THỨ HAI TUẦN IX TN
MỌI SỰ LÀ CỦA CHÚA
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Tb 1,3; 2,1a-8
1,3 Tôi là Tô-bít, tôi đã từng ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày đời tôi. Tôi cũng đã từng rộng tay bố thí cho anh em và đồng bào tôi, những người cùng đi đày với tôi qua Ni-ni-vê, ở xứ Át-sua. 2,1 Dưới triều vua Ê-xa-khát-đôn, tôi trở về nhà tôi. Người ta đã trả lại cho tôi An-na, vợ tôi và Tô-bi-a, con trai tôi. Ngày lễ Ngũ Tuần của chúng tôi, tức là ngày lễ thánh mừng các Tuần, người ta dọn cho tôi một bữa ăn ngon, và tôi nghiêng người xuống để dùng bữa. 2 Người ta bày bàn, dọn cho tôi nhiều món. Tôi nói với Tô-bi-a, con tôi : “Con ơi, con hãy đi tìm trong số các anh em chúng ta bị đày ở Ni-ni-vê, một người nghèo hết lòng tưởng nhớ Thiên Chúa, rồi dẫn người ấy về đây cùng dùng bữa với cha. Này, con ơi, cha đợi con cho đến khi con về.” 3 Tô-bi-a ra đi, tìm một người nghèo trong số các anh em chúng tôi. Khi trở về, nó nói : “Cha ơi !” Tôi bảo nó : “Cha đây, con.” Nó trả lời : “Thưa cha, có một người trong đồng bào chúng ta đã bị giết và quăng ngoài chợ, là nơi bây giờ người ấy còn đang bị thắt cổ.” 4 Tôi liền chồm dậy, bỏ cả ăn, chẳng kịp nếm chút gì. Tôi đem người ấy ra khỏi quảng trường và đặt trong một căn nhà nhỏ, chờ lúc mặt trời lặn sẽ đem chôn. 5 Trở về nhà, tôi tắm rửa, rồi ăn bánh mà lòng cảm thấy ưu sầu tang tóc. 6 Tôi nhớ lại lời ngôn sứ A-mốt đã nói về Bết Ên rằng : “Những ngày lễ của các ngươi sẽ biến thành tang tóc, mọi bài hát của các ngươi sẽ nên khúc ai ca.” Rồi tôi khóc. 7 Khi mặt trời lặn, tôi đào huyệt chôn người ấy. 8 Láng giềng nhạo cười tôi rằng : “Hắn vẫn còn chưa sợ ! Người ta truy nã để giết hắn về tội ấy và hắn đã trốn đi, thế mà hắn lại vẫn chôn cất người chết !”
Mc 12,1-12
12,1 Đức Giê-su bắt đầu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng : “Có người kia trồng được một vườn nho ; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. 2 Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp. 3 Nhưng họ bắt người đầy tớ, đánh đập và đuổi về tay không. 4 Ông lại sai một đầy tớ khác đến với họ. Họ đánh vào đầu anh ta và hạ nhục. 5 Ông sai một người khác nữa, họ cũng giết luôn. Rồi ông lại sai nhiều người khác : kẻ thì họ đánh, người thì họ giết. 6 Ông chỉ còn một người nữa là người con yêu dấu : người này là người cuối cùng ông sai đến gặp họ ; ông nói : “Chúng sẽ nể con ta.” 7 Nhưng bọn tá điền ấy bảo nhau : “Đứa thừa tự đây rồi ! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta.” 8 Thế là họ bắt cậu, giết chết rồi quăng ra bên ngoài vườn nho. 9 Vậy ông chủ vườn nho sẽ làm gì ? Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác. 10 Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao ? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. 11 Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta !
12 Họ tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân chúng ; quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy. Thế là họ để Người lại đó mà đi.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Mọi sự là của Chúa. Đó là chân lý nền tảng. Chúa tạo dựng con người từ hư vô. Chúa còn chăm sóc ân cần. Đó là hình ảnh cây nho và vườn nho mà Chúa dành hết tâm lực chăm chút. “Có người kia trồng được vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi phương xa”. Chúa tạo dựng vũ trụ. Cho con người làm chủ. Để xây dựng phát triển. Nhưng con người không ý thức thân phận của mình. Muốn chiếm đoạt của Chúa. Muốn tự tung tự tác. Muốn giết chết Chúa. Để mình hoàn toàn làm chủ vũ trụ này. “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta”. Thật là sai lầm. Khi loại trừ Thiên Chúa thế giới sẽ thành hỗn độn. Con người sẽ bị tiêu diệt. “Ông sẽ tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác”.
Tô-bít là người ý thức điều đó. Ông biết mọi sự là của Chúa ban. Nên ông luôn muốn chia sẻ với anh em. “Ngày lễ Ngũ Tuần…người ta bày bàn, dọn cho tôi nhiều món. Tôi nói với tô-bi-a, con tôi: “Con ơi, con hãy đi tìm trong số các anh em chúng ta bị đày ở Ni-ni-vê, một người nghèo hết lòng tưởng nhớ Theine Chúa, rồi dẫn người ấy về đây cùng dùng bữa với cha”. Nhận biết Chúa làm chủ vũ trụ và làm chủ đời mình. Ông luôn “ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày đời tôi”. Tôn thờ Chúa hơn vua chúa trần gian. Giữ luật Chúa hơn luật trần gian. Nên ông lo chôn cất người chết, dù bị cấm đoán. Và có thể bị nguy đến tính mạng. Và bị láng giềng chế nhạo: “Hắn vẫn còn chưa sợ! Người ta truy nã để giết hắn về tội ấy và hắn đã trốn đi, thế mà hắn lại vẫn chôn cất người chết!” (năm lẻ).
