Chủ Nhật, 8 Tháng mười hai, 2024

Đọc và suy niệm Tin Mừng TUẦN XXXII THƯỜNG NIÊN, 2017

 

Đọc và suy niệm Tin Mừng

TUẦN XXXII THƯỜNG NIÊN, 2017

 

CHÚA NHẬTKết quả hình ảnh cho hình ảnh dụ ngôn 10 trinh nữ, 5 cô khờ và 5 cô khôn

 

THỨ HAI

(13.11: Các thánh giữ luật Biển Đức 

– lễ dòng Xitô)

THỨ BA

(14.11: Cầu cho anh chị em

giữ luật Biển Đức qua đời – lễ dòng Xitô)

 

THỨ TƯ

THỨ NĂM

THỨ SÁU

THỨ BẢY

 

 Các bài suy niệm: Hiền Lâm

 

CHÚA NHẬT TUẦN XXXII THƯỜNG NIÊN, năm A

 

+  ĐỌC TIN MỪNG: Mt 25,1-13

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: “Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả. 

“Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: “Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả”. Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: “E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn”. Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng, thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: “Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi”. Nhưng người đáp lại: “Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi”. Vậy hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào”.

 

+ SUY NIỆM.

“TỈNH THỨC”

Nước Thiên Chúa được ví như bữa tiệc cưới, mà trong đó chỉ những ai có thái độ tỉnh thức sẵn sàng mới có cơ hội được chú rể là Đức Giê-su dẫn vào đồng bàn với Người trong vương quốc vĩnh cửu.

Hình ảnh năm cô khôn năm cô khờ cùng cầm đèn đi đón chàng rể, nhưng khác nhau ở chỗ là cô khôn mang đèn mang thêm dầu, còn cô dại thì mang đèn không dầu, là hình ảnh tiêu biểu cho hai kiểu sống đạo của chúng ta hôm nay. Chúng ta cùng chung một đức tin (là cùng tin có Chúa và Chúa sẽ đến) như ai cũng mang theo đèn, nhưng khác nhau ở chỗ có thực hành đời sống đức tin hay không, hay là tin nơi đầu môi chót lưỡi, còn cuộc sống thì vô thần, tựa như cái đèn rỗng ruột, không còn tỏa sáng mà đã tắt ngấm tối thui từ khi nào.

 

Về dụ ngôn, chúng ta chỉ biết rằng, phong tục Do-thái tính một ngày bắt đầu từ 6 giờ tối hôm trước và chọn thời gian đầu ngày mới để rước dâu nói lên ý nghĩa việc lập gia đình như là bước vào một khởi đầu mới, còn những chi tiết khác vẫn chưa nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa nào đưa ra được câu trả lời. Tuy nhiên, dụ ngôn là một câu chuyện thường nhật và đôi khi giả tạo, người kể thường nhắm tới nội dung chuyển tải ý nghĩa, chứ không nhằm đến mọi chi tiết tỉ mỉ. Vì thế, chúng ta chỉ tìm hiểu sứ điệp mà Chúa Giê-su muốn nói qua dụ ngôn “năm cô khờ năm cô khôn” là: Chúa đến bất ngờ, thái độ sẵn sàng của chúng ta và sự phân định dứt khoát cuối cùng.

 

– Chúa đến bất ngờ: Hình ảnh tiệc cưới diễn ra ban đêm và chú rể đến không báo trước, cho thấy tính bất ngờ của cái chết cá nhân và tính bất ngờ của ngày tận thế. Việc Chúa đến lạ lùng giống như ngày Chúa đưa Israel ra khỏi Ai-cập hay việc Đức Ki-tô phục sinh trong đêm. Thiên Chúa chọn hình ảnh đêm tối để nhấn mạnh đến tính cách đột xuất và nói lên ý nghĩa giải thoát cứu độ đem ánh sáng vào nơi tối tăm. Tiếng hô giữa đêm tối “kìa chàng rể đến” gợi lên tiếng hô cánh chung lay tất cả tạo vật đang mê ngủ phải tỉnh dậy. Chàng rể đứng ở cửa chờ (lúc các cô khờ đi mua dầu đến muộn) để nói thẳng: “Ta không biết các ngươi”. Điều này khẳng định Lời Chúa Giê-su từng quả quyết: “Không phải chỉ kêu “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai thi hành ý Thiên Chúa mới được vào mà thôi” (Mt 7,22-23; Lc 13,24-25).

 

– Thái độ sống đạo: Hình ảnh năm cô khờ năm cô khờ chỉ ra hai lối sống đạo của chúng ta. Cùng đi đón chàng rể, nhưng kẻ này mang đèn có dầu, kẻ kia mang cái đèn rỗng ruột. Chúng ta cũng thế, cùng “có đạo” và tin chắc chắn sẽ có ngày phải chết, tin có ngày tận thế và tin Chúa Giê-su sẽ quang lâm; nhưng có đức tin (đèn) mới chỉ là điều kiện cần, còn sống đức tin (dầu) nữa mới là điều kiện đủ để được Ơn Cứu Độ. Mang danh có đạo mà không sống đạo thì chỉ là một kẻ hữu danh vô thực và rỗng tuếch, có đèn đức tin đó, nhưng đèn không tỏa sáng mà đã tắt ngấm tự bao giờ. Đừng tưởng mình là người công giáo mà yên tâm có chỗ trong Nước Thiên Chúa, bởi chỉ những ai tin và hành động theo những gì mình tin qua việc sống trọn bổn phận và thực thi đức ái Ki-tô Giáo mới được hưởng sự sống đời đời.

