CHỨNG TÁ CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ
Mt 5, 13- 19
Đs. Montfort Pháp, đan viện Châu Thủy
Người Việt Nam thường quan niệm: “Lời nói gió bay, gương lành lôi cuốn” hay “hữu xạ tự nhiên hương”. Một đời sống thiếu gương mẫu mà những lời nói chau chuốt, những bài thuyết pháp hùng hồn chỉ là “thùng rỗng kêu to” hay “thanh la phèng phèng”. Nó có thể tạo nên sự thích thú nơi người nghe, nhưng không có khả năng đánh động và mang lại sự hoán cải. Bởi đó, để rót vào cung lòng người nghe sứ điệp muốn trình bày, tạo nên sức hút, có khả năng biến đổi hướng đi người khác, người thuyết giảng phải sống điều mình nói.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ trở nên chứng nhân của Ngài bằng chính con người và cuộc sống của mình: “Anh em là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian” (x. Mt 5, 13- 16). Ngài không đòi hỏi các môn đệ phải là những nhà thuyết giảng hay, có khả năng hùng biện nhưng là người có khả năng đón nhận và được biến đổi bởi Tin Mừng. Làm môn đệ Đức Kitô không hệ tại ở vẻ bề ngoài mà hệ tại sống đúng căn tính của mình. Như bản chất của muối là ướp mặn; bản chất của ánh sáng là chiếu soi, thì bản chất của người môn đệ Đức Kitô là trở nên nhân chứng sống động về Tin Mừng tình thương của Ngài giữa trần gian. Họ giới thiệu Chúa cho người khác không chỉ bằng lời nói hay những cuộc rước linh đình, nhưng bằng sự đồng hành, bằng cử chỉ yêu thương và sự chia sẻ những nỗi khổ đau nơi người khác. Đức thánh cha Phanxicô đã nói trong Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 24 rằng: “Cộng đồng rao giảng Tin Mừng qua việc tham gia vào cuộc sống hằng ngày của những người khác bằng việc làm và cử chỉ của mình, rút ngắn khoảng cách… chạm đến những nỗi đau khổ của Đức Kitô trong những người khác”.
Như vậy, Sứ điệp truyền giáo không đơn thuần là đi ra nhưng còn hệ tại ở lại, chìm đắm trong Đấng đã sai mình. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng Đức Đức Kitô Giêsu” (Cl 2, 7). Người sống tinh thần sứ vụ là người biết đặt để đời mình vào Đấng đã mời gọi để tìm nơi Ngài sự tươi trẻ cho đời chứng nhân. Trong Thông điệp Đấng Cứu Thế (số 88), thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Có ở trong tình liên kết với Đức Kitô thì mới hiểu và sống sứ vụ truyền giáo”. Ở trong tình yêu Đức Kitô đồng nghĩa với việc được Ngài chiếm hữu. Lúc ấy, cùng với thánh Phaolô, chúng ta có thể nói được rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Hơn nữa, “tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Pl 3, 8- 9).
Thánh Bênađô mà chúng ta mừng kính hôm nay là mẫu gương tuyệt vời về việc từ bỏ, sống và làm chứng cho Tin Mừng. Ngài sinh ra trong một gia đình lãnh chúa quyền quí, nhưng năm hai mươi hai tuổi, ngài đã gia nhập dòng Xitô, một dòng nổi tiếng khắc khổ: chuyên chăm cầu nguyện, lao động cực nhọc và hãm mình hết mực.
Tuy sống trong nơi cô tịch thanh vắng, thánh nhân vẫn ấp ủ lòng nhiệt thành phục vụ Giáo hội qua việc rao giảng Lời Chúa, đứng ra dàn xếp và thuyết phục các nước trong thời Giáo hội ly khai, giãi hòa giữa các vua chúa, cố vấn cho các vị giáo hoàng. Ngài đã làm tất cả vì tình yêu Thiên Chúa và sự hiệp nhất Giáo hội. Giáo lý nền tảng của ngài: Khi Chúa yêu, Chúa không muốn điều gì khác ngoài được yêu. Có thể nói, tất cả những gì thánh Bênađô làm đều gói ghém trong hai chữ “tình yêu”: Yêu Chúa, yêu Giáo hội, yêu tha nhân và yêu mến đời sống đan tu.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mỗi người chúng ta sự nhiệt thành trong việc loan báo và làm chứng cho Tin Mừng bằng chính ơn gọi, khả năng và bậc sống của mình.