Thánh Phê-rô khuyên nhủ ta hãy ý thức điều đó. Tất cả là của Chúa ban để giúp ta được hạnh phúc. “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa”. Vì thế thánh nhân khuyên nhủ ta hãy biết phát triển những ơn Chúa ban: “Chính vì thế anh em hãy đem tất cả nhiệt tình, làm sao để khi đã có lòng tin thì có thêm đức độ, có đức độ lại thêm hiểu biết, có hiểu biết lại thêm tiết độ, có tiết độ lại thêm kiên nhẫn, có kiên nhẫn lại thêm đạo đức, có đạo đức lại thêm tình huynh đệ, có tình huynh đệ lại có thêm bác ái”. Có bác ái ta sẽ ở trong Chúa. Đó là hạnh phúc. Đó là đích điểm đời ta (năm chẵn).
Đừng loại trừ Chúa. Đừng giết chết Chúa. Vì sẽ làm cho đời ta héo úa tàn lụi. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống theo Lời Chúa. Thế giới sẽ an vui phát triển.
THỨ BA TUẦN IX TN
TRẢ CHO CHÚA
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Tb 2,9-14
2,9 Ngay tối ấy, tôi tắm rửa, rồi đi vào sân nhà tôi. Tôi nằm dọc theo bức tường ở sân, mặt để trần vì trời nóng. 10 Tôi không biết là trong bức tường phía trên tôi có chim sẻ. Phân chim nóng hổi rơi xuống mắt tôi, tạo ra những vết sẹo trắng. Tôi đến thầy thuốc xin chữa trị, nhưng họ càng xức thuốc cho tôi, thì các vết sẹo trắng càng làm cho mắt tôi loà thêm, cho đến khi tôi bị mù hẳn. Suốt bốn năm, mắt tôi không nhìn thấy gì cả. Tất cả anh em tôi đều lấy làm buồn cho tôi, và ông A-khi-ca cấp dưỡng cho tôi trong hai năm, trước khi ông đi Ê-ly-mai.
11 Lúc bấy giờ, An-na, vợ tôi, nhận làm những công việc dành cho phụ nữ. 12 Nàng giao hàng cho chủ và họ trả tiền công cho nàng. Ngày mồng bảy tháng Đy-trô, nàng xén tấm vải đã dệt xong, rồi giao cho chủ. Tiền công bao nhiêu, họ trả hết cho nàng, lại còn thưởng cho một con dê con để ăn một bữa. 13 Khi nàng bước vào nhà, thì con dê bắt đầu kêu be be. Tôi mới gọi nàng lại và hỏi : “Con dê nhỏ đó ở đâu ra vậy ? Có phải của trộm cắp không ? Đem trả lại cho chủ nó đi ! Vì chúng ta không có quyền ăn của trộm cắp.” 14 Nàng bảo tôi : “Đó là quà người ta thưởng cho tôi, thêm vào số tiền công !” Tôi không tin nàng và cứ bảo nàng phải trả lại cho chủ. Vì chuyện đó, tôi xấu hổ cho nàng. Rồi nàng đáp lại rằng : “Các việc bố thí của ông ở đâu ? Các việc nghĩa của ông đâu cả rồi ? Đó, ai cũng biết là ông được bù đắp như thế nào rồi !”
Mc 12,13-17
12,13 Họ cử mấy người Pha-ri-sêu và mấy người thuộc phe Hê-rô-dê đến cùng Người để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy. 14 Những người này đến và nói : “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp ?” 15 Nhưng Đức Giê-su biết họ giả hình, nên Người nói : “Tại sao các người lại thử tôi ? Đem một đồng bạc cho tôi xem !” 16 Họ liền đưa cho Người. Người hỏi : “Hình và danh hiệu này là của ai đây ?” Họ đáp : “Của Xê-da.” 17 Đức Giê-su bảo họ : “Của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Và họ hết sức ngạc nhiên về Người.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Người ta thường trích dẫn Lời Chúa để phân biệt tôn giáo với chính trị. Thế quyền có toàn quyền ở trần gian. Thiên Chúa có quyền ở trên trời. Nhưng người ta rất thường quên rằng quyền lực trần gian chỉ có ở đời này. Thiên Chúa có quyền ở đời sau. Ở đời sau mọi quyền lực đều qui về một mình Thiên Chúa. Mọi người phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa. Chịu Thiên Chúa xét xử. Như thế mọi sự đều phải trả về cho Thiên Chúa. Như Chúa Giê-su cảnh báo Phi-la-tô: “Ông chẳng có quyền gì nếu từ trên không ban cho ông”. Càng ngày người ta càng muốn thoát ảnh hưởng của Chúa. Vua La mã thậm chí còn coi mình là thần thánh. Đã in trên đồng tiền nộp thuế là: Au-gút-tô Xê-da. Thần thánh Xê-da. Chúa Giê-su vạch rõ sự giả hình của nhóm Biệt phái. Theo Lề Luật cấm thờ ngẫu tượng. Thậm chí cấm khắc hình ảnh Thiên Chúa. Vậy mà nhóm Biệt phái này dám mang hình ảnh ngẫu tượng Xê-da trong túi. Họ ham tiền. Lại làm ra vẻ giữ luật Chúa. Chúa vạch trần sự giả hình của họ.
