File Audio
THỨ HAI TUẦN IV PHỤC SINH (năm A)
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 10,11-18
“Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.”
II. SUY NIỆM
Chúa Giêsu dùng hình ảnh mục tử với đoàn chiên để diễn tả mối tương giao của Người với tín hữu. Người mục tử đi đi trước để chiên bước theo sao, và người mục tử biết từng con chiên một để săn sóc chiên được sống khoẻ mạnh.
1. Mục tử nhân lành đi trước đoàn chiên.
Không phải như những người khác đi sau và lùa chiên đi trước, người mục tử ở đây đi trước và chiên bước theo sau. Mục tử cần nhìn xa trông rộng xem có thú dữ, trộm cắp gần kề hay không, Và nhất là phải để ý đến con đường ở trước mặt, vì có những con đường sẽ dẫn tới vực thẳm nguy hiểm hay rừng rậm vướng chân, có những con đường sẽ dẫn tới ngõ cụt không lối ra. Chủ chăn cần phải nghiên cứu kỹ xem con đường mình sẽ đưa đoàn chiên đi qua đó có khúc quanh nào nguy hiểm, có hốc đá nào cheo leo, có cỏ dại nào cần nhổ.
Nghĩa là không như kẻ chăn thuê ép buộc và xua chiên đi, và không biết những nguy cơ phía trước có thể làm hại chiên, không dẫn đường cho chiên, và khi có kẻ thù thì bỏ chiên mà chạy. Vị mục tử đích thực thì đi trước dẫn đường cho chiên theo, xua đi những cạm bẫy, chống lại những kẻ thù. Người mục tử không ép buộc chiên, nhưng chiên nghe tiếng người mục tử, hăm hở đi theo và tỏ lòng yêu mến quyến luyến với người mục tử, để rồi cuối cùng sẽ đến được nơi đồng cỏ xanh và nơi dòng suối mát.
Như vậy, mục tử thật luôn thì hết mình vì đàn chiên. Kẻ chăn thuê chỉ lo vun vén cho bản thân. Mục tử thật không nói mà không làm, nhưng đi bước trước để chiên noi theo, hy sinh cho đàn chiên. Kẻ chăn thuê chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Kẻ chăn thuê chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Họ sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
Chúa Giêsu đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân lành là chính Chúa. Cả cuộc đời không tìm an nhàn cho bản thân. Người rong ruổi gió bụi để tìm từng con chiên lạc đưa về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Người sẵn sàng đối phó với sự dữ để bảo vệ đàn chiên. Người đã chấp nhận cái chết để đàn chiên được sống, bởi như Người từng nói: “Ta đến để chúng được sống và được sống một cách dồi dào”. Thực hiện mục đích ấy, Người đã phải trả bằng một giá rất đắt, bằng chính mạng sống của mình.
Qua hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, chỉ có một cung cách phục vụ duy nhất đó là phục vụ như Người đã phục vụ, nghĩa là sẵn sàng hiến thân cho và vì tha nhân mà thôi. Ai sống và phục vụ như Chúa Giêsu thì kẻ ấy thuộc về Người, còn ai sống ngược lại cung cách phục vụ của Người thì kẻ ấy chỉ là quân trộm cướp mà thôi.
2. Mục tử nhân lành biết từng con chiên.
“Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”.
Chúa Giêsu luôn yêu thương đàn chiên, và yêu từng con chiên một. Chính Người yêu thương chăm sóc đàn chiên nên các con chiên mới được ăn trên đồng cỏ xanh, uống bên dòng suối mát. Chính Người lưu tâm bảo vệ đàn chiên, nên các con chiên mới an toàn khỏi kẻ băt trộm, khỏi nanh sói dữ.
Hình ảnh Chúa Giêsu nơi người mục tử là biết từng con chiên và gọi tên từng con chiên… Nghĩa là vì yêu thương và trách nhiệm, chứ không phải bàng quang mặc kệ nó. Thật vậy, người mục tử thường phải hiện diện với bầy chiên của mình suốt khoảng thời gian ngày lẫn đêm. Người mục tử ấy phải biết rõ chiên mình: con nào đau, con nào mạnh, con nào còn, con nào bỏ bầy đi lạc.
