CHÚA NHẬT IX THƯỜNG NIÊN, NĂM B
LỄ MÌNH VÀ MÁU CHÚA KITÔ, NĂM B
LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU, NĂM B
Lễ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ
Các bài chia sẻ: Lm. Hiền Lâm
oooooooooooooooooooo00000O)+(O00000oooooooooooooooooooo
LỄ MÌNH VÀ MÁU CHÚA GIÊ-U KITÔ, năm B
+ ĐỌC TIN MỪNG: Mc 14,12-16.22-26
Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giê-su: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu? “Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu? Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta.” Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.” Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa.”
+ SUY NIỆM
“TIN VÀ CẢM NHẬN”
Bài Tin Mừng của ngày LỄ KÍNH MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ hôm nay là bản văn tường thuật về bữa ăn cuối cùng của Chúa Giê-su và các môn đệ, trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn. Tại nhà Tiệc Ly này, Chúa Giê-su đã lập Bí tích Thánh Thể, để trở nên Bánh Hằng Sống cho nhân loại, khi Người trao ban chính Thân Mình là chính Sự Sống thần linh và vĩnh cửu.
Chúng ta cùng nhau suy niệm về hai điểm:
- Ý nghĩa Bánh Hằng Sống
- Ý nghĩa trao ban.
* Ý nghĩa Bánh Hằng Sống
Tin vào mầu nhiệm Thánh Thể thật không dễ dàng chút nào. Nếu ngày xưa nhiều người không thể chấp nhận được thịt thầy Giêsu trở thành bánh đem lại sự sống đời đời, thì con người ngày nay cũng khó có thể tin được mầu nhiệm chuyển bản thể (conversionem substantiae) từ một tấm bánh vẫn còn màu và mùi vị đó lại là Thịt Chúa Kitô.
Nhiều người không thể hiểu nổi mầu nhiệm “chuyển bản thể”, Thịt Chúa trở thành bánh ăn và bánh miến thành Mình Thánh Chúa, sâu xa hơn là do họ không tin vào quyền năng Thiên Chúa có thể biến đổi và không tin được Đấng đang nói đó là một Thiên Chúa nhập thể – Thần Linh trong con người hữu hạn.
Trong văn hóa Híp-ri, thịt và máu chỉ là con người trong thân phận xác đất vật hèn, có sinh có tử. Chúa Giêsu muốn chúng ta nhận toàn diện “chất người” của Chúa (trong thân phận xác đất vật hèn của nó) làm sở hữu của chúng ta, và “chất người” ấy thông ban cho ta thần tính của nó.
Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống, bánh tác động nơi con người. Khi con người ăn bánh thông thường, thân xác con người tiêu hóa và đồng hóa bánh. Còn khi ăn bánh trường sinh – là Mình Chúa Giêsu Kitô – thì chính bánh này đồng hóa và biến đổi mỗi người. Chúa Kitô biến đổi tín hữu, ban cho họ sự sống của Người và kết hợp họ vào đời sống của Người. Vì sự sống của Chúa Giêsu là sự sống đời đời, thì khi thông truyền cho tín hữu sự sống ấy nhờ họ ăn Mình Người, họ cũng được thông phần cuộc sống đời đời.
Qua những cử chỉ hữu hình, người tín hữu tham dự vào thực tại vô hình và sống kết hợp với Chúa Kitô Phục Sinh. Giáo Hội định nghĩa bí tích là một thứ hữu hình tượng trưng và sản sinh một thực tại thiêng liêng. Khi tín hữu lấy đức tin mà tham dự vào các bí tích, họ gặp gỡ Chúa Kitô hằng sống đang đổi mới cuộc đời họ. Trong tiệc Thánh (thánh lễ) các tín hữu thật sự nhận lãnh Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô trong cái chỉ còn là hình thức của bánh và rượu. Chúa Kitô Phục Sinh tự biến mình thành thức ăn nuôi dưỡng cho các tín hữu được sống đời đời (CGKPV).
Nơi Tin Mừng Gio-an (Ga 6,51-58) Chúa Giêsu khẳng định cách quyết liệt: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”, nói lên tầm quan trọng của việc rước Thánh Thể Chúa. Thân xác ăn thứ bánh man-na hữu hạn nên sự sống của thân xác chỉ có hạn; còn linh hồn ăn Thịt Chúa Kitô là sự sống vĩnh cửu nên đạt tới sự sống đời đời. Chúa Giêsu cũng dùng hỉnh ảnh sự sống Ba Ngôi để diễn tả sự kết hiệp của Kitô hữu với Người nhờ ăn Bánh Hằng Sống: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy”. Chúa Cha và Chúa Con vừa hiện hữu tự thân vừa hiện hữu hướng về nhau đến duy nhất. Thì đây, kẻ ăn thịt Chúa Giêsu thông phần vào sự sống Ba Ngôi Thiên Chúa, khi hiện hữu hướng về Thiên Chúa và nên một với Người. Chúa Kitô sống, nên kẻ ăn Người cũng sống và sống viên mãn như Người.
* Ý nghĩa trao ban.
Người ta thường đặt câu hỏi: “Tại sao Thiên Chúa đầy quyền năng lại không chọn phương thế khác dễ hơn, mà chọn nhập thể, sống kiếp khổ đau rồi chết nhục nhã như thế để cứu chuộc con người”. Với lối trả lời theo thần học có lẽ cao siêu quá nên nhiều người khó chấp nhận, vì thần học trả lời rằng: “Chúa Giêsu chọn phương cách nhập thể là vì muốn cho con người biết rằng, con người có một giá trị rất cao quý mà Ngài không ngại mặc lấy thân xác con người, và cũng qua sự nhập thể Ngài nâng phẩm giá con người lên”. Chúng ta có thể đưa ra một lối giải thích bình dân qua ví dụ minh họa như sau: Cũng như một chàng trai muốn tìm kiếm bạn đời, mà cứ ở một chỗ, không đến nhà cô gái, không tìm gặp nàng, không trao đổi tìm hiểu nàng, mà cứ ở nhà gọi điện thoại, gửi tin nhắn, thư điện tử… để tỏ tình, thì làm sao cô gái kia nhận lời được. Hơn nữa, phần lớn người Việt Nam còn có tục phải đi làm rể, thì mới có cơ hội cưới được nửa kia của đời mình. Chúa Giêsu cũng thế, nếu Ngài cứ ở trên trời nói vọng xuống: “Ta yêu các con, Ta sẵn sàng chết vì các con…” thì làm sao con người kiểm chứng được tình yêu đó và đáp lại được. Vì thế, Chúa Giêsu phải xuống với con người, cùng chấp nhận kiếp sống, cùng đồng hành chia sẻ và sẵn sàng hy sinh để cứu con người là đối tượng mà Ngài yêu. Đúng vậy, Ngài đã làm như thế, và bằng chứng hùng hồn nhất là “chết đi cho người mình yêu”.