Tô-bít là người thực hành Lời Chúa. Ông biết mọi sự là của Chúa. Nên ông trả hết cho Chúa. Ông không sợ quyền lực thế gian. Dám lỗi luật vua chúa cấm chôn cất người chết. Để thực hành Lời Chúa dạy: chôn xác kẻ chết. Ông bất chấp nguy hiểm đến tính mạng. Bất chấp sự phản đối của hàng xóm, của thân nhân. Và của chính vợ ông. Ông tuyệt đối giữ sự công bằng. Bảo bà vợ: “Con dê nhỏ đó ở đâu ra vậy? Có phải của trộm cắp không? Đem trả lại cho chủ nó đi”. Với Thiên Chúa còn quyết liệt hơn. Tất cả là của Chúa. Phải trả cho Chúa (năm lẻ).
Thánh Phê-rô hướng đức tin của ta về ngày sau cùng. Tất cả phải trả cho Chúa. Đời này rồi sẽ qua đi mau chóng. “Ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồn”. Rồi sẽ có “trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị”. Công lý tuyệt đối của Thiên Chúa. Trong khi chờ đợi ngày đó, đừng để mình bị đời này cám dỗ. Đừng để ảo ảnh đời này lừa dối. “Anh em hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm pháp và lầm lạc lôi cuốn, mà không còn đứng vững nữa chăng”. Hãy kiên vững trong đức tin. Vì cuối cùng mọi sự thuộc về Chúa. “Xin kính dâng Người vinh quang, bây giờ và cho đến muôn đời. Amen” (năm chẵn).
THỨ TƯ TUẦN IX TN
THIÊN CHÚA SỰ SỐNG
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Tb 3,1-11a.16-17a
3,1 Bấy giờ, lòng tôi tràn ngập ưu phiền ; tôi rên la kêu khóc và bắt đầu thở than cầu nguyện : 2 “Lạy Chúa, Ngài là Đấng công chính,
mọi việc Ngài làm đều chính trực,
tất cả đường lối Ngài đều là từ bi và chân thật ;
chính Ngài xét xử thế gian.
3 Và giờ đây, lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con,
xin đoái nhìn và chớ phạt con vì những tội con đã phạm
và những điều ngu muội của con cũng như của cha ông con.
Các ngài đã đắc tội trước Thánh Nhan
4 và bất tuân mệnh lệnh của Ngài.
Ngài đã để chúng con bị cướp phá, phải tù đày và chết chóc,
nên trò cười, đề tài châm biếm và bia nhục mạ
cho mọi dân tộc, nơi chúng con đã bị Ngài phân tán.
5 Vâng, các phán quyết của Ngài thì nhiều và chân thật ;
Ngài đối xử như thế với con vì tội lỗi con,
bởi chúng con đã không thi hành mệnh lệnh Ngài
và đã chẳng sống theo chân lý trước nhan Ngài.
6 Và nay, xin Ngài đối xử với con theo sở thích của Ngài,
xin truyền rút sinh khí ra khỏi con,
để con biến khỏi mặt đất và trở thành bụi đất.
Quả thật, đối với con, chết còn hơn sống,
vì con đã nghe những lời nhục mạ dối gian
khiến con phải buồn phiền quá đỗi.
Lạy Chúa, xin truyền lệnh cho con được giải thoát
khỏi số kiếp gian khổ này.
Xin để con ra đi vào cõi đời đời.
Lạy Chúa, xin đừng ngoảnh mặt không nhìn con.
Quả thật, đối với con, thà chết còn hơn là suốt đời
phải nhìn thấy bao nhiêu gian khổ,
và phải nghe những lời nhục mạ.”
7 Cũng trong ngày hôm ấy, ở Éc-ba-tan xứ Mê-đi, cô Xa-ra, con gái ông Ra-gu-ên, đã nghe một trong những người tớ gái của cha cô nói lời nhục mạ. 8 Số là cô đã được gả cho bảy người chồng, nhưng họ đã bị ác quỷ Át-mô-đai-ô giết chết trước khi ăn ở với cô theo tục lệ vợ chồng. Người tớ gái nói : “Chính cô là kẻ sát phu ! Coi đó, cô đã có bảy đời chồng mà chẳng được mang tên ông nào ! 9 Tại sao chỉ vì mấy người chồng của cô đã chết mà cô lại đánh đập chúng tôi ? Thôi, đi với mấy ông ấy cho rồi, và đừng bao giờ chúng tôi thấy cô có con cái gì hết !” 10 Vậy ngày hôm ấy, lòng cô Xa-ra ưu phiền và cô kêu khóc. Rồi lên lầu trên ở nhà cha cô, cô định thắt cổ tự tử. Nhưng nghĩ lại, cô tự nhủ : “Sẽ không bao giờ người ta nhục mạ được cha tôi và nói với người : ‘Ông chỉ có một cô con gái yêu quý, thế mà vì bạc phận, cô đã thắt cổ tự tử !’ Như vậy, tôi sẽ làm cho tuổi già của cha tôi phải buồn phiền đi xuống âm phủ. Nên tốt hơn là tôi đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết đi, để đời tôi không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa.” 11 Ngay lúc ấy, cô dang hai tay về phía cửa sổ, cầu nguyện rằng : “Chúc tụng Chúa, lạy Thiên Chúa từ nhân ! Chúc tụng danh Chúa đến muôn đời, và mọi công trình của Chúa phải chúc tụng Ngài muôn muôn thuở.
