HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM
Nội san linh đạo đan tu
NIỀM VUI PHÚC ÂM
Số 15, Tháng 07 năm 2014
Lời mở
Cùng quí độc giả thân mến!
Hưởng ứng lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong tông huấn “Niềm Vui Phúc Âm”, Ban biên tập nội san mạo muội chọn chủ đề cho tập nội san “Hạt giống chiêm niệm” số 15 theo tên của tông huấn. Việc chọn lựa này không nhằm mục đích nào khác hơn là để cho toàn thể Hội Dòng suy tư, học hỏi và san sẻ cho nhau những niềm vui nho nhỏ trong kinh nghiệm sống Phúc Âm của ơn gọi Đan Tu Chiêm Niệm.
Với ơn gọi này, Đan sĩ được thôi thúc chuyên chăm tìm kiếm một mình Thiên Chúa trong cuộc sống thanh vắng và cô tịch. Tìm Chúa để làm gì nếu không phải để gặp gỡ và kết hiệp với Ngài. Một khi gặp gỡ được Ngài, tâm hồn và cuộc sống của chúng ta sẽ tràn ngập “Niềm Vui Phúc Âm” (x. Niềm Vui Phúc Âm, số 1). Chúng ta chỉ có thể thực sự gặp được Chúa khi hoàn toàn để cho tâm hồn trống rỗng. Rỗng khi nói không với “não trạng giáo sĩ trị”; nói không với chủ nghĩa duy thế tục, không với những đam mê vật chất hão huyền bằng việc bắt chước một Đức Giêsu tự nguyện nghèo vì chúng ta; rỗng khi mỗi người biết cho và biết nhận lãnh, biết sám hối để sống “Niềm vui trở về”, biết thể hiện “Niềm vui trong đời sống Phụng vụ” và biết sống “Niềm Vui Phục Sinh” trong cuộc sống thường nhật của mình…Đó là cái rỗng của ân huệ; rỗng để lớn lên và để tràn đầy niềm vui.
Niềm vui ấy không gì khác hơn là chính Thiên Chúa (x. Tv 103,34). Niềm Vui sẽ giải thoát chúng ta “khỏi tội lỗi, buồn sầu, trống rỗng nội tâm và cô lập”, đồng thời giúp chúng ta nếm hưởng sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa. Một Niềm vui như thế làm sao diễn tả hết thành lời và vì thế, các bài viết trong tập nội san chỉ là những kinh nghiệm bình dị thường nhật, phác hoạ phần nào Niềm Vui Phúc Âm.
Chúng con xin hân hạnh gửi đến quí cộng đoàn và toàn thể anh chị em trong Hội Dòng món ăn thiêng liêng trong năm Tân Phúc Âm Hoá này. Mong sao được đón nhận như là một hương vị thiêng liêng của đời sống chiêm tu.
Ban Biên Tập
MỤC LỤC
- Niềm vui theo Tin Mừng thánh Luca
(Tác giả: FM. Gioan Vương Đình Lâm ) - Bài giảng trong Thánh Lễ
(Tác giả: FM. Dominico Phạm Văn Hiền ) - Một vài phác họa niềm vui nơi cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận
(Tác giả: FM. Duyên Thập Tự ) - Niềm vui trong phụng vụ
(Tác giả: Đan viện An Phước) - Thơ: Đời Thánh Hiến
- Lời Chúa chiếc la bàn
(Tác giả: FM. Giuse Khang Tiên) - Niềm vui được thể hiện trong Tin Mừng
(Tác giả: FM. Đinh Gioan ) - Cho và nhận
(Tác giả: Đan viện Phước Hải) - Niềm vui trở về
(Tác giả: FM. Phạm Thanh Toàn ) - Não trạng giáo sĩ trị – nguyên nhân và phương thế chữa trị
(Tác giả: FM. Théophane – Thiên Phước) - Mừng vui lên
(Tác giả: Đan viện Vĩnh Phước) - Hạt sáng
- Niềm vui trong đau khổ
(Tác giả: Tùng Triều Nguyễn – Phước Hải)
NIỀM VUI
THEO TIN MỪNG THÁNH LUCA
FM. Gioan Vương Đình Lâm
CÁI NHÌN TỔNG QUÁT VỀ TIN MỪNG LUCA
* Tác phẩm
Tin Mừng Luca thuộc về nhóm ba Tin Mừng Nhất Lãm vốn giống nhau về nhiều điểm. Tuy nhiên, nếu so sánh nội dung Tin Mừng Luca trổi vượt về số lượng cũng như về tính chất độc đáo. Các nhà nghiên cứu đã nêu lên: Tin Mừng Luca có số câu nhiều nhất (tức là 1149 câu, so với Matthêu 1068 câu và Marcô 661 câu); còn về nội dung riêng biệt, Luca có 550 câu riêng, so với Matthêu 310 và Marcô 26 câu. (Evangiles synoptiques. Wikipedia). Như vậy, chứng tỏ tầm mức quan trọng của Tin Mừng Luca, ít là trong một số vấn đề riêng biệt.
* Tác giả
Truyền thống, cũng như chính Tân Ước, cho chúng ta một số thông tin về bản thân Thánh Luca. Thánh Phaolô nhắc đến “Anh Luca, người thầy thuốc yêu quý”(Cl 4,14); (Phải chăng vì vậy, hậu thế đã tôn Thánh Luca làm quan thầy các lương y, thậm chí cả các họa sĩ nữa). Hơn thế, Thánh Phaolô, còn kể ngài vào số các cộng sự viên (x. 2 Tm 4,11; Cl 4,14; Plm 24; Cv 20,2-6). Ngoài ra, ngài còn được coi là thuộc vào số bảy mươi hai môn đệ do Chúa Giêsu tuyển chọn và sai đi trước các nơi Ngài sẽ đến (x. Lc 10,1).
Ngoại trừ tác phẩm trong Tin Mừng, qua việc đối chiếu nội dung và văn thể, ta cũng dễ nhận ra Thánh Luca còn là tác giả sách Công vụ Tông đồ (x. Cv 1,1-5; 28,1-16). Quả vậy, theo lời giới thiệu của tác giả sách Công Vụ Tông đồ, đây là sách tiếp nối “quyển thứ nhất (tức Tin Mừng Luca) đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời” (Cv 1,1-2) Đáng ghi nhận kiểu diễn tả này cũng được sử dụng trong Tin Mừng (x. Lc 9,51).
* Xét về nội dung
Tin Mừng Luca trình bày đặc biệt chú trọng về Lòng Chúa Thương Xót, về tác động của Chúa Thánh Thần; về tính phổ quát của ơn cứu độ, nhằm phục vụ các tín hữu thuộc Dân ngoại trở lại (x. Lc 3,23-38); 10,30-37; 13,29; 17,15-19; 23,47); đồng thời lưu tâm nhiều đến người nghèo, tội nhân, bệnh nhân; vai trò của Phụ nữ được ghi nhận (x. Lc 1,42; 4,26; 7,37-50; 8,2-3; 8,43-47; 10,38; 11,27; 23,49. 55-56; 24,8-10), đặc biệt về Đức Trinh Nữ Maria trong phần Tin Mừng Thơ Ấu (x. Lc 1-2). Cách riêng Luca đề cao sự Sám Hối, việc Cầu nguyện (x. Lc 5,16; 6,12-13; 6,27; 9,28; 11,1); sau cùng NIỀM VUI là nét nổi bật, như sợi dây xuyên suốt Tin Mừng thứ ba.
NIỀM VUI, ÂN PHÚC THIÊN CHÚA DÀNH CHO CON NGƯỜI
Trong kế hoạch yêu thương, Thiên Chúa ban cho con người hưởng NIỀM VUI do chính Ngài tạo dựng và cứu độ (x. Lc 1,51). Quả thật, con người được ơn công chính nguyên thủy, nhưng “đã bị tước mất vinh quang Thiên Chúa” vì phạm tội (x Rm 3,23). Trong Tình Yêu tăng bội, vào thời viên mãn, chính Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ đã đến hoàn lại Niềm Vui cho con người, “NIỀM VUI TRỌN VẸN” (x. Ga 15,9-11; 16,24). Vì thế, một “TIN VUI TRỌNG ĐẠI” được từ trời loan báo trong ngày giáng sinh của Đấng Cứu Thế (x. Lc 2,10) và đã được Ngài hoàn tất nhờ mầu nhiệm Vượt Qua (x. Lc 9,51; Ga 16, 22; 20,20). Tất cả được bao gồm trong “kế hoạch yêu thương, Thiên Chúa đã định từ trước trong Đức Kitô” (Ep 1,9). Đó là nội dung chung của các sách Tin Mừng với các mục tiêu và sắc thái thật phong phú. Riêng Tin Mừng Luca trình bày chú trọng đặc biệt về Niềm vui.
I. NIỀM VUI TRIỂN KHAI THEO DIỄN TIẾN CUỘC ĐỜI ĐẤNG CỨU THẾ
Niềm Vui Cứu Độ được thể hiện trong bốn thời điểm chính của cuộc đời Chúa Giêsu: Thời Thơ Ấu; Thời Ẩn Dật; Thời Sứ Vụ Công Khai; sau cùng là Biến Cố Vượt Qua.
1- NIỀM VUI CA VANG: TIN MỪNG THỜI THƠ ẤU
Trong các hoàn cảnh của cuộc sống, Kinh Thánh có lời hướng dẫn: “Ai trong anh em đau khổ ư? Người ấy hãy Cầu Nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy Hát Thánh Ca” (Gc 5,13). Nếu theo tiêu chuẩn ấy, Tin Mừng Luca được coi là Tin Mừng tràn ngập Niềm Vui với ba Thánh Ca quan trọng vẫn tiếp tục vang lên trong Phụng vụ hằng ngày của Hội Thánh: Thánh Ca BENEDICTUS của Ông Dacaria (x. Lc 1,46-55), trong Kinh Sáng, Thánh Ca MAGNIFICAT của Đức Mẹ Maria (x. Lc 2,27-32), trong Kinh Chiều và Thánh Ca NUNC DIMITTIS của cụ già Simeon (x. Lc 1,67-80), kết thúc ngày với giờ Kinh Kết. Có thể kể thêm Bài Ca VINH DANH của Ca Đoàn Thiên Quốc trên Hang Đá Bêlem (chỉ mình Luca ghi lại x. Lc 2,14) còn được hát lên trong Thánh Lễ vào những ngày đặc biệt.
Cùng với Niềm vui của Bài Ca “Vinh danh Thiên Chúa trên trời”, khi trình thuật Tin Mừng thời Thơ ấu, Luca còn ghi nhận về Niềm vui trong một số trường hợp cụ thể liên quan đến Hài Nhi Giêsu. Trước hết và trên hết phải kể sứ điệp Truyền Tin cho Đức Trinh Nữ Maria với lời chào “Mừng vui lên! Đấng đầy ân sủng” vì được cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế (x. Lc 1,28-33). Kế tiếp là Niềm Vui được loan truyền cho các Mục đồng (x. Lc 2,8-12); Niềm vui tràn ngập tâm hồn cụ già Simeon vì đã được thấy “Ơn cứu độ Chúa dành sẵn cho muôn dân” (Lc 2,30). Và thật là kỳ diệu: vị Tiền Hô còn trong dạ mẹ cũng đã “nhảy lên vui sướng” khi tiếp nhận sự hiện diện của Đấng Cứu Thế, dù còn trong tình trạng thai nhi (x. Lc 1,44). Hơn nữa, ngày sinh nhật của vị Tiền Hô cũng đem lại cho gia đình ông Dacaria “vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan” (Lc 1,14).
2- NIỀM VUI TRONG THẦM LẶNG: ĐỜI ẨN DẬT TẠI NADARET
Ngôi Lời Nhập Thể đã chấp nhận đi vào hiện trạng của một bé thơ để tiến triển theo nhịp độ của đời sống con người. Đây là thời gian nhiệm mầu kéo dài ba mươi năm, mà chỉ mình Luca gói ghém trong mấy lời ngắn gọn: Tiếp theo biến cố tại Đền thờ lúc lên mười hai tuổi: “Sau đó, Ngài đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadaret và hằng vâng phục các Ngài” (Lc 2,51). “Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).
Đức Phaolô VI đã để lại những suy niệm sâu sắc về nhiều bài học của gia đình Thánh Gia tại môi trường vùng quê Nadaret (x. Suy niệm của Đức Phaolô VI, Hành hương tại Nadaret 1964). Quả thật, ân sủng và Niềm vui của Đấng Cứu Độ không ngừng lan tỏa cách nhiệm mầu trong thời gian dài của cuộc sống âm thầm. Chân Phước (nay là Hiển Thánh) Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông Huấn “Đấng Gìn Giữ Chúa Cứu Thế (Redemptoris Custos n. 27), đã trích dẫn Thánh Tôma Aquinô, nói lên giá trị cứu độ trong cuộc sống âm thầm của Ngôi Lời Nhập Thể:…” Mầu nhiệm Nhập thể, chính xác là dưới khía cạnh nhân tính của Chúa Giêsu, vốn là phương tiện hữu hiệu thiên tính Người dùng để thánh hoá con người: “Nhờ thiên tính của Người, các hành động nhân loại của Đức Kitô có sức cứu độ chúng ta, mang lại ơn sủng cho chúng ta, hoặc do công nghiệp hoặc do hiệu lực nào đó”(Summa Theol.III. q. 8, a.1, ad 1).
Thiết tưởng đây cũng là một xác nhận chứng tỏ cho thấy giá trị cuộc đời thường khi được thực hiện trong kế hoạch của Thiên Chúa, như Tin Mừng đã nói về Nước Trời, tựa Báu tàng chôn dấu trong ruộng (x. Lc 12,33-34; Mt 13,44).
3- NIỀM VUI CỨU ĐỘ ĐƯỢC LOAN BÁO: THỜI SỨ VỤ CÔNG KHAI
Luca ghi nhận: “Khi Đức Giêsu khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giuse” (Lc 3,23). Khác với Matthêu và Marcô, Luca khời đầu sứ vụ của Chúa Giêsu với bài giảng tại Hội đường Nadaret: “Rồi Ðức Giêsu đến Nadarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: “ Thần Khí Chúa ngự trên Tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong Tôi, để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai Tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Ðức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,16-21).
Với những lời tuyên bố này, Chúa Giêsu cho thấy các yếu tố chính trong sứ vụ loan Tin Mừng cứu độ của Ngài :Tin Mừng được loan báo do việc xức dầu của Thần Khí, Tin Mừng dành cho người nghèo; được trả lại tự do và hưởng Năm Hồng ân của Chúa. Cũng do tác động của Thần Khí, Tin Mừng Luca còn nêu lên những người Bé mọn cũng là đối tượng ưu tiên được hưởng TIN MỪNG NIỀM VUI (x. Lc 10,21-22). Tình ưu ái này, theo tường thuật của Luca, còn dành cho các người đau ốm bệnh tật. Cụ thể, Ngài đã chữa rất nhiều bệnh nhân: “Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ” (Lc 4,40); “Ðức Giêsu đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xiđon đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. Những kẻ bị các thần ô uế quấy nhiễu cũng được chữa lành. Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người” (Lc 6,17-19). Tuy nhiên, tác động cứu độ chính yếu của Chúa Giêsu nhắm tới cội rễ của sự dữ là tội lỗi; vì thế, Ngài chữa bệnh, đồng thời Ngài cũng trừ quỷ và tuyên bố tha tội (x. Lc 5,20-25; 11,14; 13,32). Quả thật, danh thánh GIÊSU nói lên sứ vụ của Ngài là “CỨU CHO KHỎI TỘI” (Mt 2,21), đúng như Ngài đã quả quyết: “Ngài đến để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32) “để tìm và cứu những gì đã hư mất” (Lc 19,10). Vì thế, các người tội lỗi “thường lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng” (Lc 15,1).
Loan Tin Mừng NIỀM VUI, Đức Giêsu còn nói đến Niềm vui theo nghĩa “nghịch thường”: đó là vui mừng của các Mối Phúc được Luca ghi lại với tính chất cụ thể và triệt để. Đan cử về vấn đề người nghèo: so sánh Matthêu 5,3:”Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó” với Luca 6,20: “Phúc cho những kẻ nghèo khó”. Vấn đề được Luca tô đậm thêm với các mối họa: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có” (Lc 6,24). Cũng vậy về vấn đề “từ bỏ” được nhấn mạnh: “Ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể là môn đệ Tôi được” (Lc 14,33). Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng: đây cũng là bản chất tính triệt để của Tin Mừng, bởi vì “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9,62). Hơn nữa, “không thể làm tôi hai chủ” (Lc 16,13; Mt 6,24). Vả lại, đòi hỏi từ bỏ tất cả, cũng là để được tiếp nhận tất cả ân phúc tràn đầy và Niềm vui trọn vẹn Chúa trao ban (x. Lc 6,23; Cv 3, 52; Ga 15,9-11; 16,24; 17,13).
4- NIỀM VUI ĐƯỢC THÀNH TOÀN VỚI MẦU NHIỆM VƯỢT QUA
Cả bốn Tin Mừng đều hướng về Mầu nhiệm Vượt Qua và ghi rõ về cuộc Thương Khó và Phục sinh của Chúa Giêsu, như chính Ngài đã ba lần báo trước (x. Lc 9,22; 9,44-45; 18,31-33). Riêng về Tin Mừng Luca, trong trình thuật về Hiển Dung rạng ngời vinh hiển, đã tiên báo về niềm vui Phục sinh tiềm ẩn trong Vượt Qua cứu độ; vì thế, trong cuộc đàm đạo với hai nhân vật Môsê và Elia đã thêm chi tiết “nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31); và kế tiếp gợi ý liên kết với nguồn vui Phục sinh: “Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem” (Lc 9,51). Tin mừng Luca đặc biệt ghi lại cách sâu đậm Niềm vui của Chúa Giêsu Phục sinh, qua trình thuật Ngài gặp gỡ và đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24,13-35). Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Phục sinh đã đánh tan tâm trạng buồn rầu tuyệt vọng của hai môn đệ và đã khiến các ông quay hướng trở lại Giêrusalem để nhận được thêm tin vui từ các Tông Đồ: “Chúa sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon” (Lc 24,33).
Đáng ghi nhận, Chúa Giêsu Phục sinh trong đối thoại với các môn đệ, đã giúp họ hiểu Kinh Thánh. Quả vậy, “Chúa Giêsu giải thích cho hai môn đệ những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,27). Và kế tiếp, đối với các Tông đồ, Ngài “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”(Lc 24,45). Như vậy, Luca cùng với sự kiện nhắc đến việc “Bẻ bánh”, đã làm nổi bật hai yếu tố quan trọng của đời sống kitô giáo: Thánh Kinh và Thánh Thể. Qua việc hai môn đệ nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh (x. Lc 24,30-33), Luca đã gợi ý liên tưởng đến thực hành Nhiệm tích Thánh Thể trong đời sống của Hội Thánh. (x. Lc 22,19-20; Cv 2,42; 1 Cr 11,23-25).
Về vấn đề này, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nối kết sinh hoạt của Hội Thánh, đặc biệt Nhiệm tích Thánh Thể với mầu nhiệm Vượt Qua: “Nền tảng và nguồn gốc của Hội Thánh là toàn thể Triduum Paschale (Tam Nhật Vượt Qua), nhưng nó như thể được quy tụ, được báo trước và được cô đọng” cho đến muôn đời trong quà tặng Thánh Thể. Trong quà tặng này, Đức Giêsu Kitô giao cho Hội Thánh sự hiện tại hóa vĩnh viễn của mầu nhiệm Vượt Qua. Nhờ nó, Người thiết lập một “tính chất thống nhất trong thời gian” (contemporanit) huyền nhiệm giữa Triduum (Tam Nhật) và vận hành của các thế kỷ” (TĐ Ecclesia De Eucharistia 5).
Đồng thời, đặc biệt quan trọng, Ngày Lễ Ngũ Tuần là khởi điểm mới của Chúa Thánh Thần, bởi vì Biến cố Lễ Ngũ Tuần đánh dấu khai sinh Hội Thánh. Từ nay, Chúa Thánh Thần là linh hồn của Hội Thánh và ban phát mọi thứ linh ân như Công Vụ Tông đồ kể lại. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhận xét cách chính xác:“Với biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, thời của Giáo Hội đã bắt đầu, đang tiếp tục, kéo dài qua các thế kỷ và các thế hệ” (TD Dominum vivificantem 26). Quả thật, ngày Lễ Ngũ Tuần, qua tác động của Chúa Thánh Thần, Niềm vui Cứu độ được chính thức khơi nguồn và lưu tồn trong các sinh hoạt và sứ vụ của Hội Thánh qua các thế hệ, như chính Luca đã trình bày rộng rãi trong Công vụ Tông đồ. Có thể coi đây như một xác nhận tiêu biểu: “Các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần” (Cv 13, 52). Đó là Niềm vui, hoa trái của Thần Khí Đức Kitô Phục sinh được trao ban tràn đầy cho các môn đệ. Vì vậy, để mở đầu Tông huấn về Niềm vui Đức Thánh Cha Phanxicô, đã xác định cách mạnh mẽ: “Niềm vui của Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu. Những người để cho mình được Người cứu độ được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn rầu, trống rỗng nội tâm và cô lập”.
Để giúp đào sâu thêm vấn đề NIỀM VUI, Tin Mừng Luca triển khai hai đề tài chính: LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT là nguồn Niềm vui Cứu độ, và để tiếp nhận, cần ƠN SÁM HỐI về phía con người.
II. NIỀM VUI PHÁT XUẤT TỪ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Trước hết cần xác định ý niệm về Lòng Thương xót. Với Thông điệp “Dives in misericordia Deus” (30/11/1980), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã triển khai rộng rãi về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa: Lòng Thương Xót đây, chính là Tình Yêu của Thiên Chúa đụng chạm đến cảnh khốn cùng của con người. Tình yêu được bày tỏ và thể hiện trong Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể (x. Rm 8,39), bởi vậy, thật là ý nghĩa, Thông điệp đã khởi đầu với xác quyết của Chúa Giêsu: “Ai thấy Thầy thì thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9; x. TĐ Dives in misericordia n.1). Về tương quan liên kết giữa Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu cũng được hai Tin Mừng nhất lãm Luca và Matthêu trình bày với nét đặc thù của Tin Mừng Gioan, (do đó các nhà chú giải gọi là locus joanneus). Sau đây là bản văn của Luca: “Cha Tôi đã giao phó mọi sự cho Tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Lc 10,22, cf Mt 11,27). Chính vì vậy, Luca đã có thể ghi nhận về “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8.16) với một mệnh đề tương đương: “Cha trên trời là Đấng Thương xót” (Lc 6,36). Xác định này còn sâu đậm hơn nữa qua giáo huấn với các dụ ngôn, cả về cách sống, và nhất là với hiến tế cứu độ của Chúa Giêsu (x. Lc 12,50).
Lòng Thương Xót rộng mở đến vô biên trong quyền năng vô hạn của Thiên Chúa, như Kinh Thánh xác nhận: “Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được mọi sự” (Kn 11,23). Tình Xót thương của Thiên Chúa được diễn tả theo ngôn từ nhân loại: “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan ta bồi hồi, Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận…vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải phàm nhân” (Hs 11,8-9). Quả thật, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vượt xa tầm mức của con người; tuy nhiên các mối tình nhân loại cũng phần nào gợi lên về Tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã từng áp dụng qua các dụ ngôn khi loan báo Tin Mừng (x. Lc 11,13; Mt 7,11). Đặc biệt với dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” (x. Lc 15,11-32), được Thông điệp đặc biệt triển khai (x.TD Dives in misericordia n.5). Tin Mừng Luca cho chúng ta cảm nhận được Tình thương Thiên Chúa dành cho con người thật là kỳ diệu; vì thế, dụ ngôn này được đánh giá cao: “Chương 15 của Luca là một trong những chương sách đẹp nhất của toàn bộ Thánh Kinh Tân Ước. Cả chương sách bừng lên Niềm vui chan chứa, Niềm vui của tình yêu, mà những ai sống trong quỹ đạo của ích kỷ không cảm nếm được” (Đường về Emmaus. ĐGM Phêrô Nguyễn văn Khảm, tr.542).
Tình yêu của Thiên Chúa còn tiến xa hơn nữa, với Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, khi Con Thiên Chúa mặc lấy xác phàm thì Ngài đã “Yêu thương con người với cả trái tim nhân loại” (GS 22 ). Bởi vậy, Tin Mừng Luca cùng với Marcô và Matthêu nhiều lần tường thuật “Chúa Giêsu chạnh lòng thương” (x. Lc 7,13; 15,29; Mt 14,13-14; 15,32; Mc 6,34 ), hơn nữa, còn cho thấy “Ngài xúc động, và khóc thương” (x. Lc 19,41; Dt 5,7). Đã bao lần, với tình yêu nồng ấm đối với Dân Ngài, Chúa muốn như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh (x. Lc 13,34). Chúa Giêsu không chỉ “chạnh thương”, nhưng theo ghi nhận của Luca, Ngài tự nhận ở giữa các môn đệ đã sống phục vụ như người “hầu bàn” (x. Lc 22,27). Tình yêu phục vụ ấy đạt tới đỉnh cao là tự hiến tế mình để cứu độ con người (x. Lc 22,19-20). Tin Mừng Luca là Tin Mừng của Niềm vui, vì là Tin Mừng của Lòng Thương Xót.
Vào thời đại chúng ta, Thiên Chúa an bài đã dùng Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chính thức phổ biến rộng rãi sứ điệp Lòng Chúa Thương Xót trong Giáo Hội; quả là nguồn ân phúc Thương Xót cho toàn thế giới, một xã hội đang trên đà tục hóa chối bỏ và xa lìa Thiên Chúa. Thế nhưng Thiên Chúa luôn vẫn là Trung tâm của “mọi loài thọ tạo” (x. Cl 1,15-16), và là Trọng tâm của Tình Yêu thương, đang chờ đợi, mời gọi con người hối cải do “lòng Chúa vô cùng nhân hậu, khoan dung, đại lượng” (Rm 2,4). Vì thế, Lòng Chúa Thương Xót vẫn tiếp tục ấp ủ yêu thương, tìm mọi cách để thức tỉnh và cứu độ con người, tất cả nhằm dẫn tới Niềm vui hạnh phúc vĩnh cửu trọn vẹn dành cho con ngưới. Vấn đề đối với con người là làm sao tiếp nhận được Niềm vui đó?
III. NIỀM VUI ĐƯỢC CON NGƯỜI TIẾP NHẬN VỚI LÒNG SÁM HỐI
Tin Mừng Luca đặc biệt nhấn mạnh về việc sám hối (x.Lc 5,32; 7,36-50; 19,1-10). Sám hối khẩn thiết để được sinh tồn! Hai lần liên tiếp Chúa Giêsu cảnh giác sẽ tiêu vong, “nếu không sám hối” (Lc 13,3.5).