 

– Một sự phân định dứt khoát: Đó là lúc chương trình của Thiên Chúa được hoàn tất, là ngày mà từng người đối mặt với vấn đề thiết yếu nhất của mình: được cứu độ hay không được cứu độ: “Ai sẽ được đem đi và ai bị bỏ lại”. Lúc này, những người cùng trong một hoàn cảnh, sẽ được đối xử bằng những cách đối nghịch nhau. Trong bối cảnh này, việc phân biệt đối xử giữa họ sẽ được dựa trên việc họ sẵn sàng như thế nào để đón chào Chúa đến. Cũng như 10 trinh nữ khi chàng rể đến đón, kẻ vào phòng tiệc người bị từ chối, nói lên một sự phân định dứt khoát. Khi ngày cuối cùng của cuộc đời bất ngờ xảy đến, tự mình không còn cơ hội để chọn lựa nữa, nên ai nấy phải luôn sẵn sàng: Năm cô khôn cũng thiếp đi và họ có thể yên tâm mà ngủ, bởi họ đã cẩn thận chuẩn bị chu đáo là lo sẵn dầu đèn để đốt; còn năm cô khờ dù có tỉnh thức thì chàng rể đến họ vẫn ở “tình trạng ngủ” vì họ không sẵn sàng và không đủ điều kiện. Thật vậy, mọi người chịu trách nhiệm về chính mình, không ai sống đạo thay mình, không ai tin thay mình, không ai yêu mến thay mình và không ai chọn lựa và chuẩn bị thay mình được.

 

Tóm lại: Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức về giờ của từng cá nhân mình phải ra trước tòa Chúa. Đó là lúc được phân định dứt khoát và vĩnh viễn, nên không còn cơ hội để lựa chọn về phần rỗi của mình nữa. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, bởi sự lỡ làng trong công ăn việc làm chúng ta còn có thể bắt đầu lại và có thể sửa chữa được. Nhưng sự lỡ làng trong giờ cuối cùng của cuộc đời sẽ không còn cơ hội để làm lại và lúc đó sẽ hư mất đời đời

 

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết tỉnh thức trước những dấu chỉ của thời đại, nhận ra Chúa hiện diện trong mọi biến cố của cuộc sống và trong tha nhân ; xin cũng giúp chúng con biết giao hòa với Chúa và anh em, để trong ngày chung thẩm, chúng con được Chúa ân thưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.

 

 

THỨ HAI TUẦN XXXII THƯỜNG NIÊN

 

+  ĐỌC TIN MỪNG: Lc 17,1-6

Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã! Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã. Anh em hãy đề phòng!

Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: “Tôi hối hận”, thì anh cũng phải tha cho nó.”

Các Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” Chúa đáp: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời anh em.

 

+ SUY NIỆM

Có ba bài học Chúa dạy chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay là: Tránh làm cớ cho người khác vấp ngã, tha thứ không giới hạn và xin Chúa tăng thêm niềm tin cho chúng ta.

 

* Đừng làm cớ cho người khác vấp ngã.

– Sống trong thế giới, vàng thau lẫn lộn, gương tốt thì ít và gương xấu lại quá nhiều. Ngày nay, phương tiện truyền thông là con dao hai lưỡi khiến những gương mù gương xấu dễ tràn lan và đầu độc con người, đặc biệt là giới trẻ. Nhưng cái xấu xem ra hấp dẫn hơn, mạnh mẽ hơn và dễ bắt chước hơn. 

Chúa Giêsu tỏ ra thái độ dứt khoát và nghiêm khắc đối với những người gây cớ làm cho người khác phạm tội, đặc biệt là ngăn cản người khác đến với Thiên Chúa: ”Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã, thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển thì hơn”. Chúa Giêsu răn đe cương quyết kẻ làm người khác sa ngã vì đó là tiếp tay với ma quỉ, làm gương xấu cho anh em, cho người khác.

– Vì thế, mọi người con Chúa cần phải cẩn trọng giữ mình, biết biện phân trước mọi thông tin và hình ảnh tốt xấu, biết tránh nên cớ vấp phạm cho tha nhân, và đặc biệt làm cho gương sáng và cái tốt được nhân rộng để lấn át bớt sự dữ đang hoành hành.

Giống như đám cỏ gấu không thể diệt sạch được vì nó có rễ sâu, nhưng chúng sẽ bị lấn át khi chúng ta trồng khoai lang vào. Cũng thế, gương xấu tự nó không thể nhổ sạch, nhưng nhân đức sẽ lấn át nó dần dần làm cho sự xấu chết hẳn. Điều đáng ghi nhận là hiện nay nhiều người đã biết dùng những sinh hoạt và trò chơi lành mạnh để thay thế và giúp giới trẻ quên dần những tệ nạn. “không ai làm tôi hai chủ” nếu chúng ta lo tìm kiếm những điều tốt, thì tự nó cái xấu sẽ lụi tàn.

 

* Tha thứ không giới hạn.

– Chúng ta thường nói “quá tam ba bận”, như thế đã là hiều, ấy thế mà trong Tin Mừng Chúa dạy phải tha đế bảy lần. Hơn nữa, theo ngôn ngữ Do Thái, con số 7 là con số đủ, tha đến bảy lần có nghĩa là không đưa ra một hạn định nào cho sự tha thứ. Chúa Giêsu trên thập giá đã KÊU XIN CHÚA CHA tha thứ cho người đóng đinh mình, thánh Têphanô khi bị ném đá cũng CẦU XIN CHÚA tha thứ cho những kẻ bách hại… Đến lượt chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta giống Chúa và khác với người ngoại chính là việc yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho họ. 

