thuộc hoàn toàn vào Cha, để chỉ một mình Cha là tài sản duy nhất của đời Ngài. Đức Giêsu còn sống nghèo để chăm sóc người nghèo. Ngài khẳng định: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” (Lc 4,18). Và sự nghèo khó của Đức Giêsu được thể hiện một cách tột cùng trong cái chết đau thương trên thập giá. Đó là lúc Ngài không còn gì để bám víu và cậy dựa nữa, ngoại trừ Thiên Chúa, Cha của Ngài.

   Vì thế, Chúa Giêsu cũng mời gọi các môn đệ của Ngài sống một nếp sống của giao ước mới là chia sẻ của cải với tha nhân, phục vụ những người nghèo khổ nhất bằng tinh thần xả kỷ, và nhất là từ bỏ mọi của cải mình có để chỉ tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy về bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19,21). Ở đây Đức Giêsu đòi hỏi người thanh niên giàu có phải triệt để thay đổi đời sống bằng cách từ bỏ tất cả, nhưng anh ta không làm được điều đó, anh buồn bã bỏ ra đi “vì anh có nhiều của cải”. Nhân cơ hội này, Chúa đưa ra một nhận định: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19,24). Nhận định trên được khẳng định qua chính lời Ngài nói như là một qui luật minh nhiên: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6,24). Hơn thế nữa, Đức Giêsu còn muốn các môn đệ của Ngài từ bỏ cả những gì thiết thân nhất (là chính bản thân) để có thể trọn vẹn hiến thân cho Thiên Chúa và Nước Trời: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9,23).

   Như vậy, Kinh Thánh cho thấy một gương mẫu tuyệt vời của đức khó nghèo là Đức Giêsu Kitô. Việc Ngài sống nghèo không chỉ là một chọn lựa mang tính cá nhân, như trường hợp những triết gia hay những đạo sĩ của các tôn giáo chọn cho mình lối sống khắc khổ để tìm con đường giải thoát cá nhân. Chúa Giêsu Kitô sống nghèo để con người được nên giầu có, như thánh Phaolô đã khẳng định: “Đấng vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr 8,9).

Đời sống khó nghèo và những lời mời gọi của Đức Giêsu, đã trở thành nguồn cảm hứng cho mọi thế hệ Kitô hữu; nhất là cho những người sống đời thánh hiến chọn lựa đời sống khó nghèo theo Tin Mừng. Ngài luôn hiện diện một cách cụ thể nơi những con người dám đi theo Ngài trên con đường sống nghèo, để cho tha nhân được sống đầy đủ hơn. Hãy nhìn những môn đệ ngày nay của Đức Kitô (và cả những người không mang danh xưng là Kitô hữu), họ đang làm cho những người nghèo được sống có phẩm giá và chết cũng xứng hợp với nhân phẩm. Chúa Giêsu Kitô vẫn hiện diện sống động trong Giáo Hội, một Giáo Hội sống nghèo và cho người nghèo. Phần chúng ta, chúng ta có dám dấn thân vào con đường Chúa Giêsu đã đi không?

 

3.LỜI MỜI GỌI CHỌN SỐNG NGHÈO

   Chúng ta không thể sống nghèo nếu không am hiểu và thấm nhuần các Giáo huấn của Giáo hội, vì đây chính là kim chỉ nam cho đời thánh hiến. Để hướng dẫn và thúc đẩy các tu sĩ sống thánh như lòng Chúa mong ước, Giáo hội đã có các Giáo huấn dành riêng cho bậc sống này. Giữa một thế giới mà con người luôn chạy theo tiền tài, danh vọng và quyền lực, Giáo hội vẫn đề cao và tha thiết mời gọi người tu sĩ can đảm theo sát Đức Kitô nghèo. Điều này được nhấn mạnh trong Sắc lệnh Đức Ái Hoàn Hảo số 13: “Tự nguyện sống khó nghèo để theo Chúa Kitô là dấu chứng cho việc theo Chúa Kitô rất được trọng vọng, nhất là ngày nay.

   Sống nghèo đòi hỏi người tu sĩ phải có sự khiêm tốn thẳm sâu và bỏ mình một cách triệt để, họ chỉ có mối bận tâm lớn nhất là tìm kiếm Nước Trời (là chính Chúa) làm gia nghiệp. Sắc lệnh Đức Ái Hoàn Hảo khẳng định rằng: “Sự khó nghèo trong đời tu dòng không chỉ hạn hẹp trong sự lệ thuộc bề trên khi sử dụng của cải, nhưng là phải nghèo khó trong thực tế và trong tinh thần để chỉ lo thu tích một kho tàng trên trời[2].

Việc sống nghèo được Giáo hội quan niệm như một cách thế để trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Đấng giàu sang đã trở nên nghèo vì chúng ta. Ngài đã sống một cách triệt để mầu nhiệm tự hủy. Vì thế, là những người theo sát Đức Kitô, chúng ta được mời gọi sống chính mầu nhiệm tự hủy của Chúa trong đời sống thánh hiến tu trì. Giáo luật khuyên chúng ta: “Các tu sĩ phải ý thức ngoài một nếp sống nghèo cả về thực chất lẫn tinh thần, cần cù và thanh đạm, không dính bén tài sản thế tục, còn mang kèm theo sự lệ thuộc và hạn chế trong việc xử dụng và định đoạt tài sản, chiếu theo quy tắc của luật riêng của từng Hội Dòng”[3] .
Giáo hội luôn mong ước người tu sĩ phải trở nên chứng tá Tin Mừng và khí cụ tình yêu của Thiên Chúa giữa trần gian, nhất là cho những người nghèo khổ và bất hạnh trong xã hội bằng chính cuộc sống khó nghèo của mình. Điều này được nói đến trong Hiến chế “Ánh Sáng Muôn Dân”:
“Người tu sĩ được mời gọi làm chứng cho Tin Mừng một cách mới mẻ, mạnh mẽ về sự từ bỏ và tiết độ bằng một nếp sống huynh đệ với nét nổi bật là đơn sơ, hiếu khách, cho dù chỉ làm gương soi cho những người dửng dưng với nhu cầu của người lân cận. Chứng tá đó đương nhiên đi cùng với một mối tình dành ưu tiên cho người nghèo, và tỏ ra một cách đặc biệt trong cách chia sẻ điều kiện sống của những người cùng khốn nhất”[4] .

Đức Kitô luôn quan tâm giúp đỡ và yêu thương đặc biệt đối với những ai nghèo khổ bất hạnh. Là môn đệ của Ngài, chúng ta phải noi gương Ngài, để nâng đỡ tinh thần cho những mảnh đời nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội hôm nay. Chúng ta có thể dành cho họ một cái nhìn cảm thông, một nụ cười dịu dàng, thân ái, một trái tim chân thành yêu thương để khơi lên niềm vui và hy vọng khi đối diện và tiếp xúc với họ. Để làm được điều đó, Hiến chế “Vui Mừng Và Hy Vọng” nhắc nhở chúng ta ý thức rằng “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô[5].

Giáo huấn của Giáo hội là cánh cửa mở ra cho chúng ta hướng đi đúng đắn theo sát Đức Kitô. Nếu chúng ta biết ý thức và nỗ lực sống theo, chúng ta có thể trung thành, sống đúng ý nghĩa từng ngày với việc sống nghèo trong đời thánh hiến. Vì thế, việc thấm nhuần và thực thi các Giáo huấn của Giáo hội là việc làm cấp bách, cần thiết đối với mỗi một đan sĩ chúng ta.

 

4.HIỆN THỰC LỜI MỜI GỌI SỐNG NGHÈO

Những suy tư và tìm hiểu về việc sống nghèo chỉ là một mớ kiến thức suông, nếu chúng ta chỉ dừng lại trên lý thuyết mà không đem ra thực hành. Bởi lẽ “Đức tin không hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Vì thế, để đức khó nghèo theo tinh thần Tin Mừng trở nên có giá trị đích thực, đem lại ơn cứu độ cho mọi người, chúng ta phải ý thức và có những hành động cụ thể trong cuộc đời dâng hiến của mình.

Người đan sĩ phải trở nên nghèo thực sự cả trong vật chất lẫn tinh thần, bằng cách không giữ của riêng, không thủ đắc bất cứ cái gì cho riêng mình, không có ý hướng về quyền sở hữu, không làm công tác truyền giáo với ý định được đền đáp nhưng với tinh thần xả kỷ, vô vị lợi. Sự khó nghèo trong ước muốn được biểu lộ qua việc hoàn toàn thanh thoát với của cải[6]. Đức Thánh cha Phanxicô đã khẳng định: “Một khi được giải phóng khỏi vật chất và những gánh nặng của chính trị và đặc quyền, Giáo hội mới dài tay vươn tới thế giới cách hiệu quả và với một đường lối Kitô đích thực, Giáo Hội mới có thể mở rộng cách đích thực ra cho toàn thế giới” [7].
Các nam nữ tu sĩ là những người phải yêu thương anh chị em mình với tất cả những gì họ có. Sống cùng, sống với và sống cho người nghèo là khẩu hiệu của người tu sĩ chính danh. Bình thường, chúng ta dễ có khuynh hướng lệ thuộc vào của cải là những tặng phẩm mà người ta biếu tặng, hoặc các phương tiện hằng ngày của mình và khó thanh thoát với nó, nhất là muốn chiếm hữu như của riêng mình. Thế nhưng, tinh thần Lời khấn Khó nghèo không cho phép chúng ta sống như thế ngược lại phải sống như Đức Kitô: hoàn toàn thanh thoát với của cải vật chất lẫn tinh thần; quảng đại chia sẻ và trao ban tất cả những gì mình có; mở rộng con tim để yêu thương hết mọi người nhưng không giữ lại một ai cho riêng mình.
Bước theo Đức Giêsu trên con đường tận hiến, đan sĩ phải xác tín: Chúa chính là điểm tựa vững chắc của đời mình. Chúng ta không thể tự mình làm được điều gì nếu Chúa không nâng đỡ và giúp sức, đồng thời cũng ý thức rằng “không ai là một hòn đảo”. Nếu con người chỉ biết sống cho riêng mình ắt hẳn họ sẽ cảm thấy cô độc và lẻ loi giữa lòng nhân thế. Nếu chúng ta cũng nghiêng chiều theo chủ nghĩa cá nhân, ngập chìm trong lối sống quy về mình thì thay vì sống chứng tá Tin Mừng lại trở thành phản chứng.
Là đan sĩ, chúng ta phải có bổn phận góp vào việc canh tân Giáo Hội bằng chính chứng tá đời sống tu trì của mình, một cách cụ thể qua lời khấn Khó nghèo như Chúa Kitô nghèo. Sống lời khấn nghèo không chỉ là ước muốn bản thân trở nên hoàn thiện, mà còn tạo ảnh hưởng trên đời sống Giáo hội và xã hội. Làm như vậy, khi chính mình được canh tân bởi con đường sống nghèo, chúng ta mới góp phần đổi mới Giáo Hội và khuôn mặt Giáo Hội nên giống Chúa Giêsu Kitô hơn.

KẾT LUẬN

Con đường theo sát Đức Kitô nghèo khó đòi buộc người đan sĩ phải lội ngược dòng đời. Họ “sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian”, đi giữa dòng đời nhưng không bị dòng đời cuốn hút, sống trong tự do nhưng không để cho những thứ tự do giả tạo thống trị và điều khiển. Họ phải xác định rõ ràng: Chúa chính là chủ cuộc đời họ và họ chỉ là tôi tớ trung thành và rất mực khiêm nhu. Gia nghiệp và cùng đích mà họ luôn khao khát, kiếm tìm và vươn tới Chính là Thiên Chúa và đem mọi người đến với Thiên Chúa [8].

 Qua bao đời nay, Giáo hội đã có rất nhiều người thành tâm, thiện chí bước theo Đức Kitô và sống đức khó nghèo một cách tuyệt vời, đáng ca ngợi. Họ đã đem lại nhiều hoa thơm trái ngọt cho Giáo Hội và xã hội, như Thánh Phanxicô Assisi, Mẹ Têrêsa Calcutta…
Tuy nhiên, chúng ta cũng nhìn nhận rằng không phải người tu sĩ nào cũng sống đúng với tinh thần khó nghèo của Đức Kitô, không phải ai cũng thấm nhuần và tuân giữ một cách trọn vẹn các Giáo huấn của Giáo hội, Hiến chương và luật Dòng. Đó là một nhức nhối lớn của một thế giới đang đề cao tiền tài, danh vọng. Chủ nghĩa hưởng thụ và trào lưu tục hóa đã len lỏi vào các tu viện và làm băng hoại những người theo Chúa. Tiền bạc và giầu sang luôn mang trong mình những hấp lực!

 


 

 [1] X. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Tông huấn đời sống thánh hiến, số 16 & 22.

 [2] Ibid.

 [3] Giáo Luật,  1983,  điều 600

 [4] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế  LumenGentium,1964, số 90 .

 [5]CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế  Gaudium et Spes, số 1.

 [6] NỘI SAN LIÊN TU SĨ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, Tu Sĩ Phục Vụ Người Nghèo, chia sẻ số 35/8/2002,  tr.  80.

 [7] ĐỨC GIÁO HOÀNG FRANCIS, Andrea Gagliarducci, Là  Kitô Hữu. Thách Đố Của Giáo Hội Theo Đức Giáo Hoàng Francis, 08/08/2013,  http://saobiennhatrang.net/?p=536.

 [8]THÂN NHO, Chia sẻ 4: Đức Kitô Khó Nghèo, ngày 28/8/1013

thannho.phuyencatholic.net/…files/…/CHIA%20SE%204.htm‎

 

 

 

 

 

 

 

BÌNH AN ĐÍCH THỰC

 

CĐ Phước Hải

Hằng năm, mỗi dịp Giáng Sinh về, người người nô nức viết những cánh thiệp chúc nhau bình an, bình an của “Hoàng Tử Hòa Bình”. Bình an đó đã, đang và sẽ ở với con người, nếu con người thực sự có “thiện tâm”. Tuy nhiên, con người không phải lúc nào cũng nắm giữ được sự bình an mà mình mong muốn. Phải chăng với một xã hội đầy bất ổn và xô bồ như ngày hôm lại không có sự bình an sao?
Khát vọng sâu xa nhất của con người là được sống bình an. Thế mà con người luôn bị đẩy vào dòng chảy của một thế giới với những biến động, một thế giới đề cao tính hiệu năng và kết quả. Thử hỏi con người và ngay cả các tu sĩ có thể thoát ra khỏi “dòng chảy” của thế giới văn minh không? Dĩ nhiên là rất khó, nhưng con người vẫn có thể đối diện với nền văn minh khi biết biện phân “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian”, vì chúng ta đã thuộc về Thiên Chúa. Tuy nhiên, con người vẫn sống trong thế gian, trong xác thịt hư hèn, nên chúng ta cũng dễ lầm lẫn giữa thật và giả.
Vậy đâu là bình an theo cách nhìn của con người và đâu là bình an đích thực? Và làm sao chúng ta có thể kiến tạo để có được một sự bình an trong đời sống đan tu?

1. Bình an theo cách nhìn của con người

Trong kinh nghiệm tự nhiên của con người, bình an được hiểu như là một tình trạng ổn định về tinh thần và thể lý; bình an còn được hiểu là không có gì bất ổn và là một cuộc sống an toàn không bị xâm phạm:

Bình an là không gặp phải những bất trắc:
Ngày nay chúng ta thường thấy nơi các công trường hay trên đường phố nhan nhãn những băng rôn ghi những câu như:“an toàn là trên hết”; “an toàn là bạn, tai nạn là thù”. Những băng rôn này cảnh báo, giúp gây ý thức cho người lao động và người đi đường, để tránh những tai nạn đáng tiếc xảy ra cho bản thân và làm cho gia đình rơi vào cảnh đau khổ, bất an, ngay cả bất hạnh. Trong cuộc sống, người ta thường chỉ mong có được một sự bình an thiết thực giữa những lo toan trong đời thường.

Bình an là khi có hòa bình
Ngoài những ước mơ về một sự bình an trong cuộc sống thường nhật, con người còn mong ước một sự bình an mang tính xã hội. Văn hào Ciceron đã nói: “Hoà bình là vắng bóng chiến tranh”. Khi có hòa bình, cuộc sống con người trở nên tự do, người người yên vui và nhà nhà sum họp; đất nước được thái bình, để con người hướng đến không những là một cuộc sống đủ ăn, đủ mặc mà là cuộc sống ăn sung, mặc sướng làm cho con người cảm thấy bình an. Một sự bình an như thế dầu không vững bền, nhưng một cách nào đó cũng đem lại cho họ sự hài lòng trong cuộc sống.

Bình an là một sự an phận
Một quan niệm khác cho rằng bình an là an toàn, không đụng chạm và lợi ích của mình được bảo đảm. Đây là bình an mang tính ích kỷ. Người ta cố làm sao để mình khỏi phải bị thiệt thòi và tìm mọi cách để đạt được mục đích này. Bình an này có thể mang lại ích lợi cho một số người trong một không gian và thời gian nào đó, nhưng về lâu sẽ tạo nên một thế giới bất ổn. Chúng ta có thể gọi: đây là “bình an duy lợi”, nghĩa là chỉ biết tìm lợi ích cho mình mà không nghĩ đến người khác. Nếu trong một cộng đoàn có nhiều người chỉ biết lo cho mình mà không tìm bình an chung thì cộng đoàn đó sẽ đi về đâu?

Bình an là sự yên ổn
Bình an cũng được xem như là một sự yên ổn. Đây là ước mơ của những con người sợ dấn thân và sợ thay đổi, nên trái tim khó mở ra để cảm nhận sự khổ đau của những người xung quanh. Họ luôn mong tìm sự an toàn và mong ước “hai chữ bình an”. Họ “thu mình vào vỏ ốc”, luôn cảm thấy bất an khi phải ra khỏi khung cảnh quen thuộc hay như một con người sợ đối đầu với những thử thách; sợ sự khác biệt và không dám đấu tranh để có được một tầm nhìn mới cho cuộc sống. Bình an này là sự trốn chạy và muốn thoát khỏi thực tế cuộc sống. Thật vậy, cuộc sống không bao giờ là một trạng thái hoàn toàn yên tĩnh; không bao giờ có một cuộc sống phẳng lặng. Cuộc sống luôn biến chuyển theo quy luật biện chứng: “Không ai tắm hai lần trong một dòng sông” và ngay cả con người cũng luôn luôn là một dự phóng, hướng lên phía trước trong tình trạng bất ổn, phiêu lưu. Con người có thể tìm được sự yên ổn này chăng?

2. Bình an đích thực

Bình an của thế gian khác với bình an của Thiên Chúa: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu của thế gian” (Ga 14,28). Đây là bình an đích thực cần thiết cho con người.
Như vậy, Bình an của Chúa ban là gì?. Thánh Phaolô nói: “Đức Kitô là sự bình an của anh em” (Ep 2,14). Đức Kitô là sự bình an vì chính Ngài là Hoàng Tử Bình An được Cha sai đến (x. Is 9,6), để phá đổ bức tường ngăn cách giữa dân Dothái và dân ngoại; phá tan sự hận thù ghen ghét; làm cho chúng ta được hoà giải với Thiên Chúa và nên một trong Thần Khí duy nhất (x. Ep 2,14-18). Điều ấy cho thấy bình an của Chúa ban không phải “như kiểu của thế gian”; trái lại, bình an của Thiên Chúa là làm cho con người được trở nên nghĩa tử trong Chúa Kitô, mang nơi mình một trái tim biết sống quảng đại, yêu thương, cảm thông và tha thứ.
Sự sống này không do chúng ta nỗ lực mà có, nhưng là do tình thương của Thiên Chúa bans. Tình thương đó được tỏ hiện qua việc Đức Kitô đã đổ máu ra trên Thánh giá để cứu chuộc chúng ta, đó là ân huệ nhưng không của Thiên Chúa. Ân huệ đó đem lại cho con người sự bình an. Ai sẽ nhận được bình an đó, thưa là người có thiện tâm“bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2,14), là những người sống trong tình yêu của Chúa và mang tình yêu Chúa đến cho mọi người.
Một khi ở trong tình yêu của Chúa và thuộc trọn về Chúa, người ta sẽ có được bình an, một sự bình an giúp tránh xa những quyến rũ của những đam mê xác thịt và có được một niềm vui nội tâm. Người có bình an của Chúa là người sống dấn thân và hướng lên phía trước để đạt được phần thưởng đời đời. Khi nói đến bình an đích thực, cũng chính là lúc chúng ta đặt câu hỏi, dấu chỉ nào cho thấy chúng ta có bình an của Chúa? Như đã nói ở trên chúng ta không thể nào kiến tạo được sự bình an đích thực cho chính mình hay cho người khác. Ngày nào lòng mình mở ra, thì ngày đó bình an của Thiên Chúa sẽ tràn ngập tâm hồn chúng ta. Lúc đó, từ chỗ đang hoang mang lo lắng bận tâm về chính mình, không bằng lòng với cuộc sống, về những gì mình đang có, chúng ta sẽ có một tâm hồn hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng và tình yêu của Chúa, ngay cả bằng lòng với những gì thấp kém nhất miễn sao được quy hướng về Thiên Chúa. Đó cũng là lúc chúng ta mở rộng trái tim ra để ban phát bình an của Chúa cho người khác, vì “hữu xạ tự nhiên hương”.
Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện tại, mỗi khi gặp bất trắc, chúng ta đi tìm hiểu nguyên do. Chúng ta dò xem điều dữ đó đến từ đâu và bởi ai mà ta mất “bình an”. Tại sao vậy? Thưa vì chúng ta không hoàn toàn tin tưởng và phó thác cho Chúa. Chúng ta nhận ra Chúa là Cha trên sách vỡ mà không nhận ra Chúa là Cha trong cuộc sống của chúng ta. Vì thế, cần phải biết đón nhận cuộc sống, biết hài lòng về những gì mình đang có, như Thánh Phaolô xác tín rằng: “ Tôi được như thế nào là nhờ ơn Chúa”. Hay như Viện Phụ Gioan Vương Đình Lâm thường nói: “Chúng ta hãy nhảy theo nhịp điệu của Chúa” và chân nhận rằng thành công hay thất bại đều do Chúa. Được như thế chúng ta sẽ có thể có tâm hồn bình an như Cha Tổ Phụ vẫn luôn bình an dù nhà cháy, mất cả tài sản của cả nhà dòng (x. DN số 47).
Như vậy, bình an của Chúa là bình an trong tâm hồn, bình an vì được có Chúa ở cùng. Nhưng để bình an của Chúa trong tâm hồn chúng ta được lớn lên và phát triển trong cộng đoàn, chúng ta cần phải làm gì để xây dựng sự bình an đó?

