LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM NGÀY 24/11/20. (Lc 9, 23-26).
Phaolô Nguyễn Minh Tuấn
Cộng đoàn Thiên Phước
“Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9, 24).
Kính thưa toàn thể cộng đoàn phụng vụ rất thân mến!
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội, cách riêng Giáo Hội Việt Nam hân hoan mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam. 117 vị được tuyên phong hiển thánh, cùng với hàng trăm ngàn tín hữu vô danh đã đổ máu mình ra để làm chứng cho Đức Kitô. Các Ngài là những chứng nhân trung kiên, là hạt giống làm trổ sinh đức tin trên quê hương Việt Nam chúng ta. Mừng lễ kính nhớ các ngài, chúng ta thử nhìn lại đôi dòng lịch sử phát triển của Giáo Hội Việt Nam, để thấy được công lao to lớn của các ngài đã góp phần cho sự phát triển đó.
Vào đầu thế kỷ XVI, khi vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất Việt, ánh sáng Tin Mừng cũng từ đấy bắt đầu lan rộng. Tuy nhiên, không thuận buồm xuôi gió như chúng ta tưởng, Giáo Hội đã trải qua gần ba thế kỷ chìm ngập trong thử thách, bắt bớ. Suốt từ năm 1630-1883, bao dòng máu đã đổ ra để bảo vệ đức tin, và để làm phát triển Giáo Hội này. Trong các cuộc bắt bớ từ đời các chúa: Trịnh Doanh, Trịnh Sâm, các vua: Cảnh Thịnh, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Suốt gần 300 năm đó, chưa kể những người can đảm sống đức tin, có khoảng 130000 Kitô hữu chứng nhân đã hiên ngang hiến mạng sống mình để bảo vệ đức tin, và nên hạt giống trổ sinh thêm người tin theo Chúa.
Ngày 19/6/1988, 117 Chân Phước tử đạo Việt Nam, đã được Đức cố Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên bậc Hiển Thánh. Trong số đó có 8 vị Giám mục, 50 Linh mục, 16 Thầy giảng, 1 Chủng sinh và 42 Giáo dân. Các ngài đã chịu rất nhiều hình khổ: 79 vị bị trảm quyết (chặt đầu), 16 vị bị xử giảo (xiết cổ chết), 8 vị chết rũ tù, 6 vị bị thiêu sống, 4 vị bị lăng trì (chặt chân tay), 1 vị bị bá đao (lóc 100 miếng thịt), 1 vị bị đánh tử thương lúc đi đường. (Xem sử liệu này được lấy ở cuốn “Hạnh tích các Thánh Theo Lịch Phụng Vụ”, toàn tập, Xb. 2004 của Cha Giuse Phạm Đức Tuấn).
Sơ lược dòng sử liệu này, chúng ta thấy được rằng: Với sự trung thành và lòng yêu mến, các ngài đã dám hy sinh mạng sống mình vì đức tin. Để hiểu được tại sao các thánh tử đạo Việt Nam dám hy sinh mạng sống mình vì đức tin ta cần nhìn từ ba khía cạnh: đức tin, tình yêu và niềm hy vọng vào Thiên Chúa.
- Vì lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, các ngài tin rằng Thiên Chúa là chân lý, là sự sống vĩnh cữu. Đối với các ngài, đức tin không chỉ là một ý niệm, mà là mối tương quan sống động với Chúa Giêsu Kitô. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,24). Các Thánh tử đạo hiểu rằng cái chết thể xác không phải là hết, mà là cửa ngõ bước vào sự sống đời đời. Vì thế, dù bị tra tấn, đe dọa, và các hình phạt khủng khiếp, các ngài vẫn trung thành với Đức Kitô.
- Vì tình yêu sâu đậm mà các ngài đã dành cho Chúa Giêsu. Như Chúa đã nói: “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13). Thế nên, các vị tử đạo đã yêu Chúa hơn tất cả, hơn danh dự, của cải, gia đình và chính mạng sống mình. Tình yêu của các ngài không phải là cảm xúc thoáng qua, mà là một sự gắn bó mật thiết được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện, thánh thể, và Lời Chúa. Như Thánh Anrê Dũng Lạc từng nói: “Chúng tôi chỉ ước mong được trung thành với Đức Kitô cho đến hơi thở cuối cùng”. Đó là lời chứng mạnh mẽ của một tình yêu không điều kiện, tình yêu khiến họ có thể tha thứ cho kẻ hành hạ mình và cầu nguyện cho họ.