– Khi tha thứ là lúc được thứ tha. Mang trong mình sự hận thù, thì chính ta khổ trước, ăn không ngon ngủ không yên vì tức giận ấm ức, trằn trọc nghĩ kế trả đũa… Nhưng khi ta tha thứ thì không phải lo nghĩ gì và tâm hồn thanh thản, nhất là khi ta tha thứ thì ta không còn kẻ thù mà lại được bạn hữu. Tha thứ lại là một cách trả thù ngọt ngào nhất mà đối phương không ngờ, và làm cho chính đối phương dằn vặt vì nhận ra chính họ sai khi xúc phạm đến một người tốt, cuối cùng làm cho đối phương cảm kích và thay đổi thái độ. 

 

* Sức mạnh của niềm tin.

– Chúa Giêsu đã nói: “Nếu anh em có lòng tin nhỏ xíu bằng hạt cải thôi, anh em có thể truyền lệnh cho cây dâu nầy bật gốc lên, xuống mọc dưới biển kia cũng được”. Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn nói rằng đức tin có khả năng làm phép lạ như một sức mạnh phù phép, bùa chú, hiểu theo nghĩa đen là “chuyển núi dời non”.Nhưng Ngài muốn nói: đức tin là một động lực thúc đẩy chúng ta dám nghĩ, dám làm những việc to lớn, phi thường mà nếu không có lòng tin, chúng ta không dám hành động. Bởi vì, người có lòng tin thì hành động bằng quyền năng của Thiên Chúa, chứ không phải bằng khả năng giới hạn của mình. 

– Nhờ đức tin thúc đẩy, chúng ta dám khởi công bắt ta vào việc xây dựng cuộc sống cho mình, cho anh chị em mình, rồi Chúa sẽ tiếp tay giúp sức chúng ta bằng quyền năng vô biên của Ngài, để hướng dẫn và biến đổi công việc nhỏ bé của chúng ta trở thành công trình to lớn, vĩ đại, phi thường. Một ví dụ cụ thể là: Hiệu quả đức tin của các Tông đồ không cân xứng với khả năng nghèo nàn của con người họ. Vốn là những người không có ảnh hưởng, quyền lực, phương tiện tài chính, tổ chức, báo chí, truyền hình… thế mà các Tông Đồ đã thay đổi dòng lịch sử. 

 

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết học các Tông Đồ mà chạy đến với Chúa và thưa: “Lạy Chúa, xin ban thêm niềm tin cho chúng con”, để rồi, nhờ sức mạnh của niềm tin vào Chúa, chúng con dám nghĩ và dám làm những điều mang lợi lợi ích cho sự nghiệp nước Chúa.  Amen.

 

 

Ngày 13/11: CÁC THÁNH GIỮ LUẬT BIỂN ĐỨC

 

ĐỌC TIN MỪNG: Mt 5,13-16

“Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.

“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.

 

SUY NIỆM

Vai trò của mọi Kitô hữu chúng ta hôm nay là giữ cho xã hội khỏi suy thoái, đồng thời giúp cho xã hội được thăng tiến. Lời Chúa hôm nay là một lời mời gọi các Kitô hữu làm chứng cho Tin Mừng trong cuộc sống, như ánh sáng soi thế giới và như muối ướp cho đời.

 

* Anh em là muối cho đời.

Muối được kể là một sản phẩm không thể thiếu trong đời sống con người. Muối vừa làm phân bón cho đất đai màu mỡ, vừa làm gia vị cho các món ăn thêm thơm ngon đậm đà, vừa bảo quản thực phẩm cho khỏi hư thối.

Khi Chúa Giêsu định nghĩa: “Anh em là muối cho đời”, Người muốn Kitô hữu chúng ta gắn liền với cuộc đời và hòa mình với mọi người, như muối thấm vào thức ăn và giữ cho nó khỏi hư và thêm đậm đà. Nghĩa là giữ cho xã hội khỏi bị suy thoái và làm cho cuộc sống thêm hương vị và ý nghĩa nhờ đời sống đạo đức.

Khi muối dùng để ướp thực phẩm thì muối phải chịu tan biến đi, thì Kitô hữu khi dấn thân làm chứng cho Chúa cũng biết chấp nhận hoà tan, biến mình đi trong chất mặn vị kỷ, để hiến dâng cho đời hương vị thơm ngon, mặn nồng của quảng đại và vị tha. 
Thế nhưng, Chúa Giêsu cũng lưu ý: “Nếu muối đã nhạt thì chỉ có vứt bỏ đi và để cho người ta chà đạp”. Thật vậy, vị mặn là yếu tố quan trọng và là bản chất của muối, nên nếu muối ra nhạt thì chẳng đáng gọi là muối, vì chẳng ướp được gì nữa. Cũng vậy, khi đánh mất bản chất Kitô hữu của mình thì đời sống đạo chỉ là vô ích và trở nên phản chứng cho người ta xúc phạm danh Chúa và đạo thánh Người.

 

* Anh em là ánh sáng cho trần gian.

“Thiên Chúa mới là Ánh Sáng” (1Ga 1,5) và chỉ có Chúa Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga 8,12).  Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu cũng muốn các môn đệ là Kitô hữu chúng ta trở thành ánh sáng cho thế gian. Vì thế, muốn trở thành ánh sáng như Chúa Giêsu, chúng ta phải ở gần Người và kết hiệp với Người, bởi “gần đèn thì ta được toả sáng”. Chúng ta trở thành ánh sáng cho thế gian khi phản chiếu vinh quang Chúa bằng đời sống chứng nhân.