3. Xây dựng sự bình an trong cộng đoàn.

Bình an nội tâm rất cần thiết cho đời sống cộng đoàn. Nó giúp mỗi người trong chúng ta sống hết mình, yêu thương cộng đoàn, yêu thích nơi mình đang ở, yêu thích công việc mình làm, “yêu những công việc mình làm chứ không phải những công việc mình thích”, quý chuộng những khả năng mình và chấp nhận những giới hạn nơi mình. Yêu thích một cuộc sống đơn sơ và bình dị trong nếp sống đan tu.
Nhìn lại lịch sử cứu độ, từ Ađam cho đến thời đại chúng ta đang sống, đã có biết bao nhiêu thăng trầm diễn ra và biết bao nhiêu lần con người xa Chúa, đánh mất sự bình an đích thực. Từ những chương đầu sáng thế ký, nguyên tổ Ađam và Eva bất tuân lệnh Thiên Chúa. Từ sự bất tuân này, tội lỗi đã nhập vào thế gian và con người trở nên sợ hãi, bất an. Cain giết Aben; các cuộc chiến tranh triền miên trong suốt dòng lịch sử nhân loại. Và cho đến hôm nay đã hơn 2000 năm, khi Chúa đã xuống thế mang bình an cho chúng ta, nhưng chiến tranh, hận thù, chia rẽ, chết chóc vẫn tràn lan khắp nơi. Lý do tại sao? Thưa vì lòng con người không “thiện tâm”. Làm thế nào để cho lòng mình được “thiện” để đón nhận bình an của Chúa và để xây dựng bình an cho thế giới, cụ thể là xây dựng bình an cho cộng đoàn?
Cha Tổ Phụ dạy chúng ta phải sống khiêm nhường: “Trong một ngày, chúng ta kiêu ngạo nhiều lần, song người khiêm nhường vẫn ở bình an luôn. Như khi nghe tin rằng ngày mai sẽ bị bắt giam, hoặc bề trên loại ra, thì kẻ khiêm nhường cũng cứ ngủ bình an; hay nghe tin rằng, ngày mai sẽ được lên làm lớn, thì cũng thế thôi, cứ ngủ bình an. Cho nên, kẻ khiêm nhường được bình an luôn”[1] .

Chúng ta chỉ có bình an khi nhận biết mình thiếu thốn và xin Chúa ban ơn. Cầu nguyện là phương thế giúp chúng ta và cộng đoàn có được sự bình an; vì cầu nguyện là “nói khó” với Chúa, và trên hết là sống kết hợp với Chúa, nên một với Chúa. Người nên một với Chúa là người có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Cha Tổ Phụ đã diễn tả kinh nghiệm này rất hay trong Di ngôn số 107: “Chúng ta phải lo sống kết hiệp với Chúa. Mọi việc chúng ta làm vì Chúa, làm cho Chúa, chi cũng làm cho Chúa hết. Như vậy, chúng ta mới nếm được sự bình an của Chúa”.
Cha Tổ Phụ nói, trong đời sống cộng đoàn thường hay có sự phân bì, ghen tỵ, điều đó làm mất sự bình an trong cộng đoàn. Vì thế, để xây dựng bình an cho cộng đoàn cần thiết phải xây dựng tình huynh đệ như: biết tha thứ cho nhau; bỏ đi những thành kiến, nghi kỵ và xóa bỏ những hận thù, ghen ghét. Cách thức này giúp tạo cho tâm hồn chúng ta thực sự trống rỗng để đón nhận bình an của Chúa. Mặt khác, mỗi người còn phải biết mang gánh nặng cho nhau và quan tâm đến nhau, như thánh Phaolô nói: “Đừng ai tìm ích lợi cho riêng mình nhưng hãy tìm ích lợi cho người khác” (Pl 2,4). Muốn được thế, mỗi người phải biết ra khỏi mình, tránh tất cả những xáo trộn cộng đoàn, không nói một lời hai ý, không tạo phe nhóm, không xầm xì nhỏ to với nhau, để làm tổn thương và mất bình an cho cộng đoàn… Nhưng điều quan trọng, chính là chuyên chăm kết hợp với Chúa, sống hết mình với tha nhân, Bên cạnh đó, luôn giữ sự hiệp nhất mà Thần khí đem lại để liên kết bình an, “hãy đón nhận nhau như Đức Kitô đã đón nhận chúng ta để làm vinh danh Chúa” (Rm 15,7). Đón nhận trong sự tôn trọng và trong tình bác ái chân thành.
Vì vậy, cộng đoàn phải không ngừng xây dựng bình an. Tuy bình an là ân huệ, nhưng một ân huệ phải được nuôi dưỡng. Do đó, nó đòi hỏi mỗi người trong cộng đoàn phải cộng tác và kiên nhẫn xây dựng; sống theo thánh ý Chúa trong mọi lúc, dẫu rằng nhiều khi gặp điều trái ý cực lòng (x. DN số 20). Để được như thế, mỗi người hãy chu toàn việc bổn phận của mình. Chính khi chu toàn việc bổn phận với lòng mến thì chúng ta sẽ như người đầy tớ trung tín trong Tin Mừng: “Con chỉ là đầy tớ vô dụng, con chỉ làm việc bổn phận của mình thôi”.
Cuối cùng, nội vi của Đan Viện cũng giúp chúng ta giữ được sự bình an vì: “Nội vi chính là thành lũy bảo vệ bình an và là cách thức giúp người đan sĩ giữ tâm hồn bình an một cách hữu hiệu hơn cả. Nó cũng giải thoát đan sĩ khỏi mọi chước cám dỗ nảy sinh do sự lây nhiễm của tinh thần thế tục” (Linh đạo đan tu). Thánh Biển Đức rất coi trọng nội vi Đan Viện, vì nhờ sống trong nội vi, mà đan sĩ luôn giữ được sự bình an trong tâm hồn.

Kết Luận

Những gì đã trình bày ở trên, thiết tưởng đó không phải chỉ là một lý thuyết suông, nhưng có thể là một kinh nghiệm sống hữu ích cho con người hôm nay, đặc biệt cho những đan sĩ. Bình an là ước mong căn bản của con người và cũng là điều chúng ta cầu chúc cho những người mà chúng ta yêu thương. Mỗi lần gặp nhau, chúng ta thường mở đầu bằng câu “khoẻ không, bình an chứ, cuộc sống ổn chứ?”. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là hỏi thăm hay là chúc cho nhau “bình an” mà là kiến tạo và duy trì bình an cho nhau. Một sự bình an không phải chỉ trên bình diện xã hội, nhưng còn là bình an trong tâm hồn.
Cuộc sống con người không phải luôn luôn phẳng lặng, nhưng đầy sóng gió, ngay cả đời sống cộng đoàn cũng vậy. Nếu chúng ta có Chúa Giêsu và thuộc trọn về Chúa, chúng ta sẽ luôn vững tin và không bao giờ sợ hãi khi đối đầu với sóng gió. Như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ được lớn lên trong đời sống thiêng liêng và trong tình huynh đệ cộng đoàn. Khi sống tình huynh đệ, chúng ta mới có thể dấn thân hết mình vì Chúa và anh em.
Đó là ước vọng của mỗi người, nhưng cũng là con đường rất cam go đang mời gọi mọi người tiến bước, nhưng chúng ta tin rằng mình sẽ đi đến cùng vì “Thầy đây, đừng sợ”.

 


  [1] Cha Tổ Phụ Henry Denis, Di ngôn số 124

 

 

 

 

VỀ NGUỒN

Diệp Lan Đình

Long lanh giọt nước mưa rơi,
Băng xuyên kẻ đá, qua đồi, qua thung.
Nhập dòng sông, bỏ cánh đồng,
Tìm về gốc cội muôn trùng đại dương.
Linh hồn tôi, một con đường
Ngày ngày tháng tháng hồn nương theo về,
Mệt, buồn, đau, xót, mỏi, tê,
Không dừng bước lại bên lề ngắm sao.
Quê hương đó, ở trên cao,
Phù du ảo ảnh không vào được đây,
Rực trời chân lý là ngày,
Tình yêu là nhựa sóng cây Thanh bình.
Trời xanh, trong vắt trời xanh,
Quê hương tôi đó, an lành quê hương.

 

 

 

 

 

 

 

CANH TÂN:

LỜI MỜI GỌI TỪ FATIMA

 

Cao Minh Long – CSĐD

Đức Giáo Hoàng Piô XII đã nói rằng: “Tội lớn nhất của con người thời đại, là đánh mất đi ý thức tội lỗi”. Tiếp đến, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho rằng: nền văn hoá ngày nay là một “nền văn hoá sự chết”. Và Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đã cảnh giác thế giới về triết lý sống “tương đối” đang đe doạ thế giới từ những quyền lực huỷ diệt của các trào lưu văn hoá độc hại. Mối đe doạ bên trong là lối sống hưởng thụ ích kỷ, là sự hời hợt trong lời cam kết dấn thân. Mối đe doạ bên ngoài là sự cuốn hút của những phương tiện truyền thông xã hội, đã ảnh hưởng không ít đến đời sống đức tin của Giáo hội, cũng như đời sống tu trì. Tất cả những yếu tố ấy đang làm cho con người trở nên mong manh, hời hợt, buông trôi và đánh mất niềm tin của mình.
Nhất là ở Tây phương, số người nhận biết và tin vào Thiên Chúa ngày càng giảm sút. Nhiều người hầu như đã cố tình quên đi và lẩn tránh, để khỏi phải lưu tâm thế nào là “chân lý tuyệt đối”, đâu là niềm tin của mình. Điều đó tạo nên một sự mơ hồ khi đặt niềm tin và cậy trông vào Thiên Chúa, một Đấng mà họ không nhận ra bằng giác quan. Thay vào đó, người ta chủ trương một thứ nhân bản “chủ nghĩa hướng nhân”, lấy con người làm trung tâm, làm thước đo, làm điểm tựa mọi sự. Người ta chỉ đề cập đến một chân lý “vừa tầm” với mình, nghĩa là “chủ thuyết tương đối hoá” với chủ trương gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, không cần Thiên Chúa nữa (Thiên Chúa đã chết). Vì không còn ý thức về tội, nên niềm tin của con người vào thế giới bên kia và đời sống vĩnh cửu hầu như không còn, nhưng chỉ có cuộc sống hiện tại đời này để hưởng thụ mà thôi.
Còn đời sống niềm tin của người Việt Nam thì sao? Niềm tin mang một sắc thái khác, không phải người ta không biết một Đấng Tối Cao thiêng liêng, mà là một thứ hỗn hợp của muôn vàn bộ mặt thần thánh vô hình, hiển linh… Người ta không nhận biết rõ Thiên Chúa của Kinh Thánh, một Thiên Chúa sáng tạo, nhập thể cứu chuộc, một Thiên Chúa yêu thương. Họ coi đạo Công giáo cũng giống như các tôn giáo khác “Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành”, và coi Thiên Chúa của Kitô giáo cũng chỉ là một khuôn mặt thần linh như bao vị thần linh khác.
Trước những cách nhìn về niềm tin vào Thiên Chúa như thế, thì lời mời gọi của Đức Maria: “Cải thiện đời sống; Lần hạt Mân Côi; Tôn sùng trái Tim Mẹ” qua Sứ Điệp Fatima (1917) còn âm hưởng gì không? Còn giá trị gì không? Có làm thức tỉnh lương tâm người Công giáo ngày nay nữa không? Thưa, đối với những người có đức tin, chắc chắn lời mời gọi đó vẫn còn âm vang trong lòng họ, vẫn luôn thôi thúc họ mỗi ngày, không ngừng canh tân đời sống mình theo lời mời gọi của Mẹ Maria, để sống đẹp lòng Chúa, hầu đáng hưởng hạnh phúc Chúa hứa ban.
Cách riêng, đối với đan sĩ là những người đang bước theo Đức Kitô và làm chứng cho Ngài, thì phải có bổn phận và trách nhiệm nói cho thế giới biết chân lý này: “Thiên Chúa vẫn sống và hằng sống”, đó là điều mà người đan sĩ phải trả lời, và đó là câu trả lời thiết thực nhất cho thế giới hôm nay. Tuy nhiên, có thể nói: Thiên Chúa dường như ẩn mặt và vắng bóng trên sự tự do của nhân loại, và Thiên Chúa cần những nhân chứng làm cho nhân loại thấy, Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện và chờ đợi sự hoán cải của họ.

I. “CANH TÂN” KHỞI ĐI TỪ SỰ “HOÁN CẢI” THEO TIN MỪNG.

Trước hết, chúng ta phải nói đến trọng tâm của sứ điệp Fatima hệ tại ở mệnh lệnh cuối cùng này: “Mệnh Lệnh Cải Thiện Đời Sống”. Bởi vì, hai mệnh lệnh trước chỉ là đường dẫn đến đích điểm ấy mà thôi. Không có mệnh lệnh này thì như hữu thể con người không có linh hồn, không còn là con người nữa, hay chỉ là một cái xác vô hồn. Lúc đó, sứ điệp Fatima cũng chẳng phải là sứ điệp Fatima nữa. Tuy nhiên, chúng ta cần phải hiểu kỹ lời kêu gọi cốt lõi của Sứ Điệp Fatima nói riêng và của biến cố Thánh Mẫu Fatima nói chung, chúng ta mới có thể đáp ứng đúng những gì được chất chứa nơi sứ điệp Fatima, hoàn toàn phản ảnh lời công bố của Chúa Giêsu trong Tin Mừng: “Hãy cải thiện đời sống, vì Nước Trời đã đến” (Mt 4,17). Rõ ràng hơn: “Thời gian đã trọn, triều đại Thiên Chúa đã đến. Hãy cải thiện đời sống và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Lời công bố trên của Chúa Giêsu khi Người bắt đầu cuộc sống công khai là tất cả chương trình hoạt động và mục tiêu cần mà chúng ta phải thực hiện. “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Ngài đến như ánh sáng chiếu trong tối tăm (x. Ga 1,5), đến như một con người sống động là tất cả sự thật về Cha: “Ai thấy Thầy là Thấy Cha”[1] . Như thế, con người cần phải “cải thiện đời sống và tin vào Tin Mừng”.

Mệnh lệnh cốt lõi làm nên sứ điệp Fatima là “cải thiện đời sống”, nghĩa là “đừng xúc phạm nữa”, đừng phạm tội nữa, đừng làm khổ “Chúa là Thiên Chúa chúng ta nữa”. Do đó, để canh tân con người mình nên con người thiện toàn trong Đức Kitô, thiết nghĩ nó phải được bắt đầu bằng chính sự hoán cải theo Tin Mừng.

Vậy Hoán Cải là gì? Hoán cải có nghĩa là thay đổi theo chiều hướng tốt, là sửa đổi con người trở nên tốt hơn. Nó khởi đi từ một thái độ, một quyết tâm thay đổi, không phải một lần cho tất cả, nhưng là từng ngày, từng giờ trong cuộc sống. Hoán cải là chấp nhận lội ngược dòng, từ bỏ những kiểu sống hời hợt, không trung thực và ảo tưởng, thống trị chúng ta, biến chúng ta trở thành nô lệ cho sự dữ.

Đối với người Kitô hữu hoán cải là “hướng về Đức Kitô”,  Hoán cải cũng có nghĩa là  “tìm kiếm Thiên Chúa, đi với Thiên Chúa, vâng theo những lời giáo huấn của Con Ngài, Đức Giêsu Kitô” (ĐGH Bênêđictô XVI. Bài giáo lý ngày thứ tư lễ tro). Hoán cải dẫn chúng ta hướng tới chiều kích cao cả của cuộc sống Kitô hữu và tin vào Tin Mừng. Tiến trình hoán cải cho chúng ta thời gian để loại bỏ những “cái xấu” và thay thế bằng những “cái tốt”. Muốn làm như vậy, ta phải vận dụng khả năng như: trí khôn để hiểu biết điều hay lẽ phải, ý chí để quyết tâm thực hành, lòng mến để gắn bó với Chúa và lề luật của Người… 

Hạt giống Tin Mừng được Chúa Giêsu gieo vào tâm hồn con người như hạt giống được gieo vào lòng đất. Nhưng liệu hạt giống Tin Mừng ấy có được phát triển và sinh hoa kết quả trong lòng chúng ta không?. Có thể là có cũng có thể là không; Có nếu họ biết hoán cải và canh tân mảnh đất tâm hồn thật tốt. Sẽ là không nếu họ không sám hối, không canh tân, cứ khư khư giữ đầy trong lòng những “vệ đường, sỏi đá, bụi gai”, làm cho Lời Chúa bị chết nghẹt không hoạt động trong tâm hồn họ được.

 “Chúa Giêsu là đích điểm cuối cùng và ý nghĩa sâu thẳm của sự hoán cải; chính Ngài là con đường mà tất cả mọi người được mời gọi bước đi trong cuộc sống, bằng cách để cho ánh sáng của Ngài chiếu soi và sức mạnh của Ngài nâng đỡ bước chân chúng ta. Như thế, sự hoán cải biểu lộ gương mặt rạng ngời và hấp dẫn nhất của nó: nó không chỉ là một quyết định luân lý đơn sơ uốn thẳng cung cách sống của chúng ta, mà là một lựa chọn của đức tin lôi cuốn chúng ta một cách hoàn toàn vào trong sự hiệp thông thân tình với con người sống động và cụ thể của Chúa Giêsu”[2].

Hoán cải phải là một điều quan trọng và là mối quan tâm đầu tiên của Chúa Giê -su khi rao giảng. Người đã đặt vấn đề hoán cải như điều kiện không thể thiếu để tiếp nhận Tin Mừng,  không hoán cải thì không thể đón nhận Tin Mừng: “Thời gian đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần: hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng” [3].

Với Đức kitô thì “hoán cải” có nghĩa là tin yêu và phó thác. Hoán cải và tin không phải là hai mệnh đề khác biệt được đặt song song nhau, nhưng là cùng một hành động: hối cải là tin; hối cải bằng cách tin. Thánh Thomas nói: “Trước tiên, cuộc hoán cải luôn hệ tại ở tin”. Cũng trong dòng tư tưởng đó, Thánh Phanxicô quan niệm: “Hoán cải là tin nhận, tôn thờ, phụng sự Thiên Chúa”.
Như thế, hoán cải là tiếng “xin vâng” hoàn toàn của con người trao cuộc sống cho Tin Mừng bằng cách tự do đáp trả lại Chúa Kitô là Đấng đầu tiên đã cống hiến cho con người đường đi, sự thật và sự sống.
Việc hoán cải và tin vào Tin Mừng không chỉ bắt đầu cuộc sống kitô hữu mà còn đồng hành với mọi bước đi của họ.Nó chỉ có thể tồn tại được qua việc tự canh tân và phổ biến ra trong tất cả mọi kiểu diễn tả của nó.Mỗi ngày đều là lúc thuận tiện và là thời điểm của “ơn Thánh”. Vì mỗi ngày khích lệ chúng ta phó mình cho Chúa Giêsu, tin tưởng nơi Người, và ở lại trong Người; chia sẻ kiểu sống của Người, học hỏi nơi Người tình yêu đích thực, theo Người trong việc chu toàn ý muốn của Thiên Chúa Cha. Cuộc sống là trường học để chúng ta thực hành những điều học được qua Lời Chúa; những thực hành muôn hình vạn trạng, giúp chúng ta mỗi ngày trở nên giống Chúa Kitô hơn.