Một lần kia trong dịp sinh hoạt học trò, một giáo lý viên đặt câu hỏi: “Khi yêu nhau người ta cần gì nhất?” một số ít học trò cho rằng: Cần thông cảm, cần có tài chánh ổn định, cần những món quà kỷ niệm, cần những lá thư tỏ tình…. Nhưng phần lớn đồng ý với câu trả lời: “Khi yêu nhau người ta cần nhau”. Vâng, đó là một sự cảm nhận đúng đắn nhất của các tình nhân. Khi họ yêu nhau, những thứ thư từ, quà cáp, tiền bạc, lời nói… chỉ là những thứ phụ thuộc, điều họ cần chính là con người của nhau, cần hiến dâng hoàn toàn cho nhau, cần được kết hợp với nhau tuy hai mà một…, và đó cũng là chất thể của Bí Tích Hôn Nhân. Hơn ai hết, Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu, Ngài quá thấu hiểu sự thiếu thốn của con người là đối tượng yêu của Ngài. Những lời nói, hành động của Ngài để lại thật quý, nhưng có gì quý hơn và con người cần hơn? Có gì minh chứng tình yêu hơn là sự trao ban chính thân mình Ngài cho con người? Và Thánh Thể khi được trao ban cho con người mang một ý nghĩa tròn đầy của một sự kết hiệp, vừa mang tính thể chất vừa mang tính thần thiêng. Thật vậy, Chúa Kitô đã chứng minh tình yêu của Ngài đối với nhân loại bằng sự trao ban tuyệt đỉnh là thân mình chí thánh của Ngài. Đó là bằng chứng hùng hồn nhất và là ý nghĩa nhất của trao ban. Trao ban cả mạng sống, trao ban đến giọt máu cuối cùng. Trao ban vượt trên tất cả mọi sự trao ban là cho đi tất cả, không so đo tính toán. Trao ban bằng chính tình yêu đích thật.
Tóm lại, như trong bài “Tantum ego – Đây Nhiệm Tích” mà chúng ta luôn hát trong khi Chầu Thánh Thể, có câu: “Ta hãy lấy đức tin bù lại, dẫu giác quan không cảm thấy gì” nói lên rằng Thánh Thể là một huyền nhiệm không thể quan sát sự biến đổi bằng mắt phàm, nhưng bằng con mắt của niềm tin và sự cảm nhận của trái tim được Chúa Giêsu yêu và chúng ta yêu mến Người.
Lạy Chúa Giêsu, mắt phàm chúng con không thể nhận ra Chúa nơi tấm bánh, nhưng đức tin Chúa ban cho chúng con nhận ra bánh miến và rượu nho được dâng trên bàn thờ chính là Thịt và Máu Chúa đã hiến mình làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con một niềm tin kiên vững, để không bao giờ nghi ngờ sự hiện diện của Chúa mà thoái lui xa lìa Chúa. Xin cũng cho chúng con luôn biết khao khát của ăn đích thực là Mình và Máu Chúa, để chúng con được nâng đỡ và bổ sức trên đường lữ hành trần thế và mai sau đạt tới sự sống muôn đời. Amen
+ ĐỌC TIN MỪNG: Mc 12,1-12
Đức Giê-su bắt đầu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: “Có người kia trồng được một vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp. Nhưng họ bắt người đầy tớ, đánh đập và đuổi về tay không. Ông lại sai một đầy tớ khác đến với họ. Họ đánh vào đầu anh ta và hạ nhục. Ông sai một người khác nữa, họ cũng giết luôn. Rồi ông lại sai nhiều người khác: kẻ thì họ đánh, người thì họ giết. Ông chỉ còn một người nữa là người con yêu dấu: người này là người cuối cùng ông sai đến gặp họ; ông nói: “Chúng sẽ nể con ta.” Nhưng bọn tá điền ấy bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta.” Thế là họ bắt cậu, giết chết rồi quăng ra bên ngoài vườn nho. Vậy ông chủ vườn nho sẽ làm gì? Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác. Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta!
Họ tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân chúng; quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy. Thế là họ để Người lại đó mà đi.
+ SUY NIỆM
Dụ ngôn “các tá điền gian ác” mỗi lần được đọc lên thì có lẽ ai cũng hiểu ngay là Chúa Giê-su ám chỉ đến những nhà lãnh đạo Do-thái đã muốn tiếm quyền của Chúa trên dân Israel và đã ra tay giết các ngôn sứ mà Chúa đã gửi đến cảnh tỉnh họ, nhất là đã đóng đinh giết chết chính Chúa Giê-su là Con Một Thiên Chúa. Để rồi, Nước Thiên Chúa đã được dành cho ai biết sinh lợi cho Chúa.
Vì thế mà bài chia sẻ này sẽ không tập chú phân tích về điều mà ai cũng đã hiểu đó nữa, nhưng tìm đi tìm ý nghĩa thời sự mà dụ ngôn vẫn tiếp tục cảnh tỉnh chúng ta ngày hôm nay.
* Ý nghĩa tá điền và vườn nho ngày nay.
– Vườn nho Giáo hội: Cũng như dân Israel xưa được ví như là vườn nho do Đức Chúa trồng và canh giữ, Giáo hội Công giáo là “dân mới” của Thiên Chúa (có thể nói như là sự thay thế dân Do-thái xưa sau khi họ bất tuân phản bội giao ước). Giáo hội – trên danh nghĩa hoàn vũ hay địa phương – thì cũng đều là của Chúa Giê-su. Thế nhưng, không thiếu những đấng bậc lạm dụng chiếm làm của mình, rồi thao túng Giáo hội (cộng đoàn, giáo xứ) theo sự vụ lợi hoặc tham danh cho mình; bảo thủ và phớt lờ những tiếng nói ngôn sứ, thậm chí bịt miệng những ai dám lên tiếng chỉ ra những lạm dụng và sai trái, và cuối cùng “giết chết một Chúa Giê-su đích thực” trong Giáo hội, và chỉ còn lại là sự xuống cấp về niềm tin và luân lý. Chính vì thế, Lời Chúa trong dụ ngôn “tá điền sát nhân” vẫn luôn thức thời và mời gọi cách riêng những đấng bậc trong Giáo hội từ cấp giáo hội địa phương đến các cộng đoàn giáo xứ hay tu trì luôn phải ý thức vai trò và cách thức mình đang phục vụ, có hợp với đường lối Chúa muốn hay không.