Đó là điều Ngài rao giảng: “Ngài đến kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32). Luca đã ghi lại một số trường hợp về ân huệ Sám hối này: người thu thuế “xin Chúa thương xót”, và được nên công chính (x. Lc 18,13-14); đặc biệt, trường hợp ông Zakêu, trưởng nhóm người thu thuế ngỡ ngàng được phúc tiếp Chúa Giêsu đến nhà và được Ngài trao ban ơn cứu độ (x. Lc 19,1-10); có thể kể thêm, người đàn bà tội lỗi “lấy nước mắt mà tưới ướt chân Chúa Giêsu” (Lc 7,38); Tông đồ Phêrô bắt được ánh nhìn của Chúa… ra ngoài, khóc lóc thảm thiết (x. Lc 22,62). Người trộm lành sám hối được Chúa đem vào thiên đàng (x. Lc 23,42-43). Sau cùng, dân chúng sám hối, đấm ngực trở về (x. Lc 23,48). Đặc biệt hơn nữa, Tin Mừng Luca kết thúc với lệnh truyền kêu gọi sám hối trao cho các môn đệ: “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47).
Sám hối cũng như được tha tội đều là các ân huệ được trao ban cho con người qua công trình cứu độ của Chúa Giêsu. Thánh Phêrô tuyên chứng: “Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Đức Giêsu lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ƠN SÁM HỐI và ƠN THA TỘI” (Cv 5,31). Sám hối không phải chỉ là hối hận về mình, nhưng là mở lòng để tiếp nhận ân ban của Thiên Chúa, “Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người” (Ph 2,13). Chính nhờ Ơn Sám Hối dẫn đến Ơn Tha Tội (x. Lc 24,47). Nhưng sám hối trở thành ơn huệ là do lòng tin, đây cũng là điểm nhấn của Tin Mừng Luca (x. Lc 7,50; 8,12-13; 17,5-6; 18,8; 22,32). Rồi đây, lời rao giảng trong Công vụ Tông đồ sẽ xác nhận: “Phàm ai tin vào Người (Đức Giêsu) thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội” (Cv 10,43). Ơn tha tội là cửa mở cho các ân phúc: phúc nghĩa tử, hồng Ân Hiệp thông mọi chiều, với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Thân mình Chúa Kitô là Hội Thánh; tất cả kết thành Niềm Vui ơn cứu độ. Tin Mừng Luca vì thế, cách đặc biệt là Tin Mừng của NIỀM VUI, bắt nguồn từ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu; NIỀM VUI con người tiếp nhận qua lòng Sám Hối. Vậy, Niềm vui trong khâu cuối cùng lại được gắn kết với lòng Sám Hối. Vì thế, hiểu được tại sao hai lần Chúa Giêsu xác quyết: “Trên trời, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”…Tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15,7.10).
Như vậy, Niềm Vui nối kết giữa Trời và Đất, hòa nhập giữa Thiên Chúa và con người. Thật đúng như Bài Ca mừng Chúa Giáng sinh:“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương!” (Lc 2,14). Hạnh phúc Bình an của con người được gắn kết với Vinh quang Thiên Chúa. Niềm Vui trọn vẹn đã được Thiên Chúa trao ban cho con người. Trình bày Niềm Vui Ơn Cứu độ, Tin Mừng Luca vì thế được kết dệt bằng các bài ca muôn điệu để Tôn Vinh Thiên Chúa (x. Lc 5,25-26; 7,16; 13,13; 17,18; 18,43).
THAY LỜI KẾT
“Đối với tôi, Niềm Vui chính là Chúa!” (Tv 103,35). Lời của Thánh vịnh phản ảnh cõi thâm sâu lòng con người muôn thuở, vốn mang dấu ấn “hình ảnh Thiên Chúa” (x. St 1,27). Đó là thao thức hiện sinh mà Thánh Âutinh đã từng sống và chia sẻ với chúng ta: “Chúa tạo dựng chúng con cho Chúa, vì thế lòng chúng con sẽ mãi xao xuyến cho đến khi được an nghỉ trong Chúa!”
Quả thật, “mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 3,23-24). Vì thế, Niềm Vui, theo Tin Mừng Luca, phải là Niềm vui Ơn cứu độ được triển khai theo diễn tiến sứ vụ Chúa Cứu Thế, khởi đầu với Nhập Thể và hoàn thành với biến cố Vượt Qua.
Tuy nhiên, để Niềm vui Ơn cứu độ được thành hiện thực nơi con người, Tin Mừng Luca đã làm sáng tỏ hai yếu tố quan trọng gắn liền với nhau: Nguồn của Niềm vui chính là Lòng Chúa Thương Xót; và để tiếp nhận được Niềm vui cứu độ, cần lòng Sám Hối của con người.
Được hưởng Niềm vui Ơn cứu độ, Tin Mừng Luca cho biết con người có trách nhiệm, đúng hơn là vinh dự: Tôn vinh Thiên Chúa và chuyển trao Niềm vui Tin Mừng cho mọi người.
Để Tôn vinh Thiên Chúa cách xứng hợp, Tin Mừng Luca đã ghi lại một trình thuật riêng biệt đầy ý nghĩa: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Ðức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21-22). Đáng lưu ý tính chất Ba Ngôi của việc tôn vinh Chúa Giêsu mời gọi chúng ta. Quả thật, Chúa Giêsu, trong Niềm vui của Chúa Thánh Thần, tỏ cho chúng ta biết lòng Xót Thương Nhân Hậu của Thiên Chúa Cha, và mời gọi chúng ta cùng với Ngài, chúc tụng ngợi khen Cha.
Tuy nhiên, điều kiện cần thiết nơi chúng ta là “trở nên những người bé mọn”, để ca ngợi tạ ơn Thiên Chúa. Về vấn đề này, Tin Mừng Luca sẵn sàng cung cấp cho chúng ta một mẫu gương tuyệt vời nơi Hiền Mẫu Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ Hội Thánh, và là Mẹ của mỗi chúng ta, để được cùng với Mẹ hát bài ca chúc tụng Thiên Chúa Đấng Cứu Độ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi… Đấng Toàn Năng đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn… vì Người nhớ lại Lòng Thương Xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời” (Lc 1,46-48. 55).
Như vậy, Hiền Mẫu Maria trở nên một mẫu gương như Bài ca chúng ta vẫn dâng lên Mẹ mỗi ngày: “Salve Regina, Mater misericordiae, vita, dulcedo, spes nostra salve!”, “Lạy Nữ Vương Mẹ nhân lành (thương xót), làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy…”
Tin Mừng Luca đặc biệt là Tin Mừng của Niềm Vui, của Lòng Thương Xót, vì thế đã kết thúc với Vui mừng tri ân chan chứa: “Bấy giờ các ông (Tông đồ) bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24,52-53).
Tin Mừng Luca cũng mời gọi chúng ta trở thành chứng tá và khí cụ của lòng xót thương (x. Lc 6,36), trong sứ vụ chuyển trao Tin Mừng Niềm Vui (x. Lc 24,47-49), để cùng hợp tấu bài ca Tôn Vinh chúc tụng Thiên Chúa giàu lòng Thương Xót (x. Lc 24,53).
“Xin tôn vinh Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới. Xin tôn vinh Người trong Hội Thánh và nơi Đức Kitô Giêsu đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Ep 3,20-21).
BÀI GIẢNG TRONG THÁNH LỄ
theo tông huấn Evangelii gaudium
FM. Dominico Phạm Văn Hiền
“Con hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm 4,2).
Cách đây không lâu, nhân dịp giúp tĩnh tâm cho quý thầy sắp lãnh thừa tác vụ linh mục, chúng tôi đã cùng nhau suy niệm lời khuyên nhủ của thánh Phaolô trên đây, đồng thời quy chiếu chương ba của Tông huấn Evangelii Gaudium. Ai trong chúng tôi cũng nhận thấy giáo huấn của Đức Phanxicô thật tuyệt vời, với những chia sẻ vừa khiêm tốn vừa cụ thể, xuất phát từ bề dày kinh nghiệm của một vị mục tử kiên cường.
Chợt nghĩ rằng những cảm nhận của mình có thể mưu ích cho nhiều anh em, chúng tôi mạo muội ghi lại nơi đây, mong giúp thêm một chút ánh sáng và niềm vui cho những ai đang thi hành một sứ vụ mà không phải lúc nào cũng dễ dàng và phấn khởi!
Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, chương ba được coi như điểm trung tâm, vì bàn đến chính việc công bố Tin Mừng, còn Bài Giảng trong phụng vụ thể hiện việc công bố này cách rõ nét nhất. Tông huấn dành cho phần này 24 số (135-159), với hai mục: Bài giảng và soạn bài giảng.
Bài giảng (135-144)
Mặc dù bài giảng không luôn suôn sẻ dễ chịu về cả hai phía: người giảng cũng như người nghe. Tuy nhiên, tự thân bài giảng có một chỗ đứng không thể thay thế trong Thánh Lễ, vì hai lý do:
– “Bài giảng là tiêu chuẩn để đánh giá sự gần gũi và khả năng truyền thông của mục tử đối với dân mình”
– Thứ đến “bài giảng chứng thực kinh nghiệm mãnh liệt và hạnh phúc về tác động của Thánh Thần, nơi tâm hồn vị giảng thuyết” (135)
Không ai hội dủ hai điều kiện trên đây cách hoàn hảo, trừ phi Thầy Chí Thánh. Hẳn thật, với Lời giảng, Chúa Giêsu đã chinh phục trái tim của dân chúng từ khắp nơi đổ về (Mc 1,45). Linh mục là Alter Christus, ngài mong gì hơn là được nên giống Đức Kitô phần nào! Thiết nghĩ các ngài nên tự hỏi xem mình đã thi hành sứ vụ thuyết giảng trong Thánh lễ làm sao? Để được như thế, Đức Phanxicô góp ý về ba điểm sau đây:
Trước hết về bối cảnh phụng vụ.
Khi bước lên bục giảng, vị giảng thuyết nên nhớ: đây không phải là một buổi thuyết trình về một đề tài nào đó, cũng không phải một bài chú giải Thánh Kinh hay một hình thức giải trí như trên các phương tiện truyền thông… nhưng đây là một phần của phụng vụ Thánh Thể, nhằm mục đích tạo nên một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân Ngài trong Chúa Thánh Linh. Do đó, Đức Thánh Cha nhấn mạnh “bài giảng cần ngắn gọn” (138).
Thứ đến, trong tư cách là đại diện của Hội Thánh, vị giảng thuyết hãy mang lấy tâm tình của Hội Thánh như hiền mẫu giữa một đoàn con. Vậy còn gì hợp tình hợp lý hơn khi ngài nói với dân Chúa như một bà mẹ nói với con mình. Là mẹ, nhà giảng thuyết chỉ mong muốn điều tốt cho dân mình, ngài biết lắng nghe những quan tâm của họ, đồng thời khiêm tốn học hỏi với họ… (139). Như thế, bài giảng trở thành một cuộc đối thoại nặng tình từ mẫu. Tình mẹ ấy cần tiếp tục được nuôi dưỡng qua sự gần gũi của nhà giảng thuyết. Người nghe sẽ dễ dàng cảm nhận lòng từ mẫu ấy qua sự ấm áp nơi giọng nói, qua sự dịu dàng trong cách nói và qua niềm vui ở cử chỉ và điệu bộ… (140). Tóm lại “nhà thuyết giảng phải làm cho thính giả cảm nhận được niềm vui của Thiên Chúa” (141).
Đặc điểm thứ ba của bài giảng là phải có lửa: lửa để đốt lòng người, lửa để làm cho chân lý tỏa sáng. Đức Thánh Cha khuyên: Trong bài giảng, chân lý phải đi kèm với sự thiện và mỹ. Hẳn thật đây không phải là những chân lý trừu tượng hay những suy diễn lạnh lùng, bởi vì Tin Mừng cũng truyền đạt cho ta vẻ đẹp của các hình ảnh mà Đức Ki tô đã sử dụng để khuyến khích thính giả làm điều thiện (142). Nói khác đi: “Nhà giảng thuyết có sứ vụ đẹp nhất và khó khăn nhất là kết hợp những trái tim yêu nhau, trái tim của Chúa và trái tim dân Người” (143) Phải chăng đây là một cuộc đối thoại bằng trái tim, vừa có khả năng đốt cháy, vừa làm cho chân lý Mặc Khải rực sáng trong lòng người nghe (144).
Soạn bài giảng
Đức Thánh Cha Phanxicô đánh giá cao các mục tử chuyên chăm soạn bài giảng. Đó là dấu chứng một mục tử đầy Thần Khí và có tinh thần trách nhiệm cao (145). Sự chuyên chăm đó phải được cụ thể hóa trước hết qua việc dành thời gian (cá nhân và cộng đoàn) cho công tác quan trọng này. Nhiều nhà giảng thuyết viện cớ mình bận nhiều công việc khác để lơ là việc soạn bài giảng. Lời bào chữa ấy, theo Đức Thánh Cha, chứng tỏ sự sút kém tình yêu đối với Lời Chúa và với dân Ngài. Hẳn thật đối với những gì mà ta thích và với người mà ta yêu, chẳng bao giờ ta tiếc thời gian (146).
Để thực hiện việc soạn bài giảng, Tông huấn Evangelii Gaudium đề xuất năm điểm: phải tôn trọng sự thật chất chứa trong bản văn Lời Chúa, phải cá nhân hóa Lời Chúa, phải chuyên cần đọc sách thiêng liêng, phải chân thành lắng nghe dân chúng và cải tiến cách giảng nhờ các công cụ sư phạm. Sau đây xin triển khai những mục vừa nêu.
Phải tôn trọng chân lý của bản văn
Khi giảng việc chính yếu là nắm bắt ý nghĩa bản văn. Tuy nhiên, vấn đề này không đơn giản chút nào, vì chúng ta đang đối diện với một bản văn đã được viết cách đây hai, ba nghìn năm, ngôn ngữ của nó rất khác với ngôn ngữ của ta hôm nay, nên nó đòi hỏi chúng ta học hỏi và nghiên cứu cẩn thận. May mắn thay các linh mục đã qua những lớp Kinh Thánh trong các đại học hay chủng viện; các ngài còn có nhiều tài liệu nghiên cứu khác nữa. Tình yêu đối với Lời Chúa và đối với dân Chúa thúc bách nhà giảng thuyết vượt qua mọi khó khăn để nắm bắt sứ điệp chính yếu của bản văn, đồng thời xác định mục đích mà tác giả nhằm đạt tới, như: để giáo huấn, để an ủi, hay để biện minh…(147).
Cá nhân hóa Lời Chúa.
Sắm cho mình những kiến thức về Kinh Thánh vẫn chưa đủ, nhà giảng thuyết còn phải làm quen để thấm nhuần Lời Chúa, hầu tạo cho bản thân một não trạng mới, vì: “Lòng đầy, miệng mới nói ra” (Mt 12,34) Hơn nữa “Lời Chúa phải vang vọng trong tâm hồn của mục tử trước khi tác động trên cuộc sống người nghe” (149). Đúng như Đức Phaolô VI quả quyết: “trong thời đại này, người ta thích nghe những chứng nhân hơn là người giảng” (150)
Chuyên chăm đọc sách thiêng liêng
Cụm từ ‘sách thiêng liêng’ ở đây đồng nghĩa với Lectio divina. Đan tu chúng ta quá quen thuộc với cụm từ này rồi, xin miễn giải thích. Tuy nhiên chúng ta nên lưu ý đến những câu hỏi, Đức Thánh Cha nêu lên trong số 153, như: Lạy Chúa bản văn này nói gì với con? Chúa muốn con thay đổi điều gì trong đời con với sứ điệp này? Điều gì làm con khó chịu trong bản văn này? Hoặc điều gì làm con thích thú và thúc đẩy con trong bản văn? Điều gì thu hút con và tại sao nó thu hút con? Có một cơn cám dỗ phổ thông là ta thường bắt đầu suy nghĩ về những gì bản văn nói đến người khác, để né tránh việc tự hạch hỏi bản thân… (153).
Lắng nghe dân chúng.
Nếu giảng thuyết là đối thoại với thính giả, thì lắng nghe họ là điều kiện tiên quyết. Đức thánh Cha khẳng định:
– Lắng nghe để biết nhu cầu và nguyện vọng của những con người cụ thể;
– Lắng nghe để nhận ra những gì đang ảnh hưởng trên đời sống họ, chẳng hạn những ưu tư về một tương lai quá bấp bênh mờ mịt.
– Nhờ lắng nghe, vị giảng thuyết biết sử dụng ngôn ngữ, dấu hiệu hay biểu tượng thích hợp với họ hơn. Theo Tông huấn, nguy cơ lớn nhất cho vị giảng thuyết là đã quá quen diển tả tư tưởng bằng những thuật ngữ thần học và triết học, thành thử thính giả bình dân chẳng nắm bắt được gì, bài giảng trở thành vô ích cho họ.
Sử dụng những công cụ sư phạm.
Nhiều vị giảng thuyết rất tự tin, vì mình đã tích lũy được nhiều kiến thức Kinh Thánh, Thần học, Triết học, Tu đức. Nhưng trong khi thi hành sứ vụ ngôn sứ giữa cộng đồng dân Chúa, các ngài cảm thấy thất bại. Tại sao? Nhà giảng thuyết cũng như anh đầu bếp, dù đã có gạo, có thức ăn đủ thứ.. chưa chắc nấu được một bửa cơm ngon, nếu không biết cách nấu. Cũng thế, CÁCH GIẢNG vô cùng quan trọng! Tất cả sự thành công nằm ở cách giảng, tức ở những công cụ sư phạm. Nhà giảng thuyết phải huy động mọi khả năng sư phạm để Lời Chúa trở thành món ăn vừa ngon, vừa giàu chất bổ. Đó là một đòi hỏi của tình yêu đối với Thiên Chúa Mạc Khải và với đoàn dân của Người. Sau dây xin nêu một vài góp ý của Đức Thánh Cha Phanxicô liên quan đến cách giảng:
– Học với Chúa Giêsu về cách sử dụng các hình ảnh, vì qua hình ảnh ý nghĩa của các thực tại siêu nhiên cũng dễ cảm nhận và thưởng thức. Đức Thánh Cha khẳng định: “Một hình ảnh hấp dẫn làm cho sứ điệp có vẻ nghe quen thuộc, gần gũi, thực tế và liên hệ với đời sống hằng ngày… Một vị thầy đã nói với tôi: một bài giảng phải có một tư tưởng, một cảm giác và một hình ảnh” (157)
– Bài giảng phải đơn giản, rõ ràng, trực tiếp và phù hợp (trích Đức Phaolô VI). Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh tính đơn giản này, vì giảng không nhằm phô trương cái thông thái của mình, nhưng nhằm mưu ích cho người nghe. Để đạt mục đích ấy, nhà giảng thuyết phải lắng nghe và chia sẻ cuộc sống của họ.
– Tuy nhiên, đơn giản không có nghĩa là lộn xộn, tầm thường, trái lại kết cấu của bài giảng phải logique và thống nhất trong chủ đề: tránh đề cập nhiều vấn đề một lúc, làm cho người nghe cảm thấy như mình đang bị lạc vào một khu rừng hoang.
– Vị giảng thuyết cố gắng sử dụng ngôn ngữ tích cực, nghĩa là tránh nói nhiều tới những gì tiêu cực như những điều cấm kỵ hoặc những lời than phiền, chỉ trích, thậm chí còn la mắng thính giả… Hẳn thật một bài giảng tích cực luôn mở ra một con đường hy vọng cho tương lai với những đề nghị xây dựng, như người ta thường nói: thà thắp lên một ngọn đèn nhỏ còn hơn ngồi rủa bóng tối (159).
Kết luận
“Tin là bởi nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô” (Rm 10,17). Việc công bố Lời Chúa trong Thánh Lễ mang tính thường xuyên và cộng đồng, bởi lẽ đoàn dân Chúa tập họp tôn thờ Thiên Chúa, ít nhất mỗi tuần, trong Phụng vụ Thánh Thể. Vai trò của vị thuyết giảng vô cùng quan trọng, là chuyển đạt một Sứ Điệp Tình Thương của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Vai trò này trước hết thuộc về Đức Kitô, Đấng vẫn ở trong cung lòng Chúa Cha, Ngài đến thông tri cho chúng ta (x. Ga 1,18). Các Tông Đồ và các Mục Tử kế thừa sứ vụ của Đấng nắm trong tay Kho tàng Mặc Khải. Việc rao giảng của các ngài cũng được ví như người đi gieo giống trong các tâm hồn (x. Mt 13).
Đức Thánh Cha và Thượng Hội Đồng Giám Mục, khóa XIII, kỳ vọng một mùa lúa bội thu nhờ nhiệt huyết truyền giảng Tin Mừng của mọi Kitô hữu, nhất là của hàng giáo phẩm. Nhiệt huyết ấy tìm đâu ra? Thưa từ Đấng đã đổ những hình lưỡi đậu xuống từng người một (x. Cv 2). Dĩ nhiên không phải ai cũng có khả năng nhả ngọc phun châu như một Bossuet hay một Lacordaire, nhưng thiết nghĩ ai cũng có khả năng như thánh Đaminh chiêm niệm để rồi chia sẻ cho tha nhân những gì mình đã chiêm niệm “Contemplare et contemplata aliis tradere”. Đây phải chăng là điểm nhắm của Đức Thánh Cha Phanxicô khi đề xuất cho chúng ta những giáo huấn vàng ngọc trong tông huấn EVANGELII GAUDIUM ?
MỘT VÀI PHÁC HỌA NIỀM VUI
NƠI CHA TỔ PHỤ BIỂN ĐỨC THUẬN
FM. Duyên Thập Tự
Trong cuộc sống, ai cũng muốn vui, thích vui và đi tìm niềm vui cũng như tạo cho người khác những niềm vui. Niềm vui là một trong những điều đáng mong muốn nhất. Niềm vui là kết quả của nỗ lực và đồng thời là động lực giúp vươn lên và kiên trì trong công cuộc xây dựng đời sống của mình và tha nhân. Nhưng, nếu có những niềm vui giúp thăng hoa cuộc sống con người, thì cũng có những loại vui thích là băng hoại và giết chết cuộc sống. Một niềm vui chân chính và đích thực luôn đi đôi với hạnh phúc, nghĩa là nó mang lại ý nghĩa sâu xa cho cuộc sống con người.
Bàn luận đến niềm vui nơi một người nào đó không phải là một việc dễ dàng, vì đòi hỏi phải đi vào tận cõi thâm sâu lòng họ. Chúng ta chỉ biết những biểu hiệu, những hiện tượng bên ngoài của ai đó, để kết luận là họ đang vui hay đang buồn. Có thể những dấu chỉ bên ngoài đánh lừa chúng ta dẫn đến những nhận định không chính xác. Chính vì thế, điều quan trọng là hãy lắng nghe chính bản thân người đó lên tiếng, để qua những ngôn từ, chúng ta có thể giải mã một phần nào đó những niềm vui nơi họ. Cũng sẽ giúp ích cho chúng ta trong việc khám phá niềm vui của người khác, khi có những chứng nhân, những người đã chia sẻ cuộc sống của họ, nêu lên một vài yếu tố trong nếp sống như là những chất liệu màu sắc giúp vẽ lên bức tranh tâm hồn của một con người. Theo hướng đó, bài viết này, sẽ dành nhiều không gian cho những nhân chứng lên tiếng về Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận và cho chính những gì ngài nói lên về niềm vui.
PHÁC HỌA MỘT CHÂN DUNG
Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận là người không thích chụp hình, lại càng không thích chụp chân dung của mình. Viện Phụ Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, tác giả sách Hạnh Tích và là một chứng nhân sống động, đã kể lại câu chuyện xảy ra ngay trên giường bệnh, khi Cha Tổ Phụ đang lâm trọng bệnh và vừa được đưa về với cộng đoàn để sống những ngày cuối cùng. “Thầy y tá mời ngài dùng chén sữa đã, khi ấy ông Hội Nghi ở Huế ra, tùng hành có cậu Thoại với máy chụp hình để xin chụp bức ảnh cha làm kỷ niệm. Ngài dùng sữa xong, thầy y tá đến sửa soạn chung quanh đầu giường khăn gối cho tử tế, ngài nói “làm chi đó con”? Thưa: “Ông Hội ra có cậu Thoại đi theo, xin cha ban phép chụp tấm ảnh làm di tích”. Ngài tỏ mặt nghiêm nói: “Không, con! Cha rất không bằng lòng chụp hình cha, con nói lại với ông cho tử tế.” [1]
Tấm hình thường được sử dụng – và nhờ đó vẽ chân dung ngài – được chụp cùng với cộng đoàn Phước Sơn. Tấm hình này không ghi ngày tháng. Ngài mặc áo thụng, nghĩa là đã khấn trọn đời. Chân dung được lấy từ tấm hình chụp chung này là khuôn mặt mà đôi mắt nhìn xuống đất và một bộ râu dài. Tấm hình chân dung này đã được sử dụng xưa này như là hình tượng duy nhất về khuôn mặt và tâm hồn ngài. Hình ảnh đó muốn diễn tả điều gì?