16 Ngay lúc ấy, lời cầu xin của hai người là Tô-bít và Xa-ra đã được đoái nghe trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa. 17 Và thiên sứ Ra-pha-en được sai đến chữa lành cho cả hai. Ông Tô-bít thì được khỏi các vết sẹo trắng ở mắt, để ông được ngắm nhìn tận mắt ánh sáng của Thiên Chúa ; còn cô Xa-ra, con gái ông Ra-gu-ên, thì được kết duyên với cậu Tô-bi-a, con trai ông Tô-bít, và được thoát khỏi tay ác quỷ Át-mô-đai-ô. Quả vậy, trong tất cả những người muốn lấy Xa-ra, Tô-bi-a có quyền ưu tiên. Cùng lúc ấy, ông Tô-bít từ ngoài sân trở vào nhà, còn Xa-ra, con gái ông Ra-gu-ên, thì từ lầu trên đi xuống.
Mc 12,18-27
12,18 Có những người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Họ hỏi Người : 19 “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta rằng : “Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.” 20 Vậy có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không để lại một đứa con nối dòng. 21 Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. 22 Cả bảy người đều không để lại một đứa con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết. 23 Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ ? Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ.”
24 Đức Giê-su nói : “Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao ? 25 Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. 26 Còn về vấn đề kẻ chết chỗi dậy, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về bụi gai sao ? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào ? Người phán : Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. 27 Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to !”
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Có hai luồng tư tưởng sai lầm. Không tin vào đời sau. Hoặc tin vào đời sau nhưng cho rằng đời sau cũng giống như đời này. Hôm nay Chúa Giê-su bài bác cả hai lập trường sai lầm ấy.
Có đời sau. Vì tại bụi gai cháy đỏ Thiên Chúa nói với Mô-sê: “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống”. Thiên Chúa đang sống nên mới có thể truyện trò với Mô-sê. Và các tổ phụ cũng đang sống bên nên Thiên Chúa mới khẳng định Người là Thiên Chúa của họ.
Nhưng đời sau không còn giống như đời này. Chúa Giê-su minh định: “Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời”.
Chúng ta có bằng chứng vững chắc. Vì Chúa Giê-su đã từ trời xuống. Và đã lên trời. Trở về với Chúa Cha. Người đã chiến đấu với thần chết. “Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử”. Đó là niềm hy vọng vững chắc cho ta. Đó là đích điểm ta nhắm tới. Đó là con đường ta phải đi theo. Các thế lực ma quỉ thế gian luôn tìm cách lung lạc niềm tin đó. Nhưng thánh Phao-lô là người loan Tin Mừng Chúa Ki-tô phục sinh. Tin Mừng sự sống. Tin Mừng hy vọng cho nhân loại. Dù ngài phải chịu bắt bớ, đau khổ. Và chịu chết nữa. “Chính vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày Người đến” (năm chẵn).
Chính vì niềm tin vào đời sau, nên những người công chính muốn thoát khỏi đời này. Vì thế gian là “thung lũng đầy nước mắt”. Chỉ khi về với Thiên Chúa ta mới được hạnh phúc thật. Tô-bít chịu nhiều đau khổ oan ức ở đời đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin truyền lệnh cho con được giải thoát khỏi số kiếp gian khổ này. Xin để con ra đi vào cõi đời đời”. Còn Xa-ra, quá đau khổ, nhưng không dám tự tử. Vì còn tin vào Chúa. Và vì yêu thương cha mẹ. Nhưng cô chỉ xin Chúa cho được chết đi: “Nên tốt hơn là tôi đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết đi”(năm lẻ).
Xin cho con vững tin vào Chúa. Vào sự sống đời sau. Để con sống xứng đáng ở đời này. Nhưng không lưu luyến. Và không quá mê mải đời này.
