Thứ năm, 21 Tháng mười một, 2024

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số13: CÁM DỖ

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM

   

 Nội san linh đạo đan tu

 

CÁM DỖ

 

Số 13 – Tháng 07 năm 2013  

LỜI GIỚI THIỆU

Cùng quí đọc giả thân mến!

Sau chiếu chỉ Milano, các ki-tô hữu cảm thấy cuộc sống quá thanh bình đến vô nghĩa. Người ta không còn nhiều thử thách để tôi luyện mình và không còn những cơ hội để trở nên chứng nhân cho Chúa qua các cuộc tử đạo. Vì thế, rất nhiều ki-tô hữu nhiệt thành đã vào sa mạc để “chết đi” cho thế gian và sống cho một mình Thiên Chúa. Họ đã chọn nếp sống khổ hạnh và cô tịch để bắt chước một Chúa Giêsu nghèo, một Chúa Giêsu đang cầu nguyện. Tuy nhiên, theo Jean Cassien, sau một thời gian, lòng nhiệt thành ban đầu trở nên nguội lạnh và nhiều đan sĩ đã sống lây lất trong tâm trạng chán chường, thiếu sức sống và bỏ bê đời sống thiêng liêng.

Tâm trạng ấy cũng là tâm trạng của một số đan sĩ ngày nay. Tuy mặc một hình dạng mới, nhưng nội dung chỉ là một; dù đó là những hình thức “cám dỗ” rất quen, nhưng sức tàn phá vô cùng lớn, nhất là trong thời đại kinh tế toàn cầu hóa hôm nay, với sự bùng nổ của thuyết duy tương đối và não trạng hưởng thụ. Một thời đại mà từ ngữ “chết cho thế gian” xem ra rất mỏng manh, không dễ thực hiện nếu không có quyết tâm lội ngược dòng.

Nội san “Hạt Giống Chiêm Niệm” số 13 không có tham vọng phác họa lên một bức tranh toàn diện về những thử thách và cám dỗ của thời đại trong nếp sống đan tu, nhưng chỉ muốn nêu lên những nét chấm phá để anh chị em đan sĩ trong Hội Dòng cùng nhau suy tư và rút kinh nghiệm cho bản thân.

Với ước vọng nhỏ bé ấy, ban biên tập trân trọng gửi đến quí Viện Phụ, quí Bề trên và anh chị em trong Hội Dòng những suy tư đơn sơ và chân thành, như là một sự cố gắng cùng nhau lớn lên trong đời sống thánh hiến đan tu.

Ban Biên Tập

 

 

 MỤC LỤC

 

 

 

SA MẠC HỒNG ÂN

 FM. Duy Ân    

Lời mở

Các chuyên gia về an toàn môi sinh mới đây lại cảnh báo nguy cơ: nhiều vùng đất (cách riêng tại Phi Châu) đang bị sa mạc hóa, và như vậy vô hiệu hóa khả năng nảy hạt sinh mầm để đáp ứng nhu cầu thực phẩm và tạo thêm màu xanh cho hành tinh chúng ta.

Một cách tương tự, lãnh vực tâm linh của nhân loại cũng đang lâm cảnh “sa mạc hóa”, nghĩa là con người để cuộc đời bị mất đi lẽ sống. Bằng chứng là hiện tượng tự tử cao nhất tại Nhật Bản, một quốc gia tiến bộ và giàu có hàng đầu trên thế giới. Khu rừng rộng lớn quanh núi Phú Sĩ nổi tiếng nay đã mệnh danh là “Rừng tự tử”, “Rừng ma quỷ”. Nơi đó, trung bình hằng năm có đến ba chục ngàn người tới kết liễu cuộc đời trong tuyệt vọng.

Vì thế, nhận định của Đức Bênêdictô XVI trong Đại Hội giới trẻ tại Sidney 2008 thật là chí lý: “Các con đang sống giữa lòng một thế giới muốn quên đi Thiên Chúa, hay thậm chí muốn phủ nhận Ngài, dựa trên một cảm nhận sai lầm về tự do…Trong lòng nhiều người sống trong xã hội chúng ta, bên cạnh sự thịnh vượng vật chất là sự lan rộng của sa mạc tâm linh, một sự trống rỗng nội tâm, nỗi lo sợ không tên và một cảm thức lặng lẽ của tuyệt vọng”.

Tuy nhiên, bên trên các sa mạc khô cằn và trống rỗng do con người tạo nên, Thiên Chúa đã biến Sa Mạc thành Hồng Ân khai mở một lộ trình dẫn vào Đất Hứa, tiên trưng cho Giao Ước mới vĩnh cửu, cứu cánh hạnh phúc Thiên Chúa dành cho con người. Bởi vậy, bài viết này sẽ trình bày về sa mạc dưới hai góc độ:

 

 I.Ý NGHĨA SA MẠC TRONG NHIỆM CỤC CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA.

Đức tin kitô giáo xác định: “Cùng đích của toàn bộ nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa là đưa các thụ tạo vào sự kết hợp trọn vẹn với Ba Ngôi diễm phúc” (Ga 17,21-23);(GLHTCG 260). Như vậy: “Loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa” (2Pr 1,4); (Tông huấn Redemptoris Custos, RC 5). “Đó là kế hoạch yêu thương Thiên Chúa đã định từ trước trong Đức Kitô” (Ep 1,9).

 • Sa mạc trinh nguyên của địa đàng.

“Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất…Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp” (x. St 1,1.31).

Riêng con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (x. St 1,27) trong “sự thánh thiện nguyên thủy, ấy là được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa” (LG 2), (GLHTCG 375). Do vậy, “Con người đầu tiên được đặt trong tình thân với Đấng Tạo Hóa, hài hòa với chính mình và với vạn vật chung quanh” (nđd 374). Thế nhưng, tất cả bị đánh mất vì tội đã phạm. Con người lìa xa Thiên Chúa, kéo theo những hậu quả khôn lường. 

Sa mạc cô lập do tội lỗi.

Tự cô lập trong tội, con người “mất vinh quang Thiên Chúa”(Rm 3,21) sa vào cảnh huynh đệ tương tàn (x. St 3,3-15) và bản thân “bị lâm vào cảnh mê muội, đau khổ và phải chết”(GLHTCG 405). Hơn nữa, “khi từ chối không nhìn nhận Thiên Chúa như nguyên thủy của mình, con người đã phá đổ trật tự phải có để đạt tới cùng đích tối hậu, đồng thời phá vỡ mọi hòa hợp nơi chính bản thân cũng như đối với những người khác và với mọi loài thọ tạo”(GS 13). Tuy nhiên, Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã vượt thắng tội lỗi con người bằng tình yêu tăng bội (x. Rm 5,20).

 • Sa mạc cứu độ trong kế hoạch của Thiên Chúa.

Đó là “Thiên ý nhiệm mầu”, Thiên Chúa thực hiện qua từng giai đoạn của mối tình Giao Ước cho đến thời viên mãn trong Đức Giêsu Kitô (x. Ep 1,9-10).

 • Với ông Môsê, sa mạc dẫn vào Đất Hứa.

Nhằm  tiến hành chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã chọn một Dân riêng là Israel để dọn đường mở lối (x. Xh 13,17-18). Đây là một lộ trình trải qua nhiều thử thách của Sa mạc (x. Xh 16-17), thử thách vì chưa trọn niềm tin vào Chúa, hơn nữa, do bị chi phối của đam mê:“Trong sa mạc, lòng buông theo dục vọng, chốn hoang vu, họ thách thức Chúa Trời”(Tv.106,14). Dân  không còn nhớ cảnh nô lệ lầm than của mình (x. Xh 14, 12), mà lại luyến tiếc nồi thịt và hành tỏi của Ai cập (x. Xh 16,3), để rồi bao lần than trách Thiên Chúa (x. Xh 14,11; 16,2; 17,2; Ds 14,2; 16,13), và thậm chí đã đúc bò vàng để tôn thờ (x. Xh 32,4-5). Tuy nhiên, dầu bị dân phản bội, nhưng tình thương của Giavê lại càng vượt trội, Ngài vẫn tiếp tục đồng hành với dân Ngài suốt 40 năm (x. Dnl 2,4). Chúa cũng cung cấp cho dân man-na làm lương thực và nước uống tuôn trào từ tảng đá (x. Xh 16,4; Dnl 8,15). Hơn nữa, Chúa đã lập Giao Ước với dân Ngài tại Sinai (x. Xh 19,20). Cuối cùng đã hoàn thành mục tiêu, dẫn đưa họ vào Đất Hứa (x. Xh 23,29.31). Bị đáp trả thất trung, Thiên Chúa vẫn một mực trung thành, vì Ngài không thể chối bỏ chính mình (x. 2Tm 2,13). Dẫu sao, lộ trình dài qua sa mạc đã in sâu đậm mối tình kết ước giữa Giavê và dân Ngài; mãi về sau các ngôn sứ còn ghi nhận: “Hãy đi mà thét vào tai Giêrusalem như sau: “Đức Chúa phán thế nầy: Ta nhớ lại lòng trung nghĩa của ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu của ngươi, khi ngươi mới thành hôn, lúc ngươi theo Ta trong sa mạc, trên vùng đất chẳng ai gieo trồng” ( Gr 2,2). Thắm thiết hơn nữa, lời ngôn sứ Hôsê: “Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc để  cùng nó thổ lộ tâm tình …Ở đó, nó sẽ đáp lại như buổi thanh xuân, như ngày nó đi lên từ Ai cập…Ta sẽ lập với nó một hôn ước vĩnh cửu trong ân tình và xót thương”(Hs 2,16-17.21).

Còn hơn nữa, những gì đã được thực hiện cho Israel lại trở thành tiên báo về các ân huệ cao quý dành cho thời Giao Uớc mới. Như vậy, man-na tiên báo Bánh trường sinh Thánh Thể (x. Ga 6, 49-51). Đặc biệt Con Rắn Đồng cứu sống được nêu cao trong sa mạc báo trước ơn cứu độ phát xuất từ hiến tế của Chúa Giêsu trên Thập Giá (x. Ga 3,14; 12,32).

Thánh Phaolô còn ghi nhận: những gì xảy ra cho dân trong sa mạc đã trở thành những bài học dạy dỗ chúng ta (x. I Cor 10,6.11).

Có thể nói, bài học sa mạc dưới góc độ nào đó, vẫn còn giá trị giáo dục trong tiến trình Thiên Chúa dẫn đưa con người mọi thời đi vào con đường cứu độ được thực hiện nhờ Đức Giêsu Kitô.

 • Qua Chúa Giêsu, sa mạc dẫn vào Giao Ước Mới.
Tin Mừng Gioan ghi nhận: “Lề luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn Ân Sủng và Sự Thật thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (Ga 1,17). Quả thật, “nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết, Thiên Chúa phán dạy chúng ta qua Thánh Tử”(Dt 1,1). Kinh Thánh xác nhận: “Mọi Lời hứa của Thiên Chúa đều là “có” nơi Người (Đức Giêsu Kitô). Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên “Amen để tôn vinh Thiên Chúa” (2Cr 1,20).
Trong thực tế, sứ vụ cứu thế của Đức Kitô gắn kết với sa mạc trong nhiều ý nghĩa.

• Sa mạc chiến thắng cám dỗ.

Theo Kinh Thánh, sa mạc vốn được coi là vùng hoang địa, nơi trú ẩn của ma quỷ (x. Lv 16,10; Lc 8,29; 11,24). Tin Mừng ghi nhận: Thánh Thần dẫn Đức Kitô vào hoang địa 40 ngày, để chịu ma quỷ cám dỗ và Ngài đã chiến thắng nó (x. Lc 4,2-13). Quả thật, Đức Kitô xuất hiện là để phá hủy công việc của ma quỷ (x. 1Ga 3,8). Ngài còn trở lại sa mạc nhiều lần (x.Ga 6,15; Mc 1,35). Như vậy, Ngài đã thuần hóa, thánh hóa sa mạc thành chốn thuận lợi cho đời sống tâm linh (x. Mc 6,31), đặc biệt cho việc cầu nguyện với Thiên Chúa (x. Lc 6,12; Mt 14,23; Mc 1,35; Ga 6,15).

• Sa mạc cứu độ trên đồi Canvê.

Xét cho cùng, chính hiến tế của Chúa Giêsu trên Thập Giá đã biến đổi Canvê thành sa mạc cứu độ. Giá trị của sa mạc cứu độ là một hiện trạng tâm linh, Đức Giêsu Kitô đã trải qua để hoàn thành công trình cứu độ. Đó chính là Mầu Nhiệm Vượt Qua, bao gồm cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. Sứ vụ chính yếu này của Ngài đã được Ngài báo trước trong Tin Mừng ba lần (x. Mt 16,21; 17,22; 20,17-19) và đã được hoàn tất trên đồi Canvê (x. Ga 19,30).
Chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu khổ hình thập giá cho chúng ta cảm nhận được thực chất của cảnh sa mạc do tội lỗi con người gây nên và Chúa Giêsu đã gánh lấy. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã phải thốt lên lời than thở:“Eli, Eli, le-ma-xa-bac-tha-ni, nghĩa là: Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46). Có thể nói, đó chính là bối cảnh sa mạc ghê sợ Chúa Giêsu đã chịu thay cho con người. Đồi Can-vê lúc ấy là một cảnh ồn ào náo loạn, nhưng chính nơi đó đã đích thực trở thành sa mạc rùng rợn nhất, vì thiếu vắng tình yêu, và là nơi hận thù gian ác đang chống lại và khai trừ chính Thiên Chúa Tình yêu. Tuy nhiên, cũng chính nơi đó, lúc đó, Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế đã lấp đầy sự trống vắng kinh hoàng ấy với Tình yêu của Thiên Chúa để trở thành “Sa mạc Cứu độ”; “Sa mạc Hồng ân”. Quả thật,“Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2Cor 5,21). “Chính Chúa Giêsu đã mang vào thân thể tội lỗi của chúng ta, mà đưa lên cây thập gía” (1Pr 2,24); “Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta” (Kh 1,5). Như thế, Ngài đã thắng tội lỗi và sự chết, đem lại ơn giao hoà và đã trao phó tất cả trong tay Thiên Chúa Cha. (x. Lc 23,46). Hơn nữa, khi kết thúc cuộc đời, Ngài đã trao ban Thần Khí tác sinh (x. Ga 19,30) để việc tái sinh con người mới được thực hiện.(x Ga 3,5).
Đức Kitô đã trở thành nguồn ơn cứu độ cho mọi người như Kinh Thánh đã xác định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5,8-9). Quả vậy, từ đỉnh cao của Tình Yêu (x. Ga 15,13) Ngài đã trở thành trọng tâm thu hút mọi người đến với Ngài như Lời Ngài mời gọi: “Một khi Tôi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” ( Ga 12,32), để tiếp nhận ơn cứu độ trào tuôn.

 

II. Ý NGHĨA SA MẠC TRONG ĐỜI SỐNG TÂM LINH CỦA CON NGƯỜI

  • Sống tinh thần sa mạc cứu độ của Tin Mừng

Chúa Giêsu luôn quy hướng về Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai phái Ngài ( x.Ga 7,29; 8,42; 10,36; 17,3), Ngài đã tự giới thiệu: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Chúa Giêsu Kitô là Đường, thậm chí là Đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha “Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Ngài cũng là Người dẫn đường vào Nhà Cha (x. Ga 14,2-3), Nước Thiên Chúa (x. Lc 8,10), Nước Trời (x. Mt 19,23; 20,1), và sự sống đời đời (x. Ga 17,2-3).
Tuy nhiên, con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô lại được đánh giá là con đường hẹp dẫn đến sự sống (x. Mt 7,13). Con đường hẹp vì mang tính chất của sa mạc cứu độ, gồm con đường từ bỏ, con đường thập giá, đó là con đường Chúa Giêsu đã trải qua và cũng dành cho những ai muốn theo Ngài. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều ghi lại lời Chúa Giêsu: “Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23; x. Mt 14,13; Mc 6,30).

  • Sa mạc từ bỏ.

Trong lịch sử thánh biết bao trường hợp những con người lên đường ra đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa; việc tiên quyết họ đã làm là bỏ lại đằng sau tất cả: Như Abraham, Môsê …và cả các môn đệ Chúa Giêsu. Tin Mừng ghi danh sách những gì họ đã bỏ để theo Chúa: “Nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất vì Danh Thầy”(Mt 19,29). Thế nhưng, để bước theo Chúa Giêsu, Ngài đòi hỏi một từ bỏ thiết yếu bao gồm tất cả là từ bỏ chính mình (x. Mt 14,13; Mc 6,30; Lc 9,23). Đó chính là từ bỏ cái tôi, cái bản ngã đã bị tội lỗi con người biến thành huyễn ngã, con người cũ cần phải cởi bỏ (x. Ep 4,23), để mặc lấy con người mới mà tiến bước theo Chúa (x. Cl 3,10). Đức Bênêdictô XVI đã nói đến trường hợp “con người tự giam hãm mình trong nhà tù của cái tôi do chính mình tạo nên” (Phát biểu trong Đại hội thế giới các gia đình 2009 tại Mêxicô). Vì thế, mới đây, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có dịp nhấn mạnh người môn đệ theo Chúa Kitô cần “ra khỏi chính mình, xuất hành ra khỏi bản thân” (Chia sẻ trong Thánh lễ 8/05/2013 tại nguyện đường Thánh Martha). Đây không chỉ là một động tác khởi đầu, nhưng là một thực trạng kéo dài cả cuộc đời theo Chúa Kitô để có thể sống yêu thương phục vụ theo Tin Mừng.

  • Sa mạc thập giá. 

Chính nhờ thập giá mà sa mạc mang tính cứu độ, nhưng vì thế mà con đường thập giá mãi trở thành vấp phạm đối với người Do Thái và điên rồ với người Hy Lạp (x. ICr 1,17-23); nhưng vì thập giá là khí cụ của tình yêu cứu độ, nên đã trở thành sức mạnh của Thiên Chúa và là nguồn hy vọng – vinh quang cho con người. Thánh Phaolô đã mạnh mẽ tuyên xưng: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian ”(Gl 6,14). Vậy, giá trị của đau khổ thử thách phát xuất từ tình yêu Đức Giêsu Kitô. Vì thế, chân phước Têrêxa Calcutta đã định nghĩa đau khổ một cách tuyệt vời; “Đau khổ là nụ hôn của Chúa Giêsu Kitô được trao ban”.

  • Sa mạc của đêm tối.

Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng của trần gian (x. Ga 9,5), các môn đệ của Ngài cũng phải trở nên ánh sáng cho đời (x. Mt 14,16). Thế thì tại sao đời sống tâm linh của các môn đệ Chúa lại có những đêm tối dày đặc? Chúng ta đã được biết đêm tối thử thách nặng nề của chị Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Còn mẹ Têrêxa Calcutta suốt cuộc đời tông đồ bác ái đã trải qua trên 30 năm trong đêm tối của tâm hồn.
Sau đây là vài suy tư giúp hiểu thêm bí ẩn của các đêm tối trong đời sống tâm linh.
Trước hết phải nêu lên tính siêu việt của Thiên Chúa vượt khả năng con người, không sao đạt thấu (x. 1Tm 6,16). Thánh Tôma Aquinô giúp làm sáng tỏ vấn đề bằng một hình ảnh cụ thể về sự bất lực của lý trí con người… “Đứng trước những điều rất minh bạch của thiên nhiên, trí khôn ta, như con mắt của cú mèo trước ánh sáng. Vì thế, một số tín khoản bị hoài nghi, không hệ tại sự bấp bênh của đối tượng, mà hệ tại sự sở đoản của trí tuệ con người” (Sum. Th. Pars I, q.1 a. 5 ad 1).
Tác giả cuốn SUY NIỆM TRÊN CÁT, trong mục cầu nguyện, đã nêu lên giới hạn của lý trí trong đời sống thiêng liêng:“Kinh nghiệm cầu nguyện trong sa mạc cho thấy điều ta thường coi là ánh sáng thực ra là ánh sáng của ta, chứ không phải của Chúa. Sa mạc đòi ta phải tắt ngọn lửa mờ nhạt của ta đi. Rồi khi ánh sáng của con người không còn nữa, mắt ta sẽ quen với vẻ chói lọi trong ánh sáng của Chúa. Như thế, bóng tối là đòi hỏi tiên quyết để ta có thể nhìn thấy. Và nếu như thế, quả là vô ích nếu ta cứ cố dùng ánh sáng của ta để thấy ánh sáng của Chúa”. Trái lại, quả là cần thiết: “Trong ánh sáng của Chúa, chúng con mới nhìn ra ánh sáng”(Tv 35,10).
Vì thế, Thánh Phaolô đã khấn xin Thần Khí Thiên Chúa soi sáng để nhận biết các tác động thần linh: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em Thần Khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu”( Ep 1,17-19).
Liên quan đến các đặc sủng thần bí, Thánh tiến sĩ Bonaventura cũng có những lời khuyên thật thích hợp: “Bạn hãy hỏi ơn thánh chứ đừng hỏi kiến thức, hỏi lòng khao khát chứ đừng hỏi lý trí, hỏi tiếng rên xiết của lời cầu nguyện chứ đừng hỏi việc chuyên cần đọc sách, hỏi Hôn phu chứ đừng hỏi thầy giáo, hỏi Thiên Chúa chứ đừng hỏi người phàm, hỏi mây mù chứ đừng hỏi ánh quang; bạn cũng đừng hỏi ánh sáng nhưng hãy hỏi ngọn lửa thiêu đốt trọn vẹn con người và đưa con người lên tới Thiên Chúa bằng sự kết hiệp chan chứa và lòng yêu mến nồng nàn”(Thánh Bonaventura, Lộ Trình Tâm Linh lên cùng Thiên Chúa, ch.7, số 6).
Quả vậy, chính tình mến trung kiên đối với Thiên Chúa và thực thi Thánh ý Ngài mới là thực chất của sự thánh thiện. Cuộc sống của mẹ Têrêxa Calcutta triền miên trong đêm tối thử thách, nhưng vẫn tràn đầy hoa trái của tình bác ái. Thánh Phêrô cũng đã xác nhận về giá trị thanh luyện cần thiết của các thử thách trong đời sống kitô hữu: “Trong thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người”( 1Pr 1,6-9). Đó cũng là điều kiện để bước theo Chúa Kitô (x. 1Pr 2,21), và để phục vụ ích lợi của Thân mình Đức Kitô là Hội Thánh (x. Cl 1,24), nhờ nên đồng hình đồng dạng với Ngài (x. Rm 8,29).

  • Nên một với Chúa Giêsu Kitô: Mục tiêu của ơn gọi kitô hữu

Lộ trình theo Chúa Giêsu chủ yếu nhằm mục đích kết hợp nên một với Ngài, Thánh Phaolô đã trình bày diễn tiến này khá rõ nét trong trích dẫn của thơ gởi giáo đoàn Rôma (x. Rm 6, 3-11):
Chúng ta nhờ bí tích “thánh tẩy được thuộc về Đức Kitô… để được sống một đời sống mới” (c.3-4). “Thật vậy, vì chúng ta đã NÊN MỘT VỚI ĐỨC KITÔ, nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng NÊN MỘT với người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại (c.5).“Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (c.8). Không những đó là niềm tin của chúng ta mà còn là nội dung cuộc sống của các môn đệ bước theo Chúa, như Thánh Phaolô xác nhận: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi”(2 Cr 4,10).
Vậy hiệu quả, chính là “chết đối với tội lỗi”, vì “con người cũ nơi chúng ta đã chịu đóng đinh vào Thập giá với Đức Kitô, để không còn nô lệ cho tội lỗi nữa (c.6). Và nay được “sống cho Thiên Chúa” là sống nhờ Thần Khí, tặng ân của Đức Kitô Phục sinh, là dấu chứng thuộc về Đức Kitô. Bởi vì, “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô” (Rm 8,9).
Chính Thần Khí là nguyên lý tác sinh đời sống kitô hữu: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy anh em sẽ không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa”(Gl 5,16). Quả vậy, do tác động của Thần Khí, sẽ trổ sinh hoa trái thần linh trong cuộc sống (x. Gl 5,22-23). Còn phải kể biết bao linh ân đa dạng của Thần Khí tác sinh (x. Ga 3, 5-8), nghĩa tử (x. Rm 8,15; Gl 4,6), tình yêu (x. Rm 5,5), sức mạnh (x. Cv 1,8). Đặc biệt Thần Khí là nguồn hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi (x. 2 Cr 13,13; Ep 2,18; I Ga 3,24) đồng thời đem lại ơn hiệp nhất trong lòng Giáo Hội (x. Ep 4,3). Đó là mục tiêu Giáo Hội đặc biệt hướng tới trong Năm Thánh này, vì “Cánh cửa đức tin” mở rộng dẫn vào đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và vào Giáo Hội” (Porta fidei 1). Bởi vậy, “ Giáo Hội nói chung và các vị mục tử trong Giáo Hội, giống như Chúa Kitô, phải lên đường để dẫn đưa con người ra khỏi sa mạc, tiến đến sự sống, hướng về tình bạn với Con Thiên Chúa, về Đấng ban cho chúng ta sự sống, sự sống sung mãn” (Porta fidei 2). Ân huệ hiệp thông là hồng ân trên mọi hồng ân, vì đó là cùng đích của tất cả nhiệm cục cứu độ Thiên Chúa dành cho con người (x. GLHTCG 260).


KẾT:
Tội của nguyên tổ Adam, nhờ lòng nhân ái xót thương của Thiên Chúa đã trở thành Tội Hồng Phúc. Cũng vậy, sa mạc tối tăm do con người tự tạo ra, nhờ công trình cứu độ của Đức Kitô đã trở thành sa mạc hồng ân. Vì thế, Giáo hội tràn ngập vui mừng hát bài ca tạ ơn, với lời tuyên xưng: “Thiên Chúa tạo dựng con người cách lạ lùng, và đã tái tạo con người cách lạ lùng hơn nữa”.
Sa mạc hồng ân còn mang thêm tính chất nghịch lý, vì sa mạc tự bản chất vốn tách biệt và đơn độc lại trở thành lối dẫn vào ân huệ hiệp thông. Thế mà, hiệp thông được Công Đồng Vatican II xác định là “ý nghĩa cao cả nhất của phẩm giá con người”(GS 19). Vậy tính đơn độc của sa mạc hồng ân phải hiểu là đơn thuần, đơn nhất thể hiện được tính nhất thống để phục vụ hiệp thông cách trọn vẹn qua năng lực của tình mến. Đó là điều được thực hiện rõ nét nơi cuộc đời và sứ vụ tông đồ ẩn kín của thánh nữ tiến sĩ Têrêxa Hài Đồng Giêsu: Tuy sống âm thầm, tách biệt trong bốn bức tường của Đan viện Cát Minh, và kết thúc cuộc đời vào tuổi 24; thế nhưng chị thánh đã có ảnh hưởng rộng lớn trong hồng ân hiệp thông giữa lòng Giáo hội. Vì thế, Giáo hội đã tôn phong ngài cùng với Thánh Phanxicô Xaviê là Quan thầy các xứ truyền giáo. Chính chị thánh cũng cho chúng ta biết bí quyết và ý nghĩa cuộc đời của chị: “Tôi đã tìm được sứ mạng của tôi, là sống tình mến; trong lòng Giáo hội Mẹ, tôi là trái tim”. Cũng trong chiều hướng đó, Evagre một nhân chứng của tu trào đan tu đang thời phát triển, đã định nghĩa đan sĩ một cách nghịch lý: “Đan sĩ là con người tách biệt với tất cả, nhưng liên kết với tất cả”. Ở đây, bí quyết của hiện tượng này vẫn là năng lực kỳ diệu của tình mến Chúa Giêsu Kitô. Công đồng Vatican II cũng đã xác nhận: “Họ hiện diện với con người đồng thời qua tình mến của Đức Giêsu Kitô” (LG 46). Và nhờ đó, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã đạt tới xác tín: Tất cả là hồng ân. Vậy qua đức mến, không những sa mạc thành hồng ân mà là qua đức mến, tất cả cũng trở thành hồng ân, và là hồng ân cho tất cả trong tình hiệp thông. Thế mới nghiệm được mọi chiều cao sâu dài rộng của Tình yêu Đức Giêsu Kitô vượt trên mọi hiểu biết, để cùng nhau luôn hát bài ca cảm tạ hồng ân. (x. Ep 3, 17-21). “Vì đó là điều Thiên Chúa muốn về anh em trong Đức Kitô Giêsu” (1 Th 5,18).

 

 

 

 

 

TÌNH THƠ ĐẦU ĐỜI

 Sr. Thiên Giang   


Tình nào mười sáu tuổi thơ
Em yêu như thuở trăng tròn mộng mơ
Tình em sáng đẹp đợi chờ
Hoa cau hé nở nguyên sơ ban đầu
Mẹ Cha ước hẹn dài lâu
Tình anh trải rộng mấy màu thời gian
Giã từ dấn bước gian nan
Phước Sơn mấy nẻo bình an đăng trình
Anh đi, em nhớ bóng hình
Nhưng xin em hiểu, Người Tình yêu anh
Người yêu nên đã dỗ dành
Cho anh say mến đất lành yêu thương
Đan tu tỏa ngát hoa hương
Đời anh chẳng sống lẽ thường riêng ai
Tình anh hiến tặng cho Ngài
Đời anh thắp sáng dâng Ngài hương kinh
Thấm nhuần mạch sống Thần Linh
Tình yêu bé nhỏ hương tình trời cao
Cuộc đời dẫu có lao xao
Ẩn sâu bình lặng cao rao tình trời
Trải qua bao tuổi giữa đời
Thoảng trông dâu bể ai người tín trung
Anh xin cho được mãi cùng
Giêsu – tình Chúa tín trung muôn đời

 

 

 

 

 

 

BÀI CA CỦA CON CHIÊN

 Fr. Mauro-Giuse Lepori  
Tổng Viện Phụ Dòng Xi-tô  
Roma, lễ Hiện Xuống 2013  

Anh chị em đan sĩ Xi-Tô!

Trong thời gian gần đây, tôi thường xuyên mời gọi các cộng đoàn sống sự hiệp thông như một dấn thân mang tính cấp bách mà chúng ta phải chú trọng, nếu chúng ta muốn thăng tiến trên hành trình ơn gọi và sứ vụ mà Chúa Thánh Thần trao ban và giao phó cho chúng ta. Nếu chúng ta không còn cảm thức về ơn gọi nền tảng của chúng ta, vì việc đối diện, sửa chữa và đào luyện những yếu tố mang tính cục diện và tạm thời trong đời sống của các cộng đoàn sẽ trở nên khó khăn, đôi khi còn trở nên không thể, ngay cả khi những yếu tố này thường được quan tâm nhất.

Bản giao hưởng hiệp thông

Bình thường thì những bức tranh của các em thiếu nhi lại mang nhiều ý nghĩa hơn những tác phẩm của các hoạ sĩ tài ba. Bức tranh này làm tôi liên tưởng đến cộng đoàn như một ban nhạc, dù lớn dù nhỏ nhưng được trao phó một nhiệm vụ và một niềm vui là tấu lên một khúc giao hưởng. Trong đó, mỗi thành viên được trao cho một vai trò riêng, nhưng luôn hoà quyện với những nhạc cụ khác dưới, sự chỉ huy của một bề trên đại diện cho Vị Nhạc Trưởng của dàn hợp tấu vũ trụ là Đức Giêsu Ki-tô.
Trong bức tranh của các em thiếu nhi, dàn nhạc chiếm trọn phần không gian giữa trời và đất, được vẽ bằng màu nâu, và nền trời trong xanh ở phía trên cao. Dường như dàn nhạc phải nối liền trời và đất, lấp đầy khoảng không gian trống rỗng, vô sắc, chia ly giữa đất và trời. Vị Nhạc Trưởng tuy đứng dưới đất nhưng lại khoác chiếc áo mang màu xanh da trời. Thật lạ, dường như các nhạc công không có nhạc cụ bởi chính họ là những nhạc khí của bản giao hưởng, làm nên một ca đoàn.
Bên cạnh ban nhạc, theo các em thiếu nhi, là một nhóm khán giả bị lôi cuốn bởi bản nhạc và đang dần tiếp cận ban nhạc. Họ không có khuôn mặt rõ ràng với mũi, mắt, miệng. Nhưng khuôn mặt của các nhạc công lại có hoạ tiết của hình người.
Dường như bức tranh này diễn tả sự hiệp thông mà chúng ta được mời gọi cùng nhau hoàn thành và mỗi cộng đoàn phải dành cho nhiệm vụ này vị trí ưu tiên. Đây quả là một công việc quan trọng bởi vì nó giao hoà trời và đất, mang lại ý nghĩa sắc màu và vẻ đẹp hài hoà cho không gian sống của chúng ta. Vị hướng dẫn công việc này là chính Đức Ki-tô, Chúa của các tầng trời đã nhập thể làm người, đồng hành với con người trên đường dương thế và hạ mình đến vị trí thấp hèn nhất, để giao hoà con người với Thiên Chúa. Nếu ai muốn tham gia vào công việc này, muốn trở nên thành viên của ban nhạc, sẽ nhận được những hoạ tiết nhân văn, sẽ trở nên một nhân cách thực sự, trở nên chính mình hơn. Chính điều này hấp dẫn một nhân loại sa ngã, vô dung vô dạng dần dần tiến về tham dự vào bản nhạc giao hưởng do Đức Ki-tô chỉ huy vì ơn cứu độ của tất cả. Toàn thế giới được mời gọi và được lôi kéo để hoà nhập vào bản giao hưởng hiệp thông của Giáo Hội.
Để thực hiện tốt bản giao hưởng thì các nhạc công phải ngồi vào đúng chỗ của mình, trước mặt là giá sách, trên giá là một bản tấu khúc mà họ phải thực hiện. Nhưng họ không chỉ nhìn vào bản nhạc mà đồng thời theo dõi vị nhạc trưởng. Phần tấu khúc được phân công cho mọi người chính là Lời Chúa, là Tin Mừng, đối với chúng ta là tu luật thánh phụ Biển Đức, và tất cả kho tàng khôn ngoan của Ki-tô giáo, cũng như kho tàng khôn ngoan đan tu mà Giáo Hội và nhà dòng truyền lại cho chúng ta. Mỗi người phải chăm chỉ học hỏi. Nhưng nếu thiếu sự theo dõi vào sự chỉ huy của vị nhạc trưởng thì phần tấu khúc chỉ còn là những dòng chữ chết, chỉ tấu lên những nghịch âm, tiếng ồn ào, chói tai, chứ không phải là khúc hoà âm du dương hấp dẫn của sự hiệp thông Ba Ngôi mà Chúa muốn ban cho nhân loại.

