Thứ năm, 26 Tháng mười hai, 2024

Suy niệm Tin Mừng ngày trong tuần VII Phục Sinh (Hiền Lâm)

 

THỨ HAI TUẦN VII PHỤC SINH

I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 16,29-33
Các môn đệ Người thưa: “Đấy, bây giờ Thầy nói rõ, chứ không còn dùng dụ ngôn nào nữa. Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến.” Đức Giê-su đáp: “Bây giờ anh em tin à? Này đến giờ -và giờ ấy đã đến rồi- anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy. Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.”

 

II. SUY NIỆM
Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay là lời của các môn đệ thưa với Chúa Giêsu, rằng các ngài đã tin Người là Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Chúa Giêsu ghi nhận niềm tin đơn sơ đó, nhưng Người cũng hiểu rõ các môn đệ chưa thực sự hiểu đúng về sứ mạng Thiên Sai của Người. Bởi cho đến lúc này, các môn đệ tin Chúa Giêsu được sai đến và chỉ chờ cho Người giải phóng dân Do-thái khỏi ách thống trị của Rôma và lên ngôi hiển trị, lúc đó các môn đệ sẽ được chia sẻ danh vọng và quyền lực với Thầy.
Chính vì thế mà Chúa Giêsu phải nói rõ ra là sắp đến “giờ của Người”, giờ ở đây không phải là chiêu tập binh mã để giải phóng theo kiểu trần thế, mà là “giờ đi vào cuộc khổ nạn”, giờ các môn đệ sẽ tán loạn bỏ lại Người một mình.

Lời nói của Chúa Giêsu vừa ám chỉ sự kiện sắp xảy đến là Cuộc Khổ Nạn của Người, khi mà các môn đệ có kẻ phản bội, người chối bỏ, kẻ chạy thoát thân để Người cô độc một mình; vừa tiên báo một tương lai xa là cuộc lữ hành trần thế của những ai theo Chúa Giêsu phải nếm trải gian nan khốn khó giữa thế gian. Nhưng ai can đảm trung kiên sẽ đạt đến chiến thắng, như Chúa Giêsu đã chiến thắng.

“Này đến giờ -và giờ ấy đã đến rồi- anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy. Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,32-33).
Cùng với lời tiên báo chắc chắn cho ai theo Chúa phải kinh qua đau khổ, là lời khích lệ cho những ai can đảm trung kiên, thì sẽ được chiến thắng: ANH EM SẼ THẮNG NHƯ THẦY ĐÃ THẮNG THẾ GIAN.

Như vậy, sứ điệp chính của bài Tin Mừng vẫn là chân lý xuyên suốt toàn bộ Thánh Kinh Tân Ước và cũng là căn bản của Giáo Lý Kitô Giáo: “qua thập giá tới vinh quang”. Phải chiến đấu mới có chiến thắng. Những ai theo Chúa phải dám đối diện với đau khổ trong khi chống lại thế gian xác thịt, phải can đảm và trung kiên mới đạt đến chiến thắng cuối cùng. Chúa Giêsu, Đấng đã chiến đấu và đã chiến thắng vinh quang, đó là niềm hy vọng chắc chắn để Kitô can đảm chiến đấuvà đạt tới chiến thắng như Thầy Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã kinh qua đau khổ thập giá rồi chiến thắng ma quỷ, thế gian và tội lỗi để bước vào trong vinh quang vĩnh hằng của Thiên Chúa. Xin cho chúng con can đảm chấp nhận những đau thương của cuộc đời trong thân phận làm con Chúa, để chúng con cũng đạt tới vinh phúc nước trời như Chúa đã hứa ban cho người chiến thắng. Amen.

 

 

THỨ BA TUẦN VII PHỤC SINH

I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 17,1-11a
Đức Giê-su ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô.
Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm. Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian. Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha. Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con.
Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. Tất cả những gì của con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của con; và con được tôn vinh nơi họ. Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian.

 

II. SUY NIỆM
Chương 17 của Tin Mừng Gioan là “lời nguyện hiến tế” của Chúa Giêsu.
Được gọi là lời nguyện hiến tế vì là lời cầu xin của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn, chịu sát tế, hiến mình làm của lễ dâng lên Chúa Cha để chuộc tội nhân loại.