ĐẬM CHẤT KHẮC KHỔ
Tác giả sách Hạnh Tích đã miêu tả Cha Tổ Phụ như một con người khắc khổ, cuộc sống đậm chất khổ hạnh. Chúng ta đọc lại một vài trích đoạn miêu tả cuộc sống của Cố Thuận tại Tiểu Chủng Viện An Ninh
“Cố Thuận làm việc nhiều mà lại dùng vật thực rất ít và rất thanh đạm. Buổi mai chỉ vài ba củ khoai là xong. Món chi dọn trước mặt thì ngài dùng món ấy, thường là rau, măng. Ngài không dùng thịt, cá, trứng, trừ những hoàn cảnh đặc biệt khi ấy ngài cũng dùng ít hết sức, còn các thứ rượu và hút thuốc thì không bao giờ. Các chú biết ngài thích rau, măng, thì hay đặt những món đó gần ngài. Mười phút là xong bữa cơm cố Thuận, một bát trà xuông kết liễu! Đoạn cha vòng tay nghe sách hoặc suy gẫm, nếu là ngày nói chuyện thì ngài đem sách riêng mà xem. Mỗi đêm cha chỉ nghỉ 5 giờ, không có giờ nghỉ trưa; lúc đó cha vào nhà thờ viếng Mình Thánh Chúa. Các ngày thứ sáu quanh năm và trót mùa chay cả, ngài giữ chay rất ngặt. Bởi cha hãm mình quá nên ốm o gầy gò, song không bao giờ sao nhãng việc nhiệm vụ. Học trò thấy cha hãm mình thì cũng bắt chước, sau cố Bề trên biết thì cấm hẳn. Cố Thuận theo gương cha mẹ, mến yêu đức khó khăn và khinh chê tiền bạc. Các cựu học sinh minh chứng: trong phòng ngài chỉ có một bàn viết xấu, vài ba cái ghế xấu, một giường nhỏ, không nệm, gối đầu bằng cục gỗ, một cái tủ đời thượng cổ, vài ba bộ quần áo vải thô, năm bảy quan tiền cho kẻ khó, một ghế quỳ nhỏ, một kệ để sách. Trên tường treo một mẩu ảnh thánh giá, một ảnh Đức mẹ chỉ bảo đàng lành, ngoại giả không thấy vật chi trao giồi mỹ thuật. Quanh năm cha vốn đi chân không mùa nào cha cũng chỉ mang một áo lót vải thô với một áo dài đen vải dù rất mỏng. Ngài quen nói: “Hai dư một” hễ hư mua cái mới vất cái cũ đi, trừ quần áo thì phải có cái thay đổi. Bao nhiêu tiền lễ ngài gửi cho cha mẹ gần hết, chỉ để dư ít chút làm phước cho kẻ khó khăn. Đồ thờ phượng cha cũng ướp nực hương trần đức khó khăn: Cha giữ rất sạch sẽ tinh vi song không có chút chi là hào nhoáng.
Cha giáo Thuận giữ nết na nghiêm chỉnh lắm. Ngài giữ bậc khiêm nhường thứ XII trong luật thánh Tổ Bênêđictô kỹ lắm, bất kỳ đi đâu ở đâu, ngài quen giữ thái độ đầu cúi xuống, hai tay tréo lại, cặp mắt ngó xuống, không trông ngang ngửa. Không bao giờ cha tiếp khách phụ nữ, dầu các bậc quý phu nhân, hay ra lẽ nọ lẽ kia kiếu không đi ăn tiệc, không chơi đôminô, không tắm biển, ngồi ghế không dựa; dựa lưng vào ghế thì ngài cho là dung dưỡng xác thịt. Học trò thấy gương ngài thì bắt chước như thơ ngài viết cho cha mẹ rằng: “tuần này học trò con vào phòng. Nếu cha mẹ thấy các chúng đi lại trong nhà thì chắc cha mẹ sẽ cho là những thầy dòng nhỏ, vì các chú đi nghiêm trang mắt ngó xuống vừa đi vừa sốt sắng lần hột” [2]
Nếu khi còn ở chủng viện mà cuộc sống của ngài đã đậm mầu sắc khắc khổ, thì huống chi khi lập dòng “khổ tu”, Cha Biển Đức Thuận lại sống cuộc đời khổ hạnh biết bao. Chúng ta tự hỏi tại sao ngài lại sống khắc khổ như vậy và thành lập một dòng tu mà người đương thời gọi là “dòng giết ngài” (giết người)! Phải chăng đời ngài chỉ có thế ?
HƯƠNG VỊ KHÔI HÀI
Nhưng có một nét cũng khá nổi bật nơi ngài, đó là sự khôi hài. Tác giả sách Hạnh Tích đã chuyển ngữ các thư tín của Cha Tổ Phụ từ tiếng pháp sang tiếng việt. Những kiểu nói khôi hài riêng cho tiếng việt được tác giả sử dụng, thiết tưởng không làm mất đi tính chất lạc quan mà Cha Tổ Phụ đã sử dụng các thành ngữ của tiếng pháp. Chúng ta đan cử một vài trường hợp.
– Khi đề cập đến sức khỏe của mình, Cha Tổ Phụ luôn có một ánh nhìn lạc quan, dù sự thật không hoàn toàn như vậy.
“Xin cha mẹ lo giữ mình cho khoẻ, cha mẹ biết rằng: nếu cha mẹ liều mình để phải đau yếu thì lỗi đức thương yêu nặng nề như núi! Phần con không cần chi phải giữ cho khỏi phạm tội ấy, vì dầu con gầy còm như con tu hú, con còn khoẻ như cái cầu mới, và mạnh bằng nửa tá người Thổ Nhĩ Kỳ rất lực lưỡng! Không chút bệnh tật chi trong mình con, dầu hơi đau, dầu một chút cũng không!”[3]
“Xin Thánh Tâm Đức Chúa Giêsu phù hộ, an ủi mẹ, ban cho mẹ sự bằng an khoái lạc luôn. Con không phải nói con mạnh khoẻ vì Mẹ đã biết. Thiết tưởng con cân không được 50 ký, song chắc con mạnh bằng hai ba người Thổ Nhĩ Kỳ!” [4]
– Khi miêu tả các lớp giáo lý của mình, Cha Tổ Phụ đã thổi vào nhưng tình huống một chút hương vị khôi hài:
“Con viết thơ này giữa một lũ 60 đứa trẻ, chúng nó đang học kinh bổn om sòm chung quanh con và nhờ lúc con mắc viết đây mà tập võ ngầm với nhau dưới bàn con. Con nói một lũ trẻ vì ở đây người lớn nhiều khi cũng ăn ở như trẻ con, nếu không coi luôn thì người lớn cũng chơi như con nít: các bà thì cãi nhau về giá lúa, giá gạo, các ông thì hỏi nhau về giá thuốc, thuốc ngon thuốc lạt. Đang cãi lẫy chuyện trò với nhau mà thấy bóng cha sở đến thì họ lại la kinh bổn om sòm. Nếu quở trách họ sao làm vậy thì họ trả lời: Bẩm không ạ, chúng con có nói chuyện chi đâu, chúng con cãi lẽ đạo với nhau đó thôi!” [5]
“Cái phòng con dạy học đây vuông vức 5 thước tây, ở giữa có bàn ghế con ngồi, còn họ thì ngồi dưới đất, đàn ông bên hữu đàn bà bên tả, con nít thì bận áo da “mốt Adong Evà”, chạy quanh khắp chỗ, rúc cả vào gầm bàn con, có đứa rung chân bàn, có đứa làm việc tự nhiên xông mùi khó chịu khắp cả nhà. Các ông thì hút thuốc, khói bay cuồn cuộn chung quanh con, các bà thì ăn trầu nhổ nước cốt đỏ lòm như máu. Đó cha mẹ xem cái phòng dạy học của con khác xa phòng khách các ông hào phú, các vị tước công biết chừng nào!” [6]
– Và đây một vài tình huống cuộc sống nơi Phước Sơn:
“Chiều qua con tưởng các Thiên Thần hộ thủ đã gìn giữ chúng con cách lạ: Mấy thầy dòng con đang làm vườn mới phở gần rú, có con chó đi theo. Bác chó đang chạy lăng xăng trong bụi, thình lình chú cọp ở đâu nhảy ra vồ, song vồ hụt. Thất kinh, chó ta cúp đuôi chạy cuốn lại với các thầy, làm họ cũng sợ mà không biết chuyện chi, chỉ một mình con ở sau bụi, thấy rõ chú cọp, cách con có mấy thước, song chú không thèm ngó con, cứ lủi thủi đi, thật vô phép quá! Mặc lòng con làm thinh cho chú, không thèm cái phép lịch sự của chú! Xin mẹ cầu cho chúng con nhiều.”[7]
“Thăm mẹ yêu dấu của con, con viết ba chữ tin cho mẹ hay: cái nhà đẹp nhất của chúng con nay đã biến thành đống tro tàn. Trót cơ nghiệp nhà dòng ở cả trong đó: sách vở, thuốc men, quần áo, vật thực, hột giống thảy thảy đều cháy hết. Mặc lòng chúng con đã hát Magnificat trọng thể tạ ơn Chúa, vì lẽ ra các nhà khác cũng bị đồng một số phận!” [8]
“Con nói có lẽ mẹ không tin, song rất thật, là một hôm lạnh lắm, con run cả mình, vì áo mỏng, nhà trống tứ vi, của ăn lại kém,.. mặc dầu, muôn năm ông thần lạnh, vì Chúa nhân từ muốn thế!” [9]
“Đến giờ cộng đồng an toạ rồi, Cha Bề Trên cầm tờ “OBEDIENTIA”(vâng lời) thứ nhất và kêu: Rev. De Pater Bernarde, đồng thời Ngài lấy chân đun cái đệm quỳ lui ra có ý cho anh em đến lãnh tờ “Obedientia” thì quỳ trên đó, Cha Bernard nghe kêu, chỗi dậy đến trước mặt Ngài, bái sâu và quỳ xuống đất không quỳ trên đệm, Cha Bề Trên làm thinh đọc tờ “vâng lời”: “Con yêu dấu nhân danh Đức Chúa Giêsu, Cha dạy con làm Bề trên II…. Làm quản lý và dạy khoa Thần Học phần Tín Lý …” và cứ tuần tự kế tiếp nhau, các Cha rồi đến các anh, ai tới cũng không quỳ trên đệm, sau 4,5 người như vậy, đến lượt người thứ năm. Thì Ngài lại đẩy cái đệm lui ra hơn, nhưng anh ấy cũng quỳ lui xa hơn, cả nhà đều cười và Ngài cũng cười và nói: “Cha cười vì có tích: xưa có vị Đô Đốc Hải Quân, có bệnh hay “khạc nhổ” bạ đâu nhổ đó, triều thần đã biết, nên khi ông vào chầu Vua, thì sai lính cầm sẵn bình phóng bằng vàng phòng khi ông khạc nhổ đâu thì đem đến song khi đưa đến thì ông lại nhổ ra ngoài, một lúc sau ông lại toan khạc nhổ, lính vội đưa bình phóng đến. Ông nói ngay: “Mi để đó, tao nhổ vô cho mà coi…”. Cả nhà cười ầm lên.”[10]
Một vài đoạn trích trong sách Hạnh Tích cho chúng ta thấy khung cảnh bên ngoài và con người của Cha Tổ Phụ. Những diễn tả bên ngoài mang mầu khổ hạnh nhưng cũng đậm hương vị khôi hài. Nơi ngài có sự dung hợp và hài hòa giữa hai điều như thể khác biệt và bất khả dung hợp: khổ hạnh và khôi hài. Nhưng sâu xa hơn, chính niềm vui là điều giữ thế quân bình cho hai thái cực trên.
VẠN TUẾ CHO SỰ VUI
Khi đọc các giáo huấn thiêng liêng của Cha Tổ Phụ, chúng ta dễ thấy nơi đó ẩn chứa những niềm vui trong nhiều phương diện và dưới nhiều khía cạnh. Khi đề cập đến những vấn đề gây nên khổ đau, ngài thường kết luận bằng cách dẫn tâm hồn các môn sinh của mình đến niềm vui. Chúng ta cùng nghe lại một vài trích dẫn.- Khi đề cập đến “sống kết hiệp với Chúa”, Cha Tổ Phụ xác nhận: “Nếu trong nhà này đặng như vậy, thì vui biết mấy… Vậy sống thiêng liêng, là sống với Chúa, với Đức Mẹ và các thánh trên trời; cũng như chúng ta sống trong nhà này, với Bề Trên và các anh em vậy. Sự sống thiêng liêng thiết thực là như thế đó. Có như vậy, ở trong nhà dòng này mới vui thích.”[11]
– Khi diễn giảng về “ba sự sốt sắng”, ngài bắt đầu bằng một nhận định: “Trong chúng ta có nhiều kẻ buồn, vì khi mới khởi sự đi đàng nhân đức thì hiểu rõ và vui vẻ; bây giờ thì không vui, không sốt sắng chi nữa”[12] .
– Khi giải thích về “đức mến”, Cha Tổ Phụ mời gọi hướng tầm nhìn lên Chúa để hiểu thế nào là tình yêu: “Vì lòng Người yêu chúng ta, nên buộc chúng ta phải kính mến Người, để chúng ta được nhờ mà thôi. Vì khi chúng ta được xem thấy Đức Chúa Trời, thì được sung sướng toại chí phỉ lòng phỉ dạ, không còn thiếu chi nữa”[13]. Và khi đề cập đến tình huynh đệ, ngài cũng rất thực tế khi mời gọi mỗi người tự vấn: “Chúng ta xét xem coi: Trong ngày hôm nay, tôi có làm chi cho Bề Trên và anh em tôi được vui chăng? Coi ngày hôm nay, tôi có cố gắng làm việc chi cho Bề trên và anh em tôi bớt sự khó nhọc không? Nhưng, giúp đỡ anh em bằng sự cầu nguyện thì làm được luôn”[14] .
– Khi mời gọi các đan sĩ mở rộng tâm hồn để “cứu giúp các linh hồn”, Cha Tổ Phụ giúp họ khám phá niềm vui ngay trong những khổ đau khi kết luận: “Vậy, khi chúng ta gặp sự gì trái ý cực lòng, hay sự khốn khó nào, hãy dâng cho Chúa để cứu các linh hồn. Như vậy, ở trong nhà dòng mới vui; và khi gặp sự khó, mới dễ chịu, vì được dịp mà tỏ lòng mến Chúa, cứu các linh hồn cho Chúa”[15] .
– Khi triển khai về việc “thương yêu nhau”, một lần nữa, Cha Tổ Phụ không dừng lại nơi lý thuyết mà nêu lên những yếu tố cụ thể. Trong trường hợp này, ngài nói: “Vậy, cha hết lòng khuyên về sự ấy cách riêng: là hãy yêu thương nhau. Nếu trong nhà, mọi người đều bỏ mình đi mà lo đến anh em cách riêng; thì mọi người trong nhà đều được sự an ủi, vui vẻ biết mấy. Chớ có ai dựa vào bổn phận mà làm cực lòng anh em”;[16] .
– Với một đức tin vững mạnh, Cha Tổ Phụ đã đón nhận và hơn thế nữa, ấp yêu thánh giá trong cuộc đời; chính vì thế, khi đào sâu về sự “yêu mến thánh giá”, ngài có những lời nói phát xuất từ những trải nghiệm sống động: “Nếu chúng ta biết ấp yêu thánh giá vào lòng, thì mọi sự gian nan tân khổ đời này, không làm cho chúng ta nao núng. Có lòng trìu mến Thánh Giá thật, thì ở trong Nhà Dòng này rất đỗi vui mừng. Như vậy, ai làm chi được chúng ta! Bề trên có quở phạt, anh em có khinh chê, đó là Thánh Giá, là điều mình hằng nâng niu trân trọng. Những kẻ ấy ở trong nhà dòng này vui thích biết mấy”;[17] .
– Khi giúp các môn sinh biện phân đâu là “sự kín nhiệm của các thầy dòng contemplativi”, Cha Tổ Phụ khuyến khích: “Biết có Cha chúng ta hằng ở với chúng ta, nào có ai làm chi được, cho nên được bình an vui mừng luôn. “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì; nơi đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi an nghỉ”. Kẻ gặp được Chúa như vậy, thật là thầy dòng. Kẻ ấy hằng khao khát linh hồn người ta, thương yêu anh em mình lắm, và hay xét lành cho anh em. Kẻ gặp được Chúa như vậy, lấy làm vui thích quá chừng, kẻ ấy dầu ai đem cho bạc tiền, cũng chẳng muốn ngó lại, vì đã gặp được Chúa là của vô giá” [18].
– Cha Tổ Phụ đã nhận định rất chính xác là ai có Chúa thì vui mừng khôn xiết. Ngài nêu lên trường hợp Đức Mẹ và bà thánh Isave: “Chúng ta thấy Đức Mẹ vui mừng, bà thánh Isave vui mừng. Bởi đâu Đức Mẹ vui mừng vậy? Vì Đức Mẹ không ở một mình, có Chúa Giêsu ở với. Có Chúa Giêsu ngự trong lòng Đức Mẹ, nên Đức Mẹ được sung mãn ơn phúc”. Ngài cũng nêu lên trường hợp thánh nữ Têrêxa Cả và thánh Phanxicô Assisi, những vị đã cảm nghiệm niềm vui dạt dào vì có Chúa; và ngài kết luận: “Bởi đâu các đấng vui mừng quá vậy? Vì các đấng ấy đã được phúc khác rồi, chứ không phải phúc đời này. Mà hễ bao lâu chúng ta đang còn lấy các sự vui đời này làm cái chi chi, thì chưa được sự vui mừng ấy đâu”[19] .
– Cha Tổ Phụ rất lạc quan về cuộc sống hằng ngày: mỗi ngày đều có niềm vui. Ngài giải thích: “Mùa Áp, là đầu năm Hội Thánh. Chúng ta hãy bắt đầu lại. Bắt đầu một cách vui mừng, mạnh mẽ… Nếu mỗi ngày chúng ta có làm được một việc chi, thì thấy trong mình thêm vui. Mà ngày nào cũng có việc mà làm, cho nên vui luôn. Còn như ở nhưng ở nể, không làm chi, thì chỉ thêm buồn”[20] .
– Những niềm vui ở trần gian này mau qua chóng tàn như Cha Tổ Phụ đã nhận định rằng mọi sự đều mau qua chóng hết. Ngài mời gọi các môn sinh hướng vọng trời cao. Nhưng đâu là biểu hiệu nội tâm để thẩm định là lòng trí đang gắn kết ở đâu. Ngài giải thích: “Chúng ta hãy xét mình xem. Lòng chúng ta có mong mỏi khát khao thiên đàng không? Khi chúng ta suy một ít nữa được về thiên đàng, một ít nữa chúng ta được nhìn thấy Chúa và Đức Mẹ yêu dấu của chúng ta. Khi chúng ta suy như vậy, trong lòng có lấy làm vui, có mong mỏi mau về cùng Chúa không? Nếu thấy trong mình vui sướng, và mong mỏi về với Chúa, ấy là dấu tốt, là dấu linh hồn khỏe mạnh…”[21] .
– Trước giờ phút vĩnh biệt con cái mình vì giờ chết gần đến, Cha Tổ Phụ đã để lại lời trối như một di chúc thiêng liêng làm hành trang cho họ. Ngài không quên nhắc nhở họ về niềm vui thuận theo thánh ý Chúa: “Vậy, trong chúng con chớ có ai buồn, chớ có áy náy lo sợ. Một đi chung cùng nhau, vui vẻ theo Thánh ý Cha chúng ta”[22] .
KẾT:
PHƯỚC CỦA CHÚA VÀ PHÚC CỦA ĐỜI TA
Một vài trích đoạn trong cuốn Hạnh Tích và những điều Cha Tổ Phụ diễn tả trong các giáo huấn thiêng liêng được sưu tập lại trong cuốn Di Ngôn hé lộ cho chúng ta một số khía cạnh về niềm vui nơi ngài. Đó là những niềm vui vừa trong sáng vừa sâu lắng của một tâm hồn sống kết hiệp với Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.
Chúng ta có thể suy diễn rằng niềm vui nơi Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận luôn song hành với cái “Phước”: chỉ ai cảm thấy mình có phước thì mới có niềm vui. Nhưng đó là cái phước nào? Ngài hỏi và trả lời: “Phước của Chúa nghĩa là gì? – Là Chúa biết Chúa, là Chúa yêu mến Chúa trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Mà kẻ có ơn nghĩa, cùng được thông phần sự hiểu biết và tình yêu phước lạc đó”[23] . Và ngài cũng đưa ra những nhận định rất cụ thể: “Chúng ta thì cứ lo ra sức mà tìm những sự hèn hạ đời này, mà quên phước rất trọng là Chúa ở cùng chúng ta. Người ngự thật trong lòng chúng ta, chúng ta thì cứ ra sức tìm một hai chút hèn hạ cho vừa xác thịt…” [24].
Như vậy, phước của Thiên Chúa luôn đi đôi với niềm vui của Chúa, và phước lạc đó được thông chia cho chúng ta. Điều đó minh chứng nơi những ai sống niềm vui và hạnh phúc trong chính cuộc sống và ơn gọi của mình. Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã tìm ra con đường ơn gọi đan tu, hay đúng hơn, Thiên Chúa đã chọn cho ngài và niềm vui, hạnh phúc đó được kết dệt ngay trong sinh hoạt của đời sống ẩn dật này. Chúng ta hãy lắng nghe tâm sự của ngài: “Phần vụ của thầy dòng chúng ta, không phải là hoạt động bên ngoài, nhưng là việc dâng lên Chúa bài ca chúc tụng liên lỉ. Phước của đời chúng ta là trở nên một ‘loài chim’, hót lên lời ca ngợi Chúa, theo gương Đức Mẹ là con chim hót hay hơn cả” [25]. Chính vì thế, ngài hằng cảm tạ Thiên Chúa về ơn gọi đan tu và mời gọi các môn sinh của mình luôn cám ơn Chúa đã gọi vào dòng: “Chúng tôi hãy năng nhớ lại mà cám ơn Chúa, vì Chúa đã thương gọi chúng tôi vô dòng này. Thật là một ơn rất trọng… Một thầy dòng thật, khi có việc phải đi khỏi nhà dòng, hoặc cực chẳng đã phải đi nhà thương, thì khi ấy mới biết phước trọng của kẻ ở trong nhà dòng là thế nào… Vậy, chúng tôi hãy năng nhớ lại, mà hết lòng cám đội ơn Chúa đã ban phước trọng ấy cho chúng tôi, và hằng ra sức ăn ở cho xứng bậc cao trọng ấy, là bậc Chúa đã thương ban cho chúng tôi[26]” .
Niềm vui đời con là Chúa và đời con đang sống đây chính là đời đan tu. Niềm vui Chúa ban cho và con đang hưởng là “NIỀM VUI ĐỜI ĐAN TU”.
[1] Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, Hạnh Tích, tái bản năm 2008, tr.230.
[2] Hạnh Tích, tr.45
[3] Hạnh Tích, tr.46.
[4] Hạnh Tích, tr.187.
[5] Hạnh Tích, tr.55.
[6] Hạnh Tích, tr.54.
[7] Hạnh Tích, tr.143.
[8] Hạnh Tích, tr.158.
[9] Hạnh Tích, tr.164.
[10] Hạnh Tích, tr.226.
[11] Di Ngôn, s.107 “Sống kết hiệp với Chúa”, tr. 126.
[12] Di Ngôn, s.111 “Ba sự sốt sắng”, tr. 132.
[11] Di Ngôn, s.112 “Về đức mến”, tr. 134
[14] Di Ngôn,s.112 “Về đức mến”, tr. 134-135.
[15] Di Ngôn, s.121 “Cứu giúp các linh hồn”, tr. 151.
[16] Di Ngôn, s.122 “Thương yêu nhau”, tr. 152.
[17] Di Ngôn, s.126 “Về sự yêu mến Thánh Giá”, tr. 157.
[18] Di Ngôn, s.141 “Sự kín nhiệm của các thầy dòng contemplativi”, tr. 182.
[19] Di Ngôn, s.144 “Đức Mẹ thăm viếng bà Isave”, tr. 186.
[20] Di Ngôn,s.146 “Mùa Áp : Hãy bắt đầu lại”, tr. 188.
[21] Di Ngôn,s.148 “Về sự khát khao thiên đàng”, tr. 190.
[22] Di Ngôn, s.150 “Lời trối”, tr. 193.
[23] Di Ngôn, s.108 . “Về ơn nghĩa”,, tr.128
[24] Di Ngôn, s.109 “Khi được ơn nghĩa thì được gì?”, tr.130.
[25] Di Ngôn, s.128 “Không nên than van kêu trách”, tr.161.
[26] Di Ngôn, s.133 “Cám ơn Chúa đã gọi chúng tôi vào dòng”, tr.167-168.
NIỀM VUI TRONG PHỤNG VỤ
Đan viện An Phước
Cuộc sống mỗi người đều có niềm vui riêng của mình, vì nếu không có niềm vui thiết tưởng khó có thể được bình an, hạnh phúc. Thật thế, Niềm vui trong đời sống gia đình cha mẹ, vợ chồng, và con cái cùng vui vầy với nhau nơi những mâm cơm, những cuộc chuyện trò tâm sự thắm đượm tình thân ái, đầy ắp tình gia đình. Bên cạnh đó niềm vui còn đến từ tình nghĩa bạn bè gặp gỡ chuyên trò cùng nhau. Riêng đời sống đan sĩ ngoài những niềm vui gặp gỡ huynh đệ, còn có một niềm vui vượt trên tất cả đó là niềm vui trong phụng vụ. Qua phụng vụ đan sĩ được gặp gỡ Chúa và hiệp thông với tha nhân.
I.GẶP GỠ CHÚA
Đan sĩ tìm thấy niềm vui khi gặp được Thiên Chúa và kết hiệp với Ngài qua mọi sinh hoạt hàng ngày, mà chóp đỉnh là Phụng vụ. Qua Phụng vụ, Thiên Chúa được tôn vinh, con người được thánh hoá. Theo Hiến chế về Phụng Vụ Thánh, Phụng vụ bao gồm Thánh lễ, các Bí tích, các giờ kinh Thần vụ, các Á Bí tích và các cử hành phụng tự khác được giáo hội địa phương phê chuẩn. Trong nội dung bài này, chỉ xin đề cập đến niềm vui trong các giờ Kinh Phụng vụ và Thánh lễ.
1.Giờ Kinh Phụng Vụ
Mục đích của Giờ kinh phụng vụ là để tôn vinh Thiên Chúa, mưu ích cho bản thân, cho Giáo hội và thế giới.
a.Tôn vinh, ca ngợi Thiên Chúa
Đức Kitô khi xuống trần gian đã mang theo bản thánh ca được hát muôn đời trên thiên quốc. Chính Người kết hiệp với con người và liên kết với họ để cùng hát bản thánh ca ngợi khen này[1].Giáo hội là chi thể, kết hợp với Đức Kitô là đầu để không ngừng tiến dâng Chúa Cha lời ca chúc tụng tạ ơn. Giáo hội uỷ thác việc này cho các đan sĩ, họ nhân danh Giáo hội chu toàn mệnh lệnh “hãy cầu nguyện không ngừng”[2] . Qua đó, đan sĩ cảm thấy một niềm vui khôn tả khi “vừa chu toàn trách vụ của Giáo hội, vừa thông phần vinh dự tối cao của Hiền Thê Chúa Kitô”[3] .