Lãnh nhận tình hiệp thông

Trong chương 63 của tu luật, thánh Biển Đức ấn định thứ tự phải có trong cộng đoàn. Thứ tự này được tính từ lúc mỗi người được Chúa kêu gọi để vào đan viện. Đây không phải là thứ tự “tự nhiên” mà là thứ tự “ơn gọi”, được ấn định bởi ơn kêu gọi và bởi ân sủng của Thiên Chúa, nhưng cũng chính bởi câu trả lời mà mỗi người đáp lại tiếng Chúa kêu mời. Điều thú vị là thánh Biển Đức nói về thứ tự như một thứ tự được điều khiển, có thể nói là một thứ tự hành trình, hướng tới một điều gì đó. Đó là một thứ tự cần được tôn trọng khi anh em “đi nhận lãnh bình an, rước lễ, xướng thánh vịnh và ở trong ca toà” (Tl 63).
Thứ tự trong cộng đoàn là thứ tự để chúng ta thăng tiến và lãnh nhận những cử chỉ, hay những biểu lộ sâu sắc nhất và ý nghĩa của đời đan tu: đó là bình an huynh đệ, hiệp lễ với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô, cầu nguyện bằng thánh vịnh và phụng vụ nối kết chúng ta trong ca toà. Những khía cạnh này không chỉ dừng ở phụng vụ, mà còn những chiều kích khác của đời sống nhân loại được Đức Ki-tô cứu độ, Đấng ban cho chúng ta một mối tương quan mới với nhau và với Thiên Chúa. Cộng đoàn được quy tụ trong bình an của sự thông hiệp với Đức Ki-tô để cầu nguyện với Cha (bằng thánh vịnh) trong tình yêu của Chúa Thánh Thần (một ca toà như nhà tiệc ly của lễ Ngũ tuần), sẽ hoà nhập bản giao hưởng hiệp thông mà trong đó mỗi người được Chúa mời gọi, với từng chọn lựa mang tính cá nhân, rõ ràng và duy nhất, để đưa chúng ta tiến về sự hiệp thông sung mãn với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô, Đấng là cội rễ của sự bình an huynh đệ giữa con người với nhau và với Thiên Chúa.
Càng quan sát các cộng đoàn, càng lắng nghe từng nam nữ đan sĩ, tôi càng nhận thấy rằng trong các cộng đoàn thường thiếu vắng hay quên lãng sự hiệp thông mà từ đầu tôi đã dùng hình ảnh ban nhạc để làm biểu tượng. Chúng ta lo lắng và than phiền về tất cả, trừ một điều cốt yếu mà Đức Ki-tô đã đem đến cho trần gian, một điều mà vì đó chính Đức Ki-tô đã chịu chết và sống lại, một điều Ngài đã trao ban cho Giáo Hội, một điều mà vì đó Ngài đã chính Đấng Bảo Trợ đến. Đó chính là sự hiệp thông với Ngài, và trong Ngài với Chúa Cha và với các anh chị em, trong tình yêu của Chúa Thánh Thần. Bản giao hưởng hiệp thông với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô phải là trung tâm và linh hồn của dấn thân bước theo Đức Giêsu cách cá nhân hay cộng đoàn. Đây là công việc thiết yếu mà chúng ta được mời gọi để tiến bước trên con đường ơn gọi dưới sự chỉ lối của tu luật thánh tổ Biển Đức, theo đặc sủng Xi-tô. Đây chính là công việc mà vì đó mỗi người chúng ta và mỗi cộng đoàn được nhận lãnh từ Thiên Chúa tất cả những sự trợ giúp nội tại và ngoại tại để chúng ta trở nên những người thợ của Thiên Chúa hay trở nên những nhạc công của Thiên Chúa. Các nam nữ bề trên, cũng như những vị huấn luyện, cả những vị quản lý, phụ trách nhà khách, các cha xứ, các ca trưởng, các điều dưỡng viên và tất cả cho đến người nhỏ nhất trong cộng đoàn, nghĩa là tất cả những “người thợ” được Chúa chọn và gọi “giữa đám đông dân chúng” để trao tặng và truyền ban “sự sống chân thật và vĩnh cửu” (x. Tu luật, lời mở đầu). Bởi vì sự sống chân thật và vĩnh cửu là sự sống của sự hiệp thông: “Nếu con muốn hưởng được sự sống đích thực và vĩnh cửu, thì lưỡi con chớ nói lời xằng bậy và môi con chớ thốt lên gian dối, con hãy làm lành lánh dữ, hãy tìm kiếm và theo đuổi sự bằng an” (Tu luật, lời mở đầu; Tv 33, 14-15).
Nếu không có sự tận hiến của chúng ta cho sự hiệp thông của Đức Ki-tô thì không có vấn đề hay khó khăn nào có thể được giải quyết, không có sự huấn luyện nào có thể được thực hiện cách nghiêm túc, không có ơn gọi mới nào có thể được lôi cuốn và đón nhận cách thích đáng, không có khủng hoảng nào có thể được vượt qua, không có sự quân bình nào giữa cầu nguyện và công việc, giữa chiêm niệm và sứ vụ, giữa thinh lặng và nói năng, có thể được thiết lập. Ngoài lãnh vực của sự hiệp thông sống động và luôn được tìm kiếm, không có sự canh tân và bền đỗ nào có thể được thực hiện. Nhưng làm sao “chúng ta lãnh nhận” sự hiệp thông, nguồn bình an, hiệp nhất với Thiên Chúa và với nhau; điều gì chúng ta được mời gọi chọn lựa dấn thân cho sự hiệp thông của Đức Ki-tô?

Được mời gọi vào tiệc cưới Con Chiên

Sự hiệp thông Ki-tô giáo, trước khi là mối liên hệ giữa chúng ta với nhau, là mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Giêsu Ki-tô. Mối tương giao này là hồng ân phục sinh tuyệt diệu, làm Thánh Thể trở nên trái tim sống động của Giáo Hội, bởi Thánh Thể là sự kết hợp trực tiếp cái chết của Đức Ki-tô vì chúng ta và sự thông hiệp của chúng ta với Đấng Phục sinh từ trong cõi chết. Thánh Phao-lô diễn tả mầu nhiệm này với các tín hữu Thessalonica: “Đấng đã chết vì chúng ta để chúng ta cùng sống với Người” (I Tx 5, 10).
Sống với Đức Ki-tô, Đấng đã yêu thương chúng ta cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, mang một chiều kích hôn ước như toàn bộ Kinh Thánh loan báo và trình bày cho chúng ta. Đức Ki-tô là vị hôn phu, Đấng đã trao ban cho nhân loại sự sống sung mãn và ơn cứu độ trong sự kết hiệp với Người, Đấng liên kết chúng ta với Cha trong Thánh Thần.
Cải thiện chiều kích hiệp thông hôn ước với Đức Ki-tô trong tâm hồn của chính chúng ta và trong cách sống ơn gọi của chúng ta là một điều cấp thiết mà từ trong những hoàn cảnh và những khủng hoảng của cá nhân và của các cộng đoàn, tôi muốn “ thét lên” cho toàn dòng chúng ta và cho cả Giáo Hội. Chúng ta thường sống đời ơn gọi như những người đàn ông độc thân hay những người đàn bà không chồng, không phải vì chúng ta không kết hôn mà vì chúng ta không sống và vun đắp chiều kích hôn ước trong mối quan hệ của chúng ta với Đức Ki-tô. Đối với chúng ta, cũng như tất cả mọi người, chiều kích hôn ước, nghĩa là mối tương quan với Đức Ki-tô, là sự trọn vẹn cảm tính của trái tim và là nguồn mạch thường tồn của sự sung mãn sự sống chúng ta.
Phục sinh là lời mời gọi tha thiết và quyết định cho mỗi người hãy vào tham dự “tiệc cưới Con Chiên” (Kh 19, 7.9; 21, 9).
Sách Khải huyền thường nói với chúng ta về Con Chiên, Đức Ki-tô Con Chiên chịu sát tế và hằng sống, Đấng cùng với Cha là trung tâm của Giêrusalem, của kinh thành hiệp thông với Thiên Chúa và với mọi người, trung tâm của mầu nhiệm Giáo Hội, của mầu nhiệm Tân Nương xuống từ trời để ôm lấy toàn thể nhân loại qua và trong ơn cứu chuộc của Đức Ki-tô, Đấng làm mới mọi sự.
Hình ảnh Chiên Thiên Chúa, con chiên chính là Thiên Chúa, Con của Cha, tập trung nơi mầu nhiệm hiệp thông với Thiên Chúa, sự hiệp thông được trao ban và tặng ban cho chúng ta trong Đức Ki-tô, “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29).
Khi tác giả sách Khải huyền nói với chúng ta về Con Chiên giữa những miêu tả về cảnh tượng lịch sử nhân loại, đầy bạo lực, tội lỗi, dối trá và chết chóc thì luôn giúp chúng ta nhận thức và sống sự hiệp thông với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, Đấng cứu độ và biến đổi đời sống chúng ta và toàn thế giới. Con Chiên là vị Mục Tử dẫn đưa chúng ta đến mạch nước sự sống (x, Kh 7, 17). Con Chiên là tân lang của Giáo Hội, và chúng ta được mời đến dự hôn lễ của Người (Kh 19, 7.9; 21, 9). Cùng với Cha, Người cũng là đền thờ của kinh thành mới và là nguồn sáng của thành (Kh 21, 22-23). Nhờ Người, cũng như bởi Cha, suối nguồn sự sống trào tuôn (Kh 22, 1).
Vâng, Đức Ki-tô Mục Tử dẫn dắt chúng ta, là Tân Lang mời chúng ta vào yến tiệc của Người; là đền thờ nơi chúng ta thượng tiến lễ dâng đích thực cho Chúa Cha, là đền thờ của lời cầu nguyện đích thực; là nguồn ánh sáng duy nhất chiếu tỏa đời sống chúng ta và đời sống vĩnh cửu. Chúng ta được mời gọi hãy để cho Người dẫn đưa chúng ta vào mầu nhiệm hiệp thông với Người, để cơn khát của sự sống vĩnh cửu và ánh sáng nơi chúng ta sẽ được thoả mãn.
Nếu chúng ta nghĩ đến tất cả những điều này, chúng ta phải thừa nhận rằng rất thường khi chúng ta chỉ dừng lại ở một mối tương quan hời hợt và phiến diện với Đức Ki-tô. Chúng ta lãng quên sống tương quan với Người theo những gì Người làm cho chúng ta qua việc trao ban chính mình trong hy tế tình yêu thập giá và trong niềm vui Phục sinh. Đôi khi chúng ta chỉ cầu xin Người một chút sự hướng dẫn tâm linh, một chút tình yêu, một chút ánh sáng, một chút ơn an ủi, và chúng ta đi vào đền thờ, nơi người hiện diện, chỉ trong chốc lát mà không nán lại thật lâu. Trái lại, Người trao ban cho chúng ta tất cả, mãi mãi, không giới hạn về thời gian, không gian, tình yêu, Người toàn hiến cho chúng ta mãi mãi!
Tuy nhiên, khi chúng ta không đặt mầu nhiệm Con Chiên vào trung tâm của đời sống chúng ta và đời sống của các cộng đoàn của chúng ta, chúng ta sẽ mất bình an. Sự bình an đích thực không hệ tại ở việc không còn những vấn nạn, đau khổ hay lo lắng. Sự bình an được trao ban khi chúng ta khiêm tốn để cho Thiên Chúa, qua sự hiện diện và tình yêu của Người, trả lời cho những thiếu thốn của chúng ta, thiếu Thiên Chúa, thiếu ánh sáng và sự sống, thiếu sự dẫn dắt để tìm thấy sự viên mãn trong tình yêu. Chính vì điều này mà Thiên Chúa muốn trao ban chính mình cho chúng ta như đền thờ, ánh sáng, nguồn suối, mục tử và tân lang.
Bình an của Đức Ki-tô là ân huệ nhưng không và trường tồn của Con Chiên. Tình yêu nuôi dưỡng, Máu Thánh Người bảo đảm và sự Phục sinh của Người làm sống động sự bình an đó. Sự bình an được ban cho chúng ta cùng với sự sống của Người, sự hiện diện của Người và tình yêu của Người. Là sự bình an của đàn chiên có chủ chăn; sự bình an của hiền thê có được phu quân trung tín. Sự bình an của Đức Ki-tô cùng với chính Người. Chính Người là sự bình an của chúng ta (x. Ep 2, 14). Điều làm chúng ta hỗn loạn và sợ hãi không phải là đánh mất sự bình an mà là đánh mất chính Thiên Chúa, là khả năng xa rời Người.
Phụng vụ dạy chúng ta cầu khẩn: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian, xin ban bình an cho chúng con!”. Và ngay sau đó, chúng ta được lãnh nhận chính Người và được kết hiệp với Người qua việc hiệp lễ. Sự bình an của chúng ta là hồng ân được hiệp thông với Đức Giêsu và với tất cả trong Người.

Bài ca mới của những chứng nhân của Con Chiên

Sách Khải huyền nói với chúng ta về “Bài ca mới” (x.Kh 14,3), về “Bài ca của Con Chiên”, từ trời ngự xuống cùng với tiếng “đàn của Thiên Chúa” (x.Kh 15, 2-3). Đây là bài ca mà chỉ “những người được chuộc từ đất” mới hiểu và ca hát, “Con Chiên đi đâu họ đi theo đó”, chỉ gắn bó với Người, không dối trá và không tỳ ố (x.Kh. 14, 3-5). Họ là những vị tử đạo, những chứng nhân, “họ đã thắng được nó nhờ máu Con Chiên và nhờ lời họ làm chứng về Đức Ki-tô: Họ coi thường tính mạng, sẵn sàng chịu chết” (12, 11).
Đối với họ Con Chiên Mới là Mục tử, Phu Quân, Ánh Sáng, Đền Thờ, Mạch sống đích thực. Họ ngoan ngoãn bước theo Con Chiên để kết hiệp ngày càng mật thiết vào mệnh lệnh của Người, để trở nên những nhạc công khiêm tốn tấu vang câu giao hưởng hiệp thông của Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô. Họ chuyển tải cho thế gian vẻ đẹp của ơn cứu độ trong sự hiệp thông.
Bài ca của họ cuốn hút chúng ta bước vào tiệc cưới Con Chiên như những em bé trong bức vẽ, chúng ta tham gia vào ban nhạc giao hưởng, tấu khúc hiệp thông với tất cả những khả năng mình có, với cả những giới hạn mà không sợ bị lạc điệu hay hát nhầm tiết tấu, bởi vì bản nhạc ấy không phải là bản nhạc của chúng ta mà là tấu khúc của lòng thương xót, của niềm giao hoà, của sự khiêm cung, hiền lành, là bài ca của Con Chiên chịu hiến tế nhưng hằng sống. Ai gắn chặt con tim và ánh nhìn nơi Người, ai ngoan ngoãn để người điều khiển, dẫn dắt, sẽ nhận được từ Người sự hài hoà của Thần Khí, Đấng biến chúng ta thành những khí cụ và những chứng nhân của sự hiệp thông của Thiên Chúa. Sự hiệp thông có sự điều trị và chữa lành những vết thương của nhân thế.
Sự sống mới là một ca khúc, một hoà khúc mà chúng ta được mời gọi để hiểu nhờ Chiên Thiên Chúa, bước theo Người, yêu mến Người, kín múc nơi Người sự sống, ánh sáng, lòng xót thương, niềm vui Phục sinh. Sự sống mới thay đổi trần gian chính là sự chiến thắng nhờ máu của Con Chiên và là chứng tá của những con người dám khinh thường mạng sống cho đến nỗi bằng lòng chịu chết để yêu mến Đấng trước tiên vì chúng ta đã “hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập giá” (Pl 2, 8).
Phải chăng đây không phải là giai điệu giao hưởng bài ca của Con Chiên mà đời sống ơn gọi, đặc sủng, tu luật thánh Biển Đức, đặc biệt chương về sự khiêm nhường, muốn dạy cho chúng ta cùng hát với nhau, cùng hát với Giáo Hội, với Đức Thánh Cha Phanxicô và với những người bé nhỏ và nghèo hèn của nhân loại để vương quốc sự hiệp thông của Thiên Chúa ngự trị trên mặt đất này, ở đây và bây giờ, giữa chúng ta và với tất cả?

 

 

 

 

 

 

 

ĐỜI CHIÊM TU

Sr. Thiên Giang 

 

                                          Một đời chiêm tu
                                          Con họa lại đời Giêsu
                                          Không bằng ngôn từ – chữ viết.
                                          Nhưng là Giêsu sống động của hôm nay
                                          Bé bỏng quá con thật là bé bỏng
                                          Sánh chi Ngài,
                                          Bao la quá, thật bao la
                                          Ngài là Đấng đất trời không chứa nổi
                                          Thế mà Ngài thích ở lại trong con
                                          Kỳ diệu, ôi muôn điều kỳ diệu.
                                          Chỉ mình Ngài mới biết yêu như thế
                                          Vâng! Chỉ một mình Ngài.

 

 

 

 

 

 

 

 

CHÚ QỦI BAN TRƯA

  FM. Đôminicô Phạm Văn Hiền   

 

Cụm từ “chú quỉ ban trưa” lấy từ Thánh vịnh 90 (91), ám chỉ cuộc sống nhàm chán của các ẩn sĩ trong sa mạc. Các vị này như mất hết khí lực tu hành và trở thành những mồi ngon của sa-tan mỗi ngày vào lúc chính ngọ! Thật ra, trong thuở ban đầu của đời tu, các đan sĩ này cũng đầy nhiệt khí như một An-tôn hay một Pacomeo. Nếu không, tại sao họ có can đảm dứt bỏ nếp sống thế gian để vào sa mạc? Nguyên nhân nào làm phát sinh bệnh chán nản này, và hôm nay, trong thời đại chúng ta, phải chăng nó vẫn còn là một thách đố?
Được yêu cầu viết bài này, tác giả không nhằm chỉ trích một ai, nhưng trước hết, nhân cơ hội này, nhìn lại chính bản thân.Vì mặc dù đã “vào sa mạc” trên nửa thế kỷ, biết đâu vẫn còn làm bạn với “chú quỉ ban trưa” mà không hay? Vậy xin triển khai ba điểm sau đây:
– Trước tiên phác hoạ đôi nét chính của quỉ ban trưa
– Thứ đến tìm nguyên nhân phát sinh bệnh chán
– Cuối cùng dựa vào Lời Chúa và kinh nghiệm của các tiền bối để đưa ra những bài thuốc khả dĩ chữa tận căn cơn bệnh này.

I. Vài nét phác hoạ “chú quỉ ban trưa”

Có người dí dỏm nghĩ rằng: không gì dễ bằng vẽ quỉ, vì nào ai thấy quỉ bao giờ, nên vẽ thế nào cũng được. Thật ra, chú quỉ mà ta sắp vẽ đây, theo thánh Phaolô, đã trá hình làm người (2 Cr 11,12-15). Nói rõ hơn, đã có lúc sa-tan hoá thân trong tôi, trong bạn và trong nhiều Kitô hữu dưới những dáng vẻ và hành động của người công chính! Vậy chúng ta hãy khiêm tốn cầu xin ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Bên cạnh đó, chúng ta nên thỉnh ý các bậc thầy thiêng liêng, đặc biệt là thánh Gioan Casiano, một linh phụ đan tu thời cổ. Ngài tự đóng vai “phóng viên” rong ruổi khắp các vùng đồi núi Ai Cập, Palestina và Syria để học hỏi kinh nghiệm và giáo huấn của các “bậc thầy”. Kết quả của công trình này là hai bộ sách: “Những bài thuyết trình về đan tu”(Conferences) và “Những quy chế cộng tu”( Institutions cénobétiques).
Dưới ngòi bút của Gioan Cassiano, “chú quỉ ban trưa” được nhận diện như một căn bệnh tâm hồn, khá phổ biến nơi các đan sĩ, bởi họ sống lẻ loi trong hoang mạc. Nó xuất hiện thường vào lúc ban trưa, nên được đồng hoá với chú quỉ mà nhà Thánh vịnh đã mô tả (x. Tv 90). Sau đây, ta hãy nhường lời cho Gioan Cassiano: Nạn nhân của căn bệnh này, ông viết, là những người thích sống lẻ loi. Vì thế không ai dễ bệnh bằng các đan sĩ trong sa mạc. Hẳn thật, một khi đã khống chế được đan sĩ, nó làm cho họ khiếp sợ cảnh cô vắng, chán ghét túp lều họ đang ở và coi khinh các bạn đồng tu. Vị ẩn sĩ này ngại chu toàn bổn phận, biếng trễ việc đọc Lời Chúa. Rồi họ chán nản tự hỏi; “Sao đã ở lâu ngày nơi đây, mà chẳng có chút tiến bộ nào?”. Và cứ thế mà than vắn thở dài vì mình khác nào cây vả mà Chúa gặp năm xưa! Lẽ ra với kinh nghiệm thiêng liêng, mình đã giúp ích được cho nhiều người! Thế nhưng ở đây, mình chẳng cảm hoá được ai, mà cũng chẳng ai lợi dụng được gì do cuộc sống và giáo lý của mình. Họ tiếp tục ca ngợi các cộng đoàn đan sĩ xa xôi. Coi đó như những nơi tu hành lý tưởng, khả dĩ mang lại nhiều lợi ích cho các linh hồn. Các cộng đoàn đó, theo họ, khác nào vườn diệu quang tại thế. Trái lại, cái cảnh mình đang sống thật chán phèo! Cuối cùng họ rũ áo ra đi…chần chừ ngày nào là gây nguy cho phần rỗi ngày ấy.
Quả thật, cứ khoảng chính ngọ, họ cảm thấy mệt mỏi, khác nào ba bốn ngày giữ lòng không ăn, hoặc đã đi đường vài chục dặm. Thế là họ nhìn trước ngó sau, phiền trách vì đã nhiều ngày ở trong cảnh chán chường. Tâm trí họ rối bời như ai đó lần bước trong đêm khuya. Họ không còn sáng suốt để nghe theo tiếng lương tâm, trái lại trong lòng trống vắng hoàn toàn, khiến họ nghĩ mình không còn cách nào tốt hơn là đi lang thang hay thoát ly khỏi cảnh mình đang sống.
Một khi đan sĩ bị chú quỷ dụ dỗ bỏ túp lều của mình, họ sẽ quên mục tiêu đời tu là chiêm niệm Thiên Chúa. Họ đúng là một chiến binh đào ngũ để rồi sa lầy trong trong vũng bùn thế tục. Như vậy, sao họ còn có thể làm hài lòng Thiên Chúa, Đấng mà họ đã tự nguyện hiến cả cuộc đời?
Bức tranh trên đây, theo thiển ý tôi, thật là sống động. Đan sĩ nào bị chú quỉ ban trưa khống chế, dứt khoát sẽ rơi vào bệnh nguội lạnh thiêng liêng khủng khiếp! Bất hạnh thay những ai rơi vào tình trạng đó, vì Chúa không chấp nhận lối sống nửa vời (Kh 3,15-16).
Dưới đây xin nêu lên những nguyên nhân của căn bệnh, vì chẳng phải đột nhiên mà nó nảy sinh trong đời tu !

 

 II. Nguyên nhân phát sinh bệnh chán nản trong đời tu

Các bậc thầy thiêng liêng thường nêu lên những nguyên nhân chính sau đây: thiếu dinh dưỡng thiêng liêng và bị tấn công do các mầm bệnh từ bên ngoài.

1. Thiếu dinh dưỡng thiêng liêng.

Công đồng Vatican II khẳng định: “Hằng ngày, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các kitô hữu” (DV 21). Ngoài ra, Giáo Hội cung ứng cho toàn dân Chúa các bí tích để tự hoán cải và tăng cường ý chí nên trọn lành. Ở đây có thể nhắc lại lời Chúa phán với Phaolô: “Ơn Ta đủ cho con”(x.2Cr12,9), dĩ nhiên phải liên lỉ kết nối với Chúa Giêsu, vì theo thánh Phaolô: Trong Chúa Giêsu Ki-tô chúng ta trở nên phong phú về mọi phương diện…khiến chúng ta không còn thiếu ân huệ nào (x. I Cr1,5). Chân lý ấy đúng cho mọi Kitô hữu và càng đúng hơn biết bao cho những tâm hồn tận hiến! Nhưng đáng buồn thay, một số không nhỏ trong chúng ta chấp nhận suy dinh dưỡng trước những bàn tiệc thịnh soạn của ân sủng! Nói đúng hơn, chúng ta đang bị lôi cuốn bởi những “món cay cay” thế tục, dù biết chúng mang nhiều độc tố!

2. Sự xâm nhập các loại vi rút mang mầm bệnh

Một trong những ưu tư lớn hiện nay, về sức khoẻ thể lý của con người, là các thực phẩm mang mầm bệnh, xâm nhập từ các nước ngoại bang! Trên phương diện tinh thần và đạo đức, ảnh hưởng xấu chuyển tải qua các phương tiện truyền thông và du lịch, cũng đang đe doạ các tâm hồn không kém. Lời nói của triết gia Jaspers sau đây làm ta suy nghĩ: “Người ta sẽ cho phép mình làm bất cứ cái gì, một khi họ gạt Thiên Chúa ra ngoài xã hội và lương tri”.
Giáo Hội toàn cầu và các giáo hội địa phương, trong cuộc Tân Phúc âm hoá, sẽ làm gì để tạo khả năng miễn nhiễm cho các thành viên của mình, kể cả người tu hành?

III. Những phương thuốc chữa trị bệnh chán tu

Chữa trị bệnh chán tu hay loại trừ “chú quỷ ban trưa” ra khỏi đời tu, ở đây, được coi như đồng nghĩa! Chúng ta đã dựa vào kinh nghiệm của Gioan Cassiano và các bậc thầy thiêng liêng để tìm hiểu xem chú quỉ ban trưa, xuất đầu lộ diện trong nếp sống tu như thế nào. Nhưng mô tả bệnh tương đối dễ hơn chữa trị bệnh. Dĩ nhiên chúng ta không nên có thái độ bi quan. Với lời cầu nguyện, chúng ta hãy đến thỉnh ý Vị Đại Lương Y, hẳn thật Ngài đã kê toa thuốc sau đây trong sách Khải Huyền rồi: “Ta khuyên ngươi đến với Ta mua vàng đã thử lửa để làm giàu, mua áo trắng để mặc khiến ngươi khỏi xấu hổ để lộ thân thể trần truồng, mua thuốc để xức mắt cho người nhìn thấy được…Hãy nhiệt thành mà ăn năn hối cải. Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta mà mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy và nó sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3, 18-20).
– “Vàng thử lửa” là Đức Tin được sinh động bởi Đức Mến.
– “Áo trắng” là sự tinh tuyền của lương tâm.
– “Thuốc xức mắt” là sự tẩy đôi mắt tinh thần.
– “Dùng bữa tối” là cuộc sống nội tâm thân tình với Đức Kitô.
Căn cứ trên câu Kinh Thánh vừa trích dẫn, ta rút ra bốn phương dược để chữa bệnh nửa vời.

1. “ Mua vàng đã thử lửa”

Tính nửa vời hay tính nguội lạnh thiêng liêng làm cho nạn nhân của nó không còn có một chút sinh khí thiêng liêng. Nơi họ, vắng bóng sự nhiệt thành đã đốt nóng tâm hồn Đức Kitô khi Ngài đuổi con buôn trong đền thờ (Ga 2, 17). Sự nhiệt thành ấy có động lực là niềm tin, xuất phát tự lòng mến. Đức mến là bầu lửa được Đức Kitô thắp lên khi vào đời (Lc 12, 49). Đã có lửa, tất sẽ nóng và hăng nồng vì mến Chúa và yêu tha nhân. Nhưng làm sao lửa có thể bừng cháy nơi tâm hồn đã khô lạnh? Các nhà tu đức thường đề xuất những phương thế sau đây:
– Say mê đọc Lời Chúa, nhất là Tin Mừng. Một câu Lời Chúa đã hoán cải cuộc đời của thánh An-tôn, một Phanxicô Xavier… Phải chăng Lời Chúa hôm nay không còn công hiệu như thế nữa? Thánh Phaolô trong thư Rôma đã triệt để tin tưởng Lời Chúa. Ngài viết: “Tôi không hổ thẹn mà rao giảng Tin Mừng, vì đó là quyền năng cứu rỗi…” (Rm 1, 16).
Nhưng Lời Chúa không phải là những dòng chữ chết hay như một món ăn dọn sẵn. Linh mục Massaki cho ta một ví dụ rất gợi ý: Lời Chúa, theo ngài phải được coi như cuốn phim (âm bản), trong đó mọi hình ảnh đều ngược màu sắc. Ta phải sang Lời Chúa qua cuộc sống như nhiếp ảnh gia sang qua tờ giấy để có hình và màu thật. Đọc Lời Chúa mà không nhằm hoán cải chuyển đổi đời sống của mình nên giống Chúa hơn, thì Lời Chúa không thể nào có công hiệu trên bản thân. Không lạ gì, các tu sĩ kè kè bên hông cuốn Lời Chúa, mà tâm hồn vẫn khô lạnh như băng!
– Sống năm phụng vụ với những tâm tình được Giáo hội lồng vào trong đó.Đức Pio XII khẳng định: “Năm phụng vụ chính là Đức Kitô”. Tại sao? Vì phụng vụ trong năm diễn lại cuộc đời và các mầu nhiệm của Chúa như một cuốn phim sống động chiếu trước mặt người Kitô hữu. Sống năm phụng vụ một cách tích cực là một phương cách hâm nóng tâm hồn hữu hiệu nhất.
– Học kinh nghiệm của các thánh qua cuộc đời và đạo lý của các ngài. Chúng ta có thể không ngoa khi nói rằng: mỗi vị thánh là một cuốn Tin Mừng sống, dĩ nhiên, mỗi vị phản ánh một số điểm nào đó mà thôi. Và chính những nét đặc thù này làm cho vườn hoa Giáo Hội thêm xinh đẹp và phong phú. Do đó, đọc lại chuyện các ngài, chúng ta được khích lệ trong cố gắng hằng ngày, đồng thời khơi dậy trong tâm hồn ước vọng tìm Chúa.

2. “ Mua áo trắng để che thân”

Áo trắng mà sách Khải huyền nói đây là gì nếu không phải là một lương tâm tế nhị. Ngày nay, người ta mất cảm thức về tội lỗi (le sens de culpabilité). Lý do là vì người ta đã đánh mất tình con thảo đối với Cha trên trời. Hẳn thật, một đứa con ngoan khi đã được hưởng tình thương hải hà của cha mẹ, sẽ rất tế nhị trong cách sống với các ngài. Lương tâm đã chai lì vì những hành vi phản bội Thiên Chúa, thì còn đâu sự bén nhạy trước tình thương của Chúa? Phương thế duy nhất để có một lương tâm bén nhạy là lòng sám hối và thường xuyên đến toà cáo giải. Vạch trần tâm hồn mình qua trung gian của người linh hướng đầy khôn ngoan, đó là cách tối hảo để tạo cho mình một lương tâm trong sáng. Đến đây ta hiểu tại sao những tâm hồn trong sáng như Têrêsa thành Lisieux vẫn có thể đau đớn trước những lầm lỡ nhỏ nhặt.

3. “Mua thuốc xức mắt”

Thánh Gioan ám chỉ việc dân ở Laodikea bào chế thuốc xức mắt và xuất khẩu ra các nước lân cận. Thuốc xức mắt nhằm cho sáng mắt. Ở đây, chính là sự sáng thiêng liêng, nhờ đó chúng ta có thể phân biệt những gì thuộc về Chúa và những gì đến từ ma quỉ. Chúa Giêsu dạy các môn đệ: “Các con hãy khôn như rắn”. Tại sao lấy rắn làm biểu tượng cho sự khôn ngoan? Thưa vì khi nằm, rắn luôn dấu đầu bên trong. Chúa có ý dạy chúng ta phải luôn cất giữ những gì chính yếu trong cuộc đời, để chỉ mất mát những cái tuỳ tòng mà thôi. Một tu sĩ bao giờ cũng đặt lòng mến, đức công bình và sự ngay thật lên trên. Vì đó là cốt lõi của Tin Mừng, và đó cũng là nội dung và sứ điệp mà Đức Kitô mang đến trong trần gian. Vậy để có sự minh mẫn, trước mỗi công việc ta hãy đặt mình đối diện với Đức Kitô và tự hỏi: nếu như Ngài làm công việc này, Ngài sẽ làm như thế nào ?

4. “Dùng bữa cùng Chúa”

Cụm từ này nói lên sự thân tình giữa Thiên Chúa và chúng ta. Sự thân tình ấy là gì nếu không phải là đời sống nội tâm? Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô 3, 14- 20, thánh Phaolô coi đời sống nội tâm như một cảm nghiệm tình thương của Thiên Chúa và sự sống của Đức Kitô trong đáy sâu con tim, đó là công việc của Thần Khí. Về phía con người, điều duy nhất được nêu ra là lòng Tin. Nhưng đức tin là gì nếu không phải là khả năng đón nhận (Ga 1, 12). Mà muốn đón nhận Thiên Chúa cách sung mãn tâm hồn ta phải rỗng. Một khi tâm hồn đã rỗng, Thánh Thần sẽ nối kết ta với Thiên Chúa. Từ chỗ đó ta đạt tới sự trưởng thành thiêng liêng, vì đã được đâm rễ sâu trong lòng mến. Kết quả của đời nội tâm là ta trở nên những con người đầy quyền năng trong lời cầu nguyện.
Đi vào cụ thể, để xây dựng đời sống nội tâm, ta phải suy niệm Lời Chúa, đặc biệt trong giờ nguyện gẫm hằng ngày. Giờ nguyện ngắm sẽ được nối dài qua cuộc đối thoại liên lỉ với Thiên Chúa bằng việc chu toàn bổn phận, theo Đức Gioan Phaolô II: “mọi hành động thực hiện trong đời thánh hiến là những câu đáp cho lời mời gọi của Thiên Chúa”.

Kết luận

Đời tu đã xuất hiện trong lòng Giáo hội trên 17 thế kỷ, mỗi Hội dòng mang những nét đặc thù phù hợp với đặc sủng của các Đấng sáng lập. Những thành viên của bất cứ Hội dòng nào đều được mời gọi theo chân Chúa Kitô. Vì Ngài là đối tượng duy nhất cuốn hút mọi tâm hồn, một khi họ đã cảm nghiệm được thế nào là TÌNH YÊU VIÊN MÃN.
Các vị tiền bối của chúng ta trong đời tu đã được nung nấu bởi tình yêu ấy, nên nơi họ không có cảnh giá lạnh thiêng liêng. Tấm gương của các vị ấy khích lệ chúng ta nhiệt tâm tiến bước trên đường tìm Chúa, góp phần xây dựng Giáo Hội với những đoàn sủng đã được trao ban (Ep 4, 1-13). Chúng ta theo gương thánh Phaolô: quên phía sau lao mình về trước, để chạy đến đích điểm trong Đức Giêsu Kitô (x. Ph 3, 14). Chính Thánh Thần sẽ giúp chúng ta thực hiện điều ấy.
“Amen, lạy Chúa Giêsu xin ngự đến ! ” (Kh 22, 20).

 

 

 

 

 

 

 

 

NỖI BUỒN GẶM NHẤM

 

Dom Bernardo Olivera,
Cựu tổng quyền Xi-tô nhặt phép.
Thư luân lưu, tháng 1 năm 2007

 

Anh chị em rất thân mến!

Trong những tháng gần đây và vào giai đoạn sau khi đột quỵ, tôi có chút thời gian và cơ hội để trải nghiệm, phân tích và ngay cả chiến đấu, cũng như suy tư về sự chán chường (l’acédie)[1] trong đời sống tu, là một tật xấu có từ xưa mà tất cả chúng ta ai cũng biết. Tôi cũng có thời gian đọc và suy niệm về chủ đề đó. Vì thế, trong lá thư này, tôi mong muốn được chia sẻ với anh chị em những suy tư của mình. Thật vậy, tôi thiết nghĩ tật xấu điển hình này là một điều gì thường xảy ra trong đan viện. Nguyên nhân có thể phát xuất từ một vài thái quá hay cũng có thể do những thiếu sót của nền văn hóa, nhưng nó phổ biến khắp nơi dưới mọi hình thức khác nhau trong thế giới hiện tại.