- Niềm hy vọng vào phần thưởng vĩnh cửu. Các thánh tử đạo tin rằng sự đau khổ hiện tại chỉ là tạm thời chóng qua, còn vinh quang của Chúa mới là vĩnh cữu. Các ngài không chết trong tuyệt vọng, nhưng trong niềm vui và bình an, vì biết rằng “Triều thiên sự sống” (Gc 1,12) đang chờ đón họ. Chính niềm hy vọng ấy giúp họ vượt qua sợ hãi, nhục hình và cả cái chết để nên giống Chúa Giêsu trong hy sinh và chiến thắng. Cũng vì đức tin, tình yêu và niềm hy vọng, mà các thánh tử đạo Việt Nam đã theo sát Đức Giêsu và lấy Tin Mừng của Ngài làm kim chỉ nam cho đời sống của mình, nhất là bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).
Vâng, theo Chúa là chấp nhận con đường thập giá. Chúa Giêsu không hứa cho ta, một con đường bằng phẳng. Như chúng ta biết, từ bỏ chính mình là điều rất khó, vì bản năng con người luôn muốn giữ lại an toàn, danh vọng và tiện nghi. Nhưng người môn đệ thật của Chúa phải dám “mất” để “được”, dám “chết đi” để được “sống lại”. Các thánh tử đạo Việt Nam đã hiểu rõ điều này, các ngài không chọn con đường dễ dãi, không chọn thỏa hiệp với quyền lực, mà chọn trung thành với Chúa Kitô dù phải chịu cực hình, tù tội và cả cái chết. Họ là những con người bình thường như cha mẹ, con cái, binh lính, nông dân, giáo dân, linh mục… đã xác tín lời của sách Khôn ngoan trong bài đọc I rằng: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa” (Kn 3,1). Và như Thánh Phaolô đã khẳng định trong thư gửi tín hữu Rôma trong bài đọc II: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8,35).
Chính vì vậy, “Máu các thánh tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu” (Tertulianô). Nên, lịch sử đức tin Việt Nam được viết bằng máu và nước mắt. Từ thế kỷ XVI đến XIX, biết bao người đã ngã xuống chỉ vì tin vào Chúa Kitô. Họ bị đánh đòn, xiềng xích, bị bắt bỏ đạo, nhưng họ không chối Chúa. Tất cả đều đã dâng hiến mạng sống để giữ trọn niềm tin. Máu của các ngài không đổ ra vô ích. Chính từ máu đào ấy mà đức tin được bén rễ sâu trên mảnh đất Việt này. Ngày nay, hơn 7 triệu người công giáo Việt nam đang tiếp nối gia sản đức tin ấy, một gia sản được xây dựng trên tình yêu và lòng trung thành đến cùng.
Kính thưa cộng đoàn, hôm nay chúng ta không còn bị bắt bớ hay đổ máu vì đức tin nhưng tinh thần tử đạovẫn cần được sống mỗi ngày. Khi chúng ta nói không với gian dối, dù có bị chịu thiệt, đó là một hình thức tử đạo. Khi chúng ta kiên trì trung tín trong đời sống cộng đoàn, đời sống gia đình, dù phải chịu xét đoán, hiểu lầm, đó cũng là một hình thức tử đạo. Khi chúng ta chọn sống yêu thương, tha thứ, thay cho ghen ghét hận thù, đó cũng là tử đạo… Tử đạo không chỉ chết cho Chúa, mà còn sống cho Chúa. Sống trung thực, bác ái, quảng đại yêu thương như Chúa đã yêu. Giữa một xã hội rất nhiều cám dỗ về hưởng thụ, vật chất, vô cảm, ích kỷ, thì việc sống đúng đức tin, dám làm chứng cho chân lý cũng là một thách đố lớn. Vì thế, mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta tự hỏi: Tôi có dám sống khác đi vì Đức Kitô không? Tôi có dám hy sinh để là chứng cho Tin Mừng không?
Các thánh tử đạo Việt Nam không chỉ là quá khứ, mà là hiện tại sống động trong đời sống đức tin của chúng ta. Các ngài mời gọi chúng ta tiếp bước: “ Vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa”. Xin cho chúng ta nhờ gương sáng của các ngài, biết sống đức tin cách can đảm, trung thành và sống động. Xin cho tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta biết yêu thương và phục vụ trong âm thầm và khiêm tốn, để cuộc đời mỗi người chúng ta trở nên một chứng tá sống động của Tin Mừng giữa lòng xã hội hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu Chúa hết lòng, trung tín trong mọi thử thách, và sẵn sàng “vác thập giá hằng ngày” với niềm tin tưởng phó thác, để mai sau được cùng các thánh tử đạo Việt Nam chung hưởng hạnh phúc thiên quốc. Amen.


