HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM
Nội san linh đạo đan tu
BÌNH AN
Số 16 – Tháng 01 năm 2015
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho người thiện tâm”
(Lc 2,14)
Cùng bạn đọc thân mến!
Dư âm mùa Giáng Sinh với sứ điệp bình an mà Chúa Giêsu Hài Đồng mang đến vẫn còn đọng lại trong tâm hồn mỗi người. Dư âm ấy còn kéo dài hơn nữa khi bạn nhận được tập nội san hạt giống chiêm niệm số 16, với chủ đề Bình An.
Tập nội san này, tuy nội dung vẫn còn hạn chế, nhưng các anh chị em đã cố gắng suy tư về những vấn đề đang phải đối diện trong cuộc sống, nhất là sự bình an đời sống đan tu: Tha thứ trong bình an; bình an và bất ổn; bình an và quyền bính, môi trường kiến tạo bình an…. Các vấn đề này tuy không phải là mới, nhưng nó được viết lên với những thao thức rất chân thực. Hy vọng những ai đọc tập Nội San số 16, có thể tìm thấy một chút gì là của mình trong những bài suy tư này, để nhìn lại và định hướng con đường tu đức, cũng như chọn lựa phương hướng sống cho mình trong năm mới 2015.
Xin Thiên Chúa là nguồn bình an ban cho bạn và cho chúng tôi sự bình an chân thực của Ngài, để cuộc cuộc sống của chúng tôi và của bạn luôn thanh thản và tràn ngập tình yêu của Đấng Emmanuel.
BAN BIÊN TẬP
MỤC LỤC
- Thầy ban cho anh em bình an của Thầy
(Tác giả: M. Duy Ân ) - Thông điệp Pacem In Terris
(Tác giả:FM. Dominico Phạm Văn Hiền ) - Vài nét khắc họa chân dung bình an
(Tác giả:FM. Duyên Thập Tự) - Bình an thực
(Tác giả: FM. Montfort _Đan viện CSĐD ) - “Bình an dưới thế…”
(Tác giả: FM. Ignatio Hoàng Quốc Toản) - Bình an – Khát vọng của mọi tâm hồn
(Tác giả: Đan viện An Phước ) - Bình an trong cộng đoàn
(Tác giả:Sr. M.Giêrado _ Đan viện Phước Hải) - Nguồn cội của bình an
(Tác giả:FM. Mai Thi ) - Bình an cho anh em
(Tác giả:FM. Cao Minh Long _ Đan viện CSĐD ) - Đan sĩ – Con người của bình an
(Tác giả: Sr. M. Vinh Sơn ) - Bình an và quyền bính
(Tác giả: FM. Martino_Đan viện Phước Vĩnh ) - Bình an nội tâm
(Tác giả:FM. Michael ) - Thuận lợi và khó khăn trong đời sống
(Tác giả:FM. Huy Nghiêm ) - Môi trường tạo bình an
(Tác giả:FM. Theophane _ Đan viện Thiên Phước ) - Môi trường tạo bình an
(Tác giả: Cỏ sa mạc _ Đan Viện Vĩnh Phước)
“THẦY BAN CHO ANH EM
BÌNH AN CỦA THẦY”
(Ga 14,27)
M. Duy Ân
LỜI MỞ
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Lời Chúa Giêsu trao ban bình an thật là thân thương và trang trọng. Tuy nhiên, cần ghi nhận điều này: ngay sau khi ban bình an, Ngài cảnh báo các môn đệ đừng lẫn lộn Ngài ban với bình an của thế gian. Vì theo lời ngôn sứ Giêrêmia, đó là thứ bình an giả hiệu, mê hoặc con người: “Chúng bô bô” “bình an vô sự”, để xoa dịu thương tích của dân Ta, trong khi chẳng có bình an chi cả” (Gr 6,14). Trái lại, với các sứ điệp giả dối, chúng chỉ gieo tai rắc họa, vì: “chúng chẳng biết con đường đưa tới bình an, chẳng thấy cần phải kính sợ Thiên Chúa” (Rm 3,17-18).
Phần chúng ta, chúng ta được mời gọi tìm đến tận nguồn Ân Phúc Bình An Chúa Giêsu trao ban; bởi vì Kinh thánh ghi nhận: Bình an Chúa Giêsu đem lại cho chúng ta bằng giá Máu của Ngài (x. Cl 1,20), và nếu tiến sâu hơn nữa, Lời Chúa mời gọi chúng ta sống thế nào để được hiệp thông với: “Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an” (2 Cr 13,11).
Vậy, trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta tìm hiểu thêm để tiếp nhận và sống cách xứng hợp hơn tặng ân bình an cao cả Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Con Yêu Dấu của Người là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.
I. KẾ HOẠCH YÊU THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA
1. TRONG CÔNG TRÌNH TẠO DỰNG
Vì yêu thương, Thiên Chúa trao ban cho con người Ân Phúc Bình An nguyên thủy cùng với việc sáng tạo muôn loài. Thánh Tôma Aquinô, diễn tả sự thật nầy nơi Thiên Chúa cách vắn gọn nhưng rõ ràng: “Khi tay Ngài được mở ra bằng chìa khóa của Tình yêu, thì các thụ tạo xuất hiện” (GLHTCG 293). Quả thật, “Thiên Chúa đã tạo dựng trần gian để biểu lộ và truyền thông vinh quang của Ngài. Sự vinh quang mà vì đó Thiên Chúa đã tạo dựng các thụ tạo của Ngài, là để chúng được dự phần vào sự chân thiện mỹ của Ngài” (GLHTCG 319). Trong thực tế, “Con người đầu tiên không những được tạo dựng là tốt lành, mà còn được sống trong tình thân nghĩa với Đấng Tạo Hóa của mình, trong sự hài hòa với chính mình và với vạn vật xung quanh” (GLHTCG 374). Vậy, đối với con người kể từ khi bước vào hiện hữu, Ân Phúc Bình An được thể hiện tốt đẹp trong cả ba chiều tương quan. Mọi điều thiện hảo và những ân huệ con người được hưởng cùng với ơn công chính nguyên thủy trong vườn diệu quang. Sách Sáng Thế còn ghi lại quang cảnh huy hoàng của công trình Sáng tạo, cho thấy tình thương, tuyền năng, vẻ đẹp của Thiên Chúa chiếu tỏa trên vũ trụ vừa mới khai nguyên. Kinh Thánh phác họa lại quang cảnh ấy, xen vào đó lời tán dương như một điệp khúc “Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp” (x. St 1,10.12.18.21.25). Và cuối cùng, sau khi tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa, điệp khúc còn trịnh trọng hơn nữa: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra, quả là rất tốt đẹp” (St 1,31). Thế nhưng vì phạm tội, con người đã tự cô lập, tách mình ra khỏi Ân Phúc Bình An, và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa (x. Rm 3,23).
2. TRONG KẾ HOẠCH CỨU ĐỘ CON NGƯỜI
Con người sa ngã bắt đầu chống đối nhau, trốn tránh xa lìa Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn một mực yêu thương, đến tìm con người và đã nghĩ đến kế hoạch cứu con người (x. St 3,8-15). Thế nhưng, trong mối tình giao ước xót thương, Thiên Chúa đã tiệm tiến thực hiện một kế hoạch đầy tình nhân ái (x. Tt 3,4-5). Quả thật, Thiên Chúa “nhiều lần và bằng nhiều cách (x. Dt 1,1) dẫn giòng lịch sử hướng về đích điểm là Đức Kitô (x. Gl 3,24-26); đặc biệt phải kể các giao ước Thiên Chúa ký kết với dân Người chọn, dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Tất cả hướng về giao ước mới vĩnh cửu được thiết lập nhờ Chúa Giêsu Kitô (x. Dt 13,20 ). Bởi vậy, ngay trong Giao Ước Cũ, Đấng Thiên sai đã được tiên báo mang danh hiệu “Vua Bình an” (x. Is 9,6; Dt 7,1-2).
Tất cả Cựu Ước dọn đường dẫn đến vầng đông của Đấng Cứu Độ đến viếng thăm ta, “dẫn ta vào đường nẻo bình an” (x. Lc 2,78-79). Qua Ông Môsê và các ngôn sứ, chương trình xót thương cứu độ con người sa ngã đã được tiên báo dưới nhiều hình thức: có thể nêu lên một vài sự kiện: Con Rắn Đồng treo lên trong sa mạc để những bị rắn cắn nhìn lên sẽ được cứu sống (x. Ds 21,9; Ga 3,14), hay Manna, lương thực được ban cho dân Chúa trên lộ trình vào Đất hứa (x. Tv 78,24; Ga 6,32). Còn tiên tri Isaia trong số các ngôn sứ, đã loan báo rõ nét nhất về cuộc khổ nạn hồng phúc của Đấng Cứu Thế (x. Is 52,13; 53,12), nhằm đem lại Ân Phúc Bình An.
Chính vì vậy, những lời Chúa Giêsu Phục Sinh giải thích cho hai môn đệ trên đường Emmau đã được Tin Mừng Luca ghi lại: “Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,27).
II. ĐỨC KI TÔ “BÌNH AN CỦA CHÚNG TA”
1. QUA MẦU NHIỆM NHẬP THỂ
Kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa được từng bước thực hiện nơi Chúa Giêsu Kitô, trước hết qua Mầu nhiệm Nhập thể: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình” (Ga 3,16). Quả thật, “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Thật vậy, “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9).
Đức Kitô là Đấng Thiên Sai được tiên báo mang thánh danh Giêsu, chính “Ngài sẽ cứu dân Ngài cho khỏi tội” (Mt 1,21). Bởi vậy, khi Ngài được sinh ra, đoàn Thiên sứ ca hát “Vinh danh Thiên Chúa trên trời bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14). Thật sự “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Ngài đã “…hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,7). Quả thật, “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Ngôi Lời Nhập Thể trong mầu nhiệm “tự hủy” để nghiệm được Tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa, và Ân Phúc Bình An, “để khỏi sờn lòng nản chí, nhưng được tràn đầy hy vọng” (x. Dt 12,3).
2. NHỜ MẦU NHIỆM VƯỢT QUA CỨU ĐỘ
Cụ thể mọi người đã phạm tội và cần ơn Chúa cứu độ. Quả thật, “Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người. Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu” (Ep 1,7-8).“…Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại Bình An, cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20). Đó là giá cao cả của Ân Phúc Bình An bởi Tình yêu lạ lùng của Thiên Chúa đem lại: “…do Ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 3,23). Chính vì thế, tính chất nhưng không của ân sủng trọng đại nầy, được các Tông đồ không ngừng lặp lại, bằng cách khởi đầu thư với lời chào: Ân sủng và bình an ở cùng anh em (x. Rm 1,7; 1Cr 1,3; 2Cr 1,2; 2 Cr 1,2; Gl 1,3; Ep 1,2; Pl 1,2; Cl 1,2; 1 Th 1,1; Tt 1,4; Kh 1,5); và có những trường hợp khác nói đến lòng thương xót: Ân sủng, lòng thương xót và bình an ở cùng anh em (x. 1Tm 1,2; 2Tm 1,2; 2Ga 1,3).
Mầu nhiệm Vượt Qua bao gồm cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô là trọng tâm và cao điểm trong kế hoạch yêu thương cứu độ của Thiên Chúa. Quả thật, “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta” (1Ga 4,10). “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8). Tuy nhiên, ơn cứu độ chỉ hoàn thành với cuộc Phục sinh của Chúa Kitô, bởi vì: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1Cr 15,17). Hơn nữa, Tin nói ở đây không chỉ là việc tuyên xưng, nhưng bao gồm ơn kết hợp với Chúa Giêsu Kitô: “Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Ðức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại. Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Ðức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi. Nếu chúng ta cùng chết với Ðức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6,5-8). Niềm tin căn bản nầy là cốt lỏi của đời sống tâm linh cũng như nền tảng của Kitô Giáo. Vì thế, Chúa Giêsu đã ba lần báo trước về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài (x. Mt 16,21-23; 17,22-23; 20,17,19). Nhưng Tin Mừng ghi nhận, các môn đệ không tiếp nhận và cũng không hiểu gì hết (x. Mt 18,22-23; Mc 9,30-32; Lc 9,45). Tuy nhiên, các ngài đã được Chúa Kitô Phục Sinh khai mở để hiểu Kinh Thánh (x. Lc 24,45-48) và xuyên qua tác động của Chúa Thánh Thần (x. Ga 14,26).
Chính vì để chuẩn bị thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ, Chúa Giêsu đã báo trước về Bánh Hằng Sống được thực hiện qua nhiệm tích Thánh Thể (x. Ga 6,48-51), đặc biệt về “Nước hằng sống” (x. Ga 7,37-38) với lời chú giải rõ ràng: “Ðức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Ðức Giêsu chưa được tôn vinh” (Ga 7,39).
Như vậy có nghĩa là công trình cứu độ chỉ được hoàn thành với ngày Lễ Ngũ Tuần, đánh dấu khai sinh Hội Thánh, qua việc chính thức trao ban Chúa Thánh Thần cùng với mọi thứ linh ân, trong đó phải kể Ân Phúc Binh An mà Chúa Giêsu đem lại. Quả thật, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện đến với các môn đệ và chúc Bình An cho các ông (x. Ga 20,19.21; Lc 24,36), đồng thời trao sứ vụ, khai mở kế hoạch loan Tin Mừng cho muôn dân. Vậy, Bình An không còn thuần túy là lời chào, mà là nội dung của ơn cứu độ được trao ban theo lệnh truyền của Chúa Giêsu (x. Mt 10,12-13; Lc 10,5).
Hơn nữa, Ân Phúc Bình An tác động cách kỳ diệu nơi mỗi tâm hồn để được kết hợp với Chúa Giêsu Kitô và Hội Thánh. Thật vậy, “bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Ðức Kitô Giêsu” (Pl 4,7). Ước gì ơn bình an của Ðức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân” (Cl 3,15). Nhưng, điều quan trọng là làm sao thực sự tiếp nhận được Ân Phúc Bình An.
III. TIẾP NHẬN ÂN PHÚC BÌNH AN
Thiết tưởng, trước hết cần ghi nhận một số từ ngữ liên hệ đến Ân Phúc Bình An, tương đương ơn hòa giải với Thiên Chúa (x. Cl 1,20; 2 Cr 5,18-19), tức là ơn được tha tội; cũng nên lưu ý: Công thức xá giải dành cho bí tích hòa giải liên kết ơn tha tội và bình an.
Cụ thể, tiến trình Ân Phúc Bình An được tiếp nhận do ơn sám hối với lòng tín thác dẫn đến ơn tha tội; như vậy, con người được hưởng niềm vui ơn cứu độ với lòng chan chứa cảm tạ tri ân.
1. SÁM HỐI CẦN THIẾT
Mọi người đã phạm tội: “Vậy thì sao? Người Do-thái chúng tôi có hơn gì người khác không? Không hơn gì cả! Quả thế, chúng ta đã chứng minh rằng mọi người, Do-thái cũng như Hy-lạp đều bị tội lỗi thống trị” (Rm 3,9-10). Tuy nhiên, Thiên Chúa giàu lòng thương xót vẫn không ngừng yêu thương con người, vì: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20).
Bởi vậy, điều tội nhân cần trước hết và trên hết là sám hối; vậy chúng ta hiểu tại sao Tin Mừng Chúa Giêsu khởi đầu (x. Mc 1,15; Mt 4,17) và kết thúc với việc rao giảng, mời gọi sám hối, dẫn đến phép rửa để được tha tội (x. Mt 28,19-20; Lc 24,47).
Quả vậy, Tin Mừng Matthêu ghi lại lệnh truyền cuối cùng của Chúa Giêsu:“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Lời hứa “ở cùng” đây nói lên Lòng Thương Xót của Thiên Chúa luôn hiện diện với con người trong mọi tình huống.
Đặc biệt Tin Mừng Luca kết thúc với lệnh truyền kêu gọi sám hối: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47). Giá trị sám hối được đề cao tương ứng đáp lại Lòng Chúa Thương Xót là nét nổi bật của Tin Mừng Luca.
Thực tế trong cuộc sống, Công Vụ Tông Đồ còn ghi lại sự việc, những người trở lại đầu tiên hỏi ông Phêrô chúng tôi cần phải làm gì, và đã được trả lời: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2,38). Ơn sám hối dẫn đến ơn tha tội (x. Lc 24,47; Cv 5,31). Vậy, đã rõ sám hối là điều thiết yếu để được ơn tha tội gắn liền với Ân Phúc Bình An. Tuy nhiên, sám hối chân thực luôn kèm theo lòng tin, bởi vì: “... Phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội” (Cv 10,43), căn bản của Ân Phúc Bình An khởi đầu từ đó. Như vậy, ơn sám hối không phải chỉ là một cảm thức nội tâm cá nhân tự hối, nhưng là hiệu quả của cuộc gặp gỡ với Lòng Thương Xót Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô bằng tất cả lòng tín thác.
2. TÍN THÁC HOÀN TOÀN
Cụ thể, khi trao ban bình an, Chúa Giêsu thêm lời khuyên bảo: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27); và trước đó, Ngài đã mời gọi các môn đệ “hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Nhưng đáng ghi nhận Chúa Giêsu trong phần kết thúc lời cáo biệt, Ngài đề cập đến những gian nan khốn khó và mời gọi các môn đệ: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Như thế, với lòng tín thác vào Tình Yêu rất mực lớn lao và trung thành của Thiên Chúa và Chúa Giêsu (x. Ga 14,1) chúng ta được hưởng phúc bình an trong mọi hoàn cảnh:“Chúa là nguồn mạch bình an, xin Người ban cho anh em được bình an mọi lúc và về mọi phương diện. Xin Chúa ở cùng tất cả anh em” (2Th 3,16). Và hơn nữa, đây chính là niềm hy vọng đầy xác tín: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch Bình An, thánh hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1Th 5,23-24).
Về tầm quan trọng của lòng tín thác, xin được mở ngoặc ghi nhận: sứ điệp Lòng Chúa Thương Xót được phổ biến rộng rãi hiện nay có thể cô đọng trong lời nguyện Chúa truyền ghi dưới bức ảnh Chúa Thương Xót: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa”.
3. NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ
Trong lời Cáo biệt, Chúa Giêsu đã đề cập đến bình an (x. Ga 14,27) và niềm vui của Ngài (x. Ga 15,11). Thật sự, niềm vui và bình an Chúa Giêsu trao, được thể hiện qua tác động của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5,22). Đó là những yếu tố gắn liền với nhau cách thiết yếu trong đời sống ki-tô hữu, như kinh nghiệm của các Cộng đoàn tín hữu tiên khởi minh chứng: “ Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!… Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Ðức Giêsu Kitô” (Ph 4,4.7). Chính vì ơn kết hợp thần linh Chúa ban, mà Chúa Giêsu quả quyết chúng ta có được niềm vui của Ngài trong ta, và niềm vui của chúng ta mới được trọn vẹn (x. Ga 15,11).
Thật đáng ghi nhận niềm vui ơn cứu độ bắt nguồn từ lòng sám hối (x. Tv 50,14); vì thế, một tâm hồn sám hối tỏa lan niềm vui đến tận cõi thiên đàng. Tin Mừng Luca ghi lại sự kiện ấy hai lần trong chương 15 về Lòng Thương xót: “Trên trời, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối… Tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15,7.10). Niềm vui vang dội đến tận trời đã được Chúa Giêsu diễn tả bằng những hình ảnh và ngôn từ nhân loại thật ấn tượng của “Người Cha Nhân Hậu” (biểu hiện Thiên Chúa Cha): biết bao cử chỉ âu yếm dồn dập, cùng với tiệc mừng, trong đó từ “ăn mừng” được lặp lại đến năm lần (x. Lc 15,23-32).
Tâm hồn được hưởng niềm vui chan chứa (x. Ph 4,4-7) và Ân Phúc Bình An tận nguồn (x. 2Th 3,16), đương nhiên sẽ khơi dậy lòng cảm mến dâng lên Thiên Chúa.
4. TRI ÂN CẢM TẠ
Chúng ta được mời gọi luôn tạ ơn Chúa với xác tín rằng: mọi phúc lành đều bởi Chúa ban xuống (x. Gc 1,17; Mc 10,18), và tất cả trở thành hồng ân, bởi vì “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28). Vì vậy, Kinh Thánh mời gọi chúng ta “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Ðức Kitô Giêsu” (1 Th 5,18; x.Ep 5,20; Cl 3,16; Cl 2,7). Như vậy, cảm tạ tri ân được trải dài bao gồm cả cuộc sống: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,17). Đó là điều được thể hiện đặc biệt cho chúng ta qua cử hành Thánh Thể, luôn là Lễ Tạ Ơn (Eucharistia) được xác nhận là Chóp đỉnh và nguồn mạch của đời sống ki-tô giáo (x. LG 11). Đó cũng là nơi chúng ta được lãnh nhận bình an của Chúa Giêsu và trao bình an cho nhau. Quả thật, trong phần trung tâm của Thánh Lễ, chúng ta được lãnh nhận bình an cùng với lời Chúa Giêsu: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27); và kế tiếp, cộng đoàn được mời gọi: “Trao bình an cho nhau”. Bình An còn được nhắc đến, đặc biệt khi kết thúc Thánh Lễ: “Hãy ra đi bình An!”, đi vào cuộc sống với một sứ vụ như hiệu quả của Thánh Lễ được kéo dài.
IV. SỨ VỤ CHUYỂN ĐẠT ÂN PHÚC BÌNH AN
Chúa Giêsu đã từng cho chúng ta biết: chúng ta được cùng với Ngài, thông dự vào nguồn mạch ân phúc được yêu mến và được sai đi, khơi nguồn từ Thiên Chúa Cha (x. Ga 15,9; 20,21; 17.18). Cũng vậy, người môn đệ của Chúa Kitô được sai đi để chuyển đạt cho mọi người, mọi nhà Ân Phúc Bình An: “Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. Nếu nhà ấy xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em” (Mt 10,11-13). Đó là sứ vụ của toàn thể Hội Thánh được sai đi để làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa.
Nhưng, mỗi Kitô hữu cũng phải trở thành chứng nhân và khí cụ bình an trong cuộc sống:“Vậy chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau” (Rm 14,19); thực hiện lời khuyên: “ Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hòa thuận với mọi người” (Rm 12,18); và cụ thể hơn nữa: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (Ep 4,2-3).
Người môn đệ thấm nhuần Ân Phúc Bình An, luôn sống trong niềm vui và “lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ” (Cl 2,7); tạ ơn không chỉ cho bản thân mà là cho tất cả mọi người trong tình hiệp thông, “cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh” (1 Tm 2,2).
Đây là mối tình hiệp thông do ân sủng của Đức Kitô dẫn đến hồng ân hiệp thông với Ba Ngôi Chí Thánh. Quả thật: “Nhờ thập giá, Đức Kitô đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất,…Thật vậy, nhờ Người cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất, mà đến cùng Chúa Cha” (Eph 2,16.18). Tất cả là ân huệ tình yêu do: “Ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình yêu của Thiên Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” (2 Cr 13,13).
KẾT
Qua Lời Chúa, chúng ta cảm nhận được giá trị cao quý siêu vời của Ân Phúc Bình An Chúa Giêsu trao ban trong giá máu Ngài đổ ra vì yêu thương chúng ta. Cần cảm nhận sâu xa điều này để được phong phú trong cuộc sống.
Được tiếp nhận Ân Phúc Bình An cùng với ơn sám hối và tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót, chúng ta được ơn tha tội, được hưởng niềm vui ơn cứu độ, xuyên qua cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu Kitô. Với sự ý định của Chúa Cha (x. Rm 8,32) và của Chúa Thánh Thần (x. Dt 9,14), Chúa Giêsu Kitô chấp nhận tự hiến mình để cứu chuộc chúng ta. Quả vậy, “Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa” (Dt 12,2). Đó là bằng chứng Tình yêu cao cả nhất, như Người đã xác quyết (x. Ga 15,13) ; nhờ vậy, kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô được thực hiện, dẫn chúng ta đến sự sống đời đời (x. Ga 3,16; 12,50) và Niềm vui trọn vẹn vĩnh cửu (x. Ga 15,22-24; 17,13).
Chúng ta được hưởng niềm vui trọn vẹn của Chúa Giêsu (x. Ga 17,13), và “Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết” (Ph 4,7), đương nhiên chúng ta có sứ vụ chuyển đạt Bình an và Niềm vui cho bao người khác. Trong mỗi Thánh Lễ cử hành, chúng ta lại được cụ thể tiếp nhận Ân Phúc Bình An như một ân huệ mới dành cho sứ vụ mới trong cuộc sống hằng ngày. Đó cũng là món nợ Tình thương đối với nhau và đối với mọi người (Rm 13,8), để cùng sống niềm vui hiệp thông trong ân huệ nhưng không, và cùng dâng lên Thiên Chúa lòng Tri ân cảm tạ.
“Xin Thiên Chúa là nguồn bình an, ở cùng tất cả anh em. Amen” (Rm 15,33).
Để giúp cầu nguyện và sống Ân Phúc Bình An, xin ghi lại đây
KINH HÒA BÌNH CỦA THÁNH PHANXICÔ
“Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”.
-LẠY CHÚA, XIN HÃY DÙNG CON NHƯ KHÍ CỤ BÌNH AN CỦA CHÚA,
– để con đem yêu thương vào nơi oán thù,
– đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
– đem an hòa vào nơi tranh chấp,
– đem chân lý vào chốn lỗi lầm,
– để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng,
– để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.
LẠY CHÚA, XIN HÃY DẠY CON
– tìm an ủi người hơn được người ủi an,
– tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết,
– tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
– vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh,
– chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân,
– vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ,
– chính lúc chết đi là lúc vui sống muôn đời.
“ÔI Thần Linh Thánh Ái, xin mở rộng lòng con.
Xin thương ban xuống những ai, lòng đầy thiện chí,
ƠN AN BÌNH
THÔNG ĐIỆP PACEM IN TERRIS
Hòa bình trên thế giới
một bài học cho thế giới hôm nay
Thông điệp Pacem In Terris được Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII ban hành trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt: Năm l962-1963, một cơn sốt chiến tranh hạt nhân đã bùng phát. Ngay trong khi Công đồng Vatican II đang họp, thì Hoa Kỳ nhận được tin như sét đánh: Liên Xô theo lệnh Kut-sếp, đã âm thầm đặt các dàn phóng đầu đạn hạt nhân tại Cuba, nhắm trực diện Hoa Kỳ. Tổng Thống Kennedy phản ứng mạnh, ra tối hậu thư đòi Liên Xô tháo gỡ và đưa về nước nội trong ba ngày, nếu không sẽ khai hỏa chiến tranh hạt nhân, nhắm vào Liên Xô. Trước nguy cơ cận kề và tàn khốc đe dọa sự sống còn của nhân loại, Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, một mặt tha thiết mời gọi cả thế giới dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa, mặt khác đưa ra lời giáo huấn qua thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới này.
Thông điệp được ký ngày 11 tháng tư năm 1963, chỉ chưa đầy ba tháng trước ngày qua đời của Đức Thánh Cha Gioan XXIII. Thông điệp có phụ đề: Xây dựng hòa bình giữa các dân tộc trên chân lý, công bình, bác ái và tự do. Với phụ đề này, tác giả khẳng định không có một nền hòa bình làm sẵn, theo kiểu tiền chế, nhưng ngài kêu gọi mọi người thiện chí hãy ra tay Xây Dựng với bốn yếu tố không thể thiếu sau đây: chân lý, công bình, bác ái và tự do. Lời kêu gọi này, chắc chắn phải được hưởng ứng bởi vì không ai lại không khát vọng một đời sống an bình hạnh phúc, đặc biệt các Kitô hữu. “Phúc cho ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Con Thiên Chúa là ai nếu không phải những kẻ đã lãnh bí Bích Rửa Tội? Đây là một yêu sách xuất phát từ căn tính của họ. Nhưng làm sao xây dựng đây?
Ngay trong phần dẫn nhập (Số 1-7), Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đã cho ta câu trả lời minh bạch: “Hòa bình trên thế giới, tức nguồn ước vọng sâu xa của con người trong mọi thời đại chỉ có thể xây đắp, kiện toàn, khi người ta biết tôn trọng trật tự mà Thiên Chúa đã lập nên. Trật tự ấy, chúng ta tìm thấy trong vũ trụ và trong nhân loại”.
Các triết gia Hi Lạp cổ thời, như Pythagore hay Aristote, gọi vũ trụ này là một Cosmos, nghĩa là một trật tự. Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII xác quyết: “Ngay cả khoa học tân tiến và cả những phát minh chứng thực trong vũ trụ này có một trật diệu kỳ. Con người chỉ thật sự cao cả khi khám phá ra trật tự này. Nhưng trật tự lạ lùng từ đâu mà có? Thưa chính Thiên Chúa, Đấng sáng tạo vũ trụ” (Số 2-3).
Thiên Chúa còn “in sâu trong con người một trật tự khác, trật tự hiện rõ nơi lương tâm và bản tính con người” (Số 5-6). Đây là trật tự mà ai muốn xây dựng an bình cho bản thân, cho xã hội, cho quốc gia hay thế giới không thể bỏ qua!
Sau phần nhập đề, Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đưa ra những phương cách xây dựng hòa bình cho từng thành phần nhân loại: hòa bình giữa các cá nhân, hòa bình giữa cá nhân và chính quyền, giữa các nhóm chính quyền với nhau, cũng như với quốc tế. Đó là phương cách tiệm tiến, như vết dầu loang, rất thực tế. Lối trình bày của thông điệp đơn sơ, dễ tiếp cận cho mọi người.
Chúng tôi đặc biệt tập chú vào chương1 và chương 5 , còn những chương 2,3,4 chúng tôi chỉ nêu những nét nổi bật mà thôi.
Chương 1 khởi đi từ giá trị của cá nhân, tức nhân vị. Nhưng thế nào là nhân vị, nếu không phải một chủ thể có lý trí và ý chí tự do có khả năng làm chủ đời mình với đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ? Quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh trực tiếp từ bản tính con người. Do đó, thông điệp khẳng định: “Nó mang tính phổ quát, bất khả xâm phạm đồng thời bất khả nhượng. Nếu nhìn dưới ánh sáng đức tin, nhân vị càng được nâng cao, bởi lẽ con người được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa” (PT 10). Đi vào cụ thể, Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII nêu lên mấy quyền căn bản sau đây:
– Về bản thân, mỗi người có quyền sống và hưởng một nếp sống phù hợp, hầu mang lại hạnh phúc, xứng với nhân phẩm.
– Về đời sống tinh thần, mỗi cá nhân có quyền đi tìm những gì là chân – thiện – mỹ trong địa hạt nghệ thuật, văn hóa và đạo đức…
– Trong tương quan với xã hội, mỗi cá nhân có quyền tự do như một công dân: tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do kinh tế và chính trị…
Tuy nhiên qua phần thứ hai của chương một, thông điệp không quên lưu ý chúng ta rằng mỗi quyền lợi trên đây luôn đi kèm một nghĩa vụ và trách nhiệm. Đã có quyền công dân, đương nhiên có nghĩa vụ chung tay xây dựng Đất Nước! Như thế, có bao nhiêu quyền lợi, thì cũng có bấy nhiêu nghĩa vụ tương ứng: quyền sống đòi hỏi bảo tồn và phát huy sự sống, quyền tự do đi tìm chân lý kèm theo nghĩa vụ phải nghiên cứu và mở mang học hỏi; quyền tự do tôn giáo buộc người có đạo phải nghiêm túc sống đạo (PT 28). Một khi mọi người tuyên xưng Thiên Chúa là nền tảng của trật tự luân lý, họ sẽ nỗ lực xây đắp nó trên chân lý, thực hiện nó trong công bình, kiện toàn trong bác ái và tìm thấy trong tự do một mức thăng bằng hầu tiến tới một nếp sống nhân đạo hơn (PT 27). Điều ấy phải chăng qúa lý tưởng cho thế giới hôm nay? Để chứng minh tính khả thi của nó, Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII nêu lên ba dấu chứng thời đại: Trước hết là cuộc thăng tiến kinh tế và xã hội của tầng lớp lao động. Thứ đến, nữ giới trong các nước tân tiến đã tham gia cách chính thức vào sinh hoạt xã hội và công quyền. Sau cùng, hầu hết các dân tộc trên thế giới đã dành được độc lập tự chủ.
Tuy nhiên, dưới bất cứ thể chế nào, vẫn còn đó những căng thẳng giữa các cá nhân và công quyền! Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đề cập vấn đề này trong các chương 2,3,4 của thông điệp. Chúng tôi chỉ xin trình bày khái quát.
Liên quan đến công quyền, thông điệp xác nhận sự cần thiết của nó, vì quyền bính bắt nguồn từ Thiên Chúa. Nhưng quyền bính nào đây? Hitler, Staline, Kut-sêp…là những người được Thiên Chúa tôn phong làm lãnh đạo ư? Để trả lời, thông điệp trích câu nói của Thánh Gioan Kim Khẩu: “Phải chăng mỗi vị trong chính quyền đã được Thiên Chúa tôn phong vào chức vụ nào đó? Không, Thánh Phaolô chỉ muốn nói đến sự kiện là cần có công quyền cho một nước mà thôi”. Thật ra quyền bính chỉ là một khả năng chỉ huy cho hợp lẽ phải, nghĩa là đúng luật luân lý, do Thiên Chúa phú bẩm nơi bản tính con người. Do đó, công quyền được lập ra là nhằm phục vụ công ích. Khi công quyền không phục vụ nhân dân theo luật luân lý, họ không còn được coi như đại diện Thiên Chúa nữa. Trong trường hợp này, dĩ nhiên người dân có quyền khước từ tuân phục, “vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 4,19).