“Thà thắp lên một ngọn nến hơn là cứ ngồi đó mà than khóc bóng tối”. Chúng ta ngồi than trách thế giới hôm nay tuy tiến bộ về khoa học kỹ thuật lại là một thế giới nhạt nhẽo, mất ý nghĩa, một thế giới tối tăm và vẩn đục xấu xa tội lỗi, nhưng chúng ta lại không dám dấn thân thì thật là vô ích. Chúng ta hay phàn nàn về sự xuống cấp và suy đồi đạo lý, nhưng người Kitô hữu ít khi nhìn nhận phần trách nhiệm của mình trước thực trạng đó. Thế giới chìm trong bóng đêm tội lỗi đang rất cần những tia sáng để giảm bớt và xua tan. Ánh sáng có sức mạnh hơn bóng tối – một cây nến nhỏ được thắp lên cũng đủ làm ánh sáng tràn ngập một căn phòng lớn.
Khi lan toả ánh sáng cho thế gian, người Kitô hữu cũng chấp nhận sự tiêu hao bằng những vất vả hi sinh, tựa như ngọn nến cháy phải chịu tiêu hao để cả căn phòng được sáng. Thật vậy, người Kitô hữu phải mất đi cho chính mình, phải tan biến đi để Ánh Sáng Chúa Kitô được loan toả khắp nơi, khắp mọi nhà và khắp mọi tâm hồn.

 

* Không ai đốt đèn rồi để xuống đáy thùng.

Không ai đốt đèn mà lại để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên đế để mọi người thấy ánh sáng… Nghĩa là Đức Tin của chúng ta không phải “đạo tại tâm” giấu diếm, mà cần được toả sáng, để mọi người nhìn vào đó mà nhận ra Chúa.

Ánh sáng thì không thiên vị phân biệt ai, tựa như ánh mặt trời lan tỏa khắp nơi, chiếu sáng mọi người và mọi nhà. Cũng vậy, ánh sáng của chúng ta phải “đặt trên đế” – phải ở trên cao, vượt trên mọi danh vọng, tiền tài, lạc thú”.

Vẫn còn nhiều Kitô hữu, có khả năng nhưng lại rụt rè, đặt ngọn đèn đời mình dưới thùng. Nghĩa là họ không dám dấn thân vào đời, vì sợ nguy hiểm, vì thiếu tự tin hoặc vì hiểu sai thế nào là khiêm tốn thực sự.

Niềm tin cần được thể hiện bằng những hành động cụ thể của một người có đức tin. Khi làm điều gì, người có đức tin vào Chúa sẽ hành động dưới sự hiện diện của Thiên Chúa và lý tưởng đời sau. Còn người không có đức tin thì làm mọi cách kể cả thủ đoạn để đạt được điều trước mắt mà thôi.

 

Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức rằng, cuộc sống chúng con phải tỏa sáng qua bao điều tốt đẹp chúng con làm vì Chúa, để mọi người nhận ra Chúa là Nguồn Ánh Sáng mà bước theo hầu vượt ra khỏi bóng đêm tội lỗi. Xin cho chúng con dám dấn thân vì Tin mừng của Chúa, chấp nhận tiêu hao mà tan biến đi, để như men muối chúng con ướp mặn thế giới trong tình thương Danh Chúa được mọi đời tôn vinh. Amen.

 

 

THỨ BA TUẦN XXXII THƯỜNG NIÊN

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Lc 17, 7-10

“Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: “Mau vào ăn cơm đi”, chứ không bảo: “Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau! ?Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”

 

+ SUY NIỆM

Sống đức tin là sống phục vụ. Có làm được điều gì tốt lành thì đó là việc phải làm chứ chẳng có gì để mà vênh vang tự đắc hay có quyền đòi Chúa hay mọi người biết ơn. Do đó, mỗi khi hoàn thành nhiệm vụ, mỗi người phải khiêm tốn tự nhận mình chỉ là “người tôi tớ tầm thường, vì đã làm việc bổn phận đấy thôi.”

Nếu nhờ đức tin, mọi người đều lấy mình làm tôi tớ lẫn nhau thì chắc chắn đức tin ấy sẽ làm được những việc phi thường. Đó là phép lạ của đức tin có hành động. Và cũng chính hành động nầy sẽ kiểm tra chất lượng đức tin của chúng ta xem nó bằng bao nhiêu sánh với hạt cải bé nhỏ. 

 

Tin Chúa, theo Chúa là đem cả cuộc đời mình hiến thân phục vụ anh em như một chuyện đương nhiên, không đòi hỏi được đền ơn, đáp nghĩa, được biểu dương hay khen thưởng. Tin Chúa, theo Chúa không để chi lo cho phận riêng mình cách ích kỷ, không chạy theo lợi lộc, không tìm thăng quan tiến chức, nhưng để phục vụ mọi người như lẽ sống đời mình. Thái độ phục vụ không kể công, không vụ lợi là một yếu tố quan trọng đối với đời sống cộng đồng Giáo Hội cũng như xã hội. Sự đòi hỏi người khác biết ơn và đền ơn, đó là hành động của ước muốn thống trị và là bước đầu đưa tới thống trị trên người khác. Muốn cho tương quan trong cộng đồng xã hội mãi mãi trong sáng là tương quan huynh đệ, Chúa Giêsu đã dạy cách phục vụ không vụ lợi, không kể công. 

 

Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ đề cao cảnh giác trước tính kiêu ngạo của những người biệt phái và luật sĩ. Họ quan niệm Thiên Chúa như một ông chủ hà khắc, chi li, thưởng phạt tùy theo công đức của mỗi người. Chính vì thế mà họ coi những việc lành phúc đức như ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, bố thí… là những việc lành mà Thiên Chúa buộc phải ân thưởng bội hậu cho họ.

Hình ảnh của người đầy tớ tự cho mình là người vô dụng mà Chúa Giêsu sử dụng trong mạch văn này có ý nói rằng, con người không có bất cứ quyền nại đến công nghiệp nào của mình để buộc Thiên Chúa ban ơn cho mình. Thiên Chúa ban ơn cho con người một cách nhưng không, và để đáp lại ân huệ của Ngài, con người chỉ có thể nói lên lòng tri ân và phó thác mà thôi. Tất cả cuộc sống của mình, tất cả những gì mình làm được, con người chỉ có thể và dâng lên Thiên Chúa như một đáp đền và phó thác.