Biết chiên. Ở đây không chỉ hiểu là nhận biết, mà còn là một sự liên kết thân thiết với nhau, yêu mến nhau như ngang hàng chứ không phải chủ tớ.
Biết từng con chiên không phải là chỉ lưu tâm đến những con béo mập đem lại lợi ích cho mình, mà là thấu hiểu tình trạng của từng con chiên để chăm sóc kịp thời, lo đi tìm kiếm chiên lạc khi thấy thiều vắng trong đàn mà đưa nó về.
Không thiếu những kẻ không có tình yêu đối với chiên nhưng lại muốn hưởng những quyền lợi của người mục tử. Chúng tìm đủ mọi cách để chiên đi theo mình, nhưng chiên “không chịu theo người lạ, mà chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ”, không cảm nhận được tình thương của kẻ lạ. Vì mục tử giả hay kẻ chăn thuê chỉ biết nghĩ đến bản thân mình, đến cái lợi của mình, không nghĩ gì đến chiên, nên “khi thấy sói đến, họ bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn” (Ga 10,12). Người mục tử đích thực thì yêu thương chiên, sống vì chiên, và sẵn sàng “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11) “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (10,10).
Như vậy: Nhiều khi chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính Chúa mới là người yêu chúng ta trước, yêu vô điều kiện, và yêu không bến bờ.
Người biết rõ chúng ta cần những gì cho linh hồn và thể xác, nên đừng băn khoăn xao xuyến. Hãy chỉ lắng nghe duy nhất tiếng gọi yêu thương của Người. Đừng nghe theo một tiếng gọi nào khác.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là mục tử nhân lành đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”, xin cho chúng con được sống tràn trề bên dòng suối Lời Chúa và sung mãn với lương thực Thánh Thể của Chúa. Amen.
THỨ BA TUẦN IV PHỤC SINH
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 10,22-30
Khi ấy, ở Giê-ru-sa-lem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. Đức Giê-su đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang Sa-lô-môn. Người Do-thái vây quanh Đức Giê-su và nói: “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết.” Đức Giê-su đáp: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.”
II. SUY NIỆM
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc người Do-thái vây quanh Chúa Giêsu để đòi Người xác định về vai trò của Người.
Thật ra, không phải là Chúa Giêsu chưa nói cho họ biết, mà là vì họ cứng lòng tin. Chúa Giêsu xác định sự cứng lòng tin đó, và Người lại phải nại đến những chứng từ để trả lời cho họ về sứ vụ của Người. Đó là: Những công việc Chúa Giêsu làm nhân danh Chúa Cha làm chứng cho Người, và sở dĩ họ không nhận ra là vì họ không thuộc đàn chiên của Người khi không chịu nghe tiếng Người:
1. Công việc nhân danh Chúa Cha.
Nói đến Lời Chứng từ Chúa Cha, trong Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta gặp thấy ít nhất hai lần là khi Chúa Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Giođan và lúc Người biến hình trên núi Tabo. Nhưng trong Tin Mừng Gioan có lẽ chỉ nói tới một lần nhãn tiền Chúa Cha phán vọng xuống rằng: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12,28). Tuy nhiên, ở đây Chúa Giêsu giải thích Lời Chứng của Chúa Cha tức là việc Chúa Cha sai phái Chúa Con thực thi việc Cứu Độ, và việc đó đã được chứng nhận qua bao công việc Người làm. Chính sự việc được xảy ra theo lời Chúa Giêsu là do Người thực hiện theo ý Chúa Cha và Chúa Cha đã làm cho việc đó xảy ra.
Chúa Cha làm chứng cho công việc của Chúa Giêsu nơi trần gian, không chỉ là lời phán ra từ trời, nhưng còn là việc nhận lời Chúa Giêsu cầu xin khi thực hiện các phép lạ (trong thân phận mang kiếp người hữu hạn nơi bản tính nhân loại).