Đan sĩ tôn vinh Thiên Chúa qua những thái độ và tâm tình chúc tụng, ngợi khen, thờ lạy, cảm tạ, thống hối và cầu xin… , Thiên Chúa lắng nghe, dủ tình xót thương, tha thứ lỗi lầm, chúc lành và ban ơn thánh hoá. Sự tôn vinh Thiên Chúa không chỉ mang lại lợi ích cho đan sĩ mà còn cho cả Giáo hội và thế giới.
b. Mưu ích cho Giáo hội và thế giới
Đan sĩ thực sự tìm thấy niềm vui khi sống vì tha nhân và cho tha nhân. Thật vậy, đan sĩ luôn mang trong tim mình, trong lời kinh của mình những khát vọng của con người và thế giới, bởi vì “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng”[4] của đan sĩ. Do đó, khi cử hành giờ kinh Thần vụ, đan sĩ ca ngợi Thiên Chúa, cầu bầu cho phần rỗi thế giới và đem lại sức sống, hoa trái thiêng liêng dồi dào cho Giáo hội. Tuy nhiên, công cuộc tôn vinh Thiên Chúa và thánh hoá con người sẽ hoàn hảo hơn trong Thánh lễ.
2.Thánh Lễ
Thánh lễ gồm hai phần: Phụng vụ lời Chúa và Phụng vụ Thánh thể, cả hai đều liên kết với nhau tạo nên một Phụng tự duy nhất[5].
a.Phụng vụ Lời Chúa
Không thể thiếu Lời Chúa khi cử hành Phụng vụ, vì Đức Kitô hiện diện trong Lời của Ngài. Vì thế, khi thừa tác viên công bố Lời Chúa, là lúc Đức Kitô đang nói Lời của Ngài. Thừa tác viên giải thích Lời Chúa cũng chính là lúc hướng mọi người đến với Đức Kitô. Do đó, khi đón nhận Lời Chúa và giáo huấn của Ngài, đan sĩ thêm lòng can đảm, nghị lực, tràn đầy sức sống và được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Sự biến đổi ấy càng hoàn hảo hơn khi đan sĩ kết hiệp với Đức Kitô qua Bí tích Thánh thể.
b.Phụng Vụ Thánh Thể
Phụng Vụ Thánh Thể là hiện tại hoá sự chết, sự sống lại và lên trời vinh hiển của Đức Kitô. Nhờ đó, Ngài đã tiêu diệt tử thần và ban cho con người sự sống mới trong Đức Kitô. Từ đó, ân sủng tuôn đổ trên con người, thánh hoá con người và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi con người. Khi đan sĩ đón nhận Mình và Máu Đức Kitô làm của ăn thiêng liêng nuôi sống tâm hồn, đó là lúc đan sĩ kết hợp với Đức Kitô qua Bí tích Thánh thể, và được sống niềm vui ơn cứu độ, chan hòa trong mối tình hiệp thông.
II.TÌNH HIỆP THÔNG
Đan sĩ cử hành phụng vụ sẽ mang lại niềm vui trong cuộc sống. Niềm vui đó không đơn thuần ở vẻ bề ngoài, nhưng được bắt nguồn từ niềm vui của chính Chúa – cội nguồn niềm vui. Nói theo ngôn ngữ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đó là “Niềm vui Phúc Âm”. Niềm vui này tuy âm thầm nhưng mãnh liệt dàn trải trong cuộc sống của mỗi người, mỗi cộng đoàn. Phúc Âm luôn mang chiều kích cộng đoàn. Cộng đoàn hiệp thông có Chúa Kitô làm đầu và chi thể là Giáo Hội. Một sự hiệp thông liên đới giữa Giáo hội lữ hành, Giáo hội khải hoàn và Giáo hội thanh luyện. Sự hiệp thông đó là nền tảng cho đời sống cộng đoàn, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong mối tương giao huynh đệ.
1.Hiệp thông với Đầu và chi thể
a.Hiệp thông với Đức Kitô là đầu
Niềm vui trong phụng vụ được tràn đầy, bởi chúng ta được hiệp thông với Đức Kitô là đầu. Hiệp thông với Đức Kitô cũng chính là thông phần vào ơn cứu chuộc của Ngài. Còn niềm vui nào lớn hơn niềm vui ấy. Đích điểm cao nhất của đời sống Kitô hữu nhằm đạt đến niềm vui nên một với Đức Kitô. “Chúa Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết để đem ơn cứu độ đến cho nhân loại. Những ai muốn được thông phần vào ơn cứu độ của Chúa Kitô thì phải hiệp thông với Chúa Kitô và Giáo Hội của Người”[6].
Cũng vậy, khi phụng vụ, đan sĩ cảm nghiệm niềm vui vì thấy mình đang góp phần nối kết với Đức Giêsu Kitô là đầu, để Chúa tuôn đổ ơn lành xuống cho trần gian.
Khi cử hành các Giờ Thần vụ, nhất là trong Thánh lễ, đan sĩ không còn làm với tính cách cá nhân, nhưng cùng hiệp thông với toàn thể Giáo Hội phổ quát. Bởi vì, chỉ khi nào liên kết với Đức Giêsu Kitô và chỉ trong Đức Giêsu Kitô, con người mới được cứu độ. “Đức Giêsu Kitô là người duy nhất đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì vậy chỉ có Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, là Đấng Trung Gian duy nhất và hoàn hảo có thể đem ơn cứu độ cho con người”[7]. Ngay từ thời Giáo hội tiên khởi đã minh định: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12).
Đức Kitô là đầu Hội thánh. Hiệp thông với Đức Kitô thì cũng hiệp thông với Giáo hội của Người và hiệp thông với thế giới.
b. Hiệp thông với các chi thể
Trong giờ phụng vụ, đan sĩ không nhân danh mình, nhưng nhân danh Giáo hội để ca tụng Thiên Chúa; không thi hành theo ý mình, nhưng theo ý Giáo hội, không cử hành một mình, nhưng cùng toàn thể Giáo hội. Thật vậy Phụng vụ là của Giáo hội nên dù cử hành một mình vẫn mang tính phổ quát của toàn thể Giáo hội. Đan sĩ ý thức điều đó nên hân hoan thi hành sứ vụ cách nhiệt thành, sốt sắng, tươi vui. Cùng với anh em, đan sĩ hợp lòng dâng lên Chúa lời kinh tiếng hát nhân danh Giáo hội. Sự hiệp thông này trở thành “mối duyên” tăng trưởng đức mến và tinh thần phục vụ trong cộng đoàn.
Khi bước vào giờ Thần vụ, mọi người cùng hoà chung lời kinh tiếng hát với nhau, dẫu anh là Bắc, em là Nam hay Trung, nhưng mỗi cung giọng đều được hoà quyện với nhau hợp thành một bản hoà tấu nhịp nhàng, du dương, trầm bổng mà ca tụng Thiên Chúa. Tất cả mọi người đều hoà hợp với nhau giữa những khác biệt, hòa hợp nhưng vẫn không bị hoà tan.
Trong sự khác biệt đó, Chúa Giêsu là nguồn cội liên kết mối hiệp thông giữa anh em. Mối hiệp thông nầy bao hàm một dây liên đới thiêng liêng giữa các phần tử của Giáo Hội, trong tư cách là chi thể của cùng một Thân Thể, và hướng tới việc làm cho họ kết hợp thực sự trong đức ái, qua việc kiến tạo “mối giây đồng tâm nhất trí chung”. Mối hiệp thông đó hướng tới việc kết hiệp trong cầu nguyện, do cùng một Thần Khí gợi hứng lên nơi mọi người để “làm cho toàn thể Giáo Hội được sung mãn và hiệp nhất”[8] .
Đức ái là linh hồn của sự thánh thiện mà Thiên Chúa mời gọi tất cả chúng ta đạt đến: “Đức ái chi phối mọi phương thế nên thánh. Đức ái là linh hồn của mọi phương thế và đưa chúng đến cùng đích”[9] .
Hiệp thông trong Đức ái là chia sẻ với nhau mọi sự về thiêng liêng cũng như vật chất, đến nỗi “không ai phải thiếu thốn”[10] , và sự thánh thiện hay tội lỗi của một người đều ảnh hưởng đến cả cộng đoàn, “nếu một bộ phận nào đau thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang thì mọi bộ phận cùng vui chung”[11] .
Sự hiệp thông trong phụng vụ không chỉ là ở trong đan viện, nhưng được mở ra với toàn nhân loại. Đan sĩ liên đới với xã hội và môi trường mình được đặt vào. Cao hơn nữa, qua phụng vụ, đan sĩ đem đến cho thế giới một chứng từ về niềm hy vọng cánh chung.
Dẫu ở trong nội vi đan viện, đan sĩ được Giáo hội uỷ thác việc loan báo và làm chứng Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, trong mầu nhiệm Giáo hội hiệp thông. Khi đó, mầu nhiệm hiệp thông được hiện thực hoá cách rõ rệt hơn. Mầu nhiệm hiệp thông quy tụ mọi sự và mọi người lại trong Đức Giêsu Kitô. Mầu nhiệm này trở nên bí tích hiệp nhất, nối kết mọi sự trong mọi người. Ngoài ra đan sĩ không chỉ hiệp thông với giáo hội chiến đấu nhưng còn hiệp thông với giáo hội thanh luyện và giáo hội khải hoàn.
2. Hiệp thông với Giáo hội khải hoàn và Giáo hội thanh luyện
a. Hiệp thông với Giáo hội khải hoàn
Trong mầu nhiệm các thánh thông công, Giáo hội cùng hiệp nhất với nhau để dâng lời ca tụng Thiên Chúa. Giờ Thần vụ, đan sĩ cùng hiệp với các Thiên thần và các thánh trong Giáo hội khải hoàn ca tụng tôn vinh Thiên Chúa. Công đồng Vaticanô II đã minh định:
“Phụng vụ trần gian là nơi chúng ta tham dự bằng cảm nếm trước phụng vụ trên trời, được cử hành trong thánh đô Giêrusalem, nơi chúng ta là những lữ khách đang tiến về, ở đó Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa như một thừa tác viên của cung thánh, của nhà tạm đích thực; phụng vụ trần gian là nơi chúng ta hợp cùng toàn thể đạo binh trên trời đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa: trong khi kính nhớ các thánh, chúng ta hy vọng được thông phần và đoàn tụ với các Ngài; chúng ta mong đợi Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta, cho đến khi chính Người là sự sống chúng ta sẽ xuất hiện và chúng ta cũng sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang”[12] .
Trong niềm xác tín vào mầu nhiệm các thánh thông công, khi lâm chung, thánh Đaminh nói với anh em trong dòng: “Xin anh em đừng khóc, sau khi chết, tôi sẽ có ích cho anh em hơn, sẽ giúp anh em hiệu quả hơn khi tôi còn sống”[13] . Thật vậy, trong Giáo hội lữ hành, các tín hữu không ngừng nhìn lên các thánh nơi Giáo hội khải hoàn với lòng yêu mến và tôn kính để noi gương sáng của các Ngài và xin các Ngài phù giúp.
Trong Giáo hội khải hoàn, các thánh gắn bó mật thiết hơn với Chúa Kitô, hằng chuyển cầu cho các tín hữu và góp phần làm cho Giáo hội lữ hành thêm thánh thiện… Các Ngài không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha và không ngừng lo lắng cho chúng ta trong tình huynh đệ. Nếu như tình hiệp thông giữa các Kitô hữu trên trái đất giúp ta sống với Chúa Kitô hơn, thì sự hiệp thông với các thánh càng giúp ta hiệp nhất với Chúa Kitô hơn nữa [14] . Phụng vụ của Giáo hội không dừng lại đây nhưng còn hiệp thông với Giáo hội thanh luyện.
b. Hiệp thông với Giáo hội thanh luyện
Giáo hội Chúa Kitô là một cộng đoàn hiệp thông. Tất cả mọi thành phần dân Chúa đều hiệp thông với nhau trong Chúa Kitô, dù hiện tại đang còn trong tình trạng khác nhau, nhưng vẫn hiệp thông cùng nhau trong đức mến. Từng thành phần dân Chúa đều nhận lãnh Thánh Thần của Chúa Kitô, hợp nhất với nhau trong Chúa Kitô, trong một Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Vậy nên, sự hợp nhất giữa những người còn sống nơi trần thế với các thánh trong Giáo hội khải hoàn, và anh chị em trong Giáo hội thanh luyện không tách rời nhau.
Tất cả chúng ta đều hiệp thông với nhau trong Chúa theo cách thức khác nhau. Dù đang sống trong Giáo hội lữ hành với anh chị em hay với các linh hồn trong Giáo hội thanh luyện hoặc với các thánh trong Giáo hội khải hoàn, sự hiệp thông cũng không hề bị gián đoạn. Vì tất cả chúng ta đều ở trong và thuộc về Chúa Kitô, đồng thời cùng lãnh nhận Thánh Thần của Ngài. Từ đó hợp thành một Giáo hội hiệp thông, Giáo hội hiệp nhất quy tụ trong Chúa Kitô[15] .
Phụng vụ nơi Giáo hội lữ hành rộn lên niềm vui mừng, khi cùng hiệp thông với toàn dân thánh, dâng lời ca tụng Thiên Chúa và nguyện xin lòng lân tuất của Chúa thương giải thoát các linh hồn trong Giáo hội thanh luyện sớm về hợp đoàn với các thánh trong Giáo hội khải hoàn. Ngược lại, các linh hồn nơi Giáo hội thanh luyện vẫn có thể cầu nguyện cho chúng ta đang ở trong Giáo hội lữ hành. Lời chuyển cầu cho các linh hồn nơi Giáo hội thanh luyện càng hiệu nghiệm hơn, khi chúng được thực hiện trong Phụng vụ[16] . Sự hiệp thông đó, đem lại niềm vui tươi, phấn khởi trong giờ phụng vụ biết bao. Vì chúng ta không cử hành đơn độc, nhưng cùng hiệp thông với toàn thể dân thánh.
Qua những gì vừa trình bày cho thấy niềm vui hòa quyện trong tâm hồn đan sĩ, vì họ được vinh dự ca tụng Thiên Chúa thay cho toàn thể Giáo hội. Hơn nữa trong việc cử hành phụng vụ, họ không làm một mình nhưng cử hành với tất cả triều thần thánh trên trời. Đó chính là niềm vui hưởng nếm trước phụng vụ thiên quốc ngay tại trần gian. Ước mong các đan sĩ hân hoan đi cử hành phụng vụ mỗi khi nghe hiệu báo giờ thần vụ.
[1] X. Hiến chế Phụng vụ, 83
[2] 1Tx 5,17
[3] Hiến chế Phụng vụ, 85
[4] Hiến chế Mục vụ, 1
[5] X.Hiến chế Phụng vụ, 56
[6]http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GIAOLUAT/TuSachGiaoLyGP/LichSuOnCuuDo/Chuong7.htm
[7]http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GIAOLUAT/TuSachGiaoLyGP/LichSuOnCuuDo/Chuong7.htm
[8] X.http://www.htth.org/so/so05/05a_giao_hoi_hiep_thong.html
[9] LG số 423
[10] LG số 42
[11] X.1Cr 12,26
[12] Hiến chế Phụng vụ, số 8
[13]http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GIAOLUAT/ TuSachGiaoLyGP/GiaoAnKinhThanhIII/Bai07.htm
[14] X.Hiến chế GH 49 -51 & SGLHTCG 954 -957
[15] X.http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GIAOLUAT/TuSachGiaoLyGP/GiaoAnKinhThanhIII/Bai07.htm
[16] X.2Mcb 12, 38-45; GH 49-50
ĐỜI THÁNH HIẾN
Thiên Giang
Con về khoác áo hồng ân
Tình cha cảm tạ tri ân tháng ngày
Yêu đời thánh hiến nồng say
Cha đưa nhập cuộc con rày không quên
Tình thơ khúc nhạc lên đền
Khiêm nhường cô tịch xây đời đan tu
Yêu thương cuộc sống cho dù
Đường đi mấy nẻo mịt mù gió giông
Như khi trời tỏa nắng hồng
Biển tình cha dẫn bềnh bồng thuyền trôi
Giêsu đường Chúa mà thôi
Tình yêu, Chúa chịu trên đồi đóng đinh
Tặng trao đời một chữ tình
Hương kinh nguyện với an bình trần gian
LỜI CHÚA CHIẾC LA BÀN
FM. Giuse Khang Tiên
Từ thuở xa xưa, con người đã biết nhìn xem sao trời để định hướng đi, hoặc nhìn hướng gió theo mùa để biết phương hướng. Đến thể kỷ 12, người Trung Quốc đã phát minh ra la bàn dùng để định hướng trên đất liền hay giúp đi biển đúng hướng. Xã hội ngày càng văn minh, máy móc càng tối tân hiện đại, việc chế la bàn tìm ra phương hướng trong hành tinh trái đất nhỏ bé này quả là quá dễ. Nhưng để có một “la bàn thiêng liêng” thì không dễ chút nào, nên đã có biết bao người bị lầm đường lạc lối… Vậy con người cần một “la bàn thiêng liêng” để hướng dẫn. La bàn đó là chính Chúa hay Lời Chúa.
Đọc Kinh Thánh, người ta lấy làm thích thú khi nghe chuyện người Do Thái hành trình trong sa mạc 40 năm: “Đức Chúa đi đằng trước họ, ban ngày có cột mây dẫn đường, ban đêm có cột lửa soi sáng, nên họ có thể đi ban ngày lẫn ban đêm” (Xh 13,21). Câu chuyện Giáng Sinh cũng sinh động không kém: ngôi sao lạ dẫn đường cho các đạo sĩ đến nơi Hài Nhi Giêsu sinh hạ (x. Mt 2,10).
Tuy nhiên, để tiếp tục dẫn dắt dân Chúa, Thiên Chúa dùng Lời Ngài được mặc khải trong Kinh Thánh qua các ngôn sứ và cuối cùng là chính Đức Giêsu – Ngôi Lời nhập thể: “Thưở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2).
Nhưng Lời Chúa mang lại cho con người những hiệu quả nào? Theo Christophe de Dreuille, Lời Chúa mang lại cho con người bốn hiệu quả sau đây:
– Lời Chúa làm cho chúng ta thành những con người, theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa.
– Lời Chúa làm cho chúng ta thành những khách hành hương.
– Lời Chúa làm cho chúng ta thành những ngôn sứ.
– Lời Chúa làm cho chúng ta thành những người con của Chúa[1] .
Theo đề tài của bài này, chúng ta có thể trình bày: Lời Chúa làm cho chúng ta thành những khách hành hương. Quả thật, theo giáo huấn của Công Đồng Vatican II, Giáo Hội như một cuộc hành trình về quê trời[2] vì “quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20). Khách hành hương cần sự hướng dẫn, như vịnh gia đã nói: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105). Vậy dù trong bất cứ trường hợp nào, con người cần đến sự hướng dẫn của Chúa. Dưới đây xin được phác họa hai điểm sau:
1. Luật Chúa hướng dẫn.
2. Đức Giêsu – Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa.
1. Luật Chúa hướng dẫn
Từ thưở xa xưa, những quốc gia được xem là văn minh khi có hệ thống pháp luật được thiết lập vững chắc. Ngày nay cũng vậy, xã hội càng hiện đại, luật lệ càng được áp dụng cách triệt để hơn. Luật lệ được thiết lập để bảo vệ con người chứ không phải lấy mất tự do con người. Con người yêu mến luật bởi vì luật làm cho xã hội trật tự hơn, quyền con người được bảo toàn hơn. Đây là sự thật, không ai sống trên đời này lại phủ nhận giá trị của luật lệ.
Cũng vậy, ngay từ thuở khai sinh Israel, người ta quan niệm Lời Chúa như là luật và quy tắc cho đời sống. Thời giao ước Sinai, Môisê đại diện Thiên Chúa đã ban cho dân “hiến chương tôn giáo và luân lý” gồm tóm trong mười “Lời”, đó là Thập Giới (x. Xh 20,1-17; Đnl 5,6-22). Có lẽ chính vì thế, dân tộc Do Thái được đánh giá là dân tộc văn minh, dù là dân tộc nhỏ bé, họ giữ lòng trung tín với Thiên Chúa và trở thành một dân tộc danh giá trước các dân tộc khác.
Sở dĩ dân Do Thái buộc phải tuân giữ luật, vì đó chính là Lời Chúa. Cũng chính vì vậy mà các nhà hiền triết đã nhìn thấy nguồn mạch hạnh phúc nơi đó:
“Kẻ chú tâm vào lời Chúa dạy sẽ gặp chuyện tốt lành,
người đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA thật hạnh phúc dường bao” (Cn 16,20).
Vậy, luật là phần chính yếu trong nhiệm cục tôn giáo chuẩn bị Israel đón nhận sự cứu rỗi. Chính những đòi hỏi của luật, cho dù có vẻ gắt gao, vẫn là một hồng ân, vì chúng có mục đích biến Israel thành dân tộc khôn ngoan tuyệt vời (x. Đnl 4,5-8) và cho họ thông hiệp với ý muốn của Thiên Chúa. Chúng tạo nên một ngôi trường cứng rắn để tập cho “dân tộc cứng đầu” ấy quen với đời sống thánh thiện mà Thiên Chúa mong chờ nơi họ[3] .
Trong thực tế cuộc sống, đã biết bao người tự dẫn lối theo phương cách của mình, và họ đã bị lạc lối. Họ không biết rằng, lời ngôn sứ Giêrêmia đã nói: “Lạy ĐỨC CHÚA, con biết rằng: Con đường mình đi, người ta không làm chủ, bước chân mình tiến, lữ khách không thể định đoạt” (Gr 10,23). Bất cứ người nào cố chấp trong đường hướng của mình đều sẽ bị thất vọng nếu không chấp nhận sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Về điều này, thánh Grégoire de Nysse diễn tả: Khi con người dựa vào chính mình, nó sẽ chỉ là một con người phiêu bạt, lang thang trong thế giới này, chao đảo và điêu đứng, bước đi vô định hướng. Tất cả những cố gắng bước tới đều làm nó kiệt quệ vô ích, không khác gì người bước đi trên cát, không thể trèo lên cao mà chỉ thụt xuống[4].Để trách lầm lạc này, con người cần một chiếc “la bàn thiêng liêng” là chính luật Chúa để hướng dẫn con người đi đúng hướng.
Vậy luật (Torah) hướng dẫn đời sống dân Chúa trong mọi lãnh vực. Những qui luật luân lý, đặc biệt nổi bật trong Thập Giới gợi lên những đòi hỏi căn bản của lương tâm con người với một sự chính xác và vững chắc mà các triết gia ngoại giáo thời thượng cổ đã không luôn luôn đạt được[5] . Origène đã khuyên môn đệ của mình là Grégoire de Césarée từ bỏ tìm kiếm triết học để đi sâu vào tìm hiểu Kinh Thánh là nguồn cội của mọi sự khôn ngoan[6] .
Ngày nay, giới trẻ thường chạy theo những trào lưu tư tưởng mới. Jean-Paul Sartre một thời đã lôi kéo giới trẻ theo học thuyết vô thần của mình. Thế nhưng, chủ nghĩa vô thần ngày càng mất uy tín và không còn đứng vững nữa. Các giáo thuyết mới xuất hiện khắp nơi, nhất là ở Châu Mỹ, nhưng rồi cũng chỉ nhất thời. Vậy họ khác nào người đi biển mà không mang theo la bàn, hay quá tự tin vào ý nghĩ chủ quan của mình mà không cần đến “la bàn thiêng liêng” đang sẵn có để hỗ trợ họ. Cho nên, những điều vững chắc nhất là kinh nghiệm của con người, đã mấy ngàn năm nay tin vào Lời Chúa trong Kinh Thánh, đã dẫn đường và mang lại hạnh phúc cho con người dương thế.
2. Đức Giêsu Kitô – Ngôi Lời Thiên Chúa
Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô (thánh Giêrônimô). Vậy người ta biết gì về Đức Giêsu Kitô – Ngôi Lời Thiên Chúa ?
Từ Ngôi Lời, tiếng Pháp gọi là “Verbe”, tiếng Latin “Verbum”, hai từ này được sử dụng để dịch từ “Logos” trong tiếng Hy Lạp. Theo tin mừng Gioan, từ này được xác định là Đức Giêsu Kitô: “Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1).
Đức Giêsu Kitô – Ngôi Lời Thiên Chúa, nên Lời của Ngài được xem như đường hướng dẫn con người: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). “Chúa Kitô là đường nói với chúng ta: ‘con muốn đi đâu? Thầy là con đường. Con muốn đến đâu? Thầy là sự thật. Con muốn ở đâu? Thầy là sự sống’. Vậy với tất cả vững tâm, chúng ta hãy bước đi trên đường; và nếu ở bên ngoài con đường, chúng ta hãy lo sợ gặp những cạm bẫy; vì trên đường, quân thù không dám tấn công – con đường chính là Đức Kitô; nhưng nếu đi ngoài con đường sẽ bị kẻ thù giăng bẫy. Đường của chúng ta, đó chính là Đức Kitô trong sự khiêm hạ của Người” (thánh Augustinô, bài giảng 142)[7] . Đức Kitô là chiếc la bàn, không những chỉ cho con người đi đúng hướng, mà còn tránh được mọi cản trở để con người tiến về mục tiêu nhanh hơn.
Khi Nguyên Tổ phạm tội, con người mất ơn nghĩa Chúa, nhưng nhờ Đức Giêsu, nhân loại được giao hòa với Thiên Chúa. Quả thế, Ngài là con đường dẫn đưa nhân loại đến với Thiên Chúa Cha, như thánh Phaolô nói: “Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian giao hòa với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải” (2Cr 5,19). Nơi khác, thánh Phaolô nói tiếp: “Cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên Thập Giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20). Là con đường, Đức Giêsu giao hòa nhân loại với Thiên Chúa Cha, điều đó cũng có nghĩa là đưa con người trở về tình trạng hạnh phúc ban đầu. Và qua Đức Giêsu, con người sẽ bước vào cõi phúc vĩnh hằng mà Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại.
Các thánh Giáo Phụ đã có công lớn trong việc giảng dạy và nghiên cứu Lời Chúa, những tư tưởng của các ngài đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn dân Chúa. Công Đồng Vatican II đã khẳng định rằng: “Giáo Hội đã luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu. Cùng với Thánh Truyền, Thánh Kinh đã và đang được Giáo Hội xem như là qui luật tối cao hướng dẫn dức tin, được Thiên Chúa linh ứng và đã được ghi chép một lần cho muôn đời[8] .” Vậy, Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội luôn khẳng định tầm quan trọng của Đức Giêsu, Ngài vừa là mẫu gương vừa là đường dẫn lối cho nhân loại. Qua Bí Tích Thánh Thể, Ngài trở nên nguồn ân sủng, để từ đó, nhân loại lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.
Tóm lại, qua luật Chúa và giáo huấn của Ngài, con người được hướng dẫn đường đi nước bước để có những quyết định khôn ngoan và tránh những cạm bẫy trong cuộc sống. Qua các Bí Tích, con người được dồi dào ân sủng và trở nên nghĩa tử trong Đức Kitô. Nhờ đó, con người đảm bảo phần phúc lộc là sự sống đời đời trên thiên đàng mà Thiên Chúa hứa ban.