 

II. CANH TÂN ĐƯỢC THỰC HIỆN BẰNG Ý CHÍ, QUYẾT TÂM SỐNG THÁNH THIỆN.

Chúa Giêsu mời gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”[4]. Chúng ta được Thiên Chúa mời gọi nên thánh, vì chúng ta được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài, được thông phần bản tính của Ngài, nghĩa là tự bản chất chúng ta đã là thánh, nhưng chúng ta mới chỉ là thánh trong tiềm năng, nghĩa là có thể trở nên thánh, chứ chưa phải là thánh trong hiện thực. Nói cách khác, chúng ta chưa sống thánh thiện đúng với bản chất của mình.

Vậy, chúng ta cần phải ý thức ơn gọi nên thánh của mình, khả năng nên thánh và nhất là ý thức bản chất thánh của chúng ta. Có thế, việc nên thánh của ta mới có thể trở thành hiện thực. Không ai có thể nên thánh nếu không có tiềm năng để nên thánh. Nên thánh chính là sống cho đúng với bản chất thánh mà chúng ta đang có sẵn. Ý thức sâu xa về điều này sẽ là một nguồn trợ lực mạnh mẽ cho việc nên thánh. Đó là lý tưởng quan trọng đáng cho chúng ta dành tất cả nỗ lực và trọn cả cuộc đời để thực hiện.

Công Đồng Vaticanô II dạy rằng: “Chủ yếu của sự thánh thiện là kết hợp với Đức Kitô”. Vì “chỉ có Chúa là Đấng Thánh”, là nguồn mạch của mọi sự thánh thiện, nên sống thánh là cố gắng đồng hình đồng dạng với Đức Kitô (Rm 8,29), đồng hoá với Đức Kitô, mặc lấy tâm tình của Ngài, nhất là tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa Cha và với mọi người (x LG số 39; 50). 

Theo cách nói của Thánh Phaolô (x Rm 6,3-5), việc nên thánh đã thành hình trong ta ngay từ khi lãnh bí tích rữa tội. Nhờ bí tích này, mỗi người tín hữu được trở nên thân thể Đức Kitô và được kết hợp với Ngài. Dẫu cho ta có bê tha, tội luỵ đi nữa, thì cái “chất thánh” vẫn còn đó, và chúng như một lời mời gọi ta tìm ra nẻo đường nên thánh của mình. Đó là định hướng cơ bản chung cho mọi kitô hữu.

Như thế, “Canh Tân” là gì, điều đó không phải là ý chí, quyết tâm nên thánh sao?Tất cả mọi nỗ lực trong đời sống của một người kitô hữu là cố gắng trở nên hoàn thiện, tức là “nên thánh”. Thánh Phaolô đã dạy chúng ta: “Thánh ý Chúa là muốn cho anh em nên thánh”[5]. Ngài còn khuyên bảo thêm: “Anh em phải sống xứng đáng là các vị thánh”[6] .

Trong Hiến Chế tín lý về Giáo Hội, Công Đồng Vaticanô II cũng đã dạy: “Chúa Giêsu, Thầy dạy và là mẫu mực thần linh của mọi sự trọn lành, đã giảng dạy cho tất cả và cho mỗi môn đệ, bất luận thuộc cảnh vực nào, một đời sống thánh thiện mà chính Người vừa là Đấng ban phát, vừa là Đấng hoàn tất: vậy các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời (x Mt 5,48) … Cho nên, với ơn Chúa, họ phải luôn giữ gìn và hoàn thành trong đời sống sự thánh thiện mà họ đã lãnh nhận”[7] .

Cách riêng đối với người đan sĩ, do lời khuyên Phúc âm, còn phải đồng hình đồng dạng với Đức Kitô một cách triệt để hơn nữa. Vì thế, đan sĩ không chỉ sống thánh cho riêng mình, nhưng còn vì phần rỗi của nhân loại.

Trong thực tế, đâu là việc nên thánh của đan sĩ?Việc nên thánh của đan sĩ hệ tại trong cách sống của mình. Đời sống đan tu là kim chỉ nam, là bàn đạp để đan sĩ có thể tiến tới sự thánh thiện một cách dễ dàng. Vậy đan sĩ thường xuyên:

  • Xem lại các lời khấn (Khiết tịnh, Vâng phục, Khó nghèo, Bền đỗ và Canh tân).
  • Nhìn lại đời sống chung đối chiếu với Tu Luật, Hiến Pháp và Kỷ luật.
  • Tập luyện các nhân đức cần thiết.

Việc luyện tập các nhân đức rất cần thiết cho người đan sĩ.Không có vị thánh nào mà không luyện tập nhân đức.Lịch sử các thánh đã chứng minh điều đó.Cha Tổ Phụ (Biển Đức Thuận) cũng đã khuyên dạy con cái (đan sĩ) mình như thế.

Đời người như con thuyền đi ngược dòng nước chảy, phải chèo chống để tiến lên hay ít ra cũng đứng được một chỗ, nếu không thuyền sẽ bị trôi đi. Cũng thế, nếu đời sống đan tu chúng ta không được tập luyện, thì không bao giờ trở thành con người mới được, vì con người cũ vẫn còn làm chủ và đẩy đến chỗ hư hỏng khôn lường. Vì thế, đan sĩ phải cố gắng luyện tập, sửa đổi con người cũ xấu xa của mình thế nào để nên giống Chúa Giêsu mỗi ngày hơn, và phải sống thế nào để có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”[8],  nghĩa là ta phải trở nên “con người mới” giống Chúa Kitô Phục Sinh.

 

III. HOA QUẢ CỦA CANH TÂN: TRỞ NÊN CON NGƯỜI MỚI TRONG CHÚA KITÔ NHỜ CHÚA THÁNH THẦN.

Chúa Thánh Thần mạc khải và hướng dẫn cho chúng ta biết ơn gọi kitô hữu của chúng ta, mà Ngài còn trở nên nguyên nhân, động lực, nguồn suối cho đời sống và sự thể hiện ơn gọi “Nên Thánh”. Chính Ngài là Đấng thánh hoá và là nguồn sống của chúng ta.Có Chúa Thánh Thần, chúng ta được chia sẻ, thông phần sự thánh thiện của Thiên Chúa, tình yêu, sự sống và chính bản tính Thiên Chúa (x. 2Pr 1,14).
“Vì là Thần Khí của Chúa Kitô, Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, đặc biệt trong cương vị làm con của Người, trong tình yêu hiếu thảo của Người đối với Chúa Cha. Đó là điều sâu thẳm nhất nơi Đức Giêsu và cũng là điều cốt yếu nhất. Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta nên giống Chúa Giêsu, học yêu mến Chúa Cha với Chúa Giêsu, chia sẻ tình yêu gắn bó, mật thiết, say đắm Chúa Giêsu đối với Chúa Cha.
Chúa Thánh Thần còn làm cho chúng ta nên giống Chúa Giêsu trong lòng mến của Người đối với anh em. Chúa Thánh Thần cho chúng ta chia sẻ tình yêu tự hiến của Chúa Giêsu, lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh sự sống vì những người mình yêu. Chúa Thánh Thần còn cho chúng ta chia sẻ kinh nghiệm của Chúa Giêsu được Chúa Cha yêu thương. Ngài cho chúng ta chia sẻ tất cả những gì là sâu thẳm nhất nơi Chúa Giêsu. Điều đó hoàn toàn đúng với ý muốn của Chúa Giêsu, cũng là ý muốn tốt lành của Chúa Cha (x Ga 15,13-15)”[9] .

Để trở nên con người mới, chúng ta phải được thực hiện trong Đức Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần. Nếu ai ở trong Đức kitô, thì đã là một tạo thành mới, bản chất cũ đã tan biến, những điều mới đã thành (x 2Cr 5,17), nhưng phải luôn vứt bỏ men cũ đi, để trở thành thứ bột mới, như thể tái tạo lại dần dần hình Đấng tạo Hoá trong bản thân mình. “Chúng ta được biến đổi nên giống cùng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí”[10]không còn tìm hạnh phúc trong sự thoả mãn xác thịt, trong sự ham muốn trần tục, mà đem lòng ao ước những sự trên trời.

Thánh Phaolô cũng đã để lại cho chúng ta kinh nghiệm quý giá về đời sống tâm linh của ngài mà không ai có thể chối cãi được: “Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư đốn buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy con người mới đã được tạo dựng theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật”[11] .
Công cuộc cải hoá con người cũ thành con người mới, theo thánh tông đồ là sống Mầu Nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô. Người kitô hữu đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy là gì nếu chẳng phải là người chấp nhận sống Mầu Nhiệm Phục Sinh? “Anh em không biết rằng: hết thảy ta được thanh tẩy trong Đức Kitô Giêsu, thì chính trong sự chết của Ngài mà ta được thanh tẩy? Vậy nhờ thanh tẩy, ta được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới”[12] .Chúng ta cần thay đổi con người cũ để mặc lấy con người mới. Con người mới đó như thế nào? Mẫu mực người đó chính là Đức Kitô Phục Sinh, người là tiêu chuẩn của đời sống chúng ta. 

Đức Giêsu là “Con Người” mới, là “Adam” mới. Ta phải hiểu người mới là người đích thực, như ý định của Thiên Chúa Cha từ muôn thuở: là con người với thiên chức làm người. Khi đối chiếu người cũ và người mới, không phải là thay đổi một cái gì trong bản chất con người mà là sự biến đổi để nên giống Đức Kitô.  

Sự đối lập giữa “cũ” và “mới” là sự đối lập giữa “tội” và “ơn thánh”. Người cũ tưởng lầm rằng mình có thể tự sức làm trọn thiên chức của mình;người cũ là người tội lỗi, tự thần hoá. Trái lại, người mới là người thực thi đường lối chương trình của Chúa, là Đấng duy nhất có thể ban cho họ quyền làm con Ngài.
Đức Kitô đã chu toàn nhiệm vụ làm người của mình, và đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến chết. Nên Ngài đã được Chúa Cha cho sống lại và ban danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, đặt Ngài làm trưởng tử, làm anh và làm đầu chúng ta.Và để ban cho những ai biết chết cho con người cũ, biết chết cho mọi tham lam dục vọng, cũng sẽ được nhờ Ngài làm cho trở nên con của Thiên Chúa.

IV. HỌC VÀ SỐNG THEO GƯƠNG ĐỨC MARIA.

Nói về Mẹ Maria, chắc hẳn trước tiên chúng ta phải nói rằng: Mẹ là con người của niềm tin, là mẫu gương của đời sống Đức Tin. Hay nói cách khác, Đức Tin là nhân đức nổi bật nhất trong cuộc đời Mẹ Maria. Trước nhân đức rạng ngời của Mẹ, bà Ê-li-sa-bét đã lớn tiếng ngợi khen rằng:“Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” [13] .

Nhờ Đức Tin, Mẹ Maria đã đón nhận lời sứ thần và đã tin vào lời loan báo: Mẹ sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa với niềm vâng phục tuyệt đối. Như các thiếu nữ khác, chắc chắn trước khi thưa tiếng “Xin Vâng”, Mẹ Maria cũng đã có chương trình riêng cho cuộc đời mình. Thế nhưng, khi nhận lời sứ thần truyền, Mẹ đã đón nhận Thiên ý một cách mau mắn và trọn vẹn. Với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, Mẹ Maria đã vui lòng chấp nhận ý định của Thiên Chúa, một ý định “táo bạo” làm đảo lộn các dự tính riêng tư của Mẹ. Nhờ Đức Tin, Mẹ Maria đã trở thành máng thông ơn của Thiên Chúa. Quả thế, thánh Irênê đã nói: “Nút dây đã bị thắt lại vì E-và bất tuân, nay được gỡ ra nhờ Đức Maria vâng phục. Điều mà bà E-và đã buộc lại vì cứng lòng tin, thì Đức Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin”[14] .

 Trong suốt cuộc đời dương thế, Mẹ Maria luôn tin tưởng mãnh liệt vào Thiên Chúa, Mẹ luôn nhìn thấy mọi sự xảy ra trong cuộc đời mình dưới ánh sáng Đức Tin. Và cũng nhờ Đức Tin soi dẫn, Mẹ đã vượt qua tất cả những thử thách, chông gai cuộc đời. Mẹ đã trở nên mẫu mực cho đời sống Đức Tin của Giáo Hội (x GLCG số 967). Mẹ đã xác tín trong niềm tin, đã sống trong niềm tin, đã thực hiện niềm tin một cách trọn vẹn qua cuộc đời “Xin Vâng”. Mẹ dạy chúng ta tin vào Chúa, tín thác vào Ngài, đi theo đường lối Chúa và cộng tác với Ngài để đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
Vì thế, Mẹ Maria được gọi là “ái nữ của Chúa Cha, cung điện của Chúa Thánh Thần; Mẹ là chi thể trổi vượt và độc đáo nhất của Giáo Hội, như mẫu mực và gương sáng cho Giáo Hội về đức tin và đức ái”[15] . Công đồng Vaticanô II đã muốn cho mọi thành phần trong Giáo Hội chiêm ngưỡng và hoạ lại nơi mình dung mạo thiêng liêng của Mẹ khi viết: “Noi gương Mẹ Chúa mình, nhờ thần lực của Thánh Thần, Giáo hội bảo tồn cho tinh tuyền một Đức Tin toàn vẹn, một đức cậy vững bền và một đức mến chân thành”[16] . Mẹ Maria muốn mọi người cùng với Mẹ sống và thực hành Đức Tin trong cuộc sống hằng ngày như Mẹ đã sống và quảng đại trao ban. Đó chính là “Tin những lời Chúa dạy và Hội Thánh truyền, phó thác mọi sự cho tình yêu quan phòng của Chúa, biết quan tâm đến nhu cầu của mọi anh chị em chung quanh mình, nhờ đó họ sẽ nhận biết Chúa. Để chính họ cũng được ơn Đức Tin đem lại sự sống đời đời”[17] .

Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy biến động và bất ổn. Các giá trị đạo đức, luân lý đang bị đảo ngược, do sự tác động của những trào lưu hưởng thụ, những chủ nghĩa vô thần, duy thực dụng và duy khoái lạc. Con người ngày nay đang có nguy cơ đánh mất niềm tin, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời. Trước thực trạng đó, người đan sĩ chúng ta được mời gọi theo gương Mẹ Maria, cùng với Mẹ Maria thể hiện Đức Tin trong cuộc sống thường ngày, vui sống niềm tin vì nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời. Đó chính là việc “tái khám phá hành trình Đức Tin để luôn làm nổi bật niềm vui và niềm hưng phấn mới của việc gặp gỡ Đức Kitô”[18].

Hơn bao giờ hết, đan sĩ chúng ta phải can đảm tuyên xưng Đức Tin của mình bằng đời sống thánh thiện, bác ái, yêu thương, thực thi công bình và khước từ những cám dỗ ngọt ngào của xã hội vô luân. Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hân hoan lên đường đem Chúa đến cho đời, thắp sáng niềm tin cho nhân thế đang đắm chìm trong bóng đêm của “nền văn minh sự chết.” “Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống”[19].

Chúng ta thường phải đối diện với những thực tại cuộc sống, những gian nan thử thách, những sóng gió trong đời, những thách đố thời đại. Trước những thực tại đó, Đức Tin của chúng ta thường bị lung lay chao đảo, có lúc tưởng chừng như thất vọng, đánh mất niềm tin. Những lúc đó, chúng ta ngước nhìn lên Mẹ, noi gương Mẹ, khẩn cầu Mẹ giúp ta kiên trì trong gian nan thử thách, nhất là biết chấp nhận mọi sự thiệt thòi mất mát khi phải lội ngược dòng đời để trung thành với Đức Tin. Có Mẹ đồng hành nâng đỡ, chắc chắn chúng ta sẽ vững bước trên hành trình Đức Tin. Noi gương Mẹ, mỗi chúng ta được xác tín để “biết mình đã tin vào ai”[20] , cùng với Mẹ, chúng ta lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong từng biến cố cuộc đời, sẵn sàng dấn bước theo Thầy Giêsu trên con đường thập giá với hy vọng thập giá sẽ nở hoa, Đức Tin dẫn ta tới sự sống đời đời.

 

 KẾT LUẬN.

Do việc đánh mất ý thức tội lỗi, nên con người ngày nay làm điều sai trái mà cứ tưởng mình làm đúng. Làm điều tội lỗi mà vẫn cho mình là sống thánh thiện.Thiên Chúa và Satan; tà và thiện. Tội và phúc được định giá như nhau và đồng đều theo nhu cầu và sự cần thiết của mỗi người.
Trước những vấn nạn đó, đan sĩ chúng ta phải làm gì? Bỏ cuộc hay ngồi nguyền rủa cuộc đời, nguyền rủa bóng tối?
Sứ điệp Fatima vẫn là sứ điệp mà con người có thể dùng để giải quyết những vấn nạn của xã hội, và những khó khăn cuộc sống. Trong sứ điệp Fatima, ba phương thế thực hành đã được Đức Maria nhắc đến: Cải thiện đời sống, tôn sùng Trái Tim Mẹ và lần hạt Mân Côi. Tuy nhiên, cả ba điều kiện trên đều không dễ thực hiện mặc dù xem ra như nhỏ mọn và tầm thường.
Trên thực tế, chẳng mấy ai nhận mình có lỗi và vì thế cũng chẳn mấy ai nghĩ mình cần phải sửa lỗi.Điều này dễ hiểu, vì một khi đã đánh mất niềm tin, đánh mất ý thức tội lỗi, thì làm gì còn thấy mình có lỗi để sửa lỗi. Điểm trùng hợp giữa hai nhận xét của Đức Piô XII và Đức Bênêđictô XVI là vì đánh mất ý thức tội lỗi, nên con người thời đại nhìn gì cũng chỉ thấy những giá trị tương đối.
Cái nguy hiểm của quan niệm và lối sống này làm cho con người không cảm thấy nhu cầu cần phải sửa sai hay thăng tiến.Ảnh hưởng của nó tạo nên một thứ độc dược, gây nguy hiểm cho cuộc sống con người hiện tại và hình thành nên “nền văn hoá sự chết”.
Trước những thay đổi của xã hội làm ảnh hưởng không nhỏ đến cách nghĩ và lối sống của nhiều người, đan sĩ chúng ta cần phải đưa ra cho nhân loại một đề nghị, một lộ trình sống đạo khởi đi từ việc đổi mới bản thân. Điểm căn bản trong việc xây dựng con người mới này là làm sao để bản thân mỗi người ý thức và sống đúng phẩm giá của mình; bởi lẽ phẩm giá của họ là quà tặng do Thiên Chúa ban. Nhận ra phẩm giá của mình chính là khởi đầu cho việc thánh hóa bản thân.
Ngoài ra, mỗi người cũng cần được huấn luyện để có một lương tâm ngay chính. Thật vậy, một trong những điều cấp thiết mà người Công Giáo cần phải thực hiện là tìm hiểu giá trị của lương tâm và thực hành theo tiếng nói lương tâm của mình.
Công Đồng Vaticanô II đã viết: “ Lương tâm làm cho con người nhận biết một cách tuyệt vời luật mến Chúa, yêu người. Trung thành với lương tâm, các Kitô hữu phải liên kết với những người khác để tìm kiếm chân lý và giải quyết trong chân lý biết bao vấn đề luân lý được đặt ra trong đời sống cá nhân cũng như trong giao tiếp xã hội”[21] .

Do đó, để nhận ra cái tuyệt đối hay điều cần phải sửa đổi, cần thiết con người phải tìm gặp và tiếp cận với Đấng Thiêng Liêng, cao cả. Phương thế tuyệt hảo nhất là cầu nguyện.Mẹ Maria đã giới thiệu phương thế cầu nguyện rất đơn sơ bằng chuỗi Mân Côi.Mẹ cũng lôi kéo tâm hồn con người về với tình thương Thiên Chúa qua hình ảnh “Trái Tim Của Một Hiền Mẫu”.

Để phục hồi nền văn hóa sự sống, để cứu vãn nhân loại và thế giới khỏi đi sâu vào con đường diệt vong, con đường tự hủy diệt, cần phải có một phép lạ. Nhưng phép lạ ấy sẽ không thể nào xảy ra nếu không có sự can thiệp của Mẹ: “Người bảo gì hãy làm như vậy” (Ga 2,5). Đó là lời của Đức Trinh Nữ Maria đã nói với các gia nhân trong bữa tiệc cưới tại Cana, và vì làm như lời Mẹ dạy bảo, nên phép lạ nước lã hóa rượu đã được thực hiện.

Chúng ta không thể yêu được, cũng như cầu nguyện sốt sắng được, nếu như chúng ta không tiếp cận với Chúa qua Mẹ Maria. Vậy hãy nghe lời Mẹ dạy: “Cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, và đền tạ Trái Tim Mẹ”. Sứ điệp Fatima vẫn chưa phải là sứ điệp lỗi thời và nó không thể bị quên lãng, vì thế giớiđang bị đe doạ. Tuy nhiên, chúng ta không phải vì thế mà ngã lòng, đúng hơn là phải quảng đại hơn nữa trong sự hiến dâng và hiến thân cho hòa bình, cho phần rỗi của của nhân loại.