Chúa Giêsu nói: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi”. Có vẻ như chính Chúa Giêsu cũng thừa nhận rằng, người Do-thái không thể tin được Người là một ngôi vị đồng bản thể với Thiên Chúa Cha, vì trong niềm tin của người Do-thái là độc thần, nên Người đành phải nại đến cớ “xem quả để biết cây” – nhìn những công việc Người thực hiện mà nhận ra quyền năng thiên tính của Người, mà cụ thể là chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền và phục sinh kẻ chết. Đặc biệt cách thực hiện của người không như các lang y, mà là ra lệnh cho mọi quyền lực ma quỷ, sự chết và tội lỗi phải tuân lệnh. Ngài dùng Lời sáng tạo để phục hồi: “hãy chỗi dậy, hãy sáng mắt, hãy ra khỏi người này…” giống như ngay từ lúc sáng tạo, Thiên Chúa phán: “hãy có ánh sáng,hãy có tinh tú…” và tức khắc xảy ra như vậy.
Thế nhưng, dù đã nại đến kết quả công việc để minh chứng, nhưnng người Do-thái vẫn không tin. Vậy đâu là lý do họ cứng lòng. Câu trả lời được Chúa Giêsu nêu ra là: “Các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi”
2. Không phải chiên của Chúa.
Khi Chúa Giêsu nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Nghĩa là không biết lắng nghe tiếng Chúa thì không phải là chiên của Chúa, mà không phải chiên của Chúa thì không thể biết Chúa vì không được Chúa Giêsu mặc khải qua Lời Chúa, qua Lời Rao Giảng và qua Giáo Hội của Người.
Biết ở đây không chỉ hiểu là nhận biết, mà còn là một sự liên kết thân thiết với nhau. Biết Đức Giêsu là ai là điều cốt yếu đối với chúng ta, vì điều mà Người ban tặng cho chúng ta là vô giá: đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa. Nhưng nếu Đức Giêsu không đến từ Thiên Chúa và không là Thiên Chúa thì lời hứa đó chẳng có giá trị gì. Chính vì vậy mà phải khám phá ra cho được Đức Giêsu là ai, vì nhờ đó mà chúng ta tìm thấy ơn cứu độ.
Những người Do-thái tưởng mình biết Thánh Kinh, nhưng Thánh Kinh lại có trăm ngàn chỗ vượt quá trí hiểu nhân loại nếu họ không biết lắng nghe. Thật ra, chỉ vì người Do-thái chỉ tìm những đoạn Thánh Kinh có lợi cho họ, họ tìm những gì mang tính siêu việt và vẽ ra một Đấng Cứu Thế phải thoả mãn tham vọng của họ, nên họ cố tình bỏ qua những lời Thánh Kinh tiên báo về nơi sinh hạ, cũng như những gì các ngôn sứ viết về người tôi tớ đau khổ của Gia-vê.
Thời nào cũng thế, con người vẫn muốn đi tìm một Thiên Chúa theo ý mình, nên họ khó lòng chấp nhận một Đức Giêsu vác khổ giá đồng hành với họ.
Ngày nay không thiếu những “con chiên” thay vì nghe chủ chăn thì lại nghe theo người lạ, thay vì nghe theo Giáo Hội của Chúa lại nghe những thứ “được coi là mặc khải” này nọ từ bên ngoài.
Tóm lại, sứ điệp chính của bài Tin Mừng hôm nay chính là lời mời gọi tin vào Chúa Giêsu là chủ chiên nhân lành, ngoan ngoãn nghe theo tiếng Người trong Thánh Kinh và trong Giáo Hội mà dấn bước theo Người. Hãy đến với Chúa Giêsu để Người đưa ta đến những chân trời xa rộng. Hãy đến với Người để Người băng bó vết thương, xoa dịu nỗi đau và phục hồi sự sống. Hãy đến với Người để Người đổ tràn tình yêu và sự sống vào tâm hồn ta.
Lạy Chúa Giêsu, như Chúa đã nói: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”, xin cho chúng con được sống tràn trề bên dòng suối Lời Chúa và sung mãn với lương thực Thánh Thể của Người. Amen.