KẾT
Trong thực tế cuộc sống, Lời Chúa được đón nhận bằng những cách thức khác nhau: tất cả đều “nghe”, nhưng chỉ những người “hiểu” (x. Mt 13,23) hoặc “tiếp nhận” (Mc 4,33) hoặc “giữ” Lời đó (Lc 8,15) mới thấy Lời Chúa sinh hoa trái trong họ. Cũng thế, cuối bài giảng trên núi, khi vừa công bố Luật mới, Đức Giêsu đối chiếu số phận của những kẻ nghe Lời Chúa và đem ra thực hành với số phận của những kẻ nghe Lời Chúa mà không đem ra thực hành (x. Mt 7, 24.26; Lc 6,47.49): một bên thì giống như ngôi nhà được xây trên đá; bên kia xây trên cát . Vậy ai đã nghe lời Chúa rồi bỏ qua, thì bị xếp vào hạng người “xây nhà trên cát[9] ”. Còn ai nghe và thực hành Lời Chúa mới được xem như người “Xây nhà trên đá”, “la bàn thiêng liêng” giúp con người đi đúng hướng mà mình muốn đến, và nắm chắc phần rỗi mà Thiên Chúa hứa ban cho kẻ “khôn ngoan và trung tín khi chủ về mà còn tỉnh thức”.
Vậy những kẻ nghe Lời Chúa, họ phải dành cho Lời Chúa một sự đón tiếp tin tưởng và khôn ngoan trong lòng. Dưới khía cạnh mạc khải và nguyên tắc của đời sống, Lời Chúa là ánh sáng đối với họ (Tv 119,105). Dưới khía cạnh lời hứa, Lời Chúa là một bảo đảm cho tương lai [10]. Như la bàn đưa người ta đến đích điểm, Lời Chúa dẫn đưa con người đến bờ bến hạnh phúc thiên đàng.
Về phần những người phục vụ Lời Chúa, họ có thể cung cấp cách hữu hiệu cho dân Thiên Chúa của ăn Lời Chúa có sức soi sáng tâm trí, tăng cường ý chí, thiêu đốt lòng người ta yêu mến Thiên Chúa [11]. Vậy tất cả giáo sĩ, nhất là các linh mục Chúa Kitô và những ai thi hành chính đáng việc phục vụ Lời Chúa với tư cách là phó tế hoặc giảng viên giáo lý, cần phải khắng khít với Thánh Kinh bằng việc chuyên cần đọc sách thánh và học hỏi kỹ càng; nếu không sẽ có người trong họ trở thành “kẻ giảng dạy Lời Thiên Chúa bên ngoài luống công, vì bên trong không nghe lời đó” (thánh Augustinô), trong khi họ phải thông truyền những kho tàng vô tận của Lời Chúa cho các tín hữu đã được giao phó cho họ[12] . Họ được xem như đã có trong tay la bàn, thì cũng cũng biết cách giúp người khác đi đúng hướng. Những gì họ lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Đó là dấn thân phục vụ nhân loại vì phần rỗi anh chị em mình.
—————————————————————
SÁCH THAM KHẢO :
1. Điển ngữ thần học Thánh Kinh, tập II, Giáo Hoàng học viện, Đàlạt, 1974.
2. Công Đồng Vatican II, Senatus Sài Gòn xuất bản, 1969.
3. Christophe de DREUILLE, Nuôi sống mình bằng Lời Chúa (Nourris-toi de la Parole de Dieu), Bản dịch của Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist., 2013.
4. Giorgio ZEVINI, Lectio Divina trong cộng đoàn Kitô hữu, bản dịch của GB. Nguyễn Tiến Dũng, 2013
[1] Christophe de DREUILLE, Nuôi sống mình bằng Lời Chúa (Nourris-toi de la Parole de Dieu), Bản dịch của Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist., 2013, trang 35.
[2]X. Công đồng Vat II, hiến chế Tín Lý về Giáo Hội, số 49.
[3]X. Điển ngữ thần học Thánh Kinh, tập II, Giáo Hoàng học viện, Đàlạt, 1974, trang 413.
[4] X. Christophe de DREUILLE, op. cit., trang 42.
[5] X. Điển ngữ thần học Thánh Kinh, op. cit., trang 411.
[6] X. Giorgio ZEVINI, Lectio Divina trong cộng đoàn Kitô hữu, bản dịch của GB. Nguyễn Tiến Dũng, 2013, trang 6.
[7]X. Christophe de DREUILLE, op. cit., trang 235.
[8]Công đồng Vat II, Hiến chế tín lý về mạc khải, số 21.
[9]Điển ngữ thần học Thánh Kinh, op. cit., trang 401.
[10]Điển ngữ thần học Thánh Kinh, op. cit., trang 399
[11]Công đồng Vat II, Hiến chế tín lý về mạc khải, số 23.
[12] Ibidem, số 25.
NIỀM VUI
ĐƯỢC THỂ HIỆN TRONG TIN MỪNG
FM. Đinh Gioan
Khi nhắc đến nỗi buồn không ai lại không nghĩ đến niềm vui, vì người ta chỉ biết mình buồn khi so sánh với niềm vui mà mình đạt được. Niềm vui và nỗi buồn là hai mặt của một cuộc sống đa dạng, nó tạo nên những nét phong phú kỳ diệu cho đời sống con người. Theo Đức Giáo Hoàng Phanxicô thì còn có một niềm vui khác mà con người thời nay ít nhắc đến là Niềm Vui đến từ Tin Mừng: “Niềm vui của Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu. Những người để cho mình được Người cứu độ, được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn rầu, trống rỗng nội tâm và cô lập” [1]. . Đối với chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta có tìm thấy được niềm vui đó trong cuộc sống không?
Câu hỏi được đặt ra khó có một câu trả lời chính xác cho tất cả mọi người, nhưng có một điều đáng ghi nhận: nếu trong cuộc sống thường nhật, các Kitô hữu biết để ý, đối chiếu với Tin Mừng thì sẽ có nhiều cơ hội nếm cảm được niềm vui này. Vì niềm vui Tin Mừng được trải dài suốt lịch sử của một đời người và Chúa Giêsu luôn mong muốn cho chúng ta có được một niềm vui viên mãn, đó cũng là điều mọi người luôn khao khát.
1. Niềm vui trong đời thường
Trong cuộc sống thường ngày của con người, niềm vui và nỗi buồn, đau khổ và hạnh phúc đan xen lẫn nhau, nhưng hình như con người chỉ nhìn thấy một mặt của cuộc sống, chứ không phải cả hai. Một khi chúng ta buồn, chúng ta chỉ thấy một mầu xám đen ảm đạm, cho dù bầu trời có trong xanh, muôn hoa có đua nở, chim đàn có ríu rít… Vì nỗi buồn đang gậm nhấm đến nỗi chúng ta không cảm nhận được niềm vui, như người ta thường nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Tại sao họ không vui được? Tin Mừng thánh Gioan kể lại câu chuyện tiệc cưới Cana (x. Ga 2,11-12). Gia chủ không hề biết rượu đã hết và cũng không hề nghĩ tới tiệc cưới sẽ có một kết thúc tốt đẹp, tràn ngập niềm vui cho cả quan khách và đôi tân hôn. Như vậy, niềm vui đó không đến từ đôi tân hôn hay vị chủ tiệc mà đến từ Chúa Giêsu qua sự can thiệp của Mẹ Maria. Điều đó cho thấy, ở đâu có Chúa Giêsu ở đó có niềm vui trọn vẹn và ở đâu Chúa Giêsu hiện diện, Ngài sẽ mang lại niềm vui cho mọi người.
Cũng vậy, Luca 1,11-56 kể lại niềm vui của hai người mẹ. Một người đã cao niên mà Chúa vẫn đoái thương cho bà cưu mang một người con. Đối với bà Elisabeth thì không có niềm vui nào bằng vì “Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời”. Người kia là một thiếu nữ, không biết đến chuyện vợ chồng, nhưng được một niềm vui hết sức cao trọng là cưu mang Đấng Cứu Thế, Đấng giải thoát dân khỏi tội. Trước mặt người đời, hai niềm vui này xem ra rất bình dị, nhưng nó vô cùng to lớn, vì chính Thiên Chúa mang đến cho con người niềm vui. Một niềm vui không phải cho cá nhân nào đó, nhưng qua họ để đến với tất cả mọi người.
Tin Mừng đã ghi lại những niềm vui rất đời thường như thế. Điều đó muốn nói gì nếu không phải là Thiên Chúa luôn quan tâm đến tất cả mọi sinh hoạt của con người và Ngài muốn cho con người được sống vui. Vì thế, Ngài đến và hiện diện để làm cho niềm vui được nên trọn vẹn và viên mãn.
Ngày nay, một số người quên mất Thiên Chúa đang hiện diện, họ mải mê chạy theo chủ nghĩa duy cá nhân, hưởng thụ và duy vật chất, khiến cho họ không cảm nhận được niềm vui thực sự trong cuộc sống thường nhật của mình. Sự thiếu vắng này ngăn cản họ ra khỏi mình để hướng đến người khác, tạo lập niềm vui. Vì thế, họ sống trong ích kỷ, với một “khuôn mặt đưa đám”.
2. Niềm vui của người mẹ
Tin Mừng Luca kể lại: Mẹ Maria đã vội vã lên đường đến thăm viếng bà Elisabeth và mang niềm vui cho bà. Mẹ không chỉ mang đến niềm vui cho người chị họ qua sự quan tâm chia sẻ, nhưng mẹ còn đưa đến chính Đấng là Niềm Vui, đến nỗi hài nhi Gioan còn trong bụng mẹ, cũng đã nhảy mừng, vì được Thiên Chúa đến viếng thăm. Có lẽ khi mang thai bà Elisabeth đã có một cảm nghiệm sâu sắc về tình mẫu tử, bà mong muốn người con được khoẻ mạnh và đến ngày “mãn nguyệt khai hoa” sẽ được “mẹ tròn, con vuông”. Đó là ước mong rất đơn sơ của một người mẹ. Ước mong đó, càng được nhân lên gấp bội khi được Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa đến thăm và chăm sóc. Mẹ Maria đang mang thai và Mẹ biết rất rõ Mẹ phải làm gì để cho người chị họ, cũng như cho người con đang được cưu mang có được những gì tốt đẹp nhất.
Hình ảnh Mẹ Maria và bà Elisabeth trong thiên chức làm mẹ được thuật lại dưới ngòi bút của thánh Luca tràn ngập một niềm vui: Niềm vui được thăm viếng, niềm vui được chúc phúc và niềm vui được phục vụ. Niềm vui đó chỉ xuất hiện khi mọi người biết đón nhận Chúa vào trong cuộc đời của mình và trao cho nhau chính tình yêu của Thiên Chúa.
3. Niềm vui khi được giải thoát khỏi tội lỗi
Bốn Tin Mừng đã liệt kê nhiều gương mặt được Chúa Giêsu tha thứ và giải thoát, mà điển hình là Matthêu (x. Mt 9,9-13; Mc 2,13-17; Lc 5,27-32); Giakêu (x. Lc 19,1-10) và người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,1-11; Lc 7,36-50).
Đây là những người được Chúa Giêsu giải thoát khỏi tội lỗi và cho được hưởng niềm vui trọn vẹn là chính Chúa. Khi có Chúa, Matthêu đã bỏ phía sau ông bàn thu thuế là nguồn sinh lợi và các bổng lộc hậu hĩnh. Cũng như Matthêu, khi gặp được Chúa, ông Giakêu sẳn sàng phân phát một nửa gia tài của mình cho người nghèo; trả lại gấp bốn cho những ai ông đã chiếm đoạt. Sau cùng là người phụ nữ ngoại tình, một khi đã được tha thứ, chị đã thực hiện một cuộc đổi đời và chỉ còn dành tình yêu cho một mình Chúa Giêsu. Vậy, khi đã gặp được Chúa Giêsu, thì Mattheu, Giakeu và người phụ nữ ngoại tình đã bỏ tất cả quá khứ sau lưng không tiếc nuối, chỉ còn phó thác cuộc đời cho Chúa. Vì họ xác tín rằng: Chúa không làm cho những ai dám thực hiện cuộc mạo hiểm này phải thất vọng, và khi một người nào bước một bước nhỏ về phía Chúa Giêsu, người ấy nhận ra rằng mình được Người chờ đợi với vòng tay rộng mở. Đây là thời điểm để thưa cùng Đức Giêsu Kitô: “Lạy Chúa con đã để cho mình bị lừa dối, bằng mọi cách con đã chạy trốn tình yêu Chúa, nhưng con đang ở đây một lần nữa để lập lại giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin Chúa chuộc con lại một lần nữa. Lạy Chúa, xin một lần nữa đón nhận con trong vòng tay cứu độ của Chúa” [2].
4. Niềm vui được giải thoát khỏi buồn sầu
Tin Mừng ghi nhận trong nhiều trường hợp người ta đón nhận niềm vui khi được Chúa giải thoát buồn sầu. Điển hình: trường hợp người đàn bà loạn huyết 12 năm được chữa lành (x. Mt 9,18-22; Mc 5,21-43; Lc 8,40-56); việc Chúa cho con trai đàn bà goá sống lại (x. Lc 7,11-17), và người bại liệt được Chúa chữa lành (x. Ga 5,1-9).
Bệnh tật và cái chết mang đau khổ đến cho con người. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu được tâm trạng của các nhân vật được Chúa chữa lành trên. Ba hình ảnh này không nói lên hết mọi khổ đau của nhân loại, nhưng cũng phản ảnh một phần nào những đau khổ của cuộc đời. Một người mẹ đau khổ vì con trai duy nhất đã bỏ bà ra đi vĩnh viễn. Anh ra đi khi tuổi còn thanh xuân, làm tiêu tan tất cả niềm hy vọng mà bà rất kỳ vọng; anh ra đi làm cho trái tim bà tan nát. Còn nỗi đau buồn nào bằng nỗi đau mất người con yêu dấu. Và thật tình cờ, Chúa Giêsu đã đến, trả lại sự sống cho người con trai, trả lại niềm vui cho người mẹ đau khổ. Sự việc xem ra tình cờ, nhưng không có gì tình cờ trong tình yêu của Thiên Chúa.
Cũng vậy, người bại liệt nằm bất toại cần sự giúp đỡ của người khác thì giờ đây cũng vui mừng nhảy nhót. Anh không còn bị bại liệt, không cần đến sự giúp đỡ của người khác nữa. Anh có thể đi lại và làm những gì anh muốn. Anh không còn buồn sầu và cô độc mà rất vui sướng vác chõng của mình về nhà (x. Ga 5, 9).
Như vậy, chính Chúa Giêsu đã giải thoát và cứu chữa họ khỏi buồn sầu, ban cho họ niềm vui, một niềm vui không ai có thể lấy mất được.
Ngày nay cũng có rất nhiều mảnh đời đau khổ. Họ cũng cầu xin Chúa Giêsu đến cứu và giải thoát họ. Đáp lại, họ được gì? Đây là vấn nạn cho tất cả chúng ta hôm nay. Một thách đố cho niềm tin của thời đại và của con người sống trong thế giới này.
5. Niềm vui khi được thoát khỏi sự trống rỗng nội tâm và cô lập.
Ba hình ảnh: Người trộm lành (x. Lc 23,9-43); người con hoang đàng (x. Lc 15,11-31) và người bị quỉ ám sống trong khu mồ mả (x. Mt 8,28-34; Mc 5,1-20; Lc 8,26-39) được diễn tả trong Tin Mừng theo thánh Luca đã nói lên niềm vui được giải thoát khỏi sự trống rỗng và cô lập.
Tin Mừng Luca cho thấy người con thứ nhất quyết dứt tình cha ra đi để sống một cuộc sống như ý mình. Anh ra đi với một tài sản lớn được người cha phân chia cho. Sau một thời gian phung phá, anh phải đi chăn heo để kiếm ăn. Anh cảm thấy đói, khổ nhục, trống rỗng và cô đơn, vì tất cả đều lìa xa anh. Trong cảnh cùng cực của sự ruồng bỏ này, anh đã nghĩ đến cha và tin rằng dầu sao về nhà cha sẽ đỡ khổ hơn. Thế rồi anh đi về với cha. Anh đã có được gấp hàng ngàn lần anh ta mong ước, vì được đón tiếp không như một người phản bội, nhưng như một người con yêu. Tình yêu của cha giúp anh ta vượt ra khỏi mặc cảm tội lỗi để sống đúng thân phận của mình.
Đau khổ và chua xót hơn là hình ảnh của người bị quỉ ám, phải sống trong khu mồ mả và bị người đời xa lánh, bỏ rơi. Anh hoàn toàn bị cô lập khỏi đời sống xã hội và cộng đồng. Anh sống nhưng như thể đã chết. Trong đáy vực sâu ấy, anh đã gặp Chúa Giêsu và Ngài đã giải thoát anh khỏi sự cô lập, dẫn anh về với cuộc sống như một con người thực sự. Trong khi đó, tên gian phi mà người ta thường gọi là “tên trộm lành” đã trải qua một cuộc đời khác người. Dưới mắt mọi người, anh là người cần phải bị loại trừ, loại trừ vì không còn có giá trị gì cho xã hội nữa và phải lãnh nhận một cái chết trên thập giá. Chúa Giêsu không loại trừ anh, nhưng Ngài còn hứa cho anh hạnh phúc thiên đàng. Hạnh phúc của những con người sống trong sự hiệp thông của yêu thương.
Kết:
Thế giới hôm nay không thiếu những mảnh đời tan vỡ, đau thương như những nhân vật trong Tin Mừng. Họ đang bị xã hội ruồng bỏ, cô lập. Hoặc là họ đang phải dằn vặt và khổ đau vì cuộc sống của họ không xứng đáng là cuộc sống của một con người. Họ sống nhưng không khác gì họ đang sống trong hoả ngục. Họ chỉ muốn chết để tự giải thoát. Họ đang cần một bàn tay để nâng đỡ và Chúa đang mời gọi chúng ta: hãy đưa bàn tay cho họ và trao cho họ một niềm vui dầu là nho nhỏ.
Chúng ta chỉ có thể cho họ niềm vui và đưa bàn tay của mình ra khi chúng ta nắm lấy bàn tay của Chúa Giêsu, bàn tay nhân ái, bàn tay yêu thương. Làm sao chúng ta có thể nắm lấy bàn tay của Chúa được đây? Đức Phanxicô mời gọi chúng ta hãy đi bước trước, tham gia, đồng hành, sinh hoa trái và ăn mừng [3]. Hãy đi ra khỏi mình để sống sứ điệp của Tin Mừng, vì chỉ có sứ điệp Tin Mừng mới có thể cho chúng ta và thế giới này niềm vui mà không ai có thể lấy đi được.
[1]Đức Phanxicô, tông huấn “Niềm vui Tin Mừng”, số 1I
[2]Sdd, số 3
[3]Sdd, số 24
CHO VÀ NHẬN
Đan viện Phước Hải
Lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô nhắc nhở chúng ta một chân lý: Khi biết cho đi, chính là lúc được nhận lãnh. Cho và nhận là hai yếu tố không thể tách rời nhau, tạo nên mối dây liên đới trong đời sống con người. Bởi vì tự bản chất, con người có xã hội tính. Tính chất xã hội này chi phối các hoạt động của con người và tạo nên các mối liên kết để cùng nhau chia sẻ, đón nhận, hầu làm cho các mối tương quan giữa người với người, giữa con người và xã hội được phát triển hài hoà, đồng điệu. Các mối liên kết này cho con người cảm nhận rằng: “không ai là một hòn đảo”. Nếu có ai tự tách mình thành những “ốc đảo” thì các “ốc đảo” ấy cũng không thể tách rời khỏi thế giới này.
Đời sống thánh hiến, đặc biệt là đời sống Đan tu được định nghĩa như là cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Thiên Chúa là đối tượng duy nhất mà Đan sĩ tìm kiếm. Chúng ta chỉ có thể tìm kiếm được Thiên Chúa qua và với Chúa Giêsu: “Không ai biết Cha trừ ra Con và những người mà Con muốn mạc khải cho” (Mt 11,27). Như vậy, Tìm kiếm Thiên Chúa là ơn được trao ban cho mọi người. Trao ban để làm gì? Chắc chắn để chúng ta đón nhận và trao ban cho người khác. Nhờ thực hiện việc “Cho và Nhận” này mà đời sống Đan sĩ được phong phú và sẽ đạt tới tầm vóc viên mãn trong Chúa Kitô (x. Ep 4,13).
I. Cho và nhận
1. Khuôn vàng thước ngọc
Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã giới thiệu một khuôn mẫu được coi như khuôn vàng thước ngọc:“Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta”(Mt 7,12). Khuôn mẫu này giúp chúng ta thực hiện các bổn phận đối với nhau không phải theo tính tự nhiên, nhưng theo gương của Chúa Cha, Đấng ban phát ơn lành cho mọi người, không phân biệt kẻ lành người dữ, “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45b). Theo mẫu gương đó, các môn đệ Đức Kitô phải vượt qua mọi rào cản để có thể biểu lộ tình yêu với những người không cùng một gia đình, huyết tộc, những người mình không thương mến hay không thân thích để gia nhập vào đại gia đình của Thiên Chúa, nơi đó tất cả mọi người là anh em với nhau. Thế nhưng, chúng ta phải thực hiện khuôn vàng thước ngọc này thế nào trong cuộc sống cụ thể?
2. Cách cho quý hơn của cho
Tất cả những gì chúng ta có đều do nhận lãnh, nên điều quan trọng không phải chúng ta cho những gì mà chính là cách cho. Câu chuyện thánh Phêrô với người què nơi cửa Đền Thờ là một minh chứng. Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại việc thánh Phêrô gặp một người què ở Cửa Đẹp và đã nói với anh ta rằng: “Vàng bạc thì tôi không có, nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: Nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nazaret anh hãy đứng dậy mà đi” (Cv 3,6). Thánh nhân không có của cải, nhưng ngài cho điều mà người què cần: trở lại tình trạng bình thường. Ngài cho không theo tư cách cá nhân, nhưng nhân danh Chúa Giêsu, là Đấng chữa lành và ban cho anh què niềm vui. Như thế, thánh Phêrô đã thể hiện được tấm lòng mà ngài đã nhận được từ Chúa Giêsu: luôn quan tâm và hướng về người khác, đặc biệt là những người bất hạnh.
Câu chuyện cho chúng ta một hướng dẫn cụ thể: người biết cho là người có tấm lòng trắc ẩn, xót thương, quên mình để đến với người khác. Người biết cho là người luôn tôn trọng và vì người khác. Họ có thể là người thân, hay người xa lạ, người nghèo về vật chất hoặc về tinh thần. Vậy, khi biết cho đi cách vui vẻ là chúng ta đang thể hiện tấm lòng yêu thương của Thiên Chúa. Chẳng hạn như cuộc đời của Mẹ Têrêxa Calcutta là một cuộc đời hiến tặng tất cả cho người nghèo. Mẹ đã trao ban một món quà tình yêu vô giá với một nét mặt luôn luôn vui tươi. Mẹ không tìm kiếm danh vọng, nhưng chấp nhận hy sinh. Mẹ cho đi tất cả và cho đi với nét mặt vui tươi, vì mẹ đã ý thức mình nhận lãnh nhưng không từ Thiên Chúa trong cuộc đời dâng hiến của mình.
II. Niềm vui trong đời sống dâng hiến.
Hình ảnh tươi vui của mẹ Têrêxa Calcutta là hình ảnh của người sống đời sống thánh hiến. Tu sĩ phải là người vui luôn, vui vì họ sống và chết cho một mối tình; vui vì đời sống tu là làm chứng cho tình yêu của Đấng đã yêu con người và yêu cho đến kỳ cùng (x. Ga 13,1). Niềm vui đó được thể hiện trong đời sống rất bình thường qua việc cho và nhận. Nó đi liền với công việc hàng ngày, với các giờ nghỉ ngơi, giải trí và thể hiện trong các mối tương quan của đời sống cộng đoàn.
1. Niềm vui dâng hiến.
Sống trong cuộc đời dâng hiến, chúng ta có rất nhiều niềm vui đơn sơ bình dị mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta: niềm vui được sống, được làm con Chúa; niềm vui đơn sơ khi chúng ta thưởng thức vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, khi công việc của chúng ta được hoàn thành một cách tốt đẹp, khi giúp người khác làm một công việc có ích.
Ngoài ra, chúng ta còn có một niềm vui thâm sâu hơn mà thánh Gioan đã diễn tả trong Tin Mừng:“Từ nguồn sung mãn của Thiên Chúa chúng ta lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 4,16). Niềm vui đó còn được thánh Phaolô diễn tả qua việc Đức Giêsu tự hạ và ở với chúng ta: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (2 Cr 8,9). Chính Chúa đã khước từ mọi vinh quang, để chia sẻ tất cả những yếu đuối của thân phận con người. Người đã trao ban cho nhân loại đến giọt máu cuối cùng trên Thánh Giá. Đó là cách trao ban tràn đầy của Thiên Chúa Cha qua Con Một yêu dấu của Ngài và đó cũng là lời mời gọi chúng ta hãy sống như Chúa trong cuộc đời dâng hiến của mình. Lời mời gọi này chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta biết mở rộng lòng mình để đón nhận ơn Chúa cách trân trọng và biết ơn.
Một khi chúng ta đã đón nhận nhưng không thì phải trao ban nhưng không (x. Mt 10,8b). Tuy nhiên, thực tế cuộc sống cho thấy: chỉ Thiên Chúa mới cho nhưng không, còn chúng ta luôn bon chen và tính toán: “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại” [1] . Chúng ta phải làm gì để cuộc sống dâng hiến của mình luôn là một đón nhận và trao ban trong niềm vui? Chúng ta chỉ có thể vui khi sống và noi gương Đấng đã mang đến sự sống, niềm vui cho chúng ta. Ngài đã vạch ra cho chúng ta con đường để tạo ra niềm vui cho mọi người. Đó là con đường tự huỷ của Đức Giêsu mà thánh Phaolô đã diễn tả trong thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô: “Đấng vốn giàu sang phú quí, nhưng đã tự trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có”( 2 Cr 8, 9). Đây cũng là con đường mà Đan sĩ phải đi để có được niềm vui đích thực trong đời dâng hiến.