Thật không dễ khi nói về sự chán chường, vì kinh nghiệm về nó thật sự phức tạp hơn các kinh nghiệm có thể xác định như tham ăn, dâm ô, tính hà tiện, sự nóng giận, buồn rầu hay kiêu ngạo…. Vì thế, điều quan trọng phải làm rõ là chúng ta nên tiếp cận ở góc độ nào.

Đối diện với hiện tượng và kinh nghiệm của sự chán chường, ít là chúng ta có đến 4 cách tiếp cận khác nhau và đây là những đường nét lớn:
– Bác sĩ có thể chẩn đoán sự thiếu hụt năng lượng của cơ thể.
– Nhà tâm lý có thể trưng ra một lược đồ bệnh lý do nội thương hay chấn thương.
– Nhà luân lý có thể xét đến một tội nào đó trầm trọng hay ít trầm trọng tùy theo người ta có kiến thức về điều đó ít hay nhiều và mức độ chủ ý.
– Nhà linh hướng thử biện phân xem có hay không 7 mối tội đầu tấn công những ai tìm kiếm Thiên Chúa.
Những nhà chuyên môn trên đối diện cùng một hiện tượng, nhưng mỗi người có những ý kiến khác nhau tùy theo cách tiếp cận của mình và tất cả đều có lý theo góc nhìn của họ. Vì thế, với việc phân định từng vấn đề riêng biệt, chúng ta phải phân tích tất cả mọi khía cạnh đã được chỉ ra. Trong nền văn hóa “duy tâm lý” như nền văn hóa của chúng ta, thiết tưởng cũng nên nhắc lại thực tại xấu xa, khách quan, cá nhân hóa, hận thù và sáng suốt này mà chúng ta vẫn gọi là sa-tan hay ma quỉ.
Trong lá thư này, tôi nhìn vấn đề theo nhãn quan thiêng liêng của một đức tin sống động và thực tiễn. Với nhãn quan đó, tôi xem xét sự chán chường như là một sự dữ khiến cho việc tìm kiếm và gặp gỡ Thiên Chúa của chúng ta bị chệch hướng, nghẽn đường và chồng chéo nhau. Sự chán chường làm tổn thương sự kiên trì nơi đời sống Ki-tô hữu và trong đời sống đan tu. Nhìn nhận sự thật này là một điều khó khăn và đáng buồn, tuy nhiên ước gì sẽ không còn có một trường hợp từ bỏ đời tu nào do nết xấu này âm thầm gặm nhấm.
Mặt khác, tôi tự đặt mình trong toàn cảnh của một cuộc chiến thiêng liêng và trong khung cảnh khổ chế đan tu là khung cảnh tôi luyện con tim trở nên thanh sạch trong suốt cuộc hành hương hướng về quê hương thật là tình yêu của Thiên Chúa. Tôi sẽ khởi đầu công việc này từ truyền thống liên quan đến “các nết xấu hay những mối tội đầu” nói chung và tiếp đó là sự chán chường nói riêng. Kế đến, tôi nhấn mạnh một vài khía cạnh của truyền thống qua việc cố gắng mở rộng thêm để có thể truyền lại và nhất là để chuyển giao cho những người trẻ.


I. TRUYỀN THỐNG ĐÃ ĐƯỢC THỪA NHẬN

1. Những mối tội đầu.

Các đan sĩ ở trong sa mạc Ai cập đã cho chúng ta biết có những khuynh hướng mất trật tự phát xuất từ những khuynh hướng khác. Ở đây, chúng ta khởi đầu từ học thuyết truyền thống về “các mối tội đầu”.
Évagre le Pontique (+399) là người đầu tiên hệ thống hóa học thuyết này: ông đã đề cập đến 8 tư tưởng xấu hay những khuynh hướng độc hại mà người ẩn sĩ phải đối đầu và chế ngự nó. Jean Cassien đã giới thiệu học thuyết này vào trong bối cảnh tu trì Tây phương.
Tất cả chúng ta đều biết đến hoàn cảnh hình thành bản sắp xếp các nết xấu hay các mối tội đầu đi theo sau việc thiết lập nếp sống đan tu khổ hạnh của Jean Cassien. Thánh Gregorio cả (+604) đóng một vai trò nền tảng trong sự tiến triển này. Ngài tiếp tục theo chân của Cassien, nhưng không hoàn toàn rập khuôn, trái lại có những nét hết sức đặc thù. Theo đó, ngài thay đổi thứ tự của các nết xấu; sự chán chường biến mất khỏi danh sách, dầu có một vài biểu lộ của nó hòa trộn với nỗi buồn; ngài thêm vào danh sách sự ham muốn và lấy ra khỏi đó tính kiêu ngạo, khi xem nó là gốc rễ và là nguồn của tất cả tội lỗi. Để thực hiện điều này, ngài đã dựa theo lời sách khôn ngoan của bản dịch Vulgata: “Tất cả mọi tội lỗi đều là kiêu ngạo” (Kn 10, 15). Xa hơn nữa, vinh quang tạm bợ và kiêu ngạo đều hun đúc trong một nết xấu duy nhất. Như thế, chúng ta có một danh sách truyền thống về 7 tội chính yếu, được sử dụng ở tây phương từ thế kỷ 13.
Jean Climaque (+650) và Jean Damascène (+749) có công truyền bá học thuyết này vào trong Giáo Hội Đông Phương.
Giữa Đông phương và Tây phương không có một sự khác biệt nào quá quan trọng. Thực tế, sự ham muốn là một hình thức buồn chán phát xuất do ghen tỵ với sự thiện mà tha nhân có. Sự chán chường được tích hợp vào nỗi buồn và người ta nhấn mạnh đến chiều kích uể oải hay nhàn rỗi vô bổ. Cuối cùng chúng ta có thể nói quan điểm của các tác giả Latinh khá giáo điều và luân lý, trong khi quan điểm của các bậc thầy thiêng liêng đông phương thiết yếu nhắm đến cuộc sống thực tế và liên quan tới đời sống thiêng liêng hơn.
Một vài thần học gia bậc thầy thời trung cổ đã trình bày học thuyết này. Trong số đó phải kể đến các thần học gia như Hugues de saint Victor, Pierre Lombard, Bonaventure và Thomas Aquino.
Những thế kỷ kế tiếp, trong đêm tối mù mịt, thánh Gioan Thánh Giá đã tài tình mô tả cách thế mà các nết xấu này bộc lộ nơi những người đã tiến bộ trong đời sống thiêng liêng và khởi sự bước vào “đêm tối giác quan”. Trong việc thực hành thiêng liêng, thánh Ignatio Loyola khuyên là nên trình bày cho người linh thao những tội lỗi chính yếu để làm chất liệu cho họ suy niệm. Thánh Phanxicô salesio, trong phần giới thiệu của ngài về đời sống sùng mộ, đã cho chúng ta một bài thuyết trình hấp dẫn và thực tế.
Và lịch sử có thể vẫn tiếp tục như thế. Để kết luận, chúng ta dừng lại trên bản văn giáo lý của Giáo Hội công giáo: các nết xấu có thể được phân loại theo các nhân đức đối lập với nó hay nối kết với các mối tội đầu mà kinh nghiệm Ki-tô giáo đã phân biệt tiếp theo sau Jean Cassien và thánh Gregorio cả. Nó được gọi là mối tội đầu vì nó phát sinh ra các tội khác, các nết xấu khác. Đó là kiêu ngạo, tính hà tiện, ham muốn, giận dữ, dâm ô, tham ăn, lười biếng hay biếng nhác (x. GLCG số 1866).
Tóm lại, để tiếp tục mở ra một con đường và cho phép tiến tới tương lai. Tâm lý học hiện đại đã đào sâu động cơ và những cách thể hiện của các nết xấu này. Xã hội học đã chỉ cho chúng ta thấy có những hình thức xã hội và văn hóa thường tô điểm cho nó, cũng như tạo cho nó một sự dễ dàng, thuận lợi và đôi khi làm cho người ta cứ tưởng là nó đáng kính trọng (ví dụ, kiêu ngạo bị che dấu đàng sau sự quý mến mình và nóng giận được ngụy trang qua việc khẳng định mình). Chúng ta có thể đặt ra những câu hỏi về thuật ngữ “chủ chốt, chính yếu”: phải chăng có những tội khác nền tảng hơn, tự nó phát sinh ra những điều xấu khác sao? Phải chăng nên xem xét những mối tội đầu này có phù hợp với những khuynh hướng vô bổ chỉ dành riêng cho nữ giới hay là cho các nền văn hóa và tôn giáo nào khác.

2. Sự độc hại của chán chường

Chúng ta thử đưa ra một cái nhìn lịch sử toàn diện và nhanh nhất về hiện tượng chán chường. Tôi chỉ quan tâm đến vài bậc thầy thiêng liêng đã đặt ra những nền tảng mà ngày nay chúng ta hẳn còn sử dụng.
Có thể nói: Évagre le Pontique là lý thuyết gia vĩ đại về sự chán chường. Người ta nên sử dụng từ “lý thuyết gia” như một tính từ đã được thể từ hóa, nó biểu lộ khả năng quan niệm và diễn tả kinh nghiệm sống. Evagre giới thiệu rất hóm hỉnh về những biểu lộ khác nhau của sự chán chường. Tất cả chúng ta đều biết bản văn này và không cần thiết phải trích dẫn ra ở đây, vì chúng ta đã học hỏi nghiêm túc và vấn đề đã được sáng tỏ những năm gần đây .
Trong phạm vi của lá thư này, trưng ra chỉ dẫn về một vài khía cạnh của học thuyết Evagre như vậy là đủ. Sự chán chường là một tư tưởng đam mê phức tạp. Nó được nuôi dưỡng bởi tất cả những cảm tính, kể cả tính nóng giận và dâm dục và thường gợi lên những nết xấu khác. Vì thế, những biểu lộ của nó có thể xuất hiện mâu thuẫn đến cực độ: lãnh cảm và tích cực; tê liệt và mãnh liệt; tước đoạt và gây gổ; trốn chạy khỏi sự thiện và hy sinh cho sự ác. Như vậy, chúng ta hiểu lý do tại sao kết cuộc của nó giống như là một phân rã từ bên trong.
Nỗi buồn là chị em sinh đôi của chán chường; nó tập hợp lại, nhưng không đồng nhất với nhau. Nỗi buồn sẽ tìm được phương dược chữa lành vết đau của nó dễ dàng hơn, còn người nào rơi vào cảnh chán chường thì lúc nào cũng bị ám ảnh. Nỗi buồn là một kinh nghiệm mau qua, tùy từng thời điểm; chán chường là một tâm trạng thường xuyên và bao trùm cả cuộc sống. Theo nghĩa này, nó ngược với bản tính con người.
Những biểu lộ chính nơi “chú quỉ ban trưa” của sự chán chường là: không ổn định nội tâm và thích thay đổi (tâm không định và đứng núi này, trông núi nọ); quá quan tâm đến sức khỏe cá nhân (chẳng hạn quan tâm đến bữa ăn); ghê tởm với công việc chân tay (nhàn rỗi và ươn lười); ham công tiếc việc đến nỗi không kiểm soát được; chểnh mảng trong việc sống cuộc sống đan tu; nhiệt tâm đối với một số việc thực hành khổ chế, nhưng lại muốn cho người khác biết công việc mình làm và làm việc quá sức.
Chán chường tác động đến tất cả mọi nết xấu khác, vì vậy người ta không thể sử dụng nhân đức đối nghịch với nó để chữa cho căn bệnh này. Người ta cần thay đổi cách chữa trị và sử dụng nhiều hình thức khác nhau như ăn năn trong nước mắt và than van; cậy nhờ vào Lời Chúa; suy gẫm đến cái chết; kiên nhẫn, chịu đựng và vững chí, nghĩa là tránh xa mọi sự bù trừ và đặt trọn hy vọng vào Chúa. Chúng ta dễ dàng thấy được rằng những phương thuốc và vũ khí này sẽ lôi kéo chúng ta hướng về cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Cuối cùng, sự chán chường là xa lánh Thiên Chúa và người ta chỉ có thể chữa trị nó qua việc kiên nhẫn tìm kiếm một cách cụ thể gương mặt của Thiên Chúa.
Jean Cassien vừa đồng thời là người chịu ơn và là người có công truyền bá học thuyết Evagre về những gì liên quan với sự chán chường: ông ta tiếp nối học thuyết của Evagre qua việc hệ thống hóa và đơn giản hóa những dữ kiện. Ông đã chuyển dịch từ tiếng Hy lạp từ chán chường theo nghĩa buồn phiền, chán nản, nỗi lo của con tim. Kế đến, ông rút ngắn khoảng cách mối liên hệ giữa buồn chán và sự chán chường, đồng thời từ đây biến hai chị em này trở thành chị em sinh đôi thực sự. Ông làm nổi bật quá mức sự biểu lộ hay triệu chứng của nó. Chính vì lý do này mà ông nhấn mạnh công việc chân tay như là phương thuốc chữa trị hữu hiệu. Như thế, với cách chữa trị này, chú quỉ ban trưa sẽ tự biến đi hay là tìm cách biến đi đến muôn đời.
Tuy nhiên, lời dạy của Jean Cassien về sự chán chường buồn phiền không thiếu những điểm độc đáo. Điều thích thú nhất là sợi dây “chị và em của chán chường”, để từ đó người ta biết được: sự nhàn rỗi, ngủ gà ngủ gật, việc không hợp lúc, lo lắng, lêu lổng, bất định của thân thể và tinh thần, nói nhiều và tính thọc mạch.
Trong tương quan với thực tại của chán chường, Jean Cassien giữ một tầm quan trọng rất đặc biệt. Nhờ ông mà các ẩn sĩ trong sa mạc Ai-cập đã được biết đến trong các đan viện tây phương dưới hình thức các đan sĩ khổ hạnh. Mặt khác, cũng nhờ nỗ lực của ông trong việc hệ thống hóa học thuyết do ông tiếp nhận mà tầm ảnh hưởng của ông còn để lại cho các thế hệ mai sau.
Trong số những người thừa kế của truyền thống này, chúng ta biết đến thánh Gregorio Cả mà học thuyết của ngài được xem như là cột mốc quan trọng. Như chúng ta đã đề cập ở trên, sự chán chường không được đề cập trong danh sách các mối tội đầu (chính yếu), nhưng một số yếu tố của nó được tích hợp vào trong các nết xấu của buồn chán. Ngài còn cho biết tính hiểm độc của chán chường là bởi vì buồn chán, mà nguyên nhân của buồn chán là vì không đạt được sự thiện của Thiên Chúa và vì tất cả sự thiện có liên quan với Ngài. Điều này chứng minh rằng phán đoán của lý trí đã bị hư hỏng; người ta xem sự thiện như là một điều xấu, và ngược lại điều xấu lại được nhìn nhận là tốt.
Chúng ta cũng đọc thấy một lời ghi chú duy nhất về chán chường trong chương 48, tu luật thánh Biển Đức, là đoạn nói về công việc chân tay và việc đọc sách. Yếu tố đơn giản này cho thấy sự phụ thuộc của thánh Biển Đức với Cassien. Tu luật bắt đầu với những từ ngữ sau: “Sự nhàn rỗi là kẻ thù của linh hồn. Vì thế, anh em phải có giờ làm việc chân tay; có giờ đọc sách” (Tl 48, 1).
Cần ghi nhận rằng phải chiến đấu chống lại là sự nhàn rỗi và lười biếng, uể oải. Vũ khí mà chúng ta cần sử dụng là công việc và Lectio divina được thay đổi luân phiên. Kế đến, thánh phụ còn tiếp: “giờ đọc sách phải chỉ định một hay hai anh em cao niên đi xem xét, trông chừng kẻo có ai lười biếng không chăm chỉ đọc sách, hoặc ở nhưng, hoặc nói chuyện phiếm, chẳng những làm thiệt hại cho mình, mà còn làm người khác chia trí, mong đừng như thế. Nếu bắt gặp hạng người như vậy hãy sửa dạy một hai lần, nếu không sửa mình thì hãy chiếu theo luật nghiêm phạt để người khác sợ. Những giờ cấm, anh em không được giao tiếp với nhau. Ngày chủ nhật, anh em đọc sách, trừ những người bận công tác đã chỉ định. Nếu ai chểnh mảng lười biếng đến nỗi không muốn hoặc không thể suy niệm hay đọc sách được, hãy giao cho họ một công việc nào đó để khỏi ở nhưng. Với những anh em bệnh hoạn hay yếu sức, hãy giao cho họ một việc hay một nghề gì để khỏi nhàn rỗi, mà cũng không nặng nhọc quá đến nỗi phải lẫn trốn. Viện phụ cần lưu tâm đến sự yếu đuối của các anh em này” (Tl 48, 17-25).
Trong đoạn tu luật trên, thánh Biển Đức xem xét 3 hoàn cảnh khác nhau.
Trước tiên đó là thời gian mùa chay, mà trong tinh thần của ngài đây là thời gian mẫu mực của tất cả đời sống đan sĩ (Tl 49, 1). Hình phạt mà các đan sĩ phải chịu vì chán chường, biếng nhác cho chúng ta thấy rằng theo kinh nghiệm của ngài điều đó là một tội. Vấn đề không đơn giản là lười biếng hay yếu đuối, nhưng đúng hơn là sự thờ ơ hay chán chê với đời sống thiêng liêng. Mặt khác, là vì họ dành năng lực làm theo ý riêng mà không theo mục đích chung của đan viện.
Kế đến là ngày chủ nhật, đan sĩ có ít thời gian làm việc chân tay nhưng nhiều thời gian dành cho việc đọc sách và suy gẫm. Nếu một người nào đó, vô ý hay hữu ý, chểnh mảng hoặc lười biếng thì trao cho họ một công việc để tránh nhàn rỗi. Mục đích của việc này là thực hành khổ chế và chữa trị hơn là công việc. Chúng ta cần ghi nhận rằng sự bất cẩn, thiếu sự chăm sóc hay ứng dụng có thể phát xuất từ sự lười biếng hoặc là thiếu lòng ao ước và động lực. Theo tinh thần thánh Biển Đức, người nào chán chường thì người đó cũng lười biếng: nó ngăn trở nguồn vui của Chúa Thánh Thần và không hân hoan mong đợi phục sinh trong niềm vui của đời sống thiêng liêng (Tl 49, 6-7).
Cuối cùng là hoàn cảnh của những anh em đau yếu và yếu sức hơn sẽ dễ dàng trở nên mồi ngon cho sự nhàn rỗi, vì thế thánh Biển Đức mời gọi họ đón nhận một công việc nhẹ nhàng, thích hợp với sức khỏe của họ.
Chúng ta cũng tìm thấy trong tu luật một số bản văn khác nói về vấn đề buồn chán. Với người quản lý, tu luật nài nỉ yêu cầu đừng gây phiền toái cho anh em và theo cách thông thường hơn, tu luật đòi hỏi rằng không một ai bị bất an và gây phiền toái trong nhà Chúa (tl 31, 6-7; 18-19). Đối với việc phục vụ bếp, người yếu đuối cần phải được trợ giúp để họ chu toàn công việc mà không phải buồn phiền, vì nhờ việc phục vụ này, chúng ta có được công lao và đức ái hơn (Tl 35, 1-3). Một điều gì đó tương tự khi nói về chủ đề việc làm trong các phạm vi mà tu luật đề cập đến như: buồn chán ngăn trở họ trở nên một đan sĩ thực sự và ngăn cản họ bắt chước các bậc tổ phụ và các tông đồ là những người làm việc từ chính bàn tay của mình! (Tl 48, 7-9). Theo 3 đoạn văn này, khung cảnh công việc là mảnh đất có nguy cơ làm phát sinh nỗi buồn phiền, mà thông thường là miền đất hứa của chán chường; vì thế, có nguy cơ căn bệnh làm phương thuốc mất hiệu nghiệm: công việc không còn là phương dược chữa trị sự nhàn rỗi….
Mặt khác, trong số những khí cụ làm việc lành như: đừng mê ngủ, không lười biếng, sợ ngày phán xét, hết lòng khao khát sự sống đời đời, mỗi ngày đinh ninh mình sẽ chết, ham nghe đọc sách thánh thiện, đừng thỏa mãn vì thèm muốn và không bao giờ thất vọng về lòng thương xót của Thiên Chúa (Tl 4). Bằng cách này hay cách khác những công việc tốt lành này có chữa được sự chán chường của “chú quỉ ban trưa” không?
Quan điểm của thánh Biển Đức khá giống với Jean Cassien trong những cộng đoàn tu trì của ông: chán chường, ở nhưng và buồn chán luôn song hành với nhau và công việc chân tay là phương thuốc hữu hiệu chữa cho căn bệnh này. Tuy nhiên, có hai dữ kiện độc đáo và quan trọng mà thánh Biển Đức đã trình bày chán chường như là vật cản và ngăn trở cho việc đọc sách thiêng liêng (Lectio divina); chán chường làm mất vị giác và ngăn cản chúng ta thưởng nếm sự ngọt ngào của những sự trên trời và của chính Thiên Chúa. Bên cạnh đó, phương thuốc mạnh nhất của thánh Biển Đức chữa trị chán chường là nội vi đan viện và sự kiên định trong đời sống cộng đoàn! (Tl 4, 78).
Các đan sĩ Xi-tô ở thế kỷ 12 là chứng nhân trung thành cho học thuyết này của thánh phụ Biển Đức, dầu vẫn không thiếu những nét độc đáo và đặc thù. Ở đây chúng ta thử lắng nghe lời của Aelred de Rievaulx, một đan sĩ Xi-tô vào thời đó: ở nhưng như chúng ta đã biết là kẻ thù của linh hồn và lối sống xa lánh thế gian đặc biệt giúp tránh xa được tật xấu này. Thật vậy, ở nhưng là mẹ của tất cả mọi sự xấu: nó sinh ra dâm dục, nuôi dưỡng thói thóc mách và các nết xấu, đồng thời duy trì ngọn lửa của chán chường và buồn chán. Chính việc ở nhưng gieo vãi những tư tưởng xấu, kích động những quyến luyến bất chính và gây nên những ham muốn tội lỗi. Cũng chính nó làm cho cuộc sống yên tĩnh trong cô tịch thành chán ngán và tạo cho căn phòng của đan sĩ thành nơi ghê tởm. Ước gì tên quỉ sứ không bao giờ tìm thấy anh em ở nhưng. Tuy nhiên, tinh thần của chúng ta, vốn lệ thuộc vào tính chất tạm thời của đời sống này, không thể kiên định mãi. Vì vậy, chúng ta cần phải chiến đấu chống lại sự nhàn rỗi nhờ việc đa dạng các việc làm và nhờ việc luân chuyển các mối bận tâm nào đó mà chúng ta có được sự bình an (đời sống xa lánh thế gian, 9; Isaac de l’Estoile, bài giảng 14, 1-4).
Trong Tổng luận thần học, thánh Thomas Aquino, một người am hiểu các truyền thống cổ xưa đã nói về sự chán chường theo hai viễn cảnh. Trước hết, ngài xem xét chán chường như là nỗi buồn tạo lên trong tâm trí con người một cảm giác suy sụp như thể họ không còn ham muốn làm một việc gì. Cụ thể hơn, chán chường là một trong những tội chống lại hành động nội tại của đức ái, vì nó là một loại buồn chán đối nghịch với sự thiện của Thiên Chúa. Kết quả của nỗi buồn chán này là sự chán ngấy hành động, làm tê liệt việc hướng về Thiên Chúa và các thực tại trên trời. Chúng ta có thể thấy được mức độ trầm trọng của chán chường xuất phát từ việc đối nghịch giữa nó với hoàng hậu các nhân đức là đức ái, là sự nghĩa thiết của hữu thể con người với Thiên Chúa. Chúng ta cũng dám nói rằng thánh Thomas dạy chúng ta cách bảo vệ niềm vui thiêng liêng của mình và thăng tiến trong khả năng của chúng ta.
Khi xem như là nền tảng, thánh Gregorio tiếp tục cố gắng hài hòa những danh mục khác nhau về các thứ tội do sự chán chường tạo nên mà ngài biết được. Như thế, ngài đề cập đến: sự tuyệt vọng (thiếu niềm tin vào ân sủng như là một sự giúp đỡ để chiến thắng sự dữ), nhút nhát (yếu nhược khi chống lại các cơn cám dỗ), không thực hiện giới luật (không thực hiện mệnh lệnh, giới luật của Giáo Hội và những bổn phận thuộc chức vụ của mình), sự oán hờn (phẩn nộ những người đức hạnh và chống lại người hướng dẫn thiêng liêng), ác tâm (căm ghét những thiện ích thiêng liêng), dễ dãi với những điều bị cấm đoán (bất định, ba hoa và tò mò).
Chán chường chiếm một chỗ quan trọng trong toàn bộ học thuyết luân lý của thánh Thomas. Nết xấu này ảnh hưởng đến sức năng động của hành động tình yêu. Hơn nữa, chán chường tấn công lòng thao thức Thiên Chúa và nhất là niềm vui phát xuất từ sự kết hiệp với Ngài.
Chúng ta cần nói thêm một chút nữa về sự buồn chán sẽ giúp hiểu rõ hơn sự chán chường. Theo thánh Thomas, nguyên nhân của buồn chán phát xuất từ căn bệnh cá nhân; tuy nhiên, đôi khi sự thiện của tha nhân được xem như là căn bệnh cá nhân. Theo nghĩa này, người ta có thể buồn vì sự tốt lành của tha nhân, bởi vì nó làm giảm bớt vinh dự và thành công riêng của chúng ta. Và người ta gọi biểu hiện này là sự ghen tương (Tổng luận thần học II-II 36, 1).
Những điều vừa được đề cập đến sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn lý do tại sao khi chúng ta nói đến sự chán chường, chúng ta liên kết nó với sự buồn chán, việc ở nhưng và ghen tương. Cụ thể, sự chán chường có thể được hiểu như sau:
– Thứ nhất, theo hình thức thần học của buồn chán và ghen tương, là hình thức được thánh Gregorio và thánh Thomas trình bày. Đối với hai vị thánh này, việc ở nhưng và lười biếng là kết quả của chán chường.
– Thứ đến, theo nghĩa thực hành, xem xét sự nhàn rỗi và lười biếng trong mối tương quan với thực tại thiêng thánh. Đây là nghĩa được nhiều tác giả thiêng liêng và đan tu nhấn mạnh; bao gồm nhiều bài giáo huấn thực tiễn và xem là chán chường tùy theo những kết quả cụ thể và thường nhật của nó.
Vào những thế kỷ sau đó, chán chường gần như không còn xuất hiện trong từ vựng về đời sống thiêng liêng. Điều đó không có nghĩa là không còn chán chường. Thánh Ignatio Loyola không sử dụng từ này, nhưng biết rất rõ sự xấu xa của vấn đề. Trong những quy luật phân định thần khí của mình (Quy luật phân định 313-336), thánh nhân giới thiệu công trình ân sủng của Thiên Chúa mà ngài gọi là “nguồn an ủi” và gọi điều đối nghịch là “sầu não”. Qua những gì đã được mô tả, thật dễ dàng để đi đến câu kết luận về sự chán chường:
“Tất cả những gì làm tăng niềm hy vọng, niềm tin và đức ái và các niềm vui nội tâm, là niềm vui mời gọi và lôi kéo linh hồn đến với những sự trên trời, chăm sóc cho phần rỗi của mình, yên tĩnh và dịu êm trong Đấng sáng tạo và trong Đức Chúa đều được gọi là nguồn an ủi” (Quy luật phân định 316).
“Những gì ngược lại với các điều đã kể trên trong quy luật thứ 3: bóng tối và sự rối loạn của linh hồn, khuynh hướng về những sự vật thấp hèn và trần thế, sự bồn chồn và những cám dỗ khác nhau dẫn đến ngờ vực, mất niềm hy vọng và không tình yêu, buồn rầu, lạnh nhạt, lười biếng và làm cho chúng ta xa lìa Đấng Tạo Hóa và Đức Chúa của mình đều được gọi là sầu não” (Quy luật phân định 317).
Như vậy, đặc điểm của Thiên Chúa và các thiên thần là hành động trong linh hồn để tạo lên sự hoan hỉ đích thực và niềm vui thiêng liêng thật sự. Niềm vui chỉ có được khi trục xuất những gì là lộn xộn và buồn chán mà kẻ thù đã ra sức đưa vào, cũng như gieo rắc trong đó. Trái lại, đặc điểm kẻ thù là chống lại niềm vui và sự an ủi nội tâm này bằng những lý do ngoại tại, sự tinh tế và bằng những ảo giác triền miên (x. Quy luật phân định 329).
Một khi sự ác được xác định, thánh Ignatio đề nghị những phương dược chữa trị: không tạo ra một sự thay đổi nào cả, sống ổn định, kháng cự lại sự ác bằng việc thực hành các nhân đức đối nghịch với nó, kiên nhẫn… và ngài giải thích những nguyên nhân có thể xảy ra: tội lười biếng thiêng liêng, thử thách để giúp cho biết mình, hay để biết được tất cả sự thiện hảo thiêng liêng là một ân huệ của Thiên Chúa…(x. Quy luật phân định 318-322). Khi kết thúc những cuộc tập dượt của mình, thánh Ignatio đưa ra một thứ thuốc kháng độc chữa trị sự chán chường: “Chiêm niệm để đạt tới tình yêu”, sự chiêm niệm này là một bài tập kiên trì trong sự thiện hảo và một cách thức duy trì, khuyến khích đời sống của niềm vui và của sự an ủi trong đức ái (x. Quy luật phân định 230-237).
Cuối cùng, chúng ta có thể đọc trong sách giáo lý Giáo Hội Công Giáo: sự chán chường hay lười biếng thiêng liêng đi đến chỗ từ chối niềm vui phát xuất từ Thiên Chúa và xem sự thiện là ghê tởm (2094). Cụ thể hơn, trong bối cảnh của những cám dỗ khi cầu nguyện, cũng cần khẳng định rằng sự chán chường là một hình thức suy sụp đi liền với sự lơ là trong việc khổ chế, hạ thấp việc cảnh giác, và sự chểnh mảng của con tim (2733). Qua hai đoạn văn này, chúng ta dễ dàng thấy được tầm ảnh hưởng của tiến sĩ thiên thần và của truyền thống trước đó.

 

II. Phát huy truyền thống

Một truyền thống sống động là truyền thống luôn tự làm mới lại. Tôi không biết đến mức độ nào thì điều đi sau được gọi là mới, nhưng tôi có thể bảo đảm rằng đó là lối thoát của những gì đã sống. Nếu điều đó có thể làm sáng tỏ và khuyến khích thì lúc đó sứ vụ được hoàn thành.

1. Ý nghĩa của từ ngữ

Sự chán chường là một từ Hy-lạp, về cơ bản có nghĩa là: vô tâm, chểnh mảng và thiếu tha thiết… tuy nhiên, điều làm cho chúng ta thấy thích thú là người ta đã dùng từ Latinh “Teadium” để dịch từ đó. Thế mà, từ này trong tiếng pháp có nghĩa là nỗi vất vả, cực kỳ chán nản, thờ ơ hoặc chán ngấy.
Song vậy, chúng ta cũng thấy trong từ điển thiêng liêng của hầu hết các ngôn ngữ Tây phương đều có chữ chán chường. Trong trường hợp này, nó có nghĩa căn bản là nhàn rỗi, lười biếng (đối lại với chăm chỉ) và buồn chán, cay đắng (đối lại với niềm vui).
Trong tiếng Latinh còn có cả một số từ có họ gần với từ chán chường như: Acer, acris, acre., acetum, acerbum… điều này cho chúng ta một suy nghĩ là con người chán chường, theo nghĩa biểu trưng, thì không còn là mình, bởi sự chán chường làm cho họ trở nên “chua chát”. Khi rượu vang dịu ngọt trở nên chua chát thì nó biến thành giấm và trở nên chán chường. Cũng thế, khi niềm vui của đức ái thành chua chát thì nó cũng hóa thành chán chường vậy.
Những điều nói trên cho phép chúng ta biết rằng ở trong tình trạng chán chường là một sự chua chát, đến nỗi tất cả những gì là thiêng liêng và tôn giáo đều trở thành giấm. Xét vì điều đó là chua chát thì nó cũng đi liền với nguội lạnh và chúng ta có thể nói rằng chán chường làm cho chúng ta thành lạnh nhạt khi nó làm cho lòng nhiệt thành của đức ái trở nên nguội lạnh.
Ngôn ngữ Nhật Bản theo một hướng đi khác và trực tiếp hơn khi dịch từ chán chường. Nó sử dụng từ Mu-ki-ryoku, có nghĩa là: mu (thiếu, bất lực), ki (năng lượng), ryoku (sức mạnh, quyền lực). Người ta cũng dịch từ này bằng từ iya-ki, nghĩa là: iya (bị mệt mỏi, nghen ghét) và ki (năng lượng). Những ai biết được giá trị và tầm mức của từ “ki” trong những văn hóa phương đông, thì nhận thấy được sự trầm trọng cực kỳ của chán chường: người nào ở trong tình trạng đó sẽ mệt mỏi, kiệt sức, mất năng lượng, không còn sự năng động vốn có và đi đến chỗ phá bỏ sự hài hòa với Thiên Chúa, với tha nhân và với vũ trụ.


2. Chứng nhân kinh thánh

Giờ đây, chúng ta thử tìm hiểu hai bản văn kinh thánh có mối liên hệ với chủ đề của chúng ta. Ánh sáng của nó có lẽ sẽ cho phép chúng ta hiểu hơn sự việc này nguy hiểm đến mức độ nào và nó thường gây lên những tác hại ở bên trong, cũng như ở ngoài đan viện.
Bản văn thứ nhất được rút ra từ sách Khôn Ngoan, theo bản gốc Hy-lạp. Chúng ta đọc thấy ở đó: “Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết.” (Kn 2, 23-24). Bản văn này rất phong phú theo nghĩa thần học; tác giả trình bày ma quỉ đã ghen ghét và chống lại con người vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Thế nhưng sự ghen ghét này là gì? Đó là nỗi buồn khi đối diện với sự thiện của tha nhân. Sa-tan không chấp nhận sự thiện tuyệt hảo của con người có được qua sự hiệp thông với Thiên Chúa, nên nó gây chiến với chúng ta. Người cùng phe với nó cũng có chung một sự ghen ghét và cùng một sự chết thiêng liêng. Do đó, “thế gian” không để cho con trai và con gái của Thiên Chúa có được bình an. Luôn luôn có những “Cain” giết hại “Abel”, có những “Hêrôđê” não lòng và trở nên cuồng bạo vì những tin tốt lành, đồng thời có những “Giu-đa Iscariôt” đả kích Maria, làng Betania vì tình yêu của bà đối với Chúa Giêsu.
Bản văn thứ hai là bản văn Thánh Vịnh. Trong bản tiếng Latinh, bản Vulgata, chúng ta đọc được những dòng chữ như sau: Dormitavit anima mea prae taedio (Tv 118/119, 28). Cần nhắc lại từ hy-lạp của bản 70, thánh Giêrônimô dịch chữ taedio chính xác là chán chường (acédie). Và tiếng Do-thái: tugah là nỗi buồn, là sầu não. Bản văn hiện đại bằng tiếng pháp linh động và dịch theo nhiều cách khác nhau: linh hồn tôi rất đỗi buồn sầu hay buồn sầu ứa lệ, buồn sầu khiến cho nước mắt tuôn chảy, linh hồn tôi sầu não ứa lệ…nhờ bản văn này mà chúng ta nhận ra rằng thánh Grêgôriô Cả và thánh Thomas Aquino không hề đi trật hướng. Ở đây chúng ta cũng nhấn mạnh rằng Jean Cassien liên kết sự chán chường với giấc ngủ, còn thánh Biển Đức khuyên: đừng mê ngủ quá (Tl 4, 37).
Tuy nhiên, bản văn gốc tiếng Do-thái có thể được dịch: nỗi buồn làm phiền toái sự khao khát của tôi (nefesh). Nghĩa là: nỗi buồn trói buộc sự khao khát thúc đẩy tôi hướng về Thiên Chúa. Người lười biếng mà sách cách ngôn thường diễn tả là người loạn năng, bởi vì lòng khao khát của họ, khép kín trên họ, dẫn họ đến với sự chết (x. Cn 21, 25).