– Vườn nho tâm hồn: Mỗi người cũng được ví như một vườn nho mà Chúa đã trồng và giao cho việc tự quản lý và sinh hoa lợi cho Người. Thế nhưng, lắm khi chúng ta đã coi thường tiếng nói của lương tâm, phớt lờ những lời dạy dỗ và sửa đổi của những người có trách nhiệm, bỏ qua lề luật Chúa và Hội Thánh, hững hờ với việc nghe Lời Chúa, và cuối cùng là “giết chết” Chúa Giê-su hiện diện trong tâm hồn – bỏ đạo và hư đi đời đời… Lời Chúa mời gọi mỗi người luôn ý thức về mình để biết trông giữ tâm hồn và làm sinh lợi cho sự nghiệp nước Chúa.
* Nước Thiên Chúa sẽ bị lấy đi và trao cho dân tộc xứng đáng…
Người làm vườn làm không đạt mà còn quậy thì đương nhiên ông chủ sa thải và giao vườn cho những người khác làm tốt hơn. Cũng thế, khi Nước Thiên Chúa được trao cho cộng đoàn hay cá nhân mà không biết làm phát triển và sinh hoa kết quả cho Chúa, thì việc bị cất đi và dành cho dân tộc hay cá nhân xứng đáng hơn âu cũng là điều phải lẽ. chức năng của cành nho không phải là trơ trụi hoặc ra lá, mà là phải sinh hoa trái, sinh hoa trái tốt chứ không phải hoa trái xấu, nếu không thì phải bị cắt bỏ để khỏi làm tổn hại đến cây và các cành khác.
Chúa ban cho chúng ta tài năng, cơ hội…, nếu chúng ta không chuyên cần cố gắng trau dồi, thì tự nó sẽ thui chột đi.
Chúa ban cho chúng ta niềm tin, cần sự thanh luyện và trau dồi để niềm tin lớn lên. Nếu không, vì không sống niềm tin thì một ngày nào đó, chính niềm tin ban đầu cũng sẽ nguội lạnh và mất đi…
Lại nữa, như vườn nho vẫn hút nhựa sống từ “đất”, nhưng lại chỉ ra lá. Đó là tình trạng của những con người ích kỷ chỉ lo cho mình, được hưởng bao ân huệ của Chúa nhưng lại không chia sẻ cho tha nhân, nhất là thiếu đi tinh thần truyền giáo.Việc yêu mến Thiên Chúa thật tự nó sinh hoa trái, người luôn có sự sống thân tình với Thiên Chúa thì cũng đương nhiên có đời sống tương quan đức ái với mọi người.
Có vườn nho lại sinh hoa trái xấu, có thể vì không hút được đủ dinh dưỡng từ “đất”, cũng có thể do bị sâu bọ cắn phá. Đó là những ai hời hợt với ơn Chúa, hoặc để cho những thứ tác động bên ngoài xâm nhập đục khoét tâm hồn, nên đời sống họ không thể sinh hoa trái công phúc việc lành cho Giáo Hội.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban cho chúng con ơn đức tin và được làm con cái Chúa, xin cho chúng con biết dùng khả năng và thời giờ Chúa ban để làm cho đức tin được triển nở qua đời sống đạo đức hằng ngày, để khi Chúa trở lại, chúng con xứng đáng được Chúa ân thưởng phúc trường sinh. Amen.
+ ĐỌC TIN MỪNG: Mc 12,13-17
Họ cử mấy người Pha-ri-sêu và mấy người thuộc phe Hê-rô-dê đến cùng Người để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy. Những người này đến và nói: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp? ” Nhưng Đức Giê-su biết họ giả hình, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi? Đem một đồng bạc cho tôi xem! ” Họ liền đưa cho Người. Người hỏi: “Hình và danh hiệu này là của ai đây? ” Họ đáp: “Của Xê-da.” Đức Giê-su bảo họ: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Và họ hết sức ngạc nhiên về Người.
+ SUY NIỆM
Có câu chuyện vui kể rằng, ngày kia một vị mục sư mời Chúa Giê-su đi dự khan trận đá banh giữa đội Công Giáo và đội Tin Lành, khi đội Tin Lành ghi bàn thì Chúa Giê-su đứng lên vỗ ta, nên vị mục sư nghĩ là Chúa đứng về đội bóng Tin Lành. Nhưng rồi lúc đội Công Giáo thắng thì Chúa Giê-su cũng vỗ tay hoan hô nhiệt liệt…
Chính trị và tôn giáo biệt lập nhau, không thể dùng tôn giáo để biện minh cho ý đồ chính trị. Thiên Chúa không đứng về phe này để sát hại phe kia, và Thiên Chúa không dạy con người giết hại lẫn nhau.
Bài Tin Mừng hôm nay, qua việc các địch thủ của Chúa Giê-su gài bẫy Người về việc nộp thuế, Chúa Giê-su dạy mọi người bài học cần phân biệt rõ ràng giữa tôn giáo và chính trị, giữa tương quan xã hội và mối liên hệ với Thiên Chúa: “Của Xê-da hãy trả cho Xê-da và của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
ĐỂ KHÔNG BỊ LẪN LỘN GIỮA CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO, CẦN NĂM CHẮC: “KHÔNG LỢI DỤNG TÔN GIÁO ĐỂ LÀM CHÍNH TRỊ, NHƯNG CÓ QUYỀN ĐÒI SỰ TỰ DO, ẤM NO HẠNH PHÚC, CÔNG LÝ VÀ SỰ THẬT CHO SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI”.
* Vấn đề chính trị và tôn giáo.