THỨ TƯ TUẦN IV PHỤC SINH
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 12,44-50
Đức Giê-su lớn tiếng nói rằng: “Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi. Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối. Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì. Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi.”
II. SUY NIỆM
Hôm nay Chúa Giê-su khẳng địng Người là Ánh Sáng cho thế gian. Người là Ánh Sáng xuất phát từ Cội Nguồn Ánh Sáng là Chúa Cha, Người phản chiếu hình ảnh của Chúa Cha. Vì thế, mọi lời nói và công việc của Chúa Giê-su làm là theo điều Người đã thấy nơi Chúa Cha. Thế nhưng, người Do-thái đã dường như cố tình không nhận ra điều đó, bởi chính ánh sáng thật từ Thiên Chúa đã phơi bày mọi tâm can đen tối của con người.
1. Ánh sáng phơi bày những ẩn khuất nơi người Do-thái.
Sự đối lập giữa những người Do Thái ở thủ đô với Chúa Giêsu luôn là đề tài nóng trong cả bốn Tin Mừng. Cũng như ánh sáng không thể chung với bóng tối, bởi ánh sáng sẽ làm tỏ lộ ra tất cả những gì khuất tất. Chúa Giêsu là Ánh Sáng và Sự Thật. Sự xuất hiện của Người tại Giêrusalem đã làm phơi bày ra sự giả hình, ham mê quyền lực và trục lợi của các kinh sư – biệt phái và nhất là giới cầm quyền Do Thái. Chính vì thế mà họ đã tìm cách tẩy chay Chúa Giêsu, tiếc là họ không có lý do đủ mạnh ngoài việc bám víu vào luật Sa-bát, nhưng ngay cả luật này họ cũng bị Chúa Giêsu vạch trần những điều khoản tỉ mỉ do họ thêm vào mà sai lệch ý Thiên Chúa. Điều mà Chúa Giêsu khẳng định, tất cả việc Người làm là theo ý Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu là Ánh Sáng thuần khiết từ Thiên Chúa đi vào tấm lòng đồng trinh thuần khiết của Mẹ Maria. Vì thế mà mẹ đã cưu mang Ngôi Lời mà vẫn đồng trinh, tựa như ánh mặt trời chiếu qua tấm kính trong tinh khiết vào căn phòng rực ánh sáng mà tấm gương không bị ảnh hưởng. Trong khi, ánh sáng ấy chiếu đến sự mục nát xấu xa của giới chức Do Thái đã làm rõ ý đồ đen tối của họ, vì họ như tấm gương bám đầy bụi bẩn trần tục không thể tiếp nhận ánh sáng cho dân chúng, mà còn tìm mọi cách để che khuất và khử trừ Ánh Sáng.
Mọi người chúng ta ngày hôm nay cũng thế, khi chúng ta có tội hay đang theo đuổi những công việc mờ ám, thì chúng ta rất sợ đối diện với sự thật, và tìm cách diệt khẩu những ai có thể làm ý đồ và công việc chúng ta bị phơi bày.
2. Chúa Giê-su nói và làm điều người đã thấy nơi Chúa Cha.
Khác với chúng ta, trong mầu nhiệm Ba Ngôi, Chúa Giêsu có tri thức hưởng kiến và thấu rõ chương trình của Thiên Chúa Cha muốn thực hiện nơi Người. Như Người nói: “Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc. Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý” (Ga 5,19-21).
Như vậy, hai công việc mà Chúa Giêsu hằng làm như Chúa Cha làm chính là: Chúa Cha yêu thương thế nào thì Chúa Con yêu thương như vậy, và Chúa Cha cho kẻ chết sống lại thế nào thì Chúa Con cũng phục sinh ai Người muốn. Chính hai điều này mà Chúa Giêsu không ngại vượt qua những quy định thêm vào khắt khe của Biệt Phái về luật Sa-bát, Người dùng luật yêu thương để cứu chữa bệnh tật thân xác và phục sinh tâm hồn cho những ai tin vào Người: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (ga 5,24). Còn những ai không tin vào Chúa Giêsu như những người Biệt Phái kia thì tự loại mình ra, bởi: “Kẻ nào không tôn kính người Con, thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con” (Ga 5,23).