 

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều chỉnh lại quan niệm về Thiên Chúa mà chúng ta đang có, cũng như cách diễn tả niềm tin của chúng ta:

– Liệu chúng ta đã tính toán so đo với Chúa trên cách sống đạo của chúng ta?

– Liệu chúng ta đã giơ tay cầu nguyện, xin lễ, ăn chay, hãm mình và làm bao nhiêu những việc lành phúc đức khác để cốt Thiên Chúa trả công và chúc lành cho những công việc làm ăn và cuộc sống của chúng ta?

– Liệu có những lúc chúng ta tự phụ rằng, những thành công và may mắn chúng ta đang có là một ân thưởng mà Thiên Chúa đã ban tặng vì công nghiệp và hy sinh của chúng ta…?

 

Lạy Chúa Giê-su, là tín hữu, chúng con có phận vụ phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân, xin cho chúng con lo chu toàn nghĩa vụ của một người con Chúa mà không so đo tính toán hay tìm vinh danh cho mình, nhưng tất cả theo ý Chúa và cho vinh quang Chúa. Amen

 

 

14-11: CẦU CHO CÁC ANH CHỊ EM GIỮ LUẬT BIỂN ĐỨC ĐÃ QUA ĐỜI

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Lc 23,33.39-42

Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái.

Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với! ” Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái! ” Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi! “

 

+ SUY NIỆM

Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:

Hình ảnh ngôn sứ Isaia được nhìn thấy (bài đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: “…Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc… Chính Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông…” (x. Is 25,6a.7-9).

Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh Phaolô cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, bởi vì những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23).

Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích lệ lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần một thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của Chúa sẵn sàng tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.

Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như người “trộm lành” kia, theo Chúa trong “giờ thứ 11”, nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai thái độ:

 

* Nhận ra con người tội lỗi của mình.

Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng “trộm lành” có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của các tội nhân mang án tử. Anh đã nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế, chỉ vì anh đã thống hối và tin vào Chúa Giêsu.

Người trộm lành được cứu là vì anh ta đã ý thức tội lỗi của mình và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đã gây ra. Đồng thời nhờ vào niềm tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, Thật vậy, như lời thánh Phaolo dạy: “Chúa Giêsu đã chết để cứu chúng ta là tội nhân…” (Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa, chúng ta không thất vọng, chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ vì đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, miễn là chúng ta dám tin và sống niềm tin đó.

 

* Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.

Chỉ dừng lại ở sám hối mà thôi thì chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin nơi Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm của đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu mình bằng nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.

–  Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu đã qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn của mình, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giải thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng, là những người như chúng ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống niềm tin đó còn thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây giờ còn phải thanh luyện nơi luyện ngục.

Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc nào Chúa gọi mình ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.

 

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã hứa rằng: “ai xin thì sẽ được, ai gõ thì sẽ mở cho”, ngày hôm nay chúng con hiệp nhất cầu nguyện, và tạ ơn thay cho các linh hồn, xin Chúa đoái thương nhận những lời cầu xin chân thành của chúng con và đem các linh hồn về Thiên Đàng với Chúa. Amen.

 

 

THỨ TƯ TUẦN XXXII THƯỜNG NIÊN

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Lc 17, 11-19

Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi! ” Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. Đức Giê-su mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này? “. Rồi Người nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”

“Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này! hay “Ở kia kìa! , vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.”

 

+ SUY NIỆM

Bài Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe, rất nhiều người dễ cho rằng, chín người Do Thái vô ơn còn người Samaria lại tỏ ra biết ơn hơn.

Xin được đưa ra vài gợi ý:

Trong sách Lv 13,18-23 quy định rằng, để được chứng nhận là hết bệnh, phải đến tư tế khám (chúng ta không biết trình độ y khoa của tư tế đến mức nào), và tư tế cô lập con bệnh trong 7 ngày để cho chắc ăn rồi khám lại, rồi mới tuyên bố là đã khỏi hay chưa.

Như thế, nếu đặt vào bối cảnh câu chuyện Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể hiểu như sau: Đang khi trên đường đi trình diện tư tế (ĐANG KHI ĐI, chứ không phải SAU KHI ĐI), thì 10 người phong hủi đã được khỏi bệnh. Người Do Thái thì phải lo thủ tục đi trình diện tư tế, chờ khám nghiệm đủ ngày, rồi mới được hoà nhập cộng đồng chiếu theo luật, vì lâu này họ phải sống cách ly với xã hội. Còn người Samari là dân ngoại, nên không phải lo chuyện trình diện, và khi vừa thấy khỏi bệnh liền vui mừng chạy quay lại để cám ơn.

 

Chúng ta có thể đặt vấn đề: 

– Nếu Chúa Giêsu chữa lành ngay lúc họ xin, mà không bảo đi dọc đường rồi mới được khỏi thì có lẽ 10 người đều đã cám ơn như nhau

– Tại sao Chúa Giêsu khi đã biết luật Do Thái quy định cho người cùi phải trình diện tư tế và có thời gian kiểm nghiệm, Người lại ngạc nhiên vì họ không trở lại tạ ơn Thiên Chúa (hơn nữa 9 người kia phải về đền thờ để gặp tư tế bằng bộ hành thì rất lâu, vì Chúa Giêsu đang ở ranh giới miền Galilê và samaria, cách xa Giêrusalem).

– Chúa Giêsu đâu cần đến lòng biết ơn….