Bài Tin Mừng hôm nay là phần đầu của lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha là Người sẽ ban cho các môn đệ sự sống đời đời: đó là nhận biết Chúa Cha và tin vào người là Đấng được Chúa Cha sai đến.

Chúa Giêsu muốn hễ ai thuộc về Người thì nhận biết Thiên Chúa. Điều này đòi hỏi phải năng suy gẫm Lời Chúa, kiên trì cầu nguyện, tham dự phụng tự, để nhận được ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng trao ban các ơn hiểu biết và khôn ngoan (x.Cl 1,9). Từ ơn hiểu biết sẽ phát sinh tình yêu và các việc lành: Đây là khởi điểm của sự sống đời đời, trước khi tín hữu được thấy tỏ tường dung nhan Thiên Chúa viên mãn mai sau.

Lời khẳng định của Chúa Giêsu thật rõ ràng: “Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giê-su Ki-tô” (Ga 17,2-3).
Được biết Thiên Chúa và nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai thật không dễ dàng, bởi vì việc nhận biết Thiên Chúa và tin vào Chúa Giêsu không phải do trí hiểu hay thực nghiệm khoa học, mà là một ân ban của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã nói: Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ nếu Chúa Con không mặc khải cho, và cũng không ai đến được với Chúa Con nếu Chúa Cha không lôi kéo họ”.

Mọi tín hữu khi nghe lời này của Chúa Giêsu, thật là hạnh phúc khi được biết Thiên Chúa là Cha và tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và là Chúa của mình.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con là những người đã tin Chúa là Đấng được Chúa Cha sai đến để cứu độ chúng con; chúng con cũng được Chúa mặc khải cho biết Thiên Chúa là Cha sáng tạo và yêu thương săn sóc chúng con. Xin cho chúng con cũng biết dâng hiến cuộc đời mình để tôn vinh Cha trên trời như Chúa đã tôn vinh Chúa Cha khi hoàn tất công trình mà Cha giao phó là cứu độ chúng con. Amen.

 

 

THỨ TƯ TUẦN VII PHỤC SINH
Ngày 31/05: Đức Mẹ thăm viếng bà Elizabeth.

I. ĐỌC TIN MỪNG: Lc 1, 39-56
Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
Bấy giờ bà Ma-ri-a nói:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời.”
Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.

II. SUY NIỆM

“MẸ SỐNG ĐỂ PHỤC VỤ, MẸ ĐI ĐỂ TRAO GIÊSU”

Con Thiên Chúa, từ ngày truyền tin, lại còn là con Đức Maria. Hồng ân ấy, Đức Maria không giữ cho riêng mình, Người đã vội vã lên đường, đi thăm người bà con để chia sẻ cho nhau.
Biến cố gặp gỡ giữa Maria và Elisabeth đã làm nổi bật lên hai đặc trưng: Đức tin và sự trao ban – phục vụ.

* Đặc trưng niềm tin
Với khoảng cách giữa Nazareth và Ain Carem (khoảng 100km) với liên lạc thời đó, tin tức về một phụ nữ mang thai ở cách xa nhau như thế, Maria chỉ biết được nhờ tin vào Lời Chúa qua miệng thiên sứ Gabriel mà thôi. Niềm tin của Đức Maria được khẳng định khi Mẹ thưa “xin vâng” một cách dứt khoát và điều này được chính bà Elisabeth đã thốt lên lời ca ngợi “phúc cho bà là kẻ đã tin…” (Lc 1, 45).
Từng câu từng chữ trong lời ca tụng của bà Elisabeth đều mang đầy ý nghĩa, nhưng điều bà nói cuối cùng mới thực quan trọng: “Em thật có phúc, vì đã tin…” (Lc 1, 49) . Câu nói này có thể đặt cận kề với tước hiệu “đầy ơn phúc” trong lời chào của thần sứ.
Qua lời chào của thiên sứ Gabriel và lời tán dương của bà Elisabeth dành cho Đức Maria, cho thấy chân lý về Đức Maria hiện diện trong mầu nhiệm Chúa Kitô, chỉ vì Mẹ đã tin . Công đồng Vaticano II dạy: “Phải bày tỏ sự vâng phục của đức tin (Rm 16, 26; 2Cr 10, 5-6) đối với Thiên Chúa mạc khải, nhờ đó con người hoàn toàn tự nguyện phó thác vào Thiên Chúa” . Cách diễn tả đức tin này đã được Đức Maria thực hiện nơi bản thân mình cách trọn vẹn. Giây phút quyết định là lúc truyền tin, và các lời của bà Elisabeth: “Em thật có phúc vì đã tin” được áp dụng vào giây phút chính xác đó . Với cả lý trí và ý chí, Đức Maria đã đáp lại tiếng Chúa bằng cả con người trọn vẹn đầy nhân tính và nữ tính, và lời đáp trả của đức tin nàybao một sự cộng tác hoàn hảo với hồng ân trợ lực của Thiên Chúa và một sự sẵn sàng trọn vẹn cho hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng không ngừng dùng hồng ân của mình làm cho đức tin luôn hoàn hảo.