 


 

[1] Ga 3, 19.

[2] ĐTC Bênêdictô XVI, Buổi nói chuyện với tín hữu hành hương, 17/02/2010.

[3] Mc 1,15

[4] Mt 5, 48.

[5] Ep 1, 4.

[6] Ep 5, 3.

[7] Lumen Gentium, số 40.

[8] Gl 2, 20.

[9] Bài chia sẻ của ĐGM Bùi Văn Đọc, Chúa Thánh Thần và ơn gọi Nên Thánh, 2010.

[10] 2Cr 3, 18.

[11] Ep 4, 22 – 24.

[12] Rm 6, 3- 4.

[13] Lc 1, 45.

[14] Lumen Gentium, số 56.

[15] Lumen Gentium, số 53.

[16] Lumen Gentium, số 64.

[17] HĐGMVN, Kinh Năm Đức Tin, 2012 – 2013.

[18] ĐTC Bênêdictô XVI, Cánh Cửa Đức Tin, số 02.

[19] Pl 2, 15 – 16. 

[20] 2 Tm 1, 12.

[21] Gaudium et Spes, số 41.

 

 

 

 

TRĂNG TỪ MẪU

Linh Giang

                                     Đêm trăng rãi ánh sáng huyền ảo
                                     Phủ lên đời, bóng mẹ từ bi
                                     Hình hài chất thể nét sân si
                                     Mẹ phụ choàng, ôi tâm từ mẫu
                                     Maria nhiệm mầu lời kinh sáng
                                     Con vào đời uống sửa yêu thương.
                                     Con một đời có Mẹ tỏa hoa hương
                                     Đêm trăng rải sáng sao huyền diệu
                                     Maria sâu nhiệm buổi ban chiều
                                     Đường đời ai thiếu bóng cô liêu
                                     Mái tranh buồn vách lá cột siêu
                                     Mẹ phù choàng, ôi tâm từ mẫu

 

 

 

 

 

 

 

 

NHÂN-THÂN-VŨ TRỤ QUAN

THEO RAIMON PANIKKAR

 

Hoài Lâm, CSĐD

 

Người ta nói nhiều về vấn đề canh tân, đổi mới trong các lãnh vực khác của đời sống con người: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, nghệ thuật, tư tưởng… Trong lãnh vực tôn giáo, việc canh tân đời sống đạo đức, luân lý, hay việc canh tân đời sống tu trì là một trong những mối bận tâm hàng đầu. Tại sao con người lại muốn canh tân, đổi mới? Bởi con người là hữu thể có khát khao và khuynh hướng vươn lên đến Chân-Thiện-Mỹ. Cảm thức về Chân lý, ước muốn sự Thiện và lòng khao khát cái Đẹp đã in sâu vào trong bản tính của con người. Con người không thể sống cách sung mãn cuộc hiện sinh của mình nếu không tiến bước, không canh tân, không đổi mới, vì cuộc sống con người là một hành trình, mỗi bước tiến sẽ mở ra cho con người những chân trời mới, đưa con người tiếp cận cách chính thật với Thực Tại[1]để họ sống “thật” hơn, sống “thiện” hơn, sống “đẹp” hơn, sống dồi dào hơn.

Nhưng Thực tại là gì? Thế nào mới là Thực, thế nào lại là Giả? Đây là các câu hỏi căn bản về hiện hữu! Thấu thị được Thực tính, Giả tính của hiện hữu sẽ quyết định từng bước đi của cuộc hành trình đời người. Cần phải đổi mới, canh tân về nhiều lãnh vực, nhưng sự cần thiết tiên quyết và là nền tảng của mọi cái cần thiết vẫn luôn là việc canh tân nhãn quan, canh tân cái nhìn, sự chứng nghiệm và cách đánh giá của con người về Thực tại. Khi tôi cận thị, tôi nhìn mọi vật, mọi sự đều không chính xác, nên tôi sẽ nghĩ sai, bước sai, nói sai, làm sai. Cần một đôi mắt sáng, cần canh tân nhãn quan! Cho nên, trong bài viết khiêm tốn này, chúng tôi đánh liều xin được giới thiệu sơ lược lý thuyết về thần-nhân-vũ trụ quan theo tư tưởng của Raimon Panikkar, một nhà thần học và cũng là một triết gia công giáo, một chuyên viên về đối thoại liên-tôn-giáo, liên-văn-hóa, một học giả mang trong mình hai dòng máu Tây Ban Nha và Ấn Độ. Gọi là đánh liều vì rất khó có thể diễn tả cách rành mạch lý thuyết này trong vài trang ngắn ngủi. Vả lại, quả là không dễ dàng để có thể hiểu cách cặn kẽ hay ngộ nhận tư tưởng rất phức tạp của một triết-thần-học-gia đa văn hóa, đa truyền thống như Panikkar.

Nhân-thần-vũ trụ quan (visione cosmoteandrica) hay còn gọi là “nhãn quan ba ngôi” (visione trinitaria), được xem như phương thức để chữa tật cận thị và canh tân “nhãn quan” của con người khi nhìn về thực tại cuộc sống: về Thiên Chúa, về nhân sinh thế sự, về vũ trụ vạn vật. Thuật ngữ “ba ngôi” làm cho tư tưởng nghĩ đến ngay học thuyết về mầu nhiệm Ba Ngôi của Ki-tô giáo. Ở đây chúng tôi không phân tích nền tảng thần học Chúa Ba Ngôi (Trinità) trong nhãn quan “ba ngôi căn bản” (trinità radicale) của Panikkar[2].Tuy nhiên, “nhãn quan ba ngôi” về thực tại không giới hạn trong khuôn khổ của học thuyết Ba Ngôi Ki-tô giáo, nhưng nó mang ý nghĩa rộng rãi, phổ quát hơn.
Để hiểu nhãn quan này, thiết nghĩ cần trình bày quá trình trưởng thành của tâm thức con người qua ba loại nhãn quan chủ yếu: nhất nguyên quan, đa nguyên quan (hay nhị nguyên quan) và nhãn quan ba ngôi (bất-nhị-nguyên quan): nhân-thần-vũ trụ quan.


a. Nhất nguyên quan

Con người muốn giải mã mầu nhiệm bằng khả năng trí tuệ của mình, đặc biệt là bằng lý trí. Lý trí thuần túy giúp con người khám phá luận lý tính của sự vật, và nhờ đó, con người nghĩ rằng mình có thể thấu suốt về thực tại, về hữu thể nhờ khả năng tuyệt vời của lý trí. Lý trí thống nhất các dữ kiện, hiện tượng, biến cố mà nó nhận được, rồi giảm trừ, rút gọn hay trừu xuất chúng thành những ý niệm hay khái niệm. Đối diện với sự phong phú, đa dạng, đa màu của thực tại nhân sinh, lý trí thường tìm ra những ý niệm ngày càng trừu tượng, khái quát nhờ chức năng trừu tượng hóa của nó. Lý trí đưa con người đến với khái niệm về duy nhất tính của hữu thể. Hữu thể là duy nhất, là Một… Nói chung, lý trí đòi hỏi phải rút gọn sự đa phức thành sự đơn nhất, giảm trừ khác biệt tính thành nhất-tính (một): reductio ad unum. Cho nên, nếu muốn hiểu biết về thực tại bằng lý trí, con người phải sử dụng nhất nguyên quan, tức là xem thực tại con người đang sống là Một Thực tại duy nhất, và sự khác biệt giữa các hữu thể với nhau chỉ là những thể thức tỏ hiện, biểu lộ khác nhau của Một Thực tại duy nhất. Trải qua dòng lịch sử tư tưởng nhân loại, chúng ta thấy rằng con người đã cho rằng Một Thực Tại đó có thể là Thiên Chúa (Thiên Chúa là tất cả), hoặc là hữu thể (hữu thể là tất cả), hoặc là Tinh Thần (tất cả là Tinh Thần), hoặc Vật Chất (tất cả là Vật Chất), hoặc tất cả là Năng Lượng, hoặc tất cả là Hư Vô… Đây là hệ luận tất yếu của nhất nguyên quan.


b. Đa nguyên quan, nhị nguyên quan

Đối lập với nhất nguyên quan là đa nguyên quan, nhãn quan này khẳng định đa phức tính của Thực tại, nghĩa là Thực tại bao gồm nhiều thực thể khác biệt. Đa nguyên quan dần dần được rút gọn thành nhị nguyên quan, tức là Thực tại gồm hai lãnh vực lớn khác biệt, đối lập nhau: tinh thần và vật chất. Nhị nguyên quan cũng là thuyết nhị nguyên siêu hình, đưa con người đến việc nhìn nhận tính tạm thời của những khác biệt và đối lập giữa các lãnh vực của Thực tại. Nhị nguyên quan ném con người về một tương lai hoặc một cánh chung nào đó, nơi ấy “Thiên Chúa” sẽ là tất cả trong mọi sự, sự thiện sẽ thắng ác, tinh thần thắng vật chất, khoa học sẽ giải quyết mọi sự hoặc tôn giáo giải đáp tất cả… Nếu nhất nguyên quan chủ trương tĩnh tại tính, tuyệt đối tính, bất động tính như những ưu việt tính, thì nhị nguyên tính lại đề cao năng động tính, sự thay đổi và tạm thời. Song vấn đề lưỡng nan giữa nhất nguyên và nhị nguyên quan đòi hỏi con người phải canh tân tâm thức, đổi mới nhãn giới của mình bằng một nhãn quan mới: một nhãn quan đồng thời vừa phi nhất nguyên, vừa phi đa nguyên.


c. Nhân-thần-vũ trụ quan

Nhãn quan này cho chúng ta biết rằng thực tại vừa không phải được hình thành bởi một khối (nhất nguyên) duy nhất, lờ mờ, không phân biệt giữa Thiên Chúa (θέος), con người (ανθρoπος) và vũ trụ (κόσμος); vừa không phải được cấu tạo bởi ba khối (đa nguyên) hay bởi tam giới ở ba cấp bậc khác nhau như người ta xây một ngôi nhà ba tầng – thế giới của thần linh hay của Siêu Việt Tính, thế giới con người hay thế giới của tâm thức, và thế giới vật lý hay vật chất. Thế nhưng, nhãn quan mới này giúp chúng ta nhìn thấy thực tại được tạo thành bởi ba chiều kích tương quan và tương giao lẫn nhau. Ở đây nói đến một mối tương quan tương tại (περιχορεσις / circumincessio), nghĩa là chiều kích này không thể tồn tại nếu thiếu đi chiều kích kia, cả ba chiều kích đan xen, tương kết với nhau vừa tùy thuộc lẫn nhau vừa độc lập với nhau. Thiên Chúa, con người, vũ trụ tách biệt nhau, không có tương quan với nhau, hay một Thiên Chúa hiện hữu tự thân, tự tại, xa lạ với con người và vũ trụ chỉ là những quan niệm trừu tượng đơn giản của trí óc con người. Theo Panikkar, nhân-thần-vũ trụ quan là một nhãn quan mới, một trực giác mới có thể giải quyết những mâu thuẫn của các song đề nhị nguyên mà trí tuệ con người ngày nay không thể dàn xếp được.
Kinh nghiệm về thực tại “ba ngôi” trong các tôn giáo lớn có một lịch sử dài để nghiên cứu, học hỏi, nhưng ở đây chúng tôi nhấn mạnh rằng trực giác tam phân dường như là một hằng số của tâm thức con người. Có nhãn quan “ba ngôi” về thực tại (thần linh, con người và vũ trụ), về con người (thân xác, linh hồn và thần khí), và về thế giới (không gian, thời gian và vật chất)… Trở lại với học thuyết về Ba Ngôi của Ki-tô giáo, người ta nói đến Ba Ngôi tự tại (Trinità immanente) như một mặc khải về đời sống sâu thẳm của Thiên Chúa, một Thiên Chúa siêu việt. Nhưng dần dần, giáo thuyết Ki-tô giáo khai triển mối liên hệ giữa Chúa Ba Ngôi với thế giới, và như thế Chúa Ba Ngôi không phải là vị thần nhàn rỗi ngự trên đỉnh Olimpic, nhưng là Thiên Chúa Ba Ngôi đã thực hiện công trình sáng tạo: Ba Ngôi nhiệm cuộc (Trinità economica). Hiểu biết rất sâu sắc về học thuyết Ba Ngôi, nhưng Panikkar giới thiệu cho chúng ta một khái niệm về “ba ngôi căn bản”. Ý niệm về “ba ngôi căn bản” là hoa trái của kinh nghiệm nhân-thần-vũ trụ quan về thực tại. Sự toàn vẹn của Thực tại được ví von như một tấm vải không đường khâu, cho nên Thực tại không thể bị rút gọn vào siêu việt tính của Thiên Chúa, cũng không bị thu gọn trong sự tách biệt giữa Thiên Chúa và thế giới.
Nhân-thần-vũ trụ quan là một trực giác, hay một tri thức về toàn bộ Thực tại. Không có ba thực tại: Thiên Chúa, con người, và vũ trụ; nhưng cũng không có một thực tại: hoặc là Thiên Chúa, hoặc là con người, hoặc là vũ trụ. Thực tại là nhân-thần-vũ trụ. Có thể nói rằng Thiên Chúa, con người, vũ trụ ở trong mối tương quan chặt chẽ, ở trong sự cộng tác khắng khít với nhau để hình thành nên Thực tại, để làm cho lịch sử tiếp tục đi tới, để tiếp diễn công trình sáng tạo (creatio continua). Thực tại gồm ba chiều kích: Thiên Chúa, con người và vũ trụ. Panikkar sử dụng hình ảnh ẩn dụ “chiều kích” để vượt qua, khắc phục cái cám dỗ nhất nguyên vốn chủ trương thế giới vạn vật chỉ là những cách thức biểu lộ khác nhau của một bản thể duy nhất nào đó. Hình ảnh “chiều kích” cũng giúp vượt qua cả cơn cám dỗ nhị nguyên chủ trương vạn vật bao gồm hai hay nhiều yếu tố đối lập, triệt hạ lẫn nhau, bất khả liên lạc với nhau. Thực tại là mối tương quan tương tại của ba chiều kích, là mối tương quan “ba ngôi”. Cho nên, nhãn quan “ba ngôi” không bao giờ là nhãn quan nhất nguyên, mà cũng chẳng là nhãn quan nhị nguyên hay tam nguyên; cũng không phải là nhãn giới xem thực tại chỉ là đơn nhất, mà cũng chẳng là nhãn giới xem thực tại là đa phức. Thực tại là “ba ngôi”, không là một, cũng chẳng là ba, nhưng là tương quan vừa phụ thuộc, vừa độc lập (inter-in-dipendente) của ba chiều kích: Thiên Chúa, con người, vũ trụ.
Thật vậy, nhân-thần-vũ trụ quan không phải là nhất nguyên, không phải là nhị nguyên, và cũng chẳng phải phiếm thần, nhưng là mối tương quan khắng khít của thần-nhân-vũ trụ để mở ra thực tại sống động, trong đó, con người đóng một vai trò rất quan trọng là phải làm sao để duy trì, thăng tiến mối tương quan hài hòa này, một mối tương quan hài hòa giữa Thiên Chúa, con người và thế giới. Đây chính là phẩm giá và trách nhiệm của con người. Thực tại năng động ấy là một sự phát triển, thăng tiến và sung mãn của Sự Sống mà các tín hữu Kitô gọi là Thân thể Nhiệm mầu của Đức Kitô, các tín đồ Phật giáo gọi là dharmakāya. Thiên Chúa, con người và vũ trụ đều tham gia và có liên quan, liên đới mật thiết với nhau trong một cuộc phiêu lưu của Sự Sống, và sự tham gia này hình thành nên Thực Tại đích thật.
Một Thiên Chúa cô độc và tách biệt hoặc sẽ là một Thiên Chúa dư thừa và sẽ mau chóng biến mất (chủ thuyết vô thần), hoặc sẽ trở thành một thực tại hư vô tuyệt đối nào đó (chủ thuyết hư vô). Cũng vậy, một con người tự cho mình độc lập, là ông hoàng hiển nhiên của vạn vật, thì rất dễ dàng phá hủy thiên nhiên, vũ trụ và tự hủy diệt chính mình bởi con người không tôn trọng vạn vật và thiếu khoan dung độ lượng với nhau. Chiến tranh bùng nổ để người này chống lại người kia bởi vì nếu người này là tuyệt đối thì người khác cũng là một tuyệt đối đối kháng lại người kia (chủ thuyết nhân bản quy nhân – umanesimo antropocentrico). Nếu vũ trụ là một thực tại tuyệt đối, thì nơi đó con người chỉ là một sản phẩm của sự tiến hóa. Như thế, người ta thần linh hóa vũ trụ và nhìn nhận rằng vũ trụ điều hành vạn vật, muôn loài bằng chính luật nó đặt ra. Người ta sa vào chủ thuyết duy vật thiên thần (materialismo angelico), vật chất trở nên như Thần Khí có khả năng sinh động hóa mọi sự.
Nói tóm tắt, theo Panikkar, tất cả Thực tại có cấu trúc “ba ngôi”, không nhất nguyên hay phiếm thần, cũng chẳng nhị nguyên, nhưng trong đó tất cả đều tương quan, liên đới với nhau cách chặt chẽ trong tự do và chân lý. Trên nền tảng và cảm hứng của Ba Ngôi Kitô giáo, không xa rời học thuyết căn bản của Kitô giáo, cũng như được học hỏi sự khôn ngoan của truyền thống các tôn giáo lớn, Panikkar đưa ra một nhãn quan mới về “ba ngôi căn bản”, khẳng định rằng Thực tại là “ba ngôi”, nghĩa là: tất cả là tương quan tương tại với nhau. Nhân-thần-vũ trụ quan là nhãn quan thần bí về mối tương quan chặt chẽ, năng động và hài hòa của các hữu thể, chứ không phải một nhãn quan suy lý về bản chất, bản thể của Thực Tại. Ở đây, Panikkar nhấn mạnh đến tương-quan-tính (relatività) giữa các lãnh vực hữu thể, chứ không phải tương-đối-tính (relativismo). Hữu thể học về tương quan vượt qua những bất cập và thái quá của chủ nghĩa tương đối. Tất cả sự khôn ngoan, minh triết, tuệ trí và giác ngộ của con người hệ tại ở khả năng thông suốt được tương-quan-tính của vạn vật, vạn sự, mà không sa vào chủ thuyết tương đối.
Cho nên, một “linh đạo” trưởng thành của con người không bao giờ là một trò chơi biện chứng giữa ba chiều kích của thực tại: Thiên Chúa, con người, vũ trụ; cũng không bao giờ là phép rút gọn, giảm trừ các chiều kích này thành một trong ba chiều kích. Trò chơi biện chứng hay cách giảm trừ thu gọn sẽ đưa con người đến tình trạng “tâm thần phân liệt”, làm nguy hại cho việc “theo Chúa”, “trau dồi Con Người”, “hiểu biết Thế Giới”. “Chuyên môn hóa” một chiều kích để loại bỏ những chiều kích khác sẽ dẫn con người đến vực thẳm của chủ thuyết hư vô hay đến mỏm đá nguy hiểm của duy nhân luận, hay đến hố sâu của chủ nghĩa duy vật. Nhân-thần-vũ trụ quan giúp con người có một cái nhìn đúng đắn và trưởng thành về Thực Tại, về Thiên Chúa, về chính mình và về Thế giới, giúp con người nhận ra mối tương quan hài hòa của nhân-thần-vũ trụ, mối tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và thụ tạo, giữa con người và thế giới, giữa tinh thần và vật chất, giữa lý trí và đức tin, giữa trí và tâm, giữa học và hành, giữa tri thức và tình yêu, giữa hoạt động và chiêm niệm, giữa triết học và thần học, giữa hữu thể học và tri thức luận… Không được tách biệt, chia rời cái này ra khỏi cái kia, vì làm như thế sẽ gây thương phế cho cả hai.


d. “Linh đạo” nhân-thần-vũ trụ

Từ “linh đạo” (spiritualità) mà Panikkar sử dụng nói đến sự ưu việt của tính “linh” (spirito). Tính linh hay tinh thần là biểu tượng phần cao quý nhất của thực tại như Lão Tử, thầy Eckhart và nhiều học giả khác đã bàn đến. Từ “linh đạo” không bao giờ hàm chứa sự đối lập, tách biệt, xung khắc giữa tinh thần và vật chất, giữa linh và vật. Trong nhân-thần-vũ trụ quan, không thể có vật chất mà không có tinh thần và ngược lại. Từ “linh đạo”muốn nhấn mạnh rằng tinh thần hay thần khí là nguồn mạch của các hoạt động. Đây là một trong những chức năng được gán cho Thần Khí của các tôn giáo ở Phi Châu; và phụng vụ Ki-tô giáo cũng nói đến Thần Khí như sức mạnh hoạt động trong mọi sự nhằm “canh tân bộ mặt địa cầu”. Nói cách khác, từ “linh đạo” cho thấy rằng thực hành cũng quan trọng như lý thuyết vậy: thực hành mà không có lý thuyết hướng dẫn thì là mù quáng, không thấy được thực tại, không mang lại kết quả tích cực; nhưng lý thuyết mà không thực hành thì như bị cụt tay, như không có tay để có thể chạm tới hay tác động vào thực tại cuộc sống. Cho nên, một linh đạo nhân-thần-vũ trụ muốn nói đến một cuộc sống trong đó lý thuyết và thực hành phối hợp hài hòa với nhau, không phải lý thuyết là nguyên nhân của thực hành, cũng chẳng phải thực hành là nguyên nhân của lý thuyết, ngay cả khi cả hai ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng không cái nào chiếm ưu thế hay áp chế cái nào.
Vì thế, linh đạo nhân-thần-vũ trụ không phải là linh đạo tu trì hoặc linh đạo hỗn hợp, nhưng Panikkar xem nó như là nền tảng của mọi linh đạo của con người. Panikkar trình bày một số khía cạnh của linh đạo này dưới 9 sūtra [3]. Các sūtra không phải là những lời khuyên thực tiễn để làm theo, cũng không phải là những nguyên lý trừu tượng để tiếp nhận, nhưng là những khẳng định lý thuyết-thực hành để sống.