 

Chúng ta chỉ tìm được câu trả lời cho những vấn đề trên nơi câu kết của bài Tin Mừng khi Chúa nói với người Samari: LÒNG TIN CỦA CON ĐÃ CHỮA CON

– Cả mười người khi chưa được chữa lành mà vẫn vâng lời đi trình diện tư tế thì đã là một thái độ của vâng phục và tin tưởng rồi. Vì luật buộc họ xa cách cộng đồng, lại nữa, chưa được chữa lành thì đến tư tế để khám làm gì, lại phải mang thêm tội.

– Nhưng cái khác ở đây là, một người vừa được chữa lành, đã vội quay lại tạ ơn thiên chúa vì không nghi ngờ gì nữa (dù cũng có thể hiểu là người này không bị buộc theo luật phải trình diện tư tế, và anh cũng không có chỗ để đi dâng hy lễ tạ ơn).

– Còn chín người kia dù đã được khỏi, nhưng lo đi trình diện và khám nghiệm cho chắc ăn (NGHI NGỜ), rồi mới lo sửa soạn lễ vật để dâng lễ.

– Những người kia được lành lo đi lo chuyện gia nhập cộng đồng, nghĩa là lo cho mình trước mà quên mất rằng được ơn thì phải biết tạ ơn Chúa.

 

Như vậy, có thể đi đến một kết luận: 

– Chúa Giêsu trách sự kém lòng tin của chín người Do Thái bị phong hủi được Chúa chữa lành.

– Chúa Giêsu ca ngợi lòng biết ơn của người Samari.

– Khi hỏi “những người kia đâu?” Một cách nào đó, chúa Giêsu trách sự câu nệ lề luật của Do Thái Giáo, đã đóng khung con người trong một hệ thống lề luật khắt khe, mà làm mất đi tình người.

– Chúa trách chín người Do Thái kia lo chuyện gia nhập cộng đồng (cho mình) hơn là tạ ơn Chúa.

 

Bài học:

– Nhờ đức tin mà chúng ta được chữa lành mọi vết thương thiêng liêng trong tâm hồn, và cũng nhờ đức tin mà chúng ta có thể vượt thắng những bệnh tật thể xác. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.

– Chúng ta được cứu độ nhờ tin vào Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải chúng ta được cứu độ nhờ ỷ thế vào sức mình tuân giữ lề luật. Xin cho chúng ta không câu nệ vào lề luật mà bỏ quên luật yêu thương…

– Khi nhận được ơn lành, chúng ta cần biết tạ ơn Chúa, trước khi lo cho những việc ra mắt vinh quy… ưu tiên việc Chúa trên hết.

 

Lạy Chúa Giê-su, “Những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời”. Vì vậy, xin Chúa cho chúng con luôn biết tạ ơn Chúa, đồng thời cũng biết cám ơn nhau. Amen.

 

 

THỨ NĂM TUẦN XXXII THƯỜNG NIÊN

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Lc 17, 20-25

 Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này! hay “Ở kia kìa! , vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.”

Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một trong những ngày của Con Người thôi, mà cũng không được thấy. Người ta sẽ bảo anh em: “Người ở kia kìa! hay “Người ở đây này! Anh em đừng đi, đừng chạy theo.Vì ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ.

 

+ SUY NIỆM

Tin vào ngày tận thế hay ngày Chúa quang lâm là một trong những điểm nòng cốt của Kitô giáo. Hàng ngày, trong Thánh Lễ, các tín hữu tuyên xưng sau truyền phép: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến”. 

 

“Chúa lại đến”. Đức Giê-su nói rằng thực tại thần linh này không đến một cách hiển nhiên có thể quan sát được. Một điều chắc chắn là có chung kết lịch sử, có ngày Chúa Giêsu quang lâm, nhưng không một ai từ hàng chư thánh, các thiên thần đến loài người được biết về thời gian ngày tận thế. Chính vì vậy, Chúa Giêsu cảnh báo đừng tin những tiên tri giả và những lời đồn đoán gây hoang mang, như “ngày 22/12”, sự cố Y2K (năm 2000), tối mấy ngày đêm… và rõ ràng là đã không hề xảy ra, dù không thiếu những người, kể cả người công giáo đã tin theo và lo trữ nến và trữ mì ăn liền để “trốn” Ngày Chúa Đến. 

 

Nước Thiên Chúa sẽ thành tựu ở một thời điểm mà không ai biết trước được vào ngày Chúa Giêsu sẽ quang lâm. Thiên Chúa quả thực đã đặt để trong lòng con người hạt giống của sự sống vĩnh cửu, hạt giống ấy chỉ có thể nẩy mầm trên thửa đất của hiện tại mà thôi: không thể đi vào vĩnh cửu mà không bước qua hiện tại, không thể yêu mến vĩnh cửu mà lại khước từ hiện tại.

Tính cách bất ngờ của Ngày Chúa Ðến, nên đòi hỏi các tín hữu phải luôn tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân tích cực trong giây phút hiện tại, chứ không phải là ăn không ngồi rồi mà chờ đợi. 

 

Chúa Giêsu nói: “Giống như chớp sáng loè từ chân trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ đến trong ngày của Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người phải chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi”. Không ai thấy trước được ánh chớp, Chúa đến bất ngờ như ánh chớp loé ra và chúng ta chỉ thấy được khi Người đã xuất hiện rồi, khi đó thì đã muộn nếu chúng ta không sẵng sàng. Chúa đến trong uy quyền sáng láng, nhưng trước đó Người phải chịu tử nạn, nghĩa là con đường của thân phận con người qua thập giá đến vinh quang.

 

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con ý thức rằng: tỉnh thức là thể hiện niềm tin Chúa sẽ đến, là biểu lộ lòng yêu mến chờ đợi Chúa, là trung tín với những gì Chúa giao phó và khôn ngoan làm sinh lợi cho sự nghiệp của Chúa…. để khi Chúa đến chúng con sẵn sàng cùng với Chúa bước vào quê trời vinh hiển. Amen.