Như vậy, mọi người chúng ta hôm nay muốn làm theo ý Chúa Cha là khi chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô và sống luật yêu thương vượt trên tất cả mọi sự ràng buộc khác.
Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu Ánh Sáng Chúa vào tận nơi sâu thẳm của tâm hồn chúng con, để thánh hóa mọi bí ẩn tâm can và làm cho tâm hồn chúng con được sáng, hầu chúng con sống trọn vẹn giới luật yêu thương của Chúa. Amen.
THỨ NĂM TUẦN IV PHỤC SINH
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 13,16-20
Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em! Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con. Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu. Thật, Thầy bảo thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”
II. SUY NIỆM
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói rằng: “Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Với lời khẳng định này, đặt ra cho chúng ta hai ý tưởng để suy niệm: Đón tiếp người được Chúa sai đến và nhận ra Chúa trong anh chị em.
1. Đón tiếp người được Chúa sai đến.
Lời nói về sự đón tiếp của Chúa Giêsu trước hết nhắm tới chính sự ơ hờ của người Do-thái đã không đón nhận Người, khi “Người đến nhà mình mà người nhà không nhận ra” (Ga 1,11). Người Do-thái tự hào mình tin Thiên Chúa, nhưng lại không đón tiếp Đấng được Thiên Chúa sai đến, âu cũng vì họ vẽ ra “đấng được sai đến” đó theo ý họ, và họ không chấp nhận một Đấng Thiên Sai không thoả mãn những tiêu chuẩn trần thế của họ.
Người Chúa sai đến với chúng ta cụ thể nhất chính là những người có trách nhiệm rao giảng, thánh hoá và dẫn dắt chúng ta. Các vị đền với chúng ta nhân danh Chúa trong phẩm vị và sứ vụ được Chúa giao phó qua Giáo Hội, chúng ta đã đón tiếp các ngài như thế nào?
Ít nhiều, chúng ta cũng giống dân Do-thái xưa, thích đón tiếp những vị được sai đến hợp ý chúng ta hơn là đón tiếp vị được sai đến theo ý Chúa.
2. Phục vụ Chúa trong anh chị em.
Thánh Biển Đức căn dặn các đan sĩ rằng: “Khi anh em đón tiếp và phục vụ khách, thì không phải anh em đang đón tiếp và phục vụ khách, mà là cung kính đón tiếp chính Chúa Kitô ở trong khách”.
Và Chúa Giêsu cũng đã đồng hoá chính Người hiện thân trong mọi mảnh đời khi Người nói về ngày phán xét chung: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40)
Như vậy, khi ý thức được Chúa ở trong mọi người, thì chúng ta không thể nổi giận cau có với “Chúa” được, mà là một sự kính trọng và chu đáo như Mattha và Maria đã đón Chúa vào nhà mình. Thấy Chúa trong anh em thì chúng ta sẽ dễ tôn trọng và yêu thương nhau…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn nhận ra Chúa nơi những người Chúa sai đến với chúng con để chúng con đón nhận thánh ý Chúa qua các ngài. Xin cũng giúp chúng con nhận ra Chúa nơi tất cả những ai chúng con gặp gỡ hằng ngày, để chúng con biết tôn trọng và sẻ chia cho nhau. Amen.
THỨ SÁU TUẦN IV PHỤC SINH
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 14,1-6
Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”
Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường? ” Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.