* Đặc trưng đức ái (trao ban và phục vụ)
Việc Đức Maria vội vã ra đi đến Ain Carem khi vừa được báo tin là người chị họ trong lúc tuổi già đã mang thai được sáu tháng, được thôi thúc bởi ba động lực là để chia sẻ niềm vui, trao ban “ân sủng” và tinh thần đức ái: Đức Maria đến chia sẻ niềm vui kép đôi vì vừa được cưu mang Chúa Giêsu, vừa vui mừng cho bà Elisabeth được Thiên Chúa cất đi nỗi nhục son sẻ của bà; Đức Maria đến để đem Chúa Giêsu đến cho Gioan được nhảy mừng và bà Elisabeth được tràn đầy Chúa Thánh Thần; và Đức Maria đến để giúp đỡ bà Elisabeth trong thời kỳ thai nghén. Tất cả được gói gọn trong một động lực duy nhất là đức ái tuyệt hảo của Mẹ Con Thiên Chúa.
Niềm vui trước hết và trên hết mà Đức Maria muốn chia sẻ chính là niềm vui được Thiên Chúa cứu độ. Được cứu độ là niềm vui lớn nhất mà bao thế hệ đợi chờ, chính vì thế mà Đức Maria, người được cứu độ đầu tiên, tràn ngập niềm vui, vừa cất tiếng chào thì Gioan trong dạ bà Elisabeth cũng nhảy lên vui sướng vì ơn cứu độ đã đến. Đức Maria mang đến cho gia đình bà Elisabeth ân sủng của Thiên Chúa, vì Mẹ tràn ngập ân sủng, nên ân sủng đó trào tràn trên bà Elisabeth làm cho bà cất lớn tiếng và ca ngợi Mẹ Thiên Chúa.
Đức Maria mang trong mình Đấng là ân sủng và được bao quanh bằng ân sủng của Thánh Thần, Mẹ hiểu rõ bản chất của ân sủng không cho phép tích trữ và giữ lấy như của riêng, mà cần phải trao ban, ân sủng không dừng lại nơi Mẹ mà được tặng ban cho con cái loài người. Thật vậy, nếu ân sủng là để phân phát, thì người làm đầu chỉ có thể là để phục vụ (x. Mt 23, 11), và thế giới ân sủng còn là thế giới của tình thương.
Tình thương bao la và cao thượng vốn được xây dựng trên hy sinh và dâng hiến. Nơi đó, không chờ đợi để nhận lãnh hay để được phục vụ, mà là luôn tìm cách trao ban, chia sẻ và hiến tặng.
Tóm lại, qua biến cố Đức Maria thăm viếng bà Êlizabeth, Chúa muốn dạy chúng ta sống tinh thần của Mẹ Maria là sống trong ơn nghĩa của một tâm hồn đầy Chúa, cưu mang Chúa trong trái tim mình, để rồi mau mắn đem Chúa đến cho tha nhân. Đặc biệt cụ thể hoá việc làm chứng cho Chúa qua chính đời sống phục vụ.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin phó thác, để chúng con biết xin vâng như Mẹ; xin cũng tăng thêm cho chúng con đức ái, để chúng con biết sống trao ban và phục vụ như Mẹ. Nhờ đó, cùng với Mẹ Maria, chúng con xứng đáng là những người con thảo của Cha trên trời. Amen.

 

 

THỨ NĂM TUẦN VII PHỤC SINH

I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 17,20-26
Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con. Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.
Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành. Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai con. Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa.”