1. Ưu việt tính của Sự Sống: linh đạo nhân-thần-vũ trụ không phủ nhận “vinh quang Thiên Chúa” hoặc “vương quốc của Đức Công Minh trên trần gian”, Niết-bàn, Thiên Đàng, Hạnh phúc hay sự Hoàn Hảo…, nhưng nhấn mạnh đến kinh nghiệm về Sự Sống, một kinh nghiệm phổ quát của con người. Mỗi người biết rằng mình sống và định hình cuộc sống mình theo một bậc thang giá trị nhất định. Như thế, kinh nghiệm về Sự Sống được trao ban cho mỗi người như một món quà để mỗi người sống nó một cách sung mãn. Nhưng Sự Sống là gì?
2. Sự Sống như là thời gian của Hữu Thể: linh đạo nhân-thần-vũ trụ không nhằm kéo dài thời gian sống, nhưng là một kinh nghiệm sâu sắc về vĩnh cửu tính hiện diện trong thời gian, nghĩa là khi sống trong thời gian giới hạn, hữu hạn nơi thế giới này, con người có cơ hội để khám phá ra cốt lõi thời-gian-vĩnh-cửu (tempiternità) trong cuộc sống mình. Cốt lõi thời-gian-vĩnh-cửu không muốn nói rằng thời gian là vĩnh cửu, mà nói đến sự gặp gỡ, sự trùng khớp, sự kết hiệp giữa thời gian và vĩnh cửu được thể hiện ngay trong cuộc sống của con người.
3. Hữu thể như là sự biểu hiện của Lời: linh đạo nhân-thần-vũ trụ nói đến khả năng lắng nghe thực tại. Con người cần nhân bản hóa tất cả các mối tương quan với thiên nhiên, với các thụ tạo, và giữa con người với nhau. Lời là một yếu tố đặc thù của hữu thể người. Linh đạo nhân-thần-vũ trụ nhấn mạnh đến tính nhân bản của con người.
4. Lời như là âm thanh của Thinh Lặng: linh đạo này là một linh đạo hoà bình, nó hướng tới sự thinh lặng hơn là lối diễn tả đơn nghĩa của các sự vật hay biến cố, và trở nên linh đạo khoan dung nhờ kinh nghiệm được tính chất bất tất của con người, và nhờ đã được đụng chạm đến mầu nhiệm của sự Thinh lặng và của Lời.
5. Thinh lặng như là sự mở ra với Không: linh đạo nhân-thần-vũ trụ là một linh đạo thần bí vì nó hướng tới sự tiếp xúc với thực tại dù biết rằng mọi khía cạnh và chiều kích của thực tại đều là huyền nhiệm và vô tận, cho nên linh đạo này vượt lên trên lối tiếp cận thực tại bằng trí óc dù không bỏ đi chiều kích lý trí.
6. Không như không gian cho sự tự do của Hành động: kinh nghiệm về Không tương đồng với sự khám phá thực tại như là một sự sáng tạo liên lỷ (creatio continua). “Không” không có nghĩa là không có gì nhưng là Không-Diệu-Hữu. Con người nhận ra mình là điểm gặp gỡ của ba chiều kích của thực tại, nên ý thức được trách nhiệm và sự tự do hành động để duy trì và thăng tiến công trình sáng tạo liên lỉ đó.
7. Hành động như là sự khám phá Thế giới: linh đạo nhân-thần-vũ trụ không hướng tới việc tái lập một thiên đàng tại thế, cũng không phóng chiếu mọi niềm hy vọng nơi một thế giới nào khác, nhưng biết rằng con người phải tìm kiếm sự công chính, công bằng, công minh trong chính thế giới này. Cho nên, đây không phải là một linh đạo viễn vông, ảo tưởng như một ý thức hệ, mà là một linh đạo tại thế.
8. Thế giới như là nơi chốn của Con Người: linh đạo này không nhắm đến việc phải chinh phục thế giới, cũng không nhắm việc đạt tới trời cao, nhưng là con người đạt tới sự sung mãn của mình. Cho nên, đây là một linh đạo nhập thể bởi nhìn thấy Thiên Chúa nơi con người.
9. Con Người như là sự tham dự vào Thiên Chúa: linh đạo nhân-thần-vũ trụ không rút gọn Thiên Chúa trong một ý tưởng, một khái niệm hoặc trong một yếu tố cao quý nhất trong các yếu tố của thực tại. Cũng vậy, con người không phải là môi giới mà là trung gian giữa Đất và Trời, nên con người không những tham gia đời sống tại thế mà còn tham gia vào sự sống của Thiên Chúa.
Tóm lại, một vài nét chấm phá để trình bày về một tư tưởng sâu sắc, phức tạp như là nhân-thần-vũ trụ của Panikkar quả là không cân đối. Nhưng chúng tôi hy vọng rằng, bài viết khiêm tốn này như một lời giới thiệu, một lời chia sẻ về một nhãn quan dường như khá xa lạ với tâm thức con người ngày nay, khi mà con người hiện đại đang xem mình như là cái rốn của vũ trụ, quên lãng Thiên Chúa và không biết tôn trọng tự nhiên. Chúng ta gọi đây là một nhãn quan mới nhưng thực chất đây chính là một kinh nghiệm nguyên thủy đã có nơi tâm thức của con người. Con người hiện hữu là hiện-hữu trong, tại, với, cho… Mỗi người không phải là một “cái gì đó” bị ném vào trong vũ trụ, nhưng là một nhân vị sống hài hòa, hạnh phúc trong mối tương quan khắng khít với nhân loại, với Thiên Chúa và vũ trụ vạn vật.

 

 


 

[1] Những chữ chúng tôi viết hoa để nhấn mạnh đến siêu hình tính của thuật ngữ.

[2] x. R. Panikkar, Visione trinitaria e cosmoteandrica: Dio-Uomo-Cosmo, Milano 2010, 7-262. 

[3] x. R. PANIKKAR, Visione trinitaria e cosmoteandrica: Dio-Uomo-Cosmo, Milano 2010, 263-320. 

 

 

 

 

 

 

 

 

KHỔ CHẾ VÀ CANH TÂN

 

Đaminh Minh, TP

Khổ chế không có nghĩa là “khổ công chế ra” hay “khổ vì chế độ” như ai đã nói. Hiểu theo nghĩa hẹp, khổ chế là những quy định khắc khổ mà chúng ta phải tuân theo. Theo linh mục Stêphanô Huỳnh Trụ: “khổ chế là thuật ngữ riêng của Công giáo. Thuật từ này do đức ông Trần Văn Hiến Minh và các cha trong ban giáo sư trường thần học Bùi Chu tạo ra từ thập niên 50”. Xưa kia, người ta thường dùng thuật ngữ hãm mình để nói lên việc gìn giữ ngũ quan, hãm dẹp những việc của xác thịt, từ bỏ những tiện nghi riêng, kiêng khem và đánh tội…. Trong quyển “Danh từ thần học và triết học” của trường này (xb năm 1952), chúng ta thấy thuật ngữ “khổ chế” được dùng để dịch chữ mortification. Nhưng trong vài thập niên sau đó, người ta chuyển ngữ từ ascesis theo nghĩa “khổ chế” và xem nó đồng nghĩa với từ “khổ hạnh”. Xét về nguyên ngữ thì khổ chế thích hợp để dịch thuật từ “ascesis” và hãm mình thích hợp với “mortification” hơn cả. Tuy nhiên, ngày nay giới dịch giả có khuynh hướng dịch thuật từ “mortification” theo nghĩa “khổ chế”.

Với chủ đích của Nội San số 14 là “Canh tân”. Tôi xin mạn phép bàn về khổ chế dưới góc nhìn canh tân trong tâm thức hiện đại, để thử đưa ra một hướng đi cho các đan sĩ hôm nay trước vấn đề khổ chế. Tôi xin trình bày 3 đề mục:

 

Khổ chế trong tâm thức hiện đại
Một hướng đi cho việc thực hành khổ chế trong thế giới hiện đại
Hướng đi nào cho đan sĩ hôm nay?

 

1.Khổ chế trong tâm thức hiện đại

Một thực tế mà ai cũng có thể nhận thấy: con người đương đại không muốn nhắc đến hai từ khổ chế hay ít ra là tránh né, hoặc làm giảm nhẹ. Người ta tìm mọi cách để thoát khỏi đau khổ và cho cuộc sống đỡ khổ. Đây là một điều tự nhiên, vì không ai mong muốn đời mình phải khổ, chứ chưa muốn nói là thích làm cho mình khổ. Nếu có ai thích được khổ thì có lẽ người đó rơi vào tâm bệnh Masochisme (khổ dâm).

Một thực tế khác, như một số người nhận xét: con người hôm nay “mãi mê hưởng thụ”. Cách diễn đạt này không phải là để phê bình, nhưng muốn nói lên một nền văn hoá mới đang phát triển và phổ biến: văn hoá hưởng thụ. Nền văn hoá này đang len lỏi vào tất cả mọi ngõ ngách của cuộc sống và như cha Hồng Giáo nhận định là “vào tận bên trong những đan viện kín cổng cao tường nhất (nếu còn có đan viện như thế)”[1].

 Trong các cộng đoàn tu trì, tu sĩ được tự do hơn, các qui định về luật lệ càng ngày càng giảm bớt. Thay vào đó, cộng đoàn cổ võ sự trưởng thành, tự giác và tự kỷ luật của cá nhân nhiều hơn. Việc canh tân này làm cho các tu sĩ có một đời sống trưởng thành và triển nở hơn. Tuy nhiên, theo cha Hồng Giáo, có một hiện tượng đang xảy ra trong các cộng đoàn tu sĩ tại Việt nam là sự đua đòi và não trạng tiêu thụ đang đi vào trong các tu viện[2] . Sở dĩ, có hiện tượng này là vì thiếu ý thức và kỷ luật bản thân. Chính sự thiếu sót đó mà tu sĩ dễ rơi vào một lối sống trưởng giả, dễ dãi, ích kỷ sợ hy sinh và sợ khổ chế. Từ đây, tu sĩ dễ dàng đòi hỏi các quyền lợi, nhưng ngại khi đề cập đến dấn thân.

Tuy nhiên, ở một góc độ khác, thế giới hôm nay là thế giới mà người ta phải nỗ lực vươn lên nhiều hơn. Theo cái nhìn khách quan, trẻ em bây giờ phải học nhiều hơn và có nhiều thử thách hơn. Chẳng hạn trẻ em Nhật Bản có thời gian nghỉ ngơi rất ít vì phải cạnh tranh để trang bị cho mình những kiến thức cần thiết hầu có một công việc tốt trong tương lai. Ở Việt Nam, trẻ em không chỉ học ở trường, mà còn phải học thêm và học những kỹ năng nữa đến nỗi các em không có thời giờ để vui chơi và triển nở nhân cách như đã được dư luận lên tiếng lâu nay. Các sinh viên cũng không thoát ra khỏi vòng xoáy đó. Các em vừa phải tiếp thu một “núi kiến thức” lại vừa phải kiếm kế sinh nhai vì gia đình không đủ khả năng. Ngay cả, các tu sĩ cũng phải học hành, phấn đấu nhiều hơn. Một tu sĩ, ngày nay được huấn luyện mang tính toàn diện và phải trải qua một thời gian huấn luyện lâu hơn, tốn nhiều công sức và phải gian khổ.
Trong môi trường xã hội, mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt; người ta phải làm việc nhiều hơn, nhanh hơn và hiệu quả hơn. Điều đó nhều khi đòi hỏi phải từ bỏ những sở thích, tiện nghi và ngay cả tự do.
Có một điều gì đó rất nghịch lý và mâu thuẫn trong thời đại này. Người đương đại không muốn từ bỏ, nhưng lại từ bỏ rất nhiều; từ bỏ mà không biết mình từ bỏ. Tuy nhiên, người ta lại dị ứng với ràng buộc mang tính cơ chế, luật lệ như những khổ chế áp đặt; dị ứng với gian khổ trong việc huấn luyện, trong việc phát triển con người toàn diện. Điều đó phản ánh cách hành xử của một nền văn hoá mới: nền văn hoá tự do, nhân bản, đề cao phẩm giá và nhân phẩm theo chiều hướng duy thế tục và duy tự nhiên.
Phải chăng đây là chiều kích của khổ chế trong thế giới hiện đại?

2. Một hướng đi cho việc thực hành khổ chế trong thế giới hiện đại

Theo các nhà giáo dục: mức độ thành công trong cuộc sống không hệ tại ở hệ số IQ (hệ số thông minh) cao, nhưng là hệ số EQ (hệ số cảm xúc). Tuy nhiên, để có hệ số IQ và EQ cao ngoài yếu tố bẩm sinh, người ta phải cần đến một hệ số khác. Đó là hệ số AQ (hệ số thử thách). Theo một bản thống kê, tỉ lệ các nhà bác học người Do thái chiếm 40% số bác học của thế giới. Tại sao người Do Thái có tỉ lệ thành công cao như vậy, phải chăng họ là dân Chúa chọn hay là do gen di truyền? Người ta nhận thấy nơi người Do-Thái hệ số AQ của họ rất cao và theo các nhà nghiên cứu đó cũng là lý do thành công của họ. Vì ngay từ nhỏ trẻ em đã được cha mẹ cho các em đối diện với những thử thách hợp với tuổi của mình và từ đó các em có khả năng thích ứng, cũng như có khả năng vượt khó khi đứng trước những thử thách trong cuộc sống.
Sự thật này không phải là điều gì mới mẻ gì đối với Giáo Hội Công Giáo. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Ga 12, 24). Sự thật đó đã tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội, của các dòng tu. Nhờ đó đã có nhiêu thánh nhân, cũng như các bậc kỳ tài. Công Đồng Vaticano II trong hiến chế Tín Lý về Giáo Hội số 44 đã hơn một lần tái khẳng định sự cần thiết của khổ chế trong đời sống Giáo Hội.
Trong cuốn “Histoire de la vie religieuse”, Jean-Claude Guy kể lại một số hình thức khổ chế bên Syri như:
– Có những tu sĩ tự trói tay vào mỏm đá và phơi mình dưới ánh nắng ban ngày, cũng như dầm mình dưới làn sương giá lạnh của ban đêm.
– Người khác có sáng kiến đục rỗng thân cây và chui vào nằm trong đó, chỉ để một cái miệng ra ngoài để người ta cho ăn.
– Một hình thức khác cũng khá phổ biến là người ta vạch một vòng tròn và sống trong đó suốt mấy chục năm hay là dựng một cái cột không có mái che và sống suốt đời trên đó như Simon cột[3] .

Những hình thức này xem ra rất là khắc khổ, nhưng là những khổ chế có tính cách tự sát. Nếu người ta thực hành để rèn luyện ý chí thì cũng có thể chấp nhận một phần nào, nhưng nếu là lòng tự phụ, tự hào thì thật là sai lầm biết bao. Bởi vì không phải mỗi khi chúng ta thực hiện một nỗ lực bản thân là Chúa đến với mình; trái lại chúng ta luôn cần có ơn Chúa và cộng tác với ơn của Ngài.
Có những khổ chế tạo nên biết bao nhiêu tâm hồn thánh thiện, nhưng cũng một khổ chế đó lại làm hư hỏng nhiều tâm hồn. Sự khác biệt này không hệ tại ở hành vi hay là cách thức thực hiện; nó hệ tại ở động lực mà chúng ta nhắm đến.
Thuật ngữ “ascesis” trong tiếng Hy lạp có nghĩa là khổ chế, khổ hạnh. Nó còn có một nghĩa khác: tập luyện, rèn luyện. Do đó, khổ chế không phải để mà khổ. Nếu thực hành khổ chế như vậy, chúng ta không có quyền phải làm theo mà còn phải lên án, bởi lẽ nó không làm triển nở đời sống con người, nhưng là một thứ bệnh hoạn. Khổ chế đúng nghĩa là khổ chế để khổ luyện. Theo nghĩa này, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa lời Giáo Hội khuyến khích các đan sĩ “hoan hỉ hy sinh” trong sắc lệnh “canh tân và thích nghi đời sống tu trì”. Khổ chế như vậy đó là khổ chế của Tin Mừng, mà Chúa Giêsu đã thực hiện để nhập thể và nhập thế. Khổ chế của người tu sĩ cũng phải đi qua con đường đó: “Ai muốn theo Thầy phải bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo Thầy” (Lc 9,23).
Khổ chế để mở ra là con đường thích hợp với thời đại. Đó là “khổ luyện để mở ra với chính mình, để vươn lên và để thông hiệp với Chúa và với đồng loại . Hơn bao giờ hết, thế giới hôm nay là thế giới của liên đới. Con người nối kết và xích lại gần nhau hơn để hợp tác, để hỗ trợ. Như vậy, mở ra là một đòi hỏi của đạo đức thời đại, huống chi là đạo đức Ki-tô giáo. Mở ra để làm gì không phải là để nhận ra tha nhân là một cái tôi khác của tôi; tha nhân là ân nhân, là thầy của tôi và đang cần đến tôi, giống như tôi cần đến họ. Đó là sự mở ra của cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu” (Cv 2,44-45). Họ đã chấp nhận chết đi một ít để người khác được sống và cũng chính họ sẽ có được một cuộc sống dồi dào hơn. Khổ chế không còn là một sự kiêng khem, từ bỏ tiện nghi, đánh tội để kiện toàn chính mình, nhưng khổ chế mang chiều kích nhập thế và nhập thể để từ đó tất cả đều vươn lên đến với Chúa và thông hiệp với nhau trong một tình yêu, một sự sống. Một khổ chế như thế là khổ chế của Thập giá, khổ chế của người môn đệ Chúa Giêsu.

3. Một hướng đi cho ĐAN SĨ XI-TÔ VIỆT NAM hôm nay.

Đời đan tu Xi-tô sống và thực hiện chiều kích nhập thể với một Đức Giêsu, Thiên Chúa thật và người thật, đã nhập thể và nhập thế. Đức Giêsu được diễn tả rất cụ thể trong chính đời sống Xi-tô. Đó là: một Chúa Giêsu nghèo; một Đức Giêsu thầy dạy; là hình ảnh của Thiên Chúa tình yêu.
Là đan sĩ Xi-tô, sống trong khung cảnh và văn hoá Việt Nam, nên không thể tách rời khỏi Việt Nam tính.
Việt Nam ngày nay vẫn là một nước đang phát triển và là một đất nước nông nghiệp. Mức sống của phần lớn người dân vẫn còn nhiều khó khăn. Họ đang cần được thông cảm, chia sẻ…. Do đó, Đan sĩ muốn nên giống Đức Kitô là trở nên người nghèo của những người nghèo: “Con chồn có hang, có chim có tổ, con người không có chỗ gối đầu” (Mt 8,20), nghĩa là bắt chước Đức Ki-tô “Đấng vốn giàu sang đã trở nên nghèo vì chúng ta để nhờ sự nghèo khó của Ngài mà chúng ta được trở nên giàu có” (1 Cr 8,9). Khổ chế lúc này là chấp nhận bớt đi một chút xíu để có thể ban phát cho người nghèo. Chúng ta cũng đã có thói quen này trong các mùa chay, bớt ăn, bớt các chi tiêu để làm việc thiện. Như vậy, cùng một lúc có thể thực hiện được sự từ bỏ và bác ái. Khổ chế này giúp chúng ta được tăng trưởng và sống chiều kích hiệp thông một cách thiết thực nhất.
Việt Nam là một đất nước còn đậm nét với nền văn hoá lúa nước, tình làng, nghĩa cận vẫn được đề cao. Người ta nhấn mạnh đến việc “lá lành đùm lá rách” và hướng về tinh thần chung, tinh thần tập thể. Đan sĩ Xi-tô nên giống Đức Kitô hình ảnh của Thiên Chúa tình yêu và được nuôi dưỡng trong “Trường học bác ái”, là nơi đào tạo nên những con người sống bác ái Kitô giáo triệt để. Việc sống bác ái không hệ tại công việc to lớn, anh hùng, nhưng lệ thuộc vào động lực tình yêu. Yêu ai? Chắc chắn là yêu Chúa, yêu than nhân và yêu mình vì Chúa. Khi hướng về mình, chúng ta có thể làm được bất cứ việc gì, dầu điều đó có khó khăn đến đâu. Việc làm ấy không chắc chắn gì cả vì nó có khuynh hướng vun đắp cho tình yêu vị kỷ, lấy mình làm trung tâm. Trái lại, tình yêu đích thực quan tâm đến lợi ích của người khác và quên mình. Tình yêu này giúp chúng ta đi đến cùng với những đòi hỏi của nó. Một đòi hỏi được cụ thể qua các lời khấn, trong đời sống đan tu. Chính vì thế, Đức Phaolô VI, trong tông huấn “Chứng tá Phúc Âm” mời gọi chúng ta đón nhận những hoàn cảnh cuộc sống đến với chúng ta một cách tự nguyện và vui tươi. Đó là những khó khăn gắn liền với lao động; khó khăn trong các mối quan hệ xã hội, tương quan trong đời sống cộng đoàn; những thử thách của đời sống như bệnh tật, tai nạn, thiếu thốn… và sự thiếu an toàn trong cuộc sống[4] .Trên hết là phải vượt qua những đòi hỏi mang tính duy cá nhân và duy hưởng thụ nơi mỗi người trong chúng ta. Những khổ chế này tuy “vô danh” nhưng rất thiết thực và bổ ích cho việc hướng lên nơi mỗi đan sĩ.