 

 

THỨ SÁU TUẦN XXXII THƯỜNG NIÊN

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Lc 17, 26-37

“Và cũng như thời ông Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy. Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lót: thiên hạ ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất. Nhưng ngày ông Lót ra khỏi Xơ-đôm, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, ngày Con Người được mặc khải.

 “Ngày ấy, ai ở trên sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy. Cũng vậy, ai ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại. Hãy nhớ chuyện vợ ông Lót. Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống. Thầy nói cho anh em biết: đêm ấy, hai người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.” Các môn đệ lên tiếng hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ở đâu vậy? ” Người nói với các ông: “Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó.”

 

+ SUY NIỆM

Những ngày cuối năm Phụng Vụ, Giáo Hội cho đọc những bài Tin Mừng liên quan đến việc Chúa Giêsu quang lâm và kêu gọi mọi người sẵn sàng tỉnh thức. Toàn cảnh Bài Tin Mừng hôm nay đặc biệt nhấn mạnh đến hình ảnh cuộc quang lâm đầy tính bất ngờ và việc được cứu vớt hay bị tiêu diệt.

 

* Tính bất ngờ của ngày quang lâm.

Chúa Giêsu không mạc khải về thời giờ cụ thể của ngày này, Người chỉ nói sẽ có ngày tận thế và ngày ấy đến một cách rất là nhanh chóng và bất ngờ như “ánh chớp chói lòa chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia” (x. Mc 13,32).

Và để minh họa cho tính bất ngờ của ngày tận thế ấy, Chúa Giêsu dùng hai sự kiện cụ thể trong thời Cựu ước, đó là Lụt Đại Hồng Thủy thời Nôe và Lửa thiêu hủy Sôđôma thời ông Lót để mời gọi mọi người phải có thái độ sẵn sàng cho ngày ấy. Ngày tận thế sẽ đến bất ngờ và nhanh chóng và cái chết cũng đến với mỗi chúng ta bất ngờ như vậy. Vì thế, cần luôn tỉnh thức cầu nguyện và chuẩn bị hành trang thiêng liêng là làm việc lành phúc đức, để khi Chúa đến, Người sẽ gặp thấy chúng ta là những người đầy tớ trung thành và khôn ngoan và triều đại Thiên Chúa sẽ thuộc về chúng ta.

 

* Một sự phân định dứt khoát.

Ngày tận thế, khi cuộc phán xét chung diễn ra. Đó là lúc chương trình của Thiên Chúa được hoàn tất, là ngày mà từng người đối mặt với vấn đề thiết yếu nhất của mình: được cứu độ hay không được cứu độ: “Ai sẽ được đem đi và ai bị bỏ lại”. 

Lúc này, những người cùng trong một hoàn cảnh, sẽ được đối xử bằng những cách đối nghịch nhau. Trong bối cảnh này, việc phân biệt đối xử giữa họ sẽ được dựa trên việc họ sẵn sàng như thế nào để đón chào Chúa đến. Ngày kẻ lành được thưởng công và kẻ dữ bị tiêu diệt. Chính vì thế, chúng ta được mời gọi sống trong tâm thế sẵn sàng đón Chúa quang lâm, trong khi vẫn dấn thân xây dựng trần thế tốt đẹp theo ý Chúa. Việc sẵn sàng đối diện với ngày Chúa đến không phải lo tích trữ đèn nến hay lương thực để đối phó (vì chỉ vô ích) mà hãy lo chuẩn bị tâm hồn trong sạch để xứng đáng với ngày Vua Công Chính ngự đến.

 

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết tỉnh thức trước những dấu chỉ của thời đại, nhận ra Chúa hiện diện trong mọi biến cố của cuộc sống và trong tha nhân ; xin cũng giúp chúng con biết giao hòa với Chúa và anh em, để trong ngày chung thẩm, chúng con được Chúa ân thưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.

 

 

THỨ BẢY TUẦN XXXII THƯỜNG NIÊN

+ ĐỌC TIN MỪNG: Lc 18,1-8

Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. Người nói: “Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: “Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho. Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.”

Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng? “

 

+ SUY NIỆM

Cầu nguyện được ví như hơi thở, là hoạt động căn bản của đời sống tâm linh. Cầu nguyện đối với người Công Giáo, chính là thể hiện niềm tin, phó thác cho sự an bài quan phòng của Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc cầu nguyện, đồng thời Người dạy mỗi chúng ta hãy kiên trì và trung thành khi cầu nguyện.

 

Kiên trì cầu nguyện.

Kiên trì là bí quyết chắc chắn để đạt tới thành công trong mọi lĩnh vực, như người ta thường nói: “có chí thì nên” hoặc: “cố công mài sắt, có ngày nên kim.” Trong lĩnh vực tâm linh cũng thế, nếu chúng ta biết kiên trì cầu nguyện, chúng ta sẽ nhận được điều chúng ta nhẫn nại cầu xin. 

Bài học trong dụ ngôn này không phải dạy chúng ta cứ mãi mãi nài xin ép buộc được Chúa cực chẳng đã, đành ban cho chúng ta điều chúng ta muốn. Nhưng nhắm tới một sự kiên trì cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện phải cần đến niềm tin và hi vọng, mà niềm tin cần đến sự thử thách và niềm hi vọng cần đến sự vững vàng kiên nhẫn. Thiên Chúa là Cha hiểu thấu chúng ta cần gì và điều gì tốt cho chúng ta, Người sẵn sàng ban những ân huệ cần thiết, nhưng Người cần sự khao khát, phó thác và tâm tình của một người con thân thưa với Người. Khẩn cầu liên lỉ liên kết con người với Thiên Chúa cách khắng khít hơn, khiến con người phải ý thức hơn về tình trạng bất lực của riêng mình, nhận rõ hơn việc phải hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa. 