Về tương quan giữa các cộng đồng chính trị, những quy tắc vừa nêu trên cho công quyền nói chung cũng có giá trị cho họ. Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII nhấn mạnh “Cần phải nhận tôn chỉ này, là theo giá trị của nhân tính, mọi cộng đồng chính trị đều bình đẳng. Vì thế mọi cộng đồng được quyền tồn tại, phát triển, và dùng mọi phương tiện chính đáng để phát triển” (PT 86).
Thông điệp đặc biệt bênh vực các cộng đồng thiểu số. “Bất cứ hành động nào nhằm mục đích xâm phạm hay bóp nghẹt sinh hoạt của các dân tộc thiểu số đều là những vi phạm đức công bình cách nặng nề, và khi người ta chủ tâm tiêu diệt các dân tộc thiểu số ấy, tội ác càng phải lên án” (PT 95)
Việc tài giảm khí giới.
Có thể nói điểm này được Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII lưu tâm cách riêng, vì như đã nói, thông điệp này ra đời vào thời điểm chiến tranh nguyên tử có nguy cơ giáng xuống trên nhân loại. Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII: “Ta đau đớn khi nhìn thấy rằng trong nhiều cộng đồng chính trị mà nền kinh tế dồi dào hơn, người ta đã và đang phát minh ra nhiều khí giới kinh khủng…với lập luận rằng: chỉ có một nền hòa bình duy nhất có thể thực hiện, đó là nền hòa bình xây trên thế quân bình về binh lực” (PT 109-110). Nhưng lời cảnh cáo của Đức Pio XII vẫn còn đó: “Với hòa bình ta không mất gì hết, nhưng với chiến tranh ta mất tất cả”. Và đây là câu kết luận xác thực nhất cho vấn đề: “Mọi cuộc tranh chấp hiện thời giữa các dân tộc không thể giải quyết bằng võ lực, mà cần phải đi đến đàm phán” (PT 126).
Giữa các quốc gia và quốc tế.
Theo thông điệp này, càng ngày các quốc gia cảm thấy cần phải liên kết để hỗ trợ nhau, nhất là sau chiến tranh Thế giới I. Hội đồng Liên Hiệp Quốc ra đời không nhằm mục đích nào khác hơn là bảo tồn và củng cố hòa bình giữa các dân tộc. Kết quả đầu tiên của tổ chức quốc tế này là bản tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, được ký vào ngày 10.12.1948. Trong bản tuyên ngôn, tất cả các nước thành viên đã tuyên bố:
– Mọi người, không trừ ai, đều có nhân phẩm
– Có quyền theo đuổi chân lý
– Được giữ các quy luật luân lý
– Thi hành các nghĩa vụ công bình
Ngoài ra, nhiều liên hiệp và hội đồng lần lượt ra đời, chẳng hạn liên hiệp Âu Châu, liên hiệp Á Châu…
Tuy nhiên phải thành thực mà nói, các tổ chức quốc tế này không luôn mang lại những thành quả mong muốn.
Tại sao?
Thưa, vì lòng con người chưa đủ quảng đại, các ý thức hệ vẫn bóp nghẹt nhân phẩm, tinh thần quốc gia vẫn quá khích, sự bất bình đẳng giữa giàu và nghèo, giữa dân thường và đảng viên của một chế độ vẫn còn đó!
Vậy phải làm gì?
Chương năm sẽ cho ta câu trả lời!
NHỮNG HUẤN THỊ MỤC VỤ
Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII mở đầu chương này với lời mời gọi tha thiết: “Con cái của Hội Thánh phải tích cực tham gia vào việc trị nước và góp phần cho thiện ích của cả nhân loại”(Số 146); và: “Các kitô hữu không được tự mãn, nghĩ rằng có ánh sang đức tin là có đủ mọi sự. Họ cần hiện diện trong mọi từng lớp xã hội, để từ bên trong, như men trong bột, họ có thể làm biến đổi cơ cấu xã hội của mình (Số 147). Muốn đạt mục tiêu ấy, Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII khuyên ki-tô hữu hãy trở về với bốn yếu tố căn bản mà Ngài đã đề xuất: “Phải lấy chân lý làm nền tảng cho mọi giao tiếp, lấy công bình làm quy tắc, lấy bác ái làm động lực và lấy tự do làm hòa khí” (Số 149)
Trong thực tế kinh nghiệm cho thấy việc huấn luyện các ki-tô hữu, đặc biệt các bạn trẻ, chưa toàn diện, vì về mặt khoa học đời, có thể họ đạt tới đỉnh cao, nhưng về giáo lý họ còn ở mức sơ đẳng. Đúng ra cả hai lãnh vực khoa học và giáo lý phải tiến đồng nhịp mới là lý tưởng! (Số 153-154)
Trong tương quan với những người ngoài Công Giáo, ki-tô hữu phải hết sức tế nhị. Mặc dù họ không tuyên xưng cùng một đức tin, nhưng vì họ cùng mang một bản tính nhân loại, trung thành giữ luật tự nhiên và nhằm phục vụ công ích. Vì thế ki-tô hữu chân thành cộng tác với họ trong những vấn đề tự nó chính đáng hoặc có thể đưa đến chỗ tốt đẹp (Số 157).
Như thế, xây dựng hòa bình quả là một công việc lớn lao, mấy ai có tham vọng đạt được mục tiêu cao quý ấy trong một sớm một chiều. Thông điệp lưu ý: luật tiệm tiến là luật của mọi cuộc sống như Đức Pio XII đã chỉ giáo: “Không phải cuộc cách mạng, nhưng một cuộc tiến hóa điều hòa sẽ đem lại sự cứu thoát và hòa bình…” (Số162)
Ngoài ra những ai muốn xây dựng hòa bình nên nhớ: hòa bình không thể vãn hồi giữa nhân loại, nếu trước đó nó chưa được vãn hồi nơi mỗi cá nhân, nghĩa là mỗi người phải tuân giữ trật tự do Thiên Chúa thiết lập (Số 165).
Như vậy, mặc dù Thông Điệp Pacem In Terris đã được ban hành trên nửa thế kỷ, nhưng bài học của nó vẫn còn thiết thực cho thế giới hôm nay, vì chiến tranh chưa chấm dứt, trái lại ngày càng lan rộng thêm. Xưa kia những người gây chiến tranh như Hitler, Mussolini, Staline…bị coi như kẻ điên loạn, nhưng nay những kẻ ‘vung gươm’ nhân danh Alla lại hả hê trước những cái đầu vô tội rơi khỏi cổ! Nhân phẩm con người, mà thông điệp nói tới, đang bị coi rẻ, trật tự như vắng bóng trong mọi nơi. Để cứu thoát nhân loại nói chung, và những người vô tội nói riêng, chúng ta chỉ còn cách chạy đến với Vua Hoà Bình Giêsu, Đấng đã giao hòa mọi người với Thiên Chúa và với nhau nhờ thập giá (Eph 2,14-16). Đồng thời ki-tô hữu trong tình liên đới, hãy cùng với những người thiện chí, chung xây một nền hòa bình bền vững trên bốn điểm trụ, là chân lý, công bình, bác ái và tự do.
“Đấng làm chứng về những điều đó phán rằng: Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến”
Amen. Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến! (KH 22,20).
VÀI NÉT KHẮC HỌA
CHÂN DUNG BÌNH AN
của CHA TỔ PHỤ BIỂN ĐỨC THUẬN
Duyên Thập Tự
Trong tập Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm số 15, khi đề cập đến niềm vui nơi Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, tôi nhận thấy là rất khó để biết được một người nào đó đang thật sự vui, vì vẻ bề ngoài cũng có thể rất khác với tâm trạng bên trong. Chính vì thế, để khám phá ra niềm vui của một tâm hồn, điều quan trọng là để chính đương sự lên tiếng hoặc qua những chứng từ của những người đã cùng chung sống.
Khi nói đến bình an – cũng như niềm vui -, chúng ta cũng rất khó để đi vào nội tâm của ai đó hầu khẳng định họ đang sống trong bình an. Một lần nữa, chúng ta lại rất cần tìm về nguồn của những bút ký, những ngôn từ mà họ đã sử dụng để diễn đạt điều ẩn kín trong tâm hồn họ. Những phản ứng của họ trong những hoàn cảnh khác nhau, ngay cả trong những nghịch cảnh, cũng hé lộ cho chúng ta thấy cõi thâm cung tâm hồn họ, để qua đó, chúng ta có thể giải mã được phần nào những chọn lựa của họ trong cuộc sống.
Được Ban Biên Tập đề nghị viết chủ đề về sự bình an nơi Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, và cô đọng trong Lời Trối của ngài “cha ra đi bình an lắm”, tôi cảm thấy khá lúng túng khi đề cập đến đề tài quan trọng này. Trước hết, vì chính bản thân người viết không sống cùng thời với ngài và chưa có một tầm mức thiêng liêng đủ để có thể hiểu được sự bình an nơi ngài. Tiếp đến, như đã nói ở trên, sự bình an là một điều gì thật sâu lắng ẩn kín trong tâm hồn, nên cũng không dễ gì tiếp cận được căn nhà nội tâm của ngài nếu mình không đủ khả năng đi đến đó. Và cuối cùng, những điều mình viết ra, qua ngôn ngữ và văn phong cá nhân, chưa chắc đã lột tả được những gì chính yếu hay có khi lại đưa đến những nghi nghĩa và hàm hồ.
Dầu vậy, với tâm trạng của một người con muốn khám phá chiều kích sâu thẳm trong tâm hồn của người cha để phần nào “noi gương” hay đúng hơn, được soi dẫn để thực hiện cuộc hành trình cá nhân và cộng đoàn trong đời đan tu, tôi xin mạo muội viết lên đây những khám phá và những suy tư cá nhân về sự bình an của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận để phần nào có thể giúp nhau thăng tiến trong ân sủng và bình an.
Để đạt được mục tiêu đó, trong bài viết này, người viết xin đề cập đến hai phần chính: thứ nhất, đời sống của Cha Tổ Phụ như một hành trình đậm dấu ấn bình an. Phần hai, qua giáo huấn của ngài, tôi khám phá ra một vài chìa khóa giúp cuộc sống mở ra cho sự bình an của Chúa.
I. MỘT HÀNH TRÌNH IN ĐẬM DẤU ẤN BÌNH AN
Khi đọc cuốn Hạnh Tích mà Viện Phụ Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến viết về tiểu sử của Cha Biển Đức Thuận, chúng ta có cảm tưởng là Cha Tổ Phụ luôn chìm đắm trong bình an. Bình an như là “môi sinh” cho cuộc sống của ngài. Kiểu nói “con cảm thấy tử tế luôn” – nghĩa là luôn hài lòng khi nhận một bài sai mới hay ở lại với nhiệm vụ hiện tại – diễn tả một tâm hồn luôn sẵn sàng; và thái độ sẵn sàng lột tả tâm trạng bình an. Nhưng phải chăng khi cuộc sống của ngài rẽ sang một lối khác hoàn toàn mới, ngài đã không phải chiến đấu với bao nhiêu dằn vật hay sao? Chúng ta có thể trích dẫn một vài sự kiện xảy ra nơi những khúc quanh cuộc đời ngài.
1. Gia nhập chủng viện của Hội Thừa Sai Paris
Từ khi còn là tiểu chủng sinh Boulogne-sur-Mer, chú Henri Denis đã có ước muốn đi truyền giáo nơi nhũng xứ sở xa xôi. Khi đã là đại chủng sinh, thầy chính thức bày tỏ ước nguyện này với những vị linh hướng. Nhưng điều khó khăn nhất cho thầy là làm sao trình bày với cha mẹ để được phép gia nhập chủng viện của Hội Truyền Giáo Paris với viễn cảnh là sẽ ra đi không ngày hồi hương. Nghĩa là hai ông bà sẽ phải hy sinh người con duy nhất này một cách gần như tuyệt đối. Chúng ta có thể hiểu được tâm trạng của hai ông bà xuyên qua điều mà cha Golliot, linh hướng của thầy, viết cho cha giám đốc chủng viện Hội Thừa Sai Paris, căn dặn cha giám đốc gửi thư thẳng đến địa chỉ của chủng viện Arras thay vì địa chỉ gia đình Henri, vì sợ cha mẹ thầy bị “sốc” trước một tin tức như vậy.
Thầy Henri Denis, từ thuở nhỏ, đã là một người con hiếu thảo, và trong suốt hành trình cuộc sống, ngài luôn như thế. Vậy thầy có cảm thấy “bình an” khi đưa ra một quyết định này chăng? Đây quả là điều không dễ dàng gì. Bởi là một sự chia lìa vĩnh viễn!!! Nhưng cha mẹ ngài đã chấp nhận ý hướng của ngài. Và ngài đã đạt được điều ước mơ trở thành nhà truyền giáo. Từ đây tất cả cuộc sống của ngài đều bình an thuận theo ý Chúa, nhưng bình an phải là hoa trái của hy sinh, Nên nơi ngài cũng đầy chiến đấu, day dứt.
2. Áp lực của việc ra đi hay ở lại
Chúng ta tiếp tục dõi theo bước chân cha Biển Đức Thuận. Mười lăm năm hoạt động tông đồ với tư cách một nhà truyền giáo, được chia làm ba thời gian đều nhau: 5 năm đảm nhận vai trò giáo sư tại tiểu chủng viện An-Ninh, 5 năm làm cha xứ Nước Mặn (Thừa Lưu), và 5 năm cuối trở về làm giáo sư tiểu chủng viện An-Ninh.
Trong khoảng thời gian này, ngài đã phải chiến đấu với hai tư tưởng gần như trái nghịch nhau: ở lại tiểu chủng viện hay ra đi truyền giáo, ở lại nơi truyền giáo (giáo xứ Thừa Lưu) hay xin đi nơi khác, và cuối cùng, ở lại tiểu chủng viện hay sống ẩn kín trong đời đan tu. Chắc chắn ngài đã phải chiến đấu rất nhiều, và sự bình an, nếu có nơi ngài, không phải là một thứ “bình an” phẳng lặng, nhưng là một điều gì đó ngay trong sóng gió và day dứt.
Chúng ta hãy tưởng tượng cha Henri Denis đến Việt nam ở tuổi 23, ấp ủ trong mình nhiệt huyết của tuổi trẻ, đầy tràn sinh lực và một tinh thần hăng say cho việc truyền giáo. Nhưng ước mơ truyền giáo của ngài đã gặp phải thử thách: thay vì đến với lương dân, ngài được yêu cầu đến tiểu chủng viện An-Ninh. Chúng ta xem ngài chia sẻ điều nầy thế nào khi viết thư cho song thân: Ngài coi phòng làm việc của ngài ở tiểu chủng viện như một thứ tù ngục! [1]
Ngài có bình an không? Những người ở trong tù có thực sự bình an không? Có một sự giằng co nơi nội tâm của ngài. Ở lại hay ra đi?
Giữa hai tình huống này, ngài đã chọn điều tốt nhất là sống giây phút hiện tại, và cảm thấy “tử tế”. Tuy nhiên, việc “ở lại” không ngăn cản ngài ước mơ đến một cuộc “ra đi” sau này. Nếu như nơi ngài có một sự giằng co như thế giữa điều mơ ước và đón nhận hiện tại, thì chắc chắn chúng ta có thể kết luận rằng ngài đã phải chiến đấu với chính mình. Nói cách khác, ngài đã phải sống trong tình trạng căng thẳng. Nhưng sự căng thẳng này không phải là một sự căng thẳng thần kinh. Nó tạo cho ngài khả năng trưởng thành về tinh thần, nghĩa là thanh luyện ý hướng của ngài. Điều đó dẫn đến một sự bình an sâu lắng, đích thực và bền vững.
Sự xung đột nội tâm giữa việc “ở lại” và “ra đi” tác động lên con người của ngài cả trong thời gian làm cha sở giáo xứ Nước Mặn (Thừa Lưu). Ngài đã trải nghiệm thời gian này trong một sự kiên trì tuyệt vời. Quả thật, đối với ngài, việc truyền giáo trên vùng đất mới không nhẹ nhàng chút nào. Ngài đã gặp những điều không như mơ ước khi còn ở tiểu chủng viện: việc hoán cải lương dân, cũng như việc giúp các giáo dân tiến tới trên đường trọn lành không phải là chuyện dễ. Vì thế, có những ngày ngài cảm thấy mình như thất nghiệp và đang đi qua một sa mạc vô tận, như ngài đã chia sẻ tâm trạng với Đức Cha Allys trong lá thư đề ngày 23 tháng 4 năm 1908 – nghĩa là những tháng đàu tiên tại nhiệm sở: “Nếu ở chủng viện, con cảm thấy công việc dồn dập và gấp gáp bao nhiêu, thì ở đây con lại cảm thấy mình rảnh rỗi và không có gì để làm… ngày này sang ngày khác cứ dài vô tận!”. Hơn nữa, lòng nhiệt thành dành cho việc truyền giáo khiến ngài bị nợ nần với con số lên tới ba ngàn quan pháp. Ngài đã nghĩ đến việc xin Đức Cha cho ra đi, rời khỏi giáo xứ. Nhưng rồi khi nhận được bài sai để trở về tiểu chủng viện An-Ninh, ngài đã khóc… Quả là một nỗi đau xé lòng!!! Ngài có thật sự cảm thấy bình an không? Và nếu có, đó là loại bình an nào?
Sự xung đột nội tâm giữa việc ở lại và ra đi còn xảy ra một lần nữa, và lần này tạo nên một bước ngoặt quyết định trong cuộc đời của cha Biển Đức Thuận. Ở lại tiểu chủng viện với trách nhiệm của một giáo sư hay ra đi để sống đời ẩn dật của lối sống đan tu chiêm niệm? Nếu như ngài mơ ước việc ra đi, là vì việc ở lại không làm ngài toại nguyện; điều này có nghĩa là ngài đang theo đuổi điều ngài kiếm tìm. Nếu như ngài phải chiến đấu với chính mình, thì điều đó có nghĩa là ngài không ngủ yên trên những thành quả đã đạt được, với những gì đã hoàn thành; ngài nhắm tới mục tiêu đang chờ đợi. Trong những tình huống và tâm trạng như thế, vẫn có một thứ bình an nội tâm mà ngài đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, giúp ngài kiên trì trong định hướng.
Chúng ta dám tin chắc rằng Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, trong suốt cuộc sống, đã trải nghiệm được thế nào là bình an trong cuộc chiến đấu với chính minh khi đối diện với những nghịch cảnh. Không bình an lam sao có thể đạt được mục đích nhắm tới trong từng giai đoạn của cuộc đời. Đó không phải là thứ “bình an” mang tính thỏa hiệp, dễ dãi, mà là một sự bình an sâu lắng nhưng cũng rất kiên cường. Chính sự bình an này – bình an như một ân ban – đã làm cho ngài lớn lên trong hành trình xuyên qua những nẻo đường và những khúc quanh cuộc đời, để khi đã đạt được ước muốn là sống “sự kín nhiệm của thầy dòng contemplativi” (chiêm niệm), thì mọi biến cố xảy ra sau này, như khi căn nhà đẹp nhất của nhà dòng và mọi thứ có giá trị trong giây lát đã bị hỏa hoạn biến thành tro bụi, nhưng ngài và các thầy vẫn hát lên bài Magnificat để cảm tạ Chúa và Đức Mẹ.
3. Cuộc chiên cuối cùng: cơn hấp hối đầy giao động và ra đi bình an
Đời đan tu với nếp sống khó nghèo, thiếu thốn và lòng hăng say dấn thân, đã lấy đi rất nhiều sức khỏe của Cha Tổ Phụ. Trong lá thư ngày 18 tháng 5 năm 1928, gửi Đức Cha Allys, cha đã báo tin cho Đức Cha về tình trạng sức khỏe của ngài như sau:
“Sau khi khỏi được khoảng mười lăm tháng, con bắt đầu khạc ra máu lại, nhiều hơn bao giờ hết. E rằng con sẽ chẳng giảng tĩnh tâm được vào tháng bảy tới đây. Tuy nhiên, trong việc này cũng như trong các việc khác, con chỉ vâng nghe Đức Cha; nếu đức Cha bảo: “cử thử xem”, con sẽ thử, và trông cậy vào ơn Chúa…”
Sức khỏe của ngài ngày càng suy giảm. Vài hôm trước khi qua đời, ngài bảo thầy y tá ghi chép bịnh tình của ngài để cho cộng đoàn biết:
“Bây giờ đến lượt con nghe cha rồi ghi chép không cần thứ tự, bác sĩ khám cha rồi nói : “vô phương cứu chữa”, bởi vì lục phủ ngũ tạng của cha đều hỏng cả rồi. Như con biết đó, cha bị đau tim, mỗi phút nó đập hơn trăm lần; cha đau thận, nên nước tiểu đầy máu. Cha còn đau phổi, nên khạc ra máu và ho luôn. Bao tử cha có nhiều vấn đề: rối loạn tiêu hóa và thường buồn nôn. Ấy là chưa nói hội chứng trĩ. Cha đau đớn lắm, hơn nữa, từ ba tháng nay, cha sốt rét luôn, vì có vi trùng sốt rét. Bác sĩ nói với cha rằng: “ngài còn sống được, là cả một phép lạ”. Nhưng cha thì cha cho rằng đó là nhờ ơn Chúa. Nay cha cảm thấy cha gần về cùng Chúa. Con hãy mau cho anh em biết bệnh tình của cha mà cầu nguyện cho cha được luôn theo ý Chúa cho tới cùng”.
Bệnh tình của Cha Tổ Phụ đã trở nên rất nặng, vô phương cứu chữa. Trong tình huống của cái chết cận kề, ngài bình an không? Chúng ta hãy đọc lại LỜI TRỐI của ngài để có thể hiểu được phần nào tâm trạng của ngài trong tình huống thập tử nhất sinh:
“Cha gần về cùng Chúa, không biết chắc ngày nào, song sự thường thì cha không còn ở thế gian này với chúng con lâu ngày nữa.
Cha khuyên chúng con hãy nhớ: Đàng nhân đức là tuân theo Thánh ý Chúa, mà theo Thánh ý Chúa là giữ luật dòng cho trọn. Cha còn nói một lần nữa: Chúng con muốn nên thánh thì hãy giữ luật dòng, muốn nên thánh thì hãy giữ luật dòng.
Còn phần cha thì đi bằng an lắm. Cha không áy náy lo lắng chi hết, vì cha biết rõ Chúa là Cha chung. Chúa thương cha và cũng thương chúng con, cho nên không sợ chi cho cha và cũng không sợ chi cho chúng con.
Vậy chúng con hãy ở bằng an như cha, vì Chúa là Cha thương chúng tôi quá lẽ.
Chúng con muốn xin phép lạ, thì mặc ý, còn phần cha thì không xin, cha xét: Phó mình trong tay Cha lành là điều tốt hơn cả.
Vậy trong chúng con chớ có ai buồn, chớ có áy náy lo sợ, một đi chung cũng nhau vui vẻ theo Thánh Ý Cha chúng tôi. Cám ơn Chúa, cám ơn Đức Mẹ.”
Những điều được viết ra trên đây là những gì Cha Tổ Phụ đã cảm nghiệm trong sâu thẳm lòng ngài, và ngay cả những từ ngữ cũng chỉ diễn đạt được một phần nào sự trải nghiệm đó. Chính cảm nghiệm “bình an” của những ngày trước giờ phút vĩnh viễn ra đi, đã nâng đỡ ngài trong cơn hấp hối đầy giao động.
“Cơn hấp hối của ngài kéo dài, với nhiều giao động. Ngài đau đớn cả hồn lẫn xác. Ngài đau đớn thảm thiết: “Thật khủng khiếp! Maria, Mẹ ơi, cứu con với!…” “Hãy cầu nguyện cho người hấp hối! Kinh khủng lắm”! Sau đó, sự bình an trở lại. Nhưng rồi lại xuất hiện một cơn khủng hoảng khác. Dường như ngài đang phải chiến đấu kịch liệt với ma quỉ, dường như chúng muốn trả thù vì những thiện hảo thiêng liêng ngài đã trao ban cho các linh hồn, đặc biệt cho những môn sinh của ngài trong đời đan tu. Sau cùng, vài phút trước khi trút hơi thở cuối cùng, ngài bình an thanh thản và nói: “Thế là đã hoàn tất!”[2] Ngài ra đi bình an.
II. ĐỂ CÓ MỘT CUỘC SỐNG BÌNH AN
Trong phần thứ nhất trên đây, người viết chỉ phác họa lại một số biến cố quan trọng xảy ra trong những khúc quanh của cuộc đời Cha Tổ Phụ, để thấy rằng sự bình an ngài thủ đắc, là kết quả của cả một cuộc chiến lâu dài. Bình an nơi ngài, trước hết là tặng ân của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là hoa trái của một con tim vừa can đảm vừa trọn niềm tín thác.
Trong phần hai dưới đây, xin được chia sẻ một vài chìa khóa mà bản thân tôi đã khám phá trong cuộc đời và giáo huấn của Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, để giúp chính tôi xây dựng sự bình an trong cuộc sống.
1. TÌNH YÊU CỦA CHA NHÂN LÀNH
Theo bản thân, tôi tin rằng đây là chìa khóa thứ nhất – chìa khóa quan trọng nhất – giúp Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đạt được sự bình an và sống một cách rất bình an với mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời của cha. Đó là xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa, là Cha nhân lành.
Đời đan tu chiêm niệm, trước hết, giúp chúng ta khám phá ra tình thương của Thiên Chúa, nơi con người, trong thiên nhiên, cả trong vũ trụ vạn vật.
Vậy, sự kín nhiệm của Dòng chúng ta là gì? Là hằng tìm Chúa, kết hiệp với Chúa. Đó là sự kín nhiệm của chúng ta. Sự ấy thế gian không hiểu được. Phước của chúng ta là đó rồi: gặp Chúa, nói khó với Chúa, kính mến Chúa, kết hiệp với Chúa. Nói khó với Chúa ở trong tâm hồn mình, và trong phép Thánh Thể. Biết có Chúa ở với mình như vậy, thì được đầy tràn an ủi. Kẻ ấy, khi thấy trời đất và cây cối hoa quả tốt tươi xinh đẹp, thì nói đó là mọi sự Cha tôi đã sáng tạo cho tôi được hưởng dùng mà cảm mến ca ngợi Cha đã thương tôi thể ấy. Biết có Cha chúng ta hằng ở với chúng ta, nào ai có làm chi được, cho nên được bình an vui mừng luôn. “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; nơi đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi an nghỉ.[3]”
Xác tín vào tình thương của Chúa – Thiên Chúa Cha tốt lành – là một trong những động lực giúp chúng ta sống vượt qua, đón nhận thập giá, dám đối diện với khổ đau và tin tưởng vào Cha tốt lành. Trong thư ngày 26 tháng 8 năm 1922, Cha Tổ Phụ đã chia sẻ xác tín đó với mẹ của ngài:
“Con được tin mẹ lại đau mắt, thế là thêm một thánh giá, một đau khổ. Song đau khổ đời này, thì thoát đau khổ đời sau. Mẹ đừng buồn, hãy để Chúa làm việc Chúa. Người thương mẹ, Người làm chi cho mẹ thì người biết. Con nói với mẹ thế mà con cũng nói với con như vậy, vì ở đây cũng không thiếu thánh giá. Ta muốn lên trời mà không phải chết. Chúa cũng muốn cho ta thế đó, song tại Adong Eva muốn vượt khỏi quyền Chúa mà ăn trái cấm, nên bây giờ ta phải đền trái cấm đó. Phải chết thì mới biết ta là không, Chúa là mọi sự. Song Chúa là Cha tốt lành, ta đừng sợ[4].”
Xác tín Chúa yêu thương, vì Chúa là Cha tốt lành, giúp chúng ta vượt qua tình trạng mất bình an, hoảng sợ, mà Cha Tổ Phụ dùng hình ảnh đứa bé khóc nhè, để đạt tới ánh sáng dẫn tới bình an, như ngài đã viết cho mẹ ngài ngày 13 tháng 1 năm 1921:
“Mẹ ơi, hôm nay mẹ hãy kính mến Chúa hơn khi nào hết! Chúa yêu thương mẹ dường nào. Mẹ biết: Người hằng lưu ý đến mẹ, hằng tìm cách làm ích cho mẹ. Mẹ không thấy Người, không hiểu biết các sự xảy ra cho mẹ đều do lòng nhân từ Chúa tỏ dấu thương mẹ. Mẹ xem những con nít, nó có biết mẹ nó hằng tìm cách mưu ích cho nó không? Thế sao nó cứ khóc hoài! Chúng tôi cũng con nít thế đó! Trí khôn chúng tôi quá thấp hèn, đức tin chúng tôi quá non nớt, nên trong những việc xảy ra hằng ngày, chúng tôi không hiểu thánh ý Chúa, bởi vậy cứ khóc luôn! Ôi, bao giờ chúng tôi mới thấy được sự sáng?[5]”
Chúng ta có thể trích rất nhiều lần Cha Tổ Phụ đã xác tín về tình yêu của Thiên Chúa là Cha tốt lành luôn giúp chúng ta sống bình an. Thiết tưởng, những gì được viết trong LỜI TRỐI chính là gia bảo để lại cho chúng ta, những xác tín đã biến đổi cuộc đời ngài cũng trở thành xác tín có khả năng biến đổi cuộc đời chúng ta. Một lần nữa, chúng ta hãy lắng nghe những gì phát xuất từ sâu thẳm tâm hồn của Cha Tổ Phụ:
Còn phần cha, thì đi bình an lắm. cha không áy náy lo lắng chi hết. Vì cha biết rõ Chúa là Cha chung. Chúa thương cha và cũng thương chúng con, cho nên không sợ chi cho cha và cũng không sợ chi cho chúng con.
Vậy chúng con hãy ở bằng an như cha, vì Chúa là Cha thương chúng tôi quá lẽ.
2. THUẬN THEO Ý CHÚA
Một khi đã xác tín vào tình yêu thương của Cha Trên Trời đầy tốt lành, nhân hậu, thì hệ quả thứ nhất là thuận theo ý Chúa, đây là chìa khóa thứ hai. Sự kiện cha nhận tên gọi việt nam là Thuận đã diễn tả rất rõ ràng định hướng đời sống.
Ngay trong thư tín gửi cho mẹ, ngài đã chia sẻ những tâm tình của mình về việc thuận theo ý Chúa trong việc xây dựng cộng đoàn vừa mói thành lập:
“Cần gì mà lo lắng! Chúng ta làm việc đây là làm việc Chúa. Thế tất, không làm hư mất ngày giờ, nếu Chúa nhân lành không muốn cho nên việc, thì chúng con cũng không ưng: đó là tất cả ý chí của con…[6]”
Chúng ta đã biết sự cố cháy nhà – căn nhà đẹp nhất của nhà dòng, trong đó chứa đựng những gì là quí nhất về phương diện vật chất, cũng như tinh thần như bản hiến pháp ngài đã dầy công soạn thảo. Lửa đã đốt thành tro bụi tất cả. Ngài đã phản ứng thế nào, chúng ta đã rõ:
“Thăm mẹ yêu dấu của con, con viết ba chữ tin cho mẹ hay: Cái nhà đẹp nhất của chúng con nay đã biến thành đống tro tàn. Trót cơ nghiệp nhà dòng ở trong đó: sách vở, thuốc men, quần áo, vật thực, hạt giống, thay thảy đều cháy hết. Mặc lòng chúng con đã hát Magnificat trọng thể tạ ơn Chúa, vì lẽ ra các nhà khác cũng bị đồng một số phận!…
Vạn tuế thánh đức khó nghèo! Sau nếu Chúa lại ban sách vở, quần áo, thuốc men chi nữa, thì thảy là của chung nhà dòng. Dầu vậy, chúng con không mất sự bằng an vui vẻ. Bị rủi ro như thế chỉ là dấu Cha nhân hậu tỏ lòng thương con cái: Chúng con hằng ngợi khen Chúa và cám ơn Người luôn.”[7]
Thật là một đức tin mạnh mẽ và kiên vững trong thử thách. Bình an chính là hoa trái của sự tin tưởng phó thác vào thánh ý Chúa; như chính ngài đã viết trong thư gửi thân mẫu vào khảng tháng 2 năm 1921:
“Thánh ý Ngài là nhất cho chúng con rồi, và cho mẹ nữa, phải không, mẹ yêu dấu của con? Trong hết mọi sự, xin mẹ hãy thưa cùng Chúa: “Dạ, cám ơn Chúa.” [8]
Rất nhiều lần, Cha Tổ Phụ đã viết thư cho mẹ ngài để nói lên định hướng của đời ngài cũng như của cộng đoàn Phước Sơn là thuận theo ý Chúa.