 

II. SUY NIỆM
Phần cuối của Lời Nguyện Hiến Tế là lời cầu xin của Chúa Giêsu với Chúa Cha nhắm tới tất cả những ai nhờ lời rao giảng của các môn đệ mà tin vàoChúa Giêsu. Nội dung của lời cầu xin là cho các kitô hữu được hiệp nhất nên một với nhau.
Toàn văn của bài Tin Mừng, Chúa Giêsu lặp đi lặp lại hai chữ nên một: Nên một như tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa, nên một để thế gian nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ, nên một để được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa và nên một để được nhận biết Cha…

+ Trước hết, mô hình tuyệt hảo của sự hiệp nhất chính là hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi: “Để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta”.
Sự hiệp nhất của Chúa Ba Ngôi là tình yêu hướng về nhau: Chúa Cha yêu Chúa Con và Chúa Con yêu Chúa Cha bằng Thánh Thần; tình yêu hướng về nhau đến độ nên một Thiên Chúa duy nhất. Như thế, Kitô hữu nên một với nhau nhờ tình yêu bác ái dành cho nhau.
Sự hiệp nhất của Chúa Ba Ngôi là ở trong nhau: “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, Con ở trong chúng như Cha ở trong Con”. Kitô hữu được mời gọi luôn ở trong Chúa Giêsu và ở trong nhau. “Ở trong” được hiểu là cùng chia sẻ một niềm tin, một phép rửa, một tấm bánh, một Thánh Thần, và đặc biệt là trong cùng một chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô.
Thế nhưng, trải qua thời gian, Giáo Hội Chúa Kitô đã bị chia tách nhau, cụ thể là Kitô Giáo hiện nay bao gồm Công Giáo, Chính Thống, Anh Giáo, Tin Lành và ngay trong các nhánh này lại tách thêm nhiều giáo phái khác. Tấm áo choàng của Chúa Giêsu trong cuộc thương khó đã bị cắt làm 4 phần, thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô đang bị chia cắt. Chính vì thế mà lời cầu xin của Chúa Giêsu với Chúa Cha cho các kitô hữu được nên một lúc này khẩn thiết hơn bao giờ hết. Mỗi Kitô hữu có nhiệm vụ cầu nguyện và nỗ lực đóng góp phần mình cho sự hiệp nhất Giáo Hội, khởi đi từ sự hiệp nhất trong gia đình, lối xóm, giáo xứ, giáo phận…

+ Chính sự hiệp nhất nên một là một lời chứng hùng hồn để thế giới nhận ra Chúa Giêsu: “Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con”.
Thời nào cũng thế, đời sống chứng nhân luôn có tính thuyết phục hơn những bài giảng uyên thâm và hùng hồn: “lời nói lung lay, gương lành lôi kéo”. Mọi người dễ nhận ra Chúa Kitô hiện diện và tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa qua đời sống tốt lành của Kitô hữu, mà điều có sức thuyết phục hơn cả chính là các kitô hữu sống đoàn kết yêu thương nhau và hiệp một lòng một ý với nhau. Điều này luôn luôn đúng khi hầu hết những người trở lại đạo luôn làm chứng rằng họ bị thuyết phục vì đời sống chứng tá của Kitô hữu nơi học đường, xí nghiệp và đặc biệt nơi các xóm đạo.
Chính sự nối kết hiệp nhất với nhau tạo nên sức mạnh chống lại kẻ thù, mà kẻ thù lớn nhất của Kitô hữu chính là ma quỷ đang tìm mọi cách chia rẽ con cái Giáo Hội. Hiện nay, trên mọi ngõ ngách của cuộc sống và đặc biệt trong lãnh vực truyền thông xã hội, kẻ thù luôn tìm cách gieo rắc những thông tin trái chiều, cắt xén và bịa đặt để chia rẽ các thành phần trong Giáo Hội; nhiều kẻ lợi dụng các trang mạng, lập nhóm này trang nọ hay phòng chat kia để truyền bá những điều sai lạc với Giáo Lý Thánh Kinh, cào bằng và lên án các mục tử, lôi kéo nhiều người Công Giáo đặc biệt là các bạn trẻ theo chúng mà xa lìa chân lý của đạo Công Giáo. Chính vì thế, hơn lúc nào hết, sứ điệp Tin Mừng hôm nay mời gọi mọi người hãy cùng đoàn kết nên một trong một đức tin được thông truyền từ Chúa Giêsu qua các Tông Đồ đến cho Giáo Hội. Đức tin tông truyền là bất biến, đức tin đó đòi hỏi các Kitô hữu hiệp nhất với các Đấng đại diện Chúa để làm cho nước Chúa ngày một lan rộng trên thế giới này.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn hiệp nhất với nhau trong cùng một đức tin và một lòng mến, như Chúa luôn hiệp nhất trong Chúa Cha nhờ Thánh Thần Tình Yêu. Amen.