II. SUY NIỆM
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” Có lẽ câu nói này của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay không Kitô hữu nào không biết và thậm chí còn thuộc làu làu, nhưng ít khi chúng ta cùng dừng lại để suy niệm ý nghĩa của câu nói thuộc căn bản đức tin này:
1. Thầy là Con Đường.
Chúa Giêsu khẳng định Người là con đường duy nhất dẫn đến cùng Chúa Cha. Lời rao giảng của các tông đồ cũng luôn tuyên xưng như thế: “ngoài Chúa Giêsu ra, dưới gầm trời này không ai có thể đem lại ơn cứu độ”. “Thầy là đường”, chữ “Đường” ở đây không chỉ có nghĩa là Chúa Giêsu chỉ dùng giáo huấn mà dẫn ta đến sự sống, mà chính Người là con đường dẫn đến Chúa Cha nữa. Vì chính Người là mạc khải Chúa Cha (Ga 12,45 và bởi Chúa Cha mà đến rồi lại về với Chúa Cha (Ga 7,29-33). Chỉ trong Chúa Giêsu trung gian duy nhất, chúng ta mới thấy được Thiên Chúa như thế nào, và chỉ một mình Người đưa chúng ta đến với Thiên Chúa mà chúng ta không phải sợ hãi và xấu hổ.
Khi nghe Chúa Giêsu nói “Thầy là đường”, chúng ta cũng nhớ lại một chân lý bất biến là “qua thập giá vào vinh quang”. Đó là con đường duy nhất mà Chúa Giêsu đã đi, để tiêu diệt sự chết và đi vào cõi sống đời đời. Theo đạo chính là theo Con Đường mang tên Giêsu, là gắn bó sống chết với Giêsu, chia sẻ sứ mạng của Giêsu, Con Thiên Chúa làm người bằng xương bằng thịt. Vì thế, muốn đạt đến Nước Trời, Kitô hữu cũng phải bước theo con đường đó.
2. Thầy là sự thật.
Đứng trước quan tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Tôi đến thế gian là để làm chứng cho Sự Thật, và ai đứng về phía Sự Thật thì nghe tiếng Tôi”.
Như thế, Chúa Giêsu là sự thật trọn vẹn đến từ Thiên Chúa, và chỉ có Người mới mặc khải đúng bản tính của Thiên Chúa. Chúa Giêsu từ trời mà đến, từ cung lòng của Chúa Cha nhập thể vào thế gian và chính Người là Thiên Chúa, nên chỉ có Người mới nói đúng về Thiên Chúa như Thiên Chúa có, chứ không phải như những quan niệm về Thiên Chúa cách khiếm diện trong Cựu Ước, hay một Thiên Chúa bằng sản phẩm suy tư của khoa học hay triết thuyết nào. Nói tóm, chỉ có Đấng thấy Thiên Chúa, từ Thiên Chúa đến và là Thiên Chúa thì mới nói đúng Sự Thật về Thiên Chúa, và sự thật của Thiên Chúa là yêu thương, mà Chúa Giêsu chính là Sự Thật toàn diện và là hiện thân của yêu thương.
3. Thầy là sự sống.
Chúa Giêsu là Sự Sống tự thân nơi Thiên Chúa và là Đấng ban cho con người sự sống và sự sống đời đời. Còn sự sống nhân loại không tự thân, mà là tuỳ thuộc nơi Thiên Chúa, nên sẽ mất đi khi không nhận được sự trợ giúp của thức ăn, hoặc bị lệ thuộc bởi ngoại cảnh và có thể mất đi bất kỳ lúc nào.
Chúa Giêsu là sự sống của Thiên Chúa, là căn nguyên sự sống, là chủ của sự sống, là tự thân và vĩnh hằng. Người có quyền thông truyền cho những ai Người muốn, nên cũng chỉ có Người là sự sống duy nhất và vĩnh cửu của con Người, không có Người, con người không thể hiện hữu và trở về hư vô.
Tóm lại, sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay là: Phải qua Con Đường Giêsu chúng ta mới vào được thế giới của Thiên Chúa, bởi lẽ chỉ Đấng từ trời xuống mới có thể đưa chúng ta lên trời. Ngày nay người ta nói đến nhiều con đường khác để được cứu độ. Nhưng con đường nào cũng phải đi qua Con Đường Giêsu. Nơi Con Đường này chúng ta gặp được Sự Thật trọn vẹn về Thiên Chúa. Nơi đây chúng ta gặp được Sự Sống viên mãn của chính Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, là Con Đường dẫn tới Chúa Cha, là Sự Thật về dung mạo Thiên Chúa và là Sự Sống cho con người được hiện hữu và bất tử, xin cho chúng con luôn ý thức rằng, Chúa là trung gian duy nhất để chúng con chỉ bước theo một mình Chúa mà đạt đến hạnh phúc, chứ không chạy theo những thứ “thần” giả trá dẫn chúng con đến chỗ diệt vong. Amen.