THỨ NĂM TUẦN IX TN
YÊU MẾN
I. TẤM BÁNH LỜI CHA
Tb 6,10-11; 7,1.9-17; 8,4-8
6,10 Khi đã tới xứ Mê-đi và gần đến Éc-ba-tan, 11 thiên sứ Ra-pha-en nói với cậu Tô-bi-a : “Em Tô-bi-a !” Cậu đáp : “Em đây !” Thiên sứ bảo : “Đêm nay, chúng ta phải trọ nhà ông Ra-gu-ên. Ông này là bà con của em và có cô con gái tên là Xa-ra. 7,1 Khi vào tới Éc-ba-tan, Tô-bi-a nói với thiên sứ Ra-pha-en : “Anh A-da-ri-a, xin anh dẫn em tới thẳng nhà ông Ra-gu-ên, người anh em của chúng tôi.” Và thiên sứ dẫn cậu tới nhà ông Ra-gu-ên. Thấy ông đang ngồi ở cửa sân, họ chào ông trước. Ông đáp : “Chào các anh ! Chúc các anh mạnh khỏe !” Rồi ông dẫn họ vào nhà. 9 Tắm rửa xong, họ vào bàn, nghiêng người xuống để dùng bữa. Cậu Tô-bi-a nói với thiên sứ Ra-pha-en : “Anh A-da-ri-a, xin anh nói với ông Ra-gu-ên gả cô em gái Xa-ra cho em !” 10 Nghe lời ấy, ông Ra-gu-ên bảo cậu thanh niên : “Này cháu, cháu cứ ăn uống qua đêm nay cho thoải mái, vì ngoài cháu ra, không ai có quyền cưới Xa-ra, con gái của chú, cũng như chú đây không có quyền gả cho người đàn ông nào khác ngoài cháu, vì cháu là người bà con gần nhất của chú. Nhưng này cháu, nhất định chú phải cho cháu biết sự thật : 11 Chú đã gả nó cho bảy người trong số anh em của chúng ta, nhưng họ đều chết cả, ngay trong đêm họ đến gần nó. Vậy bây giờ, này cháu, cháu cứ ăn uống đi, rồi Đức Chúa sẽ xếp đặt cho chúng con. 12 Tô-bi-a nói : “Cháu sẽ không ăn uống gì kể từ bây giờ, cho đến khi chú định đoạt về chuyện của cháu.” Ông Ra-gu-ên nói : “Thì chú đang làm đây. Em nó được gả cho cháu là chiếu theo phán quyết của sách Mô-sê, và em nó được gả cho cháu cũng là do Trời định. Vậy cháu hãy đón nhận cô em cháu đây. Từ nay, cháu là anh nó và nó là em của cháu. Từ hôm nay và mãi mãi, nó được gả cho cháu. Con ơi ! Đức Chúa trên trời sẽ cho chúng con đêm nay được toại nguyện ; Người sẽ thương xót và cho chúng con được bình an.” 13 Rồi ông Ra-gu-ên gọi Xa-ra, con gái ông. Cô đến bên ông ; ông cầm lấy tay cô, trao cho Tô-bi-a và nói : “Con hãy đón nhận em con chiếu theo Lề Luật và phán quyết ghi trong sách Mô-sê dạy phải cho nó làm vợ của con. Hãy lấy nó và đưa nó an lành mạnh khoẻ về nhà cha con ; xin Thiên Chúa trên trời ban cho chúng con được bình an !” 14 Ông gọi mẹ cô và bảo đem giấy tới rồi viết tờ hôn thú cam kết là đã gả cô cho cậu chiếu theo phán quyết của Luật Mô-sê.
Sau đó, họ bắt đầu ăn uống. 15 Ông Ra-gu-ên gọi bà Ét-na, vợ ông, và nói : “Này em, em đi dọn một phòng khác rồi dẫn Xa-ra tới đó đi.” 16 Bà đi vào phòng trải giường như ông đã nói, và dẫn con vào. Bà oà lên khóc vì số phận cô, rồi lau nước mắt và nói với cô : 17 “Con ơi, hãy tin tưởng ! Xin Đức Chúa trên trời cho buồn phiền của con biến thành hoan lạc. Cứ tin tưởng đi con !” Sau đó bà đi ra.
8,4 Khi thân nhân đã ra khỏi phòng và đóng cửa lại, Tô-bi-a ngồi dậy, ra khỏi giường và nói với Xa-ra : “Đứng lên, em ! Chúng ta hãy cầu nguyện, nài xin Đức Chúa để Người xót thương và ban ơn cứu độ cho chúng ta !” 5 Cô đứng lên, rồi cả hai bắt đầu cầu nguyện và nài xin cho mình được cứu độ. Tô-bi-a bắt đầu như sau :
“Lạy Thiên Chúa của tổ tiên chúng con.
Xin chúc tụng Chúa, xin chúc tụng Thánh Danh
đến muôn thuở muôn đời !
Các tầng trời và toàn thể công trình của Chúa
phải chúc tụng Chúa đến muôn thuở muôn đời !
6 Chính Chúa đã dựng nên ông A-đam,
dựng nên cho ông một người trợ thủ và nâng đỡ
là bà E-và, vợ ông.
Và loài người đã sinh ra từ hai ông bà.
Chính Chúa đã nói :
‘Con người ở một mình thì không tốt.
Ta sẽ làm cho nó một người trợ thủ giống như nó.’
7 Giờ đây, không phải vì lòng dục, mà con lấy em con đây,
nhưng vì lòng chân thành.
Xin Chúa đoái thương con và em con
cho chúng con được chung sống bên nhau đến tuổi già.”