Thời Chúa Giê-su, người Pha-ri-siêu và phe Hê-rô-đê vốn đối nghịch nhau về chính trị, giờ đây lại liên minh với nhau. Người Pha-ri-siêu chống lại sự đô hộ của đế quốc Rô-ma, trong khi phe Hê-rô-đê lại chấp nhận để hưởng quyền lợi và bổng lộc hoàng đế. Hôm nay, họ liên minh với nhau muốn dùng một mũi tên quyết định trúng hai đích, hòng đẩy Chúa Giê-su vào thế tiến thoái lưỡng nan, mà câu trả lời không thể nói “có” mà cũng không thể nói “không”. Cái bẫy được họ giăng ra cho Chúa Giê-su là: “Có nên nộp thuế cho Xê-da không?”. Nếu Chúa Giê-su trả lời có, thì người Pha-ri-siêu có lý do để làm Người phải mất tín nhiệm trước dân chúng, còn nếu nói không, thì phe Hê-rô-đê sẽ có lý do để tố cáo Rô-ma đến bắt Người.
Đối với người Pha-ri-siêu, nộp thuế cho Xê-da, hoàng đế ngoại bang, là chối bỏ Thiên Chúa, Đức Chúa độc nhất của Israel. Họ đồng hóa phe quốc gia Do-thái với chính nghĩa của Thiên Chúa là để phục vụ Thiên Chúa, và vì thế họ phải đè bẹp các phe phái địch thù khác.
Thế nhưng, hoàng đế Rô-ma không phải là Thiên Chúa, cho dù ông tự xưng mình như vậy. Hoàng đế áp đặt quyền bính, bắt dân sử dụng đồng tiền Rô-ma, nhưng không thể đòi hỏi lương tâm con người vốn đã thuộc về Thiên Chúa, phải tuân phục ông được. Tuy nhiên, hoàng đế Rô-ma cũng không phải là “kẻ thù của Thiên Chúa” như người Pha-ri-siêu quan niệm, và để phục vụ Nước Thiên Chúa, thì cũng không cần thiết phải từ chối nộp thuế hay tuân phục luật dân sự do hoàng đế ban hành (x. NCGKPV).
Khi trả lời “của Xê-da hãy trả cho Xê-da, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”, Chúa Giê-su phân biệt tôn giáo và chính trị trong một nền văn hóa mà các nhà chính trị luôn dùng tôn giáo biện minh cho mình và cũng do đó xem các địch thủ chính trị như là địch thủ của Thiên Chúa. Với mưu đồ chính trị, thậm chí người ta còn tìm cách lôi kéo Thiên Chúa vào phe mình để tiêu diệt đồng loại.
* Sứ điệp Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giê-su không lên án cũng không biện minh cho chủ nghĩa đế quốc Rô-ma. Phải chăng như vậy thì nghĩa là hòa bình và công lý giữa các dân tộc chẳng liên quan gì đến các “vấn đề thiêng liêng” và cũng chẳng làm cho Chúa Giê-su bận tâm?
Dĩ nhiên, đây là những vấn đề quan trọng và lịch sử Thánh Kinh cho thấy Thiên Chúa muốn cho mỗi một con người được hưởng tự do, cho các dân tộc có được khả năng phát triển nền văn hóa và đời sống quốc gia riêng. Đây là điều biện minh cho việc Ki-tô hữu có thể dấn thân làm chính trị hầu xây dựng công lý hòa bình và phát triển con người.
Chúa Giê-su biết rằng sự giải phóng đích thực con người luôn đi xa hơn các tranh chấp và sự đối nghịch giữa các phe phái. Mà vào thời Chúa Giê-su dân Do-thái đang bị xâu xé về chính trị, chia thành nhiều phe phái không đội trời chung, dẫn đến sự kiện Israel sẽ bị xóa sổ sau cuộc khởi nghĩa vào năm 70. Vậy, Chúa Giê-su kêu gọi các địch thủ của mình đặt lại đời sống chính trị vào đúng chỗ của nó, và đừng lẫn lộn đức tin với cuồng tín tôn giáo. Vì đức tin đòi hỏi một sự tuân phục toàn diện, nên những ai còn lầm lẫn đức tin với việc đấu tranh chính trị thường đi đến chỗ biện minh cho tất cả mọi hành động của đảng phái mình, ngay cả những dối trá và tội ác (x. NCGKPV)..
Như vậy, chính trị và tôn giáo biệt lập nhau, không thể dùng tôn giáo để biện minh cho ý đồ chính trị. Thiên Chúa không đứng về phe này để sát hại phe kia, và Thiên Chúa không dạy con người giết hại lẫn nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết trả lại cho “thế gian – Xê-da” cái thuộc về nó là sự thù hận, ghanh ghét, đố kỵ, bạo lực và những đam mê xấu; để rồi chúng con sẽ trả lẽ cho Chúa những gì thuộc về Ngài là đức hạnh yêu thương, hầu cuộc sống của mỗi Ki-tô hữu chúng con là lời chứng truyền giáo hùng hồn, đem nhiều người trở lại với Chúa. Amen.
+ ĐỌC TIN MỪNG: Mc 12,18-27
Có những người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Họ hỏi Người: “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta rằng: “Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.” Vậy có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. Cả bảy người đều không để lại một đứa con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết. Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ? Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ.
Đức Giê-su nói: “Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao? Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về bụi gai sao? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào? Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to! “
+ SUY NIỆM
Trong thời đại Chúa Giêsu, dân tộc Do Thái tồn tại hai “đảng phái” xem ra luôn đối lập nhau và có ảnh hưởng nhất cả về tôn giáo lẫn chính trị. Đó là nhóm Pha-ri-siêu và nhóm Sa-đốc (ngoài ra còn một vài nhóm nhỏ như Essenien và Jelos không đáng kể).
Chúa Giê-su không theo một đảng phái nào cả, Người chỉ trích phái Sa-đốc tham quyền cố vị và người Pha-ri-siêu giữ luật giả hình. Chính vì thế mà cả hai nhóm này đều tìm cách bắt bẻ gài bẫy Chúa Giêsu. Nhóm Pha-ri-siêu thường hỏi Chúa Giê-su về những gì liên quan đến luật và nộp thuế, còn nhóm Sa-đốc lại thắc mắc liên quan đến quyền bính và vấn đề kẻ chết sống lại.