3. Cuộc chiến và những ham muốn vô bổ

Cuộc chiến thiêng liêng khởi đầu ngay sau tội nguyên tổ và vẫn còn tiếp tục cho đến thời gian cuối cùng: Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ, giữa dòng dõi mi và dòng dõi của người. Người sẽ đạp dập đầu mi, còn mi rình cắn gót chân người (x. St 3, 15). Thánh Phaolô đưa cuộc chiến này vào trong nhiệm cục Cứu độ (x Cl 2, 15; Ep 6, 11-12; I Co 15, 24-26) và đề nghị với chúng ta những khí giới thiêng liêng thích hợp (x. Ep 6, 11-17; I Tx 5, 8; I P 5, 8-9).
Trong đời sống đan tu các đan sĩ kế thừa di sản này và các từ “chiến đấu cho Đức Kitô” hoặc “người lính của Đức kitô” đã được sử dụng ngay từ đầu để nói về các cuộc chiến thiêng liêng. Điều đó các thánh phụ Xi-tô biết rất rõ. Thánh Bênađô, sau khi trích dẫn thư thánh Phaolô: “Tôi chiến đấu nhưng không đánh vào chỗ không không…” đã thốt lên: kìa kèn chiến vang lên, đó là lời của tổng chỉ huy đầy gan dạ, vẫn còn nhiệt thành chiến đấu (x. Bài giảng lễ các thánh, 2).
Sự ham muốn của con người cho thấy tồn tại một sự thiếu thốn, ẩn ngầm dưới những cảm xúc. Như vậy, chính ham muốn này thúc đẩy cảm tính, từ cảm tính gợi lên những tư tưởng đam mê, đóng kín, và nó có thể khích lệ ham muốn. Một tư tưởng đam mê như giận dữ, phát xuất từ ham muốn bị tước đoạt, có thể phát sinh ra ý muốn báo thù… và lúc đó chúng ta rơi vào biển lửa của chiến tranh.
Do đó, chúng ta có thể nói rằng cuộc chiến cổ xưa chống lại những tư tưởng đam mê hay 7 mối tội đầu rốt cuộc là cuộc chiến chống lại những ham muốn vô trật tự, là những ham muốn ẩn mình dưới các tư tưởng này và đặt đam mê lên trên nó. Các bậc thầy về nghệ thuật thiêng liêng đề cập đến ham muốn bằng những cách thức khác nhau (tinh thần, quỉ, tư tưởng, phiền não, đam mê, sự thèm muốn, nết xấu, các mối tội đầu…). Các ngài cũng dạy chúng ta chiến đấu và diệt trừ nó qua một cuộc chiến đặc biệt là phạt xác, từ bỏ chính mình và khiêm tốn. Cuối cùng là cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới qua sự trợ giúp của ơn thánh Chúa.
Trên chiến trường, chúng ta đứng giữa sự sống và cái chết; sự sống trong Thiên Chúa và sự chết là xa lìa Ngài. Nói cách khác, một bên chúng ta luôn hướng về Thiên Chúa. Sự hướng về này làm cho chúng ta tưởng nhớ đến Chúa mọi lúc và cho phép chúng ta sống như một ngôi vị con người: tình cảm và tư tưởng hoàn toàn liên kết với Thiên Chúa. Bên kia là sự tan rã và lãng quên Thiên Chúa. Nguyên nhân của sự xấu xa của ham muốn, đam mê thái quá, không gì khác hơn là do chúng ta nhắm đến đối tượng và mục đích xấu. Lúc đó, chúng ta ở rất gần mức cuối cùng của nó. Những khi bị ham muốn xấu và tư tưởng đam mê xâm chiếm, chúng ta sẽ quên tưởng nhớ đến Chúa, chúng ta mất Ngài và sự sống nội tại sẽ bị suy yếu do lòng thao thức hướng về Chúa ngày một yếu dần.
Khi xác định được những ham muốn vô bổ, chúng ta sẽ thấy được tội lỗi hay các nết xấu chủ yếu:
– Ham muốn vô bổ về của ăn đó là tham ăn,
– Ham muốn vô bổ về thú vui nhục dục đó là tội dâm ô.
– Ham muốn vô bổ về của cải vật chất đó là tội hà tiện.
– Ham muốn chưa đạt được và phản ứng tích cực vì bị người ta tước đoạt đó là tội giận dữ.
– Suy yếu lòng nhiệt thành hoặc chểnh mảng với những việc thiêng liêng đó là tội chán chường.
– Ham muốn thể hiện mình và muốn nổi bật hơn người đó là tội tìm hư danh.
– Ham muốn tìm sự tuyệt hảo cho riêng mình đó là tội kiêu ngạo.
Những ham muốn này thường tiến triển càng lúc càng mạnh nên chúng ta dễ nhận ra. Cho dù biết điều đó, chúng ta cũng không để ý nhiều đến nó. Nhưng nếu chúng ta càng bước vào cuộc chiến sớm thì khả năng chiến thắng càng lớn.
– Tỉnh thức với những ham muốn và tình cảm đi theo nó.
– Đối thoại với những tình cảm cởi mở.
– Chiến đấu để loại bỏ hay là khuất phục kẻ thù.
– Đánh lạc hướng hay chiến thắng khi đối diện với những điều xấu.
– Đừng đánh mất mình khi mệt mỏi xảy đến.
Bây giờ chúng ta xét đến 3 nguyên lý tổng quát và quan trọng cần phân tích trước khi khai mào cuộc chiến.
– Trước hết, chúng ta phải luôn nhớ chúng ta không tập trung vào những ham muốn xấu, mà chỉ xác nhận nó ở mức độ căn bản và trong cấu trúc của nó, qua đó thấy được điều gì mở ra cho chúng ta hướng về người khác và với những người khác, điều gì thúc đẩy chúng ta đến với họ, để tự nó thực hiện nơi chúng ta.
– Kế đến, những ham muốn này đến và đi giống như những cảm xúc và tư tưởng do nó tạo ra.
– Cuối cùng, nếu chúng ta không nuôi dưỡng nó bằng những ham muốn, cảm xúc hay tư tưởng khác thì nó tự tan biến như những bong bóng xà phòng.
Ở đây, tôi xét thấy cũng là hữu ích khi nhắc lại 4 cách thức truyền thống dùng để chiến đấu với những ham muốn vô bổ.
– Cách thứ nhất là tấn công nó không chậm trễ ngay khi nhận ra nó, có thể thực hiện bằng cách tập trung vào điều gì đó khác nhau và trái ngược với đối tượng của ham muốn. Thực hiện theo cách thức này thường là hữu ích và thuận tiện khi những ham muốn thường lập đi lập lại những tư tưởng và không ngừng lại được.
– Cách thứ hai là sử dụng lòng khao khát Thiên Chúa và Nước Trời để thay thế cho các ham muốn vô bổ. Đây là giải pháp thích hợp nhất để chữa trị những ham muốn và tư tưởng tự hủy hoại dẫn đến trầm cảm.
– Cách thứ ba đơn giản hệ tại ở việc chú ý quan sát sự tiến triển của ham muốn, của các cảm xúc kích thích và những tư tưởng ngẫu nhiên: như thế, nó sẽ bị đóng khung lại và không đạt được mức trở thành đủ mạnh để thu hút chúng ta. Trong trường hợp này cần nhắc lại: nhận thấy không phải là đồng ý.
– Cách thứ tư là thực hiện vô vị lợi một công việc tốt lành để phục vụ và vì lợi ích người thân cận.
Cuối cùng, chúng ta hãy nhớ là khi những ham muốn vô bổ này biến thành những nết xấu hay trở thành những hành động sai trái, chúng ta phải kiên trì nhổ tận gốc qua việc thực hiện những nhân đức đối lập. Ví dụ như: điều độ, trong sáng, rộng lượng, kiên nhẫn, siêng năng và bác ái.
Thêm vào đó, cần thiết phải có một phương thế đặc biệt cho cuộc chiến với chán chường. Phương thế đó phải tương ứng để đáp lại sự thiếu hụt trong việc khao khát Thiên Chúa và thiếu hụt các phương tiện hun đúc lòng ao ước này, vì chúng ta sẽ rất khó khăn để chiến đấu bằng những cách thức đơn lẻ, bằng sự kiêng khem hay công việc từ thiện hoặc sự cảnh giác… Évagre, bậc thầy về sự chán chường, cũng như tất cả các linh sư đông và tây phương đều nhất trí với nhau khi nói với chúng ta rằng: hypomone, hypomone, hypomone! Nghĩa là cần phải có kiên nhẫn và kiên trì.
Không nên ra khỏi nơi cư trú vào những lúc cám dỗ dầu chúng ta có thể đưa ra bất cứ lý do gì chăng nữa, nhưng cần ở lại, kiên trì và anh dũng chiến đấu với tất cả các cuộc tấn công, nhất là con quỉ chán chường (vì nó nguy hiểm nhất), là con quỉ làm cho linh hồn chúng ta tưởng mình ở vào vị thế cao nhất. Chạy trốn và tránh né cuộc chiến đấu như vậy sẽ làm cho chúng ta không có đủ năng lực, hèn nhát và là người đào ngũ (x. khảo luận thực hành 28).
Chính Đức Giêsu đã dạy: “Nhờ kiên trì mà anh em cứu được linh hồn anh em” (Lc 21, 19). Giờ đây, tôi xin mượn lời của viện phụ Clairvaux, lời khích lệ dường như hoàn toàn phù hợp ngay cả khi bối cảnh khác với chúng ta:
“Hỡi người yêu của tôi, tôi phải làm gì bây giờ đây, nếu không phải là khích lệ anh em sống kiên trì? Đó là nhân đức vua của tất cả các nhân đức và như là dấu ấn anh hùng. Không có nó thì người lính không thể chiến thắng và không có những lời tung hô dành cho người lính khải hoàn chiến thắng. Kiên trì là động lực và là phần bổ sung của nhân đức, nó hoàn thành công đức và làm cho chín chắn để nhận phần thưởng. là chị của kiên nhẫn và con gái của kiên định, nó là bạn của bình an, là xi-măng của tình bạn, là mối dây liên kết hòa hợp, là thành lũy của sự thánh thiện. Không có kiên trì thì sự giúp đỡ không còn được hưởng phần thưởng, việc thiện cũng không được nhận biết, giá trị cũng không được kính trọng. Như thế, chúng ta hãy đọc “ơn cứu độ chỉ đến với những ai kiên trì cho đến cùng” (thư 129, 2).
Để kết thúc, một lần nữa chúng ta nhắc lại: điều gì không thể với chúng ta nhưng đối với Thiên Chúa đều có thể; Ngài chỉ hy vọng là chúng ta đón nhận món quà của mình cách tốt nhất. Vì thế, nếu chúng ta cảm thấy quá bé nhỏ và quá yếu đuối để chiến đấu với “chú quỉ ban trưa” là sự chán chường, chúng ta hãy chấp nhận khởi đầu bằng phương thuốc tạm thời mà thánh Thomas Aquino giới thiệu là tắm rửa và một giấc ngủ trưa (x. Tổng luận thần học I-II 38, 5).
Còn nhiều điều chưa thể viết ra đây, tôi có nên tiếp tục vấn đề này vào một dịp khác không? Thiết nghĩ cần có hai điều kiện: trước hết, tôi cần phải có thêm nhiều kinh nghiệm; kế đến là bức thư này có được hồ hởi đón nhận hay không.
Cuối cùng, hỡi anh chị em, chán chường là một tình trạng nội tại rất rõ ràng mặc dầu nó có nhiều cách biểu thị. Tư tưởng đam mê đáng ghét này ăn mòn niềm vui yêu mến và niềm vui được thuộc về Thiên Chúa. Tuy nhiên, điều đáng tiếc nhất của tật xấu quỉ quái này là nó làm tê liệt, đông cứng, tra tấn và bóp nghẹt lòng ao ước hướng về Chúa của chúng ta. Niềm ao ước cần thiết cho việc tìm kiếm gương mặt của Ngài và nó biến đời sống đan tu trở thành chính mình: một đời sống khổ chế hướng về mầu nhiệm để nếm hưởng được mầu nhiệm.
Mến chào anh chị em trong tình huynh đệ, trong Mẹ Maria và thánh Giuse.

 

 


 

[1] L’acédie là danh từ đan tu được dùng để chỉ một hiện tượng thường xảy ra trong đời sống tu mà truyền thống đan tu gọi là “chú quỉ ban trưa”.

 

 

 

 

 

 

 

TÊN CÁM DỖ

                                                        FM. Xuân Tân    

                                              Thằng quỉ đen thui có đuôi dài
                                              Cái đầu trọc lóc chẳng giống ai
                                              Mọc lên cặp sừng trông dễ sợ
                                              Bỏ ăn không ngủ suốt đêm dài.
                                              Thánh kinh gọi nó: thần quỉ quyệt
                                              Đi khắp thiên hạ gieo họa tai
                                              Hình dáng sự lành: làm mưu kế
                                              Khéo dùng bác ái, một chiêu bài.
                                              Tu sĩ lơ ngơ vào chước quỉ
                                              Sợi tơ vướng víu- hỏi vì ai?
                                              Ma quỉ lưu manh bày mưu chước
                                              Tu sĩ ngu ngơ dám so tài.
                                              Hình dáng sự lành-mưu thằng quỉ
                                              Nó dùng diệu kế một không hai
                                              Tu sĩ khoe tài rơi xuống hố
                                              Muộn màng vừa thấy đống chông gai.
                                              Muộn màng thấy mình sa cạm bẫy
                                              Sự dữ phơi bày thật bi ai
                                              Hình dáng sự lành bay đi mất
                                              Xuất đầu lộ diện quỉ đuôi dài.

 

 

 

 

 

ƠN GỌI XITÔ

Chuyển ngữ 

 

Nhìn chung những bài tóm lược các buổi hội-thảo-vùng và những tài liệu chuẩn bị Tổng Tu Nghị được soạn thảo về đề tài này, ta thấy lộ ra hai ưu tư chính yếu. Ưu tư thứ nhất cho thấy những thách thức thay đổi từ vùng văn hoá này đến vùng văn hoá khác. Điều đó đặt ra câu hỏi – mà tôi tạm trình bày gợi ý ở đây – để biết nếu có những yếu tố luân-chuyển-văn-hoá đặc biệt của một não trạng đương đại hay không. Sau là ưu tư trước thái độ tích cực đối với văn-hoá-môi-trường, nó hàm chứa một phê phán mà không chỉ giản lược vào một đối chiếu (hay “phản-văn-hoá”).

Thật lý thú nếu ta suy nghĩ thái độ của ta về văn hoá, và về động lực ở tận chiều sâu của nó. Tôi muốn nhắc lại một bài viết mới đây của F. Mannion, đăng trong The American Benedictine Review, trong đó tác giả phân định bốn hệ-biến-hoá quan trọng, hay những cách chung chung để xác định vị trí đối với những luồng tư tưởng hiện có trong Hội Thánh Công Giáo, trong các cộng đoàn tu sĩ và cộng đoàn đan tu. Như bảo thủ, tự do, cấp tiến và tân-bảo-thủ. Những thái độ khác nhau này có thể cùng tồn tại trong một thể chế (Nhà Dòng, Miền, Cộng đoàn), tuỳ theo những xu hướng kích động nó, khó thấy hơn trong cùng một người. Chúng được kiểm chứng cách rõ rệt nhất trong tương quan đối với truyền thống, giáo hội học (cách riêng đối với quyền bính) và phụng vụ. Những chìa khoá này cũng có thể rất hữu ích cho việc thẩm định và nhận định diện mạo của những người đến gõ cửa xin được làm thỉnh sinh trong đời đan tu.

Những thách thức của não trạng đương đại thật là nhiều và đa dạng. Một cách sơ lược, ta có thể gom góp dưới ba đề mục chính, gồm ba lãnh vực khác nhau nhưng liên quan lẫn nhau:

1.Tương quan với thiên nhiên, với công nghệ học hiện đại (vũ trụ học)
2.Con người (nam/nữ) hậu-hiện-đại (nhân loại học)
3.Tục hoá và sự trở lại của tâm tình tôn giáo (thần học).

 

1.Tương quan với thiên nhiên và với công nghệ hiện đại

Đời đan tu được khai sinh và phát triển đặc biệt trong bối cảnh của xã hội nông nghiệp. Một môi trường thích hợp cách đặc biệt cho phong cách sống và phát triển của chiều kích chiêm niệm, nhất là bởi tiếp cận trực tiếp với thiên nhiên. Ưu tư hàng đầu của việc chọn vị trí cho một đan viện, phương cách làm việc luôn gắn liền với nghề nông, đã làm cho lối sống của chúng ta, cho tới nay, luôn tránh được mọi bất trắc của các xã hội kỹ nghệ, tuy vẫn thừa hưởng những tiến bộ, và tiện ích công nghệ. Không có lý do nào khiến cho vị thế này không thể tiếp tục, trong bối cảnh của khúc quanh mới là tiến tới nền công nghệ thông tin hiện nay, ngoài lý do tài chánh. Hơn nữa luồng gió “môi sinh” đã khiến chúng ta trở nên nhạy bén hơn, trước tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường và duy trì một thế quân bình lành mạnh cho mọi thành phần cấu tạo môi trường. Điều này còn mãi mãi là một mời gọi cấp bách đối với chúng ta. Nó chất vấn tương quan hữu hiệu giữa các đan viện của chúng ta với môi trường, cũng như với cổ-động-viên và những người bảo vệ “luật thiên nhiên”, với  những kế hoạch chính trị, đạo đức và tâm linh.
Đô thị hoá nhanh chóng quang cảnh môi sinh – và, ở vài nơi còn “tây phương hoá” cách ồ ạt những phong cách sống truyền thống, những khó khăn tài chánh, và có thể cả mối ưu tư liên đới với người nghèo, có thể chỉnh sửa những điều kiện “lý tưởng” của môi trường làm việc, vẫn được các cộng đoàn chúng ta trân trọng cho tới nay. Ta có thể hỏi những cộng đoàn đã chọn kỹ nghệ hoá, nhà máy, hoặc xử dụng những công nghệ hiện đại (máy vi tính) trong công việc hàng ngày, để ước định tầm ảnh hưởng thực tế của những điều kiện mới này trên chiều kích chiêm niệm của đời đan tu chúng ta.
Để tiện việc so sánh, ta có thể gợi lại ảnh hưởng của “máy in” đối với lối viết tay của các đan viện trước kia, và mọi vấn đề được đặt ra quanh sự kiện này, nhất là đối với việc thực hành Lectio divina. Nó đã không biến mất, khi những điều kiện thực hành nó bị thay đổi. Trong chiều hướng này, người ta cũng gợi ý, ở một văn kiện, về phương cách thực hành Video divina. Chúng ta cũng nên suy nghĩ và theo dõi kinh nghiệm chung của sáng kiến mới này.
Vượt trên những ưu tư tối hậu kia, ta có thể tự hỏi xem mình có khả năng ước định cách chính xác, và dài hạn về ảnh hưởng của nền công nghệ mới trên lối sống hàng ngày của ta. Ở lãnh vực này, thiết nghĩ chúng ta chưa thể vượt qua giai đoạn giao-tiếp-văn-hoá, nghĩa là một áp dụng hợp tình lý và thích hợp với những tiến trình mới của công việc và truyền thông, mà không đi vào giai đoạn hội-nhập-văn-hoá cách riêng. Chắc chắn phải đợi thế hệ mới của các đan sĩ đang được giáo dục trong loại văn hoá mới này, văn hoá của Homo informaticus (Người thông tin, sau Homo erectus, Homo faber và Homo sapiens).
Một trong những thay đổi lớn lao mà nó để lại, chính là tương quan giữa con người và thời gian tính. Chỉ cần đưa ra một thí dụ: để gửi một lá thư, trước kia bằng đường thuỷ, rồi bằng đường hàng không, bây giờ bằng FAX… Thời gian chờ đợi được rút ngắn cách không thể tưởng tượng. Một loại văn minh tức khắc đang được hình thành. Nhất là với việc xử dụng máy vi tính, có thể đưa ta vào một khối thông tin đáng kể, trong một thời gian tối thiểu. Máy vi tính, bởi hiệu năng và sự nhanh chóng của nó, còn giúp giải toả tâm trí con người trong một số lãnh vực, để họ có thể hoạt động tích cực hơn trong nhiều lãnh vực ưu tiên khác. Máy vi tính cũng có mặt tích cực của nó là giúp con người vượt qua cả giới hạn không gian, cho phép chúng ta sống cùng nhịp với mọi biến cố toàn cầu như tranh chấp, chiến tranh, đói kém, lũ lụt… như thế nó đã góp phần lớn lao vào việc phát triển vật chất và tinh thần qua tình liên đới nhân loại.
Trong việc xử dụng máy vi tính, ta cũng phải kể đến nguy cơ tự khép kín trong thế giới tin tức: những loại tin vô tư, vô tâm…, không khỏi mang theo nhiều hệ luỵ dưới nhiều hình thức khác nhau, vào những tương quan giữa con người, và cả tương quan với Thiên Chúa, là việc cầu nguyện. Nếu những khả năng này là hiện thực, tốt hơn ta nên tỉnh thức. Vì kết quả sẽ là giảm thiểu khả năng của trí nhớ con người. Và gây ra một đe doạ lớn lao cho việc đào tạo và bảo tồn một căn tính riêng (của cá thể hay của tập thể), trong mức độ mà cảm tưởng về căn tính ăn rễ sâu trong trí nhớ cá nhân và trí nhớ cộng đồng.

 

 2. Người (nam/nữ) hậu-hiện-đại

Thời hậu hiện đại được đặc trưng bởi ít nhiều “vỡ mộng”, sau sự suy sụp của huyền thoại tiến bộ: con người muốn bá chủ vũ trụ thiên nhiên (1960-1970), với thuyết không tưởng của Karl Marx: con người muốn bá chủ lịch sử (1980-1990). Hai khuôn mặt tiêu biểu, đại diện cho chúng là người (đàn ông/đàn bà) của tiến bộ, và người (nam/nữ) đảng viên, đã nhường vị trí của họ cho bộ mặt tiêu biểu khác là người (đàn ông/đàn bà) “của vấn đề”. Con người của vấn đề, là con người đã mất đi mọi qui chiếu về căn tính, về ý nghĩa và sự hài hoà chung cho dự phóng của cuộc đời. Đó chính là diện mạo chung của đa số các thỉnh sinh (nam/nữ) ngày nay tới gõ cửa các đan viện. Tình trạng mất hay đi tìm qui chiếu được kiểm chứng bởi nhiều yếu tố cấu tạo của một nền văn hoá, yếu tố ngôn từ, yếu tố thể chế (gia đình, học đường, cơ cấu kinh tế, chính trị…) và yếu tố các giá trị (thẩm mỹ, đạo đức…)
Về mặt diễn tả, tính đa dạng lành mạnh trong các xã hội hiện đại của chúng ta biểu lộ trong việc xử dụng vô số ngôn từ, những cách dùng ngôn từ khác nhau đưa ta đến với những nền nhân loại học khác nhau.
Điều này làm tăng thêm khó khăn cho những thách thức mà người có trách nhiệm đào tạo, thông truyền một kinh nghiệm, hay một di sản tinh thần có tính đặc thù, cách riêng trong lối diễn tả của thế kỷ XII. Đàng khác, sự thiếu vắng những yếu tố căn bản trong ngôn ngữ đức tin, nhất là trong truyền thống đan tu, đã cho phép người ta đón nhận những ngôn từ diễn tả hiện đại, trong sự mới mẻ của chúng. Tuy nhiên với điều kiện phải kèm theo một chú giải thích hợp cho việc thông truyền.
Có thể về mặt thể chế mà những thách thức thay đổi từ môi trường văn hoá này đến môi trường văn hoá khác. Ta thử đan cử một vài trường hợp. Trong những bài đúc kết của một số Miền, đã kể đến khủng hoảng gia đình (gia đình tan vỡ, gia đình được tái lập, gia đình chỉ có cha hoặc mẹ…) đã thu hẹp khả năng chọn ơn gọi của các bạn trẻ thời nay. Những vấn đề tâm lý xã hội, chưa trưởng thành về mặt tình cảm… Thách đố mà hoàn cảnh này đặt ra cho cộng đoàn của chúng ta là phân định được khả năng tiếp nhận, hoà nhập của họ, để việc đồng hành với những người như thế không gây xáo trộn cho cộng đoàn.
Ở những Miền khác, thì chính mức sống khá cao của cộng đoàn, về phương diện vật chất cũng như trình độ giáo dục đối với môi trường chung quanh, nên phải đặt câu hỏi về động lực thực tế của việc chọn lựa ơn gọi đan tu của họ. Thách thức ở đây còn là việc thẩm định để tiến hành trong một thời gian ngắn, trung bình và dài hạn. Kinh nghiệm của các cộng đoàn mới được thiết lập tại các Giáo Hội trẻ rất hữu ích cho chúng ta.
Việc thăng tiến người phụ nữ trong nhiều lãnh vực của đời sống xã hội, và cả Giáo Hội, hẳn có liên quan ít nhiều với khủng hoảng hiện nay trong nhiều cộng đoàn nữ tu, nhất là đời sống hoạt động. Về điểm này, Dòng chúng ta với chín thế kỷ lịch sử và Hiến Chương mới, có thể cống hiến một đóng góp độc đáo cho phong cách sống tương quan nam/nữ bên trong một thể chế. Chắc chắn đàng trước chúng ta còn có con đường dài phải đi; suy tư của ta về việc tạo sinh lực mới cho những cơ cấu mục vụ của Dòng cũng có thể đóng góp vào việc này.
Một số Miền còn nêu lên sự nghi ngờ đối với những thể chế, cơ cấu xã hội, đã lôi kéo giới trẻ cách đặc biệt, vào mọi hình thức tham nhũng bởi hệ thống chính-trị-kinh-tế của môi trường. Nhiều Miền khác đặt câu hỏi về ảnh hưởng của tinh thần dân chủ trên các cộng đoàn và các cơ cấu khác trong Dòng, nhất là trên lãnh vực quyền hành của Viện Phụ.
Những hoàn cảnh và những vấn nạn nhắm cách riêng tới các bề trên, trong việc thực thi trách vụ của mình, cũng như mọi người có trách nhiệm trong cộng đoàn. Riêng với cơ cấu điều hành Tổng Công Nghị, người ta không thể bỏ qua một vấn nạn đã đặt ra, mà nay vẫn chưa được giải quyết, đó là quyền bỏ phiếu của các đại biểu.
Về mặt giá trị thì đa số bản đúc kết của các cộng đoàn chúng ta đặt vấn đề nhắm vào xã hội, trong đó có cả một danh sách dài những “phản-giá-trị” của xã hội, đi ngược lại với giá trị của Tin Mừng và Luật thánh Biển Đức cũng như truyền thống Xitô chúng ta, đại khái như: – chủ nghĩa duy vật và đời sống tâm linh, phụng vụ; – chủ trương tiêu thụ và đời sống thanh bần, từ bỏ; – chủ nghĩa cá nhân và đời sống cộng đoàn khổ tu; – chủ nghĩa khoái lạc và đời sống tiết độ, giản dị… Mỗi cặp chủ đề này có thể là đề tài triển khai cách rộng rãi và bao quát.
Tuy nhiên cách nhìn một chiều này không thể che giấu những vấn nạn và những thách thức được đặt ra cho các cộng đoàn của chúng ta, về những giá trị đích thực đang khởi động cho những thế hệ con người hiện nay, thí dụ như một tiêu đề: Những hướng dẫn về việc huấn luyện trong các thể chế tôn giáo: nhằm huấn luyện sự nhạy cảm trước những vấn đề về công bằng, liêm khiết, bất bạo động và hoà bình; hướng mở tới tình huynh đệ và liên đới; động viên cho những nguyên nhân của sự sống và của thiên nhiên; khát vọng một thế giới tốt đẹp hơn.
Chính ở đây mà óc sáng tạo của chúng ta phải được vận dụng, để tìm ra những bước đi mới trong việc biểu lộ tình liên đới của mình với xã hội, tuy vẫn tôn trọng căn tính chiêm niệm Xitô của ta. Tôi chỉ gợi ra đây vài thí dụ cụ thể, như việc tham gia phong trào của các Kitô hữu đòi bãi bỏ tra tấn (A.C.A.T. = Action des Chrétiens pour l’Abolition de la Torture) và một trường hợp cụ thể khác mà một cộng đoàn đã nhận vai trò “Trung gian Hoà Bình” trong cuộc khủng hoảng tại một điạ phương (Oka, Quebec, Canada) vào mùa hè năm 1990.
Bên trên những thách thức đặc thù này, còn một thách thức lớn lao khác mà thế giới và nhất là giới trẻ trong một xã hội hậu-hiện-đại đang đặt ra cho chúng ta, có lẽ là thách thức về một căn tính rõ nét hơn, một dự án cho nền nhân loại học và thần học hài hoà, hợp khớp hơn, nơi mà ba bộ mặt của các giá trị, các thể chế và cách diễn đạt không trái nghịch nhau. Về căn tính và dự án nói trên, Hiến Chương mới của chúng ta đã giới thiệu vài đường nét căn bản. Điều cần biết là các cộng đoàn của ta có chấp thuận hay không.

 

 3. Tục hóa và sự trở lại của tâm tình tôn giáo

Trên bình diện tôn giáo, sự chuyển tiếp từ hiện đại và hậu-hiện-đại, đựơc đánh dấu bởi một não trạng tục hoá rất rõ ràng và sự trở lại của tâm tình tôn giáo, với những biểu tượng vừa khác nhau vừa rất mơ hồ, nếu không muốn nói là hàm hồ (các giáo phái, Tân Thời,…). Tại một vài nơi, và một số lãnh vực xã hội, hiện tượng tục hoá chiếm ưu thế, còn nhiều nơi khác nó được thể hiện dưới nhiều hình thức rất bất ngờ và phi lý. Hai thách thức được đặt ra cho căn tính chiêm niệm và cho sứ vụ của chúng ta trong Giáo Hội.
Tục hoá, với những nét đặc thù của nó (các chủ nghĩa: thực dụng, duy lý, tương đối, giản lược nhân loại học…) thôi thúc chúng ta trở nên “chứng nhân của siêu việt tính”, trong tinh thần cởi mở và đối thoại, tiếp nhận và trân trọng, chia sẻ và xả kỷ, nhất là trong sự tiếp đón ân cần, đón tiếp vô điều kiện các khách lữ hành. Làm chứng cho Tuyệt Đối, cũng như niềm tin của chúng ta nơi con người và khả năng chiêm ngưỡng của họ, chiều kích cấu tạo của chính bản chất họ thường chỉ đòi hỏi được thức tỉnh. Điều này đã khiến R.Pannikar cho rằng đời đan tu là một mẫu gốc của tu sĩ và nhân bản phổ quát, nó không ngừng chất vấn. Đàng khác, ngay từ đầu, những khoa học về con người (nhân loại học, tâm lý học, xã hội học…) đa số đã được phát triển ngoài khung cảnh tôn giáo, thiết tưởng chúng ta vẫn chưa hết thán phục sự đóng góp của họ cho một sự hiểu biết sinh động hơn trong đời sống tâm linh của cá thể, tập thể và xã hội.
Ngoài ra, cùng một thái độ cởi mở, tiếp nhận và đối thoại, với những thành viên và những người đại diện cho các phong trào mới, đang tìm kiếm và chờ đợi ở các đan viện, là những nơi thuận tiện cho “kinh nghiệm thiêng liêng” của họ. Trong bối cảnh này, di sản của chúng ta mang tính thời sự thật là độc đáo. Khi nghĩ đến tầm quan trọng mà các Bậc Tiền Bối của ta đã dành cho kinh nghiệm tâm linh, cũng như cho các chủ đề rất thời sự như Khát Vọng. Di sản của một truyền thống lâu đời cũng rất quý hoá trong việc thực hành sự thẩm định trong việc tìm kiếm con đường tâm linh đích thực, thường được diễn tả bằng nhiều ngôn từ và nghi thức khác nhau, theo những truyền thống khác nhau. Trước một hỗn tạp như thế, điều quan trọng là làm nổi bật cội gốc có tính cách Giáo Hội – trong Giáo Hội địa phương và Giáo Hội Hoàn vũ – và nét đặc trưng của truyền thống tâm linh Kitô hữu. Nét đặc trưng ấy không xơ cứng trước một đối nghịch, nhưng biết làm nên phong phú trong mọi tiếp cận với những truyền thống khác, như phong trào Đại Kết liên tôn giáo hiện nay vẫn mời gọi chúng ta.
Xin được trích dẫn một đoạn của Jean-Yves Baziou, đăng trong tạp chí Christus dưới tựa đề “Hết ảo tưởng, sống một cách khác trên đời”, tác giả nói rất đúng thái độ của người Kitô hữu phải có – hơn thế nữa, của người đan sĩ nam/nữ – trước những thách thức của não trạng thời đại:
“Thay vì nhìn cách tiêu cực, sự đổ vỡ của những thần tượng, ta có thể nối kết với cách đọc những khủng hoảng trong Kinh Thánh: Những thay đổi về văn hoá, thời gian trôi qua, mọi tranh chấp, đều được xem như những lúc ưu tiên cho sự biểu lộ của Thiên Chúa, Ngài muốn gạt bỏ mọi hình ảnh do chúng ta làm cho Ngài, cho con người và cho Hội Thánh. Ta sẽ khám phá ra rằng tất cả đều vĩ đại hơn, mới mẻ hơn những gì ta tưởng. Sự mới mẻ trong văn hoá là dịp cho một thăng tiến tâm linh”.

