KỲ DIỆU THAY ĐẤNG LÀ MẸ THIÊN CHÚA
(Ds 6,22-27; Gl 4,4-7; Lc 2,16-21)
Trường Kha, Phước Lý
Tình mẫu tử cũng chính là tình cảm mãi nguyên vẹn và tròn đầy, lớn lao, cao đẹp nhất không gì có thể thay thế được. Chính vì thế mà Giáo Hội cử hành lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa sau lễ Chúa Giêsu Giáng sinh tám ngày, để mời gọi con cái mình tỏ lòng kính trọng và biết ơn Đức Maria, đồng thời tuyên xưng Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta.
Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa
Tước hiệu Đức Maria Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo Hội. Chính Đức Giáo Hoàng Piô XI xác định vào ngày 11.10.1931, nhân dịp kỷ niệm 1500 năm Công đồng Êphêsô. Trong niên lịch Phụng vụ mới, lễ này được cử hành vào ngày thứ tám sau Giáng Sinh. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI viết: “Ngày lễ trọng ấy nay được đặt vào mồng một tháng giêng theo như tập tục xa xưa của Phụng Vụ Rôma. Lễ này được dành riêng ca tụng việc Đức Maria góp phần vào mầu nhiệm cứu độ và tán dương tước hiệu quí đặc biệt do phần đóng góp ấy đem lại cho Người Mẹ rất thánh, Đấng có công giúp chúng ta đón tiếp Tác Giả của sự sống” (Marialis Cultus 5). Bên cạnh đó, tước hiệu này được xác định tại Công đồng Êphêsô năm 431: “Các Nghị Phụ không ngần ngại gọi Đức Trinh Nữ Maria là ‘Mẹ Đức Chúa Trời’. Không phải vì Mẹ đã sinh hạ thiên tính của Ngôi Lời Thiên Chúa. Mà vì nhờ Mẹ mà Ngôi Lời Thiên Chúa mang một thần thánh với một linh hồn có trí năng mà Ngôi Lời Thiên Chúa đã kết hợp với một Ngôi duy nhất khi sinh hạ trong thể xác. Nếu ai không tuyên xưng rằng Thiên Chúa chính là Emmanuel và vì thế, Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa, kẻ ấy bị vạ tuyệt thông. Vì Đức Mẹ đã sinh hạ ‘Ngôi Lời hóa thành nhục thể’ khi ban đời sống thể xác.” (Công Đồng Êphêsô, năm 431). Như vậy, đây là một tước hiệu xứng hợp hơn mọi tước hiệu khi nói về Đức Trinh Nữ Maria.
1. Thiên chức làm mẹ
Thiên chức làm mẹ, là một thiên chức cao cả và vô cùng thiêng liêng mà Tạo Hóa đã ban cho người phụ nữ. Bởi thế mà, Đức Maria được Thiên Chúa ban tặng thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và mẹ nhân loại, với bài đọc I (Ds 6,22-27) cho ta thấy thiên chức làm mẹ của Đức Maria, biểu tượng người được Thiên Chúa chúc lành, phúc lành tràn đầy được ban cho thế giới thông qua Người Con thần linh của Mẹ, Đấng Cứu Độ thế gian, – Vị Tư Tế của Giao Ước Mới.
Trước hết, với thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, trong bài đọc II (Gl 4,4-7) chính Thánh Phaolô cho biết: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Điều này đã được tiên tri Isaia tiên báo: “Một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Emmanuel” (Is 7,14). Người đàn bà Thánh Phaolô nhắc tới và người phụ nữ tiên tri Isaia tiên báo, đó chính là Đức Maria. Thiên Thần đã nói với Mẹ khi truyền tin rằng: “Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu… Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,31-35). Và sau biến cố truyền tin, Mẹ đã lên đường đi thăm Bà Êlizabeth, khi hai người phụ nữ gặp gỡ nhau, bà Êlizabeth đã cất tiếng tung hô Mẹ rằng: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1,43). Đăc biệt trong biến cố Giáng Sinh, các mục đồng được các Thiên thần báo tin “một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2,11). Các mục đồng theo sự chỉ dẫn của Sứ Thần vội vả đến Bêlem, “họ gặp Bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16). Qua đây cho ta thấy Đức Maria chính là Mẹ Chúa Giêsu và Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa, vì đây là một tín điều đã được Công đồng Êphêsô định tín năm 431. Vì thế, Thiên Chúa đã tuyển chọn Đức Maria và trang bị cho Mẹ ân sủng kỳ diệu là để Mẹ trở nên xứng đáng đảm nhận hồng ân cao quý là trở thành người cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế làm người. Đặc ân kỳ diệu này đã được thánh Bonaventura ca tụng: “Chức làm Mẹ Thiên Chúa là to lớn phi thường nhất Thiên Chúa có thể ban cho một loài thụ tạo”.