Trong một giáo huấn thiêng liêng, khi bàn về đức khiêm nhường, Cha Tổ Phụ đã liên kết nhân đức căn bản này với ý Chúa và sự bình an. Ngài nói:
“Chúng ta nghe: sự khiêm nhường là ưng muốn ở bậc Chúa muốn. Ví như tấm ngói nó muốn xuống lót nền, đó là làm ngược, không phải khiêm nhường đâu. Cho nên, sự khiêm nhường là bằng lòng chịu lấy hết mọi nỗi vui buồn Chúa gửi đến cho chúng ta. Kẻ khiêm nhường thì chi cũng được, việc chi cũng xong: bữa nay được nhắc lên thì cũng được, đến mai lại bị hạ xuống cũng vâng, chi cũng xin vâng hết…
Trong một ngày, chúng ta kiêu ngạo nhiều lần, song người khiêm nhường vẫn bình an luôn. Như khi nghe tin rằng ngày mai sẽ bị bắt giam, hoặc bề Trên loại ra, thì kẻ khiêm nhường cũng cứ ngủ bình an; hay là nghe tin rằng, ngày mai sẽ được lên làm lớn, thì cũng thế thôi, cứ ngủ bình an. Cho nên kẻ khiêm nhường được bình an luôn.” [9]
Chính vì xác tín vào thánh ý Chúa là tôt nhất, tuyệt hảo, nên những gì xảy ra như khi lâm bệnh, thì sẽ biết lợi dụng hoàn cảnh đau ốm để sống bình an với Chúa, với chính mình và với anh em giúp mình:
“Chúng ta hãy biết dùng cơn bệnh mà nên thánh, vì là lúc được rảnh rang mà ở với Chúa; tùy theo sức, chớ làm cho mình phải thêm mệt quá. Hãy cầu nguyện cho Bề trên, cho nhà dòng và cho hết mọi anh em ở đây; lại cầu cho cả Hội Thánh, cho kẻ có tội, kẻ ngoại, và các linh hồn trong chốn luyện ngục. Ấy là việc bổn phận thầy đau ốm. Ai có phận nấy, không ai có phép ở nhưng ở nể. Anh em tôi phải chịu khó làm việc vất vả cực nhọc, còn tôi thì nằm nghỉ trên giường mà lo phận sự thầy dòng đau, tức là lo đọc kinh cầu nguyện. Ấy là ý Chúa muốn cho tôi như vậy, tôi phải lấy làm có phúc, vì việc ấy là việc nhất hảo, là việc bà Maria xưa đã làm mà Chúa lấy làm ưng ý vừa lòng mọi đàng. Vậy tôi phải cảm ơn Chúa, chớ có buồn phiền, vì thấy mình không được mạnh lại như ý mình muốn, hãy để mặc Thánh ý Chúa.”[10]
Một lần nữa, chúng ta lắng nghe lại điều Cha Tổ Phụ viết trong LỜI TRỐI:
Cha khuyên chúng con hãy nhớ: Đàng nhân đức là tuân theo Thánh ý Chúa, mà theo Thánh ý Chúa là giữ luật dòng cho trọn. Cha còn nói một lần nữa: Chúng con muốn nên thánh thì hãy giữ luật dòng, muốn nên thánh thì hãy giữ luật dòng.
3. TẬN TÂM NHƯNG TRÀN ĐẦY PHÓ THÁC
Hệ quả thứ hai của việc xác tín vào tình yêu của Cha tốt lành là tận lực tận tình cho công việc nhưng đồng thời trọn vẹn phó thác cho sự quan phòng của Chúa. Đây là chìa khóa thứ ba.
Chúng ta nghe lại trích đoạn thư tín Cha Tổ Phụ viết cho thân mẫu:
“Con vẫn khỏe mạnh, mấy thầy dòng thân yêu của con cũng khỏe. Chúng con vẫn cử trồng cây, song mưa quá. Chúng con mới phở ít ruộng ở chân đồi, trông cậy sẽ được ít nhiều lúa. Độ này lúa kém quá, mọi khi hai quan năm một thùng, nay lên sáu quan, e chúng con chết đói. Lẽ ra chúng con chết đói lâu rồi, song một phép lạ Chúa làm, chúng con được no ấm trong tay Người. Hôm nay, chúng con có đủ mọi sự cần, còn ngày mai, thì mai sẽ hay, muôn năm Chúa! Chúng con đây thật có phước hơn hết mọi người.” [11]
Và đây một lời khuyên rất cụ thể mà Cha Tổ Phụ dành cho các môn sinh của mình:
“Đến giờ làm thì làm, làm cho siêng năng, làm cho tử tế, rồi thì thôi. Ví như hôm nay chúng ta đi trồng khoai, trồng cà, đến mai đi thăm, thấy heo đã phá hết thì thôi, vì Chúa để vậy. Hoặc nhà Dòng, bị bão sập nhà, dịch chết trâu bò, nếu có thể cứu được thì cứu, không thì thôi, mặc thánh ý Chúa.”[12]
Và lần này nữa, chúng ta hãy lắng nghe từng chữ trong LỜI TRỐI của Cha Tổ Phụ:
Chúng con muốn xin phép lạ, thì mặc ý. Còn phần cha thì không xin. Cha xét: phó mình trong tay Cha lành là điều tốt hơn cả.
KẾT: NIỀM VUI VÀ BÌNH AN
Trong Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm số 15, người viết có dịp chia sẻ một vài suy nghĩ về niềm vui nơi Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận. Và trong số 16 này, sự bình an nơi ngài được nêu lên với một chút dè dặt – như trong trường hợp nói đến niềm vui – là tôi không thể xuyên thấu tâm hồn ngài để hiểu và đồng cảm với ngài trong chiều sâu điều ngài đã trải nghiệm. Tôi cố gắng dựa vào một số bản văn viết về đời sống hoặc giáo huấn của ngài để hiểu một chút nào đó tâm hồn bình an của ngài.
Một điều tôi nhận ra là nơi ngài niềm vui và bình an luôn song hành. Ngài là một con người vui tươi và đồng thời rất bình an. Có lẽ chúng ta dễ lầm khi nhìn tấm hình hay hình vẽ khuôn mặt ngài với đôi mắt như nhắm lại và cúi nhìn xuống, và chúng ta có cảm tưởng là ngài sống trong trạng thái buồn sầu của nếp sống “khổ tu”. Chắc chắn, những loại niềm vui trần gian, những thứ xem như bình an mà thế gian ban tặng, với ngài chỉ có giá trị tương đối. Vì tất cả đều chóng qua, duy chỉ tình yêu Chúa là bền vững. Ánh nhìn xuyên thấu thực tại này giúp ngài sống chiều sâu và rất mãnh liệt đời đan tu, vì được xây dựng trên nền tảng vững bền.
Bình an trong cuộc sống của ngài không mang tính dễ dãi, hay nhẹ dạ, đó là một thứ bình an mang tính nền tảng của những xác tín làm biến đổi cuộc đời ngài. Và chính trong “môi sinh bình an” đó, ơn gọi đan tu chiêm niệm được khai sinh, phát triển và đạt tới đích.
Phải chăng đó là niềm vui và bình an của Chúa Kitô (x. Ga 15,11; Ga 14,27) đã được trao ban cho Cha Tổ Phụ? Nếu có niềm vui nào đậm dấu ấn trong cuộc đời Cha Tổ Phụ, nếu có sự bình an nào quang tỏa trong cuộc đời ngài, thì niềm vui và bình an đó là của Chúa Kitô, và Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã đón nhận, sống và biến thành niềm vui và bình an của chính ngài.
[1] DN, s.4, tr.28.
[2] BULMEP – Tập San Hội Truyền Giáo Paris, 1933, tr.707.
[3] DN, s. 141 “Sự kín nhiệm của các thầy dòng contemplativi”, tr. 181-182.
[4] DN, s. 72, tr. 93.
[5] DN, s. 52, tr. 52.
[6] DN, s. 35, tr. 55.
[7] DN, s. 47, tr. 69-70.
[8] DN, s. 54, tr. 78.
[9] DN, s.124 “Về đức khiêm nhường”, tr. 152.
[10] DN, s.127 “Phải ra sức làm thầy dòng lúc đau ốm”, tr. 158-159.
[11] DN, s.41, tr. 64.
[12] DN, s.129 “Chớ có mê làm việc quá”, tr.162.
BÌNH AN THỰC
Montfort (CSĐD)
Bình an là tình trạng của sự hoàn thành, là kết quả của sự hòa hợp và hạnh phúc. Bình an đến với chúng ta với tính cách là một phúc lành của Thiên Chúa, nhưng nó cũng là mục đích mà chúng ta cố gắng đạt đến. Bình an qui chiếu đến sự hòa hợp mà con người cảm nghiệm được trong mối liên hệ với Thiên Chúa, với cộng đoàn, với thiên nhiên và với chính bản thân trong một trật tự đúng nghĩa.[1] Trong bài này, chúng ta sẽ cứu xét sự bình an đích thực trong mối liên hệ với Thiên Chúa, làm thế nào để duy trì sự bình an trong tâm hồn, và đem sự bình an đến cho mọi người.
1. Bình an đích thực là sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn
Trong cuộc đời có những lúc chúng ta bị đau khổ vì những ảo tưởng không đâu và không nhận ra được sự bình an mình đang có. Bản tính con người thường dễ bị tổn thương khi gặp sóng to gió lớn của biển đời vùi dập, lúc đó ta không còn nhận ra bất cứ điều gì khác ngoài cơn bão tố, bởi vì nó độc chiếm phần lớn nhận thức của ta. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta đã đánh mất sự bình an trong tâm hồn của mình, mà chỉ mất đi sự nhận thức về bình an. Khi bị thử thách, tâm hồn tràn đầy đau khổ, ta tự nhủ “Tôi đã mất đi sự bình an nội tâm”, đúng ra phải nói: “Tôi không còn cảm thấy sự bình an nữa”. Ta cần xác tín rằng: mình chỉ mất đi sự bình an trong tâm hồn khi ở trong tình trạng tội trọng.
Thế nào gọi là bình an? Đó là một cảm thức hài lòng, thanh thản, bất chấp các hoàn cảnh cuộc sống. nhưng trên hết là lòng tin tưởng vững vàng vào Cha trên trời. Có Thiên Chúa hiện diện trong tâm hồn bằng ân sủng của Ngài.
Kinh Thánh cho thấy, sự bình an đích thực chỉ có nơi Thiên Chúa. Yếu tố then chốt của bình an là sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia nói: “Lạy Chúa, Ngài quyết giữ cho dân được bình an, vì họ tin vào Ngài” (Is 26,3). Chúa Kitô là sự bình an của chúng ta. Sự hiện diện của Ngài đem lại bình an trong chúng ta: “Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Và chính Chúa Giêsu nói: “Trong Thầy anh em được bình an.” (Ga 16,33).
Một người có sự bình an thực có thể chịu đựng các đau khổ, khó khăn của cuộc sống mà vẫn hưởng một niềm bình an trong tâm hồn vượt quá sự hiểu biết của con người. Tại sao? Bởi vì sự bình an không đến từ hoàn cảnh thuận lợi, những việc may mắn, tốt đẹp mà những người khác có thể làm cho mình. Phải chăng việc hưởng sự bình an hoàn hảo của Thiên Chúa có nghĩa là chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy những hệ quả của các đau thương trong cuộc sống đang gầm thét chung quanh mình? Dường như không phải thế, nhưng sự bình an của Chúa giúp chúng ta đủ vững vàng để đương đầu với bất cứ điều gì gặp phải trong cuộc sống.
Có thể nói, có hai thứ bình an: bình an chính yếu và bình an phụ thuộc. Bình an chính yếu là hoa trái của đức mến. Khi nói đến đức mến là nói đến Chúa, vì Chúa là Tình Yêu. Bình an này tùy theo mức độ yêu mến của tâm hồn. Còn thứ bình an tùy thuộc là một ơn riêng Chúa ban khi Người muốn và cho kẻ Người muốn[2].
2. Sự bình an đích thực là hoa trái của việc kết hiệp nên một với Thiên Chúa
Khi chúng ta gặp thử thách trong cuộc sống, làm thế nào để duy trì bình an nội tâm? Câu trả lời là chúng ta cần sống gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu. Chỉ những ai hướng hết tâm hồn về Chúa mới có được bình an giữa cơn thử thách.
Khi cơn thử thách xảy đến, câu hỏi đầu tiên thường là: tại sao việc này lại xảy ra cho tôi? Rồi chúng ta nghĩ đến những ảnh hưởng của sự việc trên cuộc sống của mình. Những phản ứng như thế là bình thường, nhưng cần hướng về Đấng đang nắm giữ mọi sự trong tay Ngài. Ngoài Thiên Chúa không ai có thể giải quyết các vấn nạn của chúng ta nếu chỉ dựa vào sức riêng của mình. Con người chỉ tìm thấy lòng can đảm, niềm hy vọng và sức mạnh trong Ngài và trong lời của Ngài mà thôi.
Khi lo âu, sợ hãi, chúng ta có nguy cơ mất đi sự bình an, và chúng ta chỉ có thể thắng vượt lo âu sợ hãi bằng việc tập trung vào sự hiện diện của Thiên Chúa. Thánh Phaolô khuyên: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4,6-7).
Chúng ta hãy để Thiên Chúa hành động vào đúng thời đúng lúc Ngài ấn định. Hãy xem cuộc đời của mình là một quà tặng của Thiên Chúa ban cho và hướng hết tâm trí về Ngài. Lúc đó, chúng ta sẽ tìm thấy được bình an, niềm hy vọng và ân sủng của Chúa. Chúng ta sẽ làm được nhiều việc nếu luôn tập trung vào Thiên Chúa. Khi gặp thử thách, Vịnh gia đã viết :
“Xin thương xót con cùng,
lạy Thiên Chúa, xin Ngài thương xót con,
này con đến ẩn náu bên Ngài ;
dưới bóng Ngài, này con ẩn náu,
tới khi nào hết tai hoạ khổ đau.
Tôi kêu cầu Chúa Tối Cao,
Chúa ban ơn phúc dồi dào cho tôi.
Tự trời xanh, mong Người đưa tay giải thoát,
hạ nhục kẻ thù tấn công tôi.
Xin Chúa Trời gửi xuống tình thương và lòng thành tín của Người” (Tv 57, 1-4).
Làm thế nào Vịnh gia có được những lời đầy tín thác như vậy, nếu ông chưa từng sống gắn bó với Thiên Chúa, hiểu biết về Ngài. Chỗ an toàn nhất cho chúng ta khi gặp thử thách là chạy đến với Chúa Kitô. Khi phục sinh, Chúa hiện ra và nói với các môn đệ: “Bình an cho anh em”(Ga 20, 19). Đây là sự bình an mà Ngài đã phải trả giá trên cây thập tự (Ga 14,27; Rm 5,1; Ep 2,13-16), sự bình an mà hôm nay chúng ta cần đến.
3. Bí quyết nắm giữ sự bình an nội tâm
Bí quyết đích thực để giữ sự bình an nội tâm hệ tại ở chỗ không dính bén vào các thực tại chóng qua, những sự kiện xảy ra trong cuộc sống và những điều tạo nên bề mặt cuộc sống này. Tác giả sách “Gương Chúa Giêsu” viết: “Ta chỉ được bình an thực khi nào ta không muốn bận tâm đến lời nói hay việc làm của người khác hay bất cứ những gì không can hệ đến ta”. Gắn bó với những điều tạm bợ này sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trống vắng và không thỏa mãn, ngay cả khi chúng không gây ra sự tổn thương cho mình. Để giữ sự bình an, chúng ta cần một điều khác. Đó là quay trở về với thực tại sâu xa nhất của tâm hồn. Có những điểm sau đây phải giữ để duy trì sự bình an:
a. Tập trung, tin tưởng và tín thác vào Thiên Chúa
Khi đặt hết tâm trí vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ có sự bình an đích thực. Chúng ta phải qui hướng tâm trí mình vào việc suy ngắm sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa. Khi chúng ta dùng thời giờ để nghiền ngẫm nỗi đau của mình, nỗi đau càng đau hơn. Cũng vậy, sẽ có một cảm nghiệm sâu xa hơn về sự hiện diện của Thiên Chúa nếu chúng ta hướng tâm trí về Ngài và không phải lo lắng về việc Thiên Chúa hành động chậm trễ, hay trợ giúp không đủ hiệu quả. Thời điểm và mục đích của Chúa thì hoàn hảo, Ngài sẽ sử dụng nỗi khổ cực của chúng ta để giúp hiểu biết hơn về Ngài.
b. Suy niệm Lời Thiên Chúa
Thánh vịnh 119, 165 nói:
“Kẻ yêu luật Chúa hưởng an bình thư thái,
chẳng còn lo gặp chướng ngại nào”.
Như thế ai yêu mến Lời Chúa sẽ có một sự bình an khôn tả. Ai chuyên chăm đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày sẽ tin tưởng vào những gì Chúa nói, và rồi Lời Chúa sẽ hướng dẫn và là nơi nương tựa cho họ.
c. Vâng phục Thiên Chúa
Mặc dù các hành động và quyết định của con người là những nhân tố quan trọng trong sự có mặt hay vắng mặt của bình an, nhưng bình an còn là một thực tại mà người ta có thể kiến tạo qua các kế hoạch và tiến trình đúng đắn. Tiến trình đúng đắn này là sự vâng phục Thiên Chúa, nó đem lại sự bình an như lời hứa của Thiên Chúa trong sách Lêvi: “Nếu các ngươi theo các qui tắc của Ta, nếu các ngươi giữ các mệnh lệnh của Ta và đem ra thực hành, thì Ta sẽ ban mưa cho các ngươi đúng mùa, đất sẽ sinh hoa màu, cây cối ngoài đồng sẽ ra trái, các ngươi sẽ được gặt lúa cho đến thời hái nho, và sẽ được hái nho cho đến thời gieo giống, các ngươi sẽ được ăn bánh của mình no nê và sẽ được sống yên hàn trên đất các ngươi. Ta sẽ thiết lập hòa bình trong đất các ngươi, và các ngươi sẽ ngủ nghỉ mà không ai quấy phá, Ta sẽ khiến thú dữ biến khỏi đất các ngươi, và gươm sẽ không đi qua đất các ngươi. Các ngươi sẽ đuổi kẻ thù của các ngươi, và chúng sẽ bị gươm đâm ngã gục trước mặt các ngươi” (Lv 26, 3-7).
d. Cự tuyệt tội lỗi, hăng hái chiến đấu với tình dục
Bình an không thể tồn tại với tội lỗi. Tội lỗi đem vào lương tâm sự hỗn loạn ghê gớm nhất và những xao xuyến cay độc nhất. Vì thế, Kinh Thánh tuyên bố: những kẻ tội lỗi không thể có bình an (x. Is 48,22). Họ kêu gọi bình an, miệng họ luôn nói bình an, nhưng bình an vẫn tránh xa họ, và chỉ còn lương tâm cắn rứt họ (x. Gr 6,14).
Sau khi nguyên tổ phạm tội, khuynh hướng của con người thường nghiêng về sự dữ. Vì vậy, để có sự bình an đích thực, con người phải chiến đấu để chiến thắng những bản năng thấp hèn của mình. Không phải cứ buông theo dục tình hỗn loạn của bản thân sẽ được bình an, nhưng chính nhờ việc hăng hái chiến đấu với các dục vọng tham, sân, si của mình mà con người mới đạt được bình an đích thực.
e. Thực thi đức khiêm nhường
Tác giả sách “Gương Chúa Giêsu” viết: “Bình an đích thực hệ tại việc khiêm nhường chịu đựng những trái ý, hơn là không gặp những trái ý”. Thật vậy, tính kiêu ngạo là chất độc hại vùi sâu trong tâm tình, tư tưởng, trong đam mê, nó không để chúng ta an nghỉ. Những người kiêu ngạo chỉ nghĩ đến mình, qui tất cả về mình chỉ đi tìm sự an nghỉ trong bản thân, nhưng không bao giờ tìm được. Kẻ kiêu ngạo, cứ nghĩ mình ở trên mọi người, thực tế thì chẳng hơn ai, nhưng kẻ ấy hay giận dỗi và oán hận mọi người, chỉ một lời nói, một cử chỉ cũng đủ làm họ mất lòng. Họ sợ thiên hạ không kính nể mình, sợ người ta chống đối mình, và tự tạo ra bao nhiêu là đau buồn vô cớ. Mỗi lần họ nghĩ rằng mình bị xúc phạm, dù có lý hay không, họ cũng không muốn tha thứ.
Ngược lại, người khiêm tốn quên mình, đặt sự bình an của bản thân trên một nền tảng chắc chắn là chính Thiên Chúa. Đức khiêm nhường giải thoát họ khỏi những dao động của tính kiêu căng. Người khiêm nhường luôn nhận ra sự giới hạn của mình và không đòi hỏi gì nơi Chúa hay người khác, nên có gặp điều không may thì họ vẫn chấp nhận trong bình an. Do đó, tâm trí họ luôn luôn thanh thản, ở đâu cũng cảm thấy an bình dễ chịu. Vì thế, họ không phải bận lòng với dư luận hay ý nghĩ của người khác về mình. Như vậy, kiêu ngạo không đem lại sự bình an, và bình an thực là phần thưởng cho người khiêm tốn.
4. Chúng ta được mời gọi để làm chứng nhân và hiện thân của sự bình an
Đem sự bình an của Thiên Chúa đến cho thế giới là một đòi hỏi đối với người môn đệ Chúa Giêsu. Nếu sứ vụ của Chúa Giêsu là mang tình yêu giao hòa của Thiên Chúa đến cho thế giới, thì những người đi theo Chúa cũng phải tham dự vào sứ vụ này. Để bình an của Thiên Chúa được lan tỏa, cần phải có sự trân trọng đối với mối liên hệ hỗ tương trong cuộc sống và một cảm thức sâu xa về sự liên đới với mọi người. Bình an phụ thuộc vào việc yêu thương mọi người trong cộng đoàn và liên đới với những thụ tạo khác. Sự bình an phát xuất từ việc nhìn nhận và đáp ứng đối với mối liên hệ đồng loại trong cuộc sống. Chính tính ích kỷ, sự hưởng thụ vật chất và tham lam sẽ xoá nhoà sự bình an trong tâm hồn. Vì vậy, cần phải loại bỏ những cản trở làm mất đi sự bình an nơi chúng ta và nơi mọi người.
Kết
Để có sự bình an của Thiên Chúa, chúng ta cần ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn, gắn bó với Ngài qua việc suy niệm lời Chúa, xa lánh tội lỗi và sống khiêm tốn.
Chúa Giêsu đến giao hòa con người với Thiên Chúa nhờ cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài, qua đó bình an tuôn chảy đến nhân loại. Nhiệm vụ của mỗi người chúng ta là tiếp tục công việc giao hòa mà Chúa Giêsu đã khởi sự, phải trở nên những người kiến tạo sự bình an.
Chúng ta thực hành và học biết bình an nơi bí tích Thánh Thể. Thánh Thể là sự bình an bởi vì chính qua thân xác đầy thương tích của Chúa Kitô mà mọi thụ tạo được chữa lành, cũng như những hỗn độn được biến đổi thành sự hòa hợp trong cộng đoàn và cuộc sống. Trong bí tích Thánh Thể, Giáo Hội kính nhớ Tình Yêu chữa lành và giải thoát của Thiên Chúa. Chính lòng thương xót của Thiên Chúa đã giải thoát toàn thể nhân loại khỏi tội lỗi và cứu chuộc thế giới khỏi ách nô lệ của tử thần. Trong Thánh Thể, chúng ta được mời gọi để làm cho cuộc đời của mình không bị chìm đắm trong thù hận và luôn nhớ rằng: cuối cùng thì Tình Yêu vẫn mạnh mẽ hơn thù hận, và hòa bình thắng vượt sự chia rẽ [3].
[1] Xem Dale Launderville, “The Collegeville Pastoral Dictionary of Biblical Theology”, trang 709.
[2]Xem Carthusian, “They Speak by Silences”, trang 49. .
[3]Xem Paul Wadell, “The Collegeville Pastoral Dictionary of Biblical Theology”, trang 714
“BÌNH AN DƯỚI THẾ…”
Ignatio Hoàng Quốc Toản
Con người là một thực thể hữu hạn, nhưng luôn mang trong trái tim mình khát vọng vô biên. Một trong những nỗi khao khát sâu thẳm nhất nơi con người hẳn là khao khát được bình an và hạnh phúc. Thật vậy, bình an, hai từ rất quen thuộc, rất bình dị, thiết thân, là nền tảng căn bản để con người xây dựng cuộc sống phát triển cách hài hoà và tươi đẹp. Bởi thế mà nó trở thành ước vọng tốt đẹp nhất mà con người muốn nguyện chúc và trao tặng cho nhau ở mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Nhưng kinh nghiệm cho thấy có rất nhiều quan niệm khác nhau về bình an.
Vậy bình an là gì? đến từ đâu? Phải chăng bình an chỉ là một lời xã giao được phóng chiếu từ khát vọng sâu thẳm của con người, hay đó là một thực tại có thật? Phải hiểu bình an theo nghĩa nào cho đúng? Làm thế nào để có được bình an đích thực?
Thiên Chúa nguồn bình an (Rm 15, 33).
Đối với những ngươi tin vào Thiên Chúa, thì bình an không chỉ là một ước vọng hay một lời xã giao, nhưng là một niềm xác tín sâu xa vào Thiên Chúa, là chủ tể, là nguồn mạch, và là Đấng ban bình an (x. Rm 15,3; Ds 6,26). Nhìn lại lịch sử dân Chúa, chúng ta thấy, họ luôn đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, và xác tín rằng: chỉ có Ngài mới ban bình an cho dân (x. Ds 6,26; 1V 2,33; 2Mcb 1,4). Nên bình an không chỉ là lời ước mong, nhưng là lời cầu xin tha thiết và đầy xác tín vào Thiên Chúa. Vì chính Thiên Chúa đã truyền cho Môsê khi chúc lành cho dân thì hãy nói: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em! Cầu chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của Danh Thiên Chúa, và Thiên Chúa sẽ chúc lành cho họ” (Ds 6,26-27).
Đối với người Do thái, bình an không chỉ mang ý nghĩa những gì tốt đẹp nhất, đáng được ước mong và cầu chúc cho nhau, nhưng còn có ý nghĩa Thiên Sai, một tương lai tràn trề hy vọng. Đó là nền hoà bình mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân được tuyển chọn khi Đấng Messia xuất hiện, vì Ngài là Hoàng Tử bình an (x. Is, 9, 5), Ngài sẽ thiết lập một nền hoà bình thực sự bằng cách giao hoà giữa Thiên Chúa và nhân loại, và giữa nhân loại với nhau và với muôn loài. Một hình ảnh tuyệt đẹp mà ngôn sứ Isaia đã tiên báo: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta” (Is 11, 6-9).
Đối với người Kitô hữu, lời hứa ấy được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời vĩnh cửu đã nhập thể làm người và cư ngụ giữa nhân loại (x. Ga 1. 14). Ngài là sự bình an của nhân loại. Ngài đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Ngài đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét, … Ngài đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho những người ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần (x. Ep 2,14-17).
Chúa Giêsu Kitô là sự bình an của ta (Ep 2,14).
Thật vậy, trong đêm Ngôi Hai giáng sinh, sứ thần Chúa đã long trọng báo tin: “Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa, … và bổng có muôn vàn thiên sứ hợp tiếng ca mừng: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2, 10-14). Bình an đó được khởi đầu bằng những lời trấn an của sứ thần Chúa với các mục đồng, và được tiếp nối bằng những cuộc gặp gỡ, bằng niềm vui và lên đường chia sẻ mà các mục đồng đã thực hiện, sau khi họ đã gặp được Hài Nhi Giêsu (x. Lc 2, 15-18).
Thật vậy, nhờ mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, bình an của Thiên Chúa đã bước vào lịch sử của nhân loại, đã chia sẻ cuộc hành trình của nhân loại, đã đến giải thoát nhân loại khỏi bóng tối sự chết và ban cho họ ân sủng, lòng thương xót và tình yêu của Chúa Cha. Nghĩa là Ngài trả lại cho nhân loại sự bình an nguyên tuyền mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ từ thuở bình minh của sự sống.
Bình an của Chúa Giêsu Kitô không còn là một ngôn từ trừu tượng, nhưng đã thực sự nhập thể và đồng hành với nhân loại bằng những hành động cụ thể trong cuộc đời trần thế của Ngài: bình an được thể hiện trong lời nói, trong việc làm… và bằng cả cái chết thập giá, để nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, mà Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời (x. Cl 1,20). Như vậy bình an đích thực mà Thiên Chúa trao ban cho nhân loại chỉ được hoàn tất trọn vẹn trên thập giá của Đức Giêsu khi Ngài nói lời tha thứ và phó thác trong tay Cha (x. Lc 23,34.46). Theo nghĩa này, chúng ta dám khẳng định rằng: Bình an đích thực chỉ có được qua sự tha thứ, hoà giải và phó thác cho Đấng xét xử công bình. Chính Đức Giêsu Kitô đã trở thành mẫu gương cho nhân loại học đòi, bắt chước (x. 1Pr 2, 23).
Đức Kitô không chỉ muốn một mình Ngài đến ban bình an cho nhân thế, nhưng Ngài còn muốn các môn đệ của Ngài cũng phải tiếp nối sứ mạng ấy, là đem Tin Mừng bình an cho nhân loại. Bởi đó, khi truyền cho các ông lên đường rao giảng Tin Mừng, Ngài bảo các ông khi “vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này !” (Lc 10,5). Trước khi rời bỏ thế gian để về với Chúa Cha, gia bảo mà Đức Giêsu để lại cho các môn đệ cũng không gì khác hơn ngoài sự bình an: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27), đến ngày phục sinh, lời đầu tiên Đức Giêsu ngỏ với các môn đệ cũng là lời chúc bình an: “Bình an cho anh em!” (Ga 20. Lc 24,36).
Bình an cho anh em (x. Ga 14,27).
Đức Kitô công bố sứ điệp bình an cho các môn đệ trong bối cảnh đau buồn xao xuyến của chia ly, cũng như trong bối cảnh hân hoan của ngày phục sinh, với thân xác còn mang đầy thương tích. Sự kiện này như muốn khẳng định rằng: sự bình an đích thực mà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại, nhiều khi cũng khác với quan niệm về bình an mà con người thường ước mong, tìm kiếm và cầu chúc cho nhau. Điều này chính Đức Giêsu đã xác định rõ ràng: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27).
Thật thế, bình an Đức Kitô ban tặng, không có nghĩa là cuộc sống không có thử thách, nhưng là bình an trong những thử thách của cuộc sống. Bình an không có nghĩa là cuộc đời không có sóng gió, nhưng là bình an giữa những sóng gió của cuộc đời. Bình an không có nghĩa là cuộc đời không có đau khổ, nhưng bình an trong những đau khổ của cuộc đời với trọn niềm tin thác vào Đấng ban sức mạnh, sẽ chịu được hết (x. Pl 4,13). Nhìn vào gương sống của các chứng nhân đức tin, các anh hùng tử đạo, chúng ta sẽ thấy rõ sự bình an đích thực của Đức Kitô trao tặng. Đó là sự bình an thanh thản trong tâm hồn, họ đón nhận tất cả trong niềm hân hoan và tín thác vào lời trấn an của Thầy Chí Thánh: “Anh em đừng sợ…” (x. Lc 12,4-12).
Hẳn thật, bình an Đức Giêsu ban tặng, đó không phải là sự bình an của vị hoàng đế ngồi trên ngai vàng với hàng ngàn lính canh gác ngày đêm, nhưng là sự bình an của những chứng nhân anh dũng tiến ra pháp trường để chịu hành quyết, mà miệng vẫn hát thánh ca ngợi khen Thiên Chúa. Bình an Đức Kitô ban tặng không phải là thứ bình an của những nhà tỉ phú, sống trong sự giàu sang, với những lớp hàng rào bảo vệ cẩn thận, nhưng là sự bình an của những con người tự do chọn lựa cuộc sống nghèo khó vì Đức Kitô và vì Nước Trời (x. Mt 5,3; Lc 6,20). Bình an đích thực Đức Kitô ban tặng, không phải là thứ bình an vui vẻ khi được đắm chìm trong sự hưởng lạc nơi những thực tại trần thế, nhưng là bình an của những người biết “bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu,… và để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ” (x. Cl 2,7). Đó là sự bình an không phải để làm vinh danh ta, nhưng là để làm vinh danh Thiên Chúa là Cha.
Như vậy, sự bình an đích thực mà Đức Kitô ban tặng cho trần thế, không phải luôn là thứ bình an theo ước vọng thoả mãn sở thích của con người, nhưng là sự bình an luôn luôn phải đi đôi với “vinh Danh Thiên Chúa trên trời”. Đây là tiêu chuẩn căn bản để xác định: đâu là sự bình an đích thực của Thiên Chúa ban cho trần thế và đâu là thứ bình an giả tạo mà thế gian ban tặng cho nhau. Bởi vậy, để có được sự bình an đích thực, con người phải cùng chiến đấu để chiếm lấy, hay nói đúng hơn là phải cộng tác với Thiên Chúa để kiến tạo và xây dựng.
Phúc cho ai xây dựng bình an. (x. Mt 5,5).
Ai đó đã từng nói: Khát mong được bình an, là khát mong của mỗi người, nhưng nếu chỉ khát mong thôi thì chưa đủ, cần phải cầu nguyện để xin Chúa ban bình an, bởi bình an đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa; nhưng chỉ cầu nguyện thôi, cũng chưa đủ, vì Thiên Chúa luôn mời gọi con người cộng tác với Ngài trong công cuộc xây dựng bình an. Chính Chúa Giêsu đã chúc phúc và gọi nhưng ai xây dựng sự bình an là con cái Thiên Chúa (x. Mt 5,5). Bởi đó, để có bình an đích thực, chúng ta cần phải kiến tạo và xây dựng nó. Nhưng làm thế nào để kiến tạo và xây dựng bình an?
Cùng với thánh Giacôbê tông đồ, chúng ta dám khẳng định rằng: Tất cả những cuộc xung đột, chiến tranh và gây mất bình an cho nhân loại đều phóng chiếu của sự xung đột trong tâm hồn của những con người bất an rồi gây chiến (x. Gc 4,1-3). Vì thế mà Fulton j. Sheen đã có lý khi quả quyết: Không thể có một thế giới hoà bình, nếu không có những tâm hồn bình an. Bởi vậy, để xây dựng sự bình an cho nhân loại, cần phải có tâm hồn bình an. Muốn vậy, trước hết họ phải loại bỏ khỏi mình tính tham, sân, si; loại bỏ hận thù, chia rẽ; tiêu huỷ vũ khí, thứ đến mới xây đắp bình an dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
Thật ra xây dựng hoà bình, không chỉ là ngừng chiến tranh, nhưng phải tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau, phải loại bỏ vũ khí, biến vũ khí chiến tranh thành công cụ xây dựng hoà bình, phục vụ cuộc sống. Theo kiểu nói của các ngôn sứ, xây dựng hoà bình chính là: “đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái, để dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến”. (x. Is 2,4; Mk 4,3). Trong bài giảng trên núi, chính Chúa Giêsu cũng đã chúc phúc cho những ai xây dựng hoà bình, họ sẽ gọi là con Thiên Chúa. (x. Mt 5,9).