Chú thích
Miền ASPAC đã chọn vấn đề này như một đối tượng cho cuộc bỏ phiếu: “Trong khi công nhận những mối nguy hại nơi một vài khía cạnh của não trạng đương đại, ASPAC đồng thời ghi nhận tầm quan trọng của việc nhìn thấy ở não trạng đương đại rất nhiều cách diễn tả những khát vọng nền tảng của con người. ASPAC tin tưởng rằng việc lưu tâm đến những khía cạnh tích cực của văn hoá đương đại, sẽ giúp bảo đảm sự chân chính cho cương lĩnh của đan viện chúng ta.” (Vote 22, p.37, toàn thể tham dự viên đều nhất loạt bỏ phiếu tán thành).
Xem bài viết của Dom Colmcille (région des Iles, Mount Melleray, 1992, p.5-6). Các Uỷ Ban Trung Ương đã chọn khía cạnh này làm điểm thứ 3, trong mục giới thiệu chủ đề về những thách thức của não trạng đương đại, trong Tổng Công Nghị, (hai điểm kia là – Ảnh hưởng của não trạng đương đại trên đời sống chiêm niệm của chúng ta, và – Những thách thức tượng trưng cho những vấn nạn của xã hội đối với các cộng đoàn chúng ta. Gethsemany, 1992, p. 28).
Đời đan tu và Văn Hoá Hiện Đại: I. Chống đối và Tiếp đón ân cần – Cộng đoàn Dòng tu và “thế giới”, M. Francis Mannion, The American Benedictine Review (44:1) March 1993, p. 3-21.
Ta có thể lược tóm ý chính của tác giả trong mỗi hệ biến hoá: Phái bảo thủ khép kín trước văn hoá môi trường, chăm lo bảo quản mẫu mực cơ chế của dĩ vãng, về Giáo Hội thì chủ trương tập trung quyền bính vào các cơ cấu trung ương, theo cấp bậc. Theo phụng vụ tiền-Công-Đồng. Theo cách nói đan tu là “chạy trốn thế gian” (với ý nghĩa tiêu cực của nó).
Phái tự do tiêu biểu là “đối thoại năng động giữa Tin Mừng và Văn Hoá” (tr. 10). Nhất là tìm cách thích nghi truyền thống của Kitô hữu với những khát vọng của thế giới hiện đại, dân chủ hoá, giũ bỏ phong cách La-mã, Âu-châu của Giáo Hội, hội nhập văn hoá địa phương trong cử hành phụng vụ với óc sáng tạo, không sợ canh tân. Giũ bỏ những lễ nghi rườm rà lỗi thời, dưới phong cách mới mẻ như thường thấy trong các cộng đoàn dòng tu, và đan tu. Ưu tiên cho việc “trở về nguồn”.
Phái cấp tiến không chỉ thích nghi truyền thống giữ đạo của Kitô hữu với thế giới hiện đại, mà còn lập ra những dòng tu, những phong trào văn hoá mới từ cái nhìn phiến diện, theo những phê phán các cơ chế cổ xưa hay hiện đại, (như phong trào thần học giải phóng hay thần học nữ giới). Xu hướng này đòi một sự tái tạo trọn vẹn từ hình thức tới những cấu trúc cũng như những biểu tượng của Giáo Hội cách toàn diện và sâu sắc. Đời sống tu trì và đời đan tu được thể hiện trong Giáo Hội giống như ở biên giới giữa truyền thống và bối cảnh văn hoá xã hội của môi trường. Người ta nói đến một sự “tái thiết” (trong ý nghĩa tích cực của nó) và “tái tạo”.
Cuối cùng là phái tân bảo thủ, đặc biệt là vừa cởi mở và chỉ trích thế giới hiện đại, trong sự tôn trọng nguồn gốc Kitô giáo, nhưng lại nghiêng về việc triển khai truyền thống, nhất là về thần học, giáo hội học và phụng vụ: “Những yếu tố văn hoá mới luôn có thể đến với Kitô giáo, nhưng sự tiếp nối và nguồn gốc của Giáo Hội thì luôn phải bảo tồn” (tr. 16).
Họ biểu lộ niềm tin lớn lao vào di sản của truyền thống về đời tu và đan tu, cũng như vào sức sống và khả năng chất vấn văn hoá môi trường của họ.
Những nghiên cứu và kết luận của F. Mannion về bốn hệ biến hoá trên, phần lớn cũng trùng hợp với Avery Dulles sj., cũng xếp thành bốn nhóm (với cùng một bản chất): bảo thủ, tự do, cấp tiến có tính cách ngôn sứ, tân bảo thủ. Xem Catholicism and American Culture: The Uneasy Dialogue, (Công Giáo và văn hoá Mỹ: một đối thoại không dễ chút nào) của Avery Dulles, New York: Fordham UP 1990.
– Lưu ý đến khung cảnh sống và vấn đề môi sinh, trong lãnh vực bao quát hơn, tức là những vấn đề xã hội, đã là chủ đề cho cuộc bỏ phiếu của Miền USA: Chúng tôi yêu cầu những vấn đề xã hội (như chiến tranh, tra tấn, tỵ nạn, vô gia cư, đàn áp dân bản địa, phá huỷ nguồn tài nguyên thiên nhiên và hệ thống môi sinh) được lưu ý cách thoả đáng trong các chủ đề thứ yếu của Tổng Tu Nghị: “Những thách thức của não trạng đương đại” đã nhận được 100% số phiếu của thành viên chấp thuận (Conyers 1992, vote a, p.8).
Cũng nên xem thêm phần khai triển vấn đề trên của Josaphat Kato Kalena trong “Căn tính chiêm niệm Xitô” (Les défis, p.42, 2è partie, point 1).
– Vấn đề kinh tế liên quan tới việc tăng trưởng phức tạp của vấn đề quản lý hành chánh cũng được Miền FSO nêu lên (Timadeuc, 1991, p. 6). Cũng nên xem phần chuẩn bị của Miền về đề tài “Những thách thức của não trạng đương đại” (trang 13).
– Bài viết của Dom Frans Harjawiyata về “Căn tính chiêm niệm Xitô” (điểm 2.4). Đời chiêm niệm Kitô hữu trong đan viện Xitô của chúng ta (trang 7).
– Hiện nay trong Dòng có 54/92 cộng đoàn Nam và 19/62 cộng đoàn Nữ dùng FAX (Elenchus 1993).
– Cũng như tính tức thì và tạm thời, với sự phản hồi không thể tránh được của nó về giá trị bền vững, thường trực và lâu dài đặc trưng của đời đan tu Xitô chúng ta. Như M. Marie St-Pierre nhấn mạnh (CRC, Prairies, 1991, p.13).
– Bài đúc kết của RIM về đề tài này, “Căn tính chiêm niệm và huấn luyện lương tâm công giáo: Nghe, Nhớ, Khao khát” (Tre Fontane 1992, p. 3-36).
– Đề tài được nhắc đến trong những đúc kết của một số bài thuyết trình tại các Miền, như RIM (Vitorchiano 1991), trong đó Bề Trên Cả đã dùng cụm từ “văn hoá thông tin”, mà một trong những tác dụng độc hại của nó đã ảnh hưởng trên đời sống cộng đoàn của chúng ta là đánh thức óc tò mò và khựng lại ở sự hời hợt (trang 18).
– Trong bài đúc kết của Miền USA, Dom Bernard McVeigh còn dùng cum từ “thông tin ô-nhiễm” (Santa Sabina Center, 1991, p.18; Appendix A, Challenges of the contemporary mentality, p. 12). Khía cạnh này còn được Dom Bernard McVeigh triển khai cách đặc biệt, với nhiều khía cạnh khác liên quan tới việc xử dụng máy vi tính (Santa Sabina Center, 1991, p. 12).
– Tôi mượn lối phân biệt của Dom Armand Veilleux trong bài viết về “Dòng tu và Văn hoá hiện đại”, ở phụ chương 6 của bản đúc kết phiên họp của CRC (Mistassini 1992, p. 7).
– Miền Tây Ban Nha nói về điểm này trong bản đúc kết (San Pedro de Cardena, 1992, p.3-5) và khai triển sâu rộng hơn trong hai phụ chương “Những thách thức của não trạng đương đại” (tr.30-36, đặc biệt điểm 4 về Cái chết của con người) và “Những bất trắc của não trạng hiện đại trong đời chiêm niệm của chúng ta” (tr.37-44, nhất là điểm 2 về Vấn đề ngôn ngữ, tr. 38-39, và đểm 4: đề tài liên quan đến con người, tr. 40-44).
Chúng ta cũng biết ưu tư của Dom Bernardo về vấn đề Nhân loại học, người đã soạn thảo cho các cộng đoàn chúng ta một nhân loại học cá thể và khổ tu, trong đó ngài đã không quên chiều kích đa-văn-hoá của Dòng.
– Những bản đúc kết của Remila (Humocaro 1992, p. 12) và của Oriens (Nishinimiya 1992, p.10, bàn luận ở điểm 2.4) về những khó khăn của một số bạn trẻ trong việc dấn thân và giữ những gì đã tuyên hứa. Miền Hà Lan nói đến một hình thức dấn thân khác vào đời sống Xitô ( như tận hiến tại gia), hoặc một nhịp điệu khai tâm thích hợp…, nghĩa là đối với cộng đoàn sẽ có một yếu tố bất định, đòi hỏi một sự mềm dẻo hơn (Zundert, 1991, p. 11).
– Các cộng đoàn chúng ta không cần áp dụng kiểu mà G. Arbuckle gọi là “kiểu (tương quan) chữa trị” (USA, Santa Sabina Center, Appendix A, p.14). Vì có một kiểu cộng đoàn khác, vẫn phản ánh trên đời chiêm niệm của chúng ta, đó là kiểu “hiệp hội” (xem bản đúc kết của Miền CNE, Oelenberg, 1991, p.13).
– Ba điểm: thăng tiến nữ giới, nghi ngờ quyền hành của các thể chế và ảnh hưởng của việc dân chủ hoá trên cách thi hành chức vụ của Bề trên, được bàn đến trong tập đúc kết của Remila (Humocaro 1992, p.11-13).
– Tập tài liệu của Toà Thánh Potissimum Institutioni, ngày 02/02/1990. Đặc biệt chương 5, đoạn A: “Các bạn trẻ ứng sinh vào đời tu và mục vụ của các ơn gọi” (tr.57 trong ấn bản tiếng Pháp, do Hội đồng Dòng tu Canada xuất bản).
Cùng với những ý tưởng trên đây, cha Placido Alvarez mời gọi chúng ta tiến vào bài viết của ngài về “Căn tính chiêm niệm Xitô”, đặc biệt ở trang 21: Trong giai đoạn thứ hai của công việc suy tư này, ta có thể tự hỏi :
– Chúng ta đã sống thế nào những yếu tố khác nhau đang là chủ đề cho việc suy tư của mình? Đâu là những khoảng cách giữa điều chúng ta nhận biết rõ ràng như chiều kích chiêm niệm và điều ta đang sống? và
– Tại sao lại có những cách biệt kia, hoặc trái lại, đâu là lực đẩy cho cuộc sống mà ta đã khám phá ra, do đâu mà lực đẩy kia được khích lệ?
– Hai khía cạnh này đã được cha Charles Dumont khai triển trong bài viết của ngài về “Căn tính chiêm niệm Xitô”, ở điểm VI: những thách thức của não trạng đương đại, trang 31-33. Ta cũng có thể thấy trong tài liệu chuẩn bị cho Đại Hội Đồng các Giám Mục sắp tới về đời tận hiến: “Đời tận hiến và sứ vụ của nó trong Giáo hội và thế giới” Lineamenta” (1992), mặc dù trong tổng thể, người ta đã nói rất ít về đời chiêm niệm.
– R. Pannikar, Blessed Simplicity. The Monk as universal Archetype, New York: The Seaburg Press, 1982. Đọc bài viết của Dom Jean Leclerc, Monastic Studies 18 (1988, trang 64-78).
– Chúng ta cũng cần giới thiệu bài đúc kết tổng hợp tuyệt vời của Dom Frans Harjawiyata, người đã nhận định được trên bình diện thần học, những thách đố đặc thù của mỗi Châu lục (tài liệu về “Căn tính chiêm niệm Xitô” số 1.2 và “Sự tiến triển của Giáo Hội”, trang 1-2):
– Tục hoá, với Mầu nhiệm Cứu độ cho Châu Âu.
– Hội nhập văn hoá, với Mầu nhiệm Nhập Thể cho Châu Phi.
– Giải phóng, với Mầu nhiệm Giải thoát cho Châu Mỹ, cách riêng Châu Mỹ La-tinh.
– Đối thoại liên tôn giáo, với Mầu nhiệm Mạc khải cho Châu Á.
– Jean-Yves Baziou, “Hết ảo tưởng. Sống trên đời một cách khác”, Christus 157 (tháng giêng 1993, trang 8-17, trích dẫn trang 14), đã làm vang vọng tiếng nói Hy Vọng của Miền Phi Châu: “Một thế giới mới, có thể nội tâm hơn, tranh đấu để sinh tồn, nhưng còn thiếu bảo đảm, điều này chỉ có thể đến từ sự trưởng thành và hội nhập trong toàn thể văn hoá nhân loại” (Awhum, 1991, trang 7).

 

 

 

 

XIN SỐNG LẠI

 Điệp Lan Đình

 

                                        Cho con sống lại những ngày xưa,
                                        Những ngày đẹp lắm chuỗi hương mơ,
                                        Khi hồn chưa loang nhiều vết sạm,
                                        Cháy lụn, tàn hoang trong gió mưa…

                                        Những ngày, những tháng đi về đâu!
                                        Mang mớ hành trang rặt một mầu:
                                        Âm u, mù thẳm vùi chất đống,
                                        Sống sượng tràn gieo gió lạnh sầu.

                                        Có phải hồn con lạc đầu thai
                                        Vào một thể chất sớm băng hoài,
                                        Tung lên… để rớt vào cô quạnh,
                                        Âm ỉ… bùng thiêu một sớm mai.

                                        Nhẹ đưa bàn tay nắn ra con,
                                        Mãnh đất bùn nhơ nhận chiếc hôn,
                                        Cha ban tình sống và hương sống,
                                        Chẳng cất từ đây tính mỏng dòn

                                        Nước mắt hồn con đã chảy nhiều,
                                        Trôi dài dĩ vãng, ướt hoang liêu…
                                        Tình con Cha nhận nơi đây nhé!
                                        Khắc mạnh vào tim một chữ YÊU

 

 

 

 

 

MỘT CÁM DỖ

“CHÂN TRONG CHÂN NGOÀI”

 Duyên Thập Tự

Nội san Hạt Giống Chiêm niệm số 13 triển khai chủ đề “CÁM DỖ” như một lời mời gọi khẩn thiết phải tỉnh thức trước những mưu mô của ma quỉ, thế gian và xác thịt. Thật vậy, chúng ta rất dễ bị mê hoặc bởi những “lời mời dụ dỗ” của thế gian, cho dù phát xuất từ bên ngoài hay từ nội tâm. Những tiếng nói làm chúng ta không dám đối diện với sự thật, không sống những vấn đề thực tế với một ý thức sáng suốt và sống động. Khuynh hướng “chạy trốn” như là một phản xạ trước những khó khăn, những điều làm chúng ta nhức nhối.
Trong những Lời Giáo Huấn, Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã đặt vấn đề về một thực tế của đời sống tu trì, trong các cộng đoàn đan tu: đó là vấn đề “sa sút” hay nói theo ngôn ngữ ngày nay là “xuống cấp”.
“Khi chúng ta thấy trong nhà xem ra sút kém sự nọ sự kia. Sự ấy không phải chi lạ, là điều thường có trong các nhà dòng. Vậy, phải làm sao? Chúng ta ai nấy phải hãm mình, cầu xin Chúa ban lại sự sốt sắng ngày xưa… Đừng có ở như kẻ hễ thấy nhà mình sút kém, lại chiêm bao, muốn đi dòng khác. Vì lẽ rằng, dòng ấy e sốt sắng hơn, mình dễ nên thánh hơn, lưỡng lự suy tính, chân trong chân ngoài. Còn khốn hơn nữa, là cứ để lòng mình như vậy, để mấy tháng mấy năm, mà chưa đi được một bước nào trong đàng nhân đức. Vậy chúng ta chớ bắt chước hạng người này, một noi gương thầy dòng tốt lành, thánh thiện. Cha nói dự phòng trước, vì sự ấy dễ có trong các nhà dòng lắm. Đàng khác ma quỉ cũng vẽ thêm cho một phần nữa, làm cho linh hồn ấy phải hư mất: là bỏ dòng, bỏ ơn Chúa…” [2]
Qua lời giáo huấn trên, tôi muốn chia sẻ với độc giả, đặc biệt với anh chị em trong Hội Dòng Xitô Thánh Gia, về một cái nhìn thực tế trong đời sống chúng ta và tìm ra phương cách để vượt qua. Bài viết này xin chỉ hạn hẹp trong phạm vi lời giáo huấn của Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận.

 1.LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TẾ

Để có một cuộc sống tốt đẹp, con người luôn cần đến lý tưởng. Lý tưởng là “tầm cao” giúp vươn lên để cuộc sống không trở nên tầm thường.

Trước khi thành lập dòng Đức Bà An-Nam, Cố Thuận luôn mang trong mình những “ước mơ”. Những ước mơ đó chính là “lý tưởng” mà ngài hằng ấp ủ trong lòng. Trong thư gửi Đức Cha Lý (Allys), giáo phận tông tòa Bắc Đàng Trong (Huế), Cố Thuận đã đề cập đến lý tưởng đời đan tu:

“Năm nay đúng 800 năm thánh Benado nhập dòng, con có thể theo chân ngài nội năm 1912 này không?… Lý tưởng mà con mơ ước là được làm tu sĩ tông đồ tại An-Nam, nơi đó Thiên Chúa cần được một số người nhận biết, yêu mến và phụng sự. Họ có nhiệm vụ làm cho mọi Kitô hữu nhận thức rằng lý tưởng đan tu không phải là một “chuyện thời xưa”, nhưng nó còn hiện thực và hiện thực hôm nay cũng như thời xưa.”[3]
Và trong cuộc sống của mình cũng như qua các giáo huấn trao cho các môn sinh, Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã phác họa chân dung đan sĩ với hai từ căn bản “thật”“thánh”:
“Chúng tôi phải trở nên thầy dòng thật, bằng không chỉ là phỉnh dối người ta. Họ gởi thơ xin chúng tôi cầu nguyện, họ tưởng chúng tôi là những người nhân đức lắm, toàn là những ông thánh, ông thánh hết… Chúng tôi phải lo kính mến Chúa, kết hiệp với Chúa, vâng ý Chúa mọi đàng, tỉnh thức luôn luôn mà nhớ đến Chúa, thì lời cầu nguyện mới có sức, mới được thần thế trước mặt Chúa, mới làm cho người ta tin cậy chúng tôi không ra vô ích…”[4]
“Chúng tôi đã biết, làm nên một thầy dòng thật, nên một thầy dòng thánh không phải dễ đâu. Thật là một điều khó, nhưng chúng ta có khởi công ra sức chịu khó tập tành, chăm chỉ cầu nguyện, thì thế nào cũng được. Một thầy dòng “contemplativi”(chiêm niệm) hãm mình, trở nên một thầy dòng thánh, thì làm ích cho Hội Thánh, và rạng danh dòng mình… Cả ngày, thầy chỉ tìm làm đẹp lòng Chúa, hằng kết hiệp với Chúa, an ủi Chúa và lo đến phần rỗi người khác, đến đỗi xem ra như chỉ có một mình Chúa với một mình thầy ở thế gian vậy, “solus cum solo”. Ấy là thầy dòng nhất hảo. Hội Thánh ước ao về chúng ta như vậy. Sự ấy rất phải, vì sẽ làm ích cả thể cho Hội Thánh cách kín nhiệm. Ấy chính là việc bổn phận chúng ta, nên chúng ta phải lo cho được như vậy, là lo kết hiệp với Chúa, kính mến Chúa, và lo cho thêm số những người kính mến Chúa.”[5]
Nếu hiện thực trong cuộc sống hằng ngày “lý tưởng” đó, các đan sĩ sẽ cảm nghiệm thấy phước của đời tu” không gì khác là việc “gặp Chúa, kính mến Chúa, kết hiệp với Chúa, và làm cho nhiều người cũng kính mến Chúa”. Đan viện sẽ trở thành “trường phụng sự Thiên Chúa”, nơi của thiên đàng, của hạnh phúc, của niềm vui.
Lý tưởng là thế, nhưng Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận cũng là một người thực tế. Ngài biết rõ những “sa sút” như trong trích dẫn nơi phần nhập đề, và nhất là những “thói đời” len lỏi vào cuộc sống tu trì. Ngài đã dành một giáo huấn cho vấn đề này:
“Chúng ta hãy cứ đức tin, theo Phúc Âm mà sống, bằng không thì nhà dòng ra hư, không đáng chi. Khi nào gọi là nhà dòng hư? Là khi anh em trong nhà ăn nói như người đời; là khi anh em không thương yêu nhau, là khi anh em không bằng lòng với bề trên và với nhau; là khi anh em tập hợp xầm xì mà tra xét việc bề trên; là khi anh em chê trách nhau, chê trách đồ ăn thức uống không ngon… khi ấy nhà dòng ra hư rồi đó, không còn chi là nhà dòng nữa… Sự làm gương mù gương xấu trong Nhà Chúa, là điều thiệt hại lắm. Một trăm thầy dòng trễ nãi cũng không bằng một thầy dòng sốt sắng. Các thánh đều nói như vậy, không phải chỉ cha nói mà thôi… Vậy, cha nói lại, ai nấy hãy xét mình trước mặt Chúa mà tự vấn mình xem: Chúng ta có phải là người đến đây cho được đi đàng nhân đức chừng ấy mà thôi sao? Nếu chúng ta xét mình rồi, thấy cách ăn nết ở của mình như người thế gian, không muốn sửa mình lại, cha xin kẻ ấy về cho rồi, thà làm một người bổn đạo thường cũng được, chớ đừng ở đây mà làm gương mù gương xấu cho anh em. Ngăn trở kẻ khác đi đàng nhân đức, là điều rất thiệt hại cho nhà dòng…”[6]
Ánh sáng và bóng tối, lý tưởng và thực tế: cả hai xen lẫn vào nhau. Lịch sử Giáo Hội, lịch sử của đời thánh hiến tu trì và của từng cộng đoàn, đều đan chen giữa thánh thiện và tội lỗi. Vậy đâu là phản ứng của chúng ta trước vấn đề này?

 2. NGUY CƠ “TRỐN CHẠY THỰC TẾ”
Trong lời giáo huấn về sự kiện “khi thấy trong nhà dòng xem ra sa sút thì phải làm sao?”, Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã phòng ngừa bằng cách nêu lên một vài thái độ “TRỐN CHẠY” qua các kiểu nói: chiêm bao muốn đi dòng khác, lưỡng lự suy tính chân trong chân ngoài, khốn hơn là chưa đi được bước nào trong đàng nhân đức. Đó là phía con người. Còn ma quỉ có hành động gì không? “Đàng khác ma quỉ cũng vẽ thêm cho một phần nữa, làm cho linh hồn ấy phải hư mất: là bỏ dòng, bỏ ơn Chúa”.
Về phía con người, chúng ta có thể khám phá ra ba cấp độ trong việc trốn chạy này.
– Cấp độ thứ nhất: CHIÊM BAO
Cha Tổ Phụ đã sử dụng từ “chiêm bao” để nói lên những suy nghĩ mang tính hoang tưởng, phi thực tế. Chiêm bao có thể đồng nghĩa với tưởng tượng. Thật vậy, tưởng tượng là một hoạt động đóng góp tích cực vào việc bị cám dỗ. Đây là một cuộc chiến nội tâm mà các ý tưởng đóng vai trò hết sức quan trọng. Những tư tưởng do trí tưởng tượng vẽ ra về một viễn ảnh của một nơi khác luôn đậm sắc mầu hồng. Chúng có mục đích ru ngủ người trong cuộc, sống trong ảo ảnh của một tương lai hảo huyền. Và chính sự ru ngủ này dần dần làm tiêu hao khí lực, không còn tập chú vào cuộc sống hiện tại.
Chúng ta có thể so sánh việc chiêm bao của người muốn từ chối thực tế như tình trạng của những con nghiện ma túy tìm quên lãng trong cái “lâng lâng”, cái “huyền hoặc”. Những người sống trong tình trạng “bất mãn với hiện tại” sẽ đi tìm những ý tưởng ru ngủ mình. Và đó là một thiệt hại trên con đường vươn lên, trưởng thành.
– Cấp độ thứ hai: CHÂN TRONG CHÂN NGOÀI
Đây là tình trạng của một tâm hồn bị phân tán, sống trong sự bất an và không thể nào tiến bước cho đúng hướng. Một đàng họ chưa dám rút chân ra khỏi môi trường cũ – trong trường hợp chúng ta đang bàn đến là đời sống đan tu – vì vẫn còn một chút gì đó an toàn; đàng khác, họ không dám tiến bước vào “vùng đất mới”, vì mới lạ chưa biết thế nào và gặp không ít cản trở khách quan. Họ như người cứ đi dọc theo “đường biên”, và như thế cũng chẳng thuộc về vùng đất nào cho đúng đắn và trọn vẹn.
Nếu cứ để tâm hồn mình bị xâu xé, vỡ vụn thành từng mảnh với những tư tưởng làm phân tán chi phối, cuộc sống họ mất đi tính duy nhất là yếu tính của chính đời tu nói chung và đời đan tu nói riêng. Mất đi tính duy nhất thì cũng mất đi đối tượng duy nhất là chính Chúa, Đấng làm duy nhất hóa mọi tư tưởng và hành động. Cha Tổ Phụ đã rất chính xác khi diễn tả tâm trạng của những anh em “lưỡng lự suy tính chân trong chân ngoài”. Lưỡng lự suy tính? Nhưng suy tính điều gì? Phải chăng là dấn thân hơn hay là tìm cách tiến thân? Thần khí nào hướng dẫn? Thần Khí Thiên Chúa hay những tính toán của thế gian? Thật là một cuộc chiến trong lòng những người anh em đang muốn tìm “con đường thoát thân”, không trung thực với sự hướng dẫn của Thần Khí Thiên Chúa. Lưỡng lự tính toán sẽ làm mất đi tính chất “liều” của Tin Mừng và sẽ làm nguội đi nhiệt tâm, can đảm kiên trì trong ơn gọi.
– Cấp độ thứ ba: DỪNG BƯỚC TIẾN
Cha Tổ Phụ diễn tả cấp độ này bằng kiểu nói: “khốn hơn là chưa đi bước nào trong đàng nhân đức”. Khốn hơn, nghĩa là đáng tiếc nhất, là rơi vào tình trạng nguy hiểm nhất, và hậu quả đương nhiên là khốn khổ cho chính đương sự và cho cả cộng đoàn.
Cuộc sống con người được ví như một hành trình, ngụ ý nói lên sự tiến triển, vươn lên và tiến tới. Dừng lại là chết. Nếu cuộc sống là thế, phương chi đời sống thiêng liêng hay nhân đức. Các nhà tu đức ví hành trình này như là bơi ngược dòng, leo dốc. Dừng lại là thoái lui. Người đi tìm những hình ảnh sắc hồng do tưởng tượng vẽ ra để trốn chạy thực tế, người đó dễ rơi vào tình trạng “bất động”, “tê liệt”. Họ “án binh bất động” ngay trong hướng đi và trong cụ thể cuộc sống. Có thể ví như người “nằm chờ sung rụng”, “hồn con đâu mà xác con đây!”. Họ không còn tích cực, nhưng uể oải và buồn chán. Tình trạng của người bị “con quỉ ban trưa” khống chế và áp đặt. Đó là một thứ “liệt kháng thiêng liêng”, có nguy cơ cho mọi thứ vi-rút xâm nhập và tàn phá. Vì không còn mặn mà với việc sống nhân đức, họ mở rộng tâm hồn cho những cám dỗ, những nết xấu ùa vào. Và đó là tình trạng nặng nề cho chính họ và cho cộng đoàn. Cái nặng nề là chính họ và cộng đoàn cứ phải loay hoay đi tìm những giải pháp, nhưng đâu phải giải pháp nào cũng khả thi và nhất là đúng theo ý Chúa.
Còn về phía ma quỉ thì sao?
Ngày nay, người ta chẳng tin vào việc ma quỉ cám dỗ, và đó lại là một sai lầm nguy hại lớn. Cứ nhắm mắt đưa chân để cho ma đưa lối quỉ đưa đường…Chúng ta có thể phân tích một vài thủ đoạn ma quỉ sử dụng để như Cha Tổ Phụ nói: “làm cho linh hồn ấy hư mất, là bỏ dòng, bỏ ơn Chúa”.
Chúng ta có thể nhận ra hành động của ma quỉ qua những mưu thuật cốt để người nó cám dỗ rơi vào bẫy. Ma quỉ thường hành động qua những TƯ TƯỞNG gợi cho thấy một “viễn ảnh tươi sáng” ở “bên kia” sườn đồi, bên ngọn núi kia. Đứng núi này trông núi nọ. Linh phụ Evagre thành Pont đã khẳng định là đối với người sống trong thế gian, ma quỉ cám dỗ bằng đối tượng cụ thể; nhưng với các đan sĩ, ma quỉ cám dỗ bằng những “tư tưởng”. Trước đó, chính linh phụ Origène đã xác định trái tim là trung tâm của cuộc chiến thiêng liêng.
Liên quan đến điều chúng ta đang nói tới – tức là thái độ “chân trong chân ngoài”, ma quỉ rất thường dùng đến kế “kéo co” này để làm cho linh hồn mất thời gian, tiêu hao khí lực và nhất là làm cho tình yêu dần dần nguội lạnh mà linh hồn không cảm thấy hậu quả ngay lập tức. Ma quỉ gây nên một nỗi “chán chường thiêng liêng” mà chúng ta đã gọi tên là “con quỉ ban trưa”. Linh hồn kéo lê cuộc sống và không biết định hướng phía nào, không biết chọn lựa và nhất là không còn đủ năng lực để kiên trì trong những gì mình đã quyết định.
Trước tình trạng xem ra “tiến thoái lưỡng nan” đó, linh hồn cần hành động thế nào?

 

3. CẦN THIẾT KHỔ CHẾ, CẦU NGUYỆN VÀ CANH TÂN
Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận khuyên “phải khổ chế, cầu nguyện và sửa sai”. Đây là những thái độ căn bản khi đối diện với tâm trạng hay đúng hơn với tình trạng “chân trong chân ngoài”, tâm hồn bị xâu xé bởi những tư tưởng và những đề nghị xem ra hấp dẫn nhưng thực tế ngầm chứa những mưu chước của ma quỉ.
Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã nói đến một thứ khổ chế rất quan trọng trong truyền thống đan tu, đó là “giữ trí lòng”. Ngài nói:
“Nếu Cha Thánh Biển Đức, ngài có ở trong nhà này, ngài có ăn ở như chúng ta không? Hẳn thật, ngài hằng lo tìm Chúa, kết hợp với Chúa mà thôi. Chúng ta cũng phải lo cho được như vậy. Khi làm việc mà chăm chỉ, có ý làm việc cho Chúa, thì có quên Chúa đi nữa, cũng không sao. Nhưng mà trong các việc, có việc không cần phải chăm chỉ, hãy lo mà nhớ đến Chúa, bằng không thì trí khôn ta hay chiêm bao luôn: khi thì chiêm bao về xứ sở, cha mẹ, bà con, gặp người nọ người kia… Bởi đó sinh ra chước cám dỗ, có khi vui buồn cũng tại đó…
Vậy chúng ta phải cầm giữ trí khôn cho lắm. Đó là cách hãm mình có ích hơn hết, mà khỏi sinh lòng kiêu ngạo. Chớ cho nó lo ra, là điều hại lắm; nhưng hãy lo tưởng nhớ đến Chúa. Sự bắt trí khôn hằng tưởng nhớ đến Chúa là một điều rất tốt và rất khó, cho nên có kẻ không làm…”
Như đã nói trên, tình trạng “chân trong chân ngoài” là hậu quả của một thái độ “thả rông” cho trí lòng. Tâm trí lúc đó như con ngựa bất kham, phóng nước đại và chạy khắp phía. Tâm hồn bị xâu xé và trí năng bị phân tán. Vì thế, phương thế thứ nhất cần thiết là “dừng lại”: tâm trí phải “định” lại với đối tượng chính và duy nhất. Đối tượng đó không gì khác là chính Chúa. Tập trung vào Chúa và định hướng “trí lòng” vào Chúa. Rồi dần dần, linh hồn tìm lại tính duy nhất hóa, sự an nghỉ và niềm vui sống trong ơn gọi, trong cuộc sống cụ thể.
Khi sống lâu dài trong cảnh “chân trong chân ngoài”, linh hồn rơi vào chỗ không còn thiết tha cầu nguyện. Cầu nguyện ở đây là sống mối tương giao thân tình với Chúa và nhiệt tâm với việc cử hành phụng vụ cùng cộng đoàn. Có thể vẫn hiện diện đấy, nhưng rất có thể như một “xác chết không hồn”. Hồn cầu nguyện có thể đã rời xa!!! Chính vì thế, để có thể sáng suốt nhận định bước đường phải dấn thân, không gì khác hơn là cầu nguyện và cả việc tìm lại “hương vị của cầu nguyện”.
Thật vậy, sống trong tình trạng “chân trong chân ngoài”, mơ ước đến phương trời đầy mầu hồng và nồng ấm ở sườn núi bên kia – vì đang đứng núi này trông núi nọ, cuộc sống hiện tại trở thành nặng nề và đậm vị đắng cay. Tất cả những ngọt ngào của cuộc sống, của cảm nghiệm trước kia, nay chỉ còn thấy day dứt và vị đắng. Đó là hậu quả của việc đánh mất cầu nguyện. Như vậy, không có phương thế cần thiết và phù hợp nào khác hơn là trở về với cầu nguyện. Có thể rất khó khăn khi thực hiện cuộc trở về này; nhưng Thánh Thần Chúa luôn sẵn sàng “cầu thay nguyện giúp bằng những tiếng kêu rên siết khôn tả”, miễn là chúng ta dám mở rộng con tim và sẵn sàng để cho Ngài hành động. Vì cách thế ma quỉ sử dụng để lôi kéo linh hồn xa lìa Chúa và cuộc sống đích thực là ngăn cản không cho cầu nguyện. Khi linh hồn bắt đầu thực hiện những bước đầu của cầu nguyện, ma quỉ liền “trình chiếu” trong tâm hồn biết bao hình ảnh và tư tưởng để làm linh hồn phân tâm. Và nếu cứ để ma quỉ dẫn đưa ra khỏi chính mình và Thiên Chúa, linh hồn sẽ dấn từng bước vào “miền đất xa lạ”, để rồi không biết phương hướng nào mà định vị được.
Chính vì vậy, phải can đảm “rút chân ngoài” đưa vào trong bằng việc cầu nguyện. Hai chân trụ trong cầu nguyện sẽ tạo cho linh hồn đứng vững và tiến vững trong bầu trời của Thiên Chúa. Linh hồn sẽ biết “tham vấn” Chúa mỗi khi “tư tưởng” hiện đến và cũng sẽ biết “hồi đáp” bằng tư tưởng của Chúa.
Phương thế thứ ba là sự canh tân. Linh hồn sống trong tình trạng “chân trong chân ngoài” – như đã phân tích trên kia – cảm thấy một “sức ì” trước mọi sinh hoạt và cuộc sống. Không tiến bước và sống “qua ngày đoạn tháng”. Việc canh tân là “khởi đầu lại”, là lấy lại “nhiệt tâm thuở ban đầu”. Bước đi này khó nhưng mang tính quyết định. Thật vậy, canh tân là chính việc “đưa chân ngoài” vào con đường bên trong. Khi để chân ra ngoài, linh hồn rất dễ dàng bị lôi cuốn bởi bất cứ “luồng gió” hay “tiếng mời gọi” nào. Vì vậy sự canh tân là đưa chân vào trong, để hai bàn chân cùng nhịp bước trong mọi sinh hoạt của đời đan tu. Và khi “cùng nhịp”, linh hồn sẽ dần dần “bắt nhịp” cuộc sống hiện tại, và tiến bước đúng định hướng đã từng chọn lựa.
Nhưng việc canh tân này không thể thực hiện chỉ do thiện chí con người, vì chúng ta rất dễ bị chao đảo và ý chí của chúng ta không phải lúc nào cũng kiên vững. Chúng ta cần “LỜI CHÚA” canh tân và định hướng cuộc sống. “Lời Chúa là ánh sáng, là đèn dọi bước con đi”. Chính vì thế, canh tân là bước vào trong, vào trong TƯ TƯỞNG của Chúa, trong LỜI của Ngài. Chính Lời Chúa ban cho chúng ta sức mạnh đưa chúng ta ra khỏi sự ù lì để vươn lên và tiến tới.