Theo thống kê hiện nay, người công giáo chỉ chiếm khoảng 7% dân số cả nước.Số người công giáo sống đạo thực sự có lẽ không thể nào biết được. Tuy nhiên, khuynh hướng đánh mất cảm thức thờ phượng mà Đức Giáo Hoàng Phanxico cảnh báo đang là hiện tượng nơi những người trẻ. Hiện tượng này xuất phát từ việc đánh rơi chính mình trước những cám dỗ của hưởng thụ; những cám dỗ duy thế tục và những tư tưởng đậm màu sắc duy vật.Chúng ta đánh mất mình, vì thiếu đức dũng. Đức dũng ở đây không phải là sức mạnh đối đầu, sức mạnh đấu tranh, nhưng là sự tự chủ trong tâm hồn, tự chủ trong thân xác. Đó là cái dũng Đức Giêsu đã thể hiện khi bị cám dỗ trong sa-mạc 40 đêm ngày. Ngài đã chiến thắng trước quyền lực, danh vọng, tiền tài… Việc chiến thắng của Ngài đã đưa Ngài bước vào sứ mạng mà Cha trao phó. Ngài đã làm chứng cho thấy con người “chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa và chỉ thờ lạy một mình Người mà thôi” (Mt 4,10).Người đan sĩ hôm nay cũng phải trở nên một Đức Ki-tô ngôn sứ. Trở nên một “Đức Ki-tô ngôn sứ” đồng nghĩa là phải nên giống Đức Ki-tô tự chủ và vững vàng trong sa-mạc. Điều đó ắt là một khổ chế, một con đường khó khăn đang mời gọi các đan sĩ tự nguyện và hoan hỉ bước tới.

 

Kết luận:

Không ai phủ nhận sự cần thiết của khổ chế trong đời sống và trong sự thăng tiến của con người. Và ai cũng có thể thấy được rằng: không phải tất cả mọi khổ chế đều tốt. Khổ chế chỉ là con đường, là phương thế. Phương thế và con đường chỉ phù hợp cho một địa hình, một hoàn cảnh cụ thể nào đó. Mỗi hoàn cảnh, mỗi địa hình cần có những phương thế và hình thức khác nhau.

Tâm thức hiện đại là tâm thức của dấn thân, chứ không chỉ nhấn mạnh vào việc xuất thế. Các đan sĩ cũng không thoát ra khỏi tâm thức này. Đan sĩ là phải là con người của dấn thân, dấn thân cho nước trời và dấn thân cho phần rỗi của anh em, của chính mình.Họ hướng về một mình Thiên Chúa, nhưng để mở ra và mở cho mọi người. Việc mở ra này rất cần một thái độ tự nguyện, hơn là chấp nhận; rất cần một tâm tình hân hoan từ bỏ, hơn là thái độ thụ động. Tự nguyện, hoan hỉ là hai yếu tố để chúng ta mở ra rộng hơn, hướng lên cao hơn và hiệp thông sâu xa hơn. Đường đó là đường khổ chế mà không khổ cực; khổ chế nhưng không tự sát, nhưng là khổ luyện để giống Chúa Giêsu hơn.

 

 


 

[1]Lm Nguyễn Hồng Giáo, Chúa gọi tôi đi theo Người, học viện Phanxico, năm 2006, tr 232

[2] Sdd, tr. 233

[3] Hoành Sơn, Khổ luyện và khổ hạnh, www.catholic.org.tw/vntaiwan/index.html

[4] Phao-lô VI, tông huấn “Chứng tá Phúc Âm” số 30.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CANH TÂN MỖI NGÀY

(Canh tân theo tinh thần của thánh Antôn

và Đức Giáo Hoàng Phanxicô)

 

 

 Đan Viện An Phước 

 

Người Trung Hoa tương truyền rằng: vua Thang đã cho khắc lên cái chậu tắm của mình dòng chữ: Nhật nhật tân, hựu nhật tân (tạm hiểu là nếu muốn ngày hôm nay đổi mới thì ngày ngày đều phải đổi mới, lại tiếp tục đổi mới). Như thế, vấn đề canh tân thật là cần thiết đối với mọi người, đặc biệt là đan sĩ. Không chỉ một ngày, một tháng hay một năm mà người ta còn phải canh tân cả đời. Vậy chúng ta phải canh tân đời sống như thế nào? Đâu là những phương thế giúp canh tân đời sống? Trong bài viết này xin giới hạn việc canh tân theo tinh thần sống trong Giáo hội là thánh Antôn viện phụ và Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

I. CANH TÂN THEO THÁNH ANTÔN VIỆN PHỤ

Lịch sử ghi lại sự thay đổi kỳ diệu của Thánh Antôn. Điều đó được thực hiện qua bốn giai đoạn “di chuyển” trong cuộc đời thánh nhân: từ bìa làng, trong ngôi mộ, tại một pháo đài và trong nơi núi đồi sâu thẳm.

1. Nơi bìa làng

Khi nghe câu Tin mừng Matthêu 19,2: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện hãy bán tất cả những gì anh có và phân phát cho người nghèo rồi hãy đến theo tôi”, Antôn đã trở về thực hiện như Tin Mừng đòi hỏi là bán tài sản của mình, phân phát cho người nghèo. Lần thứ hai cũng thế “Chàng nghe đọc Tin Mừng: “Anh em đừng lo lắng cho ngày mai”. Chàng không ở lại đó lâu. Chàng ra đi và phân phát cho người nghèo tiền bạc mà chàng còn giữ lại. Chàng ủy thác cô em gái cho các trinh nữ có tiếng tốt và trung tín để cô em được giáo dục tử tế” [1] . Thế rồi chàng ra đi tới bìa làng và sống như một đan sĩ. Lời Chúa đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của Antôn, từ một người giàu sang trở thành một người vô sản vì Tin Mừng. Từ đây, Antôn thực hành khổ chế và cầu nguyện liên lỉ, đồng thời dùng Lời Chúa như kim chỉ nam hướng dẫn cuộc đời mình. Chàng học thuộc lòng Kinh Thánh đến nỗi trí nhớ của chàng thay cho sách như lời thánh Athanasio quả quyết: “Chàng chú tâm vào các bài đọc trong nhà thờ và không để rơi rớt một lời Sách Thánh nào. Trái lại, chàng nhớ tất cả, ký ức của chàng thay thế cho sách vở”[2]

Trong đời sống đan tu, chúng ta có rất nhiều thời điểm để tiếp xúc với Lời Chúa như trong các giờ kinh phụng vụ, đặc biệt là giờ lectio divina. Ngoài ra trong những giờ lao tác, những lúc rảnh rỗi, chúng ta có thể gợi nhớ lại Lời Chúa và suy niệm liên tục trong ngày sống như thánh Bênađô diễn tả đây là lúc chúng ta “nhai lại” hay còn gọi là “tiêu hóa” những gì mình đã đọc. Thật vậy, chính trong những giờ này mà Lời Chúa có cơ hội thấm nhập vào tâm hồn và chất vấn chúng ta, đồng thời làm cho tâm hồn chúng ta được đổi mới. 

Ngoài việc đọc, suy niệm Lời Chúa, Antôn còn học hỏi gương thánh thiện và nhân đức của người khác. Thánh Athanasio đã ví Antôn như chú ong chuyên chăm hút mật khi diễn tả: “Chàng muốn học gương những việc tốt lành và sự khổ hạnh của từng người. Chàng chú ý nhìn họ: người này đáng yêu, người kia cầu nguyện không ngừng. Chàng ghi nhận: người này thức để cầu nguyện, người kia chú tâm đọc Lời Chúa. Chàng kính phục người này vì đức kiên nhẫn, tôn kính người kia vì ăn chay và nằm đất. Chàng quan sát: người này hiền lành, người kia quảng đại. Chàng thấy rằng tất cả mọi người không trừ một ai, đều có tấm lòng dịu dàng và tôn kính đối với Chúa Kitô và yêu thương nhau”[3] .
Có thể coi đây là giai đoạn canh tân đầu tiên của Antôn. Quả thế ngài đã từ bỏ mọi sự cách dứt khoát không chút do dự và hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa. Antôn muốn xa cách thế gian hơn nữa để thực hành đời tu nên chàng đã đi vào một ngôi mộ.


2. Trong một ngôi mộ

Tại đây có thể nói Antôn đi vào cuộc canh tân quyết liệt hơn, phải chiến đấu với những kẻ thù đầy mưu mô xảo quyệt để đứng về phía Thiên Chúa. Thật vậy, chàng phải chiến đấu kịch liệt với ma quỉ và chiến thắng đã đến với Antôn vì Thiên Chúa luôn ở bên cạnh để giúp chàng. Tuy nhiên, ở giai đoạn này thánh Athanasio muốn đề cập đến những thực tại sâu xa hiện hữu trong thâm sâu hữu thể chúng ta. Chúng là những thực tại vô hình luôn quấy phá khiến chúng ta không thể đến gần Thiên Chúa. Đó chính là cuộc chiến thiêng liêng mà chúng ta phải chiến đấu từng ngày. Đúng vậy, “trong chúng ta có những sức mạnh vượt quá chúng ta, một mãnh lực ở trong chính chúng ta mà không phải do chúng ta và chúng ta phải chiến đấu chống lại. Đó chính là ý nghĩa của cuộc chiến thiêng liêng”[4] . Càng đi sâu vào nội tâm, người ta càng nhận ra con người thật của mình như thế nào, chứ không như họ tưởng trước đây. Hiện nay chúng ta không phải chiến đấu với mưu ma chước quỉ, nhưng còn chiến đấu với những bản năng thấp hèn trong chúng ta, chiến đấu với những khuynh hướng và dục vọng luôn nổi lên cản trở chúng ta sống theo Thần Khí Thiên Chúa. Càng chiến đấu chúng ta càng kinh nghiệm để phân biệt đâu là những tác động của Satan và đâu là những thúc đẩy của Thần Khí.

3. Trong một pháo đài
Đây có thể được coi là giai đoạn canh tân dứt khoát và hoàn hảo của Antôn. Vì sau giai đoạn này, Antôn đã trở nên một con người hoàn toàn mới. Antôn tiếp tục sống đời khổ hạnh và chiến đấu với ma quỉ. Trong suốt 25 năm, Antôn đã hoàn toàn sống cho Thiên Chúa đến nỗi không ra khỏi đó và cũng chẳng ai có thể đến với ngài. Nhưng sau này người ta đã đập phá lâu đài và “Antôn ra khỏi pháo đài như từ một nơi thánh thiêng, hình như ngài đã học biết những điều bí ẩn của Thiên Chúa, ngài tràn đầy Chúa Thánh Thần”[5] . Sau thời gian tu luyện lâu dài như thế, con người của Antôn đã được đổi mới hoàn toàn như thánh Athanasio đã thuật lại: “Trái tim ngài đã tìm lại sự tinh tuyền. Ngài không bị buồn thảm làm héo tàn, cũng không để niềm vui làm tan vỡ. Không, trong ngài không có cười hỉ hả cũng chẳng có buồn da diết. Ngài nhìn đám đông mà chẳng bị giao động. Rất nhiều người tụ họp nơi đó và mọi người thân ái chào đón ngài, dầu vậy, niềm vui của ngài vẫn bình an thanh thản. Ngài vẫn giữ nét vui tươi, vì lý trí hướng dẫn ngài: ngài “tự nhiên” như Adam trước khi phạm tội”[6] . Một tâm hồn an tĩnh là hoa trái của Chúa Thánh Thần, là kết quả của những ngày vất vả tìm Chúa và của ước muốn canh tân không ngừng. Khi thấy mình đã tiến bộ trong đời tu, chắc chắn không ai dám tự hào về những thành quả mình đã đạt được, nhưng càng khiêm tốn tin tưởng vào Thiên Chúa mãnh liệt hơn. Chính thánh Antôn cũng đã biết điều đó nên ngài quyết định xa rời những điều có thể làm vẩn đục tâm hồn ngài bằng cách đi vào chốn rừng sâu núi thẳm.


4. Nơi núi đồi sâu thẳm

Với một tâm hồn hoàn toàn tinh tuyền như thế, Antôn vẫn không lấy làm đủ và ngài cẩn trọng với chính mình khi nói: “Tôi sắp trở nên kiêu ngạo hoặc người ta tin tôi tốt hơn thực chất của tôi”. Vì thế, Antôn quyết định tiến sâu vào sa mạc lòng để nên một với Thiên Chúa. Thật thế, người ta thấy được nơi ngài hình ảnh của một con người đầy tràn Thiên Chúa: “Trái tim ngài an bình, vì thế cử chỉ của ngài nhẹ nhàng. Khuôn mặt ngài hân hoan vì Thiên Chúa ở trong ngài. Những chuyển động của thân xác ngài làm cho thấy và nhận ra đáy tâm hồn ngài. Và đây là cách người ta nhận biết Antôn: Ngài không bao giờ giao động, tâm hồn ngài an tĩnh. Khuôn mặt ngài không bao giờ u buồn, bởi vì trái tim ngài hân hoan”[7]

Lướt qua bốn giai đoạn thanh luyện và canh tân của thánh Antôn, chúng ta thấy đều có những cuộc chiến đấu quyết liệt, đều có những dứt bỏ không chút tiếc nuối để cuối cùng cảm nghiệm được sự dịu ngọt, sự bình an của Thiên Chúa và nhất là được nên một với Ngài. Thiết tưởng đó chính là quả ngon chín mọng dành cho cuộc đời thánh Antôn.

Đó là một vài điểm toát yếu về sự canh tân đời sống theo thánh Antôn viện phụ. Sau đây, chúng ta cùng nhìn vào mẫu gương canh tân của vị Giáo hoàng đương nhiệm để biết Ngài đã thực hành sự canh tân thế nào trong Giáo hội.

 

II. CANH TÂN THEO TINH THẦN ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ

Ngày nay, khi nói đến Đức Giáo Hoàng Phanxico, những ai quan tâm đến tình hình Giáo hội, sẽ nghĩ ngay đến việc canh tân Giáo hội. Dù có vẻ chậm rãi, nhưng rất mạnh mẽ. Công cuộc canh tân Giáo hội, khởi đi từ ánh nhìn của Đức Giáo Hoàng Phanxico. Nhìn từ thế giới nội tâm, để dần chuyển đến sự hoà nhập, nhằm từng bước biến đổi từ chính thẳm sâu tâm hồn con người.

 

1. Canh tân cái nhìn

Để tồn tại và phát triển, điều hiển nhiên là mỗi người đều phải tuân theo quy luật “nhìn xem, phán đoán, và hành động”[8]. Để canh tân Giáo hội, Đức Giáo Hoàng Phanxico đã khởi đi từ việc “canh tân chính cái nhìn” của mình về Giáo hội nói riêng và thế giới nói chung. Ngài nhìn Giáo hội trong tư thế là “Hiền thê, Mẹ, Nữ tỳ, Người phục vụ”[9]. Nếu Giáo hội không còn ý thức vai trò của mình là gì, thì sẽ đứng trong vị thế của người “quản trị” và người kiểm soát đức tin. Điều đó tạo nên một cái nhìn lạnh lùng, xa cách với con người mà mình được mời gọi phục vụ[10]. Vậy làm sao để đổi mới cái nhìn?

 

2.Canh tân từ bên trong

Điều trước tiên chúng ta thấy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã khởi đầu việc canh tân Giáo hội từ trong thẳm sâu tâm hồn của ngài. Điều đó thể hiện qua cung cách sống của ngài. Ngay khi đắc cử, ngài đã khởi đầu việc canh tân Giáo hội. Trước hết, ngài không đi xe riêng; không cần những người giúp việc; không ở trong nhà riêng dành cho Giáo hoàng; không cần người canh cửa thông thường và không mặc những phẩm phục lộng lẫy … Những điều vừa nêu trên chỉ là vẻ bề ngoài, nhưng nó cũng phản ánh niềm khát khao bên trong, cách riêng cuộc canh tân Giáo hội, đã nung nấu trái tim mục tử của ngài bấy lâu nay. Ngài mãi khát khao một điều, làm sao để thay đổi con tim của các mục tử và của các Kitô hữu[11].

Từ trong cái nhìn đó, ngài mời gọi các mục tử trong Giáo hội tìm cách phục vụ cho đoàn chiên hơn là quản trị, nghĩa là mỗi mục tử để cho Chúa Thánh Thần thúc đẩy mạnh mẽ trong tâm hồn, ngõ hầu đáp lại mong ước canh tân đời sống các mục tử, canh tân Giáo hội. Muốn đạt được điều đó, cần canh tân đời sống của mình trước khi canh tân đoàn chiên và thế giới. Việc canh tân chắc chắn không nhắm đến mục đích nào khác là để bảo tồn và phát triển.

 

3. Canh tân để phát triển

Việc canh tân đồng nghĩa với việc kiếm tìm sự tích cực, tìm kiếm sự phát triển hầu đem lại lợi ích cho Giáo hội và cho thế giới. Đức Giáo Hoàng Phanxico đã đặt vấn đề với các Giám mục Châu Mỹ La Tinh rằng: “Chúng ta có tạo ra một thói quen phò tích cực hay không? Chúng ta có thăng tiến các không gian và cơ hội giúp biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa không? Chúng ta có ý thức được trách nhiệm phải duyệt xét lại các sinh hoạt mục vụ và hoạt động của các cơ cấu Giáo hội, bằng cách tìm thiện ích của tín hữu và của xã hội không?”[12] .

Lời chất vấn trên đây, thiết tưởng cũng là lời đang nói với chúng ta: hãy duyệt xét lại đời sống mình. Hãy biết phản tỉnh và đổi mới mỗi ngày trong cung cách sống. Vì không đổi mới thì đồng nghĩa với thụt lùi. Đổi mới không có nghĩa là loại trừ nhưng nhằm để phát triển.
Sau khi nêu lên hai mẫu gương canh tân trong Giáo hội, chúng ta cùng suy nghĩ xem tại sao mỗi đan sĩ phải canh tân và phải dùng những phương thế nào để canh tân cách hiệu quả?

III. ĐAN SĨ CANH TÂN

 

1. Tại sao phải canh tân?

Con người được Thiên Chúa đặt trong một tư thế còn dang dở, chưa hoàn thành, nên Thiên Chúa mời gọi con người “Hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”[13] . Lời mời gọi đó thúc giục con người phải tiến lên, không được dậm chân tại chỗ, nếu không muốn bị lạc hậu và suy thoái, vì thời đại hôm nay luôn thay đổi và tiến bộ không ngừng. Một trong những cám dỗ mà con người thường mắc phải, đó là bằng lòng với những gì đang có và không còn muốn cố gắng nữa trong đời sống cộng đoàn cũng như đời sống thiêng liêng. Do đó, người đan sĩ phải canh tân, đổi mới mỗi ngày để trở nên tốt hơn, thánh hơn và toàn vẹn hơn. Đâu là những phương thế giúp canh tân đời sống người đan sĩ?