8 Rồi họ đồng thanh nói : “A-men ! A-men !”
Mc 12,28b-34
12,28 Thấy Đức Giê-su đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi : “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu ?” 29 Đức Giê-su trả lời : “Điều răn đứng đầu là : Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. 30 Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. 31 Điều răn thứ hai là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” 32 Ông kinh sư nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. 33 Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” 34 Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo : “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu !” Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Yêu mến là hạnh phúc. Ai cũng muốn. Cũng cần. Có rất nhiều. Nhưng sao cứ đau khổ. Đó là vì chưa biết yêu. Hôm nay Chúa dậy ta điều cơ bản nhất. Hãy yêu. Nhưng phải có thứ tự. Và có phương pháp.
Thứ tự. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết. Vì Thiên Chúa là tất cả. Là sự sống. Là tình yêu. Là hạnh phúc. Không có Thiên Chúa thì không có ta. Yêu sự sống của mình là điều rất tự nhiên. Và cần thiết. Chúa làm mọi cách cho ta được hạnh phúc. Yêu hạnh phúc của mình là quá chính xác. Thiên Chúa là Tình Yêu. Yêu trong Tình Yêu là đi đúng đường.
Phương pháp. Phải yêu mến “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực người”. Yêu sự sống, tình yêu và hạnh phúc. Đương nhiên phải làm hết sức lực, hết linh hồn, hết trí khôn. Thì mới mong đạt đến mục đích.
Thứ tự tiếp theo. Yêu tha nhân. Phương pháp. Như chính mình. Ai thực hiện sẽ đạt tới hạnh phúc.
Bảy người muốn cưới Xa-ra trước kia đều chết. Vì đã sai thứ tự và phương pháp. Họ không yêu mến Thiên Chúa. Cũng không yêu Xa-ra. Họ yêu chính mình. Theo thúc đẩy của dục vọng. Nên xa lìa Thiên Chúa. Rơi vào tay ma quỷ. Tô-bi-a và Xa-ra đã hiểu biết điều đó. Nên đến với nhau vì Chúa và vì tình yêu đích thực. Trước khi thành hôn, Tô-bi-a nói với Xa-ra: “Đứng lên, em! Chúng ta hãy cầu nguyện”. Và cả hai nguyện rằng: “Giờ đây, không phải vì lòng dục mà con lấy em con đây, nhưng vì lòng chân thành. Xin Chúa đoái thương con và em con”. Họ đã được Thiên Chúa chúc phúc (năm lẻ).
Sự sống, tình yêu và hạnh phúc của ta được biểu lộ trong cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su Ki-tô. Người chết để cho ta được sống. Người chịu ghét bỏ để ta được yêu thương. Người chịu bất hạnh cho ta được hạnh phúc. Đó là Tin Mừng lớn lao cho ta. Thánh Phao-lô say mê và kiên quyết rao truyền Tin Mừng đó. Với niềm tin vững chắc: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người”. Ngài đã yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Ngài đã đạt đến sự sống, tình yêu và hạnh phúc (năm chẵn).
Lạy Chúa, xin dạy con yêu mến Chúa. Vì Chúa là sự sống, là tình yêu và là hạnh phúc của con.
THỨ SÁU TUẦN IX TN
LỜI CHÚA ỨNG NGHIỆM
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Tb 11,5-17
11,5 Bà An-na ngồi, ngó trước ngó sau con đường mà con bà đã đi. 6 Thấy cậu đang đến, bà bảo cha cậu : “Này con ông đang đến với người bạn đồng hành của nó !”
7 Thiên sứ Ra-pha-en nói với Tô-bi-a trước khi cậu đến gần cha : “Tôi biết là mắt cha em sẽ mở ra. 8 Hãy tra mật cá vào mắt ông. Thuốc sẽ làm cho các sẹo trắng teo lại và bay ra khỏi mắt ông. Cha em sẽ thấy lại được, sẽ nhìn thấy ánh sáng.”
9 Bà An-na chạy đến ôm choàng lấy cổ con và nói : “Con ơi, mẹ lại thấy con ! Từ nay, mẹ có chết cũng được !” Rồi bà khóc oà lên. 10 Ông Tô-bít đứng lên, chân đi loạng quạng bước qua cửa sân mà ra. 11 Tô-bi-a đi về phía ông, tay cầm mật cá ; cậu thổi vào mắt ông. Cậu giữ chặt lấy ông và nói : “Thưa cha, xin cha cứ tin tưởng !” Cậu bôi thuốc cho ông và để thuốc ngấm. 12 Rồi cậu lấy hai tay bóc vẩy ra khỏi khoé mắt ông. 13 Ông ôm choàng lấy cổ cậu, vừa khóc vừa nói : “Con ơi, cha đã thấy con ! Con là ánh sáng cho đôi mắt cha !” 14 Rồi ông nói :
“Chúc tụng Thiên Chúa !
Chúc tụng Danh cao trọng của Người.
Chúc tụng mọi thiên sứ thánh thiện của Người !
Ước gì Danh cao trọng của Người che chở chúng ta !
Chúc tụng mọi thiên sứ đến muôn đời !
Vì tôi đã bị Người đánh phạt,
nhưng nay lại được thấy Tô-bi-a, con tôi !”