 

Thiên Chúa là Cha tốt lành.

Chúa Giêsu khẳng định: “…Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ”. Tuy nhiên, chúng ta dễ hiểu sai cốt lõi của lời cầu nguyện và thất vọng vì không thấy Chúa nhận lời. Chúng ta thường xin với nhu cầu thể xác, mục tiêu vật chất, của cải phù vân, thậm chí còn xin cả những cái gây lầm lạc cho mình nữa.

Thiên Chúa thoả mãn ta bằng những điều thiện hảo rất cao quý; Người ban Thánh Thần cho ta. Khi con người nhận lấy Thánh Thần thì nhận được những sự phong phú rất cao quý chứ không phải chỉ những của cải vật chất. Vì vậy, càng cầu xin kiên trì và tín thác bao nhiêu, thì càng chất chứa đầy Thánh Thần nơi tâm hồn bấy nhiêu. 

Đức tin cho chúng ta một bảo đảm: Thiên Chúa là người Cha nhân hậu, nên Người chỉ ban những điều tốt lành thật sự mang lại hạnh phúc đích thực. Lắm khi chúng ta xin những điều không tốt lành thực sự, những hạnh phúc không vững bền, và lúc đó, Thiên Chúa có quyền đáp ứng điều chúng ta xin theo cách Người muốn và theo cách tốt nhất cho chúng ta.

Thiên Chúa ban điều tốt lành hơn chúng ta mong đợi. Giống như trường hợp đứa bé đòi uống nước ngọt có ga, nhưng mẹ lại cho uống sữa, vì bà biết sữa sẽ tốt hơn cho sức khoẻ, còn nước ngọt dễ làm bé đau bụng, dù sữa không làm cho bé khoái khẩu. Cũng thế, Thiên Chúa ban cho ta điều tốt cho ta, dù trước mắt chúng ta cảm thấy không thoả mãn.

Thiên Chúa có thể không ban trực tiếp điều ta xin, vì có thể làm cho chúng ta ỷ thế lười biếng chờ sung rụng, nhưng Người ban cho chúng ta sức khoẻ, thì giờ và phương tiện để chúng ta đạt được điều chúng ta ao ước chính đáng.

 

Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Amen.

 

Hiền Lâm

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

BÀI VIẾT MỚI

spot_imgspot_img

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ngày 3-12, lễ kính thánh Phanxicô Xaviê, Linh mục (Mc 16,15-20) Đi tìm vinh quang thật

Ngày 3-12, lễ kính thánh Phanxicô Xaviê, Linh mục (Mc 16,15-20) Đi Tìm Vinh Quang Thật Lm. Gioan Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist Bản chất của Hội...

Kính thánh Phanxicô Xaviê, Mc 16,15-20

  KÍNH THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Đôi nét tiểu sử: Thánh Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại Điên Xaviê thuộc...

Thứ 7, Tuần XXXIV, Kính Thánh Anrê Tồng đồ, Mt 4, 18-22

KÍNH THÁNH ANRÊ TÔNG ĐỒ Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Đôi nét về tiểu sử: Thánh Anrê quê ở Betsaida và là một...

Ngày 30.11 – Lễ kính thánh Andre Tông đồ

  HÀNH TRÌNH ƠN GỌI (Mt 4, 18-22) M. Kolbe, Phước Hiệp Lễ thánh Andre Tông đồ, là dịp để chúng ta suy niệm về tiếng gọi...

Thứ 6 Tuần XXXIV TN, Lc 21,29-33 Trời mới đất mới

TRỜI MỚI ĐẤT MỚI Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Bối cảnh: Với bài diễn từ “Cánh Chung” Đức Giêsu tiên báo thành Giêrusalem...

Thứ Năm Tuần XXXIV TN – Lc 21,20-28 Giêrusalem bị tàn phá

  GIÊRUSALEM BỊ TÀN PHÁ Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Bối cảnh: Để chúng ta biết được phần nào đoạn Tin Mừng của thánh...

Thứ 4 Tuần XXXIV TN – Lc 21,12-19 Vì danh Thầy anh em sẽ bị bắt nộp và ngược đãi

  VÌ DANH THẦY ANH EM SẼ BỊ BẮT NỘP VÀ NGƯỢC ĐÃI Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Bối cảnh: Các môn đệ cũng như...

Thứ Bảy, Tuần XXXIII, Thường niên (Lc 20,27-38) Tôi tin có sự sống đời đời

Thứ Bảy, Tuần XXXIII, Thường niên (Lc 20,27-38) Tôi Tin Có Sự Sống Đời Đời Lm. Gioan Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist Chúng ta đang sống trong...

Thứ 6 Tuần XXXIII TN, Lc 19,43-48: Thanh tẩy nhà Cha

THANH TẨY NHÀ CHA Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Bối cảnh: Vào dịp trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt qua hơn hai...

Thứ 5, Tuần XXXIII TN, Mt 12,46-50: Ai thuộc về gia đình Đức Giêsu

    AI THUỘC VỀ GIA ĐÌNH ĐỨC GIÊSU Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Bối cảnh: Sau những lời khiển trách các người cứng tin,...

Thứ 5 Tuần XXXIII TN, Lc 19,41-44: Chúa Giêsu than khóc thành Giêrusalem

CHÚA GIÊSU THAN KHÓC THÀNH GIÊRUSALEM Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Từ Giêrikhô, Đức Giêsu đã cuốc bộ suốt quãng đường...

Thứ 4 Tuần XXXIII TN – Lc 19, 11-20 Dụ ngôn mười yến bạc

DỤ NGÔN MƯỜI YẾN BẠC Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Bối cảnh: Dụ ngôn mười yến bạc này được Đức Giêsu kể...