 

2.Phương thế canh tân

Theo công đồng Vatican II, có ba phương thế để canh tân là trở về nguồn mạch của đời sống ki-tô hữu: Kinh Thánh, ơn linh hứng nguyên thuỷ của Đấng sáng lập và tác động của Chúa Thánh Thần [14].

a. Kinh Thánh

Kinh Thánh nói chung, nhất là lời dạy của Đức Kitô qua Phúc Âm là tiêu chuẩn và là phương thế tối hậu để đan sĩ canh tân từng ngày. Sở dĩ thánh Antôn viện phụ sống đời hoàn thiện trong khó nghèo là do ngài luôn biết lắng nghe và suy niệm lời Chúa. Còn Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn làm một cuộc canh tân, khởi đi từ chính bản thân rồi đến Giáo hội mà mục đích của cuộc canh tân là phục vụ và đem lại lợi ích, hạnh phúc cho con người. Cũng do lời Chúa nung nấu trong tâm hồn rằng: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt 20,26-27). Sau Kinh Thánh phải kể đến việc trở về nguồn của Đấng sáng lập để canh tân thực sự.

b. Trở về nguồn

Sống trong thời đại văn minh, đan sĩ hôm nay có nguy cơ ngày càng xa dần nếp sống đan tu nguyên thuỷ. Chọn nếp sống khổ hạnh, đơn sơ, khó nghèo, đan sĩ cố gắng đi vào nội tâm qua việc gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, luôn sống trong tâm tình sám hối và tôn kính Đức Maria. Đây là những yếu tố nền tảng làm nên đời đan tu mà thánh Biển Đức đã khởi xướng, đã sống và Ba Thánh Tổ Phụ Xitô: Roberto, Alberico, Stephano cũng đã nối gót bước theo. Kinh nghiệm thực tế cho thấy con suối càng gần nguồn, nước càng trong lành và ngọt mát. Cũng vậy, nếu đan sĩ càng trở về gần với tinh thần Đấng sáng lập bao nhiêu, thì cuộc sống đan tu càng dồi dào và phong phú bấy nhiêu, đồng thời đan sĩ càng kín múc được sức sống mãnh liệt từ nơi cội nguồn Thánh Thần đã khơi lên, và chắc chắn đời đan tu sẽ mãi tươi xanh và đơm bông kết trái. Cuối cùng, chúng ta phải nói đến một nhân vật quan trọng không thể thiếu trong việc canh tân đời sống cá nhân cũng như Giáo hội, đó là Chúa Thánh Thần.

c.  Chúa Thánh Thần

Nói đến canh tân là nói đến Chúa Thánh thần, nguồn mạch của sự tái tạo và đổi mới. Nhờ Chúa Thánh thần, thánh Antôn viện phụ đã thực hiện một cuộc đổi mới và Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đang thực hiện cuộc đổi mới. Nhờ sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, người đan sĩ luôn nhìn lại quá khứ, suy xét hiện tại và định hướng tương lai để canh tân, đổi mới từng ngày như cha tổ phụ đã dạy rằng: “Trước không phải thì sau phải.” Có như vậy, ngày nào đan sĩ cũng phải cố gắng tiến bộ và càng ngày càng trở nên thầy dòng thật, thầy dòng thánh.

 

 

Kết luận

Sau khi tìm hiểu việc canh tân của thánh Antôn và Giáo Hoàng Phanxicô. Chúng ta nhận ra rằng: để trở nên một con người mới phải trải qua những bước canh tân thật khó khăn và đầy gian khổ, không phải một ngày, một tháng, một năm nhưng là cả đời. Ngoài ra, để có những ảnh hưởng tích cực đối với người khác, thánh Antôn và Giáo Hoàng Phanxicô phải khởi đi từ việc canh tân chính mình, phải không ngừng chiến đấu với bản thân để cuối cùng hoàn toàn thuộc về Chúa và sống theo thánh ý Ngài. Đó chính là mục đích của việc canh tân. Tuy nhiên, đối với người kitô hữu nói chung và đan sĩ nói riêng, để việc canh tân đạt hiệu quả, không thể không có Chúa Thánh Thần, Lời Chúa và huấn quyền là bảng chỉ đường; đồng thời trở về tinh thần của Đấng sáng lập. Ước mong mọi đan sĩ cũng đạt được sự canh tân bản thân cách mỹ mãn.

 

 


 

[1] Duyên Thập Tự, Hội dòng Xi-tô Thánh Gia Việt nam, lịch sử Linh đạo Đan tu I, tr 37

[2] Sdd, tr 39

[3] Sđd trang 39

[4] Sđd trang 44

[5] Sđd trang 45

[6] Sđd trang 45-46

[7] X. Bài nói chuyện của Đức Thánh Cha Phanxicô với hàng Giám Mục Mỹ Châu Latinh, http://www.daminhvn.net/tin-giao-hoi/tieng-noi-duc-giao-hoang/8232-bai-noi-chuyn-ca-c-thanh-cha-phanxico-vi-hang-giam-mc-m-chau-latinh-.html

[8] X. Bài nói chuyện của Đức Thánh Cha Phanxicô với hàng Giám Mục Mỹ Châu Latinh,

[9] X. Bài nói chuyện của Đức Thánh Cha Phanxicô với hàng Giám Mục Mỹ Châu Latinh,

[10] X. Bài nói chuyện của Đức Thánh Cha Phanxicô với hàng Giám Mục Mỹ Châu Latinh

[11] X. Bài nói chuyện của Đức Thánh Cha Phanxicô với hàng Giám Mục Mỹ Châu Latinh,

[12] Mt 5,48

[13]  x. Perfectae Caritatis, số 2

[14] x. Perfectae Caritatis, số 2

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

VĨNH CƯ VÀ RA KHƠI

 

Thiên Giang, VP

Cha ông ta thường nói: “Có an cư mới lạc nghiệp”. Một cách nào đó, đời sống vĩnh cư của đan sĩ cũng mang nghĩa này: một môi trường bình an, một cộng đoàn huynh đệ, sống chết bên nhau. Trong đan viện, có chung một luật sống, một bề trên. Nhờ đó, đan sĩ thống nhất đời sống mình trước nhan Thiên Chúa và quy hướng tất cả về Chúa, với Chúa và với anh em.
Hiến chế Lumen Gentium số 4 đã xác quyết: “Đời sống linh thiêng họ cũng phải cống hiến công ích cho toàn thể Giáo hội. Vì thế, ai nấy đều có nghĩa vụ, phải làm việc theo sức và hình thái ơn kêu gọi của riêng mình, hoặc bằng kinh nguyện, hay bằng hoạt động tích cực cho Nước Chúa Kitô được ăn rễ sâu và thêm mạnh mẽ trong các tâm hồn, cùng lan tỏa đi khắp muôn phương thế giới”.
Vậy đâu là giá trị và cách thế giúp đan sĩ sống lời khấn Vĩnh cư và cùng “ra khơi” với con thuyền Giáo hội?

1. Đan sĩ sống vĩnh cư

Đan sĩ sống vĩnh cư là tự nguyện kiên định trong nếp sống đan tu và sống chết với anh em trong đan viện mình đã khấn (x. Hiến Pháp số 153). Đan sĩ là những người khao khát, mong muốn được sống với Chúa, yêu mến và hoàn toàn thuộc về Chúa, nên đã tránh xa những lời mời gọi hấp dẫn của thế gian: tiền tài, danh vọng, sự nghiệp…, đi vào nơi thanh vắng để sống đời đan tu. Trong đời sống đan tu, lời khấn Vĩnh cư không chỉ như một biên lũy gìn giữ đan sĩ khỏi tính bất định, “nay đây mai đó, không ích gì cho tâm hồn đan sĩ” (x. TL 1,11…). Nhưng điều chính yếu là để đan sĩ sống cho một mình Thiên Chúa và thuộc trọn về Chúa, trở nên chứng tá cho cuộc sống mai sau ngay tại trần gian này.
Công đồng Vatican II trong sắc lệnh Perfectae Caritatis (PC) số 6 đã nhắc nhở tu sĩ: “Trong bất cứ hoàn cảnh nào, tu sĩ phải lo tăng cường nơi họ đời sống ẩn dật với Đức Kitô trong Thiên Chúa”. “Ẩn dật với Đức Kitô trong Thiên Chúa” (x. Cl 3,3) là lời mời gọi chung cho mọi người. Với đan sĩ, đây là một nhu cầu sống chết không thể thiếu, đó là sống thân mật với Chúa Kitô trong tương giao đối thoại, kết hiệp với Thiên Chúa – Đấng hằng ngự nơi tâm hồn mỗi người. Sống vĩnh cư giúp đan sĩ quy hướng toàn bộ đời sống về Chúa, lắng nghe tiếng Chúa và thuộc trọn về Chúa (x. Mt 6,18).
Đan sĩ, những người được Chúa quy tụ sống vĩnh cư trong đan viện. Tuy mỗi người có tính tình, quan điểm và cách suy nghĩ khác nhau, nhưng tất cả có cùng chung một khát vọng là sống lý tưởng đan tu trong cộng đoàn và trong lòng Giáo hội, cùng chung một linh đạo và một đoàn sủng; cùng nhau “thực thi tình bác ái huynh đệ chân thành, tôn trọng và mang gánh nặng cho nhau” (x. TL 72). Như vậy, đan sĩ kết hiệp mật thiết với Chúa cũng sẽ gắn bó hiệp nhất với nhau: “Một tình yêu chiều dọc, chiều ngang không tách rời – Tình yêu Thánh giá, chiều dài càng cao sâu, chiều ngang càng rộng mở”. Chính từ nơi đây, Thánh Thần Chúa chắp cho đan sĩ đôi cánh tình yêu để có thể mở rộng tâm hồn đến với anh chị em, và hướng tâm hồn đến miền truyền giáo của Giáo hội, bằng những cách thế đặc thù của đời đan tu.
Đời sống vĩnh cư của đan sĩ không chỉ là sống ở một nơi cô tịch thanh vắng, nhưng còn là ý thức Chúa đang hiện diện, đang hoạt động nơi mình (x. Gl 2,20). Chúa Giêsu ba mươi năm dài sống “vĩnh cư” âm thầm ở Nazareth, Người luôn sống trong sự hiện diện của Cha, luôn kết hiệp với Cha và Thánh Thần. Như vậy, đan sĩ sống vĩnh cư trong đan viện là để sống với Chúa Kitô, sống trong sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa và thực hiện những dự phóng của Thiên Chúa.
Cùng với Chúa Giêsu, ở Nazareth Mẹ Maria đã sống một đời sống chiêm niệm trong âm thầm lặng lẽ (x. Lc 2,19.51). Mẹ luôn thực thi ý Chúa và thuộc trọn về Chúa dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Có thể nói, Mẹ như là một đan sĩ đầu tiên đã thuộc trọn về Chúa trong đời sống ẩn dật, nghèo khó. Và Mẹ cũng được kể như là một tông đồ nhiệt thành đầu tiên của Chúa – Đấng đồng công cứu chuộc, luôn hiện diện đồng hành và ra khơi với con thuyền Giáo hội.
Các Hội Dòng Xitô thường chọn tước hiệu Mẹ Maria làm bổn mạng, và trước mỗi tên gọi của các đan sĩ đều mang thánh danh Mẹ. Điều này cho thấy Mẹ Maria có một vị trí rất quan trọng trong đời sống đan sĩ. Nhờ ơn Chúa dưới tác động của Chúa Thánh Thần và sự trợ giúp của Mẹ sẽ biến đổi chúng ta mỗi ngày nên giống Chúa Giêsu con của Mẹ, nên lễ tế thờ phượng và yêu thương.
Cho dù đan sĩ sống vĩnh cư trong đan viện, nhưng cuộc sống vẫn luôn là một cuộc hành trình tìm Chúa không ngơi nghỉ.

2. Ra khơi – một hành trình tâm linh

Đan sĩ là những người mang nơi mình sức mạnh nội tâm của một đời sống an hòa, yêu thương trong Chúa, tỏa sáng niềm vui và hy vọng. Nơi đan sĩ, Chúa Thánh Thần không ngừng thánh hóa và canh tân mỗi ngày nên giống Chúa Kitô.
Chị Têrêsa Hài Đồng dù chỉ sống có chín năm trong đan viện, nhưng tình yêu Chúa đã cháy bỏng nơi trái tim chị, và thúc đẩy chị làm sao cho mọi người nhận biết tình yêu của Chúa. Lời cầu nguyện của chị như con thuyền ra khơi vượt đại dương, đến với mọi người trên thế giới. Vì thế, Giáo hội đã đặt chị làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Như chị Têrêsa, đan sĩ cũng phải để cho tình yêu Chúa cháy bỏng trong lòng mình “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5).
Ngày nay đan sĩ đang hiện thực nơi đời sống mình một Chúa Kitô chiêm niệm, kết hiệp và hướng về Cha. Từ nơi Thiên Chúa, đan sĩ đón nhận tình yêu và đem tình yêu ấy đến với mọi người. Tình yêu mà chính Chúa Giêsu đã đưa lên đỉnh đồi thập giá, để phát sinh nguồn ơn cứu độ. Những ai theo Đức Kitô là “Sống đời sống Đức Kitô một cách sung mãn hoàn toàn và chiếu giãi đời sống ấy ra chung quanh; lại phải di dưỡng bằng việc suy ngắm phúc âm và hiểu biết sâu xa những việc làm, lời nói của Đức Kitô” (An Sơn Vị, Thánh Linh Trong Đời Dâng Hiến, tr 49). Muốn vậy, đan sĩ cần khám phá ra chính mình và ý muốn của Thiên Chúa về mình để có thể xây dựng nhân cách, góp phần xây dựng cộng đoàn và Giáo hội.
Muốn tiến bước trên hành trình tâm linh, đan sĩ cần “ra khơi”, ra khỏi cái tôi của mình, cái ảo tưởng về một ơn gọi trổi vượt. Nhưng thực tế, đan sĩ vẫn là con người với đầy những yếu đuối, đam mê, dục vọng, nên khi ta càng muốn nhấn nó xuống, nó càng trồi lên, càng tránh xa, nó càng đến gần. Cùng với ơn Chúa dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ ra khơi vượt qua những sóng gió bão táp cuộc đời để đến bến bờ bình an.
Khi nhận ra những dấu chỉ của thời đại, đan sĩ chìm sâu vào đời sống cầu nguyện với Thiên Chúa trong Chúa Kitô và trong đời sống ẩn dật. Trong thinh lặng thánh, tất cả được trải rộng một tình yêu chan hòa-tình yêu Giêsu-tình yêu cứu độ.
Từ sự thanh vắng của môi trường giúp cho đan sĩ có một đời sống nội tâm tĩnh lặng, được Chúa thánh hóa và cho cộng tác vào công trình cứu độ của Người. Được sống thân tình và kết hiệp với Chúa, yêu mến thực thi ý Chúa, cùng sống tình bác ái huynh đệ, lắng nghe tha nhân và tự nguyện hy sinh cách dễ dàng không ngại gian khổ. Tâm hồn đan sĩ luôn an hòa, khiêm hạ, có một tình yêu tinh tế với Chúa, với tha nhân và luôn sống tiếng “Ta khát” của Chúa Giêsu dành cho nhân loại.
Đức Nguyên Giáo Hoàng Benedicto XVI đã không ngần ngại xác quyết: “Đời sống cầu nguyện để Chúa Thánh Thần tạo nên những luồng sinh khí tươi mát thổi Tin Mừng vào trong thế giới một cách mới” (Benedicto XVI, Ánh Sáng Thế Gian, tr.168), thì đời sống đan sĩ cũng phải để Chúa Thánh Thần thổi luồng sinh khí ấy vào, làm cho đời sống mỗi ngày một phát triển và thăng hoa trong hành trình tâm linh. Có thể đời sống chúng ta có những lúc “vất vả suốt đêm mà chẳng thu lượm được gì”. Bởi cuộc sống vẫn còn đó những đau khổ, bệnh tật, thử thách, hiểu lầm và cả những lỗi lầm yếu đuối của bản thân. Giữa những phong ba bão táp của cuộc đời, trước những thất bại có lúc muốn buông xuôi bỏ cuộc, ta muốn ngủ yên một giấc cho quên những thống khổ nhọc nhằn. Nhưng Chúa lại đến bên và bảo: “Hãy ra khơi”, kéo ta ra khỏi những ước vọng dự tính của riêng mình, những đam mê, khát vọng của trần đời; giúp ta kiên trì chấp nhận những khó khăn của đời dâng hiến chẳng biết tỏ cùng ai, để “Ra khơi” với Chúa, lắng nghe Lời Chúa chỉ dạy. Khiêm tốn, mềm dẻo để Chúa Thánh Thần thánh hóa và hướng dẫn ta trong đời đan tu. Từ nơi sâu thẳm của một tâm hồn tĩnh lặng và bình an, đan sĩ sống chan hòa yêu thương, đơn sơ như trẻ nhỏ trước nhan Chúa Cha từ ái (x. Mt 26,35). Suốt ngày đan sĩ không tìm điều gì cho mình ngoài việc tìm ý Chúa để vâng theo (Cv 22,10), để mọi nhu cầu của anh chị em đang thao thức cũng là thao thức nơi nhịp đập của trái tim đan sĩ.
Vẫn biết rằng, với sức riêng ta không thể tự thánh hóa mình và giúp người khác, nhưng Chúa vẫn muốn dùng năm chiếc bánh và hai con cá để cho năm ngàn người ăn no không kể phụ nữ, trẻ em mà còn dư được nhiều thúng đầy (x. Mt 14,15-21). Thiên Chúa chỉ cần một chút nước để chén cứu độ tuôn tràn thế giới. Đan sĩ cầu nguyện cùng với Chúa Giêsu, nói cách khác chính Chúa cầu nguyện trong chúng ta qua Chúa Thánh Thần, nhờ đó chúng ta được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa (x. 2Cr 3,6). Đan sĩ muốn ra khơi cần có luồng gió của Chúa Thánh Thần thúc đẩy, cùng với sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa lưu chuyển trong ta và nơi mọi người, (x. 1Cr 3,16). Nhờ đó đan sĩ mới có thể làm chứng cho Tin Mừng của Chúa Giêsu và giúp nhiều người tin nhận biết Chúa. Như vậy, đan sĩ chính là “những nhà chiêm niệm truyền giáo” (Yves Jausions, Tâm nguyện không biên giới, tr 162)