15 Tô-bi-a hoan hỷ bước vào nhà, miệng vang lời chúc tụng Thiên Chúa. Tô-bi-a kể cho cha cậu biết là cuộc hành trình của cậu đã thành công, cậu đã mang bạc về, đã cưới vợ là cô Xa-ra, con gái ông Ra-gu-ên như thế nào, và hiện giờ cô sắp tới, đang tiến gần đến cửa thành Ni-ni-vê.
16 Ông Tô-bít ra tận cửa thành Ni-ni-vê đón con dâu, vừa hoan hỷ vừa chúc tụng Thiên Chúa. Thấy ông đi đứng, di chuyển hoàn toàn vững mạnh mà không cần ai cầm tay dẫn đi, dân trong thành Ni-ni-vê đầy kinh ngạc. Trước mặt họ, ông Tô-bít xưng tụng Thiên Chúa đã xót thương và mở mắt cho ông. 17 Rồi ông Tô-bít đến bên Xa-ra, vợ của Tô-bi-a, con ông, chúc lành cho cô và nói : “Này con, chúc con mạnh khoẻ ! Chúc tụng Thiên Chúa của con, Đấng đã dẫn con đến với cha mẹ, con ơi ! Xin Chúa giáng phúc cho cha con, cho Tô-bi-a, con của cha, cũng như cho chính con, hỡi con ! Con ơi ! Con hãy phấn khởi hân hoan bước vào nhà con đây, và xin Chúa giáng phúc cho con !”
Mc 12,35-37
12,35 Khi giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giê-su lên tiếng hỏi : “Sao các kinh sư lại nói Đấng Ki-tô là con vua Đa-vít ? 36 Chính vua Đa-vít được Thánh Thần soi sáng đã nói : Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi : bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con.
37 Chính vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng, thì Đấng Ki-tô lại là con vua ấy thế nào được ?” Đám người đông đảo nghe Đức Giê-su cách thích thú.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Khi trích dẫn Thánh vịnh 110, Chúa Giê-su cho biết Người có hai bản tính. Bản tính nhân loại, Người là con cháu thuộc dòng tộc Đa-vít. Bản tính Thiên Chúa, Người là Con Thiên Chúa. Và vương quyền Người trổi vượt Đa-vít. Không những Đa-vít phải gọi Người là Chúa Thượng. Mà Thiên Chúa Cha còn đặt cả vũ trụ dưới chân Người.
Đồng thời Chúa cũng cho biết Kinh Thánh đã được Thiên Chúa linh hứng. Đa-vít nói theo linh hứng của Thánh Thần. Nên tuy ông chưa hiểu. Mà sự thật đó ứng nghiệm. Các kinh sư là những người am tường Kinh Thánh đã không hiểu thấu Kinh Thánh. Trước những giải thích của Chúa Giê-su, không ai chối cãi được. Còn dân chúng thì vui mừng hoan hỷ. Vì Kinh Thánh mở ra những chân lý cao siêu.
Tuy nhiên Chúa Giê-su sẽ phải chịu đau khổ, chịu chết. Rồi mới được vinh quang. Người sẽ phải “thua kém các thiên thần một chút”. Rồi mới hiển trị trên thiên quốc.
Bất cứ ai thực hành Lời Chúa cũng đều trải qua đau khổ. Đó là điều gia đình Tô-bít cảm nghiệm. Ông phải chịu đau khổ nhục nhã một thời gian. Nhưng cuối cùng sẽ được Thiên Chúa yêu thương giải cứu. Nên khi được sáng mắt ông và “vợ ông, và mọi người quen biết đều tôn vinh Thiên Chúa. Bấy giờ, ông Tô-bít nói: “Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, con xin chúc tụng Ngài vì Ngài đã sửa phạt con, nhưng cũng chính Ngài đã cứu thoát con; và này đây, con đang nhìn thấy Tô-bi-a, con trai của con” (năm lẻ).
Thánh Phao-lô cho biết ai phục vụ Chúa cũng phải đi vào con đường đau khổ. Chính Ngài đã gặp rất nhiều đau khổ: “Tại An-ti-ô-ki-a, I-cô-ni-ô, Lýt-ra, đã biết tôi chịu bắt bớ như thế nào. Nhưng Chúa đã giải thoát tôi khỏi tất cả. Vả lại, nhưng ai muốn sống đạo đức trong Đức Ki-tô Giê-su, đều sẽ bị bắt bớ”. Và ngài khuyên nhủ Ti-mô-thê hãy hoàn toàn tin vào Kinh Thánh. Vì Lời Chúa sẽ đem đến ơn cứu độ. Và có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh giúp người môn đệ hành xử: “Anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào đức Ki-tô Giê-su. Tất cả những gì viết trong Sách thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục, để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (năm chẵn).
Tôi có yêu mến Lời Chúa. Tin tưởng Lời Chúa. Và có thực hành Lời Chúa?
THỨ BẢY TUẦN IX TN
THẨM PHÁN CHÍ CÔNG
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Tb 12,1.5-15.20
12,1 Mãn tiệc cưới, ông Tô-bít gọi Tô-bi-a, con ông, và nói : “Này con, con hãy lo trả công cho người bạn đồng hành của con, và trả thêm cho người ấy.” Tô-bi-a nói : “Thưa cha, biết trả anh ấy bao nhiêu bây giờ ? 5 Vậy Tô-bi-a gọi thiên sứ lại và nói : “Xin anh lấy một nửa tất cả những gì anh đã mang về, làm tiền công của anh. Chúc anh lên đường mạnh khoẻ !”