Hôm nay nhóm Sa-đốc đến hỏi Chúa Giê-su. Họ trích đoạn Thánh Kinh trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 25,5): “Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình”. Rồi bịa ra một câu chuyện “sát phu” là có bảy người anh em trai thay thế nhau lấy một cô gái, nhưng “tướng sát phu” của cô này làm chết cả, cuối cùng cô ta cũng chết. Vậy khi sống lại, cô ta là vợ của ai trong bảy người kia?
Qua cách thắc mắc, ta dễ nhận thấy rằng quan niệm và niềm tin của nhiều nước, nhiều tôn giáo trên thế giới vẫn tin rằng thế giới “bên kia” cũng tổ chức và sinh hoạt như thế giới chúng ta đang sống, và cụ thể là vẫn cưới vợ gả chồng. Tuy nhiên, cái chủ đích mà người Sa-đốc nhắm tới để gài bẫy ở đây là nhằm phủ nhận sự sống lại. Chúa Giêsu đã trả lời cách khẳng định cho họ hai điểm chính yếu sau đây:
* Có sự sống lại thật.
Chính vì nhóm Sa-đốc chỉ nhận bộ Ngũ Kinh là Thánh Kinh, nên Chúa Giêsu trích chính sách Xuất Hành là một trong Ngũ Kinh đó để trả lời: “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-sa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (Xh 3,1-6) và không thể nào Thiên Chúa lại là Thiên Chúa của kẻ chết, cho nên Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp vẫn đang sống.
Sự sống lại và sự sống đời đời là chân lý quan trọng cho đời sống đức tin. Nếu không có sự sống lại và sự sống đời đời thì đức tin của chúng ta là vô ích, và công việc nhập thể cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, không còn ý nghĩa nữa. Ðây là chân lý quan trọng nhưng khó tin bởi lý trí con người lập luận theo đường lối tự nhiên không thể lĩnh hội được. Niềm tin vào sự sống lại được xây dựng trên nền tảng sự sống lại của Đức Giêsu, mà các tông đồ là những người đã thấy tận mắt, đã sẵn sàng chịu đau khổ và chết để làm chứng. «Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng» (Cv 2,32; x. Cv 10,41). Đây là một trong những niềm tin căn bản nhất của người Kitô hữu, đến nỗi có thể nói ai không tin vào sự sống lại thì không phải là người Kitô hữu.
* Đời sống thiên thần (vita angelica)
Câu trả lời của Chúa Giê-su cho ta biết trật tự, cách tổ chức, sinh hoạt, cách thế hiện hữu trong cuộc sống mai hậu không giống như cuộc sống đời này. Không thể lấy kinh nghiệm hiện hữu của cuộc sống này để áp dụng vào việc suy đoán cách hiện hữu của cuộc sống mai hậu. Đời này có lấy vợ gả chồng chỉ là chuyện sinh, lão, bệnh, tử, nên cần phải có người giúp đỡ, phục vụ và nối dõi. Khi con người đã trở thành bất tử, họ không còn sống phụ thuộc vào không gian và thời gian nữa, vì thế, họ cũng không cần phải lấy vợ gả chồng. Họ sẽ bước vào cuộc sống thần thiêng như các thiên thần, cuộc sống của họ lúc này là trường sinh bất tử, sung mãn, trọn vẹn và tồn tại muôn đời với Đấng Hằng Hữu. Công việc của họ chính là ca ngợi Chúa trong vinh quang Nước Trời như các thiên thần, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa.
Chúa Giê-su nhắc đến đời sống đến thiên thần, nghĩa là bậc mà lẽ sống là thờ lạy, chúc tụng và vâng lời Thiên Chúa. Ở đời sau con người sẽ hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và quy hướng về Người. Và theo quan niệm Do Thái, sự sống của Thiên Chúa và con cái Người thì khác; còn sự sống của loài người và con cái thế gian thì khác. Một đàng vĩnh cửu nên không cần truyền sinh, đàng kia vắn vỏi nên cần cưới vợ lấy chồng. Những kẻ có phần trong sự sống lại này “sẽ giống như các thiên thần”, không phải về mọi phương diện mà về trạng thái bất tử của họ. Trong một ý nghĩa rộng rãi hơn, họ sẽ là “con cái Thiên Chúa” và là “con cái của sự sống lại, vì sự chết đã mất uy lực trên họ.”
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khao khát đời sống vĩnh cửu, để chúng con biết lo giữ mình trong sạch, sống phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân, ngày đêm ca ngợi Chúa và sống dưới sự hiện diện của Chúa như các thiên thần. Nhờ đó, chúng con đã nếm hưởng niềm vui thiên quốc ngay ở cuộc sống trần gian này.
+ ĐỌC TIN MỪNG: Mc 12,28b-34
Khi ấy, có một người trong các kinh sư hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu? ” Đức Giê-su trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” Ông kinh sư nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu! ” Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.
+ SUY NIỆM
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại việc một tiến sĩ luật của Do Thái đến hỏi Chúa Giêsu về điều răn quan trọng nhất. Chúa Giêsu đã không trả lời trực tiếp về giới răn nào trong thập điều, nhưng đưa ra hai điều gồm tóm tất cả mọi lề luật. Đó là mến Chúa và yêu người.
Thập điều được Chúa ban cho Môisen trên núi Sinai tóm gọn lại trong hai điều (mười răn ấy tóm lại hai điều này mà chớ…) là 3 điều trước tập chú về việc MẾN CHÚA TRÊN HẾT MỌI SỰ và 7 điều sau nói đến bổn phận YÊU NGƯỜI NHƯ MÌNH TA VẬY.
Chúa Giêsu không chỉ gồm tóm thập điều thành hai điều căn bản mà còn nâng giới luật yêu thương lên tầm quan trọng ngang hàng với việc kính Chúa:
* Yêu mến Thiên Chúa HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN và HẾT TRÍ KHÔN.
– Hết lòng: Nghĩa là với cả cái tâm của mình, với cả trái tim của mình, nghĩa là với cả ý chí và tự do.
– Hết linh hồn: Linh hồn luôn hướng lên Chúa trong cầu nguyện tâm sự với Chúa, tham dự Thánh Lễ và các Giờ Kinh cùng những bổn phận trong bổn đạo.
– Hết trí khôn: Với cả tri thức và ý thức trong mọi việc mình làm thể hiện tình yêu với Chúa.
Như vậy, tình mến dành cho Chúa là ưu tiên hàng đầu trong việc sống đạo, với tâm tình của một người con của Thiên Chúa.