Kế đến Đức Maria là mẹ của nhân loại, như Thánh Phaolô đã khẳng định: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Như vậy, khi sinh hạ Chúa Giêsu, Đức Maria cũng hạ sinh một nhân loại mới. Vì Người là Mẹ của Chúa Giêsu là Đầu nhiệm thể, nên cũng là Mẹ của các phần chi thể là các tín hữu chúng ta. Hơn nữa, khi đứng dưới chân thập giá, Chúa Giêsu đã lối Đức Mẹ cho Thánh Gioan (x. Ga 19,27). Vì yêu thương loài người cho nên Mẹ đã chấp nhận làm Mẹ thánh Gioan và cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta. Bởi thế mà, Mẹ luôn đồng hành với loài người, nhất là sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, mẹ luôn có mặt với các Tông đồ trong những biến cố quan trọng trong buổi đầu Giáo Hội sơ khai. Rồi sau khi về trời Mẹ đã hiện ra rất nhiều lần, nhiều nơi là để chỉ đường dẫn lối cho loài người đi đúng đường lối của Chúa. Như vậy, khi còn ở trần gian cũng như khi đã về trời, Mẹ luôn thể hiện tình yêu thương của một người mẹ đối với con cái là loài người chúng ta.
Như vậy, tước hiệu ‘Mẹ Thiên Chúa’ là một hồng ân đặc biệt Thiên Chúa ban cho Đức Maria. Khi sinh hạ Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Đức Maria không chỉ sinh hạ Ngôi Lời Nhập Thể, mà còn mở ra một khởi đầu mới cho nhân loại trong ơn cứu độ. Qua Đức Giêsu, Mẹ đã trở thành Mẹ của tất cả chúng ta, những tín hữu được kết hợp trong đời sống ân sủng của Người. Hay nói cách khác, Chúa Giêsu là đầu của nhiệm thể của Người là Hội Thánh, lại được Đức Maria sinh ra thì Mẹ cũng sinh ra thân mình là các tín hữu chúng ta.
2. Mẫu gương sáng ngời về mọi nhân đức
Thiên chức làm mẹ đã làm cho Đức Maria không ngừng tỏa sáng về mọi nhân đức như nhìn, nghe, suy. Trước hết, nhân đức nhìn, tại tiệc cưới Cana, Mẹ đã phát hiện rượu gần hết và Mẹ không đợi cho đôi tân hôn phải van nài, nhưng Mẹ đã vội báo cáo cho Đức Giêsu và bảo các gia nhân hãy vâng lời Người dạy. Nhờ lời bầu cử đắc lực của Mẹ, mà dù chưa tới giờ hành động, Đức Giêsu đã nghe lời Mẹ xin để biến nước lã thành rượu ngon, giúp gia đình đôi tân hôn có niềm vui trọn vẹn (x. Ga 2,1-11). Thì ngày nay Mẹ cũng tiếp tục chuyển cầu cho các đôi vợ chồng có lòng tin cậy vào Chúa để vượt qua thử thách trong cuộc sống lứa đôi, và làm cho tình yêu của họ ngày càng nồng cháy. Kế đến là nghe, khi Sứ Thần truyền tin Mẹ đã thưa xin vâng (x, Lc1,38), từ đây Mẹ bước vào cuộc hành trình cứu độ của Thiên Chúa với một sự khiêm nhường thẳm sâu. Mẹ đã trở thành mẫu mực tuân phục Thiên Chúa cho chúng ta noi theo, như Cha Tennyson, một nhà tu đức đã nói: “Khiêm nhường là căn rễ của mọi nhân đức, là cửa ngõ đưa dẫn đến sự hoàn thiện”, và Thánh Phêrô trong thư thứ nhất của ngài cũng đã dạy chúng ta: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo nhưng ban ơn cho ai sống khiêm nhường” (1Pr 5,5). Cuối cùng suy, “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Đây là nhân đức cốt cõi của người môn đệ Chúa và cũng là bản tính sâu sắc, chín chắn của Mẹ. Hơn nữa, chính sự suy gẫm của Mẹ là để tìm thánh ý Chúa và thi hành. Vì thế, Mẹ luôn suy gẫm chiêm niệm để tìm ý Chúa, đồng thời cũng dạy chúng ta hãy suy gẫm và cố gắng thực hiện ý Chúa mong muốn nơi mỗi người chúng ta.