2. Dâng hiến thế nào?
Trong cuộc sống chung, chúng ta không thể tránh được những va chạm làm khổ nhau. Vì thế, chúng ta cần quên bản thân mình, để đến với người khác bằng sự cảm thông và chia sẻ, thể hiện lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Quan tâm chia sẻ với những người xung quanh là điều quan trọng trong đời sống huynh đệ. Chúng ta chỉ cần cho một nụ cười, một thái độ, một câu chào, một lời khích lệ… với một tâm hồn nhạy bén để hiểu được người khác đang cần gì. Điều này không dễ với những người sống theo tính tự nhiên, vì tự sức mình khó có thể sống một tình yêu đích thực.
Theo tính tự nhiên, chúng ta chỉ đến với những người mà ta quí mến, những người đã làm ơn cho ta. Khi tặng ai vật gì thì cũng mong nhận lại một thứ tương đương, hoặc khi nhận của ai thứ gì quí giá, chúng ta ôm ấp, nâng niu, gìn giữ và quí trọng, nếu không đền trả được thì mang ơn suốt đời. Nhưng tình yêu đích thực mời gọi ta vượt lên tất cả những lệ thuộc đó; không so đo, tính toán, nhưng biết quan tâm đến người khác, sẵn sàng giúp đỡ và diễn tả ngang qua hành động. Để làm được như vậy, chúng ta không hướng về mình mà cần cảm nhận nỗi lo âu, khắc khoải của tha nhân. Ngoài ra, chúng ta phải chân nhận sự thật là chúng ta đón nhận từ Thiên Chúa nhiều ơn lành, qua trung gian tha nhân.
3. Cho thế giới và cho Giáo Hội
Tuyên ngôn của Hội Dòng Xitô Thánh Gia đã minh định: “Đan sĩ Thánh Gia là chứng tá tình yêu Thiên Chúa giữa nhân loại, bằng sự thông hiệp với Chúa Giêsu Cứu Thế, trong hy sinh thầm lặng và lời cầu nguyện tha thiết để cứu giúp các người chưa nhận biết Chúa” (TN, số 4). Đan sĩ không dấn thân trực tiếp vào môi trường hoạt động có tính xã hội, không làm những việc lớn lao như bao người khác, nhưng không có nghĩa đan sĩ không giúp ích thế giới; trái lại, đang góp phần xây dựng thế giới bằng một cách thức khác, đó là cầu nguyện và trở nên chứng nhân cho sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới này. Theo nghĩa này, đan sĩ rất gần gũi với thế giới, với con người. Nhờ đời sống cầu nguyện, có thể nói đan sĩ trở nên trung gian để chuyển thông ơn Chúa cho thế giới. Bằng đời sống âm thầm trong cô tịch, đan sĩ đang chuyển tải cho thế giới sứ điệp yêu thương của Thiên Chúa. Sứ điệp đó không gì khác hơn như lời thánh Gioan nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,16). Vì thế, “nếu trung thành với ơn thiên triệu, họ sẽ tham gia đắc lực vào sứ mệnh cứu rỗi nhân loại, thánh hiến và xây dựng trần gian” (TN, số 33).
Thế nhưng, trước khi góp phần xây dựng thế giới, đan sĩ phải là những con người ở trong, ở với và cùng với Giáo Hội. Nói cách khác, đan sĩ luôn sống và hiệp thông với Giáo Hội. Cũng như Công đồng Vat II đã minh định trong sắc lệnh Đức Ái Hoàn Hảo:“Người đan sĩ dù sống trong cô tịch và thanh vắng, nhưng vẫn sống theo chiều kích của Giáo hội. Cùng chia sẻ niềm vui cũng như những âu lo khắc khoải của nhân loại trên đường tìm về với Chúa, các đan sĩ không ngừng hiệp thông với Giáo hội trong đời sống cầu nguyện và hy sinh. Các đan sĩ phát huy và sống triệt để ơn gọi, bằng việc tông đồ kín đáo nhưng rất phong phú” (số 9). Đan sĩ chia sẻ niềm vui và âu lo khắc khoải của thế giới nhờ được hiệp thông với Giáo Hội, thể hiện tình yêu của Chúa trong cuộc sống thường nhật, qua những nụ cười, lời an ủi, sự lắng nghe; sự hy sinh…. Những thể hiện này tuy nhỏ bé, giản đơn nhưng đòi hỏi các đan sĩ phải thực hiện một cuộc đi ra khỏi mình. Chính việc “đi ra” này sẽ là chứng tá cụ thể của Tin Mừng, chứng tá của “Trời mới đất mới”.
Kết luận
Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa đích thực khi biết cho đi và đón nhận một cách chân thành. Cho vì tình yêu mà nhận cũng vì tình yêu: “Đừng ai tìm ích lợi cho riêng mình, nhưng hãy tìm ích lợi cho người khác” (Pl 2,4). Cho đi và đón nhận là điều kiện cần để con người sống trọn vẹn ơn gọi làm người. Nó còn cần thiết hơn nữa đối với đan sĩ, là những con người tìm kiếm một mình Thiên Chúa tình yêu (x. 1 Ga 4,8).
Chính trong sự sống và tình yêu đó mà người ta nhận biết được chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu (x.Ga 13,35). Trong cuộc sống này, “Cho và Nhận”. Đó là lời mời gọi và cũng là thách đố mà Đan sĩ cần phải đối diện để làm chứng cho “Niềm Vui Tin Mừng”.
[1]Tục ngữ Việt nam
NIỀM VUI TRỞ VỀ
FM. Phạm Thanh Toàn
Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo, Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng (Tv. 125).
Những thanh nam thiếu nữ, sau bao năm ấp ủ giấc mộng tu trì, một ngày kia đánh bạo từ giã cha mẹ, anh chị em, bà con hàng xóm láng giềng, tay nải tay xách cất bước lên xe đò đến nhà dòng. Kiên trì tu luyện đến lúc khấn hứa và được trở về quê nhà vinh qui bái tổ, tổ chức lễ tạ ơn long trọng. Lòng hân hoan khấp khởi khi xuống xe bước vào đầu làng. Nào lọng đào, nào hoa, nào trống phách, thiếu nhi đồng phục sẵn sàng rước cha – thầy – sơ vào làng. Khuôn mặt ai cũng vui tươi rạng rỡ: Niềm vui trở về !
Niềm vui trở về đó rất thực, rất chính đáng của những tu sĩ trẻ và của gia đình họ. Những tu sĩ trẻ trở về quê vui mừng vì họ đã ra đi trong nước mắt, ra đi trong phiêu lưu, ra đi mà không biết mình đi đến đâu, giống như ông Abraham rời quê cha đất tổ đến nơi Chúa sẽ chỉ. Họ vui mừng vì biết mình được kêu gọi và đã đáp trả tiếng Chúa gọi “đến nơi Chúa sẽ chỉ”. Tuy nhiên niềm vui đó chỉ là một phần nhỏ trong cuộc đời và chỉ là hình ảnh mờ nhạt của niềm vui trở về trong đời người. Chúng tôi mạo muội chia sẻ hành trình tiệm tiến niềm vui trở về của đời người qua ba khía cạnh: Niềm vui được chữa lành, niềm vui hoán cải và niềm vui hy vọng được sống lại. Điều sau cùng này là niềm vui rốt ráo của Tin Mừng.
Niềm vui: kinh nghiệm được chữa lành
Trong Tin Mừng Nhất Lãm có kể câu chuyện người bị quỉ ám được Chúa Giêsu chữa lành đã xin được ở với Ngài, nhưng Ngài nói: “Anh cứ về nhà và kể lại mọi điều Thiên Chúa đã làm cho anh” (Lc 8,39). Cũng như bất cứ người nào trong thời đại chúng ta, khi khấn xin ơn chữa lành bệnh tật và đã được toại nguyện thì vui mừng tạ ơn Chúa, tạ ơn các thánh đã thương chuyển cầu và chữa lành; họ vui mừng tạ ơn qua việc dâng cúng lễ vật và nhất là thay đổi cuộc đời. Người bị quỉ ám này đã xin được theo Chúa Giêsu, xin được ở với Người, nhưng Chúa Giêsu lại sai anh đi rao giảng công trình của Thiên Chúa đã thực hiện nơi anh. Anh ta đã biến đổi cuộc đời.
Chúng ta dễ dàng đọc ra niềm vui của anh bạn này. Anh vui mừng vì anh đã tìm lại được quyền làm người. Trước đây anh ở trong đám mồ mả, nơi ở của người chết. Nơi đó tượng trưng cho thế giới chết chóc, không phải thế giới con người. Trước đây sống như người mất trí nên những gì cần thiết cho con người lại không cần thiết cho anh. Bây giờ anh xin được ở với Chúa Giêsu và nhất là chính Chúa đã sai anh đi như một con người có đầy đủ mọi tương quan cần thiết là một môn đệ của Ngài: ở với Người và được Người sai đi. Ai có thể diễn tả được niềm vui này của anh khi anh được trở lại con người bình thường.
Một người đàn bà bị bệnh băng huyết đã mười hai năm được chữa lành nhờ đã can đảm chạm vào áo Chúa Giêsu. Ai có thể cảm nhận được nỗi vui mừng của bà khi được chữa lành? Hay nỗi vui mừng của ông Giaia, trưởng hội đường, khi con gái của ông đã chết mà được Chúa Giêsu cho sống lại? Không ai có thể cảm nhận trọn vẹn niềm vui của người đã trải qua cơn bệnh ngặt nghèo mà được chữa lành, hay như những người tưởng chừng như đã chết mà được cứu sống.
Như trường hợp một người bạn trong Hội Thân Hữu của chúng tôi đang điều trị bệnh ung thư đến nay đã là năm thứ ba. Những “bạn đồng nghiệp” của Anh cùng điều trị chung ngay từ thời gian đầu, nay đã chết không còn ai, thế mà anh vẫn sống! Như thế chúng ta có thể hình dung những khó khăn hầu như ngoài sức chịu đựng của Anh, và của những người thân chăm sóc Anh, nhất là chi phí chữa trị cho Anh. Những nguyên do mà các “bạn đồng nghiệp” của Anh ra đi trước có thể là tuyệt vọng vì thiếu kinh phí chữa trị, vì bệnh trở nên quá trầm trọng và mặc cảm bị bệnh nan y.
Cảm nghiệm tình trạng tuyệt vọng của người bệnh nan y, tôi cũng cảm nghiệm phần nào khao khát được làm một con người với tình trạng sức khỏe bình thường. Nhất là tôi hình dung ra kinh nghiệm về niềm vui khi được chữa lành căn bệnh hiểm nghèo như vậy chắc sẽ rất lớn. Kinh nghiệm chữa lành cũng có thể đưa đến kinh nghiệm hoán cải tâm hồn. Tôi không còn nhớ rõ một trường hợp cụ thể nào, nhưng trong ký ức tôi nhớ lại đã được nghe nói đến nhiều người được chữa lành cách lạ lùng, sau đó cũng được ơn hoán cải tâm hồn rất sâu xa.
Niềm vui: kinh nghiệm hoán cải
Đã là con người ai cũng có tội, tội làm con người xa lìa Thiên Chúa. Vì thế, hoán cải là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết giúp con người tìm lại được niềm vui khi gặp được Chúa Giêsu. Như trường hợp ông Giakêu đã có sáng kiến trèo lên một cây sung để nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng hành vi này cho thấy tầm nhìn của ông về Chúa Giêsu vượt lên trên mọi người. Dân chúng đông đảo nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng họ thấy Chúa Giêsu như thấy nhiều người khác, không có gì đặc biệt. Trái lại ông Giakêu nhìn thấy Chúa Giêsu như người có khả năng cứu độ mình và bản thân ông dường như đã sẵn sàng để được cứu độ. Chúa Giêsu nhìn ông và nói: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Giakêu vui mừng đón rước Ngài vào nhà. Niềm vui đó làm ông phấn khởi thốt lên lời “xưng thú tội lỗi”: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8). Lời tuyên xưng ấy dường như cũng là lời tuyên chứng đức ái, tuyên xưng tình yêu của mình với Thiên Chúa và tha nhân. Nay ông đã là bạn của người nghèo khi tuyên bố phân nửa tài sản của mình thuộc về họ; ông đã là bạn hữu của Thiên Chúa khi thể hiện lòng thương xót và công bình của Ngài qua huấn lệnh đền trả gấp bốn cho những ai bị chiếm đoạt của gì.
Con người càng nhận ra mình tội lỗi bao nhiêu, khi được Chúa biến đổi thì niềm vui càng dâng tràn và sâu thẳm bấy nhiêu. Đúng vậy, với gánh sầu nặng trĩu trên vai, gánh đam mê trong cuộc đời đã vắt kiệt sức của họ lúc nào không hay, và khi đã đạt đến vực thẳm sự khốn cùng của thân phận con người, họ nhận biết họ là ai và nhận biết Ai có thể kéo họ ra khỏi cảnh bế tắc này.
Được ơn hoán cải đã vui mừng đến thế, hy vọng được sống lại còn vui hơn nhiều.
Niềm vui: hy vọng sống lại
Suốt cả Tuần Bát Nhật Phục Sinh, Giáo hội cử hành phụng vụ long trọng như một ngày duy nhất, là ngày Chúa Nhật Phục Sinh để diễn tả niềm vui. Niềm vui của Chúa Giêsu phục sinh đem đến cho con người một niềm hy vọng là sẽ được phục sinh với Ngài. Chị Maria Mađalêna cũng cảm nhận được niềm vui khi được Chúa gọi tên mình. Chỉ cần nghe đúng tên mình là chị nhận ra Thầy và chạy lại ôm chân Thầy, không muốn rời xa Thầy. Các môn đệ, cách riêng ông Gioan và ông Phêrô khi chạy ra mộ, đã thấy sự việc mộ trống nên các ông vui mừng và tin Chúa đã sống lại. Hai môn đệ trên đường Emmaus, thất vọng trở về quê nhà, đã được nhận ra Chúa Giêsu đang khi Ngài đồng bàn với họ, lòng họ rực lên niềm vui. Sau khi nhận được niềm vui đó, họ hân hoan trở về Giêrusalem chia sẻ niềm vui với các anh em khác…
Một thực tế được ghi nhận từ những điều nêu trên, đó là phải phân biệt niềm vui thuộc cảm tính và niềm trong tâm hồn; niềm vui thuộc cảm tính chỉ là cửa ngõ để đi vào niềm vui trong tâm hồn nên rất mau qua chóng hết hoặc thay đổi theo hoàn cảnh. Còn niềm vui của tâm hồn được diễn tả qua kiểu nói của Đức Mẹ: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,47) niềm vui đó bền vững, xuất phát từ sự bình an đích thực của Thiên Chúa.
Nếu ta chỉ có niềm vui thuộc cảm tính, việc cử hành phụng vụ dù có long trọng đến mấy cũng chỉ là một gánh nặng phải chu toàn. Các môn đệ theo Đức Giêsu, trước ngày khổ nạn và phục sinh, có lẽ cũng chỉ do cảm tính thúc đẩy và nếu có cao thượng hơn thì cũng chỉ nghĩ rằng Thầy Giêsu sẽ là Đấng giải thoát Israel, sẽ làm vua và mình sẽ cùng cai trị dân Israel với Thầy. Thầy đã chết. Hy vọng tiêu tan.
“Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8). Đây là niềm vui và là niềm hy vọng đích thực của thánh Gioan. Cái thấy của một con người đau đáu đi tìm chân lý diễn tả một hành trình đầy gian khổ. Để thấy, phải đi tìm. Nói đi tìm là nói đến mạo hiểm và phiêu lưu, nói đến mệt mỏi và nhục nhằn, nhưng trên hết vẫn là nói đến điều gì đó rất kỳ thú. “Ai tìm sẽ thấy”. Một khi thấy rồi sẽ đặt toàn bộ niềm tin của mình vào đối tượng tìm thấy đó và đầu tư trọn vẹn cơ nghiệp của mình, dấn thân rốt ráo cho niềm hy vọng đang theo đuổi. “Tìm được viên ngọc quí rồi, ông ta về bán hết gia nghiệp để mua viên ngọc đó”.
Thánh Luca có nói đến địa danh “gần Bêtania”. Chúa Giêsu phục sinh dẫn các môn đệ đến đây, Ngài chúc lành cho các ông và lên trời. Các môn đệ bái lạy Người và trở về Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ và chúc tụng Thiên Chúa. (x. Lc 24,50-53). Lúc này, niềm vui của các môn đệ Chúa Giêsu đã đủ lớn để trở thành niềm hy vọng sống động. Chúng ta đã thấy các vị đã dùng trọn vẹn cuộc sống còn lại mà đánh đổi niềm hy vọng đó như thế nào: niềm hy vọng được sống lại như Thầy đã sống lại.
Chúng tôi tạm khép lại những chia sẻ chủ đề Niềm vui trở về qua ba ghi nhận dưới đây. Như đã trình bày, chúng tôi nhận thấy Niềm Vui Phúc Âm là những cảm nghiệm rất chân thực của hữu thể con người, không phải niềm vui đến từ những chất kích thích hoặc những động lực tầm thường con người hay sử dụng. Khi đau yếu bệnh tật là lúc con người rất dễ bị tổn thương. Nó có khả năng làm cho người ta không còn là mình nữa, vì sự khổ đau quá lớn, nên có thể “nguyền rủa Thiên Chúa và chết cho rồi”, nói như bà vợ ông Gióp. Nhưng khi được chữa lành, dù phép lạ hay gặp thầy gặp thuốc, niềm vui của họ cũng tràn trề không kém. Niềm vui ấy rất gần với Niềm Vui Phúc Âm là niềm vui của người được cứu độ.
Một số người tuy đã được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, nhưng lại không sống đạo, mà lại buông mình theo vòng xoáy của cuộc đời đưa đẩy; những cuộc truy hoan thâu đêm suốt sáng, những cơ hội làm ăn bất chính, và những đam mê lôi kéo họ… Nhưng sẽ có lúc những thứ đó vuột khỏi tầm tay để rồi buộc ta trở về với những giá trị chân thật, đó là nhận ra sự hữu hạn và bất toàn một cách đáng thương. Sự bế tắc đến phi lý của thân phận con người khi đối diện với cái chết, chính lúc đó người ta nhận ra vẫn có một bàn tay luôn đưa ra với chiếc phao cứu hộ. Người ta cần được cứu biết bao! Sau khi đến với bí tích giao hoà, người ta trở về lòng tràn ngập hân hoan vì được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi. Niềm vui ấy rất gần với Niềm Vui Phúc Âm là niềm vui của người được cứu độ.
Hơn bao giờ và hơn hết mọi điều, niềm hy vọng được sống lại vẫn là khát mong lớn lao duy nhất của đời người. Không một ai lại không thấy cái phi lý của sự chết và bằng nhiều cách cố gắng duy trì sự sống của mình, nhưng vẫn phải miễn cưỡng đón nhận cái chết. Nếu có niềm hy vọng sống lại thì đón nhận cái chết với niềm hoan hỷ; không có niềm hy vọng sống lại thì cái chết thật khủng khiếp. Có ai đó đã nói: nếu không có sự sống lại, niềm tin của chúng ta (những tín hữu kitô) chỉ là trống rỗng và chúng ta là kẻ dại dột nhất trên đời. Tin Mừng phục sinh đã được loan báo cho tôi, quả thật là tin vui lớn nhất. Niềm vui phúc âm là niềm vui của người được cứu độ.
NÃO TRẠNG GIÁO SĨ TRỊ –
NGUYÊN NHÂN
VÀ PHƯƠNG THẾ CHỮA TRỊ
FM. Théophane – Thiên Phước
“Đi ra khỏi mình” là cụm từ được Đức Giáo Hoàng Phanxicô sử dụng nhiều lần từ khi ngài được chọn làm người kế vị thánh Phêrô. “Đi ra khỏi mình” như là điều kiện để sống niềm vui Tin Mừng và để Tin Mừng thực sự là niềm vui cho mọi người. Niềm vui đó là gì nếu không phải là niềm vui tự hủy như Chúa Giêsu, Đấng đã hủy mình ra không vì chúng ta và cho chúng ta? Thế nhưng, niềm vui ấy đang bị làm cho biến dạng và méo mó bởi một chứng bệnh vốn tồn tại rất lâu trong đời sống Giáo Hội mà người ta thường gọi là “não trạng giáo sĩ trị”.
“Não trạng giáo sĩ trị” được Tông huấn “Evangelii Gaudium” nhắc lại như là thách đố của thời đại, thách đố cho các tín hữu và là chướng ngại mà các tu sĩ, linh mục cần phải vượt qua để sống và cho mọi người thấy: Tin Mừng chính là niềm vui. Não trạng này được Tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu” cụ thể hóa qua hình ảnh của một Giáo Hội thừa hoạt động, nhưng thiếu chất sống. Một Giáo Hội quá chú trọng đến công tác tổ chức, xây dựng, mục vụ và hộ giáo… nhưng hời hợt trong việc làm tăng trưởng đời sống thiêng liêng.
Như vậy, theo nghĩa rộng, “não trạng giáo sĩ trị” là cách sống quan liêu, tìm kiếm sự an toàn và tự coi mình làm trung tâm để ban phát hơn là để phục vụ của các tu sĩ và giáo sĩ. Vì thế, Đức Phanxicô mong muốn “Có một Giáo Hội bị bầm dập, bị tổn thương và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, còn hơn một Giáo Hội bệnh hoạn vì đóng cửa và thanh nhàn bám víu vào sự an toàn riêng của mình”[1]. Thế nhưng, đâu là nguyên nhân hình thành nên cách sống đi ngược với tinh thần Tin Mừng như vậy? Tông huấn “Evangelii Gaudium” chỉ cho thấy những thách đố và cám dỗ đã và đang bóp nghẹt chất Tin Mừng. Đó cũng là nguyên nhân của căn bệnh trầm kha đang phát triển mạnh mẽ trong thời hiện tại.
I. NGUYÊN NHÂN
Đọc tông huấn Evangelii Gaudium, chúng ta được mời gọi đối diện với những thách đố và cám dỗ của thời đại đã và đang hình thành lên những con người truyền giáo “bận tâm quá đáng về tự do cá nhân và giải trí của mình, khiến họ sống những nhiệm vụ của họ như là một phần phụ thuộc đơn giản của đời sống, như thể chúng không phải là một phần căn tính của họ”[2]. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa bàng bạc trong suốt Tông huấn không gì khác hơn là một sự lệch hướng trong linh đạo truyền giáo. Thay vì “đi bước đầu, tham gia, đồng hành, sinh hoa trái và vui mừng”[3], người Kitô hữu, cách riêng là tu sĩ linh mục ngày nay đã biến mình trở thành những con người thụ động, quan liêu đến nỗi các giám mục Châu mỹ la tinh đã phải cảnh tỉnh: “Chúng ta không thể ngồi bình thản trong một chờ đợi thụ động nơi các nhà thờ của mình”[4]. Đâu là nguyên nhân của một thực trạng thiếu “chất” Tin Mừng như thế? Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gọi đích danh ba nguyên nhân căn bản là: chủ nghĩa cá nhân, khủng hoảng căn tính và suy giảm nhiệt tình mà theo ngài là “ba tệ nạn nối đuôi nhau”[5] đã biến “việc đi ra khỏi mình” thành “thống trị người khác”.
1. Nguyên nhân thứ nhất: Chủ nghĩa cá nhân
Việc phát sinh triết thuyết hiện sinh cổ võ nhiệt tình cho sự tự do cá nhân vô hạn. Theo đó, tự do không phải là ân huệ được xã hội ban phát, nhưng tự do thuộc bản chất con người. Vì thuộc bản chất con người, nên con người là tự do. Tự do đi liền với cuộc sống con người và con người phải vươn lên không để bất kỳ một điều gì tha hóa mình. Với một chủ trương như thế, chủ nghĩa hiện sinh đã đặt tự do lên trên và tách biệt các mối tương quan; tách biệt mọi nhu cầu thiết thực và chính yếu để chỉ nhìn nhận cá nhân là trung tâm. Việc đề cao cá nhân quá mức là tư tưởng chủ đạo ở những năm cuối của thế kỷ XX và vẫn còn ảnh hưởng lớn lao trong đời sống xã hội ngày nay. Ảnh hưởng đó một mặt giúp người ta ý thức hơn về vị trí ưu việt của con người; nhưng mặt khác, con người dễ bị đóng kín với những tư lợi, suy tôn cá nhân tuyệt đối và tạo nên “một lương tâm bị cô lập”. Đức Giáo Hoàng Phanxicô có một cái nhìn rất đúng đắn về chủ nghĩa cá nhân và ảnh hưởng nguy hại của nó. Theo ngài, “chủ nghĩa cá nhân của thời hậu hiện đại và toàn cầu hóa của chúng ta ủng hộ một cách sống làm suy yếu sự phát triển và ổn định của những mối dây liên hệ giữa con người, và làm biến dạng các mối liên hệ gia đình”[6] . Với nhận định này, ngài đã chỉ ra ba gương mặt độc hại luôn song hành với nó. Đó là chủ nghĩa tiêu thụ, tinh thần thế tục và chủ nghĩa vật chất tạo cho chúng ta một sự thèm khát sở hữu. Ba gương mặt này khiến chúng ta quên lãng những yếu tố quan trọng tạo lên lịch sử của Giáo Hội, “là một lịch sử vẻ vang của hy sinh, của hy vọng, của đấu tranh hàng ngày, của hao mòn trong phục vụ, của kiên trì trong những việc khó khăn”[7] ; nó cũng làm cho các tu sĩ gặp khó khăn khi sống các lời khuyên Phúc Âm và thể hiện sự quyết liệt bước theo Chúa Kitô. Thay vào đó, nó vạch ra “những kế hoạch tông đồ theo chủ nghĩa bành trướng”[8] , biến chúng ta thành những con người thích hư danh, đam mê quyền lực và trở thành những viên tướng bại trận trong sứ vụ truyền giáo, tạo nên một cuộc khủng hoảng về căn tính[9] .
2. Nguyên nhân thứ 2: Khủng hoảng căn tính
Khủng hoảng về căn tính được Đức Giáo Hoàng Phanxicô xem như là hệ quả đương nhiên của lối sống duy cá nhân chủ nghĩa và ngài xếp nó vào tệ nạn thứ hai cản trở cho việc sống linh đạo truyền giáo đích thực. Theo ngài, khủng hoảng căn tính không có nghĩa là không nhận ra mình là ai và mình sẽ đi về đâu, mà đúng hơn là nghi ngờ về căn tính của mình. Sự nghi ngờ này trong thực tế được thể hiện với nhiều hình thức khác nhau.