* Yêu thương kẻ khác NHƯ CHÍNH MÌNH ngươi.
– Yêu như chính mình là gì? Trong Cựu Ước, sách Tobia đã nói tới nhưng còn mang vẻ tiêu cực là: “Những gì con KHÔNG MUỐN kẻ khác làm cho mình, thì cũng ĐỪNG LÀM điều đó cho người ta” (Tb 4, 14), nhưng sang Tân Ước, Chúa Giêsu dạy theo hướng tích cực: “Điều con MUỐN người khác làm cho mình thì HÃY LÀM cho người ta” (Mt 7, 12 // Lc 6,31).
– Thế nhưng đó mới chỉ là yêu tha nhân bằng mình, mà chúng ta thực hành được đã là chu toàn lề luật rồi. Nhưng càng tốt hơn khi chúng ta dám yêu tha nhân hơn cả chính mình, mới thực sự nên giống Chúa Giêsu, Đấng đã dám thí mạng mình vì yêu, Đấng đã chịu đói khát cho chúng ta được giàu sang. Đó là mức độ cao nhất trong tình yêu là agapê – vượt lên trên mọi so đo tính toán, chứ không như eros (chiếm hữu) hay philia (có qua có lại) theo cách phân tích của người Hy Lạp.
– Tình yêu không phải chỉ thương ở trong lòng hay là nói nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm (1Ga 3, 18). Làm sao ta có thể hiến mạng sống mình vì anh em, nếu như không tập từ những cái nho nhỏ như: mong muốn người khác được hạnh phúc, vui, sướng, “được sống và sống dồi dào hơn”. Vui với họ, buồn cùng họ. Chia sẻ từng miếng cơm, từng tấm áo, từng lời động viên, an ủi, cũng như không nói hành nói xấu người khác,… Làm được những điều nhỏ nhoi như thế, thì ta đã yêu thương họ cách chân thành, và khi cần thì cũng có thể hiến mạng sống vì họ (x. 1Ga 3, 17).
– Thánh Bênađô nói: Mức độ của yêu thương là yêu thương không mức độ” và thánh Augustino cũng dạy: “Bạn hãy cứ yêu đi rồi làm gì hãy làm”. Nghĩa là lòng thương xót, yêu thương và bác ái chúng ta không đạt ra cho nó một giới hạn, nhưng là hãy làm những gì chúng ta có thể làm được, và dù làm việc lành gì đi nữa, mà trong việc làm đó không có sự yêu mến thì cũng vô ích mà thôi.
Tóm lại: Mến Chúa và yêu người là hai tương quan của một nhân vị, vừa mang chiều kích tôn giáo vừa mang chiều kích xã hội. Con người sống tương quan hàng dọc với Thiên Chúa và tương quan hàng ngang với tha nhân. Kitô hữu sống mầu nhiệm đức ái bao gồm hai chiều kích này không thể tách rời nhau: Không thể nói mến Chúa mà lại không yêu người, chính thánh Gioan Tông Đồ cũng đã khẳng định điều đó.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn thấy Chúa hiện diện nơi mọi người chúng con gặp gỡ, để khi thực thi đức bác ái yêu thương với đồng loại, chúng con biết rằng, chúng con đang làm vì lòng yêu mến Chúa và có sức cứu độ các linh hồn. Amen.
LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU – năm B
+ ĐỌC TIN MỪNG: Ga 19,31-37
Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su. Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.
+ SUY NIỆM
“HỌ NHÌN LÊN ĐẤNG HỌ ĐÃ ĐÂM THÂU”
Hằng năm, ngày thứ sáu sau Lễ Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô, Giáo hội tiếp tục mừng Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu như là một tiếp nối mừng mầu nhiệm Tình Yêu của Thiên Chúa trao ban cách tròn đầy và trào tràn cho nhân loại: trao ban cả chính Thân Mình và trao ban đến giọt máu cuối cùng.
Điều thật lạ lùng là trong sự độc ác của con người mà tình yêu Thiên Chúa được tỏ lộ – khi sự tàn nhẫn của loài người dùng lưỡi gươm đâm vào trái tim Chúa Giêsu là lúc dòng nước và máu cứu độ tuôn trào.
Hình ảnh một người lính đâm vào cạnh sườn Chúa Giê-su và máu cùng nước chảy ra: Máu nói lên sự sống và tình yêu, nước chảy đến đâu như muốn rửa sạch đến đó. Khi nói Máu và Nước chảy ra từ cạnh sườn Chúa Giê-su, Tin Mừng Gioan muốn tỏ cho mọi người thấy trái tim Chúa đang đổ hết sức sống và tình yêu của Người ra để rửa sạch tội lỗi con người để họ trở thành tạo vật mới, thánh thiện, trong sạch đẹp lòng Chúa.
Nước và máu chảy ra từ cạnh sườn Chúa Giê-su là hình ảnh phát sinh các bí tích và sinh ra Giáo Hội. Chính khi ghi lại sự kiện này, Tin Mừng Gioan đã dùng câu kết “Họ đã nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu”, nghĩa là mời gọi mọi người cùng ngước nhìn lên để chiêm ngắm mầu nhiệm tình yêu, chiêm ngắm Đấng là vua tình yêu đã trao ban đến giọt máu cuối cùng.
* Ý nghĩa các sự kiện
Theo tục lệ Do-thái, họ không để xác tử tội treo trên thập giá trong ngày Lễ Vượt Qua, vì thế, nếu tử tội chưa chết thì họ đáng gãy ống chân cho toàn thân xác khụy xuống, ngực sẽ bị ép lại và chết. Tường thuật của Tin Mừng Gioan ghi rõ, hai anh trộm chưa chết nên bị đánh gãy ống chân, còn Chúa Giê-su chết rồi, thì không đánh gãy ống chân nữa, nhưng tên lính đã dùng lưỡi đòng đâm vào cạnh sườn Chúa Giê-su (làm ứng nghiệm lời Thánh Kinh nói về chiên vượt qua xưa không bị đánh gãy xương: x. Xh 12,46). Việc này trả lời cho những lập luận viển vông của không ít người “cho rằng anh trộm lành lên thiên đàng trước nhất”, mà không biết rằng, khi Chúa Giê-su nói “mọi sự hoàn tất” và gục đầu tắt thở thì ơn cứu độ hoàn thành, và các “thánh tổ tông” đã được cứu qua hình ảnh biểu tượng là bức màn trong đền thờ bị xé và mồ mả mở tung, kẻ chết chỗi dậy hiện ra với nhiều người… theo như các Tin Mừng ghi lại. Trong khi hai anh trộm kia vẫn còn sống sờ sờ ra đó mà lại bảo lên thiên đàng trước thì thật là thiếu hiểu biết.