Như vậy, Đức Maria là mẫu gương sáng ngời về mọi nhân đức, vì mẹ hằng nhìn, nghe, suy theo thánh ý Chúa. Hay nói cách khác, đây là tinh thần sống của Mẹ là khiêm nhường, phó thác, cậy trông và luôn nói lời xin vâng trước thánh ý Chúa. Đặc biệt là hãy để Lời Chúa được cư ngụ dồi dào trong tâm hồn mình bằng cách “suy đi nghĩ lại”.
3. Đấng trung gian các ân sủng
Từ mẫu gương sáng ngời về mọi nhân đức, Đức Maria đã được Thiên Chúa ban cho đăc ân là Đấng trung gian của mọi ân sủng, nghĩa là mọi ân sủng của mọi thời đại được Thiên Chúa ban cho nhân loại qua đôi tay của Đức Mẹ. Ở thế kỷ XIII, Thánh Albertô Cả đã nói: “Đức Mẹ được gọi là ‘Cửa Thiên Đàng’ thì rất đúng vì mọi thụ tạo đều đến qua Đức Mẹ.” Qua đây chúng ta thấy Đức Maria được tham dự vào sự hiểu biết của Thiên Chúa, và trong Thiên Chúa, Mẹ nhìn thấy con người cùng với những nhu cầu và lời kêu xin của họ, đồng thời Mẹ lại hiểu biết ước mong của Thiên Chúa muốn nhờ Mẹ để giúp đỡ họ. Hơn nữa, Đức Maria là Đấng cộng tác đặc biệt trong công trình cứu độ nhân loại qua việc Mẹ đã chấp nhận làm Mẹ Chúa Cứu Thế bằng lời thưa ‘xin vâng’ (x. Lc 1,38). Qua sự cộng tác này, Mẹ đóng vai trò là Trung Gian theo nghĩa chuyển cầu các ân sủng của Thiên Chúa đến với nhân loại, hoàn toàn phụ thuộc vào Chúa Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất. Giáo Hội khẳng định điều này qua lời kinh Lạy Nữ Vương: “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy …” bày tỏ niềm tín thác vào sự chuyển cầu của Mẹ. Như vậy, tất cả mọi ơn lành chúng ta đều lãnh nhận qua Mẹ như thánh Bênađô quả quyết: “Quả thật, nếu chúng ta được khỏi tội, chính là nhờ Mẹ Maria. Như bà Evà là trung gian của đổ nát sa ngã, thì Mẹ Maria là trung gian của ơn thánh.” Còn với thánh Phêrô Đamianô “Không có một ơn sủng nào từ trời ban xuống trần gian mà không qua Đức Mẹ Maria.” Và Thánh Bernađinô Sienna thì nói: “Mọi ơn thánh đến với loài người qua ba bậc hoàn toàn sắp xếp thứ tự: Thiên Chúa chuyển thông cho Chúa Kitô. Từ Chúa Kitô qua Đức Mẹ Maria. Từ Mẹ Maria đến với chúng ta.”
Kỳ diệu thay Đấng là Mẹ Thiên Chúa. Thật vậy, vai trò và tước vị của Mẹ Maria rất cao trọng, nhưng Mẹ luôn luôn khiêm tốn trong thân phận là Nữ Tỳ Thiên Chúa.Vì thế mà Mẹ đã hoàn thành thiên chức làm mẹ một cách trọn hảo, với Đức Giêsu cũng như với con cái loài người. Chúng ta là con cái của Mẹ, chúng ta hãy noi gương Mẹ sống khiêm nhường, phó thác vào Chúa ‘vì chúng ta có là gì thì cũng đều do tình thương của Thiên Chúa chứ không phải do tài đức hay công khó của mình’.
Ngày lễ Mẹ Thiên Chúa hôm nay, cũng là ngày đầu năm Dương Lịch, chúng ta hãy xin Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng ta trở thành những người “mẹ sinh Chúa Giêsu” ra cho thế giới một cách trọn vẹn để làm cho thế giới được hoà bình, hạnh phúc, an lành qua đời sống tốt đẹp của từng người tín hữu chúng ta. Amen.