6 Bấy giờ, thiên sứ kín đáo gọi hai cha con lại và nói : “Hãy chúc tụng Thiên Chúa và tuyên xưng Người trước toàn thể sinh linh, về những điều tốt lành Người đã làm cho cha con ông. Hãy chúc tụng và ca ngợi danh Người ! Những việc Thiên Chúa đã làm, hãy long trọng tỏ cho mọi người biết. Đừng ngần ngại xưng tụng Người ! 7 Giữ kín bí mật của vua là điều tốt đẹp ; nhưng công trình của Thiên Chúa, thì phải tỏ bày và long trọng xưng tụng. Hãy làm điều lành thì cha con ông sẽ không gặp điều dữ.
8 “Cầu nguyện kèm theo đời sống chân thật, bố thí đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công ; làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc. 9 Việc bố thí cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội lỗi. Những người làm phúc bố thí sẽ được sống lâu. 10 Những ai phạm tội ăn ở bất công là kẻ thù của chính mình.
11 “Tôi sẽ tỏ cho ông và con ông biết tất cả sự thật, không giấu giếm chi. Tôi đã tỏ cho cha con ông biết rồi và đã nói : Giữ kín bí mật của vua là điều tốt đẹp, nhưng công trình của Thiên Chúa thì phải bày tỏ để tôn vinh Người. 12 Hãy biết rằng khi ông và cô Xa-ra cầu nguyện, chính tôi đã tiến dâng những lời cầu nguyện đó lên trước nhan vinh hiển của Đức Chúa, để xin Chúa nhớ đến hai người ; tôi cũng làm như vậy khi ông chôn cất người chết. 13 Và khi ông không ngại chỗi dậy, bỏ dỡ bữa ăn để đi chôn cất người chết, bấy giờ tôi được sai đến bên ông để thử thách ông. 14 Thiên Chúa cũng sai tôi chữa lành cho ông và cô Xa-ra, con dâu ông. 15 Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Đức Chúa.”
20 Giờ đây, hãy chúc tụng Đức Chúa nơi trần gian, hãy xưng tụng Thiên Chúa. Này tôi lên cùng Đấng đã sai tôi. Hãy viết ra mọi điều đã xảy đến cho cha con ông.” Và thiên sứ lên trời.
Mc 12,38-44
12,38 Trong lúc giảng dạy, Đức Giê-su nói rằng : “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. 39 Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. 40 Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.”
41 Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. 42 Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rô-ma. 43 Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói : “Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. 44 Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó ; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.”
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Chúa “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”. Và Chúa phán xét: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”. Chúa không nhìn bề ngoài. Nhưng nhìn trong tâm hồn. Chúa phê phán những người sống bề ngoài nhưng không có nội tâm. “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng…Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”.
Chúa vẫn luôn quan sát đời sống chúng ta. Và sẽ thưởng phạt đúng với công việc. Tổng lãnh Thiên thần Ra-pha-en đã cho Tô-bít biết điều đó. “Hãy biết rằng khi ông và cô Xa-ra cầu nguyện, chính tôi đã tiến dâng những lời cầu nguyện đó lên trước nhan vinh hiển của Đức Chúa, để xin Chúa nhớ đến hai người; tôi cũng làm như vậy khi ông chôn cất người chết. Và khi ông không ngại trỗi dậy, bỏ dở bữa ăn để đi chôn cất người chết, bấy giờ tôi được sai đến bên ông để thử thách ông. Thiên Chúa cũng sai tôi chữa lành cho ông và cô Xa-ra, con dâu ông”. Sở dĩ Tô-bít và Xa-ra được Chúa thương như vậy. vì họ sống chân thật, nghèo khổ mà vẫn bố thí. Khó khăn mà vẫn cầu nguyện. Như Ra-pha-en cho biết: “Cầu nguyện kèm theo đời sống chân thật, bố thì đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công; làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc” (năm lẻ).
Nhưng quan trọng hơn Chúa là Thẩm Phán chí công ở đời sau. Đời sau mới quyết định số phận vĩnh cửu. Hạnh phúc đích thực. Vì thế thánh Phao-lô chấp nhận chịu thiệt thòi, mất mát, kể cả hi sinh mạng sống, để được Chúa thưởng ở đời sau: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi… Giờ đây, tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy”. Và thánh nhân khuyên nhủ người con Ti-mô-thê-ô cũng hãy kiên trì phục vụ Chúa như ngài. Để cũng được thưởng như ngài: “Trước mặt Thiên Chúa và Đức Ki-tô Giê-su, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh: hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (năm chẵn).
Hãy luôn sống trước Nhan Chúa, dưới ánh mắt của Chúa. Chúa thấu suốt tâm hồn. Sẽ thưởng phạt chính xác. Đời này không có công lý. Ta chấp nhận thiệt thòi vì Chúa. Rồi Chúa sẽ trả lại cho ta.