Một người lính đã cầm giáo chọc thủng cạnh sườn Người, nơi che giấu trái tim yêu thương của Người. Những giọt máu yêu thương cuối cùng chảy ra. Những giọt máu nói lên tình yêu thương nồng nàn ngay khi thân thể đã cứng lạnh. Những giọt máu hy sinh tế lễ để đền tội cho loài người. Gioan đã nhìn thấy cảnh tượng đó. Máu lại chảy ra, máu nói lên ý nghĩa hy tế tình yêu, Gioan bừng mắt nhận ra lời Thánh Kinh: khi làm thịt con chiên vượt qua, không được làm gãy một cái xương nào. Như vậy, trên thánh giá, Ðức Kitô thật là Con Chiên vượt qua của đạo mới. Và máu từ cạnh sườn đang chảy ra, đúng là máu cứu độ thay thế hẳn máu chiên vượt qua ngày xưa bôi trên cửa nhà người Do-thái để cứu họ khỏi bị sát hại.
Xưa kia, ngôn sứ Ê-dê-ki-en mơ thấy từ bên phải đền thờ Giê-ru-sa-lem mới sẽ có suối nước chảy ra: nước trong sạch và phong phú làm sao! Nước chảy đi đến đâu, tạo vật mới mọc lên, sinh ra đến đó. Nước ấy là nước sự sống trường sinh. Nay ở cạnh sườn Chúa Giê-su tử nạn, có nước chảy ra theo máu. Ðiều đó nói lên ý nghĩa rõ ràng: hy lễ của Ðức Kitô đang ban Nước Thánh Thần rửa sạch nhân loại, biến họ nên tạo vật mới và sống dồi dào.
* Ý nghĩa tái sinh
Theo truyền thống các Do-thái, thân xác con người có máu và nước; hai yếu tố này tràn ra khỏi con người: đó là dấu con người đã thật sự chết. Tác giả Tin mừng Gio-an có một cái nhìn sâu xa về hiện tượng này. Như chiên lễ Vượt Qua Do thái chịu sát tế vào chiều ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su cũng đổ máu mình ra vào chiều ngày áp lễ. Như thế, Người trở thành Chiên lễ Vượt Qua mới, nghĩa là lễ vật trong hy lễ thập giá nhờ cái chết của Người. Nước đem lại sự sống cho con người; trong Cựu Ước, nước và Thần Khí thường đi đôi với nhau. Theo Gioan 7,38-39, nước tượng trưng cho Thần Khí do Đức Giê-su ban sau ngày được tôn vinh. Máu là biểu tượng của hy tế, là dấu hiệu có mặt trong mọi giao ước. Còn nước biểu trưng sự sống, như dòng nước vọt ra từ tảng đá trong sa mạc (Xh 17,6), suối nước từ bên phải Đền thờ chảy ra (Ed 47,1-12)
Ở đây, máu và nước được liên kết chặt chẽ với nhau : thân xác Đức Giê-su đã chết (máu) và được tôn vinh (7,38-39) trở nên nguồn mọi ân huệ thiên liêng của Thánh Thần đem lại sự sống mới cho tất cả những ai tin. Việc máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Chúa cho thấy Đức Giê-su đã chết thật về thể lý nhưng từ cõi chết Ngài đã phục sinh vinh hiển, để tuôn trào sự sống mới cho nhân loại (Rm 6,4 ; 1Cr 11,25…).
Cử chỉ của người lính mang tính ngôn sứ, mặc khải mầu nhiệm Thiên Chúa. Máu chuộc tội đã đổ ra, không phải trên bàn thờ trong đền thánh nữa, mà trên miền đất đã được tái sinh, chứa chan sức sống. Trong cái nhìn này, chúng ta thấy Giáo hội đã được sinh ra từ cạnh sườn Chúa Giê-su, như E-va đã sinh ra nhờ khúc xương sườn của A-đam. Giáo hội cũng được sinh ra từ cạnh sườn Chúa Giê-su Ki-tô. Giáo hội là thân thể của Người. Người sẽ yêu thương Giáo hội và mỗi chúng ta như thân thể của Người.
* Lời mời gọi
Vết thương mở rộng nơi cạnh sườn Chúa Giê-su, mời gọi chúng ta khám phá mối tình mãnh liệt và nhiệm mầu đã nung nấu trái tim Chúa. Không có một lời, một cử chỉ nào, hay một khoảng thinh lặng nào của Chúa Giê-su lại không nói lên tình yêu mãnh liệt và vĩnh cửu. Chính từ trái tim bị lưỡi đòng đâm thâu mà phát sinh nơi chúng ta lòng sung kính Trái Tim Chúa Giê-su. Hãy chiêm ngắm tình yêu Chúa và tình yêu Chúa sẽ biến đổi chúng ta.
Mọi Kitô hữu được mời gọi nhìn lên thập giá, chiêm ngắm cạnh sườn bị đâm thâu, chảy ra đến giọt máu cuối cùng vì tình yêu dành cho nhân loại. Nơi đó, Chúa Giêsu là một vị vua không thống trị bằng sức mạnh, nhưng Người phục vụ trong yêu thương. Cho đến ngày tận thế, Người vẫn thu hút mọi người đến với Người. Thập giá là nơi vương quyền của Người được tỏ lộ mà không sợ bị hiểu lầm.
Chúng ta cần ngắm nhìn Ngài trên thập giá để biết cách chinh phục thế giới. Bởi vì thế giới hôm nay xúc động trước lòng yêu thương và tha thứ. Xin Chúa Giêsu là Vua Tình yêu ngự trị trong trái tim nhân hậu của chúng ta khi đến với tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết khiêm tốn nhận ra những giới hạn yếu đuối với mình, mà năng chạy đến nép mình vào trái tim yêu thương vô bờ bến của Chúa để kín múc được nguồn tình yêu của Chúa mà sống yêu thương nhau như Ngài; xin cho chúng con cũng luôn biết rước Thánh Thể mỗi ngày, để tâm hồn chúng con được bổ dưỡng sức thần thiêng mà vượt thắng mọi khó khăn trên đường lữ thứ trần gian. Amen.