  

KẾT

“Đứng núi này trông núi nọ”, “chân trong chân ngoài”: đó là thái độ dễ nhìn thấy trong rất nhiều lãnh vực như công ăn việc làm, tình yêu, và cả trong đời tu. Thái độ này diễn tả tâm trạng bất thỏa đối với hiện tại và mong chờ cái tốt hơn trong tương lai. Phải chăng đó là một sự cầu tiến? Một khát khao vươn lên? Có thể. Nhưng làm sao đạt tới một tương lai tốt hơn, nếu không hết mình với hiện tại! Người ta vẫn thường nói “có công mài sắt có ngày nên kim”. Có hiện tại vất vả mới có tương lai sáng ngời.
Phải chăng trong đời tu, khi gặp những thử thách về một lý tưởng không được hiện thực cho cá nhân và cộng đoàn, chúng ta lại xoay xở đi tìm một nơi khác và tự nhủ sẽ tìm thấy ở nơi kia một sự thành toàn nào đó. Và nếu thật sự trung thực với lòng mình, chúng ta cũng sẽ dễ dàng khám phá ra những “hậu ý” không tiện và không dám nói lên. Như vậy, việc mong ước tìm thấy màu hồng ở núi bên kia lại có thể trở thành một CÁM DỖ thật sự và một gánh đè nặng cho những ai đang bị thử thách bởi cuộc sống với quá nhiều giằng co và phân tán.
Phải chăng thái độ “bằng lòng với hiện tại” là một bước chân đúng đắn đặt trên một tiến trình vươn lên? Chúng ta khám phá ra trong cuộc đời Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận thái độ căn bản này. Ngài là một con người của ƯỚC MƠ. Trong từng giai đoạn cuộc sống, ngài mang trong mình những ước mơ rất mạnh mẽ và chúng không ngừng thôi thúc ngài cũng rất mạnh mẽ. Chúng ta có thể đơn cử việc ngài ước mơ được đi truyền giáo cho những người chưa nhận biết Chúa. Khao khát đó mạnh đến nỗi ngài nhìn căn phòng tại tiểu chủng viện An Ninh – nghĩa là công việc của một giáo sư – như một nhà tù và như thể mình bị nhốt tù. Nhưng nếu Đức Cha, nghĩa là bề trên của ngài, muốn ngài tiếp tục công việc, ngài cảm thấy TỬ TẾ luôn (theo kiểu chuyển ngữ của tác giả sách Hạnh Tích), nghĩa là chấp nhận và bằng lòng. Khi khao khát sống đời đan tu và ước mơ thành lập một đan viện cho người Việt Nam, nhưng Đức Cha khuyên chờ đợi và chờ đợi, ngài cũng cảm thấy tử tế luôn và chu toàn công việc hiện tại. Ngài không bao giờ từ bỏ ước mơ, nghĩa là hướng tới tương lai, nhưng đồng thời ngài cũng không từ bỏ hiện tại. Ngay trong hiện tại ngài đã nhìn thấy tương lai. Có thể nói, ngài đứng núi này đã trông thấy cái tốt đẹp ở núi kia. Các thư tín ngài gửi cho Đức Cha Allys và song thân minh chứng cho “ánh nhìn vượt qua” đó. Nhưng một chọn lựa căn bản của ngài đó là hai chân luôn trụ lại, ở trong hiện tại với những gì thuộc về “nơi đây và lúc này”.
Phải chăng đó cũng chính là ánh nhìn của Chúa Giê-su khi trên núi Tha-bô, lúc Ngài biến hình, đã hướng tới một ngọn núi khác là Can-vê? Hai ông Mô-sê và Ê-li-a đã hiện ra và đàm đạo với Ngài về cuộc XUẤT HÀNH Ngài sắp thực hiện tại Giê-ru-sa-lem. Hướng tới ngọn núi khác khi ngọn núi đó là nơi được hiện thực một sự dấn thân trọn vẹn. Núi Sọ là nơi Chúa sẽ hoàn tất công cuộc của Chúa Cha trao phó, trong khổ đau và cái chết. Như vậy, Can-vê không phải là điểm hẹn của những người trốn chạy mà là nơi gặp của những ai hiên ngang bước tới. Núi Sọ không phải là điểm tới của tiến thân mà là đích điểm của DẤN THÂN.

 


 

[2] Cha Biển Đức Thuận, Di Ngôn, “Khi thấy trong nhà dòng xem ra sa sút thì phải làm sao?”, tr.185-186.

[3] Di Ngôn, thư gửi Đức Cha Allys ngày 31 tháng 01 năm 1912, tr.19-20.

[4] Di Ngôn, “Nên thầy dòng thật”, tr.169-170

[5]Di Ngôn, “Nên thầy dòng thánh”, tr.171-172.

[6] Di Ngôn, “Khi nào gọi là nhà dòng hư?”, tr.186-188.

[7] Di Ngôn. “Khuyên giữ trí lòng”, tr. 166-167.

 

 

 

 

 

THẮNG VƯỢT

 FM. Cao Minh Long_CĐ Châu Sơn Đơn Dương 

 

Trong bối cảnh xã hội phát triển, cuộc sống con người được mở ra với nhiều hy vọng, nhiều hứa hẹn, nhưng cũng nhiều thách đố và rủi ro. Chính vì thế, con người dù dư thừa của cải vật chất, cũng vẫn cảm thấy buồn phiền, chán nản, lo âu, bất an… Có người rất thành công trong sự nghiệp, lắm bạc, nhiều tiền, có được một gia đình êm ấm, nhưng lại cảm thấy trống vắng trong tâm hồn. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển kinh tế, cuộc sống sung túc hơn, đồng thời con người cũng chạy theo lối sống thực dụng, hưởng thụ và ích kỷ hơn, xem ra mối tương quan tình thân dễ bị lãng quên.
Con người ngày nay cũng có nhiều thay đổi trong lối suy nghĩ, quan niệm sống và các giá trị tinh thần cũng đang được nhìn nhận lại một cách tự do. Đặc biệt trong đời sống tâm linh, niềm tin vào tôn giáo của con người đang được đặt lại vấn đề. Họ nghi ngờ một sức mạnh nào đó từ bên ngoài tác động vào đời sống con người.
Trước thực trạng của một xã hội mà con người muốn phủ nhận Thiên Chúa và chạy theo vật chất, người Kit-tô hữu nói chung và các tu sĩ nói riêng sẽ gặp nhiều thách đố và những cám dỗ trong cuộc sống, không biết được con đường nào đúng nhất, để định hướng cho cuộc đời của mình cho có ý nghĩa.
Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI có lý khi khẳng định: “Chúng ta đang phải đối diện với một cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa, một sự mất ý thức tôn giáo là điều tiêu biểu cho một trong những thách thức lớn nhất đối với Giáo hội ngày nay”[1] . Theo Đức Thánh Cha, nguyên nhân sâu sa của những thách thức đối với Giáo hội ngày nay là khủng hoảng đức tin. Hơn bao giờ hết, con người cần có Thiên Chúa; nếu không có Thiên Chúa, thì trần gian sẽ biến thành hoả ngục.
Đối với người đan sĩ cũng thế, mặc dầu sống trong bốn bức tường kín đáo của đan viện, cũng không sao tránh khỏi những thách đố và những cám dỗ của thời đại đang len lỏi xâm nhập vào tâm hồn và đời sống của họ, khiến cho họ đi xa dần với mục đích chính yếu của đời sống đan tu chiêm niệm, lý tưởng duy nhất mà họ đang theo đuổi.
Với cái nhìn chủ quan, đề tài “Thắng vượt…” này, người viết sẽ nêu lên những thách đố mà người đan sĩ phải đối diện khi sống giữa lòng xã hội hôm nay, và đưa ra những phương cách để chiến đấu và thắng vượt những cám dỗ đó. Có thể coi như là một kinh nghiệm sống cho chính mình, dù thế gian này luôn biến chuyển và thay đổi đến đâu đi chăng nữa, thì đan sĩ vẫn luôn giữ vững được tinh thần và lý tưởng của đời đan tu. Đồng thời, đời sống đan tu chiêm niệm vẫn luôn mang đến cho đan sĩ một ý nghĩa cao quý và một giá trị đích thực nhất.

 

 I. NHỮNG THÁCH ĐỐ ĐAN SĨ PHẢI ĐỐI DIỆN.

Đối diện với thời đại, đan sĩ phải bén nhạy và tế nhị hơn để ứng dụng vào hoàn cảnh đan tu của mình. Hành trang đời đan tu không vững vàng, thì cũng khó mà đối phó với những vấn đề phải cập nhật thường xuyên.
Trên hết, đan sĩ hãy lồng bàn tay mình vào bàn tay Chúa, đặt trái tim mình vào trong trái tim Ngài trong sự kết hợp mật thiết, sâu xa để cảm nghiệm như Thánh Phaolô: “Tôi sống không phải là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi”[2] .
Thứ đến, đời đan tu đặt nền tảng trên kinh nghiệm của những người cảm thấy mình được Thiên Chúa thu hút. Đời đan tu là lời đáp trả tiếng gọi tình yêu của Đức Kitô, Đấng kêu gọi đan sĩ lắng nghe và tận hiến toàn thân cho Ngài với trọn lòng trung tín. Thật tuyệt vời, Thánh Biển Đức đã mở ra con đường cho những ai trong bước khởi đầu của đời tu, để trở nên một đan sĩ đích thực, bằng việc mở tai lòng để lắng nghe tiếng Chúa và thi hành trong sự khiêm tốn, vâng phục: “Con ơi, lắng nghe lời thầy dạy… hãy mang lấy khí giới mạnh mẽ oai hùng của đức vâng phục, để chiến đấu cho Chúa Kitô, Vua chân thật”[3] .
Bởi vì, Thiên Chúa làm chủ vận mệnh cuộc đời đan sĩ một cách huyền nhiệm, đến độ đan sĩ mau mắn đáp lại bằng chính cuộc sống của mình. Nên cuộc sống ấy không gì khác hơn là cố gắng mỗi ngày thuộc trọn về Đức Kitô.
Điểm ghi nhận đáng chú ý là trong xã hội hiện nay có rất nhiều người tìm kiếm những gì là thánh thiêng và ý nghĩa chung cục của cuộc sống. Đối với họ, cuộc đời này có giá trị gì?. Vì thế, đan viện phải trở thành nơi chốn thuận tiện và lý tưởng cho con người ngày nay “tìm kiếm” Thiên Chúa.
Với lối sống thực dụng của xã hội ngày nay, đan sĩ trên con đường tìm kiếm Thiên Chúa thường gặp những trở ngại nào? Và đối phó làm sao trước những nghịch cảnh đó.

 

1.Thách đố khi hội nhập với xã hội.

Đan sĩ sống tách biệt thế gian, nhưng vẫn được mời gọi sống liên đới với xã hội để làm chứng cho niềm tin và những giá trị cao quý của Kitô giáo. Họ được kêu gọi từ bỏ những giá trị vật chất, là những gì đáng được hưởng, để dấn thân cho một lý tưởng cao đẹp hơn. Nói thế không phải là phủ nhận những giá trị vật chất trong đời tu, nhưng có rất nhiều phương tiện hữu ích trong xã hội hiện đại đang phục vụ cho sứ mạng của người đan sĩ. Vấn đề đặt ra là, đan sĩ hội nhập với xã hội hay là bị hoà tan trong xã hội, một xã hội hưởng thụ và tục hoá?.
Trong thực tế, có người sống đời tu trì đã bị cuốn vào vòng xoay của lối sống thực dụng. Có người chọn đời sống đan tu chiêm niệm để mong thoát ra khỏi những khó khăn về đời sống vật chất. Họ chọn Đan Viện là điểm tựa để tiến thân, chạy theo thời đại với những toan tính thiên về vật chất. Họ cũng cố gắng tìm cho mình những gì người khác có như: về bằng cấp, địa vị, danh dự v.v…nhưng không phải để phục vụ mà là để khoe khoang, để tiến chức…Có nhiều người đưa ra những lý luận rất hay để biện minh cho những hành động chạy theo lối sống hưởng thụ của mình. “Có những người được coi là đạo đức “thâm niên” nhưng lại ứng xử thiếu nhân bản và cảm thông. Không thiếu những trường hợp các bậc đáng kính, mà trong đường lối xử thế, ngôn từ, lập trường, quan điểm… lại bộc lộ một cái gì không ổn, ít cảm thương, thiếu “tình người”, thiếu trân trọng tha nhân, khá ích kỷ hoặc kỳ dị mà hôm nay người ta khó có thể chấp nhận được…”  [4].
Còn những người sống đời dâng hiến thì sao? Họ phải sống thế nào trước một xã hội đề cao cái tôi cá nhân và sự hưởng thụ này? Có lẽ đan sĩ cần hội nhập để cùng đồng hành và chia sẻ với con người, giúp họ và giúp mình tìm ra được giá trị đích thực về đời sống con người. Đan sĩ hội nhập để chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của kiếp người. Đan sĩ có thể đến với những người yếu đuối để nâng họ lên, chứ không bị những yếu đuối ấy nhận chìm. Những người yếu đuối ấy là ai? Là anh em chung sống và cả chính mình nữa.
Thiết nghĩ, đan sĩ cần phát huy hơn nữa những giá trị tích cực mà thế giới văn minh mang lại và hạn chế những điều tiêu cực phát sinh từ thế giới ấy. Hoà nhập được như thế thì thực trạng xã hội sẽ không còn là một thách đố đối với đan sĩ, nhưng sẽ trở thành một phương tiện hữu dụng để họ loan báo Tin Mừng cho con người hôm nay.

 

 2. Thách đố khi sống các nhân đức.
Bên cạnh việc sống hội nhập với xã hội, đan sĩ được mời gọi thể hiện đời sống chứng tá của mình bằng việc thực thi trọn hảo các nhân đức. Đây cũng là một thách đố lớn đối với đan sĩ trong một xã hội đang có quá nhiều cám dỗ.

a. Các nhân đức hướng thần.

Việt Nam là một đất nước đa tôn giáo, trong đó có những tôn giáo đã được lưu truyền từ rất lâu như: Nho giáo, Phật giáo… Các tôn này có ảnh hưởng rất lớn đối với người Việt Nam, và đã ăn sâu trong tâm thức của nhiều người. Tư tưởng của các tôn giáo ấy thì bình dân, giản dị, dễ gần gũi và phù hợp với văn hóa của người Việt Nam. Trong khi đó, Ki-tô giáo với những ý tưởng thần học cao siêu nghiêng về chiều kích tâm linh, không dễ trình bày nên khó hội nhâp với nền văn hóa Việt Nam.
Ngày nay, các đan sĩ phải sống thế nào để hội nhập và gieo niềm tin Ki-tô vào lòng dân tộc? đây là một đòi hỏi cấp thiết nhưng đầy cam go, bởi vì chúng ta đang đối diện với một thế giới văn minh nhiều cám dỗ. Có những người ra sức tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng họ chẳng thấy Chúa đâu! Thế là “đức tin” chao đảo, họ nghi ngờ không biết Chúa có thật hay không. Trong khi đó khoa học đang dần giải thích được hầu hết các hiện tượng mà xưa nay vẫn nghĩ là Chúa làm. Chính những chán nản, căng thẳng, khủng hoảng làm cho không ít người trở nên tuyệt vọng không biết bám víu vào ai, dẫn đến những thách đố về “đức cậy”.
Trước một thế giới đầy biến động, sự hy vọng tan vỡ dần mỗi ngày. Đan sĩ phải trở nên dấu chỉ và biểu hiện của niềm hy vọng cho thế giới. Nhưng lại có những đan sĩ đang bị lôi cuốn vào vòng quay của nền văn minh thời đại, làm phai nhạt tình yêu thuở ban đầu với Đức Giêsu Kitô. Mỗi khi thất vọng, đau buồn… họ không còn tha thiết tìm đến Thiên Chúa nữa. Họ xây đắp hy vọng của mình nơi những người có thể cho họ được an toàn nào đó trong đời tu, giống Đức Kitô tình yêu, nhân từ, sức mạnh và sự hiểu biết giờ còn đâu? Và đây chính là thách đố về “đức mến”.

b. Các nhân đức luân lý

Hơn bao giờ hết, chúng ta đang đứng trước một thế giới đang đánh mất dần niền tin, cậy mến vào Thiên. Chính vì thế, hơn bao giờ hết, đan sĩ phải thể hiện sự trưởng thành trong đời sống nhân bản và đức tin. Họ cần có “những động lực để thúc đẩy tham dự vào những bước tiến vĩ đại của nhân loại, bằng việc sống ơn gọi đan tu đích thực, bằng việc huấn luyện lương tâm, cảm thức về những giá trị đạo đức và tinh thần, nhất là những chứng tá cho những giá trị luân lý”[5] . Đứng trước thực trạng đó, đan sĩ làm sao kiện toàn lý trí trong điều khiển hành vi? Làm sao tập trung ý chí trong việc chu toàn nghĩa vụ đối với tha nhân? Vững vàng không tháo lui trước những gian nguy và kiểm soát được cảm xúc, không chiều theo bản năng mù quáng? Đây chính là thách đố cho đan sĩ hôm nay.
Đứng trước những thách đó đó đan sĩ cần khôn ngoan để đọc ra các dấu chỉ của thời đại. Đó là sự khôn ngoan trong tương quan với Thiên Chúa. Thế nhưng, đan sĩ ngày nay dường như tìm kiếm một sự khôn ngoan mà nói như Thánh Phaolô là sự khôn ngoan của thế gian: như danh vọng, chức quyền…. Họ dùng sự khôn ngoan để nắm bắt cơ hội cho bản thân mà không màng đến quyền lợi của người khác, gây những bất công trong cộng đoàn.
Kế đến, sự công bằng cũng là thách đố cho đan sĩ khi mà cá nhân chủ nghĩa được đề cao. Mối tương quan giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đoàn.
Cuối cùng, dù sống ngoài đời hay trong tu viện, thì việc giữ chừng mực trong hết mọi hành động vẫn là điều quan trọng. Hơn nữa, là người đan sĩ thì chúng ta phải làm gương. Nếu không chúng ta làm chứng như thế nào, khi mà cuộc sống của mình chẳng ra sao. Đan sĩ cần phải kìm hãm những nhu cầu tự nhiên trong khuôn khổ chừng mực. 

 

3.Thách đố khi sống các lời khuyên Phúc Âm.

Trong một xã hội khi con người đề cao tiền bạc, vật chất, thì đan sĩ được mời gọi sống lời khấn khó nghèo triệt để; khi con người sống hưởng thụ, thì đan sĩ lại được mời gọi sống khiết tịnh vì Nước Trời; trong lúc con người đề cao cái tôi cá nhân, thì đan sĩ lại được mời gọi sống vâng phục tuyệt đối theo Đức Kitô, “Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”[6]. Đó là những thách đố đối với đan sĩ giữ các lời khuyên Phúc Âm.

a.Khó nghèo.

Con người không ai muốn sống khó nghèo, nhất là trong một xã hội mà người ta đang đề cao chức quyền, danh vọng, tiền của, đan sĩ cũng không khỏi bị lôi cuốn vào vòng xoáy đó. Thực tế, nếu đan sĩ tự nguyện sống khó nghèo, sống giản dị thì cũng rất khó, bởi những tác động của nội và ngoại cảnh. Nhìn ra xã hội, chúng ta thấy đủ loại hình thức quảng cáo, tiếp thị khuyến khích người ta hưởng thụ những tiện nghi vật chất, nhưng lại hạ thấp và quên đi những giá trị tinh thần cao đẹp của con người. Từ đó, đan sĩ dễ rơi vào  những cám dỗ về phương tiện vật chất, và việc giữ lời khấn khó nghèo trở nên nặng nề.

b. Vâng phục.

Thế hệ trẻ ngày nay tỏ ra đầy tính cách duy lý, họ tìm cho mình một lập trường và có thể tự cho rằng đã đủ mạnh dạn để phê bình người khác. Một số đan sĩ dựa theo kiến thức, sự hiểu biết của mình mà không chịu nhận ra cái sai. Có người còn lợi dụng tự do để phản đối lại những quyết định của bề trên. Họ lẩm bẩm kêu ca khi bị truyền phải vâng phục. Họ quên rằng, lời khấn vâng phục mà họ đã tuyên khấn là vâng phục Thiên Chúa, mà bề trên chỉ là người đại diện Chúa.

c. Khiết tịnh.

Khi đan sĩ gặp khủng hoảng, căng thẳng, trống vắng không găp được niềm vui trong đời sống cộng đoàn, đan sĩ dễ dàng tìm sự bù trừ từ bên ngoài. Bên cạnh đó, các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình, internet…truyền tải những hình ảnh độc hại, nội dung đồi truỵ dễ lôi kéo đan sĩ vào việc thoả mãn từ những cám dỗ xấu. Họ không còn cảm nhận được niềm vui khi phục vụ và không thấy hạnh phúc khi sống trong cộng đoàn… Lời khấn khiết tịnh đã trở nên gánh nặng và khó khăn cho họ.

II. PHƯƠNG THẾ ĐỂ THẮNG VƯỢT .

Cổ nhân đã nói: “Nhân vô thập toàn” châm ngôn này phù hợp với cuộc sống con người trong mọi thời đại, khi con người phải đối diện với những đan xen “tốt”, “xấu”, “thiện”, “ác” trong từng giây phút sống. Điều này đòi hỏi con người luôn có chọn lựa chín chắn, để từ đó họ có thể hoàn thành sứ mạng “làm người” đúng nghĩa của mình hoà hợp giữa thể lý và tinh thần trong xã hội hay trong cộng đoàn tu trì, đó là con người trưởng thành. Tuy nhiên, khi thế giới đi vào kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật, thì con người dường như bị cuốn hút vào vòng xoay của tiện nghi, hưởng thụ, chủ nghĩa thực dụng cũng như thế giới tục hoá, làm cho giá trị tinh thần hay hình ảnh thánh thiêng trong thế giới này không còn được đề cao.
Đứng trước thực trạng chung của thế giới ngày nay, Giáo Hội mời gọi những ai theo đuổi ơn gọi tu trì cần phải nhận ra vai trò, sứ mạng của mình để có thể bước vào đời, dấn thân làm chứng cho tình yêu dâng hiến và phục vụ Tin Mừng có hiệu quả.
Như vậy, điều Giáo Hội đòi hỏi nơi đan sĩ không gì khác hơn là là phải trưởng thành trong ơn gọi của mình, nghĩa là phải được huấn luyện về mọi phương diện của cuộc sống. Không chỉ đào tạo kiến thức triết học, thần học và khoa học, mà còn phải được huấn luyện để trưởng thành về tâm sinh lý, tu đức, tâm linh…Vì những phẩm chất này thật cần thiết để đan sĩ trở thành những con người quân bình, vững vàng, tự do, và có thể đảm nhận những trách nhiệm trong vai trò của mình. “Họ cần được giáo dục để biết yêu mến sự thật, để biết trung thành, biết kính trọng mọi người, để có ý thức công bằng, để trung thực trong lời nói, để chân thành cảm thông, để trở thành những con người nhất quán, và đặc biệt là để có sự quân bình trong phán đoán và trong thái độ ứng xử”[7] .

 1.Trưởng thành nhân bản.

Là khả năng phán đoán khách quan về đời sống cá nhân, chấp nhận mình trong hoàn cảnh thực tế, không ảo tưởng những gì vượt quá những nhu cầu theo bản năng, ý thức và trù liệu hướng về tương lai với niềm hy vọng.
Hiểu rõ chính mình là nền tảng để đánh giá trung thực những chi phối về phẩm chất nội, ngoại trong cuộc sống cá nhân: thể xác, tình cảm, tri thức, thiêng liêng cũng như những kinh nghiệm trong đời sống. Bên cạnh đó, cần biết mình có những khả năng, những ưu điểm do Chúa ban, từ đó nhận thức về mình là ai, thế nào, làm gì, ở đâu… để trù liệu và xây dựng cho mình một cuộc sống quân bình giữa những yếu tố tích cực và tiêu cực trong cuộc sống. Trưởng thành nhân bản hay biết mình là một giả định thiết yếu cho sự hoà hợp tâm lý và sự phát triển nội tâm. Vậy ai chưa biết mình thì chưa thật sự trưởng thành nhân bản.
Như vậy, sự trưởng thành nhân bản là rất cần thiết đối với đan sĩ. Đó là nền tảng để xây dựng sự trưởng thành Kitô giáo và trưởng thành đời tu. Vậy, để trưởng thành nhân bản, đan sĩ cần được huấn luyện như thế nào?
Đó là phải rèn luyện để biết bản thân và lịch sự với người khác; sống thành thật, công bằng, chính trực, tiết độ; biết tự tín, tự chủ, sáng tạo; có tinh thần trách nhiệm…Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II khẳng định: “Sự cần thiết phải có một nền giáo dục về lòng mến chân lý, thái độ tôn trọng mọi người, ý thức về công bình, trung tín với lời mình nói, sự cảm thông đích thực, tính nhất quán và nhất là quân bình trong phán đoán và thái độ cư xử”[8].

 2.Trưởng thành tình cảm.

Trưởng thành tình cảm là biết tự chủ, biết giữ quân bình giữa cảm xúc, lý trí và nội tâm, tức là không để tình cảm bị chi phối điều khiển bởi cảm giác, nhưng bởi lý trí và ý chí hoà hợp với cảm xúc và nội tâm thể hiện trong cá nhân: 
Có khả năng sống một mình cũng như sống với người khác, cần phải tin tưởng nhau, biết chấp nhận các xung đột, có khả năng phân định và có một chút hài hước.
Có khả năng đặt những biến cố, sự việc… trong sự cân đối hài hoà giữa cảm xúc và lý trí. Nếu để cảm xúc chi phối khi rơi vào thất vọng, đan sĩ thường phản ứng bằng thái độ không hài lòng như: nóng nảy, giận dữ, xung đột, hay than thân trách phận. Ngược lại, đan sĩ trưởng thành biết  thừa nhận những thất bại, chấp nhận trách nhiệm, thiếu sót, yếu kém của mình để phân định và tìm phương hướng vượt qua hay sửa chữa lại những sai lạc, theo châm ngôn: “Thất bại là mẹ thành công”.

3.Trưởng thành trong đời sống cộng đoàn.

Đan sĩ có khả năng giữ quân bình trong tình cảm, trong tương quan đời sống cộng đoàn, trong tình liên đới với anh em bằng đời sống chia sẻ, giao tiếp hài hoà với thái độ “lắng nghe và đón nhận”.
Những thách đố trong đời sống cộng đoàn dường như đã làm một số người thất vọng thực sự. Tuy nhiên, niềm hy vọng về một cộng đoàn lý tưởng vẫn ngời sáng và vẫy gọi con người hướng tới. Cộng đoàn phải trở nên như một gia đình thực sự, như một trường dạy yêu thương: “Chính nhờ Tình yêu của Thiên Chúa đổ tràn trong tâm hồn chúng ta mà cộng đoàn tu trì khởi đầu và được xây dựng thành một gia đình thực sự, trong đó mọi người quy tụ nhân danh Chúa”[9].
Sự trưởng thành về chiều kích xã hội của mỗi đan sĩ là khuynh hướng “sống chung và hiệp thông” với người khác bằng thái độ chia sẻ, cảm thông với mọi người trong cuộc sống thách đố của từng cá nhân với cuộc sống chung.
“Sự trưởng thành xã hội cần phải có cái nhìn tổng hợp, khúc triết về cuộc sống, hài hoà giữa cá nhân và tập thể để có thể dẫn vào đời tu qua một quá trình chuẩn bị thiêng liêng cũng như nhân bản giúp thể hiện được một sự hiện diện trưởng thành của những người tu sĩ, hầu tạo được những quan hệ đổi mới ngay bên trong cũng như bên ngoài cộng đoàn mình”[10].

 4.Trưởng thành tâm linh.

Sự trưởng thành đời sống tâm linh là nét nổi bật của đời sống tu trì. “Là hành vi cuốn hút con người lao mình về Thiên Chúa, cố gắng hướng tầm mắt và cõi lòng về Thiên Chúa, đó chính là hành vi cao cả và sung mãn nhất của tinh thần, hành vi này chỉ toàn bộ mọi sinh hoạt rộng lớn của người tu sĩ” [11]

Một khi đan sĩ trưởng thành trong chiều sâu tâm linh, mỗi thái độ hay cử chỉ của họ khi đối diện với những biến cố quan trọng cũng như những hoàn cảnh bình thường trong cuộc sống, họ biết sống hết mình với bổn phận của đan sĩ.
Sự trưởng thành này được biến đổi nhờ ơn Chúa Thánh Thần, dưới ánh sáng của Tin Mừng, làm cho  đan sĩ có khả năng sống đời cầu nguyện và kết hợp với Thiên Chúa, hầu giúp họ sống năng động, hiệp thông và tình liên đới anh em trong cộng đoàn.
Đời sống đan tu trưởng thành không chỉ là nhờ việc huấn luyện, giáo dục trên những chiều kích: thể lý, luân lý, tri thức và tâm linh theo đường hướng của những nhà huấn luyện, mà sự trưởng thành này đòi hỏi nơi từng đan sĩ có trách nhiệm về chính mình trong “tự do đáp lại lời mời gọi bước theo Chúa, để biện minh cho sự lựa chọn thực tiễn và đặt giá trị đời tu trong sâu thẳm lòng mình, từ đó người đan sĩ có kinh nghiệm dồi dào về Thiên Chúa và giúp họ kiện toàn những kinh nghiệm ấy trong đời sống cá nhân”[12].
Tiến trình của sự trưởng thành không phải là một hình thức áp đặt từ bên ngoài và đồng đều cho tất cả mọi đan sĩ, mà xuất phát từ bên trong của từng cá nhân. Tiến trình này tập hợp tất cả mọi chiều kích và sức mạnh sinh động chung quanh sự chọn lựa tự do bước theo Chúa Kitô trong đời đan tu, theo đặc sủng riêng biệt của từng Hội dòng. Đan sĩ trưởng thành nhờ sự huấn luyện và nhờ kinh nghiệm sống đời đan tu của họ, để có thể phân định giữa lý tưởng mà mình khấn hứa, với con người thực tế của mình.
Để đan sĩ trưởng thành trong ơn gọi của mình, cộng đoàn cần tạo điều kiện giúp đan sĩ có đủ kiến thức và kinh nghiệm thực hiện đời sống theo Chúa Kitô, và hướng tới tương lai. Đan sĩ trưởng thành trở nên bạn hữu về cuộc sống thân tình với Chúa Kitô, phục vụ Giáo hội, cộng đoàn và thế giới. Trở nên chứng nhân sống động của những lời khuyên Phúc Âm và sự say mê Thiên Chúa.

 

KẾT.

Trong cuộc sống của đan sĩ luôn có những thách đố và khủng hoảng. Hành trình làm con Chúa cũng tồn tại nhiều  “nghi ngờ và e ngại”. Dấn thân theo Đức Kitô, trở thành người môn đệ đích thực của Ngài cũng thật là chông gai và nhiều cam go. Chúng ta luôn mong tìm được một hướng đi nào đó thích hợp, bớt được những khó khăn thì mãn nguyện và hạnh phúc. Thế nhưng, điều này còn nhiều bước cản, vì con người của đan sĩ thì giới hạn mà khát vọng lại vô cùng. Vậy, làm thế nào để thắng vượt những thách đố đó?
Để có sức thắng vượt những thách đố, đan sĩ ngày nay cần đọc ý Chúa qua những dấu chỉ của thời đại, qua những biến cố của bản thân, của những người xung quanh, cũng như những sự kiện của xã hội.
Cuối cùng, người đan sĩ cần thực hiện ba điểm chính yếu của đời đan tu, đó là: Tìm kiếm Thiên Chúa, sống tinh thần hiệp thông huynh đệ và tinh thần phục vụ tha nhân. Những người sống trong ơn gọi đan tu hãy cố gắng làm chứng cho mọi người thấy rằng, ai cũng được mời gọi nên thánh. Đồng thời, họ cũng phải là gương sáng cho mọi người về lòng yêu thương tha nhân, nhất là những anh em gặp nhiều đau khổ. Trong một thế giới không còn ý thức mạnh mẽ về sự hiện diện của Thiên Chúa nữa, thì đan sĩ phải trở thành chứng nhân đầy sức thuyết phục về một Thiên Chúa Tình yêu và về đời sống vĩnh cửu.

 


 

[1] Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI, Bài phát biểu tại Assisi nhân ngày cầu nguyện cho hoà bình, 27- 10- 2011. 

[2] Gl 2,20.

[3] Tu luật Thánh Biển Đức, Lời mở,1-4.

[4] Nguyễn Thái Hợp, Để họ lớn lên, (HCM, đức tin và văn hoá), 2005, tr 322.

[5] Robert S. Ferdman, Những điều trọng yếu trong tâm lý học, Trung tâm dịch thuật, Hà Nội. 2003, tr 661.

[6] Pl 2,8.

[7] Đức Thánh Cha Gioan Phalô II, Tông Huấn Pastores Dabo Vobis, 25-03-1992, số 43.

[8] Đức Thánh Cha Gioan Phalô II, Tông Huấn Pastores Dabo Vobis, số 43.

[9] Bộ Tu sĩ, Đời sống huynh đệ cộng đoàn, số 8.

[10] Đức Thánh Cha Gioan Phalô II, Văn kiện Tu sĩ và sự thăng tiến con người, 1980, số 33.

[11] Đức Thánh Cha Gioan Phalô II. Văn kiện chiều kích chiêm niệm đời tu, 1980, số 01.

[12] Đức Thánh Cha Gioan Phalô II. Văn kiện chiều kích chiêm niệm đời tu, 1980, số 17.

 

 

 

 

 

HẠT SÁNG THỨC TỈNH

 Duyên Thập Tự

 

Với chủ đề “CÁM DỖ”, Những Hạt Sáng Thức Tỉnh trong số nội san này là các châm ngôn kết tụ biết bao kinh nghiệm về cuộc chiến thiêng liêng mà các đan sĩ ngày xưa đã đối diện và thực hành. Đây là một công việc cam go đòi hỏi nhiều vất vả và hy sinh, vì phải chiến đấu với những sức mạnh vô hình, những thần của bóng tối. Các Linh Phụ, đặc biệt các Linh Phụ Sa Mạc và các Linh Phụ thuộc Giáo Hội Đông Phương, rất chú ý đến cuộc chiến chống lại các cám dỗ.