3. Ra khơi với Giáo hội

Sắc lệnh Perfectae Caritatis số 20 nói rõ: “Cần phải triệt để bảo toàn tinh thần truyền giáo nơi các dòng tu, và phải tùy theo đặc tính mỗi dòng mà thích nghi với các điều kiện hiện thời, hầu bảo đảm cho việc rao giảng Tin Mừng giữa các dân tộc được sinh hoa kết quả nhiều hơn”. Như vậy, đan sĩ dù sống vĩnh cư trong đan viện, nhưng vẫn phải có bổn phận làm lớn mạnh tinh thần truyền giáo nơi mình để góp phần xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô là Giáo hội.
Nhưng đan sĩ sẽ ra khơi với Giáo hội bằng cách nào?
Đó là khi đan sĩ sống đúng căn tính đan tu chiêm niệm của mình, và đây cũng là điều Giáo hội mong muốn nơi các đan sĩ, để góp phần vào công cuộc cứu độ của Chúa Kitô và cầu nguyện cho việc truyền giáo.
Thực tế, cuộc sống của đan sĩ vẫn còn những khó khăn thử thách, như không được anh em, chị em thông cảm, những yếu đuối vấp ngã trong đời thường, những khô khan, nguội lạnh khi cử hành phụng vụ, những đêm tối của tinh thần, thể xác…tất cả đã gắn chặt vào đời ta. Qua những khó khăn thủ thách đó, thánh Phaolô giúp đan sĩ xác tín khi ngài nói: “Mọi sự đều nên ích cho người yêu mến” (Rm 8,28). Với xác tín đó, đan sĩ can đảm, an bình vui vẻ đón nhận tất cả, cùng ra khơi với Giáo hội dưới ngọn cờ Thánh giá. Như vậy, chính Tình yêu của Chúa là hành trang quí giá giúp đan sĩ ra khơi, ra khỏi những nếp nghĩ, những thói quen, đam mê của cuộc sống cá nhân, của bản thân, của cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần hiệp thông và phục vụ.
Khi đan sĩ sống đoàn sủng và linh đạo đan tu theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, mở rộng tâm hồn đối với sứ mạng truyền giáo của Giáo hội, chính là lúc đan sĩ tham gia vào đời sống Giáo hội. Trong Hiến Chế Perfectae Caritatis số 2, Công Đồng Vatican II đã nhấn mạnh: “Tất cả các dòng tu đều phải thông phần vào đời sống Giáo hội, và tùy vào đặc tính riêng mỗi dòng, phải hết sức ủng hộ những sáng kiến và ý chỉ của Giáo hội, nhất là trong phạm vi Kinh Thánh, Phụng vụ, Mục vụ, Đại kết tông đồ và xã hội”. Do đó, đan sĩ cần có tinh thần nhiệt thành, quan tâm đến đời sống Giáo hội theo đặc tính, linh đạo của Hội dòng. Đan sĩ có thể tham gia xây dựng Giáo hội qua việc đào sâu Kinh Thánh, Phụng vụ, Thần học, Đại kết liên tôn, phục vụ khách tĩnh tâm, chia sẻ đời sống tâm linh và trên hết là “chiêm ngưỡng hướng tới việc phong phú thiêng liêng cho Giáo hội”.
Công đồng Vatican II đã xác định: “Dòng chiêm niệm chiếm vị trí siêu việt trong nhiệm thể Chúa Kitô”. Và xác quyết vai trò thiết yếu, tích cực của đời sống đan sĩ trong Giáo hội: “Họ càng sốt sắng kết hiệp với Chúa Kitô hơn là tận hiến toàn thân bao hàm tất cả cuộc sống, thì cuộc sống Giáo hội càng phong phú hơn, và việc tông đồ càng thêm hiệu quả” (Hiến Chế Perfectae Caritatis số 1).
Hiến Chế Perfectae Caritatis số 6 nêu rõ: “Đời sống ẩn dật với Đức Kitô trong Thiên Chúa làm phát sinh mãnh liệt tình bác ái huynh đệ để cứu độ thế giới và xây dựng Giáo hội”. Chính vì “Trước tiên chỉ tìm một mình Thiên Chúa” mà đan sĩ liên kết việc chiêm niệm với tình yêu tông đồ, cố gắng thông phần vào công trình cứu chuộc và mở rộng Nước Chúa”. Và nơi số 7, Giáo hội đã dành một vị trí riêng biệt cho các dòng chiêm niệm: “Dù nhu cầu mục vụ có khẩn thiết…”. Vì chính nhờ chiêm ngưỡng, họ trở nên “nguồn ơn Thiên Quốc” cho Giáo hội, “chiếu tỏa trên dân Thiên Chúa ánh sáng của đời sống thánh thiện, sinh hoa kết quả dồi dào, nêu gương lôi kéo họ đi theo và làm cho dân Chúa lớn lên nhờ sức phong nhiêu huyền nhiệm”. Như vậy, đời sống đan sĩ kết hiệp với Chúa Kitô sẽ có ảnh hưởng trên Giáo hội và làm cho Giáo hội phát triển (x. An Sơn Vị, Thánh Linh Trong Đời Dâng Hiến, tr. 136-138).
Vì sự phát triển của Giáo hội, nên dù sống Vĩnh cư, cũng không vì thế mà việc đan sĩ “ra khơi” dấn thân cho Giáo hội, xã hội kém phần thực tế và hoàn hảo. Trong Đức Kitô, đan sĩ sống đời hy sinh, cầu nguyện cho những nhu cầu của Giáo hội, xã hội; như muối ướp mặn cho đời, như ánh sáng soi chiếu trần gian bằng một tình yêu nồng nàn, sâu đậm và một ước muốn mãnh liệt cho công cuộc loan báo Tin Mừng của Đức Kitô. Nếu “Giáo hội đưa ta tới gặp Chúa và đưa Chúa vào thế giới” (Benedicto XVI, Ánh sáng thế gian, tr 195) thì đan sĩ cũng là thành phần của Giáo hội, trong thân mình mầu nhiệm Đức Kitô, tất nhiên đời sống đan sĩ không gì khác hơn là tìm Chúa, gặp Chúa, kết hiệp với Chúa và đưa Chúa với những người chưa nhận biết Chúa.
Thời nào cũng vậy, Giáo Hội vẫn luôn đối diện với những khó khăn và thử thách. Như “Con thuyền ra khơi trong đêm tối sóng gió tư bề, có lẽ mãi là hình ảnh của Giáo hội trên đường lữ thứ trần gian”. Và con đường thập giá đã luôn mời gọi mỗi người chúng ta đi vào hành trình truyền giáo hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Và chúng ta tin rằng trên mọi nẻo đường với muôn vàn thách đố, Chúa vẫn luôn hiện diện và đồng hành với Giáo hội.
Sống trong con thuyền Giáo hội, đan sĩ luôn được nung đốt bởi lòng nhiệt thành truyền giáo như Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã làm (x. Hạnh Tích Cha Benoit, Thư Giáng Sinh, tr.51) và xác quyết như lời Thánh Phaolô nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16), điều này được thôi thúc bởi một tình mến nồng cháy với Chúa và các tâm hồn.
Như vậy, bởi đâu đan sĩ có nhiệt tâm này? Trước hết là vì họ đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa và có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi mà là chính Chúa sống trong tôi” (Gl 2,20), kế đến đan sĩ ý thức được cầu nguyện chính là nền tảng của việc truyền giáo: “Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,38). Cầu nguyện sẽ đem lại nhiều kết quả, vì chính Thiên Chúa là chủ sẽ sai thợ gặt lúa của Ngài.
Ngày nay đan sĩ sống trong nội vi đan viện, với những công việc bình thường, nhỏ bé, và một đời sống cầu nguyện âm thầm, nhưng được thực hiện với một tình yêu mãnh liệt, đó là chứng tá sống động cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa lòng đời. Qua đó đan sĩ sẵn sàng ra khơi với sức mạnh của Chúa, chấp nhận lội ngược dòng, hy sinh cho công cuộc truyền giáo của Giáo hội. Khi đã có một con tim nhạy bén, đan sĩ sẽ luôn biết quan tâm đến anh chị em của mình trong cuộc hành trình về Quê Trời. nghe được tiếng lòng của những tâm hồn chưa nhận biết Chúa, thấy được những khốn khổ của bao người lạc xa Chúa. Nói cách khác, đan sĩ luôn thao thức với từng bước chân của những nhà truyền giáo, ra đi trên muôn vạn nẻo đường, đồng thời cũng luôn ở kề bên Chúa cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo mà Mẹ Giáo hội mời gọi. Như thế, đan sĩ không đi truyền giáo bằng những bước đi của đôi chân nhưng đi bằng chính đôi cánh Tình Yêu, một tình yêu không biên giới, đến với mọi người.

4. Đan sĩ trước những làn sóng thời đại

Trước những làn sóng của thời đại, con người, cách riêng người Kitô hữu rất cần có những khoảng không gian tĩnh lặng và những vùng đất bình yên để được tiếp sức và làm sống động niềm tin của mình với những nhu cầu tâm linh. “Trong thế giới hôm nay, người Kitô hữu sống giữa đời vẫn cần “những vùng đảo” để cho niềm tin vào Chúa và cái đơn giản nội tâm của Kitô giáo có chỗ tiếp tục sinh động và tỏa sáng. Cần những ốc đảo, những con thuyền Noe để con người luôn có thể vào đó trú ẩn, khỏi những sóng gió giữa biển khơi. Phòng ốc bảo vệ là các không gian phụng vụ” (Benedicto XVI, Ánh Sáng Thế Gian, tr 221). Ngày nay, giữa những phong ba bão táp của cuộc đời, bầu khí thinh lặng trong đan viện phần nào giúp người ta dễ tìm về với Chúa. Nơi đây, Tình Yêu Thiên Chúa sẽ giúp con người vượt qua sóng gió và làm cho con người có thể đứng vững trước các làn sóng của thời đại, xoa dịu và làm lành các vết thương cuộc đời.
Ngoài ra còn có biết bao người đang còn chơi vơi giữa biển đời cần sự giúp đỡ, biết bao mảnh đời bất hạnh cần sự cảm thông, và nhiều tệ nạn xã hội cần phải loại bỏ. Bên cạnh đó nền kinh tế thị trường ngày càng có nguy cơ dẫn nhiều người đến bờ vực của nghèo đói, bất công, hận thù. Thao thức với những thực trạng trên đây của xã hội, đan sĩ được mời gọi theo Chúa không phải để an thân an phận hay chỉ lo cho phần rỗi và sự giải thoát của riêng mình. Nhưng cùng với Chúa Kitô ra khơi đương đầu với sóng gió cuộc đời, giúp con người vượt qua những khó khăn bất hạnh trong cuộc sống và giúp họ nhận biết Tin Mừng. Đan sĩ muốn ra khơi với Chúa Kitô trên con thuyền Giáo hội là phải chấp nhận đau khổ, hy sinh và từ bỏ chính mình “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 14,33).
Trong Tu luật của thánh Biển Đức, ở chương 1, ngài mời gọi đan sĩ hãy mở “tai lòng, mắt lòng” để lắng nghe lời Thầy, đồng thời cũng là để lắng nghe, để thấy những thương tích của tha nhân đang đụng đến tâm lòng mình. Vì vậy mở rộng trái tim như Chúa Giêsu để mang lấy nhưng thương tích của anh chị em. Như vậy, tuy sống vĩnh cư trong đan viện, đan sĩ vẫn cùng Chúa Giêsu trong con thuyền Giáo hội ra khơi thả lưới giữa những phong ba bão táp của biển đời, tiếp cận với thế giới nhiều biến động trong thế kỉ XXI này. “Nhờ ánh sáng đức tin, khôn ngoan phân biệt các đặc điểm của thế giới hôm nay và cháy lửa nhiệt thành truyền giáo và mới đủ sức giúp đỡ người đời ngày nay cách hiệu quả hơn” (PC số 2).
Đức Nguyên Giáo Hoàng Benedicto XVI nói với chúng ta: “Nếu ta muốn một điều gì tốt đẹp cho thế giới, thì điều đó chỉ có thể xuất phát từ tiêu chuẩn Thiên Chúa, Đấng đã thực sự đi vào thế giới con người” và ngài thêm: “Khi Chúa Giêsu nói: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,35). Như thế, Người đã chuyển trao vai trò làm mẹ cho chúng ta, để có thể tiếp tục “tái sinh” Chúa trong trần gian. Các thánh phụ bảo, Chúa chỉ sinh một lần ở Belem. Nhưng trong một ý nghĩa lớn lao và thẳm sâu, Ngài phải luôn tiếp tục được sinh ra một cách mới trong mỗi thế hệ, mọi Kitô hữu đều được mời gọi đưa Chúa tái sinh trong thế hệ mình” (Benedicto XVI, Ánh Sáng Thế Gian, tr. 198. 200). Có thể nói, đan sĩ đang cưu mang con cái cho Giáo hội được Đức Kitô sinh ra
Trong thánh lễ, trong các giờ kinh phụng vụ cũng như từng giây phút của cuộc sống, đan sĩ “bước ra khỏi chính mình để đi vào chiều sâu nội tâm, gặp gỡ Đức Kitô và nên một với Ngài trong Thiên Chúa”. Qua đó ta để cho tâm trí mình đi vào niềm tin và lời cầu lớn lao của Giáo hội (Benedicto XVI, Ánh Sáng Thế Gian, tr 140).
Nhờ cầu nguyện, đan sĩ thống nhất đời sống “qui Kitô”, để ân sủng Chúa hoạt động nơi mình và tín thác, an hòa trầm lắng giữa bao giông tố biển đời và trở nên dấu chỉ bình an cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa trần gian. Nếu “mỗi lời cầu nguyện, dù chỉ là của chú bé mục đồng đang chăn đàn vật, cũng là lời cầu nguyện của nhân loại” (Bernanos). Thì sẽ nói gì về các đan sĩ, những người trong Đức Kitô đang âm thầm sống “sứ vụ chủ yếu của Hội Thánh là ngợi khen, thờ lạy, cảm tạ Thiên Chúa bằng việc tham dự vào cuộc hiến tế của Đức Kitô” (Yves Jausions, Tâm nguyện không biên giới, tr 143).

Thay lời kết

Khi Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh: “Đức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: Anh hãy đến hồ Siloac mà rửa. Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được”(Ga 9,6-7). Không phải bùn hay nước làm cho anh mù được sáng mắt, nhưng chính tình yêu Thiên Chúa và lòng tin nơi anh làm nên phép lạ. Vậy hôm nay, đan sĩ với lời cầu nguyện, hy sinh, gieo vào đời ánh sáng, niềm vui, hạnh phúc cho tha nhân, chúng ta vẫn xác tín mình chỉ là chút nước, chút bùn Chúa dùng làm phương tiện trần thế để giúp tha nhân. Với đời sống vĩnh cư trong đan viện dù có như vườn thiêng tại thế, thì kinh nghiệm thiêng liêng vẫn nói với đan sĩ rằng: Mỗi ngày ta đang ở trên hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu, nơi nhà Cha cùng với anh chị em. Đan sĩ cần có một biến đổi tận căn cùng với Đức Kitô, ra khơi đổi mới bản thân mỗi ngày, chính Chúa Thánh Thần sẽ thánh hóa, hướng dẫn ta đến bến bờ mới trong Thiên Chúa và mang lại sức sống cho Giáo hội.

 

 

 

 

 

VƯƠN LÊN

 

M. Phaolo TG – Thúy Hằng

Là người ai cũng nuôi trong mình một khát vọng vươn lên, vươn lên trong cuộc sống hiện tại, trong công việc, trong cách hành xử…. Là những người sống đời chiêm niệm, Chúng ta cần vươn lên như thế nào?
Người đan sĩ tuy không dấn thân vào đời như anh chị em sống đời hoạt động, nhưng âm thầm hiến thân phục vụ, trong cảnh sống âm thầm của nội vi Đan Viện. Ý thức được giá trị cao quý của đời chiêm niệm, và phát huy tối đa khả năng Chúa ban để trở thành những “Phương tiện truyền thông”: chuyển tải những thông tin cần thiết của nhân loại đến với Thiên Chúa và trở thành “máng thông ơn”, để chuyển giao những phương tiện cứu độ đầy yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại.
Lý tưởng đời đan sĩ của chúng ta là thế. Tuy nhiên trong thực tế dễ rơi vào thái độ ù lì do đức tin non yếu, chán nản hay cô đơn dưới bất cứ hình thức nào. Bên cạnh đó, với việc đề cao tự do cá nhân quá mức, con người ngày nay dễ rơi vào một cuộc sống khép kín; chấp nhận những gì rất tầm thường, miễn là có được một lối sống dễ dãi. Chính vì thế, người ta đánh mất dần sự nhạy cảm của con tim và thiếu hẳn sự nhiệt tình dấn thân trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm Ki-tô hữu. Ngay cả trong đời sống thánh hiến, các tu sĩ cũng có khuynh hướng an phận, thiếu nhuệ khí trong sứ mạng tông đồ.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy: có những chuỗi ngày, tôi sống và hoạt động như một cái máy đã được cài đặt chương trình tự động. Tôi vẫn cử hành thần vụ, vẫn làm việc, vẫn sinh hoạt đời tu và sống các mối tương quan với chị em, nhưng hoàn toàn như một tập quán, thiếu hẳn ý thức và lòng mến. Bên cạnh đó, sự mệt mỏi luôn theo bám tôi, đôi khi đưa tôi vào trạng thái buông xuôi: muốn vươn lên mà vươn không được. Tuy nhiên, hình như có một sức mạnh vô hình ngấm ngầm thôi thúc tôi chu toàn bổn phận của mình và một tiếng nói phản tỉnh bên tai: “Mi vô đây để làm gì?”, “Cuộc sống như thế này có ý nghĩa gì, có lợi gì cho bản thân và cho tha nhân không?” Trong những lúc đó, tôi nhận thấy mình bất lực và vô dụng. Tuy nhiên, lời thánh phụ Biển Đức lại vang vọng trong cõi lòng tôi:“ đừng bao giờ thất vọng về lòng thương xót của Thiên Chúa” (Tl 4,74).
Điều đó cho tôi cảm nhận được rằng: Thiên Chúa không để tôi rơi vào tay thần tăm tối, cho những nỗi thất vọng chán chường. Ngài muốn tôi phải tỉnh thức và chiến đấu để vươn lên. Vươn lên trong đời sống cầu nguyện, dù có lúc chán nản, khô khan nguội lạnh đến đâu tôi vẫn cố gắng kiên trì cầu nguyện và chu toàn bổn phận được giao, tôi cần mở rộng lòng mình ra để cho Thiên Chúa ngự vào.
Như những cành cây nếu không biết vươn ra tìm ánh sáng, cây sẽ bị èo ọt và khô héo, cuộc đời đan sĩ nếu không biết vươn lên với Chúa sẽ mất đi sức sống mãnh. Thật vậy, có những lần tôi bị khống chế bởi những ganh tỵ đến nỗi tôi có cảm tưởng như không thể thoát ra được. Điều ấy không có nghĩa là tôi mất tự do, nhưng tôi cảm thấy khó khăn để vượt qua. Lúc đó, tôi như trải qua một kinh nghiệm thật là thú vị: trong tôi có một phản ứng ngược lại. Phản ứng đó có lẽ là tiếng nói của Chúa. Tôi thiết nghĩ: tiếng nói của Chúa đến với tôi vào lúc đó không phải là một sự tình cờ, nhưng là nhờ sự cố gắng vươn lên của tôi trong hành trình sống đời thánh hiến đan tu của mình. Tiếng nói ấy dầu là rất nhỏ, nhưng thật mãnh liệt bắt tôi có một quyết tâm: “không được ganh tỵ với chị em”. Tôi nhận thấy rằng: những trải nghiệm nhỏ bé đó giúp tôi rất nhiều trong việc hướng thiện và thúc đẩy tôi nuôi dưỡng ý tưởng “phải vươn lên”. Mặc dù không phải lúc nào cũng có những kết quả rõ ràng và hiển nhiên, nhưng tôi cảm nhận được đời sống thiêng liêng của tôi mạnh mẽ và đời tu có ý nghĩa hơn.
Ý thức được sự thật này, tôi càng khao khát vươn lên. Vì chỉ có vươn lên, tôi mới có được một sự thấu hiểu sâu xa về Thiên Chúa, Đấng mà theo kinh nghiệm của thánh Augustino là Đấng duy nhất có khả năng khoả lấp sự thiếu thốn của mỗi chúng ta: “Lạy Chúa, lòng con sẽ luôn mãi thao thức cho đến khi nào được nghỉ an trong Chúa”; chỉ có vươn lên tôi mới thoát ra được sự ích kỷ, vượt qua cuộc sống u lì, cầu an và ngại dấn thân. Và lúc đó, tôi sẽ cảm nhận được ý nghĩa của cuộc đời.
Tóm lại: vươn lên là một hành trình xuyên suốt trong cuộc sống. Bên cạnh đó, dù đời sống thiêng liêng vẫn còn những khó khăn, trở ngại. Nhưng tôi xác tín một điều cuộc sống của tôi chỉ có ý nghĩa khi tôi vươn lên với Chúa Giê-su, cùng với Chúa Giê-su và trong Chúa Giê-su.

 

 

 

 

 

HẠT SÁNG THỨC TỈNH

DI NGÔN CHA TỔ PHỤ

 

• Chúng tôi phải nên thầy dòng thật bằng không chỉ là phỉn dối người ta.

• Chúng tôi đã khấn buộc mình cải quá tự tân, bỏ tính mê thói xấu, và gắng công ra sức tốt hơn. Vậy, cách ăn ở như thế đã biết ma không lo cải đỏi, thì lỗi lời khấn áy rỏ ràng. (DN Số 143)

• Nhà dòng không có ý chi khác, chỉ có một ý giúp nhau tấn tới trong đàng kính mến Chúa, cùng làm cho nhiều người kính mến Chúa nữa. (DN Số 138)

• Vậy, chúng ta hãy bắt đầu dọn mình lại cách vui mừng: trước không phải thì sau phải.

• Nhà dòng là “trường học tập làm tôi Chúa”, cho nên chúng ta ngày nào cũng phải tấn tới, thì ở nhà dòng mới vui.(DN Số 146)

 

 

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

BÀI VIẾT MỚI

spot_imgspot_img

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Hạt Giống Chiêm Niệm số 32: Cầu Nguyện Đan Tu

CẦU NGUYỆN ĐAN TU Số 32 – Tháng Giêng năm 2024 ĐÔI LỜI ... Kính thưa quý độc giả, Như chúng ta đã biết, cầu nguyện là hành...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 31: Hướng Vọng Trời Cao

 Số 31 – Tháng 7 năm 2023 Lời ngỏ Kính thưa quý độc giả, Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày qua đời của cha Biển Đức...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 29: Tứ Hải Giai Huynh Đệ

Số 29 – tháng 07 năm 2022 Cùng Độc giả, Các sinh hoạt của Ban Biên Tập Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm (HGCN) của Hội...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 30: Một Đi Chung Cùng Nhau

LỜI NGỎ   Kính thưa Quí Độc Giả! Nội san Hạt Giống Chiêm Niệm số 30 phát hành vào tháng Giêng năm 2023 này mang chủ đích...

Giới Thiêu nội san “HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM” (Viện phụ Dominico Phạm Văn Hiền)

  NỘI SAN   HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     LỜI GIỚI THIỆU      ...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 1: NGUỒN SUỐI CHIÊM NIỆM

    HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM       Nội...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 2: HƯƠNG VỊ LỜI CHÚA

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 3: THAO THỨC

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 4: Những Nẻo Đường Sống Đạo

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     Nội san linh đạo đan tu   NHỮNG NẺO ĐƯỜNG SỐNG ĐẠO   Số 4 tháng 7 năm 2007 LỜI NÓI ĐẦU     Một người nọ hỏi...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số đặc biệt: Cội nguồn hy vọng

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 7: Thử Thách

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 8: Trong Lòng Giáo Hội

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...