 

 

THỨ SÁU TUẦN VII PHỤC SINH

I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 21,15-19
Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không? ” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” Người lại hỏi: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không? ” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không? ” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không? ” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy.”

 

II. SUY NIỆM
Chúng ta vẫn thường nói với nhau rằng, sở dĩ Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô “con có yêu mến Thầy không?” tới 3 lần là vì trước đó thánh nhân đã chối Chúa tới 3 lần. Điều này không sai, nhưng có lẽ không chỉnh lắm, vì việc chối Chúa là điều nghịch với đức tin, trong khi ở đây Chúa Giêsu đang hỏi thánh Phêrô về đức mến.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta không nhằm bàn chuyện 3 lần chối tương đương 3 lần yêu, mà điều quan trọng là Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta: điều kiện đứng đầu trong các điều kiện của vai trò mục tử là lòng yêu mến Chúa.

Khi thiết lập người đứng đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu lại đặt một vị đã từng 3 lần chối Chúa. Nếu xét theo cách nhìn của chúng ta thì có lẽ Phêrô không xứng đáng và không đủ tiêu chuẩn làm mục tử. Nhưng dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, Người không nhìn Phêrô của ngày hôm qua mà là bắt đầu từ lúc này và hướng về tương lai. Phêrô từng lầm lỡ và khiêm tốn ăn năn để đứng lên, nên cũng chính Phêrô cảm thông được với những con chiên mà Chúa Giêsu trao phó cho ngài. Thiên Chúa đi tìm con chiên lạc thay vì ở nhà với 99 con chiên không lạc. Thiên Chúa cũng chọn một vị mục tử đã từng lạc lối, nhưng điều quan trọng là: “này Phêrô, một khi anh đã trở lại, anh hãy làm cho anh em vững tin”.

Khi đặt Phêrô làm mục tử chăn dắt Giáo Hội hoàn vũ, Chúa Giêsu chắc chắn không dựa trên tiêu chuẩn: thông minh, tài giỏi, oai phong, lợi khẩu… mà là lòng yêu mến. Chúa Giêsu chọn Phêrô vì thánh nhân đã yêu mến nhiều. Phêrô yêu mến nhiều là vì “ngài đã được tha thứ nhiều” (x.La 7,47).
Và vì yêu mến là tiêu chuẩn Chúa chọn mục tử, thì đòi hỏi mục tử cũng phải biết chăn dắt chiên bằng lòng yêu mến, chứ không phải bằng sự độc tài, quyền thế và chiếm hữu.
Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì yêu mến đoàn chiên, thì đến lượt mục tử Phêrô cũng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên như Thầy: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,18-19).

Mục tử có thể thiếu thiếu những tiêu chuẩn khác như thông minh hay lợi khẩu, nhưng mục tử không thể thiếu lòng yêu mến; có làm được mọi sự phi thường, nhưng không có lòng mến thì vô ích. Cảm nghiệm được điều này, thánh Phaolô đã nói: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi (1Cr 13,1-3).

Người Do-thái không dùng thể so sánh tuyệt đối, nhưng dùng sự lặp lại 3 lần để chỉ điều tuyệt đối. Vì thế, khi lặp lại 3 lần sự tuyên xưng yêu mến thì có nghĩa là mức độ yêu mến của mục tử là trên hết và là điều kiện quan trọng nhất trong mọi điều kiện. Cuộc đối thoại hôm nay giữa Chúa Giêsu và thánh Phêrô nói rõ cho biết làm Kitô hữu có nghĩa là gì. Mỗi ngày, Chúa Giêsu cũng hỏi chúng ta có yêu mến Người một các đặc biệt và ‘trên hết mọi sự’ hay không: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Cũng như thánh Phêrô, chúng ta trả lời “có”, mặc dù chúng ta đầy những yếu đuối; và Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta bước theo Người vì tình yêu (x.Ga 19), và cùng với Người gánh vác Dân Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chọn thánh Phêrô làm người chăn dắt Giáo Hội vì thánh nhân đã yêu mến Chúa. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng, tất cả mọi quyền bính trong Giáo Hội đều khởi đi từ lòng yêu mến, và đức mến là đồng phục của mọi Kitô hữu, để chúng con giữ trọn điều răn Chúa là: “Trước yêu mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy” Amen.