Như vậy, bình an không chỉ là một ơn để lãnh nhận, mà còn là một công trình để xây dựng. Nhưng để thực hiện được công trình này, con người phải hết sức nỗ lực, trước hết là chiến đấu với chính mình, dám đối diện với chính mình, sám hối hoàn cải tận căn, dám mở cánh cửa tâm hồn cho ánh sáng của Chúa Thánh Thần soi chiếu vào tận đáy lòng, buông mình để Chúa Thánh Thần uốn nắn những nẻo đường quanh co, san lấp những hố sâu tham vong, và soi chiếu vào những góc khuất và bóng tối của tội lỗi. Vì chỉ có Chúa Thánh Thần mới giúp chúng ta phân định được đâu là hướng đi của xác thịt để từ bỏ và đâu là hướng đi của Thần Khí để tiến bước. Chính khi bước đi theo Thần Khí thì con người mới được giải thoát khỏi đam mê, và được dẫn đưa tới sự thật toàn vẹn (x. Ga 8,32; 16,13), được như vậy thì cuộc sống mới được bình an, hoan lạc trong Thánh Thần (x.Rm 14,17), và có khả năng trổ sinh hoa trái (x. Gl 5, 22-23).
Hẳn thật, chính khi sống trong sự thật thì tâm hồn mới được bình an thanh thản. Khi có tâm hồn bình an, mới có thể có lời nói bình an, hành động bình an và trở thành sứ giả của bình an. Chính khi tâm hồn bình an, con người có thể xoá bỏ bức tường ngăn cách của hận thù chia rẽ, để sống hoà giải, hoà hợp với nhau một cách trung thực và bền vững.
Như thế, xây dựng và kiến tạo bình an là phá đổ bước tường của nghi nan, chia rẽ, hận thù, để xây dựng con đường hiệp nhất và tha thứ, cùng nhau bước đi theo Thần Khí Chúa hướng dẫn đến với anh em, đến với bẹn bè… và cùng với anh em tìm đến mọi người, để cùng gặp gỡ, cùng chia sẻ, cùng “vui với người vui, khóc với người khóc” (x. Rm 12,15).
KẾT
Sứ điệp bình an mà ca đoàn thiên sứ vang lên trên bầu trời Bê-lem vào ngày Chúa Giáng Sinh, vẫn rất cần thiết được tiếp tục vang vọng trong các thiên niên kỷ, trong lòng một thế giới không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống, mà là đói khát tình yêu, đói khát được nghe Lời Chúa, Lời đem lại bình an (x. Am 8,11). Một thế giới đầy nghi nan, đầy những thủ đoạn của chia rẽ, tranh giành, bạo lực, chiến tranh, hận thù và chết chóc. Sứ điệp đó cần được vang lên trong tâm hồn mọi người, để nói với họ rằng: Thuở bình minh của sự sống, Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ, muôn vật và con người, Ngài thấy tất cả thật tốt đẹp, Ngài đã chúc lành và truyền cho chúng phải sinh sôi nẩy nở lan tràn mặt đất (x. St 1, 28-31), chứ Ngài không muốn cho mặt đất được Ngài chúc lành phải thấm máu của những người vô tội, để bị chúc dữ (x. St 4,8-12).
Sứ điệp đó cũng cần vang vọng cả trong bóng đêm tội lỗi của nhân loại như một luồng ánh sáng của hy vọng để nói với họ rằng: Thiên Chúa vẫn không bao giờ bỏ rơi nhân loại tội lỗi bất an, Ngài vẫn luôn khao khát thiết lập sự bình an tràn lan cho nhân thế (x. Lv 26,6), để mọi người hôm nay cùng hân hoan nắm tay nhau hát vang ca khúc mà thiên thần đã hát lên trên bầu trời Bê-lem năm xưa: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14).
BÌNH AN
KHÁT VỌNG CỦA MỌI TÂM HỒN
ĐV An Phước
Bình an hai chữ nghe thật êm đềm và nhẹ nhàng, nhưng cũng nói lên biết bao sự cố gắng và đấu tranh mới có được. Trong cuộc sống đã mấy ai nếm được sự bình an đích thực? Con người đã đi tìm bình an dưới những cách thức khác nhau. Có những người đi tìm sự bình an nơi danh vọng, tiền bạc, khoái lạc… tuy những điều đó chỉ mang đến cho họ sự thất vọng nên họ cứ mãi thao thức và khát khao sự bình an. Vì thế, “bình an luôn là khát vọng của mỗi tâm hồn”. Vậy đâu là bình an đích thực? Làm sao để có được sự bình an?
1. Mọi người đều khát khao bình an
Mọi người đều tìm kiếm bình an hạnh phúc. Thật vậy, người ta cố gắng học hành đỗ đạt để có được một việc làm ổn định, mức lương tương đối hầu trang trải cho cuộc sống và thoả mãn các nhu cầu thiết thực khác. Thế nhưng có bao giờ người ta tự hỏi tất cả những điều đó có mang lại hạnh phúc đích thực không? Có bao giờ người ta tự hỏi bình an là gì không? Theo thiển ý thì bình an là trạng thái an tĩnh khi tâm hồn vắng bóng mọi lo âu và phiền muồn. Lúc đó người ta cảm thấy thoải mái.
Ở đời người ta thường nghĩ rằng bình an trước hết là không có chiến tranh; không có những lo âu phiền muộn trong cuộc sống; gia đình hoà thuận; con cái yêu thương nhau; công ăn việc làm ổn định với mức lương cao; nhận được những lời tán thưởng và khen ngợi sau khi đã làm một điều gì đó có ích hay nổi tiếng…cũng có thể là một cuộc sống nhàn hạ, không mệt mỏi, không làm những việc nặng nhọc, không bệnh tật, tình trạng cơ thể khoẻ mạnh tinh thần thoải mái, không nợ nần, không âu lo, không có những xung đột trong tâm hồn. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là bình an thực sự. Vậy đâu là bình an đích thực ?
2. Bình an đích thực
Bình an đích thực chỉ có từ nơi Thiên Chúa như lời Chúa Giêsu đã hứa với các tông đồ: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Đây là một trạng thái sâu lắng của tâm hồn, tựa như mặt hồ phẳng lặng không chút gợn sóng và người ta có thể thấy tận đáy hồ. Sự bình an này vượt lên trên mọi thứ bình an khác mà người đời có thể quan niệm. Nói theo thánh Bênađô, “nếu ai đã một lần nhận được nụ hôn của Chúa Thánh Thần thì sẽ có kinh nghiệm thế nào là bình an đích thực”. Đó là sự hoan lạc của tâm hồn.
3. Tại sao bình an là khát vọng của mọi tâm hồn?
Con người luôn khát vọng bình an. Đó là điều ai ai cũng mong ước, kiếm tìm. Người ta tần tảo sớm khuya cũng mong tìm được bình an đích thực cho cuộc đời và đời người. Đó là điều khác biệt giữa con người với thú vật, bởi vì con người được Thiên Chúa dựng nên có lý trí và ý chí. Chính vì thế, con người mãi khắc khoải và mang trong mình niềm khao khát Chân Thiện Mỹ.
a. Con người – một hữu thể bất an
Con người là một hữu thể nhỏ bé, yếu kém được “ném” vào một thế giới rộng lớn đầy bất trắc. Ngay trong chính bản thân, con người vẫn bị xáo trộn, giằng co, chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu nên khó làm chủ được chính mình. Do đó, con người luôn sống trong lo sợ và bất an giữa một thế giới luôn đe dọa đến bản năng sinh tồn của mình.
Ngày nay, các thế lực thiên nhiên không làm cho con người quá sợ hãi, nhưng con người vẫn còn lo sợ về nhiều vấn đề trong cuộc sống nhân sinh như: sợ thất bại, sợ nghèo đói, sợ bệnh tật, sợ xấu, sợ già, sợ cô đơn, sợ chiến tranh… cuối cùng là sợ chết.
b. Con người luôn khao khát Thiên Chúa
Sống trên đời này, con người luôn tìm kiếm hạnh phúc và bình an, nhưng bình an và hạnh phúc rất mong manh và chóng qua. Nhưng tự bản chất con người luôn tìm kiếm vĩnh cửu. Do đó, con người hướng về Thiên Chúa và khao khát Ngài. Kinh nghiệm cho thấy, những thực tại nơi trần gian đều tương đối và bất tất. Do đó những cố gắng, thành công của con người đều thấp thoáng bóng dáng của các giới hạn, khiến con người luôn xao xuyến và bất thoả. Hơn bao giờ hết, con người cần đi tìm nguồn bình an tuyệt đối là chính Thiên Chúa và chỉ có Ngài mới mang đến cho con người bình an đích thực. Nhưng làm thế nào để đạt được bình an đích thực?
4. Phương thế để đạt được bình an đích thực
Để đến đích cần có phương tiện, để thành công cần có phương pháp. Trong đời sống tâm linh cũng vậy, để tâm hồn bình an thực sự cũng cần có phương thế. Một trong những phương thế đó là khiêm tốn tựa nương vào Chúa và liên đới với tha nhân.
a. Tựa nương vào Chúa
Vịnh Gia đã từng lên tiếng: “Tựa nương vào Chúa là hơn, vì lòng thương Chúa trải muôn ngàn đời”. Quả thật, khi ở bên Chúa người ta mới có được bình an đích thực trong tâm hồn. Ai tựa nương vào Chúa không bao giờ thất vọng. Thánh Vương Đavít đã cảm nhận được điều đó nên ngài xác quyết là thà buông mình vào tay Thiên Chúa còn hơn là gieo mình vào tay người đời.
Đứng trước những biến động không ngừng của cuộc sống, ai lại không lo âu sợ hãi. Nhưng người nào tin tưởng và biết tựa nương vào Chúa thì không thất vọng. Thiên Chúa mãi thành tín và sẽ không bỏ rơi con người. Thiên Chúa hằng bảo vệ chở che họ trong mọi hoàn cảnh: “Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân: lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ” (Tv 91,4). Chính lời Chúa sẽ dẫn lối đưa đường cho con người về bờ bến bình an đích thực, “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105). Chính Thiên Chúa khoả lấp cơn khát bình an của mọi tâm hồn biết tựa nương vào Ngài: “Nương cánh Chúa, bạn không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng, hay mũi tên bay giữa ban ngày” (Tv 91,5).
Thiên Chúa là chỗ vững chắc cho con người nương tựa để được bình an. Và chỉ khi cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa mới giúp chúng ta có khả năng liên đới với tha nhân như Ngài muốn.
b. Liên đới với tha nhân
Trong mỗi bàn tay, Chúa tạo nên năm ngón liền nhau nhưng khác nhau về hình dáng và kích thước, có ngón ngắn, ngón dài, ngón lớn, ngón bé. Năm ngón khác nhau hợp thành một sức mạnh vững chắc cùng hỗ trợ cho nhau. Điều này gợi cho chúng ta một chân lý, con người sống có tính hổ tương (x. St 1,27), và đặt trong một cộng đồng nhân loại. Nơi đó, con người liên đới và hỗ trợ cho nhau trong cuộc sống thường nhật.
Để tình liên đới bền chặt, cần tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau nhìn về một hướng tích cực, loại trừ thái độ coi thường, khinh miệt, những người yếu kém hơn. Vì mỗi người đều có sở trường và nét đẹp riêng của mình cần phải được tôn trọng và phát huy, Chính sự khác biệt này làm nên nét phong phú cho cuộc sống. Vì lẽ ấy cần có các mối tương quan liên đới, hỗ tương để dựng xây một cuộc sống hoà hợp nhưng không hoà tan, và trở nên phương thế dựng xây bình an đích thực cho nhau.
Thật vậy, tình liên đới trong sáng và chân thành sẽ kiến tạo đời sống an hoà, thanh thản cho nhau. Trong các mối tương quan với Thiên Chúa và với nhau, giúp người ta tạo nên sự tin tưởng lẫn nhau, và tìm thấy được bình an tươi vui nơi các tương quan đó. Từ các mối tương quan liên đới ấy sẽ tạo nên mối hiệp thông tròn đầy, mang đến hạnh phúc và bình an cho nhau nơi cuộc sống hiện tại đồng thời hướng đến hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.
5. Đan sĩ – con người của bình an
Đan sĩ được định nghĩa như là người chỉ chuyên tâm tìm kiếm một mình Thiên Chúa. Mà Thiên Chúa là nguồn bình an, nên đan sĩ phải là con người của bình an. Bình an đó được thể hiện trong cuộc sống thường ngày, qua phụng vụ, lao tác, trong thử thách và ngay cả khi đối diện với cái chết.
a. Bình an với Thiên Chúa
Theo Thánh phụ Biển Đức, Đan sĩ là người luôn tin tưởng, yêu mến và sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Vì thế, đan sĩ được hiểu là người trưởng thành trong đức mến. Và theo thánh Phaolô đức mến thì loại bỏ sợ hãi, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Nói cách khác, người trưởng thành trong đức mến là con người của Thiên Chúa, con người của bình an. Như vậy, theo thánh Biển Đức, đan sĩ là con người luôn sống trong bình an với Thiên Chúa để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
b. Bình an với tha nhân
Khi đan sĩ sống trong bình an với Thiên Chúa, thì họ sẽ có bình an với tha nhân, gần nhất là những anh em sống chung trong đan viện. Một đan sĩ có tâm hồn bình an thì nhận thấy anh em là món quà quý giá mà Thiên Chúa tặng ban cho mình và cộng đoàn. Họ sẽ luôn cảm tạ Chúa và trân trọng người anh em; luôn tìm cách sống hoà thuận và tạo bầu không khí yêu thương, an bình. Nếu có điều gì dẫn đến đối kháng, bất hoà thì họ tìm mọi cách để làm hoà. Do đó, đan sĩ bình an là người sống yêu thương, quảng đại, vô vị lợi, khiêm tốn, phục vụ và cho đi, để rồi khi cuộc đời xế chiều, họ cũng như cụ già Simêon dâng lên Chúa lời chúc tụng, tạ ơn: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi” (Lc 2,29).
Kết luận
Qua những gì vừa trình bày trên đây, bình an không phải là thoả mãn các nhu cầu vật chất cũng như tinh thần, nhưng là một điều gì sâu xa, mãnh liệt hơn mà lòng người hằng khát khao tìm kiếm và ước mong được lấp đầy. Ai sẽ làm được điều đó? Chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng thỏa mãn mọi khát vọng và là đối tượng duy nhất của lòng người mà thôi. Tuy nhiên để được Thiên Chúa ban bình an, con người cũng cần sống tương quan với tha nhân.
AN BÌNH
TRONG TÌNH YÊU CHÚA
(Mai Ân Thông)
Khi Tình Yêu dấu mình trong thiên hạ
Bao ngọt ngào ẩn lòng dưới “đắng cay”
Ánh vinh quang nhường chỗ “những đám mây”
Tình Yêu ấy muôn đời sao nhiệm lạ.
Khi Tình Yêu chọn con đường Thập Giá
Hiến dâng mình làm lễ tế đồi cao
Dâng trái tim giọt máu cuối tuôn trào
Trao ban hết và cho đi tất cả.
Khi Tình yêu không nề hà vất vả
Gánh cho mình ngàn thống khổ tha nhân
Vác trên vai con chiên lạc ngại ngần
Tình yêu ấy, thế trần còn bỡ ngỡ.
Khi Tình Yêu không bao giờ sợ hãi
Không cúi đầu trước tội lỗi bất công
Không nương theo sự sống khoác bóng hồng
Lời chân lý rao truyền nguồn sức sống.
Khi Tình Yêu thể hiện qua hành động
Quên ý mình vâng phục Thánh Ý Cha
Đưa tha nhân tìm về nguồn ánh sáng
Đời phục vụ vòng gai làm vương miện.
Khi Tình Yêu là chuỗi lời cầu nguyện
Trọn tháng ngày là nốt nhạc trong tâm
Hy lễ dâng nơi cuộc sống âm thầm
Là lòng muốn ôm trọn tình sâu lắng.
Khi Tình yêu vương giọt sương vị mặn
Xót thương đời còn nhiều nỗi lầm than
Khóc thế nhân sao hờ hững bẽ bàng
Đường công chính dấu chân nhiều sỏi đá.
Khi Tình Yêu đong đầy ngàn phép lạ
Biến hình hài nên Máu Thịt huyền siêu
Ở bên ta mọi hôm sớm trưa chiều
Hồn tâm sự trọn vẹn mừng ngây ngất.
BÌNH AN TRONG CỘNG ĐOÀN
Giêrado (PH)
Chúng ta đang sống ở thế kỷ 21, dường như cuộc sống con người được mở ra với nhiều hy vọng, nhiều hứa hẹn, nhưng cũng không thiếu những thách đố. Đức Giáo Hoàng Benedicto nói: “Trong lòng nhiều người sống trong xã hội chúng ta, bên cạnh sự thịnh vượng vật chất là sự lan rộng của sa mạc tâm linh, một sự trống rỗng nội tâm, nỗi lo sợ không tên và một cảm thức lặng lẽ của tuyệt vọng”. Qua lời nhận định trên đây của Đức Giáo Hoàng cho chúng ta thấy không phải sự thịnh vượng vật chất đem lại bình an, mà chính đời sống tâm linh mới đem lại bình an đích thực trong tâm hồn.
Bình an là một ân ban của Thiên Chúa. Nhưng mỗi thành viên phải tìm kiếm và giữ lấy bình an cho mình và cộng đoàn. Vậy việc tìm kiếm và xây dựng bình an đó được thể hiện như thế nào?
1. Bình an là gì?
Với cái nhìn chung, bình an chính là một tình trạng ổn định, về tinh thần cũng như thế xác.
Theo Jorathe bình an là: “tình trạng ổn định, thư thái của tâm hồn khi không chịu áp lực của lo âu, thất vọng. Người lo âu dù ở cung điện, lâu đài cũng không bình an, hạnh phúc. Người thất vọng dù nắm hết quyền lực cũng không hạnh phúc, bình an. Trái lại, người bệnh, người tù, người nghèo, người cô thân, thất thế vẫn có bình an và là người hạnh phúc khi không bị lo âu, thất vọng trấn áp, khuynh đảo. Bao nhiêu người đã bình an trong đau khổ và hạnh phúc trong thử thách, gian nan. Bao nhiêu tâm hồn vẫn giữ được hạnh phúc bình an giữa phong ba, bão táp và bao nhiêu trái tim vẫn rạng rỡ niềm vui dù dãi dầu sương gió. Bình an có thể tạm hiểu là khi lo âu, thất vọng vắng mặt, khi lo âu, thất vọng chùn buớc, đầu hàng, khi lo âu, thất vọng bị cấm vận, phong toả. Và bình an là nguồn hạnh phúc vô tận làm con người vui sống, ham sống, tràn đầy hy vọng sống.” (x. bình an viên mãn của Jorathe Nắng Tím).
Theo thánh thánh Pio 5 dấu “Bình an là hồn nhiên của nghị lực, là thanh thản của lương tâm, là yên tĩnh của linh hồn và đại cuộc của tình yêu. Bình an thì trật tự, nó là sự hài hòa trong mỗi người chúng ta, là niềm vui và chứng thực cho một lương tâm trong sáng, cũng là niềm vui thánh mà có Chúa ngự ở tâm hồn đó. Bình an là con đường dẫn đến trọn lành”.
Còn trong Kinh Thánh bình an là lời chúc phúc, sự cứu độ, sự sống. Đối với tiên tri Êdêkien 37,26 bình an là “Ta sẽ lập với chúng một giao ước bình an; đó sẽ là giao ước vĩnh cửu đối với chúng, Ta sẽ định cư chúng, cho chúng sinh sôi nảy nở ra nhiều và đặt thánh điện của Ta ở giữa chúng cho đến muôn đời”.
2. Bình an của Chúa Giêsu
Nền tảng căn bản cho đời sống kitô hữu không gì khác hơn là chính Đức Giêsu Kitô: “ở đâu có hai ba người họp lại mà cầu nguyện, thì có Thầy ở đó” (Mt 18,20). Các tín hữu đầu tiên đã thực hiện tốt điều này, họ luôn ý hợp tâm đầu trong cuộc sống chung cũng như trong lời cầu nguyện (x. Cv 2,42). Họ chỉ có một lòng, một trí (x. Cv 4,32). Chính trong bầu khí của sự cầu nguyện, liên kết với Đức Giêsu Kitô sẽ giúp chúng ta sống tốt trong mọi hoàn cảnh: “Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giải bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện, và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Giêsu Kitô” (Pl 1,6-7). Với bình an này ai có thể ngăn cản chúng ta xây dựng sự bình an trong cộng đoàn.
3. Sống sự bình an trong cộng đoàn
Khi có được sự bình an trong cộng đoàn, thì mỗi người sẽ dễ tha thứ, bỏ mình, khiêm nhường làm cho cộng đoàn ngày càng thăng tiến trong đời sống tâm linh.
a. Tha thứ
Tha thứ và được tha thứ là một trong những yếu tố đem lại sự bình an. Nhưng tha thứ như thế nào? Bao nhiêu lần là đủ? Thánh Phêrô đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, khi anh em lỗi phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy không nói là bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,21-22). Và “Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: “Tôi hối hận”, thì anh cũng phải tha cho nó” (Lc 17,4). Ngài còn nhấn mạnh hơn nữa: “ Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
Trong sứ điệp Ngày Hoà Bình Thế Giới 1997 của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đưa ra một nhận định đầy sức thuyết phục, có hiệu năng kiến tạo bình an trong xã hội, nơi các cộng đoàn và trên toàn thế giới: “tìm kiếm bình an bằng con đường tha thứ”, và cũng trong sứ điệp ấy: “hãy trao tặng tha thứ, hãy đón nhận bình an”, “không bao giờ có được bình an, nếu con người không quyết tâm tha thứ cách chân thành”, “không tha thứ, vết thương sẽ rỉ máu mãi”. Tha thứ và được tha thứ làm con người được đón nhận trong bình an; không bị hạn chế vì những thiếu sót, giới hạn hay yếu đuối của mình. Một sự đón nhận mang niềm hy vọng bền bỉ, tin cậy, vững chắc nơi những khả năng của con người.
Dù biết rằng tha thứ cho nhau mới mong có được bình an, nhưng tha thứ là một việc không dễ. Vì ai cũng cho mình là đúng và là nạn nhân của sự bất công, ít ai chịu đứng ra làm hòa trước. Hơn nữa nếu mình có lỗi mà đi làm hòa đã khó, huống chi khi người khác có lỗi với mình và mình là nạn nhân thì làm sao có thể đi bước trước được! Vì “khi một người cảm thấy bị thương tổn, người ấy sẽ bị cám dỗ đầu hàng cơ chế tâm lý của sự tự ái và trả thù, bất chấp lời mời gọi của Chúa Giêsu” (Sứ điệp Mùa Chay 2001 của ĐTC Gioan Phaolô II). Muốn có tha thứ đòi hỏi một sự bỏ mình thực sự.
b. Bỏ mình
Bỏ mình là bỏ đi cái tôi cố hữu, xây dựng cộng đoàn trong bình an và là một việc khó khăn. Tuy nhiên, không có gì là không thể khi ta tin tưởng vào Lời Chúa chỉ có sự kết hợp chiều sâu trong Lời của Chúa mới cho ta khả năng từ bỏ mình cách trọn vẹn, và có sức mạnh xây dựng cộng đoàn sống trong bình an mà không ai lấy khỏi chúng ta được (x. Pl 1,6…). Khi ta biết từ bỏ mình không phải là ta sẽ mất tất cả, nhưng ngược lại sẽ được Thiên Chúa ban thưởng sự sống đời đời làm gia nghiệp (x. Mt 19,27-30; Lc 18,28-30 ).
c. Khiêm nhường
Người ta định nghĩa cách vắn tắt như sau: “Khiêm nhường là chấp nhận sự thật, sự thật về chính mình, về những ưu khuyết điểm, về tài năng đức độ và cả giá trị của mình đối với người xung quanh”.
Vậy chỉ có sự khiêm nhường mới giúp chúng ta nhận ra chính mình và hội nhập vào cộng đoàn, khả năng nghe được lòng mình, tôn trọng mình và người khác. Từ đó ta cảm nghiệm được sức mạnh của Thiên Chúa biểu lộ qua sự yếu đuối của ta. Trong chương VII Tu Luật thánh Biển Đức, ngài cũng cho ta thấy sự cần thiết của việc khiêm nhường (TL c7). Khiêm nhường để nhận ra vị trí của mình, tạo nên bầu khí huynh đệ.
• Kết:
Sống bình an trong cộng đoàn, đó là dấu hiệu của con cái Thiên Chúa – Đấng là nguồn bình an. Chúng ta phải là những sứ giả kiến tạo bình an trong cộng đoàn. Nói như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu: “Chúng ta phải là những thiên thần mang lại bình an, chứ không phải là những vị thẩm phán hòa giải”. Để trở thành những thiên thần xây dựng bình an trong đời sống cộng đoàn ta cần biết tha thứ cách khiêm nhường. Bởi vì, Một có tha thứ, bỏ mình và khiêm nhường thì cộng đoàn sẽ có được bình an và bình an đó sẽ lan tỏa ra môi trường chung quanh.
NGUỒN CỘI CỦA BÌNH AN
Mai Thi
“Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.
Vâng, đó là những lời mở đầu trong cuốn Tự Thuật của thánh Âu-tinh. Tại sao vị thánh giám mục tiến sĩ của chúng ta lại viết được lời cầu nguyện bất hủ, trở thành mẫu mực cho chúng ta noi gương bắt chước như vậy? Là con người trí thức vị vọng, am tường sử sách, học cao biết rộng, lắm tài nhiều tật… ngài có tất cả; nhưng tận sâu trong cõi lòng dường như rất trống vắng và bất an. Thánh Âu-tinh đã không tìm được bình an nơi các thụ tạo bên ngoài nhưng chỉ nơi Thiên Chúa thánh nhân mới được mãn nguyện.
Như bao người khác, thánh Âu-tinh phải trăn trở và khao khát cho được bình an là điều rất đỗi bình thường. Bởi sống trên đời, chúng ta không chỉ tìm cơm áo gạo tiền nhưng còn có những thứ khác cao thượng hơn, ý nghĩa hơn và bền vững hơn cần được thỏa mãn. Ước mong được bình an thực sự và sự bình an bền vững là điều bình thường và chính đáng của con người. Thế nhưng không thể tìm thấy bình an nơi nào khác mà chỉ có được khi chúng ta biết thực sự khiêm tốn nài xin Chúa ban cho. Chính Thiên Chúa là tác giả của bình an và Ngài ban tặng cho ta, bởi nơi Ngài có một tình yêu thương không giới hạn.
Qua đề tài “Nguồn Cội Của Bình An”, xin trình bày vài “nguyên tắc” căn bản về ý nghĩa và đối tượng trao ban bình an. Dựa trên mạc khải Kinh Thánh cùng với chút suy tư và quảng diễn những yếu tố liên quan đến đề tài, qua đó mời gọi chúng ta đặt lại tương quan tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa. Chỉ qua tình yêu với Ngài, trong tình yêu của Ngài và nhờ tình yêu của Ngài, chúng ta mới nếm cảm được sự bình an qúi giá và dịu ngọt, điều mà chúng ta đang khao khát đợi chờ. Đó cũng là niềm vui, niềm hạnh phúc và đích điểm cho cuộc đời chúng ta.
1.Bình an là điều có thật
Bình an bao gồm nhiều ý nghĩa và lãnh vực khác nhau. Từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên soạn cùng với một vài tác giả khác, đưa ra định nghĩa: “Bình an” là yên ổn, không gặp trắc trở, nguy hiểm.
Trước đây khái niệm bình an hay hòa bình vốn thường được hiểu theo nghĩa là không có những sự tiêu cực, xấu xa. Chẳng hạn như hòa bình là tình trạng không có chiến tranh hoặc bình an là tình trạng không gặp phải những điều khó khăn, bất trắc như tai ương, hoạn nạn… Ngày nay người ta quan niệm sự bình an hay hòa bình theo chiều kích tích cực hơn: một tình trạng hài hòa trong các mối tương quan giữa người với người, giữa tập thể với tập thể, giữa người với môi trường sống, với vũ trụ vạn vật…
Nói chung, bình an mà xưa nay chúng ta vẫn hiểu theo kiểu con người, nghĩa là mong sao được cơm no áo ấm, mạnh khỏe, công việc làm ăn phát đạt, sống an nhàn thư thái, may mắn, an toàn, và cuối cùng là được sống lâu… Dựa trên cách hiểu đó ta có thể ghi nhận ý kiến mang tính tổng quát và ở mức cao hơn về nội dung hai chữ bình an của học giả Bernard Haring là: “Tất cả những gì tốt đẹp nhất đáng được ước mong và ban tặng”[1].
Ai cũng khao khát và tìm kiếm sự bình an. Không những tìm kiếm sự bình an trong tâm hồn mà còn ưu tư đến hòa bình ngoài xã hội. Bình an là điều có thật và hoa trái của nó là mọi sự đều hài hòa, êm đẹp và hạnh phúc. Nhưng bình an thực sự không phải đến từ bên ngoài mà là đến từ trong lòng của mỗi người. Sự bình an thật không phải là một cảm giác mà là một sự hiện hữu của một người đang ở trong mình. Đó cũng là quan điểm của Kinh Thánh, giúp chúng ta có điểm qui chiếu và tìm được ý nghĩa để có cái nhìn chính xác và sâu xa hơn về sự bình an.
Đọc sách ngôn sứ Isaia, chúng ta mường tượng thấy quang cảnh Thiên Chúa ban bình an cho dân người: “Này Ta tuôn đổ xuống thành Giêrusalem ơn thái bình tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy.” (Is 66,12-13).
Qua thời Tân ước dường như con người “nắm bắt” được sự bình an. Thật vậy, sau cuộc thương khó, Đức Kitô đã sống lại và hiện ra với các tông đồ, Người chào và trao ban bình an cho các ông (x. Lc 24,36). Trong lúc hoang mang, sợ hãi và không biết tương lai sẽ đi về đâu, các tông đồ nhận được ơn bình an của Chúa vào đúng thời đúng buổi.
Đối với người Kitô hữu, việc cầu xin cho được bình an là một ơn mà họ khát khao mọi thời, mọi nơi và ở mọi độ tuổi. Bởi vậy rất nhiều ý lễ và ý cầu nguyện các Kitô hữu xin cho được ơn bình an. Trong những trường hợp cụ thể thì nó là cần thiết và quan trọng hơn những ơn khác. Từ đó, sẽ cho chúng ta một xác tín chỉ có Chúa mới ban bình an đích thực cho con người. Ngài chính là tác giả của ơn bình an.
2.Thiên Chúa là tác giả của bình an.
Thiên Chúa ban bình an cho nhân loại, đó là xác tín chắc chắn của con người ở mọi thời đại. Sở dĩ nói Thiên Chúa ban bình an cho nhân loại bởi vì nơi Ngài xuất phát sự bình an: Ngài sở hữu và làm chủ nó. Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta những chứng minh rõ về khẳng định này.
Trong Cựu Ước, bình an là phần thưởng Thiên Chúa hứa ban vì lòng trung tín của dân Israel (x. Lv 26,6). Và ngay ở cõi thế, nó đã xuất hiện như một công trình của Thiên Chúa (x. Is 26,12). Ngôn sứ Isaia loan báo một “giấc mơ hòa bình” có vẻ hoàn toàn lý tưởng về một thế giới mới của hòa bình bao trùm lên vạn vật do lời hứa về thời đại Mêsia (x. Is 11,6-9). Bình an mà ngôn sứ Isaia loan báo đó phát xuất từ Đấng Thiên Sai, Thái Tử Hòa Bình (x. Is 9,5). Khi tới thời viên mãn, với ơn cứu chuộc của Đức Kitô, nhân loại được hưởng ơn bình an của Người (x. Ga 14,27; Cl 1,20; Ep 2,14). Bernard Haring đã viết: “Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế đến loan báo tin mừng hòa bình; lời hứa ấy đã thực hiện nơi con người Đức Giêsu Kitô khi Người hiện ra với các môn đệ ít lâu sau khi sống lại và loan báo điều hằng mong đợi”[2].
Bình an là quà tặng cao quý của Thầy Giêsu. Người trao lại cho chúng ta khi sắp trở về với Cha qua cái chết trên thập giá (x. Ga 14,28). Biến cố Đấng Phục Sinh hiện ra cho các tông đồ đang cửa đóng then cài vì sợ hãi là một cái phao giúp các ông thoát nạn: “Bình an cho anh em” (x. Ga 20,19.21.26).
Đức Giêsu là bình an của Thiên Chúa cho con người. Người đã sai các tông đồ đi rao giảng với sứ điệp “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần”. Lời chúc bình an của các tông đồ tiếp tục đến với tất cả mọi người và mang trọn nội dung bình an với Thiên Chúa và bình an với con người. Sự bình an mà Chúa ban cho chúng ta không giống như sự bình an của người đời. Bình an do Chúa ban tặng ở tận thâm sâu trong tâm hồn và không bị nguy hiểm tiêu diệt. Chúa Giêsu hứa với môn đệ rằng: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14, 27).