Những kinh nghiệm của các linh phụ trong đời đan tu giúp chúng ta khi chính chúng ta phải đương đầu với những cám dỗ. Muốn chiến thắng phải biết mưu thuật của cám dỗ và có chiến thuật để chiến thắng.

Những châm ngôn này được trích dẫn từ cuốn “Therapeutique des maladies spirituelles”, tác giả Jean-Claude Larchet, do Đan viện Biển Đức chuyển ngữ “Thần Dược Chữa Bệnh Tâm Linh” (tập 4).

 

I.MƯU THUẬT CỦA CÁM DỖ

1.Khơi gợi hoặc tấn công

“Cám dỗ mới chỉ là một tư tưởng, hoặc một hình ảnh về một sự vật nảy sinh trong tâm hồn như là sự xuất hiện ngẫu nhiên và thình lình trong tâm trí.” (thánh Gioan Climacô)

 2.Kết giao

“Kết giao là một sự tiếp nhận ý tưởng do ma quỉ khơi gợi cho chúng ta.” (thánh Gioan Damasceno)

“Kết giao là tranh luận với điều vừa xuất hiện, dù có kèm theo sự say mê hay không” (thánh Gioan Climacô)

3.Ưng thuận

“Ưng thuận là linh hồn bằng lòng ưng thuận vừa cảm thấy thích thú với điều đã được khơi gợi.” (thánh Gioan Climacô)

4.Bị chinh phục

“Tình trạng bị chinh phục là một sự hào hứng mãnh liệt, nhưng không có sự chủ ý của tâm hồn; hoặc là một sự liên tục gắn kết với đối tượng đang muốn phá hoại trạng thái tuyêt vời của linh hồn chúng ta.” (thánh Gioan Climacô)

5.Thực hiện

“Thực hiện là đem thực hành ý tưởng đam mê mà ta bằng lòng thuận theo.” (thánh Gioan Climacô)

“Một khi đã bằng lòng thuận theo ý tưởng được khơi gợi và bị nó chinh phục rồi, con người đi đến hành động, và thực hiện hành động phạm tội” (thánh Hysichius de Batos)

6.Đam mê

“Đam mê theo nghĩa đen là một điều xấu từ lâu đã âm thầm tác động linh hồn; từ nay điều xấu này ký kết với linh hồn một mối dây liên kết chặt chẽ và trở nên như một khuynh hướng thường xuyên, khiến linh hồn thấy thích thú và tự động hướng đến đam mê đó.” (thánh Gioan Climacô)

 

 II. CHIẾN THUẬT TÂM LINH

1. Tỉnh Thức và Cẩn Trọng

“Người hoàn hảo lúc nào cũng cẩn trọng ý tứ, như nghệ nhân biết rõ ngành nghề của mình. Cho dù họ có nói chuyện với ai đi nữa trong khi họ làm việc, thì cuộc nói chuyện đó cũng chẳng làm cản trở công trình nghệ thuật họ đang thực hiện.” (thánh Gioan thành Gaza)
“Hãy ý tứ giữ mình và đừng chứa chấp trong tâm trí anh em những ý tưởng xấu xa… Chúng ta yếu đuối, nên chúng ta dễ phạm tội bằng tư tưởng lắm; vì lẽ đó, Thiên Chúa là Đấng tạo dựng tâm hồn chúng ta; Người biết rõ mọi hoạt động của trí ý chúng ta, khiến chúng ta sa ngã vào nhiều điều bất chính, cho nên Người dạy chúng ta phải hết sức gìn giữ cho trong sạch phần lý tính của tâm hồn, bởi vì phận việc của phần lý tính này là cai quản và điều khiển. Cần phải giữ gìn hết sức cẩn thận thành phần nào hay nghiêng chiều về đàng tội lỗi.” (thánh Basilio)
“Mục đích của việc không ngừng canh giữ là nhận biết ngay những ảo tưởng vừa khi chúng hình thành trong tâm trí.” (thánh Hysichius de Batos)
“Cần phải cẩn trọng mọi nơi mọi lúc. Cần phải không ngừng ở trong tư thế sẵn sàng xông trận, để chiến đấu chống kẻ thù; lúc nào chúng ta cũng phải đề phòng trước những mưu chước tối tăm của thần dữ. Nếu chúng ta muốn không bị những chước cám dỗ ẩn kín bất thình lình tấn công, nhất định chúng ta phải không ngừng bắt kẻ thù phải nể sợ thanh gươm cảnh giác của chúng ta.” (Thánh Gregorio Cả)
“Công việc của đan sĩ là nhận biết các tư tưởng xuất hiện từ xa.” (Châm Ngôn).
“Vừa khi một tư tưởng xuất hiện, con hãy kiểm tra ngay; con hãy làm như thế đối với tất cả mọi tư tưởng.” (thánh Gioan thành Gaza)
“Canh thức là kiên trì tập trung tư tưởng để canh gác trước ngưỡng của tâm hồn. Canh gác như thế là để phát hiện các tư tưởng thâm độc vừa khi chúng xuất đầu lộ diện, nhằm để lắng nghe những ý tưởng thâm độc ấy toan tính điều gì, và ma quỉ đã tô điểm dung mạo nào trên chúng.” (thánh Hysichius de Batos)
“Con hãy là người canh của tâm hồn của con; con hãy lên tiếng hỏi ngay bất cứ tư tưởng nào xuất hiện: “mi thuộc phe ta, hay do ma quỉ?” (Linh phụ Evagre)

 2.Cầu nguyện và kiên trì

“Lời cầu nguyện chỉ cần một lời thôi cũng đẩy lui các tư tưởng vừa khi chúng xuất hiện.” (thánh Gioan Climacô)
“Con hãy lấy Danh Thánh Đức Giê-su mà đánh đuổi quân thù con, bởi lẽ trên trời dưới đất không có vũ khí nào sắc bén hơn.” (thánh Gioan Climacô)
“Nếu chúng ta chỉ dựa vào việc canh thức hoặc cẩn trọng của mình, chúng ta sẽ mau chóng bị kẻ thù lay chuyển, xô ngã và lăn cù dưới đất. Càng lúc chúng ta càng vướng víu vào mưu chước của chúng là những tư tưởng xấu xa.” (thánh Hysichius de Batos)
“Không kêu cầu Danh Đức Giê-su Ki-tô, thì không thể nào xua đuổi được ý tưởng xấu xa.” (thánh Hysichius de Batos)
“Việc tưởng nhớ Đức Giê-su tất sẽ làm tiêu tan tất cả mọi phù phép của tư tưởng, mọi suy tưởng, mọi lý luận, mọi ảo tưởng, mọi hình thái đen tối, tắt một lời, tất cả những gì mà quân thù chuẩn bị để khởi chiến và tấn công linh hồn. Nếu chúng ta kêu cầu Đức Giê-su, Người sẽ tiêu diệt chúng một cách dễ dàng.” (thánh Philôthê người Sinai)
“Chúng ta càng kiên quyết chống trả các cuộc tấn công của ma quỉ, chúng càng trang bị thêm vũ khí chống lại chúng ta.” (thánh Macario)
“Anh em hãy chịu đựng cám dỗ cho đến khi anh em giành chiến thắng. mà liều thuốc để vượt qua cám dỗ, đó là đừng nản lòng và hãy khẩn cầu Thiên Chúa, hãy hết lòng hết dạ dâng lời tạ ơn Người, và hãy kiên trì trong mọi sự; như thế sẽ không còn chước cám dỗ nào dám bén mảng đến anh em.” (thánh Ammonas)

“Bạn hãy kiên nhẫn và thành khẩn cầu xin để thoát khỏi chước cám dỗ.” (thánh Marco Đan Sĩ)

 

 

 

RƠI NGÃ

 Điệp Lan Đình

 

                                          Con xưa kiếp sống ThiênThần,
                                          Buông chân rơi ngã sa nhầm thế nay.
                                          Chúa ơi, đưa tới bàn tay,
                                          Níu con ra khỏi đọa đày lầm than.
                                          Tội con… đành phận …. con mang.
                                          Nhưng tình thương Cha, nấc thang nào cùng?
                                          Cha ơi, Cha Đấng – Vô – Chung,
                                          Chấp chi một trẻ đắm vùng muội mê!

 

 

 

 

 

THÈM

 Tadeo Thiên Phước

Thuở ấu thơ, tôi đã nhiều lần nhìn thấy cảnh hoàng hôn và mơ ước một ngày nào đó được đặt chân đến đường chân trời để biết tận cùng của vũ trụ có những gì. Nhưng dần dần, tôi biết rằng đường chân trời chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của con người. Những gì con tôi thấy ngày xưa chỉ là giới hạn của tầm mắt trước sự mênh mông của vũ trụ.
Cũng như chân trời trở nên xa vời mỗi khi con người tìm cách tiếp cận, thì sự thèm khát của con người cũng vô cùng. Thật vậy, mỗi nhu cầu được thoả mãn, chân trời thèm khát lại mở rộng thêm. Mỗi một nhu cầu được đáp ứng, thực ra lại phát sinh một đòi hỏi mới. Như vậy, nếu tìm cách thỏa mãn cơn thèm, con người có nguy cơ rơi vào ảo tưởng của cuộc chạy đua không đích đến.

1. Thế nào là thèm?

Một triết gia nhận định rằng: con người là một hữu thể thèm khát (l’homme, c’est l’être de désir). Thật vậy, con người lúc nào cũng trong tình trạng đói kém: thèm ăn, thèm ngủ, thèm được thương yêu, thèm được quan tâm, thèm hạnh phúc, thèm tự do… Đó là đặc tính của con người. Dù ý thức hay không, bản chất cơn thèm không hề thay đổi. Khi thèm điều gì, tự nó có ước muốn tìm kiếm nơi đối tượng một động lực cho các hành vi của mình hướng đến đó: Đói thì cảm thấy thèm ăn, khát thì thèm uống…
Con người được Thiên Chúa tạo dựng và hưởng dùng mọi sự, tại sao lại có một số điều cấm kỵ? Phải chăng do con người bất tuân và thèm khát trái cấm ngay từ thuở ban đầu?
Theo lẽ thường con người được làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều tốt. Sai lầm xảy ra ở chỗ thay vì thỏa mãn cơn thèm dưới sự hướng dẫn và kiểm soát của lý trí, nghĩa là thỏa mãn cơn thèm trong những gì lý trí suy xét là đáng thèm vì phù hợp với bản chất con người và làm cho con người tăng trưởng, thì chúng ta lại tìm kiếm động lực thỏa mãn cơn thèm trong bản thân đối tượng. Như thế, sau khi thoả mãn một cơn thèm, dù là thanh cao đến đâu, con người vẫn luôn không thoả mãn và tìm kiếm những điều mới mẻ hơn và hoàn hảo hơn vì ngoại giới thì vô cùng.

 

2. Bản chất cơn thèm

Bởi vì, con người là hữu thể thèm muốn và cơn thèm muốn thì luôn luôn vô hạn. Khi con người khao khát điều gì thì luôn hướng về nó. Cuộc sống của con người bao giờ cũng ủ ấp một sự thèm muốn nào đó và dường như chẳng bao giờ cảm thấy thỏa mãn. Bao lâu đôi mắt con người còn nhìn thấy, trí tuệ còn minh mẫn, giác quan còn nhạy bén, con người chẳng bao giờ có thể vui thoả tuyệt đối.
Như thế, cuộc sống của chúng ta luôn cảm thấy khổ sở và thất vọng vì không có tự do để thỏa mãn mọi cơn thèm. Như vậy, nếu không muốn suy sụp trong nỗi thất vọng, mỗi người phải biết học cách chấp nhận giới hạn thèm khát của mình. Đó là dấu hiệu quân bình tâm lý của một người bình thường. Vì theo nhịp sinh học, khi bạn muốn một điều gì đó và bạn nhận được, bạn ngưng khao khát nó một thời gian, cho đến khi bắt đầu lặp lại một chu kỳ khác. Ví dụ khi bạn đói, nghĩa là cơ thể bạn thiếu năng lượng cần thiết, nhưng khi bạn có thức ăn, cơn đói đi khỏi và chỉ trở lại khi cơ thể lại có một nhu cầu năng lượng mới.
Theo thánh Thomas, trong con người có nhiều kiểu khoái lạc và chúng mở lối cho nhau. Chính vì thế, nếu ai đó thoả mãn mọi cơn thèm khả giác vô cùng tận của mình, họ chỉ có thể rơi vào thất vọng. Họ sẽ như chú ngựa chạy đến kiệt lực mà không biết đâu là đích điểm. Vì những điều tốt đẹp hữu hạn, chỉ có thể đem lại niềm vui giới hạn, như vậy, cần phải thèm khát những gì mang giá trị vĩnh cửu, vô hạn, để mở ra cho tâm hồn một niềm vui vô hạn. Ví dụ: sự thèm khát hiểu biết là vô hạn và không có điều hữu hạn nào làm thoả mãn nó. Nó chỉ có thể được thoả mãn bằng một đối tượng vô giới hạn: Thiên Chúa.
Trở lại với những nhu cầu của con người, chúng ta có thể khẳng định một điều: đó là việc thoả mãn mọi nhu cầu, không bao giờ hạ nhiệt nhưng luôn tạo nên một căng thẳng hướng về đối tượng mới. Cơn thèm càng được thỏa mãn, người ta càng muốn có nhiều hơn. Trái lại, nếu bạn hãm dẹp khao khát của bạn, nó sẽ bị suy yếu. Ví dụ, kẻ hút thuốc lá thường xuyên, sẽ cảm thấy nhu cầu tăng dần và trở thành một đòi hỏi không thể thiếu của cơ thể. Đó là cơn nghiện và dấu hiệu để nhận biết chúng là nhu cầu ngày càng tăng về lượng và chu kỳ giữa các cơn thèm ngắn hơn; hơn nữa, những thèm muốn từ đơn giản tăng dần thành những thèm muốn cao hơn và phức tạp hơn.
Một bác sĩ khoa dinh dưỡng khẳng định rằng, cơ thể luôn có một phản ứng sinh lý đối với chất nào đó. Với người thường xuyên dùng chất đó, cơn thèm chúng tăng lên. Và ông dám chắc rằng khi một người tuân thủ nghiêm nhặt một chế độ kiêng cữ, dần dần cơ thể họ sẽ quen với sự thiếu hụt và không được thỏa mãn, từ từ cắt được cơn thèm.
Chúng ta đang sống trong thời đại tiêu thụ, nhờ cuộc cách mạng công nghiệp và những thành tựu khoa học kỹ thuật, đại đa số quần chúng có thể tiếp cận và sở hữu các sản phẩm tiêu dùng cao cấp. Từ đó chúng phát sinh những nhu cầu mới do sự khơi gợi khéo léo của ngành quảng cáo. Thật vậy, người ta mua sắm nhiều thêm, không vì nhu cầu sử dụng trong thực tế, nhưng vì người kinh doanh đã khơi đúng huyệt “thèm” của người tiêu dùng. Điều này chỉ nới rộng thêm khoảng cách vô cùng giữa chân trời khát khao và cảm giác thoả mãn mà các sản phẩm có thể mang lại cho chúng ta. Bởi vì hạnh phúc ban đầu, khi trở thành cảm giác quen thuộc, sinh ra sự nhàm chán.
Người ta dễ dàng nhận thấy điều này nơi những đứa trẻ mơ ước một món đồ chơi. Bọn trẻ sẽ nhanh chóng bỏ rơi ngay sau khi vui sướng được sở hữu nó và đã khám phá ra những điều thú vị. Tương tự như người sưu tầm luôn tìm kiếm những đồng tiền mình chưa có; hay những kẻ đa tình, không bao giờ thoả mãn với những cuộc tình mình đang có nhưng luôn muốn chinh phục và tin rằng cơn thèm khát yêu thương chỉ có thể lấp đầy bằng việc chiếm hữu càng nhiều càng tốt những cuộc tình chóng qua.
Người ta có thể tự bào chữa rằng tầm quan trọng của khoái lạc là làm cho cuộc sống nhân sinh được hoàn hảo; sự tiết chế làm giảm chất lượng sống. Vì như thế là giam hãm con người trong một giới hạn và cản bước con người đạt đến tận cùng của tự nhiên.
Mọi người cần phải hiểu rằng con người luôn là tạo vật hữu hạn. Họ cần ý thức rằng có những điều phải làm, và những điều không được làm. Mặt khác, không thể tìm đến khoái lạc vô cùng vì như thế sẽ nảy sinh: lạm dụng, mệt mỏi, chán chường, đau đớn, bệnh hoạn và suy thoái (rượu, ma tuý…). Nuông chiều những khao khát của bản thân có thể dẫn đến những khao khát mạnh mẽ hơn thay vì sự bình an và thoả mãn, khi người không nuông chiều theo đòi hỏi của cơn thèm là con đường chắc chắn nhất để làm yếu đi những thèm muốn.
Như vậy, cần phải hạn chế cơn thèm vì điều đó không phải là một thất bại của cuộc sống viên mãn, nhưng như là một dấu hiệu tích cực của giới hạn con người. Nào ai muốn có hạnh phúc mà không phải trải qua những khắc khoải vì nỗ lực chống lại các cơn thèm khát?
Điều đó cho thấy cần phải nỗ lực để giải toả những đau khổ khỏi cuộc sống thường ngày. Nên tự chủ hay chế ngự đam mê không phải là duy ý chí, cũng không đồng hoá điều đó với hạnh phúc. Ý nghĩa của đời sống không phải chỉ có khoái lạc, nhưng niềm vui sâu xa cho nỗ lực chúng ta chính là sự thắng vượt chính mình. Và mục đích tối hậu của những cố gắng đó là xây dựng những điều tốt đẹp cho thân thể và đời sống thiêng liêng.

Kết luận

Tất cả các tôn giáo trên thế giới đều khuyến khích con người kiêng khem khỏi những thú vui trần tục để tu sửa bản thân, như phương tiện cho sự cứu vớt linh hồn. Người đan sĩ làm quen từ từ với việc chay tịnh, giảm bớt dần dần những nhu cầu của bản thân bằng việc hãm dẹp các thèm khát, dưới sự suy xét của lý trí. Theo thời gian, bằng việc lặp đi lặp lại những hành vi đúng mực, ban đầu chỉ là những chuyện nhỏ không hề khó khăn tí nào, tiếp đến thói quen này điều khiển và chế ngự những điều lớn hơn và cuối cùng họ dễ dàng thắng vượt tất cả những gì liên quan đến khoái cảm xúc giác. Một khi đã quen với thói quen này, cơn thèm của họ đã được chế ngự.
Những kìm hãm cơn thèm giúp ta sống một cách kiên nhẫn mà không tự mãn làm chủ, cũng không tự ti làm nô lệ cho ước muốn, cũng không tập trung cả cuộc đời vào những chiến đấu triền miên chống lại những cơn thèm không thể chịu đựng. Đó là niềm vui thanh thản, giúp con người sống thanh thoát và tự do, không còn cảm thấy bị gò bó hay khó chịu vì những thiếu thốn tự nhiên của mình.

 

 

 

 

 

NỖI NIỀM TRĂN TRỞ

  Martinô Bùi Hảo, Phước Hải

Nhận được thư em, tôi cảm ơn Chúa đã cho em làm lại cuộc đời bằng một nghề lương thiện và có được một cuộc sống gia đình yên ổn, hạnh phúc. May mà em mới về quê được một tháng, các chú Công an ở đây họ đã thăm viếng và phá trọn ổ …
Cứ mỗi lần tôi trở về Đan viện, hình ảnh của em cứ lần lượt về lại tâm trí tôi …. Em là một trong số những cô gái làm nghề “bán thân” mà tôi quen biết. Em kể cho tôi nghe về gia đình em như sau: Em là một giáo viên dạy cấp I ở Miền Tây nam bộ, có chồng và có một đứa con nhỏ. Thời gian này em đang được nghỉ phép để nuôi con. Em thấy người bạn cùng xóm, đi làm xa mỗi lần về thăm gia đình mang về rất nhiều tiền. Em hỏi bạn làm gì ? Bạn nói – Bạn bán hàng tạp hóa ở thành phố Hồ chí Minh, muốn đi không thì bạn cho theo. Thế là em theo đi và nghĩ là làm nghề bán hàng. Em cũng muốn có một số vốn để mua một chiếc honđa cho chồng em chạy xe ôm để có thêm thu nhập nuôi sống gia đình, vì lương giáo viên của em không đủ sống. Khi em theo bạn lên “Bãi Dâu Vũng tàu” mới vỡ lẽ nhưng vì muốn có tiền nên đành nhắm mắt đưa chân .
Một hôm tôi hỏi em:
– Em không sợ bị bệnh sao? Em trả lời làm tôi sửng sốt.
– Nếu con có chết vì siđa con cũng không ân hận, con hy sinh tương lai của mình cho gia đình con thoát khỏi cảnh nghèo, các em có tiền đi học. Vậy tôi tự hỏi hy sinh là gì? Phải chăng hy sinh là chết cho chính mình để cho người khác sống?
Có phải cách chọn lựa của cô gái này là đúng không? hay còn nhiều phương cách khác. Tôi thấy đúng là tình yêu gánh vác một gánh nặng mà không cảm thấy đó là một gánh nặng.
Câu chuyện đó làm tôi ray rứt, xót xa, thương cho cảnh nghèo đã làm mất tương lai bao bạn trẻ. Làm cho bao tâm hồn trong trắng bị hoen ố và rơi vào con đường trụy lạc, nhưng tôi lại thầm phục em có một quả tim quá quảng đại dám sống và dám chết cho người khác là cha mẹ và gia đình, dẫu chuốc vào mình bao sự thiệt thòi, có thể mất đi chính mạng sống của mình.
Tôi vào nhà nguyện mà tâm trí tôi cứ đong đưa chuyện của em, tôi bèn kể chuyện đó cho Chúa và tự hỏi tôi phải làm gì ? Có nhiều lúc tôi bị cám dỗ muốn chuyển ra họat động để có việc làm cụ thể hơn như giúp các chị em phụ nữ lầm lạc có nghề nghiệp tốt. Giúp trẻ đường phố, giúp người neo đơn…và rồi tôi nghe Chúa nói với tôi. Con hãy sống ở bậc mà Chúa kêu gọi con như sắc lệnh “Đức ái hòan hảo” số 7: “Trong những Hội Dòng hoàn toàn chiêm niệm, các tu sĩ chỉ nhất tâm phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch và lặng lẽ, trong việc chuyên lo cầu nguyện và hân hoan hãm mình, cho dù nhu cầu họat động tông đồ có khẩn thiết đi nữa, thì những Hội Dòng ấy vẫn phải luôn giữ địa vị cao quí trong nhiệm thể Chúa Kitô, trong đó “mỗi chi thể đều có một tác động khác nhau”(Rm12,14).Thực vậy họ dâng lên Thiên Chúa hy lễ chúc tụng tuyệt hảo, làm vẻ vang dân Thiên Chúa bằng những hoa trái thánh thiện dồi dào, lấy gương lành lôi cuốn và làm cho dân ấy thêm lớn mạnh bằng một việc tông đồ âm thầm mà phong phú …” Khi nhận rõ ý Chúa, tôi cố gắng hy sinh và tuân thủ luật dòng để cầu nguyện nhiều cho Giáo Hôi và xã hội và những Hội Dòng hoạt động tông đồ giúp những con người bất hạnh có một cuộc sống xứng nhân phẩm của họ hơn. Tôi biết “có nhiều dòng tu tích cực hoạt động xã hội từ thiện với những việc làm nhân ái cao cả như nuôi dưỡng người bị nhiễm HIV –AIDS, chăm sóc cho người bị bệnh phong, nuôi dưỡng người già cô đơn, chăm lo trẻ khuyết tật, nhà mở cho các cháu lỡ lầm không nơi nương tựa. Còn tham gia giúp đỡ nhiều trường hợp khó khăn, đỡ đầu học bổng cho các em học sinh nghèo, chăm lo cho các cháu suy sinh dưỡng, tham gia hiến máu nhân đạo, cứu trợ đồng bào thiên tai, tổ chức khám bệnh phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân nghèo …Tôi thấy mình nhỏ bé và bất lực trước bao nỗi trăn trở, làm sao để cho thế giới bớt đi những con người bất hạnh và thóat khỏi cảnh nghèo về vật chất lẫn tinh thần.
Tôi tự nhủ với ơn Chúa tôi sẽ cố gắng sống từ bỏ, hy hiến để cho anh em tôi được sống. Trong môi trường nào cũng thế có nhiều người chỉ biết sống cho mình, ích kỷ, thụ hưởng, lo cho cái tôi của mình bành trướng, trong khi đó có biết bao anh chị em nghèo bên cạnh tôi. Họ đang thiếu tình thương học vấn, an ủi, khích lệ và sự quan tâm. Nhìn lại mình tôi tự hỏi tôi đã đang và sẽ làm gì cho người khác? Trong khi tôi vốn mang danh là đan sĩ…Chúa đòi hỏi tôi phải là chứng nhân Tin Mừng cho Đức Kitô, đòi hỏi lời nói phải đi đôi với việc làm. Nhưng trước hết Chúa muốn nơi tôi có một “Trái tim yêu” trái tim của Đức Kitô, tấm lòng yêu thương nhân hậu, cảm thông, lắng nghe giúp đỡ và chia sẻ trong điều kiện có thể, nơi môi trường tôi đang sống như Cha Anthony có nói: Khi trái tim bạn hưởng ứng một cách hoàn toàn tự nhiên những niềm vui, nỗi buồn của người khác, đó là lúc bạn đã đánh mất cái tôi của mình và cảm nhận được “tính nhất thể với nhân loại, cuối cùng tình yêu đã đến.”

 

 

 

 

 

KIÊN VỮNG ĐẾN CÙNG

 Thiên Triệu, Vĩnh Phước

Đời người là một cuộc hành trình dài. Trong cuộc hành trình đó, mỗi người tùy theo mục đích mình chọn và phải kiên trì vượt qua những nẻo đường để đạt tới mục đích đó. Đường là để đi, không phải để nghỉ ngơi, và dĩ nhiên là con đường thì có muôn vạn nẻo, có những đoạn bằng phẳng thênh thang dễ đi, lại có những chặng dốc dác, sỏi đá gồ ghề làm cho ta dễ chùn bước bỏ cuộc. Đó là những thử thách cám dỗ trong cuộc sống thường ngày đòi ta phải kiên trì vượt qua để đến mục đích.
Các cám dỗ, thử thách này dù bất cứ dưới hình thức nào và đến từ đâu đều là những nghịch cảnh mà chính Chúa Giêsu đã gặp và đã kiên vững vượt thắng. Qua đó, Chúa mời gọi chúng ta đối diện chấp nhận, và kiên nhẫn tìm cách khắc phục. Ngài an ủi, tin tưởng và khích lệ chúng ta kiên vững bước theo Ngài trên đường khổ giá: “Anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy giữa lúc Thầy gặp thử thách gian nan”( Lc 22, 28) .
Chúa Giêsu đã hứa: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu thoát”. Như vậy ơn cứu độ của Chúa chỉ dành cho những ai kiên vững đến cùng, chấp nhận những nghịch cảnh như là thập giá mà chúng ta phải vác hằng ngày cho đến hơi thở cuối cùng để được thuộc trọn về Chúa và được ơn cứu độ.

I. THỬ THÁCH, CÁM DỖ VÀ ẤP YÊU THÁNH GIÁ:

1. Thử thách và cám dỗ:

Trong cuộc sống, dù muốn hay không thì những cám dỗ, khó khăn thử thách vẫn luôn đeo đẳng bên ta, đó là chuyện bình thường của kiếp người. Đặc biệt nơi những người lành thánh, những người cố gắng theo đuổi đường lối của Chúa và nỗ lực kiên trung với Thiên Chúa đến cùng. (x. G 1,21 )
Đường lối Thiên Chúa thật huyền nhiệm, Ngài biết rõ chúng ta là gì, không cần phải thử mới biết, nhưng Ngài muốn đưa mỗi người chúng ta vào nẻo đường yêu thương trọn vẹn của Người. Đức Hồng y Tổng giám Mục Milan, Carlo Maria Martini mời gọi chúng ta suy tư các yếu tố khác nhau về lời tuyên bố của Chúa Giêsu trong Tin Mừng: “ Các thử thách”, “Kiên nhẫn trong thử thách”, “ Trung tín với Thầy”. Các từ này xuất phát từ nguyên ngữ Hy Lạp “peirasmos” và thường xuyên xuất hiện trong Kinh Thánh. Ý nghĩa của nó là “nhằm phát hiện một sự thật”, “một cố gắng”; một nỗ lực để xác định khả năng của một người trung tín và mạnh mẽ như thế nào như tục ngữ Việt Nam có câu: “Lửa thử vàng , gian nan thử đức”.
Sách Gióp diễn tả tư tưởng này một cách thi vị khi nói: “ Đời sống của con người trên mặt đất là một cơn cám dỗ”. Vì thế, “Cuộc sống con người trên mặt đất là một cuộc chiến đấu” (G 7,1). Câu này được sách “Gương Chúa Giêsu” cuốn I chương 13: “Chống lại cám dỗ” trích dẫn: “ Bao lâu sống trên trần gian này, chúng ta không thể thoát khỏi các cơn cám dỗ và thử thách”.( HYTGM Carlo Maria Martini – Kiên nhẫn trong thử thách. Trang 14 ).
Đời sống đan sĩ tuy được bao bọc chở che bởi tường lũy nội vi đan viện, bởi một Luật dòng và Bề trên. Nhưng trong thời đại mạng lưới thông tin toàn cầu hóa mở ra trước mắt đan sĩ nhiều cám dỗ. Phần lớn các cám dỗ đều được ẩn dưới những bề mặt xem ra là tốt, có giá trị và hợp thời. Trong đời sống đan tu, làm sao chúng ta nhận ra đâu là những giá trị cần thích nghi để thăng tiến, đâu là lời mời mọc ngon ngọt của cám dỗ? Dựa trên nền tảng nào để đan sĩ chúng ta vượt thắng những cám dỗ đó và kiên vững theo Chúa đến cùng?
Nền tảng căn bản để biện phân vẫn là Kinh thánh, Giáo Huấn của Giáo Hội, Tu luật, Hiến pháp và Thói lệ. Luật dòng có thể thích nghi theo thời đại nhưng phải trung thành với trí ý Đấng Sáng Lập. Còn đòi hỏi của Tin Mừng là nền tảng căn bản, là tình yêu Chúa được mạc khải thì không thay đổi.
Đan sĩ hôm nay cũng là những con người, có ơn thánh Chúa hướng dẫn và sống ơn gọi của mình với sự tự do trọn vẹn. Nhưng đan sĩ cũng vẫn là con người nên luôn mang đủ: hỉ, nộ, ai, ái, ố, cụ, dục, mà lại không thuộc về thế gian thì quả là một thách đố, một cám dỗ. Những cám dỗ này mặc dưới nhiều hình thức. Một cách nào đó chất đời đang len lỏi vào đan viện làm cho đan sĩ dính bén, ham muốn và đòi hỏi những thứ không cần thiết cho đời tu. Mỗi ngày một chút, ta đánh mất tình yêu thuở ban đầu, thay thế tình yêu Chúa bằng biết bao thứ thần tượng khác mà chúng ta đâu có hay. Những cám dỗ đó như những vũng lầy êm ái, ru ta ngủ yên trong những hạnh phúc giả tạo, bỏ quên đường về chân thiện mỹ đích thực là chính Chúa.
Nhất là khi gặp khủng hoảng trong đời sống cộng đoàn, những cám dỗ xem ra càng hợp lý hơn. Dần dần ta lấy lại những gì ta đã bỏ khi bước chân vào cổng đan viện, khi ta tuyên khấn từ bỏ hoàn toàn để thuộc trọn về Chúa. Cám dỗ nhẹ nhàng xen vào đời đan sĩ nhiều khi xem ra tốt lành, thiện ý:
– Cám dỗ về tài năng, ta có thể đem ra phục vụ đời nhiều hơn.
– Cám dỗ lo lắng cho sức khỏe ngày mai, nên muốn tháo lui chạy trốn, bỏ cuộc.
– Cám dỗ ở nơi kia chắc anh em, chị em tốt hơn ở nơi này tôi đang sống.
– Cám dỗ làm công kia việc nọ thì có ích hơn cho Giáo Hội.
– Cám dỗ muốn có bằng cấp này, học vị nọ để có thể phục vụ tốt hơn.
– Cám dỗ muốn biết mọi sự, thông hiểu mọi điều.
– Cám dỗ muốn có vật này, vật kia, công kia việc nọ.
Muôn vàn cám dỗ đang mở ra trước mắt chúng ta dưới muôn hình muôn vẻ, trái nào cũng ngon cũng ngọt.
– Đan sĩ theo Chúa Kitô, chọn cuộc sống ẩn khuất đơn nghèo, thì tiền của, giàu sang lại là cám dỗ mời mọc.
– Khi đan sĩ chọn tình Chúa thì tình đời với bao sắc màu êm ái như nhung vẫy gọi.
– Các đan sĩ ở với Chúa trong nếp sống bình dân thì bị người đời xem như dại khờ, kém cỏi. Trong khi đó bên ngoài nếp sống tiện nghi, vật chất dư thừa lại là lời mời gọi cám dỗ ta buông mình tìm hưởng thụ.
Đứng trước bao cám dỗ mời mọc, đan sĩ phải chọn lựa và từ bỏ những gì không thuộc về đời tu. Qua đó, từng ngày đan sĩ được thanh luyện tâm hồn và trí ý để chỉ tìm và làm mọi sự theo thánh ý Chúa, sống tình yêu Chúa và thuộc trọn về Chúa mà thôi.

2/. Ấp yêu Thánh Giá:

Chúa Giêsu đã vào hoang địa 40 ngày để chịu Sa tan cám dỗ. Sa tan dùng đủ mọi chiêu bài ra sức cám dỗ Chúa Giêsu tránh xa thập giá, và Chúa Giêsu đã thẳng thắn trả lời Satan: “hãy cút đi”. Không phải chỉ Satan trực tiếp cám dỗ Chúa Giêsu mà thôi, mà nó còn gián tiếp qua Phêrô, người môn đệ nhiệt thành, được Thầy tín nhiệm, yêu thương, đứng ra ngăn cản Thầy đừng lên Giêrusalem. Ông cố gắng thuyết phục Thầy tránh con đường thập giá. Nhưng Chúa Giêsu đã nhìn ra ý đồ của Satan nên đã lên tiếng quở trách ông: “Satan, lui lại đằng sau Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa” (Mc 8,33).
Chúng ta không lạ gì khi thấy Satan luôn tìm cách ngăn cản Chúa Giêsu tránh xa thập giá, vì thập giá có Chúa Giêsu đã trở thành Thánh Giá, là khí cụ đánh tan mưu độc của nó, làm nó thất bại. Satan luôn dụ dỗ chúng ta tránh xa Thánh Giá mỗi khi chúng ta hăm hở bước vào đường Thánh Giá, vì Thánh Giá đưa chúng ta đến nguồn ơn cứu độ, đến chiến thắng vinh quang.
Thánh Giá là lớp học về sự thánh thiện, là môi trường của nhân đức anh hùng. Chúa Giêsu dạy: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” ( Mt 10,38 ). Như vậy, là môn đệ, đan sĩ không có con đường nào khác ngoài con đường Thầy mình đã đi. Đó chính là con đường Thánh Giá. Thomas Kempis xác tín: “Thập giá luôn luôn có đó. Thập giá chờ đợi bạn ở khắp nơi. Dù bạn đi đâu, bạn cũng không thể tránh được thập giá, vì khi bạn đi bất cứ nơi đâu, bạn cũng mang theo chính mình và bạn luôn thấy chính mình. Hãy nhìn bất cứ hướng nào: bên trên, bên dưới, bên ngoài, bên trong, bạn sẽ thấy thập giá trong mọi sự. Và ở đâu bạn cũng phải kiên nhẫn, kiên nhẫn nếu bạn muốn có bình an bên trong và đáng được triều thiên vĩnh cửu”. Vì thế, thánh Gioan Thánh giá nói: “Tôi trông thấy một dòng sông mà mọi linh hồn phải vượt qua để tới Nước Thiên Chúa và tên của dòng sông đó là đau khổ”. (TGM Thimothy M. Dolan – Bỏ Thầy, chúng con biết theo ai? Trang 70).
Trong bài huấn từ đầu tiên của ĐTC Phanxicô I, Ngài đã khẳng định: “Khi chúng ta tuyên xưng Đức Kitô mà không có thánh giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa!” Cùng với Chúa Kitô, đan sĩ cần nhận diện và đón nhận thập giá trong từng hoàn cảnh cuộc sống của chính mình hay bất cứ ai trong cuộc đời này, không phải chấp nhận một lần thay cho tất cả mà vẫn phải tiếp tục chấp nhận nó từ ngày này qua ngày khác, đó là nẻo đường kiên vững đến cùng.