 

 

THỨ BẢY TUẦN VII PHỤC SINH

I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 21,20-25
Ông Phê-rô quay lại, thì thấy người môn đệ Đức Giê-su thương mến đi theo sau; ông này là người đã nghiêng mình vào ngực Đức Giê-su trong bữa ăn tối và hỏi: “Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy? ” Vậy khi thấy người đó, ông Phê-rô nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, còn anh này thì sao? ” Đức Giê-su đáp: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy.” Do đó, mới có tiếng đồn giữa anh em là môn đệ ấy sẽ không chết. Nhưng Đức Giê-su đã không nói với ông Phê-rô là: “Anh ấy sẽ không chết”, mà chỉ nói: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? “
Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực.
Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.

 

II. SUY NIỆM
Tin Mừng Gioan kết thúc với lời tiên báo về hai số phận khác nhau của hai người môn đệ, Phê-rô, người sẽ dang tay chịu trói và tử đạo tại Rô-ma vào khoảng năm 67, còn Gioan thì mãi đến sau năm 90 vẫn còn sống…

Dựa theo câu trả lời của Chúa Giê-su: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy” (Ga 21,22), đặt ra cho người đọc một giả thiết: phải chăng tông đồ Gioan sẽ không chết? Phần lớn câu trả lời đều khẳng định rằng: đã mang thân phận làm người ai cũng phải chết và Gioan cũng thế, nhưng lời tiên báo này nói đến việc Gioan sẽ được chiêm ngắm trước cảnh tượng cánh chung qua thị kiến mà ông đã viết lại trong sách Khải Huyền (phần nói về tận thế).

Thật ra, với cách viết của Tin Mừng thứ IV, sử dụng rất nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng, ngay cả nhân vật “người môn đệ được Đức Giê-su thương mến” cũng mang tính biểu tượng hơn là một nhân vật có thật. Nhiều người đã cố hiểu “người môn đệ được Đức Giê-su thương mến” là thánh Gioan tông đồ. Nhưng không hẳn là như thế, bởi vì những tình huống mà Tin Mừng thứ IV nhắc đến, như: tựa đầu vào ngực Chúa, đứng với thân mẫu Chúa dưới chân thập giá, chạy nhanh hơn Phê-rô ra mộ Chúa, nói với Phê-rô rằng “Chúa đó” và Phê-rô hỏi Chúa về người môn đệ này… cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều không hề nhắc tới, thậm chí còn mâu thuẫn, như khi các Tin Mừng Nhất Lãm đều nói lúc Chúa Giê-su bị bắt thì các môn đệ bỏ trốn hết… Chính vì vậy mà chúng ta cứ để “người môn đệ được Đức Giê-su thương mến” hơn là dịch ra thành một người tên là Gioan.

Cụm từ “người môn đệ được Đức Giê-su thương mến” được nhắc tới và chỉ có Tin Mừng thứ IV nhắc tới đến 5 lần (Ga 13,23; 19,26; 20,2; 21,7 và 21,20), ngoài ra có một lần sử dụng chữ “người được Thầy thương mến” để áp dụng cho Lazaro (Ga 11,3). Cách gọi này như là một sự nhân cách hóa “lòng yêu mến” thành ngôi vị, đại diện cho hết những ai yêu mến Chúa Giê-su: Lòng yêu mến tựa đầu vào ngực Chúa, lòng yêu mến đứng dưới chân thập giá bên cạnh mẹ Maria, lòng yêu mến chạy ra mộ Chúa, lòng yêu mến chỉ cho Phê-rô thấy Chúa, và lòng yêu mến tồn tại mãi mãi.

Điều này rất thích hợp vì nằm trong mạch văn của bài Tin Mừng liền sau khi Chúa Giê-su trắc nghiệm lòng yêu mến của Phê-rô tới ba lần trước khi trao quyền cho Phê-rô cai quản Giáo Hội. Thì đây, trong phần kết, sự yêu mến đó tồn tại cách sống động được biểu trưng qua hình ảnh “người môn đệ được Đức Giê-su thương mến”. Người môn đệ được Chúa yêu sẽ không chết cho đến ngày Chúa trở lại, thì lòng yêu mến cũng sẽ theo ta cho đến quê trời, như lời thánh Phao-lô nói: “Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn… Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13,8.13).