Trước hết, được thể hiện qua việc mặc cảm về những điều mình tin nhận. Mặc cảm vì chưa xác tín đủ điều mình tuyên xưng, nên khi đối diện với những công kích, những nghi ngờ của người khác về những sứ điệp của Giáo Hội, chúng ta dễ rơi vào “việc tương đối hóa hoặc che dấu căn tính và những xác tín Kitô giáo của mình”[10]. Theo Đức Giáo Hoàng, việc che dấu này dẫn chúng ta vào vòng luẩn quẩn là không hài lòng những gì mình đang có và những việc mình làm. Chính sự bất thỏa đó cản trở việc dấn thân hay khiến cho sự dấn thân trở nên suy yếu, đồng thời làm cho chúng ta trở thành xa lạ với sứ vụ rao giảng Tin Mừng của mình. Thế mà, một khi không đồng hóa mình với sứ vụ, chúng ta sẽ trở thành bàng quan như những người đầy tớ mà không dám “ra đi” theo lời mời gọi cụ thể của Tin Mừng.
Thứ đến, không phải là thái độ nghi ngờ mà là sợ hãi. Vì sợ khác người, nên chúng ta luôn bận tâm, đôi khi quá đáng, muốn trở nên giống như người khác. Thế mà, Tin Mừng mời gọi chúng ta phải trở nên những con người sống niềm vui Tin Mừng. Niềm vui đó chỉ có thể có khi chúng ta “bỏ mình, vác thập giá và đi theo Chúa Giêsu”. Vì sợ hãi cho sự bấp bênh của bản thân mà chúng ta mong muốn “có những gì người khác có”. Thái độ đó không phù hợp với những yêu sách của Tin Mừng: Về bán hết những gì mình có, phân phát cho người nghèo khó, rồi đến mà theo Chúa Giêsu[11]. Và vì thế, sợ hãi sẽ biến chúng ta trở thành những con người luôn tính toán khi đứng trước sứ vụ và xem “nhiệm vụ loan báo Tin Mừng trở nên bó buộc và dành rất ít nỗ lực và một số thời giờ hạn chế cho nó”[12]. Đó là thái độ của người làm công.
Cuối cùng, là sự tách biệt. Tách biệt để khẳng định mình bằng một lối sống mà theo Evangelii Gaudium là rất nguy hiểm. Nó nguy hiểm hơn cả thuyết tương đối về tín lý và được gọi là thuyết tương đối thực tế. “Thuyết tương đối thực tế hệ tại ở việc hành động như thể không có Thiên Chúa, ở việc quyết định như thể không có người nghèo, ở việc mơ ước là không có tha nhân, làm việc như thể tất cả những người chưa nhận được lời rao giảng Tin Mừng là không có”[13]. Đây là loại người mong muốn một sự an toàn về kinh tế, ưa thích quyền lực và vinh quang loài người với bất cứ giá nào. Họ sống không phải để hướng ra và thuộc về, nhưng chỉ quy về mình và sống cho mình. Chính vì thế, Đức Giáo Hoàng cảnh tỉnh “chúng ta đừng để mình bị cướp mất nhiệt tâm truyền giáo”[14].
3. Nguyên nhân thứ 3: Suy giảm lòng nhiệt thành
Suy giảm lòng nhiệt thành là tên gọi của tệ nạn thứ ba cản trở việc thực hiện linh đạo truyền giáo và gián tiếp hình thành lên “não trạng giáo sĩ trị”. Vì một khi đánh mất tình yêu, chúng ta sẽ không có đủ nhiệt huyết và tinh thần để thực hiện một sự dấn thân quyết liệt như Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, phần anh hãy theo Ta”. Sự quyết liệt này xuất phát từ tình yêu Agape, tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa[15] . Lúc đó, tu sĩ, linh mục thể hiện mình như là người phục vụ Tin Mừng, chứ không phải như người ban phát. Chính vì sự quyết liệt và khẩn thiết này, nên mặc dù giáo đoàn Ephêsô được khen ngợi về sự công chính, nỗi gian truân và các nhân đức của họ: “Ta biết việc ngươi làm, nỗi vất vả và lòng kiên nhẫn của ngươi; Ta biết ngươi không thể chịu đựng kẻ ác”[16] , nhưng họ vẫn bị Chúa khiển trách: “Ta trách cứ ngươi điều này: ngươi đã để mất tình yêu thủa ban đầu”. Đánh mất tình yêu là đánh mất nguồn sức sống, khiến đời sống tâm linh bị sa mạc hóa và tâm hồn chúng ta sẽ trở thành mảnh đất màu mỡ cho tinh thần thế tục, chủ nghĩa tiêu thụ, chủ nghĩa cá nhân phát triển.
Một khi đời sống tâm linh khô héo, theo Đức Giáo Hoàng Phanxicô, chúng ta sẽ trở nên ươn lười ích kỷ và bi quan yếm thế[17] . Đây là hai tật xấu của những người sống như thể không có Thiên Chúa.
Sự ươn lười sẽ tạo nên những con người không còn thao thức với công việc mục vụ của mình. Họ sẽ thiếu kiên nhẫn, nhưng thích khoa trương; Quan tâm quá mức đến việc tổ chức, nhưng bỏ quên nhân sự, lãng quên việc nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng. Từ đó, họ luôn chú tâm đến thành công nên không thể chấp nhận ngay cả một lời chỉ trích, một thánh giá dù là rất nhỏ. Kết quả, “đức tin bị suy yếu và thoái hóa thành nhỏ nhen”[18] . Họ trở thành “những xác ướp trong viện bảo tàng”, và “rốt cuộc họ cũng bị quyến rũ bởi những điều chỉ tạo ra bóng tối và mệt mỏi nội tâm, và những điều ấy làm suy yếu động năng tông đồ”. Sự suy giảm này sẽ cướp mất niềm vui của việc loan báo Tin Mừng.
Trái lại, thái độ bi quan vô bổ xuất phát từ một đức tin yếu kém. Yếu kém vì không tin vào Lời Chúa: “Ơn sủng của Thầy đã đủ cho con rồi vì quyền năng của Thầy được thể hiện trong sự yếu đuối”[19] hoặc do thiếu việc thực hành đức tin. Vì thế, chúng ta dễ rơi vào sự sợ hãi khi đối diện với những bóng tối trong cuộc đời hay khiếp đảm trước những thập giá mà chúng ta gặp. Và vì thế mà chúng ta không tìm được sự dịu dàng và những “biểu ngữ chiến thắng” của Thánh Giá, là những điều cần thiết giúp chúng ta đi ra khỏi mình để mang lại niềm vui cho người khác.
Vì vậy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta phải nói không với những tật xấu đang cướp đi lòng nhiệt thành loan báo Tin Mừng, biến chúng ta thành những ông chủ thích cai trị, ích kỷ và bi quan. Thế nhưng ở giữa thế gian điên đảo dễ gì có thể nói không, dễ gì từ bỏ.
II. THỬ ĐI TÌM MỘT PHƯƠNG THẾ
Khi một người con của mình được mời gọi lên vị trí cao trọng nhất trong Giáo Hội, làm Giáo Hoàng, với tước hiệu Eugenio III, thánh Bênađô đã viết cho ngài một tác phẩm có tựa đề “De la Considération”. Thánh nhân đã nhấn mạnh: ngài không viết theo tư cách là một người thầy, nhưng với tư cách là một người mẹ, hay đúng hơn là một người tình (un amant). Người tình không nói như thể là người dạy, nhưng nói với tấm lòng vì hạnh phúc và vì thành công của bạn tình. Người tình thì thầm điều gì, nếu không phải chính là những gì mình đã cảm nhận. Thế mà, điều thánh Bênađô cảm nhận không phải là kinh nghiệm của một người đã chứng nghiệm được Thiên Chúa sao? Và đây là đích điểm mà một Giáo Hoàng phải vươn tới để trở nên một con người phục vụ vẹn toàn. Bởi thế, mở đầu tác phẩm thánh nhân nhắc nhở người con của mình phải luôn biết mình là người phục vụ, chứ không phải là người cai trị. Thiết nghĩ với những gì thánh Bênađô nhắn nhủ Giáo Hoàng Eugenio III có thể là những phương thế giúp chúng ta trị liệu “não trạng giáo sĩ trị” nơi chính mình.
Tác phẩm gồm 5 cuốn, xoay quanh 4 vấn đề chính: Biết mình; Biết những gì dưới mình; những gì xung quanh mình và tất cả đều hướng về để biết những gì ở trên mình. Để biết những gì trên mình, chúng ta cần phải thực hiện một cuộc tìm kiếm. Tìm kiếm ai? Thưa tìm Chúa.
1. Tìm Chúa, tâm điểm tất cả mọi hoạt động của người mục tử
Thánh Bênađô được Étienne Gilson tặng cho danh hiệu “Socrate Kitô giáo”. Sở dĩ ngài được tặng danh hiệu này, vì thánh nhân luôn xem việc “tự biết mình” là điểm thiết yếu nhất trong tiến trình hướng tới chứng nghiệm Thiên Chúa. Vì thế, trong tác phẩm “De la Considération” ngài cũng khuyên người con của mình phải tự biết mình như là điều kiện đầu tiên để đi vào đời sống nội tâm, là nguồn suối mà mọi hoạt động phải kín múc để sinh hoa trái. Biết mình không phải được chọn để thống trị, nhưng để phục vụ, nên phải là gương mẫu qua việc chăm lo tập các nhân đức và khiêm tốn trong công việc chủ chăn, vì tước vị giám mục không hàm ẩn từ ngữ thống trị và hoàn toàn bị loại trừ nơi các tông đồ của Chúa[20] .
Biết mình chỉ là trung gian để chuyển giao ơn Chúa, vì thế giới này là gia sản mà Chúa trao ban cho con người quản lý, gìn giữ và săn sóc. Con người săn sóc thế giới như thể là ân huệ và hướng nó đến sự công chính như ý muốn của Thiên Chúa. Để từ đó, chúng ta biết những con người được trao phó cho mình: Họ là con chiên, là sói dữ, là tội nhân, là những người nghèo khổ và bất hạnh, nhưng tất cả họ đều “được dựng lên theo và giống hình ảnh Thiên Chúa”. Họ cần sự sống và có quyền có một sự sống dồi dào[21] . Do đó, cần phải liên đới trách nhiệm để cộng tác mang lại những gì tốt đẹp nhất. Sự liên đới này chỉ có thể thực hiện được khi đón nhận những người cộng tác như những người anh em, những người bạn, chứ không phải là những người thuộc cấp mà mình là chúa tể[22] . Thế nhưng, theo thánh Bênađô, chúng ta chỉ có thể sống tốt các mối tương quan ấy khi chúng ta thực sự là những con người đi tìm Chúa để chứng nghiệm Thiên Chúa.
Tìm Chúa là khát vọng của tất cả mọi người, vì đó là nguồn hạnh phúc và cội nguồn của mọi hoạt động. Thánh Bênađô đã nói lên kinh nghiệm của ngài trong cuốn V của tác phẩm “De La Considération”.
Tìm Chúa để làm gì, nếu không phải vì con người đang khát Chúa. Tại sao con người khát Chúa, chẳng phải vì con người luôn khao khát một hạnh phúc tuyệt đối? Thế mà hạnh phúc tuyệt đối không thể đến từ những gì là vô thường. Theo thánh Bênađô chỉ có Thiên Chúa mới khỏa lấp được niềm hy vọng này mà thôi. Vì thế, ngài đã khẳng khái tuyên bố: “Tôi phải tuyên chứng điều này là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất. Đấng ta phải tìm kiếm và không bao giờ phải thất vọng, dù ta không bao giờ chiếm hữu được Ngài một trăm phần trăm”[23] . Thiên Chúa đó là ai?
Thánh nhân không trả lời trực tiếp, nhưng ngài “nhắc lại câu nói của nhà tiên tri: Lạy Chúa, Ngài tốt lành với những ai trông cậy Chúa và tìm kiếm Ngài” (Aica 3,25). Chúa tốt lành tự bản tính vì Ngài là nguồn suối mọi sự tốt lành. Vì Ngài tốt lành nên Ngài trào tràn ra cho mọi loài: “Đối với vũ trụ, Ngài là cứu cánh; đối với người được chọn, Ngài là cứu rỗi; còn đối với chính mình Ngài, Ngài là vô hạn. Thiên Chúa là gì? Thưa Ngài là ý chí toàn năng, là lòng nhân từ và quyền lực vô biên, là ánh sáng vĩnh cửu, là Thượng Đế bất biến và là hạnh phúc siêu vời” ( De la Consid. V, 24)[24]. Nhưng làm sao chúng ta có thể đi tìm Chúa?
Thánh Bênađô chỉ cho chúng ta hai con đường: con đường tự nhiên như hoàn cảnh sống, môi trường sống, cảm tình tự nhiên… và nhờ Chúa Thánh Thần, vì chính Ngài sẽ lôi cuốn từ bên trong, thôi thúc chúng ta đi tìm Chúa. “Thánh Bênađô mô tả sự lôi cuốn nội tâm đó như một sự mạc khải: “Ta không thể không yêu Ngài, nếu ta biết rõ Ngài” (De la Consid V, 32). Nhưng làm sao ta biết rõ Chúa Kitô nếu không được Thần Chân lý hướng dẫn”[25] . Vì thế, sự lôi cuốn nội tâm của Chúa Thánh Thần là điều kiện tất yếu cho việc tìm Chúa.
2. Thể hiện việc tìm Chúa như thế nào?
Có một con đường đi tìm Chúa thật đơn giản, nhưng rất hiệu quả và không sợ sai lầm, không phải vất vả. Đó là Tin Mừng, vì “Lời Chúa chính là Chúa”. Do đó, Tin Mừng không chỉ nói về Chúa và cho thấy những việc Chúa đã làm, mà còn giúp chúng ta sẽ gặp được chính Chúa. Thế mà theo Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI: “Ở nguồn gốc của việc làm một kitô hữu không phải là một lựa chọn luân lý hay một ý tưởng cao cả, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một biến cố, một người, là điều mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định”[26] . Trong cuộc gặp gỡ này, Thiên Chúa “ngỏ lời với loài người như với bạn hữu” (Xh 33,11; Ga 15,14-15) và nối kết mối tương giao với họ (x. Br 3,88)”[27] . Ngài nối kết mối tương giao để làm gì? Thưa là “để mời họ sống hiệp thông với Ngài và tiếp nhận họ vào trong mối hiệp thông này”[28] . Một khi hiệp thông với Thiên Chúa “chúng ta được giải thoát khỏi tâm trạng cô lập và chỉ nghĩ về mình”[29] . Vì thế, “Tin Mừng là nguồn mạch đầu tiên của mọi linh đạo Kitô. Tin Mừng nuôi dưỡng mối tương quan cá nhân với Thiên Chúa hằng sống, với ý định cứu chuộc và thánh hóa của Ngài”[30] . Thế nhưng chúng ta gặp Chúa bằng cách nào?
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta đọc, suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa. Trong đó, Lectio Divina là phương cách phổ biến và hiệu quả đã được thực hiện từ xa xưa trong truyền thống Đan tu, Theo ngài, “những con người cầu nguyện luôn luôn là những người đã làm nên những công trình lớn lao, bởi họ là những người thông dịch viên chính thức của thánh ý Chúa và bởi họ đã thực hiện thánh ý ấy. Nhờ năng đọc Lời Chúa, họ được soi sáng để phân định về chính bản thân, về cộng đoàn hầu giúp họ tìm ra đường lối Chúa trong các dấu chỉ của thời đại. Như vậy, họ có được một thứ bản năng siêu nhiên, giúp họ không hùa theo não trạng thế gian[31]” .
Mặt khác, chúng ta gặp được Chúa khi chúng ta sống Lời Chúa qua việc rao giảng Tin Mừng. Loan báo Tin Mừng không phải thực hiện một cuộc chinh phục để làm tăng số lượng Kitô hữu, nhưng là mang Chúa đến cho mọi người để họ được sống và có một cuộc sống dồi dào (x. Ga 10,10). Chúng ta không thể giới thiệu cho thế giới một Thiên Chúa đích thực được nếu mình chưa gặp gỡ và chứng nghiệm Thiên Chúa đó. Vì vậy mà thánh Đaminh luôn thực hiện và mời gọi anh em mình sống phương châm: Anh hãy chiêm niệm và đem những gì đã được chiêm niệm loan báo cho người khác. Đức Giáo Hoàng Phanxicô diễn tả ý tưởng này bằng một hình ảnh thực tế và sống động hơn: “Một nhà truyền giáo không thể như một người vừa đi đưa đám về”. Nếu họ “chỉ có mùa chay mà không có Phục sinh” thì chắc chắn họ chưa gặp được Thiên Chúa, họ chỉ là người làm thuê, không phải là bạn hữu, là môn đệ của Ngài. Bởi vì “niềm vui của Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu”[32] .
Thêm vào đó, chúng ta sẽ gặp được Chúa nếu thực hiện được việc “đi ra khỏi mình”; đi ra khỏi mình để đến với người khác và nói với người khác về Thiên Chúa tình yêu. Việc ra khỏi mình đòi hỏi nhà truyền giáo biết trả lời không với một nền kinh tế loại trừ; trả lời không với ngẫu tượng mới của tiền bạc; trả lời không với tinh thần thế tục, chủ nghĩa cá nhân… và nói có “với những mối quan hệ mới được mang đến bởi Đức Giêsu Kitô” (x. EG, chương II). Với mối tương quan mới này, tất cả chúng ta là tu sĩ, linh mục hay giáo dân sẽ được nuôi dưỡng bởi sinh lực phát xuất từ Lời Chúa; được Lời Chúa như “chiếc là bàn” định hướng và dẫn dắt; được Lời Chúa như “khiên thuẫn” bảo vệ và chở che thì làm sao chúng ta có thể sống quan liêu, dối trá và giả hình theo “não trạng giáo sĩ trị” được.
Kết Luận: “Não trạng giáo sĩ trị” là căn bệnh mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường nhắc đến trong các bài nói chuyện và mời gọi toàn thể Giáo Hội loại trừ, vì nó đi ngược với tinh thần của Tin Mừng và đánh mất niềm vui đích thực mà Chúa muốn ban cho chúng ta. Ngài đã chỉ cho thấy nguyên nhân gây ra căn bệnh độc hại này. Nguyên nhân đến từ những cám dỗ của thời đại và cũng đến từ những tâm hồn không được đốt cháy và nuôi dưỡng bằng nguồn sống thiêng liêng. Tuy nhiên, “thà thắp lên một tia lửa hơn là ngồi đó để nguyền rủa bóng đêm”, Đức Giáo Hoàng muốn chúng ta hãy sống niềm vui Tin Mừng là niềm vui giúp chúng ta gặp Thiên Chúa và chứng nghiệm được Ngài. Vì gặp gỡ được Thiên Chúa, ắt đời sống của chúng ta sẽ được biến đổi, gặp gỡ Đức Giêsu, “Đấng đã yêu con người cho đến chết” thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ sống được như Ngài.
Đây là một hành trình dài mời gọi tất cả mọi người, nhất là các Đan sĩ phải kiên nhẫn và luôn khao khát đi tìm Chúa để chứng nghiệm được Ngài, vì chỉ khi có sự chứng nghiệm này, đời sống con người mới có ý nghĩa và sẽ thể hiện được một cuộc sống theo tinh thần Tin Mừng. Trong cuộc hành trình này, chúng ta sẽ đối diện với những thử thách, với dối trá, với “tham, sân, si” ngay trong chúng ta và đối diện với một thế giới đang tục hóa, đang đổi mới. Chắc chắn, sẽ có lúc chúng ta rơi vào nỗi thất vọng, sự chán chường, nhưng chúng ta hãy nhớ: “Thiên Chúa không bao giờ biết mệt khi tha thứ, chính chúng ta là kẻ cảm thấy mệt mỏi khi cầu xin lòng thương xót của Người”[33].
[1] Đức Phanxicô, Tông huấn “Evangelii Gaudium”, số 49
[2] Sdd số 78
[3] Sdd số 24
[4] Hội đồng chung lần thứ nhất của các giám mục Châu mỹ la tinh và miền Caribe lần thứ nhất, 29.6.2007
[5] Đức Phanxicô, Tông huấn “Evangelii Gaudium”, số 78
[6] Sdd số 24
[7] Đức Phanxicô, Tông huấn “Evangelii Gaudium”, số 96
[8] Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn “Đời sống thánh hiến”, số 87-91
[9] Sdd, số 96
[10] Sdd, số 79
[11] Mt
[12] Đức Phanxicô, Tông huấn “Evangelii Gaudium”, số 79
[13] Sdd, số 80
[14] Sdd, số 80
[15] 1Ga 4, 7
[16] Kh 2, 2
[17] Đức Phanxicô, Tông huấn “Evangelii Gaudium”, số 81-86
[18] Sdd, số 83
[19] 2Cor 12, 9
[20]Thánh Benado, De la consideration, II, 10
[21] X. Sdd, III
[22] X. Sdd, IV
[23] Thánh Benado, De la Considération, V, 24
[24] Cha Dominico Phạm văn Hiền, Thánh Benado, nhà chiêm niệm và tông đồ. Đời sống và linh đạo, tr 49
[25] Sdd, tr 51
[26]Đức Benedicto XVI, Thông điệp “Thiên Chúa là tình yêu”, số 1.
[27] Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn “Đời sống thánh hiến”, số 94.
[28] Sdd, số 94.
[29] Đức Phanxicô, Tông huấn “Evangelii Gaudium”, số 8.
[30] Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn “Đời sống thánh hiến”, số 94.
[31] Sdd, số 94.
[32] Đức Phanxicô, Tông huấn “Evangelii Gaudium”, số 1.
[33] Sdd, số 3
MỪNG VUI LÊN
Đan viện Vĩnh Phước
Trong đêm vọng Phục Sinh, thừa tác viên công bố cho toàn thể dân thánh một sứ điệp do Đức Kitô mang lại: Mừng vui lên! (Exultet) Mừng vui vì Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết và từ nay Ngài không còn chết nữa. Đức Kitô không chỉ chiến thắng cái chết nhưng còn giải thoát con người khỏi quyền lực của ma quỷ. Vì thế, “Mừng vui lên” quả là điều chính đáng mà Mẹ Giáo Hội mời gọi con cái mình hân hoan hát lên: “Mừng vui lên, hỡi chư thần chư thánh, cấp thừa hành của Chúa cõi thiên cung. Trổi vang lên, kèn loan ơn cứu độ, kính chào Đức Vua chiến thắng oai hùng. Mừng vui lên, hỡi khắp miền dương thế, bốn bề đang rực rỡ ánh hào quang: Vua vĩnh cửu nay rạng ngời chiếu sáng, đẩy lùi xa bóng tối của trần gian. Mừng vui lên, hỡi Hội Thánh mẹ hiền, lộng lẫy trong ánh huy hoàng của Chúa. Thánh đường này hãy rộn rã vang lên, tiếng ca hát của toàn dân hoan hỷ”[1] .
Là Kitô hữu, cách riêng là đan sĩ – người của Chúa, ta được mời gọi sống niềm vui vì “Niềm vui của Kitô giáo được đặt nền trên tình yêu và lòng trung tín của Thiên Chúa”. Thông điệp Kitô giáo được gọi là “Phúc Âm” hay “Tin Mừng, là lời công bố niềm vui cho tất cả mọi dân; Giáo Hội không là nơi trú ngụ của những con người buồn phiền, Giáo Hội là nhà của niềm vui!” [2] . Trong buổi gặp gỡ các nữ tu dòng kín, Đức Thánh Cha Phanxico đã nhắn nhủ: “Nữ tu dòng kín được mời gọi là con người với lòng nhân bản tuyệt vời. Một tấm lòng nhân bản như Giáo Hội, Mẹ chúng ta. Làm thế nào để một nữ tu thể hiện lòng nhân bản của mình? Thông qua niềm vui, và ngày càng hân hoan hơn nữa! Tôi thật buồn khi nhìn thấy các nữ tu với khuôn mặt buồn rười rượi. Họ có thể mỉm cười, nhưng đó là một nụ cười giả tạo như những nụ cười của một tiếp viên hàng không. Không! Chị em hãy cho thấy nụ cười hân hoan đến từ niềm vui nội tâm”. Niềm vui này được diễn tả trong dòng lịch sử của dân Thiên Chúa, nó đồng nghĩa với niềm hy vọng, khát mong được ơn cứu độ và sung sướng, vui mừng được thấy Ơn cứu độ. Niềm vui này đạt tới mức viên mãn nơi Đức Kitô.
1. NIỀM VUI MONG CHỜ ƠN CỨU ĐỘ
Chờ đợi luôn chứa đựng hy vọng và hy vọng đòi hỏi phải chờ đợi. Khi không hy vọng, không còn gì để đợi chờ, con người dễ dàng tìm đến cái chết như giải pháp duy nhất. Ngược lại, với người luôn hướng tới tương lai, luôn hy vọng điều tốt đẹp đang đợi chờ cho dù hiện tại đang đối diện với bao thử thách, đau khổ họ vẫn kiên trì chờ đợi. Điều này ta bắt gặp nơi dân Chúa xưa, khi phải lang thang phiêu bạt nơi đất khách quê người, nước mất nhà tan, cầm đàn không muốn gảy, mở miệng không muốn hát, nhưng họ vẫn không mất niềm hy vọng sẽ có ngày được trở về quê cũ, tái thiết lại đền thờ… Niềm hy vọng ấy đã được ngôn sứ Isaia không ngừng củng cố khi vẽ nên bức tranh thái bình về thời Chúa đến: Khi Chúa đến, người ta sẽ lấy gươm rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi hái. Nước này sẽ không còn tuốt gươm xông đánh nước kia. Mọi người sẽ chung sống với nhau trong hoà thuận và yêu thương (x Is…). Sẽ không còn cảnh “cá đớp cá, người trói người”. Sẽ không còn cung cách “người là sói của người” (Jean Paul Sarte), vì bốn bể đều là anh em con của Cha trên trời.
Hình ảnh về thời Chúa đến thật lý tưởng, nhưng thời đại đó sẽ xảy ra lúc nào? Còn lâu không? Ta không thể tiên đoán được vì nó đến cách bất ngờ như “kẻ trộm” (x. Mt 24,42) nhưng chắc chắn là phải có. Vì thế, ngày ấy trở nên nỗi khát mong của những người khao khát hạnh phúc được cứu độ.