Tin Mừng Đức Kitô nhận từ Cha rồi mang đến cho nhân loại là tin mừng bình an (x. Cv 10,36). Thánh Phaolô viết: “Bình an là hoa trái của Thánh Thần” (Gl 5,22) và chúng ta không thể hình dung ra được vì “Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu. Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em” (Pl 4, 7.9).
Thiên Chúa là Chúa của bình an: “Bởi vì Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Thiên Chúa tạo bình an” (1Cr 14,33). Sách Dân Số ghi lại lời Đức Chúa dạy Môsê, Aharon và con cái ông cách thức chúc lành cho dân: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6,24-26). Quả vậy, bình an là quà tặng của Thiên Chúa[3] . Ơn bình an là phần thưởng riêng của những người được Thiên Chúa yêu mến hay những người thiện ý (x. Lc 2,14).
Bình an thật đến từ Thiên Chúa và chúng ta chỉ có bình an thật khi chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa. Chính lúc giao hoà, chúng ta mới cảm nhận được bình an.
Theo thánh Phaolô, thập giá của Đức Giêsu Kitô mang lại cho con người sự bình an đích thực, là dấu chỉ và bằng chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người. Nhờ thập giá Đức Giêsu Kitô, con người được trở nên thọ tạo mới: Chính Thiên Chúa sẽ đổi mới con người của chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Sự bình an mà Đức Giêsu Kitô mang lại cho con người là sự bình an thẳm sâu trong tâm hồn. Nhờ máu của Ngài đổ ra trên thập giá đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa và Ngài trở thành sự bình an cho chúng ta[4]. Đó là nét độc đáo của ơn bình an mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
3. Đặc tính sự Bình an của Thiên Chúa
Bình an do Chúa ban tặng khác xa với quan điểm của nhân loại, như “An nhiên tự tại” hay vô vi mà một số học thuyết đưa ra, cũng không như bình an của thế gian ban tặng.
Điều này có nghĩa là: người tin vào Chúa không chỉ tìm kiếm bình an của con người, mà phải hướng đến sự bình an của Thiên. Chính vì có bình an của Chúa mà chúng ta có vượt qua những nao núng, bất an và tuyệt vọng trong cuộc sống. Vì biết rằng Chúa luôn bao bọc, che chở trong mọi hoàn cảnh. Dù thế nào đi nữa, họ vẫn hết lòng vâng phục, trông cậy vững vàng vào Chúa.
Sách Gương Phúc đặt cho chúng ta câu hỏi: Khắp gầm trời này, bạn có thấy đâu được cái gì vững chắc bền lâu không? Thánh Biển Đức đưa ra câu trả lời thật đơn giản: “Nếu con muốn hưởng sự sống đích thực và vĩnh cửu, thì lưỡi con chớ nói điều xấu xa và môi con chớ thốt lời gian dối; con hãy làm lành lánh dữ, hãy tìm kiếm và theo đuổi sự bình an” (Tl, Lời mở, 17).
Sự bình an đích thực không hệ tại ở vật chất đủ đầy nhưng là tình trạng cảm nhận mình được yêu thương, được sống trong tình yêu, vượt quá sự xứng đáng của mình; từ đó thúc đẩy mình nỗ lực sống yêu thương với một tình yêu vượt trên tình cảm tự nhiên bình thường.
Sự bình an đích thực cũng không hệ tại ở những thành công gặt hái được, cho dù đó là sự khuất phục của Satan. Người có được ơn bình an là người xác tín mình được Thiên Chúa đoái thương nhận vào quê trời: “Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời” (Lc 10, 20).
4. Được bình an vì tình yêu
Nếu không đặt Thiên Chúa làm mẫu mực, nếu khướt từ Đức Giêsu Kitô thì người ta không thể có bình an. Đó là kinh nghiệm sống còn của thánh Âu-tinh mà trong phần dẫn nhập đã đề cập tới.
“Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8). Cho nên bình an chỉ đến từ Thiên Chúa. Ai kết hiệp với Thiên Chúa thì người đó có bình an. Ngược lại, theo thánh Lêo Cả: “Con người mà tham lam bất chính, vào hùa với tội ác, toa rập với điều xấu xa, thì không đáng hưởng sự bình an đó (bình an của Chúa). Lòng yêu thế gian không thể hợp với lòng mến Thiên Chúa. Ai không tách khỏi nỗi ham mê xác thịt thì không thể hội nhập với đoàn con Thiên Chúa”.
Kết:
Nếu thánh vương Đavít đã xác nhận: “Kẻ yêu luật Chúa hưởng an bình thư thái, chẳng còn lo gặp chướng ngại nào” (Tv 118, 165) thì vị tông đồ dân ngoại cũng khuyên các tín hữu: “Anh em hãy sống bình an với Thiên Chúa”. Ai sống bình an với Thiên Chúa người đó là con của Thiên Chúa, là người được chúc phúc. Chúa Giêsu đã chúc phúc cho họ: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5, 9).
Để được bình an cho mình và trao ban sự an bình cho tha nhân, để xây dựng hòa bình cho thế gian, chúng ta cần phải có sự bình an đích thực tận đáy tâm hồn. Sự bình an Chúa ban cho chắc chắn và bền vững. Chỉ có bình an của Chúa mới thỏa mãn được khát khao của con người. Noi gương thánh Tông đồ dân ngoại, chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá Chúa Kitô với xác tín: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian” (Gl 6,14). Chiêm ngắm thập giá Chúa Kitô để cảm nhận được tình yêu thương vô cùng của Thiên Chúa đồng thời thực thi giới luật yêu thương trong cuộc sống hằng ngày. Có như vậy, chúng ta mới cảm nhận được sự bình an đích thực trong tâm hồn.
[1] Bernard Haring, Bình An Cho Các Con, tr. 10
[2] Bernard Haring – Bình An Cho Các Con, tr. 11
[3] Henry Nouwen, Đường đến hoà bình, Nguyễn Đức Thông chuyển ngữ, tr 49
[4] Billy Graham, Bình an trong Thượng Đế, tr. 217
BÌNH AN GIÊSU
Thiên Giang
Cùng Hài Nhi Giêsu
Bình an em khúc khích
Gánh nặng đời nhẹ vơi
Mỉm nụ cười
Thế cuộc tựa làn hương.
Tâm từ ái
Gieo trồng cây phúc hạnh
Giữa đời thường
Gặt hái trái yêu thương
BÌNH AN CHO ANH EM
Cao Minh Long (CSĐD)
Sống trong xã hội, con người không thể tự hình thành và dệt nên đời mình, mà không cần đến một mối tương quan hay tương giao mật thiết nào với người khác. Thomas Merton thật chí lý khi nói: “Không ai là một hòn đảo”. Chính trong mối tương quan đó, mà con người phải học cho biết cách hội nhập cũng như cách sống để hoà điệu với mọi người.
Ngoài ra, để sống hạnh phúc, “Bình an” con người cần phải có niềm vui, lạc quan tin tưởng, hy vọng, và thông cảm với nhau. Được như thế, thì cuộc sống mới có ý nghĩa và giá trị đích thực.
Trong cuộc sống thường ngày, mỗi lần gặp nhau, câu nói đầu tiên ở trên môi miệng chúng ta luôn là “chào ông, bà, anh, chị”… rồi tiếp đó là câu ông, bà, anh hay chị…. có mạnh khoẻ và bình an không?. …Điều thật tốt lành và ý nghĩa đối với đan sĩ, mỗi khi lên đường khởi đầu cho một cuộc hành trình nào đó, chúng ta đều xin phép lành của Bề Trên cũng như lời cầu nguyện của Cộng Đoàn, để xin Thiên Chúa chúc lành cho cuộc hành trình của chúng ta được bình an trong thánh ý yêu thương của Ngài.
Thế thì, ý nghĩa của hai chữ Bình An là gì?
Theo Hán Tự: Chữ “Bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái.
Chữ “An” theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ an toàn.
Như vậy, hai chữ Bình An nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc.
Con người tự bản chất luôn khao khát sự bình an, từ đó con người đi tìm kiếm sự bình an. Người ta dùng mọi phương cách để tìm kiếm cho mình có được sự bình an. Vì thế, bình an là điều rất quan trọng và cần thiết trong cuộc sống con người, mà ai ai cũng đều khát khao mong muốn có được.
Tuy nhiên, mỗi người đều hiểu về bình an dưới những khía cạnh và lăng kính khác nhau. Các tôn giáo cũng mặc cho nó một ý nghĩa riêng biệt theo giáo lý của tôn phái mình.
Bình an theo Kitô giáo, chính là Bình An của Chúa Giêsu Phục Sinh ban tặng cho chúng ta, Ngài nói: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19), bình an này không như bình an theo kiểu thế gian ban tặng.
I. BÌNH AN VÀ BẤT ỔN DƯỚI NHÃN QUAN CỦA NHÂN LOẠI
Một tâm hồn “thanh thản và bình an” là điều ai cũng thao thức và khao khát. Có thể nói được rằng, bình an là một trong những nhu cầu cần thiết trước tiên trong nhiều lãnh vực, nhiều góc cạnh sinh hoạt của cuộc sống con người cũng như xã hội.
Trong thực tế, thế giới hôm nay có quá nhiều bất ổn! Ai dám nói rằng sự kiện khủng bố 11.9 ở Mỹ, trận động đất ở Italia, cháy rừng ở Australia, sóng thần ở Nhật, tranh chấp biển đông “quần đảo Trường sa – Hoàng sa” ở Việt Nam, chiến tranh khủng bố ở Trung Đông đã và đang xảy ra trong những năm gần đây sẽ không còn tái diễn nữa? Không chỉ bất ổn mà còn cả bất an. Bạo lực học đường, bạo lực đường phố, bạo lực trong gia đình…phải chăng những lúc như thế, sợ hãi thống trị đè nặng trên cuộc sống con người? Vì thế cuộc sống con người luôn phải đối diện với đủ mọi khó khăn do mình gây ra, hoặc do người khác mang lại, và đôi khi cũng do thiên nhiên. Hơn nữa, con người còn phải đối diện với “Sinh, Lão, Bệnh, Tử”… Bình an của con người lúc này chính là làm sao cho cuộc đời có một sức khỏe tốt, một cuộc sống an nhàn, yên vui bên con cháu.
Khi đi đường người ta thường thấy câu: “Chúc quý khách thượng lộ bình an”, tức là mong được an toàn trên suốt lộ trình, không xảy ra tai nạn giao thông. Bình an ở đây chính là mong cho được đi đến nơi, về đến chốn.
Khi xây dựng các công trình, chúng ta thường thấy người ta treo những tấm panô với hàng chữ: “Công trình đang thi công, hãy cẩn trọng, và an toàn là trên hết…”. Bình an trong lãnh vực này chính là mong sao cho công trình từ khởi đầu cho đến khi hoàn thành được diễn tiến một cách tốt đẹp và thành công mỹ mãn.
Nói chung, bình an theo kiểu con người chính là mong sao được cơm no áo ấm, mạnh khỏe, được làm ăn phát đạt, được an nhàn thư thái, được may mắn, an toàn, và cuối cùng là được sống lâu, hạnh phúc…
Nhìn vào thực trạng thế giới hôm nay, người ta không khỏi đặt vấn đề: Phải chăng sự “bình an” đích thực là điều hi hữu và con người đang bị mất dần đi?
Quả thực, chúng ta phóng tầm nhìn ra xã hội và thế giới hôm nay, thì thấy được xã hội hiện thời là một xã hội văn minh, tiến bộ. Nhưng theo nhận định của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngài cho rằng: “nền văn minh ngày nay lại là thứ văn minh của sự chết”.
Khi kinh tế ngày càng phát triển, đồng tiền có sức mạnh vạn năng, thì làm cho xã hội bị tục hóa, suy đồi đạo đức và con người chỉ nghĩ đến hưởng thụ. Sự vô cảm, thờ ơ trước nỗi thống khổ của tha nhân ngày một trở nên phổ biến, nó như căn bệnh “sida” đang ăn mòn tình người, đục khoét những giá trị tốt đẹp trong bản thân mỗi người.
Thực tế đã chứng minh, nhiều người rất giàu, có chức quyền cao, mà vẫn thấy thiếu niềm vui và hạnh phúc, nhiều lúc thấy buồn phiền, lo lắng và cô đơn. Họ có thể là những người bất an khi trong nhà có quá nhiều tiền của. Họ có thể là những người không vui, khi ngày nào cũng phải lo củng cố địa vị của mình và nơm nớp lo sợ bị “mất chiếc ghế”.
Trong khi đó, những người nghèo đang đối diện với những khắc khoải, lo âu với cuộc sống cùng khổ lây lất qua ngày, chỉ mong có được một tô cháo trắng để ăn cho đỡ đói cũng không có. Bên cạn đó, nền đạo đức gia phong ngày nay cũng đang bị lung lay, đức hiếu lễ bị coi thường, nên mới có cảnh con cái bất hiếu với ông bà cha mẹ, bỏ bê việc chăm sóc nuôi dưỡng các ngài.
Còn đó, trong đời sống thường ngày, ta thấy ngày càng xuất hiện nhiều căn bệnh mới mà hiện nay chưa có thuốc đặc trị… khiến cho con người ngày nay không khỏi hoang mang, xao xuyến, sợ hãi, lo âu, thất vọng, bi đát và chán trường…
Trên bình diện chính trị cũng có những nhà lãnh đạo, luôn miệng nhân danh hòa bình để gây chiến tranh, nhưng khi người ta khởi phát chiến tranh thì lại là lúc người ta cảm thấy hòa bình đang dần xa và biến mất.
Đứng trước thực trạng đó, người kitô hữu chúng ta được mời gọi đi vào mối tương quan bình an của Chúa, trong Chúa và với Chúa. Bởi vì, bình an ta có được là khởi đi từ Thập Giá Đức Kitô và được lôi kéo đến cùng Người .
II. BÌNH AN: ĐƯỢC LÃNH NHẬN TỪ NƠI ĐỨC GIÊSU KITÔ
Thân phận con người mỏng giòn yếu đuối, khó có thể tránh khỏi được những đau khổ, thử thách, gian nan trong cuộc sống. Nhưng trước những nghịch cảnh ấy, người có niềm tin vào Đức Giêsu Kitô thì đón nhận được một “sức mạnh” vượt thắng tất cả, sống lạc quan, vui tươi và bình an, vì có Chúa là núi đá, điểm tựa vững chắc bảo vệ chở che.
Câu nói “bình an cho anh em” không phải là lời chào mang tính xã giao, nhưng là một “ân ban” mà Chúa Kitô Phục Sinh đem lại cho con người, là món quà trên cả tuyệt vời cho mỗi chúng ta, là một lời chúc phúc mà hôm nay mỗi người chúng ta vẫn cần được lãnh nhận hơn bao giờ hết. Chỉ ở nơi Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta mới có bình an đích thực.
Bình an của Chúa Kitô chính là sự bình an nội tâm. Bình an là đồng nghĩa với “tin yêu, vui sống và hy vọng”, bình an ngay trong những thiếu thốn, thử thách, mất mát, bệnh tật và cả cái chết… tức là bình an ngay trong những điều tưởng chừng như mâu thuẫn.
Sự bình an Đức Giêsu ban tặng còn là sự bình an cho những con người dám chấp nhận những thử thách và dùng ơn Chúa để vượt thắng. Người lãnh nhận được bình an của Chúa thì “Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”.
Đức Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Và sau khi phục sinh, Ngài đã trao ban chính bình an đó cho các môn đệ.
Như vậy, Chúa Kitô chính là nguồn cội bình an, và khi trao ban bình an cho các môn đệ chính là Ngài trao ban chính Mình cho các ông. Bình an mà Chúa Kitô trao ban là sự bình an có Chúa luôn ở cùng. Người nào đón nhận Chúa Kitô vào tâm hồn mình thì người ấy có bình an đích thực.
Mặt khác, trong bình an của Chúa Kitô, có sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, điều đó thật rõ ràng, vấn đề ở chỗ chúng ta có biết đón nhận những ân huệ nhưng không mà Thiên Chúa ban tặng, để làm nảy sinh hoa trái trong đời sống hiện tại hay không, tất cả đều nằm trong tầm tay của chúng ta.
Khi chúng ta biết đón nhận bình an từ chính Chúa Kitô, biết lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần, hiệu quả tất yếu sẽ làm nảy sinh trong tâm hồn chúng ta lòng yêu mến. Lòng yêu mến thúc bách chúng ta không chỉ tuân giữ những giáo huấn Chúa Giêsu, thực thi công bình bác ái, yêu thương, mà còn biến đời sống, tâm hồn chúng ta trở nên đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.
Cách thức Ba Ngôi Thiên Chúa nói chung và Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh nói riêng hiện diện trong mỗi người chúng ta, không phải vì chúng ta mang danh kitô hữu. Khi chúng ta yêu mến Chúa Kitô và tuân giữ Lời Người, một điều chắc chắn là tâm hồn chúng ta sẽ là nơi ngự trị của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và chúng ta cũng có trách nhiệm trao ban bình an đó cho người khác, và để trở nên “khí cụ bình an của Chúa”.
III. LỜI MỜI GỌI TRỞ NÊN “SỨ GIẢ BÌNH AN”
Chúa Kitô Phục Sinh ban bình an cho chúng ta, không phải để chúng ta dành riêng cho mình, nhưng tất cả đều được mời gọi để đem bình an và tình yêu thương của Chúa đến với mọi người. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã cho thấy: “Thế giới vẫn còn nhiều chia rẽ bởi những mưu lợi tham lam, những tổn thương gây đe dọa sự sống con người và gia đình bởi ích kỷ của lòng người, những sự ích kỷ tiếp tục tồn tại trong vấn nạn buôn người…”
Ngài mời gọi: “Chúng ta hãy nài xin Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng biến đổi sự chết thành sự sống, ghen ghét thành yêu thương, hận thù thành thứ tha và chiến tranh thành an bình. Đúng vậy, Chúa Kitô là bình an của chúng ta, và chúng ta khẩn cầu Người ban hòa bình cho toàn thế giới”[1] .
Chúa Kitô không ngừng tiếp tục ban bình an cho chúng ta, để chúng ta trở thành những con người có khả năng đem lại bình an và luôn khao khát xây dựng hoà bình, trở nên những môn đệ đích thực theo gương Thầy Chí Thánh, dám hiến thân tự hiến đời mình cho nước trời.
Chúng ta được mời gọi trở thành những sứ giả của “Ðức Kitô là Ðấng Thánh, và hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15).
Nhưng, trước khi trở nên sứ giả hoà bình, Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy sống tích cực đặc tính của ơn bình an. Đó là “đón nhận chính nguồn ơn cứu độ và đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là cội nguồn bình an và tin tưởng vào Ngài. Khi đã có Chúa trong cuộc đời thì cũng phải biết đem Chúa đến cho người khác bằng những cử chỉ yêu thương, thân thiện và bác ái. Sở dĩ chúng ta thực hiện được những điều đó, là do chính tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội”.[2]
Khi trở thành những sứ giả bình an, theo bước Chúa Giêsu chúng ta đem yêu thương, tha thứ, an hòa vào những nơi tranh chấp, để loại trừ hận thù, bất hòa và chia rẽ. Đem ánh sáng, niềm vui, cậy trông vào những nơi tối tăm, ưu sầu và thất vọng (X. Kinh Hòa Bình). Làm được điều đó, chúng ta sẽ hạnh phúc và bình an, đồng thời đem lại an bình cho nhiều người.
Có bình an của Chúa Kitô Phục sinh trong tâm hồn, đẩy lui những mưu lợi tham lam, những ích kỷ nhỏ nhen trong ta, giúp ta biết chấp nhận, vượt thắng mọi nghịch cảnh.
Khi có sự bình an, thì dù gặp những buồn phiền, đau khổ thì tâm hồn cũng được lắng đọng và chuyển hoá chúng thành bài học, hay kinh nghiệm giúp ta mạnh dạn đối mặt với hoàn cảnh cuộc sống bằng những giải pháp tích cực.
Khi gặp những ngang trái và chống đối, kể cả bị hãm hại, thì người môn đệ Chúa Kitô vẫn nhận ra rằng những khổ đau ấy sẽ giúp cho ta được lớn lên và khôn ngoan hơn “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định” (Rm 8,28), nên sẵn sàng tha thứ cho người xúc phạm đến mình, không những chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện cho họ, đi bước trước trong việc tìm sự giao hoà chứ không trách móc hay tính chuyện hơn thua.
Đứng trước những quyến rũ vật chất, những cám dỗ về thành công, quyền lực… chúng ta biết dừng lại biện phân về các giá trị cuộc sống và xác lập thứ tự ưu tiên cho các giá trị ấy.
Được như thế, là do chúng ta biết tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng đầy yêu thương và sống phó thác nơi Thiên Chúa. Sau khi đã làm hết khả năng trong phạm vi của mình, thì mọi kết quả họ tín thác nơi Thiên Chúa, Đấng sẽ làm cho mọi sự trở nên tốt đẹp theo Thánh Ý Người. Đồng thời, Thiên Chúa sẽ tuôn đổ tràn đầy hồng ân, ban phát các phương tiện để chúng ta đạt được phần nào bình an, hạnh phúc đích thực ngay tại trần thế này.
KẾT
Mầy ai trong chúng ta không một lần có kinh nghiệm rơi vào trạng thái: hụt hẫng, buồn phiền, lo âu, thất vọng. Và khao khát cho mình có một sự bình an trọn vẹn, để có thể vượt lên tất cả những cảm xúc tiêu cực ấy.
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận nói: “Nếu một người có bình an thực sự, thì trong mọi sự, thành công, cám ơn Chúa, thất bại cũng cám ơn Chúa, vui tươi mãi mãi…”[3] . Đúng thế, chúng ta chỉ có bình an đích thực, là khi chúng ta biết đặt trọn vẹn niềm tin vào Thiên Chúa; khi chúng ta không chỉ sống cho riêng mình mà sống cùng, sống với mọi người. Chúng ta biết hòa nhập cái “tôi” cá nhân vào cái “ta” chung: vui mừng khi người khác gặp may lành, để niềm vui trở thành niềm vui chung, gắn chặt tình đoàn kết, hiệp nhất, yêu thương, tương trợ lẫn nhau.
Người ta chỉ sống trọn vẹn đời mình, khi nhận ra và quyết tâm hoàn thành dự phóng của Thiên Chúa về cuộc đời mình. Tiến sĩ Trần Thị Giồng nhận định: “Bạn là người thợ đang xây dựng đời mình, bạn xây thế nào, bạn sẽ hưởng như thế ấy” . Như vậy, không ai khác mà là chính chúng ta phải tự hoàn thành vận mệnh đời mình theo cách thế riêng, chấp nhận chính mình để vươn lên một nhân cách trưởng thành trong tương quan với tha nhân. Trong tương quan ấy, chúng ta cần biết mở lòng mình ra để lắng nghe và sẵn sàng chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn thử thách. Một khi “chúng ta ý thức sự thật về mình và về người khác với tất cả sự phong phú và nghèo nàn của mỗi người…, thì chúng ta mới có thể cùng nhau xây dựng một cộng đoàn, một xã hội tốt đẹp. Sức mạnh cuộc sống sẽ tuôn trào từ chính thực tại chúng ta là ai” .
Chúng ta nên sống vì mọi người, đừng bất mãn khi người ta không giúp mình, mà hãy buồn vì mình chưa giúp được ai việc gì. Nếu ta mong muốn mọi người làm cho mình điều gì đó, thì chính chúng ta hãy làm những điều tốt đẹp đó cho người ta trước đã, đừng cho người ta cái gì mà chính bản thân ta không muốn nhận. “Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô” (Pl 2, 4-5).
Bởi vì, “mỗi người chúng ta được mời gọi đến với nhau như chúng ta là, để sống giao ước bản thân, hầu kiến tạo và phát huy tính đa dạng và phong phú được tạo nên từ chính những khác biệt của mỗi người. Mối giao hảo đó tạo nên một sự cộng sinh, làm phong phú hoá cho nhau và sẽ trở nên mối tương giao trọn vẹn trong tình yêu” .
Hay như Thánh Phaolô, để cầu chúc cho chúng ta và cũng mong cho chính mình được ơn bình an đích thực của Chúa, ngài nói: “Ước gì ơn bình an của Ðức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân” (Cl 3,14-15).
[1] ĐTC Phanxicô, Sứ Điệp Phục Sinh, Urbi et Orbi, 2013.
[2] Jos. Vinc, Ngọc Biển, Bình an đích thực của Chúa, 2011
[3] ĐHY, Phanxicô xaviê Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, số 537.
ĐAN SĨ – CON NGƯỜI CỦA BÌNH AN
Vinh Sơn (VP)
Khi nói đến bình an là nói đến sự yên ổn, an toàn, là hạnh phúc và thảnh thơi. Nhưng để định nghĩa “bình an” là gì thì có lẽ không có từ nào để diễn tả chính xác hai chữ “bình an”. Bởi vì mỗi người có một lối hiểu về “bình an” dưới những lăng kính khác nhau. Một người đang thi công xây dựng thì bình an của họ là không xảy ra tai nạn trong lao động. Một người sắp lên đường thì mong muốn không bị đụng xe, không bị cướp giật, mong đi đến nơi về đến chốn. Có người thì cho rằng, bình an là không có chuyện bất trắc xảy đến trong cuộc đời và có một cuộc sống yên ổn, một gia đình hạnh phúc… Tuy nhiên những thứ bình an này đều chóng qua và không bền vững. Vậy “Bình an” đích thực mà con người khát khao là gì? Tại sao lại nói “Đan sỹ là con người của bình an”? Để hiểu được sự bình an đích thực chúng ta cùng tìm hiểu “Nguồn” của sự bình an.
I. THIÊN CHÚA-NGUỒN BÌNH AN ĐÍCH THỰC
1. Bình an đến từ Thiên Chúa
Thông thường khi tiễn một người lên đường chúng ta hay có thói quen tốt lành “chúc ông, bà, anh, chị…lên đường bình an” hoặc “về bình an nhé”. Hay mỗi khi gặp nhau câu đầu tiên mà chúng ta hay chào hỏi là: anh, chị, bạn…có “bình an” không? Đặc biệt sau một ngày làm việc căng thẳng ai trong chúng ta lại chẳng muốn “có một khung cảnh tĩnh mịch thư thái, chúng ta ngây ngất trước ánh bình minh tươi sáng, chúng ta vui thỏa trước buổi chiều tà êm ả, chúng ta thích thú trước những cánh hoa thơm ngát và thán phục trước những con người luôn tỏ ra bình thản trước những hòan cảnh xáo trộn.” (Đức Ông Nguyễn văn Tài).
Từ đó ta hiểu “bình an” là điều quan trọng và cần thiết trong cuộc sống mà mọi người ai cũng mong muốn. Nhưng chúng ta lại không biết “nguồn” của bình an đến từ đâu? Thánh Phaolô bật mí cho chúng ta biết nguồn của sự bình an đích thực là chính Thiên Chúa. “Chúa là nguồn bình an” (x. Ga 4,8.16; Rm 16,20). Chỗ khác ngài cũng nói “Chúa chính là sự bình an của chúng ta”(Ep 2,14). Thật vậy, chỉ có Thiên Chúa mới là “Nguồn bình an” – bình an đích thực. Một sự bình an bền vững, không còn lệ thuộc vào những yếu tố bên ngoài nhưng nằm ngay trong nội tại của chính nguồn BÌNH AN. Vì vậy mà thư Do thái cũng nói: “Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, đã đưa Đức Giêsu Chúa chúng ta ra khỏi cái chết” (Dt 13,20). Thánh Phaolô nhiều lần đã nói đến: “sự bình an của Thiên Chúa vượt quá sự hiểu biết của chúng ta sẽ gìn giữ anh em” (Pl 4,6-7), “nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an thánh hóa toàn diện con người anh em..” (Cl 3,15). Chúa chính là nguồn bình an, đan sĩ là người của Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với đan sĩ là người của Bình An, nghĩa là Đan Sĩ luôn mang nơi mình sự Bình An là chính Thiên Chúa.
Từ đó chúng ta dễ hiểu hơn khi nói “Đan sỹ là con người của bình an”. Do đó, sự bình an của đan sĩ không còn lệ thuộc vào những yếu tố của vật chất và tự nhiên như: vui buồn, thành công, thất bại…Nhưng là một sự bình an sâu lắng, một sự bình an luôn có Chúa ở cùng. Một sự bình an trong mọi lúc kể cả những lúc xem ra khó khăn và thử thách nhất. Nhờ sự tin tưởng trọn vẹn nơi Thiên Chúa mà sự bình an ấy lan tỏa đến những nơi người đan sĩ hiện diện.
Như vậy, mỗi khi chúng ta đón nhận Chúa vào trong cuộc đời mình là lúc chúng ta đang đón nhận chính nguồn Bình An của Chúa. Và khi nào chúng ta để mất Chúa là chúng ta cũng đang đánh mất chính nguồn Bình An đích thực nơi mình. “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người” (Tv 84). Thiên Chúa luôn mong ước cho con người, cho dân Chúa được bình an, hạnh phúc vì “vinh quang của Thiên Chúa là con người sống và sống sung mãn” (thánh Irene).
Ở sách ngôn sứ Malakhi cũng nói “Thiên Chúa ban bình an cho toàn cõi đất”. Nên muốn có sự bình an của Chúa trong tâm hồn thì chúng ta phải là người của Chúa. Thánh Phaolô giải thích: người của Chúa là người hoàn hảo chính trực, đã được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành (x. 2Tm 3,17). Như vậy, người của Chúa là người thực thi tình yêu và công lý. Theo thánh Ambrôsiô: “Người của Chúa phải là người sạch tội, vì tội và Chúa chống đối nhau. Ở đâu có Chúa ở đấy không có tội và ngược lại”. Thánh Augustino cũng nói: “tội là yêu mình đến khinh Chúa”. Vâng! “tội là tự ý và cố tình chống lại tình yêu Chúa và không biết gì đến Chúa”[1] . Do đó, muốn được sự bình an của Chúa – thứ bình an đích thực trong tâm hồn – chúng ta phải sạch tội [2]. Khi đó, Bình An là hoa trái của Thánh Thần sẽ triển nở trong cuộc sống chúng ta cách sung mãn.
2. Bình an là hoa trái của Thánh Thần
Khi nói “bình an là hoa trái của Thánh Thần” không có nghĩa là “nói đến sự vắng mặt của chiến tranh, nhưng nó là kết quả của một cân bằng luôn bấp bênh của quyền lực. Nó phải được xây dựng từng ngày trong việc theo đuổi một trật tự mà Thiên Chúa muốn, ngụ ý một công lý hoàn hảo hơn nơi con người”[3] . Vì vậy, khi mở lòng đón nhận lời Chúa và thực thi những điều Chúa dạy thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an. Và hoa trái sự bình an được Chúa Thánh Thần tác động là lòng yêu mến, sẽ triển nở và sinh hiệu quả trong tâm hồn chúng ta. Lòng yêu mến thúc bách chúng ta không chỉ tuân giữ những giáo huấn của Chúa Giêsu, thực thi công bình bác ái, mà còn biến đời sống, tâm hồn chúng ta trở nên “đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa” ngự trị. Vì “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Nên mức độ chúng ta yêu mến tha nhân là độ dài để đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Thiên Chúa. Thật vậy, “hoa quả của Chúa Thánh Thần chứng minh rằng Thiên Chúa có vai trò quan trọng trong đời sống người kitô hữu”[4] . Khi chúng ta đón nhận “bình an” từ Chúa Kitô qua việc lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần là lúc chúng ta đang để cho Ba Ngôi Thiên Chúa hiện diện trong tâm hồn và nơi cuộc sống mỗi người chúng ta.
Dù là đan sĩ, nhưng đã có lần chúng ta để cho sự bình an chết ngộp trong tâm hồn mình. Nguyên nhân làm cho sự bình an không thể đơm bông kết trái trong tâm hồn và cuộc sống mình đó là do ta đã không thực sự bước vào mối tương quan với người khác và không để Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Từ đó, những rối ren do sự hiểu lầm nơi anh em, chị em, những ghen ghét đố kỵ, những khó khăn thử thách và áp lực của đời sống chi phối… làm cho tâm hồn đan sĩ buồn phiền và bất an. Nhưng đây có phải là hành động chủ quan của chúng ta không? Thánh Phaolo cho rằng đó là hậu quả của tội đã ăn sâu vào trong tâm hồn chúng ta. Vì thế, “điều tốt tôi muốn tôi lại không làm, còn điều xấu không muốn tôi lại cứ làm”.