II/. NHỮNG NẺO ĐƯỜNG KIÊN VỮNG:

Khi đan sĩ chúng ta gặp thử thách, phải đương đầu với những vấn đề nan giải hay gặp những việc quan trọng, chúng ta cần cố gắng bình tâm cầu nguyện, suy cho kỹ, nghĩ cho sâu. Lúc đó, chúng ta sẽ khám phá ra những điều kỳ diệu và sẽ được lôi cuốn bởi lòng mến, lòng nhiệt thành, và sức mạnh để có thể nhanh chóng đón nhận và dễ dàng vượt qua những khó khăn này.
Làm thế nào để kiên vững đến cùng trước những cám dỗ, thử thách, để biết cách sống theo đức tin cả trong những hoàn cảnh éo le và đau thương tột cùng? Còn cách nào hơn là đan sĩ đắm mình trong thinh lặng, nguyện cầu trước Thánh Thể hay dưới chân Thánh giá trong ánh sáng của Tin Mừng. Nhờ đó, đan sĩ tìm lại được dung mạo yêu thương của Thiên Chúa, Đấng đã tự hạ mình thẳm sâu và yêu thương đến độ hiến mình trên thập giá (x. Ga 13,1). Chiêm ngắm tình yêu cứu độ của Người, đan sĩ sẽ nhận được sức mạnh để cùng Người thưa lên với Chúa Cha trong sự tin tưởng và phó thác hoàn toàn: “Lạy Cha, Con xin phó thác linh hồn Con trong tay Cha”. Đây là thái độ tùng phục ý Cha và đáp trả tình yêu của Ngài đến cùng. Sự đáp trả này sẽ giúp đan sĩ tước đi tất cả mọi khí giới của ma lực cám dỗ tấn công. Do đó, thánh Phaolô đã khuyến khích chúng ta: “Hãy vui mừng vì có niềm hi vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện” (Rm 12,12) và “trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,27).
Với ý chí kiên cường bất khuất, Thánh Phêrô cũng kêu gọi: “Những ai chịu đau khổ theo ý Thiên Chúa, hãy phó mạng sống mình cho Đấng Tạo Hóa trung thành và cứ làm điều thiện” (1 Pr 4,19) và “Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé, anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (1 Pr 5,7-9).
Niềm xác tín của Thánh Giacôbê về niềm vui khi gặp thử thách, cám dỗ khích lệ chúng ta: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều vì như anh em biết: Đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo không có chi đáng trách” (Gc 1, 3-4). “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội. Vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa.Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện sẽ trở thành lời khen ngợi và đem lại vinh quang, danh dự” (1 Pr 1,7).
Thiên Chúa muốn chúng ta yêu thương Người một cách tinh tuyền, và hoàn toàn thuộc về Người. Người mời gọi chúng ta tham dự vào tình yêu viên mãn của Người: “Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Kitô. Phần anh em là những kẻ phải chịu đau khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1 Pr 5 , 10 ).

III. KIÊN VỮNG TRONG ĐỨC TIN VÀ TÌNH YÊU:

Trong Cựu Ước đã nói đến tổ phụ Giuse và trong Tân Ước cũng nói đến Thánh Giuse. Hai con người cùng một nẻo đường thánh giá thật kỳ diệu: Vâng theo thánh ý Chúa nên các ngài chấp nhận mọi hoàn cảnh. Dù hoàn cảnh thuận lợi hay không thuận lợi, các ngài vẫn bình an. Dù vất vả hay nhàn hạ, các ngài luôn bình tĩnh. Dù ở địa vị lao động thợ thuyền hay quyền cao chức trọng, các ngài vẫn bình dân. Dù gặp hoạn nạn hay may mắn các ngài vẫn bình tâm.
Kiên trì vâng theo thánh ý Chúa nên các ngài đón nhận mọi người. Tổ phụ Giuse đón nhận anh em dù anh em ghen ghét ngài. Thánh cả Giuse đón nhận Đức Mẹ dù không hiểu. Tổ phụ Giuse đón nhận cả quan lại lẫn tôi tớ, cả thường dân lẫn vua Chúa, không trừ một ai. Đón nhận tất cả để tha thứ tất cả, để hoán cải tất cả và để yêu thương tất cả.
Vâng phục thánh ý Chúa trong nghịch cảnh nên các ngài đã trở nên dụng cụ hữu hiệu trong tay Chúa. Tổ phụ Giuse trở thành người cứu giúp dân chúng khỏi nạn đói kém, không chỉ dân Ai Cập mà còn cả các dân nước chung quanh. Thánh Giuse đóng góp tích cực vào mầu nhiệm cứu chuộc loài người khi trở thành Bạn của Đức Trinh Nữ Maria, trở thành Cha nuôi của Chúa Cứu Thế, góp phần quan trọng làm cho công cuộc cứu độ của Chúa được thực hiện theo ý Thiên Chúa. (x.TGM Giuse Ngô Quang Kiệt – Những nẻo đường kỳ diệu ).
Đức tin được thanh tẩy nơi các nhân vật lớn của Cựu ước như Abraham, Giacop, Gióp, Mẹ Maria, phụ nữ Canaan đều qui tụ nơi Đức Kitô, Đấng tín thác tuyệt đối vào Chúa Cha ngay cả khi xem ra như bị Chúa Cha bỏ rơi trong các cơn cám dỗ tăm tối và cô đơn. Từ đó mở ra cho chúng ta một cái nhìn về ơn cứu độ, trong đó chúng ta được mời gọi gặp gỡ mầu nhiệm của Thiên Chúa trong cuộc chiến đấu liên lỉ giữa đời thường. Như vậy, lúc chúng ta đứng trước những gian nan, đau khổ, không còn lối thoát là lúc “thử thách tình yêu bao trùm, thử thách niềm tin và hi vọng” (Jorathe – Nắng tím, đường về Tr. 240 ).
Khi yêu, người ta mới có khả năng tin tưởng tuyệt đối và hi vọng, phó thác trọn vẹn. Đọc lại những trang Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy cuộc đời Mẹ Maria đan xen rất nhiều thử thách và khổ đau. Nhưng Mẹ đã yêu Chúa bằng một tình yêu trọn vẹn. Mẹ đã kiên vững đến cùng từ Bêlem đến dưới chân thập giá, để đồng công cứu chuộc loài người. Và Mẹ cùng Giáo Hội bước đi trong niềm tin yêu tín thác hoàn hảo.
Thánh Gioan thiết tha yêu Chúa và gắn bó không rời trên mọi nẻo đường Người đi. Cả trên đỉnh đồi, ngài thấy Thầy mình chỉ còn tấm thân bầm dập đẫm máu treo trên thập giá. Nhưng chính tình yêu đơn sơ tinh tuyền của thánh Gioan đã giúp ngài nhận ra Thầy đã sống lại qua sự kiện mồ trống, để gắn bó trọn cuộc đời với Đấng Phục Sinh. Tình yêu giúp con người có can đảm và nghị lực để đi tới, vượt qua bao cám dỗ đau thương, nguy hiểm.
Cũng vậy, khi không coi Chúa là trọng tâm, là tất cả cho đời mình, đan sĩ cũng sẽ dễ dàng buông xuôi gục ngã trước những cám dỗ và thử thách. Giuđa, người môn đệ của Chúa đã trượt dài từ cám dỗ bán Thầy đến cám dỗ cho rằng tất cả đều quá muộn, không còn hi vọng, không còn dám tin vào lòng xót thương vô biên của Thầy. Ông đã đầu hàng trước cám dỗ để ra đi chấm dứt đời mình trong tuyệt vọng (x.Mt 27,3-10). Nếu ông đã nộp Thầy, thì Phêrô cũng đâu hơn gì khi ông chối Thầy. Nhưng khác một điều là Phêrô đã nhớ lại lời Thầy khi gà gáy, ngước nhìn Thầy và để ánh mắt Thầy đi vào cõi lòng thống hối, với giọt lệ ăn năn. Điều đó giúp ông chạm tới tình yêu và lòng thương xót của Thầy và vượt qua cám dỗ tuyệt vọng (x. Mt 26,69-75), và rồi con người yếu đuối này đã được Chúa tin tưởng giao phó trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên Người, trở thành tông đồ trưởng và là đá nền xây dựng Giáo Hội.
Sống nơi trần gian, dù là đan sĩ chúng ta cũng không tránh khỏi những thử thách, cám dỗ và bị dằn vặt trước những chọn lựa thắt lòng. Nhưng khi kiên vững vượt qua tất cả, chúng ta sẽ chạm đến tình yêu Thiên Chúa, khám phá ra lòng thương xót vô bờ của Người. Đan sĩ hướng đời mình phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân trong ơn gọi chiêm niệm. Họ cần nắm bắt được giá trị cao quí của ơn gọi chiêm niệm trong lòng Giáo Hội. Đan sĩ sống đơn sơ, hiền lành nhưng lại cần tinh tế biện phân, và nhờ ơn Chúa họ cương quyết đẩy lui những cám dỗ đến trong đời bằng mọi cách. Một đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa, giúp đan sĩ đọc ra ý Chúa trong từng biến cố vui buồn của cuộc đời với cái nhìn chân thực, lạc quan, trong sáng. Có như vậy, tất cả những thử thách và cám dỗ sẽ mở ra cho đan sĩ niềm tin yêu và hi vọng được chung phần vinh quang hạnh phúc (x. 2 Tm 8, 11-12). Và đời sống của đan sĩ sẽ trở nên chứng tá của niềm tin, tình yêu và hi vọng của Thiên Chúa đối với tha nhân.

KẾT:

Thử thách, cám dỗ luôn đeo đẳng kiếp người chúng ta, dù ở đâu và thời nào cũng có. Nếu Đan sĩ chúng ta muốn kiên vững đến cùng trong lộ trình tình thương của Thiên Chúa, lộ trình cứu độ, bình an và hạnh phúc vĩnh hằng, thì cần phải có sức mạnh đến từ chính Chúa. Nhờ Người chúng ta có thể kiên vững “tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,7). Là đan sĩ, chúng ta càng cần gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu , Đấng đã yêu chúng ta đến cùng và Người cũng muốn chúng ta thuộc trọn và nên đồng hình đồng dạng với Người, để đáp lại tình thương của Người bằng cả đời sống trung kiên đến hơi thở cuối cùng. “ Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người”(x.Gc1,2).

 

 

 

 

 

 

BA CƠN CÁM DỖ CỦA CHÚA

 TRONG HOANG ĐỊA”

(Mt 4,1-13)

Bảo Lộc

Khi bàn về ba cơn cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu trong hoang địa, người ta thường cho rằng, Chúa Giêsu là “Tân Adam”. Nên trước khi thi hành sứ mạng do Chúa Cha giao phó Ngài cũng phải chịu thử thách như “Cựu Adam” trong vườn địa đàng. Cuộc thử thách mà Adam và Eva phải trải qua trước khi thực hiện sứ mạng do Thiên Chúa uỷ thác, tức là thống trị mặt đất, làm bá chủ mọi loài Chúa đã dựng nên như: cá biển chim trời, các thú vật…cùng gầy dựng một nhân loại đông đúc lan tràn khắp mặt đất.
Phúc Âm cho biết, sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài đã được Chúa Thánh Thần dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Trong dịp này đã hẳn Xatan biết Chúa Giêsu là Đấng có sứ mạng cứu độ nhân loại và như vậy, Ngài là địch thủ của nó. Vì thế, Xatan cố tìm cơ hội thuận tiện để biết rõ về Ngài… Khi Chúa Giêsu đã ăn chay suốt bốn mươi đêm ngày, Xatan biết Ngài đang đói nên đến gần và nói: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi” (Mt 4,3). Nhưng Chúa Giêsu biết rằng, nếu làm theo lời Xatan đề nghị, thì Ngài sẽ phản bội sứ mạng Chúa Cha giao phó. Bởi lẽ Ngài đã lợi dụng quyền năng Thiên Chúa ban, không phải để phục vụ Thiên Chúa mà là để tìm kiếm lợi ích riêng của mình, nhất là để thoả mãn nhu cầu của thân xác. Vì thế, Chúa Giêsu dùng một câu Kinh Thánh để bác bỏ lời xúi dục của tên cám dỗ: “người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra”.
Thấy cơn cám dỗ đầu tiên đã thất bại, Xatan liền đổi chiến thuật. Nó dẫn Chúa Giêsu đến thành thánh và đặt Ngài trên nóc đền thờ rồi nói: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng, Thiên chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. Ở đây, Xatan đem mồi danh vọng ra “câu” Chúa Giêsu. Nếu Ngài vững tin vào ơn phù trợ của Thiên Chúa dành cho Ngài để từ trên nóc đền thờ gieo mình xuống đất như lời quỷ đề nghị, hẳn sẽ được mọi người nhiệt thành hoan hô, và sẽ phấn khởi tin theo Ngài. Như vậy, công cuộc cứu độ của Ngài sẽ thành công rực rỡ. Nhưng làm thế, Ngài sẽ đi trật con đường cứu độ mà Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ Isaia tiên báo về “Người Tôi trung của Thiên Chúa”. Theo lời tiên báo này, Người Tôi trung sẽ gặp nhiều chống đối, nhiều khó khăn trở ngại do người đời gây nên, nhưng là cốt để cầu thay và đền tội cho mọi người. Vậy, một lần nữa, Chúa Giêsu đã dùng một lời Kinh Thánh để bác bỏ cách khéo léo lời đề nghị của ma quỷ: “Có lời chép; ngươi đừng thử thách Thiên Chúa là Thiên Chúa của ngươii”
Khi thấy mồi danh vọng vô hiệu, Xatan liền vận dụng cái “bả” giàu sang để lường gạt… Nó lại đem Ngài lên một ngọn núi thật cao và chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thế gian và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy và bảo: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi”. Thấy lời cám dỗ quá kiêu căng, hỗn xược của Xatan, Chúa Giêsu liền thẳng tay xua đuổi: “Xatan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi”…
Thế là cuộc cám dỗ của Xatan thất bại hoàn toàn, thánh Mattheu kết thúc bài tường thuật bằng một câu ngắn gọn: “Thế rồi, quỷ bỏ Ngài mà đi và có các sứ thần đến hầu hạ Ngài”.
Qua ba cơn cám dỗ trên, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta rằng, ma quỷ luôn tìm cách phá hoại những công trình của Chúa, cách riêng công cuộc cứu độ do Ngài thực hiện. Vì thế, tất cả những ai cộng tác với Ngài trong công cuộc cứu độ ấy, như Giáo Hội nói chung và mỗi Kitô hữu nói riêng, phải luôn đề phòng cuộc phá hoại này. Chúa dạy chúng ta phải kiên cường trước những cạm bẫy của ma quỷ bằng cách dựa vào lời Kinh Thánh như Ngài đã làm.
Nói chung những bài viết về ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trong hoang địa, thường được xây dựng theo chiều hướng trên đây mà vẫn không có ai thắc mắc điều gì. Tuy nhiên, nếu ta đọc kỹ các bài ấy, nhất là những đối chiếu với bản văn Kinh Thánh, hẳn ta sẽ thấy có một thiếu sót khá quan trọng. Thật vậy, người ta đã bỏ qua không tìm hiểu thấu đáo một câu nói khá đặc biệt của Xatan, tức là câu: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa…” Tại sao Xatan nói câu ấy? Có thể vì nó chưa biết rõ con người của Chúa Giêsu. Đúng vậy, khi Chúa Thánh Thần dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa để chịu nó cám dỗ, nó chỉ biết đại khái Ngài là Đấng Cứu Độ trần gian, Đấng có sứ mạng giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của nó, tức Ngài là đối thủ của nó. Nó chỉ biết có thế, còn tầm cỡ cao hay thấp của Ngài thế nào, nó chưa nắm rõ. Do đó, nó cố tìm cách khám phá con người đích thực của Ngài, mới mong tìm được kế hoạch thích hợp để đối phó. Khi ma quỷ thấy Chúa Giêsu ăn chay suốt bốn mươi ngày, nó nghĩ Ngài phải là một nhân vật thuộc tầm cỡ ông Môsê hoặc ngôn sứ Êlia, nên có lẽ Ngài cũng thuộc hàng ngũ “Con Thiên Chúa” là một danh hiệu người ta thường tặng cho một hoàng đế, một ngôn sứ hoặc một Mêsia. Nhưng đó là “Con Thiên Chúa” theo nghĩa rộng, còn theo nghĩa hẹp thì “Con Thiên Chúa” , là Ngôi Hai Thiên Chúa, là chính “Con Một” của Chúa Cha. Vậy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa nào, rộng hay hẹp? Quả thật, khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, các tầng trời đã mở ra, và Chúa Cha phán rằng: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Mt 3, 17; Lc 3,22). Nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của một buổi làm phép rửa cho đám đông thì “ Con của Cha” hẳn có nghĩa rộng, tức là ngụ ý nói rằng Chúa Giêsu đã được Ngài công khai tấn phong làm Đấng Mêsia và bắt đầu thi hành sứ mệnh ấy giữa dân Chúa. Do đó, Xatan nghĩ rằng chỉ một cuộc thử thách mới có cơ hội giúp nó giải quyết nghi vấn này thôi.
Thế là khi biết Chúa Giêsu sẽ đói khi đã ăn chay suốt bốn mươi ngày, nên Xatan bèn đến gần và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi”. Hẳn chúng ta biết hoá đá thành bánh vốn là việc thuộc quyền của Thiên Chúa, nên Xatan hy vọng rằng qua câu phúc đáp cho đề nghị trên, nó sẽ biết rõ về con người của Chúa Giêsu. Nhưng chắc vì thấy rõ mưu mô của ma quỷ, Chúa Giêsu đã không trả lời trực tiếp mà chỉ dùng một câu Kinh Thánh để bác bỏ đề nghị của nó.
Quá tức tối vì cơn cám dỗ mà nó cho là tinh vi và xảo quyệt nhất đã thất bại, Xatan liền tìm kế khác. Nó đem Ngài đến thành thánh và đặt Ngài trên nóc đền thờ và nói: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá”.
Bởi đã rõ âm mưu của Xatan, nên Chúa Giêsu cũng không trả lời trực tiếp cho lời đề nghị của nó, mà chỉ mượn một câu Kinh Thánh để vừa từ khước vừa cho nó một bài học thích đáng: “Ngươi chớ có thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”… thế là cơn cám dỗ thứ hai của Xatan cũng hoàn toàn thất bại vì nó cũng không khám phá thêm được điều gì về con người của Chúa Giêsu. Tuy thế, nó vẫn bám sát Ngài chứ không chịu bỏ cuộc… nó lại đem Ngài lên một ngọn núi rất cao và chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước trên thế gian và vinh hoa phú quý của các nước ấy. Rồi không mở đầu bằng câu “Nếu ông là con Thiên Chúa” như hai lần trước, mà nó nói thẳng với Ngài: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi”… Rõ ràng Xatan đã thay đổi chiến thuật cám dỗ và sự thay đổi đó hẳn không phải không có dụng ý. Thật vậy, không những nó muốn thăm dò phản ứng của Chúa Giêsu trước cái “mồi” giàu sang mà còn muốn biết thái độ của Ngài đối với uy quyền của nó là thủ lãnh trần gian này. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ thâm ý của nó nên cũng như hai lần trước, Ngài không trả lời trực tiếp mà chỉ xua đuổi nó một cách quyết liệt: “Xatan kia, xéo đi”… Rồi dùng một câu Kinh Thánh để nhắc nhở bổn phận của nó đối với Thiên Chúa: “…Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi”…
Thế là các mưu mô thử thách của Xatan hoàn toàn thất bại và Thánh Mátthêu kết thúc đoạn tường thuật bằng một câu vắn tắt: “Thế rồi quỷ bỏ Ngài mà đi…” Nhưng thánh Luca còn thêm một chi tiết rất có ý nghĩa: “Quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13), tức là quỷ bỏ Chúa, tuy nhiên nó không bỏ cuộc. Nó sẽ tìm cơ hội để trở lại tấn công Ngài.
Theo Phúc Âm, sau cuộc cám dỗ đã nói trên, ta không thấy nói đến một cuộc cám dỗ nào khác nữa. Vậy thì “thời cơ” mà Xatan chờ đợi là thời cơ nào? Qua ba cơn cám dỗ đã kể trên, các lời đề nghị của Xatan đều không được Chúa Giêsu trả lời trực tiếp. Ngài chỉ bác bỏ bằng câu Kinh Thánh. Do đó, sau ba lần cám dỗ Xatan vẫn không sao hiểu biết được gì rõ ràng về con người của Chúa Giêsu. Vì thế, nó nghĩ, nếu có cám dỗ thêm nữa, hẳn Ngài cũng chỉ đối phó bằng cùng một cách thức như vậy, và những nỗ lực khám phá của nó sẽ trở nên vô hiệu.
Do kinh nghiệm nói trên, Xatan đã thay đổi chiến thuật. Nó không còn cám dỗ Chúa Giêsu cách công khai mà chỉ âm thầm hoạt động. Nó theo dõi toàn bộ cuộc sống của Chúa Giêsu từ ngôn ngữ đến hành động, cách riêng các phép lạ cùng những cuộc tranh luận với kẻ thù như: những người biệt phái, và các kinh sư…để khám phá về con người của Chúa, nhằm tìm kế hoạch hữu hiệu nhất để phá hoại công trình cứu độ của Ngài.
Vậy sau khi đã bám sát để theo dõi liên tục ngôn ngữ và hành động của Chúa Giêsu suốt ba năm liền, Xatan tin chắc mình đã biết rõ về con người của Chúa Giêsu và bắt tay vào việc dàn dựng bi kịch “Núi Sọ”. Với bi kịch này, Xatan quyết định dồn Chúa Giêsu vào một cái chết nhục nhã nhất, đau thương nhất và bất công nhất trong lịch sử nhân loại. Nó nghĩ rằng, trước cái chết cực kỳ rùng rợn ấy, Chúa Giêsu chỉ còn hai con đường để lựa chọn: hoặc Ngài có đủ can đảm chấp nhận cái chết thì Ngài quả là vị anh hùng vĩ đại nhất thế giới; hoặc nếu không đủ can đảm để chấp nhận cái chết đó, hẳn Ngài phải nài xin Thiên Chúa đoái thương ban ơn giải cứu. Nhưng dù theo con đường nào, Ngài cũng không thể hoàn thành sứ mạng Thiên Chúa đã giao phó. Và như vậy, nhân loại vĩnh viễn nằm dưới ách của ma quỉ. Vì thế, khi Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, Xatan tin chắc rằng Chúa Giêsu đã hoàn toàn thất bại và cuộc đại thắng thuộc về nó. Nhưng than ôi! Xatan đã lầm to! Chính nó mới là kẻ đại bại bởi đã phạm một tội nặng nề nhất là giết Đấng vừa là Con Thiên Chúa vừa là Tân thủ lãnh của nhân loại. Do đó, nó bị tước mất tất cả mọi quyền lợi, kể cả quyền thống trị nhân loại. Nó đã bị “sập bẫy” vô cùng đau thương nhục nhã!… Chúa Giêsu đâu phải chỉ là một người như nó tưởng. Ngài chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, Con một của Chúa Cha đã giáng trần để cứu vớt nhân loại khỏi ách ma quỷ.
Vậy sau khi vâng lệnh Chúa Cha, chấp nhận cái chết đau thương do Xatan gây ra, Chúa Giêsu đã sống lại vinh quang, toàn thể nhân loại nhờ Ngài mà thoát ách thống trị của ma quỷ và tất cả những ai tin vào Ngài đều được Ngài đưa về đoàn tụ trong Nước Thiên Chúa là nước của bình an và hạnh phúc mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho con cái Ngài thụ hưởng.

 

 

 

 

 

GIÊSU ƠI! CON YÊU NGÀI

Sr. Thiên Giang 

 

Thân mang tội lụy cuộc đời..
Dù mong manh lắm đầy với tháng ngày
Dù con lắm nhạt phai
Dù tình con đó, như Ai chối Thầy
Tình nào lòng đã mê say
Trái đời ngon ngọt đắng cay trăm bề
Dù bao lần đã vong thề
Con đây vẫn muốn dâng về tình Cha
Giêsu ơi!Con hát lời ca
Cha yêu con mãi sương sa tình trời

 

 

 

 

 

 

 

CẦN MỘT BÀN TAY

Đan viện Xitô Phước Hải

Tục ngữ có câu: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay”. Kinh nghiệm người xưa cho thấy tầm quan trọng của đôi mắt và đôi tay trong cuộc sống mưu sinh của con người. Đặc biệt hơn trong đời sống tương giao giữa con người với nhau, đôi bàn tay còn mang nhiều nghĩa: có những bàn tay làm nên những việc vĩ đại như: quản trị, cộng tác, tha thứ và yêu thương. Nhưng cũng có những đôi tay dẫn đến thất trung, phản bội, sa ngã và tội lỗi.
Bàn tay con người làm được rất nhiều việc, nhưng dường như nó vẫn giới hạn, vẫn nhỏ bé, khi con người đối diện những khó khăn, những biến cố. Đôi lúc con người thấy mình bất lực đến độ phải kêu lên: “lực bất tòng tâm”. Chính vì thế, cần có một bàn tay vững chắc hơn để nâng đỡ, bàn tay trao ban để hiệp thông, và đôi tay rộng mở để đón chờ. Bàn tay đó chính là Thiên Chúa.

1. BÀN TAY CỦA THIÊN CHÚA

Thời Cựu Ước, dân Israel đã đặt niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng đã giương cánh tay thần lực cứu thoát và dẫn dắt dân của Người.
Thời Tân Ước, các Kitô hữu vẫn tin vào Thiên Chúa, Đấng đầy quyền năng được mạc khải qua Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể. Ngài là Thiên Chúa cứu độ và đồng thời là Thiên Chúa tạo dựng.
Từ muôn thủa, Thiên Chúa đã tạo dựng con người và vũ trụ, Ngài tạo dựng các thụ tạo từ hư vô, nghĩa là từ không thành có. Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng, liền có ánh sáng” (St 1,3). Qua Kinh Thánh, chúng ta khám phá ra những hành động yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người qua các thế hệ, giúp con người nhận biết Thiên Chúa là Chủ Tể mọi loài và mọi vật trên trời dưới đất: “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33,6).
Thật vậy, Lịch sử Cứu Độ còn được gọi là Mầu Nhiệm Cứu Độ. Đó là bí mật của tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Một tình yêu hoàn toàn tự do. Vì yêu thương Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài (x. St 1, 27), nhờ đó con người được tham dự vào vinh quang của Thiên Chúa và được mời gọi hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài.
Thiên Chúa luôn trung thành, Ngài không bao giờ lãng quên công trình tay Ngài đã tạo dựng. Cho dù công trình ban đầu đã bị hư hỏng do tội nguyên tổ, Ngài đã tái tạo lại khi ban Con Một yêu dấu để cứu chuộc con người.
Ngay sau khi Nguyên Tổ phạm tội, Thiên Chúa đã mở cho con người một con đường sống qua lời hứa “có một người nữ đạp đầu con rắn” (St 3, 17). Thiên Chúa đã trung thành với lời hứa ấy qua việc chọn Abraham và biến ông thành cha của một dân tộc mới, dân của lời hứa. Để thực hiện chương trình đó, Thiên Chúa đã sai Mô-sê đến và đưa dân Do-thái ra khỏi Ai-cập và ký kết giao ước Si-nai. Với giao ước này, Thiên Chúa đã tự nguyện ở với con người và dẫn dắt họ. Thiên Chúa luôn trung tín với lời hứa của mình, nhưng con người lại bất trung. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn không từ bỏ; trái lại, khi “Đến thời viên mãi, Thiên Chúa đã sai con mình đến làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4).
Lịch sử cứu độ là lịch sử của tình thương và qua lịch sử này, chúng ta nhận ra được Thiên Chúa luôn yêu thương và quan tâm đến con người như một Người Cha. Một Người Cha lo cho con cái trong mọi lúc, mọi nơi và mong muốn cho con của mình những gì đẹp nhất, tốt nhất: “Anh em thấy hoa quả ngoài đồng, nay con mai mất mà Thiên Chúa còn mặc đẹp như thế thì huống chi là anh em…” (x. Mt 6,30 ). Vì quá yêu con người, nên Thiên Chúa luôn dành cho họ sự tự do và mời gọi con người cộng tác vào công trình của Ngài.

2. BÀN TAY CỦA CON NGƯỜI

Thiên Chúa yêu thương luôn mở rộng bàn tay với con người, Ngài khát mong con người tiếp nhận, chia sẻ và trở thành cánh tay nối dài của Ngài trong cuộc sống.
Khi công trình sáng tạo được hoàn tất, Thiên Chúa đã trao tất cả thành quả đó cho con người: “Mọi dã thú, mọi chim trời, mọi giống vật bò dưới đất, và mọi cá biển sẽ phải kinh hãi khiếp sợ các ngươi: chúng được trao vào tay các ngươi” (St 9, 2). Còn đất đai Ngài cũng giao cho con người canh tác.
Thế nhưng con người lại dùng chính bàn tay của mình để hành động bất trung khi đưa tay hái trái cấm, một hành động bất tuân đưa tới hậu quả là phải xa lìa Thiên Chúa, anh em ruột thịt tương tàn như Cain và Aben, Gia Cóp và Esau… Và cuối cùng con người rơi vào cảnh lầm than khốn khổ.
Trước những nỗi bất hạnh của con người, Thiên Chúa không bỏ mặc, Ngài dùng chính bàn tay con người để cứu giúp con người, khi dùng bàn tay Giuse phân phát lương thực cứu dân thoát khỏi nạn đói kém hoành hành, dùng bàn tay Môsê để bảo vệ và đưa dân ra khỏi Ai cập và cuối cùng Ngài dùng chính bàn tay Con Một Yêu Dấu là Đức Giêsu Kitô, Đấng bị treo trên Thập Giá để ban ơn Cứu Độ, giải thoát con người khỏi sự giam cầm của tội lỗi.
Trong thời đại chúng ta hôm nay, Thiên Chúa vẫn đang mời gọi mọi cộng tác với Ngài. Để qua những đôi bàn tay ấy, Thiên Chúa đến chia cơm sẽ áo với người đói nghèo, chăm sóc người đau ốm, bênh vực kẻ yếu hèn…
Trong đời sống cộng đoàn, chúng ta tự nhận biết sự nhỏ bé, nghèo nàn của đôi tay mình để khiêm tốn đưa tay ra cho Thiên Chúa và cộng đoàn nâng đỡ, dìu dắt là điều vô cùng cần thiết. Và chỉ khi có lòng khiêm tốn thực sự đan sĩ mới có thể kiên trì cộng tác chân thành với cộng đoàn, với Bề trên, với anh chị em, để đón nhận, chia sẻ và hiệp thông với nhau và tất cả mọi người.
Không chỉ thế, mỗi đan sĩ đều được Chúa mời gọi trở thành đôi tay bàn như của Giuse, Môsê để chia sẻ những ân huệ Chúa ban cho mọi người xung quanh, trở thành đôi tay luôn dâng lên Chúa lời cầu nguyện, trở nên sức mạnh bảo vệ tha nhân bằng ân sủng Chúa; và cùng Chúa Giêsu đưa tay ra nâng đỡ và cứu chữa lỗi lầm, bệnh tật, chia sẻ cơm bánh cho người nghèo khó.

 

Kết Luận

Thiên Chúa đã dùng cánh tay hùng mạnh của Ngài để tạo dựng con người, yêu thương nâng đỡ họ “như gà mẹ ủ ấp con dưới cánh”, để con người luôn sống hạnh phúc trong sự quan phòng của Ngài. Điều Ngài mong muốn nơi con người là “hãy ở lại trong tình thương” của Ngài – luôn đặt tay mình trong lòng bàn tay Chúa, để Ngài hướng dẫn chở che “hãy phó thác đường đời cho Chúa”. Vậy đứng trước những ân ban nhưng không của Thiên Chúa, con người cũng được mời gọi cộng tác với Ngài, để qua đôi tay nhỏ bé giới hạn của mình, tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu, trao tặng tình yêu thương cho mọi người.

 

 

 

 

 

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

BÀI VIẾT MỚI

spot_imgspot_img

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Hạt Giống Chiêm Niệm số 32: Cầu Nguyện Đan Tu

CẦU NGUYỆN ĐAN TU Số 32 – Tháng Giêng năm 2024 ĐÔI LỜI ... Kính thưa quý độc giả, Như chúng ta đã biết, cầu nguyện là hành...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 31: Hướng Vọng Trời Cao

 Số 31 – Tháng 7 năm 2023 Lời ngỏ Kính thưa quý độc giả, Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày qua đời của cha Biển Đức...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 29: Tứ Hải Giai Huynh Đệ

Số 29 – tháng 07 năm 2022 Cùng Độc giả, Các sinh hoạt của Ban Biên Tập Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm (HGCN) của Hội...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 30: Một Đi Chung Cùng Nhau

LỜI NGỎ   Kính thưa Quí Độc Giả! Nội san Hạt Giống Chiêm Niệm số 30 phát hành vào tháng Giêng năm 2023 này mang chủ đích...

Giới Thiêu nội san “HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM” (Viện phụ Dominico Phạm Văn Hiền)

  NỘI SAN   HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     LỜI GIỚI THIỆU      ...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 1: NGUỒN SUỐI CHIÊM NIỆM

    HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM       Nội...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 2: HƯƠNG VỊ LỜI CHÚA

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 3: THAO THỨC

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 4: Những Nẻo Đường Sống Đạo

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     Nội san linh đạo đan tu   NHỮNG NẺO ĐƯỜNG SỐNG ĐẠO   Số 4 tháng 7 năm 2007 LỜI NÓI ĐẦU     Một người nọ hỏi...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số đặc biệt: Cội nguồn hy vọng

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 7: Thử Thách

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...