THỨ 2 TUẦN IV PHỤC SINH
CỬA GIÊSU
Cv 11, 1-18; Ga 10, 1-10
Lời Chúa hôm nay chứa đầy tâm tình yêu thương. Chúa Giêsu tự ví mình như cánh cửa. Quả thật cánh cửa của Chúa đã mở ra hết mọi chiều kích phong phú cuả sự sống để ban cho ta muôn vàn ân sủng.
Cánh cửa Giê-su mở ra chiều rộng vô biên của Nước Trời. Cửa mở rộng để đón nhận mọi người. Chúa không ngừng mời gọi mọi người đến với Chúa. Thoạt tiên là người Do Thái: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái các ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh”(Mt 23, 37). Rồi đến tất cả mọi dân tộc: “Tôi còn những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về”(Ga 10, 16). Hôm nay, trong một thị kiến lạ lùng, Chúa đã truyền cho thánh Phê-rô phải mạnh dạn đi đến với dân ngoại tại Ma-kê-đô-ni-a. Quả thật cánh cửa là tấm lòng của Chúa rộng mở đến vô biên để đón nhận tất cả mọi người thuộc mọi chủng tộc, mọi mầu da, mọi ngôn ngữ vào Nước Chúa.
Cánh cửa Giêsu mở ra chiều cao vời vợi của ân sủng. Cửa mở ra cho ta đi vào cuộc sống mới trong một chân trời mới cao vượt cõi nhân gian phàm trần. Đó là cuộc sống trong Thánh Thần vượt xa mọi ràng buộc nặng nề của xác thịt. Được sinh trong Thánh Thần, ta tự do như gió, muốn thổi đâu thì thổi. Được nâng lên làm con Thiên Chúa, ta được ngồi ngang hàng với các bậc thần thánh. Chúa nâng cao phẩm giá con người. Con người không còn bị kết án dính chặt vào mặt đất. Con người trở nên Con Chúa và có một định mệnh mới cao quí vô cùng.
Cánh cửa Giê-su mở ra chiều sâu thăm thẳm của tình yêu. Chúa đến với ta trong tình yêu. Chúa yêu thương nên gọi tên từng người. Theo quan niệm của người Do Thái, tên tức là người. Biết tên là biết người. Chúa biết rõ ta từ khi ta chưa có mặt trên đời. Như lời Thánh vịnh 138: “Con mới là bào thai mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con. Đều thấy ghi trong sổ sách Ngài ”. Ta đến với Chúa bằng tình yêu vì Chúa cho ta được biết tiếng ngài. Biết tiếng không khỏi gợi nhớ đến nguồn gốc của từ ngữ “tri âm, tri kỷ” tức là một người hiểu biết mình tường tận. Chúa cho ta được nghe tiếng Chúa để trở thành bạn hữu tri âm của Chúa, để hiểu và tham dự vào mọi chương trình của Chúa như lời Chúa nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15).
THỨ 3 TUẦN IV PHỤC SINH
SỰ SỐNG CỦA THIÊN CHÚA
Cv 11,19-26; Ga 10,22-30
Sự sống của Thiên Chúa thật kỳ diệu. Đó là sự sống hiệp thông. Một sự hiệp thông mầu nhiệm. Nên một. “Tôi và Chúa Cha là một”. Không còn gì xác tín hơn. Không còn gì sâu xa hơn. Chỉ Thiên Chúa mới có sự sống ấy.
Sự sống hiệp thông ấy biểu lộ trong suốt đời dương thế của Chúa Giê-su. Người không nói gì, làm gì mà không bởi Chúa Cha. Đó là dấu chỉ chắc chắn nhất chứng minh Người là Đấng Ki-tô. “Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi”.
Sự sống hiệp thông lan toả đến đoàn chiên của Chúa. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Đó là sự sống phong phú, viên mãn. Không bao giờ mất. Không ai cướp đi được.
Sự sống hiệp thông tràn lan khắp nơi. Càn tản mát lại càng lan toả. “Hồi ấy, những người phải tản mác vì cuộc bách hại xảy ra nhân vụ ông Tê-pha-nô, đi đến tận miền Phê-ni-xi, đảo Sýp và thành An-ti-ô-khi-a”.