II. THẾ LỰC DẪN ĐẾN BẤT AN NƠI ĐAN SĨ
Có lẽ hình ảnh đầu tiên mà người ta ghi lại được mỗi khi gặp các đan sĩ là sự “bình an và thánh thiện”. Sơ nào, thầy nào cũng nhẹ nhàng khoan thai, khuôn mặt lúc nào cũng bình thản với nụ cười tươi nở trên môi. Họ cảm thấy yêu quý và khao khát cuộc sống ấy. Nhưng có khi nào chúng ta tự hỏi: Đan sĩ có bao giờ bất an? Có khi nào đan sĩ cảm thấy buồn phiền, chán nản? Đâu là những thế lực chính làm cho Đan sĩ mất bình an? Phải chăng đó là tội lỗi? Theo Đức Thánh Cha Phanxico “cuộc sống thật phức tạp, nó bao gồm cả ân sủng lẫn tội lỗi. Ai không phạm tội thì không phải là một con người”[5]. Nhưng tại sao tội lỗi lại làm Đan sĩ mất đi Nguồn Bình An? Đơn giản vì “tội và Chúa” không thể hoà hợp với nhau. Thánh Phaolô nói “mọi người đều phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa” (Rm 3,23), nên khi đánh mất “Vinh quang của Thiên Chúa” chúng ta đánh mất đi sự sống, tình yêu và hạnh phúc. Nên tội lỗi là cội nguồn của khổ đau và chết chóc. Chính các Giáo Phụ đều công nhận: “Từ khi Adam sa ngã thì con người không còn được tình trạng hạnh phúc như xưa. Thánh Irene còn nói mạnh hơn ‘đời nguyên thủy đã tàn rồi’. Thánh Cyriano thì nói về thương tích “Vulnera” mà nguyên tổ đã gây ra”[6] . Thật vậy, trước khi nguyên tổ phạm tội, hai ông bà được sống trong cảnh thái bình và trong sự hài hòa với Thiên Chúa và vạn vật, được diễn tả qua hình ảnh mỗi chiều Thiên Chúa đi dạo cùng với hai ông bà trong vườn địa đàng (x. St 2,20). Nhưng từ khi Adam, Eva phạm tội bất phục tùng Thiên Chúa thì ngay tức khắc con người nếm trải sự bất an và lo lắng. Con người bắt đầu thấy sợ hãi và phải lẩn trốn Thiên Chúa. Từ đó, Địa Đàng – nơi họ đang được hưởng bình an và hạnh phúc đã trở thành Địa Ngục! Kinh Thánh đã diễn tả thảm họa này bằng hình ảnh “gai góc mọc lên cho họ”. Đó là cách diễn tả môi trường bất ổn do tội lỗi loài người gây nên. Cũng từ đó, con người sinh ra bất hòa, chia rẽ và họ không còn tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau. Khi phạm tội con người đã bắt đầu loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ. Lúc này Adam không còn nhìn Eva là “ xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”, nên họ sẵn sàng đổ lỗi cho nhau: Adam đổ lỗi cho Eva còn Eva lại đổ lỗi cho con rắn. Tiếp đến, anh em tranh giành nhau, như Cain giết Abel là một bằng chứng. Từ đó, tội lỗi ngày càng gia tăng. Tội này chồng chất tội kia.
Là Đan sĩ, chúng ta vẫn cùng chung thân phận con người, nên không thể thoát ra khỏi dòng chảy của lịch sử này. Vì vậy không tránh khỏi những “ô nhiễm” do tội lỗi gây ra và đương nhiên không còn vẻ đẹp ban đầu của công trình sáng tạo. Đặc biệt sống trong thời đại @ hôm nay rất nhiều trào lưu xã hội làm cho một số Đan sĩ phải chao đảo và mất đi sự bình an. Đó là những lúc người Đan sĩ quá đề cao “cái tôi” và nghe theo tiếng gọi của hưởng thụ, danh vọng và những thứ tình yêu vụn vặt, ích kỷ, cố chấp… hơn là nghe tiếng Chúa. Khi đó trong con người nội tâm của Đan sĩ gây ra những cuộc chiến liên lỉ “có lúc như phản loạn, chạy trốn, từ chối thân phận làm người, cô lập, đoạn tuyệt, từ chối cộng tác với Thiên Chúa trong việc tìm kiếm sự khôn ngoan”[7] . Họ cảm thấy như bị gò bó trong luật lệ, trong “nội vi” đan viện. Phải chăng chúng ta chịu thua trước quyền lực của sự dữ? Đức Giáo Hoàng Phanxico cho rằng: “khi một tu sĩ nhận ra mình yếu đuối và là một tội nhân không làm mờ nhạt đi lời chứng – người ấy được mời gọi để cho đi”[8] . Còn Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI thì nói: “Dù con người mang trong mình vết thương gây ra do nguyên tội, là lỗi phạm không ngừng lôi kéo con người hướng về sự dữ, nhưng đó lại là điều làm cho con người nhất thiết cần đến ơn Cứu Độ”[9] . Cho nên Đức Kitô – vị Cứu Tinh duy nhất của nhân loại đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của tội lỗi và đem lại ơn bình an cho chúng ta bằng chính cuộc nhập thể, cái chết và sự Phục Sinh của Ngài.
III. CHÚA GIÊSU-BÌNH AN CỦA THIÊN CHÚA
1. Bình an dưới thế cho người Chúa thương
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14) là câu hát của Thiên Thần trong ngày Con Chúa giáng trần. Vì yêu thương con người nên Thiên Chúa đã trao ban cho con người một món quà quý giá nhất là Con Yêu Dấu của mình: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16). Thật vậy, ngay khi Chúa Giêsu mới giáng trần, Ngài đã đem Bình an của Thiên Chúa cho nhân loại và “BÌNH AN” đó chính là Ngài. “Ngày sinh nhật của Chúa là khởi đầu cho hòa bình”[10] vì “Chúa Giêsu là bình an của chúng ta” (Ep 2,13). Chính “sự bình an ấy nuôi dưỡng tình yêu và tạo nên hiệp nhất trong thân mình mầu nhiệm Ngài”[11] . Nhờ đó chúng ta được liên kết với nhau và với Chúa Cha. Như vậy Chúa Giêsu chính là nguồn bình an phát xuất từ Thiên Chúa và chỉ nơi Ngài mới có sự bình an thật mà con người không có. Qủa thật, Chúa Giêsu đến để đem bình an cho nhân loại, nhất là những ai tin vào Người. Do đó, người đan sĩ phải là người có sự bình an thật vì hoạ lại hình ảnh của Chúa Kitô nơi trần thế. Mà Chúa Kitô là “BÌNH AN” thì những người tin vào Chúa cũng phải là những con người của Bình An. Cho nên, nhiệm vụ của đan sĩ là làm lan toả sự bình an ấy cho những người chung quanh, cho xã hội và thế giới.
Vì bình an là khát vọng của mỗi người. Nên có lần người ta hỏi đại thi hào DANTE rằng: đâu là điều mà ông mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc sống? Ông trả lời: “Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm: đó là sự bình an”[12] .Tuy nhiên, chúng ta không thể thực hiện được vì trong lòng còn nhiều nỗi sợ hãi, lo âu và đầy tham vọng. Là đan sĩ, chúng ta phải trở nên những người tái tạo bình an, làm chứng cho thế giới bằng cuộc sống chứng tá của mình. Để được như thế, mỗi đan sĩ phải luôn có Chúa ở cùng.
2. Bình an của Đấng Phục Sinh
Trước khi bước vào cuộc tử nạn, Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ ơn bình an: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy. Thầy ban cho các con sự bình an không theo kiểu thế gian ban. Các con đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27-28). Thế nhưng khi Đức Giêsu bị bắt, bị đánh đòn, và bị đóng đinh vào thập giá thì chính các môn đệ là những người hoang mang, mất bình an hơn ai hết. Trong bối cảnh ấy, Đức Giêsu xuất hiện như nguồn Bình An đích thực. Ngài ban lại cho các ông bình an mà các ông đã đánh mất khi chôn vùi niềm tin và hy vọng của mình vào trong tuyệt vọng. Kể từ khi các Tông Đồ đón nhận ơn BÌNH AN của Đấng Phục Sinh, họ được hoàn toàn đổi mới. Từ những người nhút nhát, lo sợ, các ông đã thực sự trở nên những con người can đảm và mạnh mẽ lạ thường đến nỗi đòn vọt, tù tội cũng không làm cho các ông sờn lòng nản chí, hay run sợ. Trái lại, các ông đầy can đảm và hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng.
Trong suốt cuộc hành trình theo Chúa, có những lúc chúng ta cũng hoang mang và bất an như tình trạng của các tông đồ và môn đệ xưa. Đó là những lúc đan sĩ bị anh em, chị em hoặc Bề Trên hiểu lầm, thiếu cảm thông. Hay những lúc người thân trong gia đình gặp những khó khăn, tai nạn, bệnh tật, chết chóc… những lúc đó đan sĩ dễ phân tâm và mất bình an. Đôi khi chúng ta nghĩ Chúa Giêsu đã bỏ quên mình rồi, nhưng thật ra đó là lúc Chúa đang gần chúng ta nhất. Một chứng tá rất nhẹ nhàng, cụ thể như cha Vania trước khi gục ngã dưới làn mưa đạn của Đức Quốc xã, ngài đã để lại những dòng chữ cuối cùng đầy can đảm và tự tin cho cha mẹ: “Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách…”.
KẾT
Như vậy, để là con người của bình an, đan sĩ phải là người chỉ tìm kiếm một mình Thiên Chúa. Luôn kết hợp với Chúa và làm những gì Ngài muốn. Được thế, đan sĩ sẽ lan toả bình an cho những người họ gặp gỡ. Vì một khi có Chúa, chúng ta chẳng còn sợ gì, cho dù ngày mai có được làm bề trên hay Bề Trên bảo về tôi cũng vẫn bình an (DN 124. HT 40).
Đó chính là sức mạnh mới đến từ sự tái sinh nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Nhờ vậy, chúng ta có được sự bình an đầy ắp trong tâm hồn. Sự bình an của Chúa tuôn tràn, phủ ngập linh hồn chúng ta và mời gọi chúng ta cộng tác, kiến tạo Bình An và nhất là đem Bình An của Chúa cho người khác, như lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxico “mọi kitô hữu đều phải trở thành những người kiến tạo hòa bình và chứng tá đáng tin của sự hòa giải”[13] . Thiết nghĩ đó cũng là sứ mạng của người Đan sỹ trong thời đại đầy biến động hôm nay.
[1] Youcat, số 315 . tr. 242
[2] Lm. Đinh Lập Liễn – Chúa nhật 2 Phục Sinh A
[3] Đức Thánh Cha Phanxico – Evangelii Gaudium. Tr 124.
[4] Youcat, số 311. tr. 241
[5]Đức Thánh Cha Phanxico – Hiệp hội các bề trên Tổng Quyền dòng nam đại hội lần thứ 82 ở Salesianum
[6]Giuse Phạm Đình Ái – Ân sủng luận tr. 34
[7]Ibd tr. 35
[8]Đức Thánh Cha Phanxico – Hiệp hội các bề trên Tổng Quyền dòng nam đại hội lần thứ 82 ở Salesianum
[9] Đức Thánh Cha Benedicto XVI – Thông điệp Centesimus Annus
[10] Thánh Giáo Hoàng LÊ Ô Cả – các bài đọc kinh sách tập 1 tr. 149
[11] Ibid
[12] Chúa nhật II phục sinh A – Bình an cho các con . Lm Giuse Đinh lập Liễm – Giáo xứ Kim phát – Đà lạt
[13] Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm – Đọc Tông Huấn Evangelii Gaudium. Tr 23
TÌNH YÊU TỰ HIẾN
(Mai Ân Thông)
Ôi Tình yêu mênh mông của Sự Thật !
Yêu nghìn trùng không tính toán thiệt hơn
Yêu thiết tha không giận ghét oán hờn
Yêu trọn vẹn dầu tình ai bất xứng.
Ôi Tình Yêu ngàn đời câu chấm lửng…
Bỏ uy quyền nhận hèn kém dễ duôi
Bỏ cao sang mang yếu đuối phận người
Bỏ mọi sự cho yêu thương bừng sáng.
Ôi Tình yêu hàn gắn mọi nứt rạn
Ủ ấp đời tha thứ lỗi lầm qua
Giang đôi tay ôm trọn nỗi đậm đà
Đường Tình Yêu sự hiệp thông liên lỉ .
Ôi Tình Yêu đất trời nào sánh ví
Sống vì yêu mà chết cũng vì yêu
Thế trần này ý nghĩa một chữ YÊU
Tim đọng lắng chữ TÌNH YÊU huyền nhiệm.
BÌNH AN VÀ QUYỀN BÍNH
Martino (PV)
Bình an và quyền bính là hai hạn từ xem ra thuộc hai bình diện khác nhau. Bình an là trạng thái, quyền bính thể hiện hành động. Tuy khác nhau nhưng theo trực giác của tôi, hai hạn từ này có một mối tương quan hỗ tương. Bình an và quyền bính có chủ thể là con người và cuộc sống của con người. Vì thế, những câu hỏi được đặt ra xung quanh vấn đề này: phải chăng người thi hành quyền bính phải là con người có bình an và là người kiến tạo bình an, nhưng cũng có thể gây ra những bất an trong khi thi hành quyền bính? Người vâng phục quyền bính trong tâm trạng bình an hay chỉ là một sự miễn cưỡng? Như vậy, khái niệm bình an và bất ổn trong tương quan với quyền bính phải được hiểu như thế nào?
1. Bình an và bất ổn
Trong bài viết “Bình an và Hoà bình”, linh mục Stephano Huỳnh Trụ đã giải thích cặn kẽ hai chữ bình an và hoà bình. Theo ngài, “Bình an, yên lành nói lên tình trạng, phẩm chất của một cá nhân, một bản tính; … Nói cách khác, khái niệm bình an hướng về là một trạng thái bên trong của chủ thể”[1] Vậy tình trạng, trạng thái, phẩm chất và bản tính của chủ thể bình an đó như thế nào ? Lm Huỳnh Trụ trả lời: đó là “người ăn ở đúng thân phận mình, đi đúng con đường của mình, không cư ngụ sai trật nơi chốn, không gây hỗn loạn, người Việt gọi là “yên” (từ chữ Hán là “an”, nghĩa là ở vào đúng vị trí). Nhưng yên không phải là ở một chỗ, yên là hành động mà không trái với bản tính mình, không làm sai phẩm giá mình, không gây rối loạn và thương tổn đến kẻ khác”.
Bất ổn có thể là hậu quả của bất an, nghĩa là không yên ; vì bất an nên chủ thể đảo lộn trạng thái, phẩm chất, bản tính của mình và gây nên sự hỗ loạn bên ngoài. Ví dụ: ghen ghét người này, tranh chấp với người kia….đó là tình trạng bất ổn mà chủ thể gây nên cho người khác.
Chính trong tình trạng bất ổn mà người ta có thể nhận ra đâu là bình an thật và bình an giả. Những lúc yên ổn theo nghĩa là không đụng chạm đến ai và không ai đụng chạm đến mình; những lúc tâm hồn thanh thản với ý nghĩa là không bận tâm đến người khác và chuyện khác; những lúc mà uy tín đang lên khi đạt được thành công trong việc này, việc nọ. Đó là những lúc yên ổn xem ra bình an. Công bằng mà nói tình trạng bình an đó nhiều người cũng mong mỏi ao ước kiếm tìm. Thậm chí trong đời tu, có những người “rất bình an”, họ rất sợ xung đột, họ uyển chuyển, họ “dĩ hoà vi quí” chín bỏ làm mười, … họ rất sợ bất ổn. Phải chăng tình trạng bình an của những người này là bình an thật? Tôi không nói là bình an giả tạo nhưng hình như nó chưa phải là thứ bình an mà tôi đang tìm kiếm.
Theo định nghĩa hạn từ bình an của linh mục Huỳnh Trụ, chủ thể thể hiện bình an cũng giả thiết đã nhận biết mình và sự thật đời mình. Nhận biết mình, nhận biết sự thật đời mình nên mới ăn ở “đúng thân phận mình, đi đúng con đường của mình”, nên mới hành động “không trái với bản tính mình, không làm sai phẩm giá mình, không gây rối loạn và thương tổn đến kẻ khác”.
Cũng trong chiều hướng đó, chủ thể bình an là người có được tự do nội tâm. Người có tự do nội tâm là “người hành động có ý thức và theo chọn lựa của mình”[2] . Nói cách khác, chủ thể bình an là người có “lòng tự trọng” : họ “cảm nhận giá trị của mình, quý trọng bản thân, tự tin, an tâm và hài lòng với chính mình. Đánh giá mình một cách đúng đắn, hợp với thực tế bản thân”[3] .
Người sống trong sự thật đời mình như thế, khi bất ổn ập đến, dù không tránh khỏi những xao động như gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ, tận thăm thẳm cõi lòng vẫn yên lặng như đáy nước hồ sâu.
Không những thế, người sống sự thật đời mình, khi gặp bất ổn như cơn giông bão ùa tới, họ giống như người vốn đã có, nhưng lại được thêm và sẽ dư dật. Những gì diễn ra trong cơn bão tố bất ổn thay vì hạ gục thì càng giúp họ khẳng định những xác tín để có một cuộc sống viên mãn.
2.Chủ thể thi hành quyền bính
Tâm lý chung của những người thi hành quyền bính là làm sao để cộng đoàn thuộc quyền được yên ổn, nghĩa là giảm thiểu tối đa những biến động, những bất ổn. Trong khi đó, các nhà đào tạo muốn đi vào chiều sâu của tâm hồn. Họ cố gắng lặn sâu xuống từng ngõ ngách của cuộc sống nhân sinh nơi những người thuộc quyền để đào tung lên và xếp lại cho trật tự. Điều này có thể tạo nên sự căng thẳng, xung đột giữa người thi hành quyền bính và nhà đào tạo trong cộng đoàn[4].
Trong cộng đoàn sống đời thánh hiến, mặc dù là một gia đình thực sự, nhưng tương quan của họ không phải là tương quan gia đình mà là tương quan huynh đệ. Trong cộng đoàn huynh đệ đó, phải có một người thi hành quyền bính. Quyền bính là năng quyền tự thân của bất cứ cộng đoàn nào và sẽ chỉ được trao cho một người trong cộng đoàn đó. Người này có chức năng thi hành quyền bính. Việc thi hành quyền bính rất quan trọng, vì nhờ đó mà việc xây dựng và bảo vệ quyền lợi của từng cá nhân được bảo đảm, tạo không gian đối thoại cho các phần tử trong cộng đoàn; giúp nắm vững các nguyên tắc. Ví dụ nguyên tắc bốn đúng: nói đúng người, nói đúng việc, nói đúng nơi và đúng lúc. Và giữ vững kỷ cương. Tất cả mọi phần tử trong cộng đoàn đều trông chờ vị bề trên thi hành quyền bính theo chức năng của mình, vì chỉ khi nào quyền bính được thực thi, cơ chế của cộng đoàn mới có thể vận hành cách bình thường và ổn định. Lúc đó, cộng đoàn sẽ trở thành cộng đoàn hiệp thông và sứ vụ. Tuy nhiên, trong thực tế, có những cộng đoàn xem ra vẫn vận hành một cách xuôi thuận mặc dù quyền bính không được thực thi. Nhưng đó chỉ là thiểu số, cá biệt và có tính cách tạm thời. Vì trong những cộng đoàn đó vốn đã có một nền tảng căn bản được các vị trưởng thượng thánh thiện bảo tồn và nuôi dưỡng trong sự kính sợ Chúa. Mặc dầu như thế, nhưng quyền bính vẫn luôn luôn là điều cần thiết.
Nói đến cộng đoàn là nói đến hiệp thông. Hiệp thông theo nguyên nghĩa là hiệp nhất với (communio – comm-union). Theo nghĩa này, cộng đoàn là “hiệp nhất với” cho dù có những khác biệt nơi mỗi cá nhân. “Hiệp nhất với” là đi vào tương quan ngôi vị, tương quan liên chủ thể. Nét đặc thù của tương quan này hệ tại ở chỗ các chủ thể lệ thuộc vào nhau. Họ không thể hiện hữu khi không cùng hiện hữu với một chủ thể khác. Người ta chỉ có thể đi vào tương quan với nhau nếu nhận được những “tín hiệu tích cực” của nhau. Nói cách khác, người ta chỉ hiệp thông khi nào hai chủ thể có khả năng trao “lời” cho nhau. Trao lời cho nhau để nhận ra những “tín hiệu tích cực” cho phép đi vào cuộc đời của nhau. Từ đó, một cộng đoàn hiệp thông là cộng đoàn có khả năng trao lời cho nhau, nghĩa là mỗi cá nhân trong cộng đoàn có thể đối thoại với nhau.
Tuy nhiên, để đối thoại cần phải có không gian đối thoại. Làm sao có không gian đối thoại được, nếu như không có người kiến tạo nên không gian đó? Ai là người kiến tạo nếu không phải là người thi hành quyền bính trong cộng đoàn, tức là vị bề trên[5].
Để tạo không gian đối thoại, ngoài khả năng chuyên môn, người kiến tạo phải có khả năng lắng nghe. Có thể nói lắng nghe là một yếu tố quan trọng để không gian đối thoại trở thành không gian huynh đệ. Trong thực tế, ít người có khả năng lắng nghe. Vì thế, cần phải trau dồi khả năng này. Có trường hợp cụ thể, một người trong cương vị bề trên nhưng không biết nhiều về cộng đoàn mà mình đang có trách nhiệm như: tình hình nhân sự; tâm tư nguyện vọng, cũng như không có những dự phóng phát triển cộng đoàn. Những hiểu biết về cộng đoàn có chăng chỉ là những thông tin nhỏ giọt. Tại sao? Vì thiếu khả năng lắng nghe và lo sợ những ý kiến trái ngược. Hơn nữa, nếu có lắng nghe thì thường lắng nghe một chiều do nhóm thiểu số trong cộng đoàn. Trong trường hợp này, người thi hành quyền bính đã trở nên người gây bất ổn hơn là kiến tạo bình an. Nếu như thế, người vâng phục có trách nhiệm gì khi cộng đoàn được bình an hay bất ổn?
3.Vâng phục quyền bính: bình an hay miễn cưỡng ?
Nếu như người thi hành quyền bính cách trọn hảo nhất cũng tuỳ thuộc vào khả năng lắng nghe của mình, thì người vâng phục quyền bính cũng không thể thoát ra khỏi trật tự đó: họ cũng phải là người có khả năng lắng nghe. “Mau nghe, chậm nói và khoan giận” (Gcb 1,19) là câu châm ngôn được thực hành trong các cộng đoàn kitô hữu tiên khởi càng củng cố xác tín của chúng ta về khả năng lắng nghe.
Quan sát thực tế và lắng nghe những thông tin từ các cộng đoàn thánh hiến đây đó có những phân hoá nội bộ. Những phân hoá đó, xét cho cùng là do các phần tử thiếu khả năng lắng nghe, và do đó cho phép hình dung họ đang gặp những vấn đề lớn trong đời sống cá nhân. Họ vẫn sống đời sống tu trì, nhưng tham vọng của họ quá lớn và quá rõ đến nỗi làm chết nghẹt định hướng căn bản của đời tu là chuyên chăm tìm Chúa và những giá trị thuộc về Chúa[6] để thi hành sứ vụ của người được kêu gọi. Những người này cũng đang tìm kiếm điều gì đó, nhưng không phải Chúa; trái lại người có tâm tu họ cũng đang trong tâm trạng tìm kiếm điều gì đó – điều gì đó chính là Chúa. Chúng tôi hình dung lối sống của những người tham vọng này, nếu có sự bình an nào đấy thì cũng chỉ là thứ bình an theo nghĩa yên ổn. Chắc chắn không phải là bình an thật. Lối sống đó rất miễn cưỡng vì hoàn toàn không có tự do, rất xa lạ với định hướng căn bản của đời mình. Họ tìm bình an – yên ổn bằng mọi giá kể cả thủ đoạn và mưu mô. Những người tham vọng như thế có thực sự vâng phục quyền bính hay không? Thiết tưởng vì không có và cũng không tìm kiếm bình an đích thực nên vâng phục quyền bính nơi họ chỉ là một hành động miễn cưỡng. Tệ hơn, họ đi tới chỗ thao túng và lèo lái quyền bính theo chiều hướng có lợi cho mình.
Tu sĩ sống vâng phục quyền bính là hình ảnh rất đẹp, vì một khi sống vâng phục họ đang tiến bước trên con đường dẫn đến sự hoàn thiện. Đó cũng là con đường của niềm vui. Một niềm vui được thánh Gioan gọi là niềm vui trọn vẹn, niềm vui tinh ròng trong tương quan với Thiên Chúa. Chính vì thế mà thánh Augustino có lý khi thốt lên : “Niềm vui trọn vẹn ấy ở trong chính sự hiệp thông, trong chính đức ái, trong chính sự hiệp nhất”[7] .
Niềm vui thật cũng chính là bình an thật, mà niềm vui thật thì ở trong chính sự hiệp thông. Thế mà, chỉ có thể hiệp thông khi có yếu tố trao lời. Trao lời như dấu chỉ cho phép đi vào tương quan với nhau. Chỉ cần ghi nhận từ thực tế cuộc sống cũng cho thấy sự phi lý khi có những người không dám trao lời khi trực diện, lại trao lời với người thứ ba. Trao lời như thế chỉ là hành vi nói hành, nói xấu mà Đức Phanxico đã mạnh mẽ lên án trong những huấn từ của ngài.
Tóm lại, mặc dù những vấn đề chúng tôi mạo muội bàn đến chưa đến hồi kết luận vì dường như vẫn còn bỏ ngỏ vai trò quyền bính và thái độ vâng phục quyền bính theo tinh thần Tin Mừng. Chúng tôi cũng tạm khép lại và thay lời kết bằng những tâm tình của thánh Biển Đức khi nói về Đức Vâng Phục (Tl 5,2): “Đó là nhân đức của người không lấy gì làm quí hơn Chúa Kitô”, vì “Ai nghe anh em là nghe Thầy” (Tl 5,6). Chúng ta thấy đòi hỏi của Tin Mừng xem ra nhẹ nhàng nhưng lại rất gắt gao ngút ngàn.
Phần chúng tôi, mặc dù vẫn bám sát không lơi lỏng đòi hỏi của Tin Mừng như một lý tưởng theo đuổi, vẫn không quên bước đi bằng chính đôi chân của mình trong mức độ ánh sáng của lý trí soi dẫn, gợi ý để cùng suy tư.
[1] Lm Stephano Huỳnh Trụ, “Bình an và Hoà bình”,
[3] Nguyễn Ngọc Kính, Sđd. Tr. 335.
[4] Cộng đoàn ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ các cộng đoàn dòng tu. Trong mỗi gia đình cha mẹ là những người thi hành quyền bính. Sự căng thẳng giữa cha mẹ trong điều hành gia không phải là ngoại lệ.
[6] Tìm đọc hoặc nghe bản tin Đài Vatican phát đi ngày 23.12.2014 với bài đáp từ của Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho các vị lãnh đạo các cơ quan trung ương Toà Thánh nhân dịp các vị chúc mừng Lễ Chúa Giáng Sinh Ngài, trong đó Ngài liệt kê 15 căn bệnh cần chữa trị khi vận hành cơ cấu của giáo triều Roma. Theo chúng tôi, Đức Thánh Cha Phanxicô đã giúp chúng tôi hệ thống hóa những ‘giải mã’ về các vấn đề nổi cộm trong cộng đoàn tu trì, rất thích hợp để nhận diện rõ nét những khuôn mặt đau yếu bệnh hoạn trong vận hành cơ cấu của đời sống cộng đoàn.
BÌNH AN NỘI TÂM
FM. Michael
Bình an: đó là điều mà mọi người hằng khát khao và mong ước! Chính vì vậy, tôi thường xuyên ra sức để đi tìm cho mình được sự bình an. Tôi cũng đã tìm thấy và đã nếm được phần nào những khoảnh khắc dạt dào hạnh phúc mà sự bình an ấy đem lại.
Nhưng, khi những khoảnh khắc dạt dào và hạnh phúc ấy qua đi, tôi mới nhận ra rõ là những “cái bình an” mà tôi đã tìm được đó chỉ là những cái mau qua, và đôi khi còn giả tạo nữa. Cuối cùng tôi cũng trở về và bắt đầu lại với cuộc sống đời thường.
Kinh nghiệm thực tế như vậy, thúc đẩy tôi lại một lần nữa đi tìm cho mình một sự bình an khác, một sự bình an thực sự, xuất phát từ chính trong con người của tôi, đó là sự bình an nội tâm. Thực vậy, chỉ có sự bình an nội tâm mới có thể giúp tôi sống vui và hạnh phúc với cuộc đời trần thế này.
Tạ ơn Chúa, cuối cùng tôi cũng đã tìm được nó. Thì ra sự bình an mà bấy lâu tôi hằng tìm kiếm kia không đâu xa, đó chính là sự bình an bắt nguồn từ việc “bám vào” Thiên Chúa. Tôi xin được chia sẻ đôi điều về cảm nhận này của tôi.
1. Cảm nhận được tình yêu của Chúa để sám hối và sống khiêm tốn hơn
Thánh Phaolô đã nói: “Bẩm sinh chúng ta là những kẻ đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, như những người khác. Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta. Nên dẫu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” (Eph 2,3-4).
Biết bao lần tôi đã vấp ngã và thất vọng. Thế nhưng nhờ tình yêu và ơn Chúa tâm hồn đã được phục hồi. Từ đó, tôi cảm nhận được tình yêu Chúa dành cho tôi thật lớn lao, dù biết tôi không đáng được như vậy. Với một tâm trạng ăn năn và hối hận luôn mang nơi mình vì những điều mình xúc phạm tới Chúa, tôi mong muốn thực hiện một điều gì đó hầu chuộc lại những lầm lỗi. Nhưng tôi hiểu là Chúa không cần điều đó. Ngài chỉ mong tôi sống hiền hoà và khiêm tốn hơn mà thôi. Hiền hoà để có thể dễ dàng hoà nhập và cảm thông với mọi người. Khiêm tốn để có thể sống bác ái, yêu thương và nhẫn nhục hơn với mọi người xung quanh. Thế là đủ!
Thật vậy, chính nhờ luôn cảm nhận và ý thức được tình yêu bao la của Chúa như thế mà tâm hồn tôi luôn sám hối, nhìn lại các lầm lỗi yếu hèn của mình, đồng thời biết sống đơn sơ, giản dị hơn để ngày càng có thể kết hợp mật thiết và phó thác đời mình cho Chúa nhiều hơn.
2.Sống kết hợp và phó thác bằng mối liên hệ thân tình
Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô cũng đã nói: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định. Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Còn gì ngọt ngào và hạnh phúc hơn khi có Thiên Chúa là Cha và Chúa Giêsu là anh của mình!
Quả thực, có một mối liên hệ rất thân tình trong cộng đoàn mà tôi rất lấy làm tâm đắc: đó là tình anh em. Chúa Giêsu là anh của tôi!
Chính tình anh em một nhà mới có thể làm cho tôi gần gũi và dễ dàng chia sẻ mọi nỗi buồn vui trong cuộc sống. Tôi luôn hình dung “anh Giêsu” và tôi ở cùng bên nhau mọi nơi và mọi lúc, đồng hành với nhau trong cuộc sống. Hơn nữa, mỗi khi vấp ngã vì yếu đuối và tội lỗi, thì cũng chính “anh Giêsu” lại đưa tay ra để che chở, bênh vực và bảo vệ tôi khỏi phải lún sâu hơn vào con đường tội lỗi và lầm lạc.
Nhờ nhận ra sự bênh vực, bao bọc và chở che như vậy, tôi mới thấy rõ con người thật của mình: yếu đuối, bệnh tật, hèn kém và những hậu quả do chính mình gây ra.
Nhận thức được những giới hạn của mình như vậy nên tôi lại càng luôn muốn gần bên Chúa Giêsu như người bạn, người anh để cùng đồng hành trên mọi nẻo đường. Từ đó, tôi lại càng cảm thấy mình gần Chúa hơn trong mọi hoạt động của cuộc sống với tâm tình phó thác cũng như chấp nhận mọi gian truân.
Với tâm tình muốn sống nếp sống đơn sơ, âm thầm, giản dị và cố gắng thực hiện mọi nhiệm vụ theo khả năng Thiên Chúa ban làm cho tôi ngày càng đi vào sự bình an nội tâm, mà ở đó, tôi ý thức sự hiện diện của Chúa bên cạnh, nên không có gì làm tôi sợ hãi và buồn phiền.
Dĩ nhiên để sống được tâm tình đó không phải là dễ dàng. Vì có những xung đột và va chạm trong đời sống hàng ngày thường làm cho tôi có những phản ứng: buồn phiền, giận dữ. Nhưng đó lại là lúc rất cần thiết để tôi luôn ý thức bám vào Chúa nhiều hơn hầu thanh luyện chính mình và cố gắng đáp trả tình yêu Chúa dành cho tôi bằng những việc làm cụ thể.
3.Thể hiện tình yêu Chúa bằng những việc làm cụ thể
Có một chuyện ngắn làm tôi thường suy nghĩ:
“Một người lạ mặt xin tá túc. Abraham tiếp đãi nhưng cuối cùng y vẫn phàn nàn. Tức giận vì sự vong ân, chuẩn bị đuổi thì Thiên Chúa phán cùng Abraham: “Này Abraham, Ta đã chịu đựng y suốt 40 năm rồi, thì lẽ nào ngươi chẳng chịu đựng y một đêm sao?”
Câu chuyện trên làm cho tôi suy nghĩ: khi tâm hồn được bình an, người ta sẽ nhận ra ngay trách nhiệm phải thương yêu và chịu đựng người khác như chính Chúa đã thương yêu mình và chịu đựng mình.
Thật vậy, muốn có một sự bình an nội tâm, tôi phải giữ cho tâm hồn mình luôn lắng đọng để vang vọng lời mời gọi và ý của Chúa muốn tôi thực hiện điều gì. Muốn được điều đó, không gì khác hơn là tôi phải biết giữ tĩnh lặng, chăm chú lắng nghe và tâm sự với Chúa trong chính tâm hồn mình mọi nơi và mọi lúc. Càng giữ được nhiều những giây phút kết hợp và trò chuyện với Chúa, tôi càng có cơ may thực hiện ý Chúa một cách tốt đẹp hơn.
Có nhiều cách để tôi có thể thường xuyên giữ được mối liên lạc với Chúa như: thầm thì chia sẻ những buồn vui trong công việc, ca tụng Chúa khi thấy những cảnh quang diệu kỳ, suy tư với Chúa trong những vấn đề của cuộc sống, hay ít nhất luôn lặp đi lặp lại những lời nguyện tắt v.v… Chính qua những giây phút tâm sự và chuyện trò với Chúa như vậy, tôi đã thực hiện một sự cầu nguyện không ngừng. Thật vậy, con đường duy nhất luôn mang lại sự bình an nội tâm không gì khác hơn chính là lời cầu nguyện không ngừng. Nói cách khác, hoa trái của cầu nguyện chính là sự bình an trong tâm hồn.