+ ĐỌC TIN MỪNG: Lc 2,41-51
Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.
Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con! ” Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? ” Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.
Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.
+ SUY NIỆM
Liền sau Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su, Giáo Hội tiếp tục cho chúng ta mừng kính Trái Tim vẹn sạch của Thân Mẫu Con Thiên Chúa, là Mẹ Maria.
Nếu Trái Tim Chúa Giê-su được gọi là nguồn mạch của Tình Yêu, thì Trái Tim Mẹ Maria là “máng thông ơn” trung chuyển Tình Yêu từ Chúa Giê-su đến cho nhân loại cách sung mãn nhất. Nếu Trái Tim Chúa là Lòng Thương Xót và sự che chở, thì Trái Tim Mẹ Maria là Tình Mẫu Tử và cảm thông với nhân loại đau khổ. Nếu Trái Tim Chúa đã chịu lưỡi đòng đâm thâu cách hữu hình để khơi Nguồn Suối Cứu Độ, thì Trái Tim Mẹ cũng chịu gươm đâm thâu cách vô hình để hiệp thông cứu chuộc loài người. Tắt một lời, Trái Tim Chúa Giê-su và Trái Tim của Mẹ Maria cùng nhịp đập tình yêu dành cho con người.
Bài Tin Mừng lễ Mẹ Khiết Tâm hôm nay như là một bức họa chân dung ba vị đại thánh là Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giê-su, nhưng vì là ngày lễ kính Trái Tin Mẹ, chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng một đặc tính đặc biệt của Mẹ đó là Chiêm Niệm, qua câu: “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51b).
Mẹ Maria sống với đôi mắt luôn nhìn vào Chúa Kitô và luôn đón nhận lời Người như kho tàng của mình. Những kỷ niệm về Chúa Giêsu ghi khắc trong lòng Mẹ, đồng hành với Mẹ trong mọi hoàn cảnh, Mẹ luôn nhìn lại những thời điểm cuộc đời mình được sống bên Chúa Giêsu . Từ đó Mẹ sống một cách âm thầm trong sự chiêm ngắm mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa, Mẹ không vênh vang về đặc ân của mình, nhưng hầu như rút vào thinh lặng, và có lẽ như vậy mà sau những trình thuật thời thơ âu của Chúa Giêsu, hầu như các Tin Mừng rất ít nói về Mẹ.
Có thể nói, Mẹ Maria sống âm thầm bằng cách không xuất hiện giữa công chúng, ít nhất khi không cần thiết. Và khi cần, Mẹ Maria tức khắc có mặt, nhưng chỉ hiện diện như người phục vụ, chứ không phải như kẻ có quyền để sai khiến. Điều này thật rõ ràng trong tiệc cưới Cana, nơi cho thấy một hình ảnh trung thực về vai trò của Mẹ. Nơi đó, tác giả Tin Mừng thứ tư cũng ghi nhận sự can thiệp kín đáo của Mẹ qua những lời lẽ tế nhị, gọn gàng chính xác (x. Ga 2).
Maria là mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nếu theo sự thường, mặc khải là vén mở những điều ẩn giấu bằng lời nói và hành động, thì nơi Mẹ Maria, Thiên Chúa mặc khải bằng sự che giấu. Không phải bằng lời nói hay hành động nhưng bằng thinh lặng và chiêm ngưỡng. Có thể nói, mặc khải bằng lời nói và thinh lặng là phương thế dành cho đại chúng. Nhưng mặc khải bằng sự âm thầm và thinh lặng là phương thế ưu việt dành cho những linh hồn đặc tuyển.
Mẹ Maria chiêm ngắm chính thần tính (Chúa Giêsu) mà Mẹ mang trong mình, thần tính đó được kết hợp với xương thịt mình trong ngôi vị là Con Thiên Chúa. Trong Đức Kitô nguồn mọi sự khôn ngoan thông hiểu (x. Cl 2, 3); thế mà Người ở trong Mẹ Maria, nên trong Mẹ đã được che dấu mọi kho tàng khôn ngoan và thông hiểu.
Cũng có thể nói Mẹ Maria là một nhà chiêm niệm, Mẹ chiêm ngắm vinh hiển của Chúa Ba Ngôi trong Con Một Thiên Chúa mà Mẹ sinh ra từ xác thịt Mẹ. Chúa Kitô tỏ cho biết làm sao sự vinh hiển của Chúa Ba Ngôi được biểu lộ trong lúc chiêm niệm khi Người nói: “Không ai biết Con trừ ra Cha, cũng như không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ mà Con mặc khải cho” (Mt 11, 27). Thế mà Chúa Giêsu đã từng mặc khải Chúa Cha và chính mình với tư cách là Con cùng Chúa Thánh Thần cho nhiều người, phương chi cho chính Mẹ mình, vì lòng trong sạch của Mẹ vượt hẳn mọi người, xứng đáng chiêm ngắm Thiên Chúa. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9). Không ai thấy Chúa Giêsu bằng Mẹ Người đã sinh ra Người do chính xác thịt mình. Cũng thế, khi Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ: “Tất cả những gì Thầy đã nghe được nơi Cha của Thầy, thì Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15). Thiết nghĩ, nếu Chúa Giêsu đã mặc khải mọi sự cho các Tông đồ, thì lẽ nào Người lại giấu không mặc khải cho Mẹ Người là “Nữ Vương các Tông Đồ”?
Tóm lại, nơi Trái Tim tinh tuyền của Mẹ Maria có mọi ơn lành của Thiên Chúa để thông truyền cho những ai chạy đến với Mẹ. Và cũng nơi Mẹ, vì Chúa Giê-su đã cho mẹ được hiểu biết tròn đầy về Thiên Chúa nhờ sự chiêm niệm – chiêm ngắm Người, thì giờ đây Mẹ cũng tỏ ra hết cho những ai học với Mẹ để hằng ngày suy niệm Lời Chúa – suy đi nghĩ lại trong lòng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khi kính nhớ trái tim vẹn sạch của Thân Mẫu Ngài, thì cũng biết noi gương Mẹ mà gìn giữ trái tim mình cho trong sạch hầu dành riêng cho Chúa và để hiệp thông cứu độ các linh hồn. Amen.
Hiền Lâm.