Sự sống hiệp thông tràn lan sang cả dân ngoại. Không chỉ trong người Do thái. Nhưng còn lan toả đến mọi dân tộc. “Nhưng trong nhóm, có mấy người gốc Sýp và Ky-rê-nê; những người này, khi đến An-ti-ô-khi-a, đã giảng cho cả người Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng Chúa Giê-su cho họ”.
Và thật lạ lùng. Sự sống ấy giữ được nét nguyên tuyền. Như Chúa Cha và Chúa Giê-su là một. Giờ đây đoàn chiên hiệp thông với chủ chiên. Tín hữu hiệp thông với Chúa Ki-tô. Đến nỗi người ta gọi họ là “Ki-tô hữu”. Người mang Chúa Ki-tô. “Chính tại An-ti-ô-khi-a mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Ki-tô hữu”.
Xin cho con được kết hiệp trọn vẹn với Chúa. Sống sự sống của Chúa trong mình. Để con xứng đáng mang danh hiệu Ki-tô hữu rất cao quý này.
THỨ 4 TUẦN IV PHỤC SINH
ÁNH SÁNG SỰ SỐNG
Cv 12,24 – 13,5a; Ga 12,44-50
Chúa Giê-su đi từ hữu hình đến vô hình. Từ lời nói đến ý tưởng. Từ ngọn đến nguồn. Nguồn sự sống. Nguồn sáng. Từ người được sai đi đến Đấng sai đi. Từ Chúa Con đến Chúa Cha. Chúa Cha vô hình nhưng Chúa Con hữu hình. Chúa Con nói nhưng là lời của Chúa Cha. “Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi”.
Tất cả phát xuất từ Chúa Cha. Chúa Giê-su phát xuất từ Chúa Cha. Lời Chúa nói, việc Chúa làm, đều phát xuất từ Chúa Cha. “Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì…Vậy những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi”.
Mà lời Chúa Cha chính là lời sự sống: “Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời”. Sự sống là ánh sáng. Cái chết là bóng tối. Chúa Giê-su đến đem lời Chúa Cha ban sự sống đời đời. Đem ánh sáng sự sống soi vào bóng tối chết chóc cõi nhân gian. “Tôi là ánh sáng, tôi đã đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối”. Vì thế ai đón nhận Chúa Giê-su là đón nhận Chúa Cha. Là đón nhận ánh sáng. Là đón nhận sự sống.
Cộng đoàn các môn đệ và các tín hữu đầu tiên đã tin nhận Chúa Giê-su là Thiên Chúa. Vì thế các ngài đón nhận được ánh sáng và sự sống. Vì thế cộng đoàn không ngừng phát triển mạnh mẽ. Khi làm cho lời lan tràn khắp nơi. Bác-na-ba liên tục kêu gọi tăng cường nhân sự. Thoạt tiên là đi đón Phao-lô ở Tác-sô. Nay lại cho vời Gio-an Mác-cô. Cho một sức sống bừng lên mạnh mẽ, tại An-ti-ô-khi-a có một bộ khung hùng hậu: “có những ngôn sứ và thầy dạy, đó là các ông Ba-na-ba, Si-mê-on biệt hiệu là Đen, Lu-ki-ô người Ky-rê-nê, Ma-na-en, bạn thời thơ ấu của tiểu vương Hê-rô-đê, và Sao-lô”.
Vì phát triển mạnh mẽ, nên phải tách ra: “Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: “Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm”…Vậy được Thánh Thần sai đi, …. Đến Xa-la-min, hai ông loan báo lời Thiên Chúa trong các hội đường người Do thái”.
Đón nhận Lời Chúa là ánh sáng ban sự sống, các môn đệ lớn mạnh. Ra đi khắp nơi. Rao giảng Lời Chúa không ngừng. Để soi sáng sự sống vào mọi chân trời trần gian.