KẾT LUẬN
Theo tôi, bình an nội tâm không gì khác hơn là một ân ban của Chúa và cũng chính là sự bình an của Chúa. Vì thế, có thể nói sự bình an nội tâm ở đây không có nghĩa là co cụm lại trong con người của mình hay tìm kiếm cho mình sự an nhàn, nhưng là mở lòng mình ra cho Chúa và cho anh chị em. Khi chúng ta biết tin tưởng và phó thác mọi sự cho Chúa thì việc dấn thân để phục vụ tha nhân sẽ không còn là điều khó khăn đối với chúng ta nữa.
Tuy nhiên, để có được sự bình an nội tâm mà chúng ta hằng mong ước thì không phải một sớm một chiều mà có thể đạt được, nhưng là một sự cố gắng luyện tập và phấn đấu trường kỳ trong suốt cuộc hành trình đức tin để có thể đi theo con đường Chúa muốn chúng ta đi, hầu phụng sự Ngài cũng như là để phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu hơn.
HẠT SÁNG
1) “Hội Thánh không thể làm được gì nếu không có lá phổi cầu nguyện” EG 262.
2) “Thiên Chúa đòi hỏi mọi sự nơi chúng ta, nhưng đồng thời cũng ban cho chúng ta mọi sự” EG 12
3) Tôi mời mọi Kitô hữu, ở bất cứ nơi nào và hoàn cảnh nào, ngay lúc này đổi mới cuộc gặp gỡ cá nhân của mình với Chúa Giêsu Kitô, hay ít ra, quyết định để cho Người gặp gỡ mình và không ngừng tìm kiếm Người mỗi ngày. Không có một lý do nào mà một người có thể nghĩ rằng lời mời gọi này không dành cho mình, bởi vì “không ai bị chối từ niềm vui mà Chúa mang đến” EG 3.
4) “Động lực tốt nhất cho quyết định truyền thông Tin Mừng là chiêm niệm nó với tình yêu, đọc chầm chậm những trang của nó và đọc bằng con tim của mình” EG 264.
THUẬN LỢI
VÀ KHÓ KHĂN TRONG ĐỜI SỐNG
Huy Nghiêm (TP)
Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết và đồng ý, đời sống chung là điều cần thiết cho con người và không thể sống mà không cần đến tha nhân.
Ngay từ những trang đầu của Kinh Thánh, cụ thể là sách Sáng Thế đã viết: “Con người ở một mình không tốt”, nghĩa là sống cần phải có người khác. Đây là nhu cầu thiết yếu nhất mà Thiên Chúa đã đặt để vào trong tâm khảm con người.
Trong phạm trù triết học, các triết gia cũng đề cập đến việc con người có “tha tính”, nghĩa là cái tính hướng đến người khác, cần người khác.
Trong tâm lý học người ta cũng khẳng định: “Không Ai Là Một Hòn Đảo”, nghĩa là con người sống cần có sự tương trợ lẫn nhau để phát triển cuộc sống phong phú và tồn tại. Theo chiều dài lịch sử của nhân loại, không ai dám tự cho rằng mình sống mà không cần đến người khác. Quả thế, con người không thể tồn tại được nếu không sống trong một xã hội. Nhờ xã hội, con người có thể kiến tạo niềm vui, hạnh phúc, an toàn cho chính mình cũng như cho cộng đồng.
Trong chúng ta ai cũng có nhu cầu là yêu và được yêu, vì điều đó sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui hạnh phúc, sự bình an cũng như trong tương quan gần gũi thân thương với nhau.
Trong lãnh vực xã hội học: Con người là một hữu thể có xã hội tính luôn có tác động qua lại với nhau, với vũ trụ và vạn vật. Con người sinh ra là để sống với, sống cùng và giúp nhau triển nở trong tình yêu thương, chứ không phải sống đơn độc hay lệ thuộc vào người khác. Quả thế con người không thể sống là một con người đúng nghĩa nếu không sống trong xã hội.
Nhìn góc độ này, thì cộng đoàn tu sĩ là một nhóm xã hội. Đời sống cộng đoàn tu sĩ cũng như bất cứ đời sống của một nhóm xã hội nào, là đời sống được dệt bằng các tương giao giữa các thành viên. Không những thế, cộng đoàn tu sĩ còn là “một gia đình thật, đoàn tụ nhân danh Chúa Kitô”. Vì thế, mỗi thành viên của cộng đoàn còn phải vươn lên cao hơn và hướng đến một chiều kích khác nữa, đó là chiều kích siêu nhiên. Lý tưởng là vậy, nhưng trong thực tế, nơi những cộng đoàn, dù là một tập thể trong xã hội hay nơi cộng đoàn tu sĩ, đời sống chung vẫn luôn có những vấn nạn, những ưu tư khắc khoải, những đổ vỡ này kia. Vậy chúng ta thử tìm hiểu xem đâu là nguyên nhân?
I. NGUYÊN NHÂN GÂY ĐỔ VỠ TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN
1. Thiếu sự tin tưởng lẫn nhau
Trong chúng ta ai cũng có một thao thức, một ước muốn sống đời trọn hảo ngay khi chúng ta đáp lời mời gọi của Thiên Chúa, dâng hiến đời mình trong ơn gọi tu trì, trong một cộng thánh hiến. Nhưng không có một cộng đoàn nào ở trần gian này hoàn hảo ngoài cộng đoàn Thiên Quốc. Sống ở đời là chúng ta đang sống trong sự bấp bênh của niềm tin; chấp nhận qui tụ trong một cộng đoàn là chấp nhận cùng một thao thức giúp nhau trở nên những con người tốt hơn, hoàn thiện hơn trong tự do yêu thương. Thật tuyệt vời nếu chúng ta cùng nhau thực hiện lời khuyên của Thánh Phaolô: “Mỗi người chúng ta hãy chiều theo sở thích kẻ khác, vì lợi ích của họ, và để xây dựng” (Rm 15,2). Thế nhưng, rất nhiều lần chúng ta đã thất bại, vì lẽ thiếu tin tưởng lẫn nhau, khi các thành viên trong cộng đoàn thiếu tin tưởng lẫn nhau sẽ không khai thông được dòng chảy huynh đệ trong sinh hoạt hằng ngày. Có chăng chỉ là mặt ngoài và làm theo chiếu lệ. Như người ta nói: “Bằng mặt mà không bằng lòng”.
Một khi tình trạng này xuất hiện thì cũng kéo theo các tật xấu khác trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Các tật xấu trong tư tưởng mà Thánh Phaolô nói với Giáo đoàn Philipphê khi họ đặt quyền lợi cá nhân lên trên quyền lợi tập thể. Ngài khuyến cáo: “Đừng làm chi vì ganh tỵ hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác trọng hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô” (Phl 2,3-5). Để nói những lời này, hẳn thánh nhân đã liên tưởng đến sự ghen tuông, tranh chấp, đấu khẩu liên miên, và tất cả sẽ là những kinh nghiệm cho mỗi thành viên trong cộng đoàn khi sự tin tưởng bị bẻ gãy (x. 2Tm 2,23).
2. Tính xét đoán và lòng ganh tỵ
Có một sự cố chấp bẩm sinh, và hầu như không giải nghĩa được, khiến chúng ta lúc nào cũng xét đoán, và hiểu theo quan điểm của mình, theo chiều hướng tính khí và thành kiến của mình, đó là những xét đoán hẹp hòi, và cứ tiếp diễn hoài hoài; đó là ta nhìn sự vật một cách nông cạn. Chúng ta hãy nghe vị tông đồ dân ngoại: “Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em? Và bạn nữa, sao bạn lại khinh dễ người anh em? Quả thế, tất cả chúng ta sẽ phải ra trước tòa Thiên Chúa… Vậy chúng ta đừng xét đoán nhau nữa. Tốt hơn, anh em hãy xét sao để tránh gây cớ cho anh em mình phải vấp ngã”. (Rm 14,10.13). Và nơi khác thánh nhân cũng nói: “Đừng làm chi vì ganh tỵ hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác trọng hơn mình” (Pl 2,3). Còn Thánh Giacôbê cũng nhắc chúng ta hai điều dẫn đến sự bất hòa và những thứ làm đổ vỡ cộng đoàn là: “Thật vậy, ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa” (Gc 3,16).
Thánh Phaolo cũng nhận thấy rằng trong cộng đoàn tuy có những khác biệt, nhưng các xung đột bởi lời ăn tiếng nói, bởi sự ghen tỵ nhưng không được phép tồn tại trong cộng đoàn. Ngài viết: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau” (1Cr 1,10-11).
3. Chủ nghĩa cá nhân
Chung lộ trình với tính xét đoán, hay ganh tỵ là tính chủ nghĩa cá nhân. Cách sống chủ nghĩa cá nhân là một cách sống phủ nhận trách nhiệm và tính liên đới với cộng đoàn, là người chỉ nghĩ đến bản thân mà bất chấp dư luận, danh dự cộng đoàn. Họ giữ lập trường “cổ hũ, cứng cỏi” không thay đổi. Như vậy, sự đòi hỏi dấn thân của đời tu đối với họ là cái gì xa lạ, là của người khác. Một khi lối sống cá nhân mạnh thì tinh thần đời sống cộng đoàn sẽ yếu đi. Họ sẽ phải đặt mình trước những lựa chọn: Hy sinh những nguyện vọng và tính toán cá nhân để phục vụ lợi ích cộng đoàn hoặc ngược lại. Khi họ chỉ biết tìm lợi ích cho riêng mình sẽ dẫn đến sự thoái thác, tránh né việc chung. Đó chín là dấu chỉ của sự “qui ngã”.
Đời tu chỉ có ý nghĩa khi người ta dấn thân hết mình bước theo Đức Kitô trong niềm tin và phục vụ tha nhân. Nếu coi thường ý nghĩa này, người sống đời tận hiến sẽ tự tách mình ra khỏi cộng đoàn. Họ để mặc công việc cho người khác, phó mặc cho người khác số phận cộng đoàn, “muốn ra sao thì ra”.
Một khi sự liên đới với cộng đoàn bị coi nhẹ thì họ dễ dàng vắng mặt trong những sinh hoạt chung của cộng đoàn. Phải chăng chúng ta chỉ tìm đến với cộng đoàn trong những giờ phút vinh quang, còn giờ phút thập giá thì lại trốn tránh? Một khi họ không còn tìm thấy nơi cộng đoàn tình liên đới, thì những lúc gặp khó khăn thế nào họ cũng tìm những liên hệ khác ngoài cộng đoàn. Thử hỏi tình liên đới đó có còn thực sự bền vững trong một cộng đoàn? Nếu có nhiều người vậy trong cộng đoàn thì liệu cộng đoàn có được bình an?
4. Những tương quan khập khiễng, thiếu thân tình.
Con người là một thực thể độc nhất vô nhị, là đối tượng để tìm hiểu, cảm thông, tha thứ. Nhưng nhiều khi chúng ta lại muốn biến những điều này thành những vấn đề để giải quyết, trong khi tình liên đới cần sự tiếp nhận cụ thể, cần đối thoại chân thành, thì dường như người ta vẫn ở xa nhau; có cảm giác ngại ngùng dù hằng ngày vẫn ở sát bên nhau, đối diện với nhau. Lý do là vì còn giữ kẽ, còn bảo vệ lợi ích cái tôi, còn phòng vệ… Phải chăng vì tế nhị quá, nên nhiều khi người ta đến với nhau bằng những chiếc mặt nạ, không dám nhìn thẳng vào sự thật, mà cứ vòng vo mất thời gian, trong lúc cần có nhiều giờ để chia sẻ thực trạng hiện sinh của mình và lắng nghe người khác. Yếu tố cốt lõi trong tương quan đã bị mất, vì đối thoại đã vắng bóng. Hoặc “đôi khi ta nói mà không hiểu nhau, vì có những rào cản, những màn che, vì không nắm bắt được ý nghĩa đàng sau của ngôn từ. Rút cuộc, ta nhìn nhau bằng ánh mắt mang hình… viên đạn!”.
5. Giao tiếp nhưng thiếu đối thoại chân thành
Tại sao đời sống cộng đoàn nhiều khi trở nên nặng nề, đau khổ và hiểu lầm? thưa, vì các thành viên trong cộng đoàn thiếu tiếp cận cụ thể, thiếu đối thoại. Vì chỉ có tiếp cận trên “văn kiện” hơn là tiếp cận với “hữu thể”. Nghĩa là lối tiếp cận xã giao bên ngoài qua loa, gọi là cho có, thiếu chân thành, không đi vào sự gặp gỡ thiết thực bên trong với lòng tôn trọng và quí mến. Trái lại, một khi ta ra khỏi chính mình và đến với người khác, trong tôn trọng và yêu thương ta sẽ gặp tha nhân và gặp chính mình, đó là điểm đến của đối thoại, của thông đạt tư tưởng, tình cảm cho nhau. Nhìn vào các mối tương quan cộng đoàn có những cuộc giao tiếp bị gián đoạn, hoặc vĩnh viễn chia tay vì thiếu lắng nghe và tôn trọng nhau.
Một đàng vẫn biết lắng nghe không có nghĩa là thinh lặng, mà thiết yếu quên đi những đòi hỏi của chính mình, để quan tâm đến những chờ đợi và đòi hỏi của người khác. Đàng khác, trong khi thực hành đối thoại, ta dễ chụp lên đầu người khác những quan niệm lệch lạc, nhét vào đầu óc người đó những nhận định chủ quan của ta. Nhiều khi hai người nói với nhau mà chỉ như hai cuộc độc thoại, vì mỗi người nói cho mình nghe mà thôi, chẳng khác gì hai đường thẳng song song, không bao giờ gặp nhau. Mối tương quan ấy là mối tương quan bên ngoài, không dẫn đến sự gặp gỡ bên trong.
Trong cuộc sống ta hay thắc mắc người này người kia không hiểu mình, tại sao bề trên không thông cảm cho mình? Tại sao và tại sao??? Có lẽ nhiều khi chúng ta cũng tê tái với những câu hỏi như thế. Trong thực tế của các cộng đoàn tu trì, đã có nhiều chuyện đổ vỡ, hiểu lầm, nghi kỵ và chán ghét nhau… Xét cho cùng chỉ vì không ngồi lại với nhau, không chia sẻ một cách nghiêm túc và chân thành những khắc khoải của nhau. Thiếu đối thoại chân thành nên dễ đánh giá nhau trong sự “im lặng đáng sợ”. Chiếc cầu bắc qua sông là để thông thương, thế nhưng dòng nước chảy quá mạnh khiến chiếc cầu bị gãy, phải chăng đó là hình ảnh của việc thiếu lắng nghe và thông cảm trong đối thoại. Tương quan như thế chưa đúng nghĩa là tương quan ngôi vị. Nếu ai cũng chỉ lo công việc của riêng mình thì công việc chung của nhà dòng như thế nào? Và sự tồn tại và phát triển của nhà dòng sẽ la sao?
Lướt qua một vài yếu tố khó khăn, ngăn trở như thế trong đời sống chung, để chúng ta cùng chung lời cầu nguyện và tìm hiểu xem có thể có cách thế nào để cải thiện và khắc phục hay không?
II. CẢI THIỆN VÀ KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN
Chúng ta biết, sự liên đới giữa các thành viên trong cộng đoàn là tương quan ngôi vị, tương quan giữa người với người. Muốn cộng đoàn mình phát triển toàn diện, điều tiên quyết là các thành viên cần có một tấm lòng cởi mở, sẵn sàng thông cảm với nhau.
1. Một tấm lòng cởi mở, sẵn sàng thông cảm với nhau
Sự hiện diện hỗ tương trong đời sống huynh đệ nói lên một thái độ căn bản là sẵn sàng thông cảm, cởi mở và biết lắng nghe. Nhưng nguy cơ lớn của tình huynh đệ là chúng ta có thể để mình trở thành con người già cỗi, hay không sống thật với chính mình. Để minh họa tình trạng này, G.Marcel viết: “Tôi không phải là tôi khi tôi ở với anh ta”.
Một khi đã biết thông cảm và lắng nghe, sẵn sàng cởi mở tấm lòng với nhau, điều tất yếu là chúng ta sẽ hết mực tin tưởng nhau.
2. Tin tưởng lãnh nhau
Tin tưởng nhau có chiều sâu và thiết thực khi chúng ta biết nhìn nhận cái hay cái tốt nơi người khác, đón nhận anh em như họ là. Nhờ thế mới có thể giúp chúng ta sống trọn vẹn trong tình huynh đệ. Đó là niềm tin của con người. Niềm tin đó cần thiết cho sự quân bình của đời sống tự nhiên cũng như tâm linh.
Niềm tin tưởng của chúng ta, cần được đức tin soi chiếu để nhận ra chiều kích thiêng liêng về sự hiện hữu của nhau. Người anh em đang sống bên cạnh chúng ta, không phải vì tình cờ, nhưng là do lòng khoan nhân từ bi của Thiên Chúa, đã muốn xe duyên tương phùng họ với chúng ta và cho phép chúng ta gặp gỡ nhau, sống với nhau. Chúng ta tin những cuộc gặp gỡ đó là do ý muốn của Thiên Chúa cho chúng ta và cho người anh em.
3. Tinh thần đối thoại
Song song với tinh thần cảm thông và thái độ tin tưởng lẫn nhau, người tu sĩ sống trong cộng đoàn cần có những cuộc đối thoại trao đổi quan điểm với nhau trong tinh thần cởi mở. Nói như thế, nhưng trong khi thi hành đối thoại là cả một nghệ thuật, có những lúc phức tạp và khó khăn, hay mang thái độ giáo điều. Vì thế một cuộc đối thoại chân chính gồm bốn đức tính căn bản: Ngôn từ, khiêm tốn, tín nhiệm và khôn ngoan.
Ngôn từ: Đối thoại nhằm mục đích thông đạt tư tưởng để hai bên tìm hiểu nhau, nên các hình thức ngôn ngữ cần phải chọn lựa, phổ thông và dễ hiểu.
Khiêm tốn: Đó là đối thoại không kiêu căng, không châm chọc, không truyền lệnh, không hách dịch, không bạo động, không ngụy biện sai lầm để mình nắm chắc phần thắng. Trái lại, đối thoại ôn hòa, quảng đại và kiên nhẫn, khiêm tốn nhìn nhận sự thật để làm sáng tỏ chân lý.
Tín nhiệm: Đó là sự chân thành cởi mở và biết lắng nghe với khối óc và con tim, để người đối thoại với mình có thể tin tưởng bộc lộ trao đổi ý nghĩ của họ.
Khôn ngoan: Là biết cách đối thoại cho hữu hiệu. Phải nhìn nhận và phê bình cách chính xác các vấn đề. Bên cạnh việc đối thoại, người tu sĩ cần thể hiện tính khôi hài để hòa đồng, để tạo niềm vui và làm giảm bớt những căng thẳng mệt nhọc hằng ngày.
4. Tính khôi hài
Khôi hài là một khả năng giúp chúng ta nhìn nhận anh em cách bao dung hơn, và phê phán nhẹ nhàng những cái nghịch thường lập dị của cuộc đời bằng lời nói, văn chương hay những kiểu trêu đùa tinh nghịch, những loại hình nghệ thuật khác. Khi khôi hài với nhau mà chúng ta cảm thấy bị xúc phạm hay bực mình thì không còn phải là khôi hài nữa.
Cuộc sống luôn cần có những nụ cười, bởi tục ngữ có câu: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”. Cho nên, khi chúng ta thể hiện khôi hài với nhau trong đời sống chung, là chúng ta biểu lộ sự quan tâm đến nhau và là một phương thế để tránh căng thẳng.
Trong thực tế, đã sống trong cộng đoàn không ai muốn có đụng độ, xung khắc, xáo trộn; ai cũng muốn yêu thương hoà đồng với người khác. Nhưng khốn nỗi cách thể hiện khôi hài còn quá hạn chế, không phải ai ai cũng làm được. Bởi vậy, chúng ta cần tự huấn luyện mình làm sao thể hiện được tính khôi hài mà vẫn trân trọng người khác. Người ta không thể vui được khi tâm hồn còn trĩu nặng với biết bao ưu tư, lo lắng, ngay cả việc bận tâm đến sự thánh thiện của riêng mình. Như vậy, niềm vui là dấu chứng, là hoa trái của những người sống biết cho và nhận.
5. Tinh thần Cầu nguyện
Người sống đời thánh hiến theo bước Đức Kitô, tự nguyện dâng hiến trọn vẹn cuộc đời cho Thiên Chúa. Họ chỉ đứng vững khi có một đời sống cầu nguyện vừa mang tính cá nhân vừa có tính cộng đoàn. Họ được mời gọi nhận biết Chúa Kitô Phục Sinh một cách riêng tư, là Đấng mình hiệp thông trong mối tương quan cá vị: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa là Đấng duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3). Sự nhận biết ấy có thể được đào sâu bằng nhiều cách, nhưng phương thế cơ bản và thiết yếu vẫn là sự gặp gỡ cá nhân và cộng đoàn với Thiên Chúa trong cầu nguyện.
Chúa Giêsu coi việc cầu nguyện như một việc riêng biệt, có vị trí trọng yếu trong đời sống của Người. Cũng vậy, chúng ta đã sẵn lòng bước theo Chúa Kitô thì cũng nên xem việc cầu nguyện là quan trọng trên hết mọi vấn đề, đồng thời được kết hợp mật thiết với Chúa Kitô và trở nên giống Người hơn. Người tu sĩ coi việc cầu nguyện như là một phương thế cần thiết để có cái nhìn thiêng liêng về những biến cố thường nhật của cuộc sống.
Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI nhắn nhủ các tu sĩ: “Cầu nguyện không phải chỉ là một công việc cá nhân qui hướng tình yêu của mình về Thiên Chúa, mà còn là một sự đáp trả cộng đoàn bằng cách tôn thờ, chuyển cầu, ca ngợi và cảm tạ. Cần bảo đảm cho sự đáp trả này được bền vững lâu dài, chúng ta không thể phó mặc cho may rủi ( CT43). Qủa thật, chỉ có nhờ cầu nguyện, người tu sĩ mới đáp trả được ơn thánh hiến của họ. Việc cầu nguyện trong cộng đoàn đóng một vai trò quan trọng để nâng đỡ đời sống thiêng liêng. Mỗi tu sĩ có quyền đòi hỏi được giúp đỡ để cầu nguyện qua sự hiện diện và gương sáng của các thành phần khác trong cộng đoàn. Mỗi người có đặc ân và có bổn phận cầu nguyện với những người khác và cùng với họ thông dự vào phụng vụ là trung tâm giúp cho đời sống của chúng ta được thống nhất”.
Mặt khác, nhờ cầu nguyện chúng ta có thể giải quyết được những cuộc xung đột, bất hòa xảy ra trong cộng đoàn. Một cộng đoàn Tình Yêu là một cộng đoàn trọng đức ái huynh đệ, cùng nhau quy chiếu về Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Nếu Đức Kitô là điểm tựa thì cầu nguyện là đòn bẩy để đưa con người đến cùng Thiên Chúa, và trở nên giống Người hơn; Từ đó, mọi người cũng dễ cảm thông và hiệp nhất với nhau. Đây là một nghệ thuật sống, đem lại sự bình an cho đời sống cộng đoàn, một nghệ thuật giúp các phần tử trong cộng đoàn vượt thắng những ưu phiền nặng nhọc để sống đời thánh hiến cách trọn vẹn.
MÔI TRƯỜNG TẠO SỰ BÌNH AN
Theophane (TP)
Bình an là hai từ mà khi nghe qua làm cho chúng ta có được một cảm giác rất nhẹ nhàng, thư thái và dễ chịu. Vì thế, ai cũng mong muốn được bình an và cầu chúc cho nhau điều tốt lành này. Tuy nhiên, để sống được hai chữ đó không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhất là trong thế giới hưởng thụ ngày nay. Tại sao? Có lẽ, vì chúng ta thiếu khao khát và thiếu động lực. Một khi không có động lực, sẽ không quyết tâm và chắt chiu những cơ hội mang lại bình an cho mình. Thêm vào đó, chúng ta thiếu một môi trường thích hợp để những mong ước và động lực trở thành hiện thực. Điều này thật đúng đối với cuộc sống thường nhật, nhưng cũng rất đúng cho đời sống tu trì, đặc biệt là đời sống Đan tu.
Như vậy, có khao khát, có động lực là cần thiết, nhưng chưa đủ, cần phải có một môi trường để thể hiện khao khát và động lực của mình. Trong đời thánh hiến, môi trường đó là gì? Thiết nghĩ không gì khác hơn là đời sống cộng đoàn.
I. CỘNG ĐOÀN, MÔI TRƯỜNG CỦA BÌNH AN
Cộng đoàn tu trì như là môi sinh và là môi trường mang đến sự bình an cho tu sĩ. Cộng đoàn vừa đồng thời là một tổ chức mang tính xã hội, vừa rất khác với một xã hội dân sự, vì tuy mang những tính chất của một xã hội, nhưng nó siêu nhiên vượt trên mọi thực tại trần thế. Siêu nhiên vì không phải do con người tạo nên mà phát xuất từ Ba Ngôi Thiên Chúa và chính Đức Kitô qui tụ: “Không phải các con chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con” (Ga 15,16). Vì thế, cộng đoàn là môi trường của bình an, nhưng đồng thời cũng là môi sinh, nơi các tu sĩ sống và được phát triển, được mời gọi bảo vệ và xây dựng.
Theo cha Quirico T. Pedregosa: “Cộng đoàn là môi trường ưu tiên cho việc tăng trưởng và triển nở trong tình yêu”[1] , vì cộng đoàn tu trì không phải là sản phẩm do con người tạo nên nhưng được Đức Kitô quy tụ. Quy tụ để làm gì nếu không phải để “một số lớn các môn đệ nên một, như Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần, theo dòng thời gian, họ có thể đáp lại tình yêu của Chúa Cha, bằng cách yêu mến Người ‘hết lòng, hết dạ, hết sức’ (x. Đnl 6,5) và yêu anh em ‘như chính mình’ (x. Mt 22,39)”[2] .
Tông Huấn “Vita Consecrata” còn nhắc lại nguồn gốc sâu xa hơn của đời sống thánh hiến. Đó chính là Chúa Ba Ngôi. Theo đó, đời sống thánh hiến là “hình thức theo chân Chúa Kitô, mà cội nguồn luôn luôn là do Chúa Cha khởi xướng, mang dấu vết chính yếu của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần; điều đó cho phép biểu dương một cách hết sức linh động tính cách Ba Ngôi của đời sống Kitô giáo, là cuộc tham dự trước phần nào vào sự viên mãn cánh chung mà toàn thể Giáo Hội hướng đến”[3] . Thế mà, “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,16), nên “những người được thánh hiến được yêu cầu phải thật sự trở nên những chuyên gia của sự đoàn kết nhất trí và thực thi linh đạo của sự hiệp thông”[4] . Chính vì thế, thánh Benado có lý khi gọi cộng đoàn là “trường học Đức Ái”.Cha Quirico, bề trên giám tỉnh dòng Đa minh tại Manila lại sử dụng kiểu nói “Mái ấm của bạn hữu Chúa Giêsu trong sứ vụ”[5] . Cộng đoàn là “trường học Đức Ái”, là “mái ấm” vì Chúa Kitô vừa là Đấng qui tụ những ai Ngài mời gọi và liên kết họ bằng tình yêu, vừa là trung tâm của cộng đoàn và cũng là khuôn mẫu của tình yêu: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Theo nghĩa này, cộng đoàn phải là môi trường của bình an.
Tuy nhiên, trong đời thường giữa lý tưởng và thực tế vẫn còn là một khoảng cách xa vời, nên đôi khi thay vì tạo bình an, cộng đoàn trở nên ngột ngạt, bất an đối với một số tu sĩ. Hiện tượng này không phải đơn lẽ, nhưng vẫn thường xảy ra trong các cộng đoàn. Điều đó khiến người ta nghi ngờ và đặt lại vấn đề.
Thật ra, tự bản chất cộng đoàn là môi trường bình an, nhưng trong ý định của Thiên Chúa, Ngài không tạo nên một cộng đoàn khép kín; trái lại, cộng đoàn được mời gọi để trở thành “một linh đạo của sự hiệp thông”, để từ sự hiệp thông này “làm phát sinh hiệp thông và hiển thị như là sự hiệp thông truyền giáo”[6] . Nói cách khác, các tu sĩ được mời gọi nuôi dưỡng và xây dựng sự bình an để hướng đến một sự hiệp thông rộng lớn hơn. Lời mời gọi này là một sứ vụ thuộc bản chất của đời sống tu. Sứ vụ đó không gì khác hơn là tình yêu. Thế mà ở đâu có tình yêu, ở đó có Thiên Chúa, nơi đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa thì có bình an. Sứ vụ tình yêu không chỉ là mời gọi mà còn là bổn phận, vì những ai thuộc về Đức Kitô thì không còn sống cho chính mình, nhưng là sống như Đức Kitô đòi hỏi. Do đó, để cộng đoàn thật sự là môi trường bình an, tu sĩ phải là những người gìn giữ sự bình an.
II. NHỮNG YẾU TỐ TẠO SỰ BÌNH AN
Để gìn giữ bình an cần phải có con người bình an và môi trường tạo bình an. Môi trường sẽ không có nếu không có những nhân tố làm nên nó. Trong đời sống thánh hiến, Chúa Giêsu là trung tâm của cộng đoàn (x. Ga 15,16) và tu sĩ là những người được mời gọi để làm nên một cộng đoàn được thánh hiến nhằm thực hiện sứ vụ tình yêu như Đức Kitô đã thực hiện. Thế nhưng, sau Công Đồng Vaticano II, đời sống tu trì rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng về ơn gọi. Cuộc khủng hoảng không phải vì số lượng ơn gọi giảm sút, nhưng có lẽ lòng khao khát theo Chúa Kitô đang có vấn đề. Các chuyên gia đã liệt kê và đưa ra những phân tích rất thuyết phục về khía cạnh chủ quan, cũng như khách quan. Tuy nhiên, theo Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI trong cuộc gặp gỡ với các bề trên tổng quyền nam tại Roma ngày 21.11. 2010, ngài nhấn mạnh đến ba trụ cột cần phải quan tâm trong việc canh tân đời sống tu trì là: Tin Mừng, đời sống huynh đệ và sứ vụ. Thiết tưởng đây cũng là ba yếu tố quan trọng để làm cho cộng đoàn trở thành môi trường tạo sự bình an.
Trước hết, cộng đoàn tu trì là cộng đoàn của Chúa Giêsu và cũng là cộng đoàn của các môn đệ, là những người nghe theo lời mời gọi Ngài và bước theo bằng việc tuân giữ ba lời khuyên Phúc Âm để trở “nên đồng hình đồng dạng với Ngài”. Xét trên bình diện xã hội, cộng đoàn tu trì cũng phải chịu sự chi phối bởi các quy luật giống như tất cả tổ chức xã hội dân sự khác. Tuy nhiên, có một điều rất khác biệt nằm ngay trong bản chất và nhiệm vụ của đời sống thánh hiến. Xét về bản chất, cộng đoàn tu trì mang tính cánh chung, “tiên báo sự phục sinh tương lai và vinh quang của Nước Trời”[7] . Cộng đoàn này có nhiệm vụ đặc biệt “là duy trì nơi người chịu phép rửa ý thức sinh động về những giá trị căn bản của Tin Mừng” [8]. Do đó, Tin Mừng phải là nguồn mạch đầu tiên của linh đạo đời sống thánh hiến (x. VC số 94). Vì là nguồn mạch nên Tin Mừng phải là nền tảng và kim chỉ nam cho mọi quyết định, cũng như mọi hành động của cộng đoàn. Bởi thế, chúng ta có thể mạnh mẽ khẳng định rằng: đời sống thánh hiến mà thiếu chất “Tin Mừng” thì không còn là đời sống thánh hiến; đời sống thánh hiến mà mọi quyết định không kín múc từ Tin Mừng thì chỉ còn là một tổ chức dân sự; đời sống thánh hiến không sống bằng chính sức mạnh của Tin Mừng thì không còn là một cộng đoàn yêu thương nữa. Đây là trụ cột thiết yếu làm nên bản chất của đời sống thánh hiến và cũng là nguồn nuôi dưỡng tạo sự bình an trong cộng đoàn.
Kế đến, đời sống huynh đệ được xem như trụ cột thứ hai nuôi dưỡng và mang lại sự bình an. Người ta sẽ không thể tưởng tượng nổi khi có một cộng đoàn sống đời thánh hiến mà không có tình huynh đệ, vì nó đi ngược với bản chất của cộng đoàn là “mái ấm bạn hữu của Chúa Giêsu” và là một gia đình thực sự. Vả lại, ơn gọi chính yếu của đời sống thánh hiến là truyền giáo. Thế mà, yêu thương nhau là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất, vì “cứ dấu này người ta nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Tình yêu thương mà Chúa Giêsu mời gọi chính là tình yêu của Ngài dành cho các môn đệ, tình yêu bạn hữu (x. Ga 15,11-17); tình yêu của người Samaritano nhân lành với tâm lòng chân thành và nghĩa cử thiết thực, cụ thể, chứ không phải bằng lời, trên môi miệng như vị thượng tế hay các thầy thông luật. Tình yêu này không phải là một vòng tròn khép kín; nó cũng không hàm ý loại trừ bất cứ một ai, nhưng đón nhận tất cả trong sự khác biệt và tiến tới sự hiệp thông. Hiệp thông để nên một với Thiên Chúa, với Giáo Hội và với nhau. Một khi nên một trong tình yêu, tu sĩ sẽ sống với chữ đồng: đồng tâm, đồng cảm và đồng khổ… để từ đó tiến đến chữ cùng hoà, trong sự hoà hợp và bình an.