Lạy Chúa Ciê-su, Chúa truyền cho chúng con giới răn mới là yêu mến, Chúa đặt các vị mục tử cũng dựa trên lòng yêu mến, và Chúa muốn cho lòng mến đó tồn tại mãi mãi. Xin cho chúng con thêm lòng yêu mến Chúa và mến thương nhau. Amen.

 

Hiền Lâm.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

BÀI VIẾT MỚI

spot_imgspot_img

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ngày 26/12, Thánh Têphanô Tử Đạo Tiên Khởi (Mt 10,17-22; Cv 6,8-10.7,54-60)

Ngày 26/12, Thánh Têphanô Tử Đạo Tiên Khởi (Mt 10,17-22; Cv 6,8-10.7,54-60) Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist Hôn qua, chúng ta đã long trọng mừng kính...

Ngày 3-12, lễ kính thánh Phanxicô Xaviê, Linh mục (Mc 16,15-20) Đi tìm vinh quang thật

Ngày 3-12, lễ kính thánh Phanxicô Xaviê, Linh mục (Mc 16,15-20) Đi Tìm Vinh Quang Thật Lm. Gioan Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist Bản chất của Hội...

Kính thánh Phanxicô Xaviê, Mc 16,15-20

  KÍNH THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Đôi nét tiểu sử: Thánh Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại Điên Xaviê thuộc...

Thứ 7, Tuần XXXIV, Kính Thánh Anrê Tồng đồ, Mt 4, 18-22

KÍNH THÁNH ANRÊ TÔNG ĐỒ Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Đôi nét về tiểu sử: Thánh Anrê quê ở Betsaida và là một...

Ngày 30.11 – Lễ kính thánh Andre Tông đồ

  HÀNH TRÌNH ƠN GỌI (Mt 4, 18-22) M. Kolbe, Phước Hiệp Lễ thánh Andre Tông đồ, là dịp để chúng ta suy niệm về tiếng gọi...

Thứ 6 Tuần XXXIV TN, Lc 21,29-33 Trời mới đất mới

TRỜI MỚI ĐẤT MỚI Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Bối cảnh: Với bài diễn từ “Cánh Chung” Đức Giêsu tiên báo thành Giêrusalem...

Thứ Năm Tuần XXXIV TN – Lc 21,20-28 Giêrusalem bị tàn phá

  GIÊRUSALEM BỊ TÀN PHÁ Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Bối cảnh: Để chúng ta biết được phần nào đoạn Tin Mừng của thánh...

Thứ 4 Tuần XXXIV TN – Lc 21,12-19 Vì danh Thầy anh em sẽ bị bắt nộp và ngược đãi

  VÌ DANH THẦY ANH EM SẼ BỊ BẮT NỘP VÀ NGƯỢC ĐÃI Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Bối cảnh: Các môn đệ cũng như...

Thứ Bảy, Tuần XXXIII, Thường niên (Lc 20,27-38) Tôi tin có sự sống đời đời

Thứ Bảy, Tuần XXXIII, Thường niên (Lc 20,27-38) Tôi Tin Có Sự Sống Đời Đời Lm. Gioan Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist Chúng ta đang sống trong...

Thứ 6 Tuần XXXIII TN, Lc 19,43-48: Thanh tẩy nhà Cha

THANH TẨY NHÀ CHA Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Bối cảnh: Vào dịp trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt qua hơn hai...

Thứ 5, Tuần XXXIII TN, Mt 12,46-50: Ai thuộc về gia đình Đức Giêsu

    AI THUỘC VỀ GIA ĐÌNH ĐỨC GIÊSU Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Bối cảnh: Sau những lời khiển trách các người cứng tin,...

Thứ 5 Tuần XXXIII TN, Lc 19,41-44: Chúa Giêsu than khóc thành Giêrusalem

CHÚA GIÊSU THAN KHÓC THÀNH GIÊRUSALEM Lm M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, Phước Sơn Từ Giêrikhô, Đức Giêsu đã cuốc bộ suốt quãng đường...