THỨ 5 TUẦN IV PHỤC SINH
ĐÓN TIẾP CHÚA GIÊ-SU
Cv 13,13-25; Ga 13,16-20
Chúa Giê-su là trung tâm lịch sử. Trước Chúa Giê-su, tức thời Cựu Ước, dân chúng mong chờ. Giê-su nghĩa là Thiên Chúa Cứu. Từ ngàn xưa vì con người tội lỗi hư hỏng. Nên phải chịu nhiều đau khổ. Chịu chết. Nhưng vì tình thương yêu, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Độ. Đấng Cứu Thế phát sinh từ dòng tộc Đa-vít, Vị Thánh Vương lẫy lừng và đạo hạnh. Đã đưa vương quốc Giu-đa đến đỉnh vinh quang. Và toàn dân luôn mong chờ Đấng Cứu Thế mau đến để thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Phục hồi vương quốc lẫy lừng. Đấng Cứu Thế chính là Chúa Giê-su Ki-tô. Khi Gio-an Tẩy giả xuất hiện, người ta cứ tưởng đó là Đấng Cứu Thế. Nhưng Gio-an Tẩy giả đã làm chứng về Người khi nói: “Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người”.
Thời Tân Ước chính là thời đón tiếp Chúa Giê-su. Nhưng tiếc là khi Chúa đến người ta đã không đón tiếp Chúa. Trái lại còn trao nộp Chúa. Kết án Chúa. Hành hình Chúa. Và đóng đinh Chúa trên thánh giá. Vì Chúa Giê-su không đến như một vị Quân Vương oai phong lẫy lừng. Nhưng đến như một tôi tớ hèn mọn. Không sinh ra trong hoàng cung lộng lẫy tại thủ đô. Nhưng sinh ra trong chuồng súc vật tại một làng quê nhỏ bé. Không sống trong gia đình quyền quý. Nhưng sống trong gia đình thợ thuyền. Không đến như vị tướng bách chiến bách thắng. Nhưng như một tôi tớ phục vụ. Người đã quỳ xuống rửa chân cho môn đệ.
Người truyền cho môn đệ phải tiếp tục sứ mạng cứu thế bằng phục vụ như Người: “Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em”. Chúa cho mọi người biết, tuy các môn đệ sống nghèo hèn phục vụ. Nhưng là thừa sai của Chúa. Và “ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Đó là đón tiếp Chúa Cha. Là đón tiếp ơn cứu độ. Là đón tiếp phúc trường sinh.
Ta hãy rút kinh nghiệm của người Do thái. Đừng mơ tưởng một vị quân vương hiển hách. Người môn đệ hãy biết sống nghèo hèn phục vụ như Chúa. Và mọi người hãy biết đón tiếp người được Chúa sai đến. Có thể đó là Giáo hội, giáo quyền, bề trên. Nhưng có thể đó là những người nghèo hèn bất hạnh trong xã hội. Hãy biết nhận ra Chúa. Hãy đón tiếp người nghèo như đón tiếp chính Chúa. Ta sẽ được hạnh phúc. Ta sẽ được ơn cứu độ.
THỨ 6 TUẦN IV PHỤC SINH
ĐƯỜNG SỰ SỐNG
Cv 13,26-33; Ga 14,1-6
Đức Phật bi quan vì thấy con người đắm chìm trong vòng xoáy khắc nghiệt của sinh, lão, bệnh, tử. Nên Phúc, Lộc, Thọ mãi mãi là niềm mơ ước của con người. Mơ ước chỉ là mơ ước. Vì chưa ai tìm ra con đường đến được nơi ước mơ. Nhưng hôm nay Chúa Giê-su loan báo một lời làm nức lòng con người. Sáng lên niềm hi vọng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Chúa là đường. Đi theo Chúa ta sẽ đến nơi. Chúa là sự thật. Đi theo Chúa ta không lo bị lầm lạc. Chúa là sự sống. Sống với Chúa ta không bao giờ chết. Và còn hơn nữa ta sẽ được hạnh phúc. Vì đó là thiên đàng. Thiên đàng là nơi Chúa Giê-su ở với Chúa Cha. Đây không còn là ước mơ. Nhưng là hiện thực. Vì chính Chúa chuẩn bị chỗ cho ta ở thiên đàng. “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.
Tuy nhiên đi theo Chúa không phải dễ dàng. Vì có những thế lực ma quỷ luôn tìm cách chặn đường. Bằng gian dối. Bằng chết chóc. Chính Chúa Giê-su đã phải chiến đấu để mở ra con đường sự thật và sự sống.