THỨ BẢY TUẦN IV PHỤC SINH
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 14,6-14
Đức Giê-su nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”
Ông Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.
II. SUY NIỆM
Khao khát được biết Thiên Chúa Cha là khát vọng chính đáng của con người, và cùng đích của con người chính là được đời đời chiêm ngưỡng thánh nhan Cha. Chính vì thế mà sau khi Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa Cha, tông đồ Philípphê đã không ngần ngại thưa với Chúa Giêsu rằng: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con đã mãn nguyện”.
Thấy Thiên Chúa Cha ư? Con mắt phàm tục không thể nhìn thấy Thiên Chúa. Đó là điều được nói đến trong Cựu Ước, rằng không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống: Môsê phải che mặt khi đối diện, Êlia chỉ được nhìn thấy phía sau, các tổ phụ, thẩm phán và ngôn sứ chỉ được thấy Chúa qua các thiên sứ hoặc các biến cố như mây, lửa… Và chính Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng phải nhờ Chúa Con mặc khải cho”. Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
Như thế, chỉ có Chúa Giêsu là mặc khải tròn đầy về Thiên Chúa Cha. Câu trả lời cho Philípphê hôm nay chứng mình điều đó, đồng thời mạc khải chắc chắn về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi vừa hiện hữu tại thân vừa hiện hữu hướng về đến duy nhất, như Chúa Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha, Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”.
Trong lịch sử đã xảy ra nhiều lạc thuyết tìm cách tách rời tính duy nhất này và Giáo Hội đã có nhiều công đồng để lên án và tuyên tín. Về sau này và càng gần đây xuất hiện nhiều cái gọi là mặc khải tư hay sứ điệp này nọ mà ông này bà kia tự xưng là “thị nhân” “con gái yêu” nói rằng được Chúa Cha hay Chúa Thánh Thần hiện ra cho biết. Giáo Hội luôn dè dặt và không ủng hộ những điều đại loại như thế, nhưng chính những thứ đó lại gây hoang mang cho nhiều người, thậm chí cả những anh chị em thuộc giới tu hành tin và phổ biến.
Điều đáng buồn là một số người người những Giáo Huấn chính thức của Giáo Hội được Chúa Kitô trao quyền bảo vệ đức tin thì không theo, lại chạy theo những thứ “chui cửa sau” mà không qua Giáo Hội.
Chính vì thế, qua bài Tin Mừng hôm nay, xin hãy ý thức cho rằng:
– Không phàm nhân nào nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống.
– Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, trừ khi Chúa Con mặc khải cho.
– Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.
– Chúa Giêsu là mặc khải tròn đầy về Chúa Cha, nên tất cả mọi mặc khải khác đều phải quy về Chúa Giêsu và vâng phục Giáo Hội.
– Chúa Giêsu làm tất cả những gì mọi người cầu xin với Chúa Cha nhân danh Chúa Giêsu.
Đó là tất cả những gì được nói tới trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Đó là đức tin tông truyền của Giáo Hội, vì thế không có con đường chui nào khác mà không qua Chúa Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất. Những linh đạo qua Đức Mẹ và các thánh đều quy hướng về Chúa Kitô. Mọi điều lớn lao mà các Kitô hữu làm được không phải do công chính mình, mà là do niềm tin vào Đức Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, với niềm khao khát như thánh Philípphê, xin cho chúng con được nhìn thấy Thiên Chúa Cha hiện hữu trong mọi nơi mọi lúc, đặc biệt trong mọi biến cố cuộc đời, để chúng con sống trọn niềm thảo hiếu với Người. Amen.
Hiền Lâm.