Từ khi Adam – Eva phạm tội không vâng phục Thiên Chúa, con người phải mang lấy hậu quả của tội là đau khổ và cái chết. Thế nhưng, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người, mà lại hứa ban Đấng Cứu Thế: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,
giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;
dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Với niềm khát mong có ngày sẽ trở lại tình trạng ân sủng ban đầu, được sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa khiến Israel không ngừng nỗ lực bằng chính đời sống tỉnh thức và trông chờ. Chính vì trông chờ lời hứa ấy, Isaia không ngừng khơi lên niềm hy vọng cho dân Israel xưa: “Ðức công chính của Ta đã gần kề, ơn cứu độ của Ta sắp xuất hiện, cánh tay Ta sẽ lãnh đạo muôn dân muôn nước, muôn đảo đặt hy vọng nơi Ta và mong chờ Ta ra tay hành động” (Is 51,5). Muôn dân đang mong mỏi ngày Vị Cứu Tinh xuất hiện với niềm tha thiết: “Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên. Ta là Ðức Chúa, Ta đã làm điều ấy” (Is 45,8). Niềm mong chờ này, dân Do Thái chỉ trông mong nơi một mình Thiên Chúa “Chỉ mình Ðức Chúa mới cứu độ và làm cho mạnh sức” (Is 45,24). Vì chính Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ đã phán:“Ngày Ta thể hiện đức công chính của Ta đã đến gần, chẳng còn xa nữa đâu; ơn cứu độ của Ta, Ta sẽ không trì hoãn. Ta sẽ ban ơn cứu độ tại Xion, và sẽ cho Ítraen được vinh quang rạng rỡ” (Is 46,13). Hay khi mời gọi thiếu nữ Xion: “Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt.” (Is 61,11).
Các ngôn sứ không chỉ tiên báo về niềm vui của ơn cứu độ sắp đến nhưng còn vẽ nên một khung cảnh tràn đầy hoan lạc và ánh sáng khi số sót được hồi hương: “Những người sống sót này sẽ cất tiếng vui mừng tôn vinh Ðức Chúa. Từ phương Tây, họ sung sướng reo hò” (Is 24,14). Dân chúng có sự phấn khởi ấy vì: “Ðức Chúa phán thế này: Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ. Ta đã gìn giữ ngươi, đặt ngươi làm giao ước giữa Ta với dân, để phục hồi xứ sở, để chia lại những gia sản đã bị tàn phá” (Is 49,8). Niềm vui được cứu độ vỡ òa, không thể cầm giữ được những trái tim đang nôn nao, những môi miệng đang mấp máy và những bước chân nhộn nhịp được thôi thúc phải lên đường loan báo Tin Mừng lớn lao cho muôn dân: “Ðẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo Tin Mừng, công bố bình an, loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Xion rằng: “Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị” (Is 52,7). Làm sao không vui mừng, không nhảy múa khi lý do để mừng vui quá lớn lao: con người được Vua vũ trụ đoái thương và đem lòng yêu mến“Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Ðức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang. Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Ðức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân” (Is 61,10-11).
Từ khi Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ, đời sống của toàn dân Israel luôn chứa chan niềm hy vọng. Niềm vui mừng ấy chỉ đạt được khi thấy ơn cứu độ là Đức Giêsu đến trần gian.
2. NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ ĐẠT TỚI MỨC VIÊN MÃN NƠI ĐỨC GIÊSU KITÔ
Ngay từ những biến cố đầu đời của Chúa Giêsu, niềm vui đã in đậm trong từng cử chỉ và hành động của những người đang mong ngóng Đấng Thiên Sai: trong biến cố truyền tin, sứ thần mở đầu với lời chào “Mừng vui lên!” (Lc 1,28); khi Đức Maria đến thăm bà chị họ Elizabeth, hài nhi trong lòng bà đã nhảy lên vui sướng (x. Lc 1,41); và khi Hài Nhi Giêsu được sinh ra, thiên thần đã nói với các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là tin vui cho toàn dân: hôm nay trong thành David, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em, Người là Đấng Mêsia và là Đức Chúa” (Lc 2,10-11); hay khi các đạo sĩ dõi theo ánh sao đi tìm vị Vua mới sinh, họ đã vui mừng khi nhìn thấy Hài Nhi Giêsu (x. Mt 2,10); cụ già Simeon và nữ ngôn sứ Anna trong Đền Thờ đã vui mừng dâng lời tạ ơn khi nhìn thấy trẻ Giêsu (x. Lc 2,28). Đó cũng là điều mà thánh Phaolô luôn tha thiết mời gọi: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa. Tôi nhắc lại: anh em hãy vui lên! Lòng tốt của anh em phải tỏ ra cho mọi người thấy. Chúa đã gần đến” (Pl 4,4-5). Quả vậy, chúng ta phải hân hoan, vui mừng vì Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã hạ sinh làm người, Ngài đến và ở cùng chúng ta.
Đức Giêsu nhập thể là hồng ân to lớn cho nhân loại, Người – với tư cách là Con Thiên Chúa chấp nhận mặc xác phàm để chia sẻ phận người và nhận lấy đau khổ, mặc cho nó một ý nghĩa mới. Nhờ đó, con người có thể noi gương Đấng Trung Gian duy nhất đón nhận thập giá của bản thân. Adam cũ đã sa ngã vì nghe theo lời “con rắn” và đã mang tội vào thế gian, làm cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa bị đổ vỡ. Khi Chúa Giêsu đến với tư cách con người là Adam mới, nhận chịu mọi đau khổ của phận người để chuộc lấy con người từ tình trạng tội lỗi được trở nên con Thiên Chúa. “Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Dothái và dân ngoại thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã hủy bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hòa bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.” (Ep 2,14-18).
Bài ca “Exultet” (Mừng vui lên) được Giáo Hội hát trong đêm vọng Phục sinh diễn tả niềm vui vì Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết: “Hãy hát lên, hỡi các ca đoàn thiên thần trên trời… Hỡi trái đất, hãy mừng vui trong ánh sáng huy hoàng… Nơi đây hãy vang lên niềm vui, toàn dân Thiên Chúa hãy cất vang bài ca!”. Qua cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô – Con Thiên Chúa làm người, con người được nối lại mối dây ân tình với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Người đã phục hồi cho con người phẩm giá cao trọng bị đánh mất do tội. Tất cả những điều đó chỉ nhằm nói lên một điều: Thiên Chúa yêu thương tôi. Khi ý thức được như thế, chúng ta được trào tràn niềm vui cho dù gian nan khốn khó của thế gian luôn bủa vây tứ phía. Như vậy, “thật là chính đáng và phải đạo khi chúng ta đem hết tâm hồn và muôn lời hoan hỷ để ca tụng Thiên Chúa vô hình là Cha toàn năng và ca tụng Đức Giêsu Kitô là Con Một Thiên Chúa, và là Chúa chúng ta, Người đã thay chúng ta dâng lên Cha Hằng Hữu giá chuộc tội Adam. Người đã đổ máu đào xóa bản án nguyên tội xưa truyền lại” (Exultet). Nhờ sự Phục Sinh của Đức Kitô, mọi Kitô hữu “trên khắp mặt địa cầu được tách khỏi thói đời sa đọa và thoát vòng tội lỗi bủa vây, được trả về tình trạng ân nghĩa và hiệp thông với nguồn thánh thiện”. Ngài đến để “phá tan hận thù oán ghét, mang lại hòa thuận, yêu thương khuất phục mọi quyền bính thế gian” (Exultet). Vì thế, chúng ta đặt niềm hy vọng nơi chính Đức Giêsu Kitô, Đấng toàn thắng hiển vinh và là hạnh phúc vĩnh cửu trong Nước Trời.
Niềm vui ấy không dừng lại ở sự may lành có được trong thế gian này nhưng được đặt ở đời sống mai hậu, nơi mà Chúa Giêsu đã không ngừng loan báo trong Tin Mừng của Ngài: Nước Trời – Nơi chỉ có tình yêu và hạnh phúc. Nhưng để đổi lấy nó, người thương gia chấp nhận bán đi tất cả những gì mình có để mua cho kỳ được (x. Mt 13,45.46); người nông phu đã đánh đổi gia tài để mua lấy thuở ruộng có giấu kho báu (x. Mt 13,44); người giàu có chịu bán hết gia tài mà cho người nghèo (x. Mt 19,21; Lc 18,22; Lc 12,33)… Họ chấp nhận đổi tất cả vì biết rằng không thứ gì quý giá ở trần gian này có thể ví với hạnh phúc thiên đàng. Thế nhưng, nhìn vào cuộc sống thực tế, con người ngày nay mất dần khả năng phân biệt giá trị của sự vĩnh cửu, họ chỉ nhằm thỏa mãn những nhu cầu hiện tại, những thứ chỉ tô vẽ cho họ trong thoáng chốc rồi trở về hư không. Nếu chúng ta không tỉnh thức, không chuẩn bị cho ngày “ông chủ đi ăn cưới về” thì chúng ta cũng chẳng khác gì những kẻ mê mãi kiếm tìm hạnh phúc thế gian, quên đi mục đích tối hậu của đời mình. Vì vậy, sống lời khuyên của thánh Phaolô sẽ giúp chúng ta ý thức về niềm hy vọng cánh chung: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Hãy loại bỏ mọi hành vi ám muội và mang lấy khí giới ánh sáng để chiến đấu…” (Rm 13,11-14). Để ngày Chúa tới trong vinh quang, chúng ta có thể đứng thẳng và ngẩng cao đầu vì biết rằng mình sắp được cứu chuộc (x. Lc 21,28). Chúng ta tự tin như thế chỉ vì chúng ta tin cậy nơi Đức Kitô, “Đấng vốn giàu sang phú quý nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
3. CHÚA KITÔ LÀ NIỀM VUI CỦA ĐAN SĨ
Nhạc sĩ linh mục Mai Thiện có viết: “Niềm vui đời con là Chúa, tình yêu bền vững là Ngài, cuộc sống của con là Ngài, hạnh phúc của con là Ngài”. Thật thế, người có Chúa thì tâm hồn luôn tràn ngập mùa xuân[3] , dù phải sống cuộc đời khắc khổ, nhiệm nhặt. Ta bắt gặp điều này nơi các vị ẩn sĩ xưa, đặc biệt nơi thánh Antôn: “Ngài không bao giờ giao động, tâm hồn ngài an tĩnh. Khuôn mặt ngài không bao giờ u buồn, bởi vì trái tim ngài hân hoan”[4] ; hay nơi tác giả thánh vịnh, sau khi cảm nghiệm được niềm vui trào tràn ấy đã viết: “Đối với tôi niềm vui là chính Chúa” (Tv 103,34b). Niềm vui ấy tỏa rạng trên khuôn mặt, nơi nụ cười và ánh mắt đan sĩ. Họ hân hoan đón Chúa vào cuộc đời mình để Người tác động và hướng dẫn, ngõ hầu họ bắt đầu một cuộc sống mới theo Chúa Kitô “tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Khi ý thức sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình, người đan sĩ không thiết tha điều gì hơn ngoài việc muốn làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự như Chúa Giêsu chỉ muốn làm theo ý Cha: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình ấy” (Ga 4,34). Vì vậy, người đan sĩ tự mình điều chỉnh những sai lỗi khiến Chúa phiền lòng, đồng thời tích cực sống yêu thương tất cả mọi người như một hành vi đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa Tình Yêu. Như thế, người đan sĩ có Chúa, trở nên nhân chứng anh dũng cho Tin Mừng Cứu Rỗi, có sức hấp dẫn con người trong thời đại đầy lo sợ này.
Khi đã cảm nhận được hạnh phúc có Chúa ở cùng, đan sĩ không dừng lại ở việc hoan hưởng ân phẩm đó nhưng sẵn sàng trao ban, dấn thân phục vụ tha nhân chỉ với mục đích tôn vinh danh Chúa. Như Đức Maria xưa, khi đã tràn ngập sự hiện diện của Chúa, Mẹ mau mắn ra đi chia sẻ Tin Vui với người chị họ; không quản ngại đường xa, đồi núi hiểm trở… Niềm vui ấy lớn lao đến nỗi dập tắt mọi sự sợ hãi, bởi vì niềm vui ấy “được đặt nền trên tình yêu và lòng trung tín của Thiên Chúa”.[5] Vì thế, đan sĩ sau khi cảm nghiệm tình yêu Chúa, họ sống trong tinh thần sẵn sàng thực thi tình bác ái trong môi trường mình đang sống, nơi anh chị em họ gặp gỡ, trong việc đón tiếp khách… Nói như cha Biển Đức Thuận – Tổ phụ dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, họ nhìn thấy nơi mọi người là “Giêsu thay thảy”. Hành động phục vụ của họ trở nên linh thánh bởi không còn làm vì con người nhưng là vì Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Hành động ấy tuy bé nhỏ nhưng ướp đậm bằng tình yêu nên nó trở nên phi thường bởi niềm vui có Chúa.
Có ai đó đã nói: “Gương mặt người tu sĩ toát ra vẻ đẹp kỳ diệu”. Vâng, vẻ đẹp đó chắc hẳn không do gương mặt thanh tú, làn da trắng mịn, môi đỏ hồng đào… nhưng là vẻ đẹp của sự bình an thanh thản, của sự thanh thoát nội tâm… Chỉ khi mặc lấy Chúa Kitô, niềm vui ấy mới được tỏa rạng trên gương mặt của những người sống đời dâng hiến. Đó là niềm vui thâm trầm, sâu lắng nhưng yên bình và vang vọng mãi, một niềm vui có sự hiện diện của Thiên Chúa. Quả thế, trong thế giới có nhiều buồn phiền và âu lo này, niềm vui trở nên chứng từ quan trọng cho vẻ đẹp và tính đáng tin của đức tin Kitô giáo[6]. Vì biết rằng “khát vọng niềm vui ẩn chứa nơi tâm hồn con người. Vượt lên những thỏa mãn tức thời và mau qua, tâm hồn chúng ta đang tìm kiếm niềm vui hoàn hảo, trọn vẹn và bền vững, niềm vui mang lại “hương vị” cho cuộc sống”[7] nên Đức Thánh Cha Phanxico không ngừng kêu gọi các bạn trẻ: “hãy vui lên”, nhất là những người tận hiến – những người đón nhận quà tặng lớn lao từ Thiên Chúa. Hay như Đức Thánh Cha Bênêdictô kêu gọi các bạn trẻ trong sứ điệp đại hội giới trẻ lần XXVII: “Đừng sợ phải liều mạng mình cho Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Đó là phương cách tìm được bình an nội tâm và hạnh phúc đích thực. Đó là phương cách sống trọn vẹn làm con Thiên Chúa, được tạo dựng theo hình ảnh Người và giống như Người và hãy học cho biết Thiên Chúa hành động trong cuộc sống của các con như thế nào và nhận ra Người đang ẩn mình trong những biến cố hằng ngày”[8]. Ngài nhấn mạnh rằng: “Một Kitô hữu không thể buồn sầu, vì đã được gặp Chúa Kitô, Đấng hiến mạng sống mình cho họ. Tìm kiếm Thiên Chúa và gặp được Người trong cuộc sống chúng ta cũng có nghĩa là đón nhận Lời của Người, Lời làm tâm hồn chúng ta vui mừng”[9].
“Mừng vui lên” mãi là lời mời gọi không chỉ đối với các đan sĩ mà còn cho tất cả những ai đang sống trong niềm tin vào Thiên Chúa – “Nơi Ngài, tất cả đều là niềm vui bởi vì tất cả đều là ân ban”[10]. Niềm vui này chính là chiếc la bàn hướng dẫn trọn đời sống ta bằng tinh thần phục vụ, quảng đại hiến dâng, dấn thân hết mình và nhất là trở nên chứng nhân của niềm vui, để qua sự hiện diện vui tươi của ta, thế giới phải tự đặt ra những câu hỏi: Niềm vui ấy xuất phát từ đâu? Phải chăng cuộc sống này không có điều gì khiến họ (những người theo Chúa) phải trở nên buồn sầu, héo hon? Vậy phải có một Đấng Tuyệt Vời nào đó hướng dẫn, chi phối và đảm bảo cho họ một cuộc sống bình an, hạnh phúc?… Vâng, Đấng ấy chính là Thiên Chúa, nơi Ngài chỉ có niềm vui, tình yêu và hạnh phúc. Vì thế, Ngài mong muốn chúng ta phải trở nên những “thừa sai của niềm vui vì chúng ta không thể hạnh phúc nếu người khác không hạnh phúc”[11]. Có như thế, niềm vui của chúng ta và của mọi người trên trái đất mới nên trọn vẹn vì đã sống đúng mục đích Thiên Chúa đã dành cho con người là sống hạnh phúc vì được cứu độ. Vậy, tại sao chúng ta lại không vui lên và mang niềm vui ấy đến cho gia đình, cộng đoàn, bạn bè, nơi làm việc và ở bất cứ nơi đâu chúng ta hiện diện? Vì nhiệm vụ của chúng ta – những người theo Chúa Kitô là phải chỉ cho thế giới thấy rằng: chính đức tin mang lại hạnh phúc và niềm vui đích thực, trọn vẹn và bền vững.
[1] Sách Lễ Roma, tr.283
[2] LÊ HOÀNG NAM, Sống Niềm Vui Tin Mừng, http://vi.radiovaticana.va/news/2013/12/15/s%E1%BB%91ng_ni%E1%BB%81m_vui_tin_m%E1%BB%ABng/vie-755881
[4] LÊ VĂN ĐOÀN, lịch Sử Linh Đạo Đan Tu, tr49
[5] Lê Hoàng Nam, Sống Niềm Vui Tin Mừng, http://vi.radiovaticana.va/news/2013/12/15/s%E1%BB%91ng_ni%E1%BB%81m_vui_tin_m%E1%BB%ABng/vie-755881.
[6] Đức Thánh Cha Benedicto XVI, Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần XXVII.
[10]Đức Thánh Cha Phaolo VI, Tông huấn Gaudete in Domino, 09 tháng Năm 1975
[11]Đức Giáo Hoàng Phanxico, Buổi Nói Chuyện Với Các Chủng Sinh Và Các tập Sinh
HẠT SÁNG
“Tôi mời mọi Kitô hữu, ở bất cứ nơi nào và hoàn cảnh nào, ngay lúc này đổi mới cuộc gặp gỡ cá nhân của mình với Chúa Giêsu Kitô, hay ít ra, quyết định để cho Người gặp gỡ mình và không ngừng tìm kiếm Người mỗi ngày. Không có một lý do nào mà một người có thể nghĩ rằng lời mời gọi này không dành cho mình, bởi vì “không ai bị chối từ niềm vui mà Chúa mang đến” EG 3. |
NIỀM VUI TRONG ĐAU KHỔ
Tùng Triều Nguyễn – Phước Hải
Khi đặt tựa đề bài viết này, chính bản thân tôi có một chút băn khoăn vì không biết chắc rằng: người ta có thể tìm thấy niềm vui trong đau khổ hay không? Và không hiểu vì sao tôi lại chọn viết chủ đề này? Kinh nghiệm cho hay: ai cũng muốn có một cuộc sống sung sướng hạnh phúc và ít đau khổ. Thế nhưng, không có một cuộc sống nào hoàn toàn là đau khổ hay chỉ có một màu tươi vui; trái lại, cuộc sống luôn được đan kết bởi niềm vui và đau khổ. Vì thế, để có một cuộc sống hạnh phúc, thiết nghĩ không hệ tại ở việc chọn niềm vui hay khổ đau mà phải biết sống vui, sống vui ngay cả trong những nghịch cảnh. Tuy nhiên, niềm vui mà tôi muốn nhắc đến ở đây không phải là niềm vui cảm xúc, nhưng là niềm vui của Chúa. Đó là niềm vui mà thánh Phaolô đã sống, đã kinh nghiệm và đã chia sẻ với giáo đoàn Philipphe: ‘‘Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa, tôi nhắc lại vui lên anh em sao cho mọi người sống hiền hòa rộng rãi…’’(Pl 4, 4-5).
1. Đau khổ và niềm vui
Người ta thường sử dụng câu nói của Đức Phật mỗi khi gặp cảnh bất hạnh trong cuộc sống: “Đời là bể khổ”. Đời là bể khổ, nhưng cuộc sống cũng có lắm niềm vui. Chúng ta đau khổ vì cố bám víu vào sự vật vốn phù vân hay do chính ngoại cảnh tác động làm cho chúng ta cảm thấy bất an, không thoả. Vì trong cuộc sống của con người, ai cũng muốn mình được sống trong an vui, hạnh phúc, được người ta yêu thương, kính trọng, chẳng ai muốn mình gặp những điều rủi ro hay những đau khổ xảy đến. Khi viết đến đây tôi nhớ lại một thời không xa lắm, tôi cũng đã phải trải qua những ngày tràn ngập ưu phiền. Sống giữa một cộng đoàn mà lòng tôi vẫn cảm thấy cô đơn, cô đơn vì mối tương quan thân tình đã bị rạn nứt, dường như tôi đang lâm vào thế kẹt. Lúc đó tôi phải dùng phương pháp “tự kỷ ám thị” để vượt lên trên chính mình. Tôi tự nhủ, những gì người ta hiểu về tôi chỉ là bề ngoài, nhưng trong thâm tâm còn tệ hơn người ta tưởng. Nhìn sâu vào mình như thế, tôi đã lấy lại được bình an với một niềm vui thiêng liêng khó tả. Tôi vui với những gì mình “là” vì Thiên Chúa đã tạo dựng và yêu thương tôi như thế. Chính lúc đó, tình cờ tôi đọc được cuốn “Đường Hy Vọng” của Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, trong đó có câu: “Đừng buồn phiền hãy có cái nhìn siêu nhiên, và con sẽ thấy mọi sự dưới một khía cạnh mới”, và ngài nói thêm: “Con phải vui tươi luôn. Đường hy vọng không chấp nhận lữ khách buồn phiền. Đường hy vọng đem lại sự an vui” (ĐHV số 534). Những lời của Đức Hồng Y như nhắc nhở tôi, cuộc đời này chưa phải là thiên đàng mà cũng không phải là hoả ngục. Có đau khổ và cả niềm vui đan xen, vì chân còn đạp đất, đầu vẫn đội trời. Do đó, tôi cần phải tạo niềm vui cho chính mình theo như lời nhắn nhủ của thánh Phaolô: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân và chuyên cần cầu nguyện” (Rm 12,12). Thật vậy, từng bước trong cuộc đời cũng đủ để cho tôi cảm nhận niềm vui và đau khổ luôn giúp tôi hoàn thiện bản thân, nếu tôi biết sử dụng chúng một cách tốt nhất. Tôi phải làm gì?
2. Biến đau khổ thành nguồn hạnh phúc
Đau khổ tự nó không phải là một tội vì nó cũng có thể trở nên khí cụ giúp tôi thanh luyện con người vốn khiếm khuyết của tôi: giúp thanh luyện nội tâm, tư tưởng, cách nhìn, cảm nhận và ngay cả những phản ứng rất bình thường trong cuộc sống. Tuy nhiên, với kinh nghiệm, tôi nhận thấy nếu tôi biết kết hợp đau khổ với trái tim bị đâm thủng của Đức Kitô thì khổ đau sẽ vơi nhẹ và có được một sự bình an trong tâm hồn. Vì vậy, mỗi khi đau khổ tôi nhìn vào mẫu gương của Chúa Giêsu. Đấng đã chấp nhận cuộc sống con người, từ khi sinh ra trong máng cỏ tại Belem; sống ở một làng nghèo Nadaret cho đến lúc nhận lấy cái chết ô nhục trên thập giá. Việc đó giúp tôi cất đi những gánh nặng và mang lại cho tôi bình an.
Mặt khác, trong cuộc đời dâng hiến, cộng đoàn với “bá nhân bá tánh”. Có người dễ gần, dễ thông cảm, sống chan hòa yêu thương. Ngược lại, cũng có những tâm hồn nhỏ nhoi, ích kỷ, thích soi mói, dèm pha làm người khác nhụt chí. Qua đó, tôi nghiệm ra rằng mỗi người đều có giới hạn và ưu điểm riêng. Một điều làm tôi được an ủi là dầu có yếu đuối, nhưng ai cũng thiện chí đi theo Chúa trong đời sống thánh hiến. Nhất là mỗi chị em luôn ý thức và cố gắng để cùng nhau xây dựng cộng đoàn tăng trưởng hơn trong đời sống thiêng liêng, cũng như trong tình huynh đệ. Phần tôi, cần phải có một cái nhìn bao dung và quảng đại hơn, để có thể tha thứ, thông cảm cho chính mình cũng như cho người khác. Tôi nghĩ cuộc sống sẽ mất hết ý nghĩa nếu như không biết lấy tình yêu để hoá giải đau khổ; không lấy tinh thần của Chúa để đối diện và thánh hoá những khổ đau bất ngờ xảy đến, bởi sự nhỏ nhen của con người tạo nên. Cuộc sống chỉ hạnh phúc chừng nào tôi nhìn đau khổ dưới lăng kính của tình yêu.
Ngoài ra, tôi cần chân nhận một sự thật: tôi không bao giờ có thể thoả mãn hoàn toàn trong cuộc sống và trong công việc. Tôi phải biết chấp nhận thân phận mỏng giòn của tôi và chấp nhận chính con người thật của chị em. Được như vậy thì những buồn phiền, mệt mỏi, chán chường… có thể làm tê liệt tâm hồn, đánh mất niềm vui, sẽ tan biến đi và cuộc đời tôi sẽ vui hơn dù cuộc sống vẫn còn đó những khổ đau.
3. Một bài học cho tôi
Với bản thân, tôi có được một chút cảm nghiệm thế nào là “niềm vui trong đau khổ”. Cảm nghiệm đó như một nguồn động lực thúc bách tôi bước đi, cho dù con đường tôi đang bước tới còn nhiều chông gai và thử thách. Dầu thế, tôi hoàn toàn tin tưởng, phó thác cho sự an bài của Thiên Chúa, vì biết rằng Chúa ở bên tôi. Chúa ở bên tôi thì dầu “Tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp: bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi: bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt” (2Cr 4, 9). Do đó, tôi không có quyền chán nản và thất vọng. Tôi không được sợ hãi đau khổ, nhưng phải đối diện, vì tôi biết rằng đau khổ sẽ trở thành nguồn sức mạnh cho tôi, nếu tôi biết khám phá ra giá trị và sự ích lợi của nó. Theo nghĩa này, tôi có thể nói như thánh Phaolô: một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho tôi một niềm vui tuyệt vời, vì có Chúa ở trong tâm hồn tôi (X. 2Cr 4,17). Tôi hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa Đấng yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. Chẳng lẽ tôi lại không dám hiến dâng mạng sống mình cho Ngài, ít là chấp nhận những đau khổ nhỏ nhoi sao?
Thay lời kết
Tôi xin mượn lời của Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận để thay lời kết như sau: “Vui với người con thương. Vui với người ghét con. Vui lúc lòng con đau tê tái. Vui lúc mọi người theo con. Vui lúc người ta bỏ rơi con. Vui tươi làm cho mọi người vui tươi, mặc dù cho lòng con tan nát” ( ĐHV số 539). Tại sao? Vì theo Vịnh gia: “Đối với tôi niềm vui là chính Chúa” và không ai lấy được niềm vui đó (Tv 104,34).