Thế gian là gian dối. Muốn bịt miệng sự thật. “Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Phi-la-tô xử tử”. Người Do thái dùng chứng gian tố cáo Người. Phi-la-tô biết Người vô tội. Nhưng vì sợ người Do thái, ông phải kết án Chúa. Để đánh lừa lương tâm, ông rửa tay và nói: “Ta vô can trong việc đổ máu người này” (Mt 27,24). Gian dối cấu kết với gian dối để tiêu diệt sự thật.
Người chết liên minh với người chết để tiêu diệt sự sống. “Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh chép về Người, họ đã hạ Người từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ”. Hơn nữa họ còn đòi Phi-la-tô niêm phong và cho lính canh gác ngôi mộ. Người sống phải canh giữ người chết. Nhưng chính họ mới là người chết. Vì họ không ngăn nổi sự sống. Chúa Giê-su đã phá tung cửa mồ. Sáng láng bước ra. Vì “Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết”.
Chúa Giê-su đã mở ra con đường. Người là con đường dẫn đến sự thật và sự sống. Đi theo Người ta cũng phải chiến đấu với các thế lực gian dối và sự chết. Nhưng ta hãy tin tưởng. Vì Chúa đã chiến thắng. Chúa là sự thật. Nên đã chiến thắng gian dối. Chúa là sự sống. Đã chiến thắng thần chết.
THỨ 7 TUẦN IV PHỤC SINH
TRÀN ĐẦY HOAN LẠC VÀ THÁNH THẦN
Cv13, 44-52; Ga 14, 7-14
Phi-lip-phê tâm thành muốn biết Đức Chúa Cha. Nhưng câu trả lời của Chúa Giê-su đầy bức xúc, buồn phiền lẫn với trách móc: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh chưa biết Thầy ư”? Hỏi về Cha mà lại trả lời về Con. Vì “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” . Vì thế “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Hỏi về Cha như thế là chưa hiểu Con. Chưa hiểu vì chưa đi vào tình yêu. Tình yêu không thể định nghĩa. Chỉ có thể cảm nghiệm. Ai chưa yêu thì chưa hiểu được tình yêu.
Thiên Chúa là tình yêu. Ba Ngôi trong một Chúa. Một tình yêu hoàn hảo. Nên Ba Ngôi kết hợp mật thiết . Vì “Ta và Cha Ta là một”. Chúa Giêsu hoàn toàn kết hợp với Chúa Cha. Đến độ “Các lời Thầy nói với an hem, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình”. Cuộc kết hợp chặt chẽ đến nỗi Chúa Giêsu “sống nhờ Chúa Cha”. Và vì lương thực của Chúa Giêsu chính là làm theo ý Chúa Cha. Như vậy trọn tấm thân, cuộc sống, mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của Chúa Giêsu đều là của Chúa Cha. Tình yêu trong Chúa Thánh Thần khiến Ba Ngôi trở thành nguồn mạch tình yêu, nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh phúc.
Hôm nay Chúa Giê-su cũng hỏi tôi như hỏi Phi-lip-phê: “Thầy ở với con bấy lâu mà con không biết Thầy sao”. Vì biết Chúa Giêsu thì phải đi vào tình yêu. Phải sống nhờ Chúa Giêsu. Và như Chúa Giêsu sống nhờ Chúa Cha, tôi phải để Chúa Giêsu suy nghĩ, nói năng và hành động trong tôi.
Thánh Phao-lô là người đạt đến trình độ đó. Nên ngài có thể nói: “Tôi đã chịu đóng đinh vào thập giá cùng với Chúa Kitô. Nên nếu tôi sống, không còn là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Các tông đồ sau ngày Chúa Phục Sinh cũng đã đi vào tình yêu Chúa Kitô. Các ngài không còn sống theo xác thịt nữa, nhưng sống theo Chúa Thánh Thần. Các ngài sống trong tình yêu. Các ngài thực sự biét Chúa Kitô, biết Chúa Cha và luôn sống theo Chúa Thánh Thần. nên các ngài luôn bình an. Dù gặp gian nan khốn khó, bắt bớ. Nhưng các ngài luôn tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.