Trụ cột thứ ba chính là sứ vụ. Mỗi tu hội sống đời sống thánh hiến đều mang trong mình một sứ vụ. Sứ vụ đó chính là truyền giáo. Tuy nhiên, mỗi sứ vụ có một nét đặc thù, riêng biệt tuỳ theo ơn gọi và căn tính của mỗi hội dòng. Đôi khi người ta lầm tưởng sứ vụ là do sáng kiến của vị sáng lập, nhưng thật ra tất cả mọi sứ vụ đều xuất phát từ mầu nhiệm Thiên Chúa. Do đó, chỉ có một sứ vụ, là sứ vụ của Thiên Chúa, là tình yêu của Ngài đối với con người trên khắp cả vũ trụ và qua mọi thời đại. Sứ vụ đó đang được Thiên Chúa thực hiện và đang hoàn thành trong tình yêu của Ngài[9] . Vì thế, khi đề cập đến việc canh tân, Công Đồng Vaticano II nhắc nhở các tu sĩ phải sáng tạo để thích nghi với thời đại, nhưng luôn trung thành với tri ý của Đấng sáng lập. Lời nhắc nhở của công đồng soi rọi cho chúng ta một chân lý: mọi sáng kiến đều đến từ tình thương của Thiên Chúa và Ngài luôn đi trước Giáo Hội. Về phần mình, chúng ta là những cánh tay nối dài của Ngài để cho thế giới nhận ra tình yêu của Thiên Chúa cách thiết thực và hiệu quả nhất. Bởi thế, khi trung thành và sáng tạo trong sứ vụ là chúng ta đang góp phần làm cho sứ vụ trở nên một trụ cột vững chắc làm nền cho việc xây dựng một cộng đoàn là môi trường của bình an.
III. TRỞ NÊN MỘT CỘNG ĐOÀN, MÔI TRƯỜNG CỦA BÌNH AN
Cộng đoàn tu trì có nguồn gốc từ Chúa Ba Ngôi, nên tự bản chất nó là môi trường của bình an. Dầu vậy, trong ý định Thiên Chúa, cộng đoàn tu trì phải là nơi lan toả sự bình an và các tu sĩ phải góp phần vào việc xây dựng bình an trong cộng đoàn. Để lan toả, tu sĩ phải là khí cụ và con người của bình an. Trong đời sống thánh hiến, đặc biệt là đời sống đan tu, việc kiến tạo bình an hệ tại vào lòng khao khát tìm kiếm Thiên Chúa. Lòng khao khát đó sẽ mãnh liệt và đạt tới tuyệt đỉnh một khi chúng ta gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu bằng tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa (x. 1Ga 4,19). Một tình yêu được nuôi dưỡng trong đời sống thường nhật qua việc cầu nguyện và lao động. Đó là những nguồn động lực xây dựng cộng đoàn thành môi trường bình an.
Huấn thị về quyền bính và vâng phục của thánh bộ các tu hội đời sống thánh hiến và các tu đoàn tông đồ đã tái khẳng định: “Đời sống thánh hiến như một chứng từ của việc tìm kiếm Thiên Chúa” và “việc tìm kiếm dẫn đến kinh nghiệm bình an” (số 1). Cùng một ý tưởng, Thánh Phụ Biển Đức đã định nghĩa đời sống đan tu là một cuộc tìm kiếm Thiên Chúa, như tâm tình của Vịnh gia: “Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài” (Tv 27,8). Ngài mong muốn những ai dấn thân vào đời sống này phải là người thực tâm đi tìm kiếm Thiên Chúa của lòng mình (x. TL 58). Cuộc tìm kiếm không theo sở thích riêng tư, nhưng “tất cả đều được gọi để tìm kiếm điều gì đẹp lòng Thiên Chúa và vâng phục Người”[10] . Theo nghĩa này, Viện phụ và cộng đoàn không làm gì khác ngoài việc tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa, trong đó Viện phụ là người được chọn “thi hành trách nhiệm đặc biệt trở thành dấu chỉ của sự hiệp nhất, và là người hướng dẫn trong việc tìm kiếm chung, vừa cá nhân vừa tập thể, việc thi hành ý Chúa”[11] .
Phần cộng đoàn, cần có khả năng lắng nghe và vâng phục trong tinh thần đối thoại để trên dưới đều một lòng, một ý tuân theo thánh ý Thiên Chúa.Như vậy, Viện phụ thực sự là nhân tố thiết yếu trong việc thực hiện “linh đạo hiệp thông” và Tu Luật đã diễn tả Viên phụ dưới hình ảnh của một vị chủ chăn tốt lành, khôn ngoan (x. TL 2), “nhiệt tâm sốt sắng nhưng không lo âu, khôn ngoan mà không sợ sệt” (TL 64). Ngài phải tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính Người luôn mãi (x. TL 2). Trong việc điều hành cộng đoàn, ngài phải có hai đức tính chủ chốt. Đó là đức cẩn trọng, mẹ các nhân đức và tấm lòng nhân hậu để anh em yêu mến hơn là sợ hãi (x. TL 2). Viện phụ được kỳ vọng cao không phải vì ngài, nhưng vì cộng đoàn. Cha thánh mong muốn Viện phụ phải điều khiển cộng đoàn như thế nào để mọi phần tử, dù họ yếu đuối hay mạnh mẽ, đều có thể an vui và hăng say tiến bước trên con đường thánh thiện và không một ai phải buồn khổ trong đời sống Đan tu (x. TL 31). Vì thế, ngoài hai chương đặc biệt (chương 2 và 64) dành cho Viện phụ thì hình ảnh Viện phụ còn được bàng bạc suốt toàn bộ Tu Luật. Có thể nói, thánh Biển Đức không chú tâm đến Viện phụ là ai, học thức uyên thâm thế nào, nhưng điều ngài ưu tư nơi “Viện phụ là một khoa học về Thiên Chúa và những điều thánh thiện rút ra bởi Kinh Thánh, một sự hiểu biết được soi sáng bởi những ánh quang của Ngôi Lời vĩnh cửu và sinh hoa kết trái nhờ Chúa Thánh Thần”[12] .
Hoa trái mà thánh Biển Đức mong muốn Viện phụ cần phải quan tâm đặc biệt đó là làm sao con cái mình phải trở nên những đan sĩ thực sự, nghĩa là người “không lấy gì làm hơn Chúa Kitô”; “không lấy gì làm hơn việc Chúa” và hoàn toàn kết hiệp với Chúa. Kết hợp mật thiết với Thiên Chúa trong tình yêu là trọng tâm của đời sống thánh hiến và nguồn lực để tất cả các tu sĩ sống trọn sứ vụ của mình là tìm kiếm Thiên Chúa và vâng phục ý Ngài. Nó là trọng tâm, vì cùng đích của đời sống thánh hiến là đạt tới Đức Ái hoàn hảo. Đức Ái hoàn hảo ở đây là gì nếu không phải là chính Thiên Chúa, Đấng là tình yêu. Vì thế, sự thánh thiện của người tu sĩ là ưu tiên số một của đời sống thánh hiến. Mặt khác, tu sĩ làm nên cộng đoàn; tu sĩ thánh thiện tạo nên những cộng đoàn thánh, cộng đoàn bình an. Chính vì thế, xuyên suốt Tu Luật thánh Biển Đức, minh nhiên hay mặc nhiên, thánh nhân đều đề cập đến những phương thế để nên thánh. Nên thánh là đích đến, nhưng cũng là môi sinh để trợ lực và làm tăng trưởng lòng khao khát tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa. Nó là chìa khoá để có được một cộng đoàn bình an.
Cuối cùng để kiến tạo cộng đoàn thành môi trường của bình an, tu sĩ phải tạo được một môi sinh bình an. Trong đời sống đan tu, ngoài đời sống huynh đệ hiệp thông trong cộng đoàn mà Viện phụ là một nhân tố đặc biệt, thánh Biển Đức nhấn mạnh đến trật tự trong đời sống cộng đoàn. Với những sinh hoạt trong cộng đoàn, ngài đã thiết lập rất chi tiết không phải để gây cản trở, nhưng để giúp các đan sĩ có một đời sống bình an và đạt tới “đỉnh cao đạo lý và nhân đức” (Tl 72). Ngoài ra, điều chính yếu đối với các đan sĩ là việc cử hành và sống tinh thần phụng vụ. Phụng vụ giúp cho đan sĩ thoát ra khỏi mình để giúp gặp gỡ được Thiên Chúa và qua Thiên Chúa để gặp gỡ được anh em. Vì thế, Ngài đã dành một vị trí đặc biệt cho phụng vụ trong sinh hoạt cộng đoàn. Có thể nói: đối với thánh Biển Đức phụng vụ là trung tâm của đời sống cộng đoàn, vì chính ở nơi đây cộng đoàn tìm được tiếng nói chung và sự hiệp nhất, cũng như đời sống huynh đệ được tăng triển mạnh mẽ. Đây cũng là điều mà các cộng đoàn trong thế giới hôm nay phải chú ý để tạo nên một môi sinh lành mạnh trong cộng đoàn sống đời sống thánh hiến.
KẾT
Một vị thánh đã nói: khổ giá lớn nhất chính là đời sống cộng đoàn, nhưng một đời sống hùng mạnh nhất, chắc chắn nhất cũng là đời sống cộng tu (x. TL 4). Hai bộ mặt này của cộng đoàn luôn song hành trong đời sống các tu sĩ. Việc lựa chọn khuôn mặt nào tùy thuộc phần lớn vào cách sống của các tu sĩ trong cộng đoàn. Nếu tu sĩ đón nhận Chúa Giêsu như là chủ của cộng đoàn thì họ sẽ có một cuộc sống an vui, đầy ắp tình yêu và bình an. Nếu tu sĩ nhìn cộng đoàn theo nhãn giới trần thế, chắc chắn sẽ có nhiều xáo trộn và sẽ cảm thấy ngột ngạt khi sống trong cộng đoàn của mình.
Là Đan sĩ, chúng ta được mời gọi để sống chung trong một đan viện và làm nên một cộng đoàn yêu thương, chỉ phụng thờ một mình Thiên Chúa. Chúng ta làm nên đan viện, nhưng chúng ta cũng cần đan viện, vì nơi đó chúng ta gặp gỡ được Thiên Chúa trong thinh lặng, qua đời sống cầu nguyện và phụng vụ; nơi đó, chúng ta cũng gặp được những người anh em vì tất cả đều được Chúa Giêsu mời gọi để làm nên “mái ấm bạn hữu” của Ngài. Đây là một ân huệ và cũng là lời mời gọi chúng ta phải kiến tạo cộng đoàn thành môi trường của bình an.
[1] Quirico T. Pedregosa, Tình yêu là sứ vụ, Anna Nguyễn thị ngọc Diệp chuyển dịch, Nxb Tôn giáo, 2012, tr 49
[2] Huấn thị Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn số 1
[3] Tông huấn Đời sống thánh hiến số 14
[4] Sdd số 46
[6] Tông huấn Đời sống thánh hiến số 46
[7] Vat II, hiến chế Ánh sáng muôn dân số 44
[8] Tông huấn Đời sống thánh hiếnsố 33
[10] Huấn thị Quyền bính và vâng phục số 1
[12] Dom Columba Marmion, Đức Ki-tô, lý tưởng của Đan sĩ, tập 1, tr 86
BÌNH AN VÀ BẤT ỔN
“Chồng chất nhân gian vạn nỗi sầu.
Muôn ngàn thống khổ ngất trời cao.
Buồn chán, bất an rồi bực bội,
Khát thèm, tiếc hận lại lo âu…
Bệnh tật, tai ương… nhiều khốn đốn.
Cơ hàn, binh lửa… lắm lao đao
Lầm lỗi, gian truân theo trọn kiếp.
Trần gian khổ lụy tại do đâu?”[1]
Bài thơ tuy ngắn nhưng tóm gọn tất cả những nỗi bất an nơi kiếp sống nhân gian. Quả vậy, trong một thế giới tiến bộ như ngày nay, tuy đầy đủ tiện nghi vật chất nhưng là một thế giới mang nặng nỗi lo âu. Điều lo ngại này được Đức Giáo Hoàng Phanxico nêu lên trong Tông huấn Evangelii Gaudium, số 2: “Mối nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ. Khi mà đời sống nội tâm của chúng ta bị trói chặt trong những lợi ích và những mối quan tâm riêng của nó, thì không còn chỗ cho người khác, không còn chỗ cho người nghèo. Tiếng nói của Thiên Chúa không còn được nghe thấy, niềm vui an bình của tình yêu của Người không còn được cảm thấy, và ước muốn làm điều thiện bị phai mờ. Đây chính là một mối nguy cho cả người tín hữu. Nhiều người rơi vào mối nguy này, và kết cục là cảm giác bực bội, tức giận và chán nản” . Thật vậy, nỗi sợ hãi và các nguy cơ gây đau khổ như bệnh tật, nghèo đói…luôn đeo bám khiến con người không khỏi khắc khoải lo âu. Vì thế, bình an là điều ai cũng muốn và tìm kiếm. Người ta thường mong muốn điều đó đến không chỉ cho bản thân mà cả cho người khác. Vì thế, trong dịp tết hay trong những câu chúc thường nhật, người ta thường chúc nhau được an bình, hạnh phúc… Ta thường thấy những câu khẩu hiệu trên các trạm xăng dầu vẫn ghi: “Chúc quý khách thượng lộ bình an”; Người Phật Giáo hay người Thái Lan khi chào ai thường chắp tay biểu tượng của hoa sen nói lên lời cầu chúc bình an, còn người Do Thái thường chào bằng tiếng “shalom” – bình an cho nhau; trong thánh lễ của người Công Giáo có nghi thức chào chúc bình an. Chính Chúa Giêsu sau khi từ cõi chết sống lại, hiện ra với các môn đệ Ngài đã nói: “bình an cho anh em” (Ga 20,21); Noi gương Thầy Giêsu, thánh Phaolo thường mở đầu hay kết thúc những lá thư của mình bằng việc chào chúc bình an cho những người nhận thư: “Kính gửi tất cả anh em ở Rôma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được gọi là thánh. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an” (Rm 1,7). Vậy, bình an thật sự là nỗi khát mong nơi sâu thẳm lòng người khiến con người không ngừng khắc khoải tìm kiếm[2].
Trong cuộc sống trần gian, bao giờ bình an và bất ổn, thất bại và thành công, niềm vui và đau khổ luôn song hành cùng nhau như hai mặt của một bàn tay; như Mầu Nhiệm nơi cuộc đời Chúa Giêsu: Tử nạn và Phục Sinh. Vì thế không thể chỉ đòi hỏi bình an mà không nhận chịu những rủi ro, không thể nhận thành công nếu chưa trải qua thất bại; hay sẽ chẳng có niềm vui nếu không ít lần gặp phải những khổ đau. Chính qua những thất bại, khổ đau và bất ổn, con người mới hiểu hết giá trị của thành công, niềm vui và bình an. Tuy nhiên, những điều tích cực do cuộc sống mang lại chỉ có giá trị tạm thời, chóng qua, không ai giữ mãi được niềm vui, sự thành công cho cả cuộc đời. Vì cuộc sống đổi thay như thời tiết lúc nắng, lúc mưa, khi mát mẻ lúc lại chói chang nóng bức, khi trời quang mây tạnh nhưng cũng lắm lúc u ám mây đen và giông tố. Đó thật là cuộc sống trần gian. Chúng ta không dừng lại ở sự bình an của trần gian nhưng phải tìm xem: bình an phải hiểu như thế nào? Tại sao phải tìm kiếm sự bình an? Ở đâu có sự bình an? Khi nào sự bình an xuất hiện? Ai sẽ cho ta sự bình an đích thực? Làm sao để chiếm hữu sự bình an? Bất ổn là gì? Phải hiểu bất ổn ra sao? Các bất ổn đóng vai trò gì trong việc tìm kiếm bình an? Giữa bình an và bất ổn có mối tương quan gì?
a. Bình an là gì?
Bình an được nhìn dưới hai quan điểm: của con người và của Đức Giêsu. Nói cách khác, bình an được hiểu trên hai bình diện: ngoại tại và nội tâm. Đối với cái nhìn của con người, bình an là trạng thái: hòa bình, thoải mái, ổn định, không gặp trắc trở nơi cuộc sống của con người, mà biểu hiện của nó là lời nhắn nhủ khi chia xa giữa kẻ ơ – người đi hay là câu chúc cửa miệng của hầu hết mọi người trong dịp đầu năm mới. Tuy nhiên, sự bình an do con người cầu chúc cho nhau không có gì chắc chắn. Họ chỉ nói trong sự chờ đợi, cầu mong. Riêng đặc tính bình an mà Chúa Giêsu nói tới như của chính Ngài trao ban cho các môn đệ khi sắp rời xa họ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em” (Ga 14,27). Chính Ngài quả quyết bình an này không giống với bình an của thế gian: “Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27b); “Bình an của Chúa ban có tính nội tâm, vẫn tồn tại giữa những đau khổ và gian truân thử thách. Bằng cớ là trước khi ra đi chịu chết, Đức Giêsu ban bình an cho các môn đệ; sau khi Phục Sinh, Ngài lại ban bình an và cho các ông xem các vết thương của Ngài (Ga 20,19-20). Như vậy bình an là tên gọi khác của ơn giải thoát, ơn cứu độ, ta đón nhận bình an Chúa ban nhờ lòng tin cậy mến.”[3]
b. Tại sao phải tìm kiếm sự bình an?
Bình an đích thực là mục đích cao vời để con người không ngừng tìm kiếm và khao khát. Từ sâu thẳm lòng người, Thiên Chúa đã đặt để một nỗi khát mong sâu xa mà những thú vui trần gian không thể nào khỏa lấp. Thánh Augustino đã cảm nhận rất rõ về điều này sau cuộc đời dấn mình đi tìm hạnh phúc trong lạc thú mà vẫn khắc khoải không yên. Ngài đã nói: “Lạy Chúa, hồn con mãi khắc khoải không yên cho đến khi được nghỉ ngơi trong Chúa”. Quả thế, bình an thật chỉ có nơi Thiên Chúa và sự bình an đó còn mang ý nghĩa của ơn giải thoát, ơn cứu độ. Vì vậy, nếu không tìm kiếm sự bình an thì cuộc sống của con người trên trần gian này chỉ như con thuyền không bến đỗ, lang thang phiêu bạt, bị sóng đánh tan tành; nếu không tìm kiếm Bình An, đời người đâu còn lý do để hiện hữu… Nhưng phải tìm kiếm bình an ở đâu? Các tác giả Kinh Thánh đã nhiều lần khẳng định bình an thật chỉ do Thiên Chúa ban: “Thiên Chúa là Cha và Ðức Giêsu Kitô là Con Chúa Cha sẽ cho chúng ta được hưởng ân sủng, lòng thương xót và bình an, trong sự thật và tình thương” (2Ga 1,3). Trong đêm Giáng Sinh, các Thiên Thần hát vang lời ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương” (Lc 2,14). Chỉ có Chúa Giêsu – Hoàng Tử Hòa Bình mới có thể ban sự bình an cho nhân thế. Chính Ngài đã tự khẳng định: “Trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ gian nan khốn khó” (Ga 16,33). Vì vậy, “một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người, qua đức tin, chúng ta được vào hưởng ơn ấy, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng, ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,1-4).
Đồng thời muốn chiếm hữu sự bình an, con người được mời gọi phải biết dừng lại, quan sát, tìm hiểu cho biết đâu là đường ngay nẻo chính rồi mới bước đi (x. Gr 6,16). Ngoài ra, kính sợ Thiên Chúa là điều kiện tiên quyết cho sự an bình, khi sống trong niềm kính sợ Thiên Chúa, con người sẽ kiên trì làm điều thiện, sống theo sự hướng dẫn của Thần Khí và Thiên Chúa sẽ ban vinh quang, danh dự, sự sống và bình an. Ngược lại, đối với những kẻ theo tính xác thịt mà làm điều ác sẽ gặp phải tai ương hoạn nạn và cái chết (x. Rm 2,9-10; Rm 8,5-11; Pl 4,4-9). Do đó, những người mang danh Kitô hữu cần sống theo lời thánh Phaolo: “Hãy đứng vững: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa. Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Ðể được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể các thánh” (Ep 6,14-18). Sống được như thế, “mãi mãi Người sẽ gọi ngươi là ‘Bình an xây dựng trên công chính’, và “Vinh quang phát xuất từ lòng kính sợ Thiên Chúa” (Br 5,4).
c. Bất ổn là gì?
Theo quan điểm của nhiều người và trong nhiều thời đại, sự bất ổn dường như là điều trái ngược với sự bình an. Nếu người ta cho rằng bình an là hòa bình, ổn định, thoải mái, không gặp trắc trở… thì bất ổn bao gồm tất cả những gì đem lại cho con người sự lo lắng, hoang mang, sợ hãi, thất vọng… Sự bất ổn có thể đến từ những tác động bên ngoài nhưng quan trọng hơn cả là từ bên trong mỗi người. Thật vậy, tâm bất an thì dù chuyện bên ngoài có nhỏ đến đâu cũng có thể gây nên bão lớn. Ngược lại, tâm an bình thì tác động bên ngoài có lớn đến mấy cũng không đáng ngại gì “tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”. Như vậy, nguyên nhân quyết định sự bất ổn nơi mỗi người chính từ bên trong. Con người phải đối diện với những bất ổn là vì con người lìa xa đường lối của Thiên Chúa – Đấng là nguồn mạch sự bình an. Tác giả sách Baruc đã đặt ra những vấn nạn mà Israel phải nhận chịu: “Vì đâu, Ít-ra-en hỡi, vì đâu ngươi phải nương thân trên đất thù địch, phải mòn hao nơi xứ lạ quê người? Bị nhiễm uế giữa đám thây ma, phải nằm chung với những người ở trong âm phủ?” (Br 3,10-11). Và câu trả lời là: Âu cũng vì Israel đã bỏ Nguồn Mạch Khôn Ngoan, không bước đi theo đường Ðức Chúa (x. Br 3,12-13). Sau đó, ông đã đưa ra lời khuyên để dân thánh tìm lại được sự an vui: “Hãy học cho biết đâu là khôn ngoan, đâu là sức mạnh, đâu là thông hiểu, đâu là trường thọ và sự sống, đâu là ánh sáng soi con mắt, và đâu là bình an?” (Br 3,14-15). Hay như trong thư Roma, thánh Phaolo cũng đưa ra những nguyên nhân khiến con người rời xa con đường đưa tới bình an. Đó là “chẳng tìm kiếm Thiên Chúa”; “lìa xa chính lộ”; “theo nhau làm chuyện suy đồi”; môi miệng phỉnh phờ, điêu ngoa, buông lời nguyền rủa; đổ máu người ta… (x. Rm 4,9-17). Con người gặp điều bất an còn vì chính lỗi lầm của họ đã phân cách họ với Thiên Chúa khiến Người ẩn mặt để khỏi nhìn khỏi nghe; chính bàn tay vấy máu, môi miệng nói lời giả dối, lưỡi thốt ra lời bất công, tin tưởng điều hư không và nói lời gian xảo, cưu mang chuyện xấu xa, đẻ ra điều gian ác… nên dù mong ánh sáng, chỉ thấy toàn bóng tối, mong sáng lạn huy hoàng, lại bước đi trong tối tăm mù mịt.
Sự bất ổn không chỉ là yếu tố đi ngược với sự bình an nhưng nó còn là thước đo để nhận biết đâu là người có bình an thật. Cũng như yếu tố bình an sẽ giúp con người đối diện với những cam go thử thách trong cuộc sống cách hiệu quả nhất. Như thế, mối liên hệ giữa bình an và bất ổn thường bổ sung cho nhau rất chặt chẽ. Có thể nói hai yếu tố này giúp ta tiến bước trên đường dương thế đầy chông gai thử thách cách thanh thản và nhẹ nhàng.
d. Mối tương quan giữa bình an và bất ổn
Con người thường quan niệm bình an và bất ổn như sáng với tối, nước với lửa; nghĩa là có cái này thì không có cái kia. Theo lẽ thường, không ai bình an mà cảm thấy bất ổn cũng chẳng ai vừa thấy bất ổn lại thấy bình an. Tuy nhiên, trong đời sống thiêng liêng hay trong đời sống tình cảm của con người, bình an và bất ổn vẫn có thể song hành bên nhau. Điều này thật rõ ràng khi nhìn vào Chúa Giêsu, Người vẫn bình an thiếp ngủ trong bão tố (Mt 8,23); hiên ngang đứng thẳng trước đám quân xông vào vườn Dầu để bắt mình (x. Mt 14,43tt); Ngài luôn giữ nét bình an trước lời nhục mạ, tra tấn của những kẻ tố cáo gian kết án Người (x. Mt 14,53-65); Sự bình an của Ngài lên cao tột đỉnh là khi phải đối diện với cái chết, mà biểu tỏ của sự bình an nơi Ngài là lời tha thứ dành cho những kẻ giết mình (x. Mt 23,33-34). Sự bình an đó, ta còn bắt gặp nơi những tông đồ theo Chúa. Các ông bị tra tấn vẫn vui tươi dâng lời tạ ơn (x. Cv 5,40-41); bị giam trong ngục lại ca vang khúc ca cảm tạ, ngợi khen (x. Cv 16,25-40). Hay các thánh tử đạo, các vị hiển tu… dù chịu muôn điều đau khổ, trái ý vẫn tràn trề niềm vui… Họ điên chăng? Vâng, họ điên dưới con mắt của người đời. Họ khùng theo triết lý nhân sinh. Nhưng với niềm tin vào Đấng vĩnh cửu, họ tìm được sự bình an tuyệt đối; họ sẵn sàng đánh đổi niềm vui tạm thời và chóng qua trong hiện tại để đón nhận muôn hình khổ và gia nghiệp không bao giờ hư mất. Với sự chọn lựa đó, họ tỏ ra hoàn toàn khôn ngoan, minh mẫn… Ví như mầu nhiệm thập giá bị “người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi đó lại là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1,23-25). Tuy nhiên, với bản tính con người, ngay lúc gặp trái ý và bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được nhiều hoa trái là bình an và công chính (x. Dt 12,11).
Có câu chuyện kể rằng: trong một vương quốc nọ, hoàng đế tổ chức cuộc thi vẽ tranh với chủ đề ‘bình an’, các họa sĩ khắp nơi đã gởi về những tác phẩm tâm đắc nhất của mình. Mỗi bức ảnh đều diễn tả những cảnh bình an mà các thí sinh có thể nghĩ ra. Sau khi xem qua tất cả các bức tranh, hoàng đế dừng lại khá lâu bên hai bức. Bức tranh thứ nhất vẽ cảnh mặt trời chiếu thẳng xuống mặt nước phẳng lặng trải dài bên những rặng cây xanh tươi tốt đứng yên chẳng chút lay động, trông thật an bình. Bức tranh thứ hai vẽ một cảnh bão tố, cây cối xơ xát, nằm la liệt trên đất, cảnh vật hoang tàn, bầu trời đen tối, sóng biển cuồn cuộn dâng lên đập mạnh vào tảng đá ven biển, nước bắn tung toé ầm ầm. Nhưng bên dưới dòng thác cuồn cuộn, trong một hốc đá nhỏ, tối, có một con chim mẹ đang ấp những chú chim con trong tổ không chút sợ hãi. Trầm ngâm hồi lâu, hoàng thượng chỉ bức vẽ thứ hai rồi tuyên bố: đây mới chính là ý nghĩa của sự bình an.
Thứ bình an giữa giông bão mới là bình an thật. Chính qua những cam go thử thách trong cuộc đời ta mới đo được mức bình an nội tâm của mình đạt đến trình độ nào: thâm sâu, kín ẩn hay chỉ hời hợt bên ngoài. Nhưng điều đó không thể khẳng định con người có thể tạo ra sự bình an cho chính mình. Theo mạc khải của Thánh Kinh, con người đã đánh mất sự bình an, hạnh phúc khi khước từ tình yêu Thiên Chúa, tội nguyên tổ đã cắt đứt mối dây ân nghĩa giữa Thiên Chúa và con người; giữa con người với vạn vật và giữa con người với nhau. Điều này khiến con người luôn cảm thấy lo lắng sợ hãi, mất niềm tin nơi chính mình, e sợ ngoại vật. Nên dù họ mong ánh sáng nhưng chỉ toàn thấy tối tăm; mong xán lạn huy hoàng, lại bước đi trong mù mịt tối tăm; có cố gắng đến đâu cũng chỉ như người mù mò mẫm, lảo đảo cả trưa lẫn chiều, đang sung sức mà như người đã chết (x. Is 59,10-20). Chính tội lỗi đã mang đến cho con người sự bất ổn trong tâm hồn và trong cuộc sống. Nếu Chúa Giêsu không đến mặc lấy những khốn khổ của kiếp người và làm cho những đau khổ có một ý nghĩa thì con người dù cố gắng đến đâu cũng không được yên nghỉ. Tuy nhiên, sự bình an Chúa Giêsu ban không theo cách nghĩ của người đời nên có lần Người đã nói: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng.” (Mt 10,34-35). Điều này nói lên cái giá phải trả khi con người chọn theo bình an đích thực. Muốn nhận được thứ bình an này đòi hỏi con người phải chọn lựa: giữa Thần Khí và xác thịt; giữa Thiên Chúa và Thế gian. Vì một khi sống theo Thần Khí, ta không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt mà tính xác thịt thường là: dâm bôn, ố uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén… trong khi hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế. Những ai thuộc về Ðức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê (x. 2Cr 5,16-26). Đây là nguyên tắc được rút ra từ Tin Mừng, nó nhắc nhớ chúng ta rằng Đức Kitô đã qui tụ mọi sự nơi bản thân Ngài: trời và đất, Thiên Chúa và con người, thời gian và vĩnh cửu, thể xác và tinh thần, con người và vạn vật. Dấu hiệu của sự hiệp nhất và hoà giải muôn loài này trong Ngài chính là hoà bình. Đức Kitô chính là “sự bình an của chúng ta” (Ep 2,14).
Sứ điệp Tin Mừng thường bắt đầu bằng một câu chúc bình an, và bình an ở mọi thời đều làm rạng danh và xác nhận các mối quan hệ giữa các môn đệ Đức Kitô. Hoà bình là điều có thể, vì Chúa đã thắng thế gian và sự xung đột thường xuyên của nó “bằng cách hòa giải nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá” (Cl 1,20). Nhưng nếu chúng ta nhìn kỹ hơn những đoạn Kinh Thánh này, chúng ta sẽ thấy rằng quĩ đạo của sự hoà giải các khác biệt này nằm trong chính chúng ta, trong cuộc đời chúng ta, vốn luôn bị đe doạ bởi sự chia rẽ và đổ vỡ. “Nếu các trái tim bị phân tán thành hàng ngàn mảnh, thì không dễ tạo được hoà bình đích thực trong xã hội”[4].
KẾT:
Trong Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 7, Đức Giáo Hoàng Phanxico khẳng định: “xã hội kỹ thuật đã tạo ra vô số điều kiện để hưởng thụ, nhưng lại rất khó tạo ra niềm vui”. Trong khi đó, Ngài lại thấy những biểu hiện đẹp nhất và tự nhiên nhất của niềm vui nơi những người nghèo không có gì để bám víu. Ngài cũng nghĩ đến niềm vui đích thực được biểu lộ nơi những người cho dù bị những bó buộc đầy áp lực của nghề nghiệp, họ vẫn giữ được niềm tin trong sự thanh thoát và đơn sơ. Mỗi người tùy theo cách riêng, tất cả các niềm vui này đều bắt nguồn từ tình thương vô biên của Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô [5].
Điều này một lần nữa khẳng định, chính Thiên Chúa là nguồn mọi sự bình an đích thực, một khi con người sở hữu được bình an của Đức Giêsu, họ trở nên con người tự do hoàn toàn, không bị lệ thuộc vào người này vật nọ, nhưng có khả năng mở ra đón nhận mọi điều xảy đến như một quà tặng nhằm mưu ích cho phần rỗi đời đời. “Những Quà Tặng” này đôi khi mắt người trần không nhận biết hết ý nghĩa vì nó đi ngược với những chủ nghĩa mà con người tự đặt ra để lấy làm thước đo cho sự thành công ở đời. Tuy vậy, bình an chân thật sẽ chỉ dành riêng cho những ai biết đặt niềm tin vào Chúa, phó thác hoàn toàn cuộc đời trong thánh ý nhiệm mầu của Đấng Quan Phòng. Sống được như thế, trần gian không còn là bể khổ trước con mắt của ta nhưng mở ra một chân trời mới và quyết định dẫn ta đến trọng tâm của Tin Mừng như Đức Nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô từng nói: “Ở nguồn gốc của việc làm một Kitô hữu không phải là một lựa chọn luân lý hay một ý tưởng cao siêu, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một biến cố, một con người, là điều mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định”. Một khi người theo Chúa phản ảnh sự bình an nội tại ra bên ngoài, trong cuộc sống cụ thể, họ trở nên chứng nhân cho một “Giáo Hội không phát triển bởi việc cải đạo nhưng ‘bởi sự hấp dẫn”[6] .
[1] Vân Như – Bùi Văn Nhự, Đạo Học Con Đường An Vui Trọn Vẹn, tr 1
[2] Tông huấn Evangelii Gaudium, số 2
[3] Trần Thanh Long, Góp Nhặt Cát Đá, tr 60
[4] Tông huấn Evangelii Gaudium, số 229
[5] X. Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 7
[6] Tông huấn Evangelii Gaudium, số 14