CHỨNG TỪ PHỤC SINH CỦA ĐỨC KITÔ
(Ga 20,1-9)
M. Kim Taegon Thường, Phước Hiệp
Chúa sống lại thật rồi, Halleluia! Hòa chung niềm vui với muôn vàn chư thánh và các thiên thần trên Thiên Quốc, cùng với Giáo Hội hoàn vũ trong ngày trọng đại “Đức Giêsu Phục Sinh”, chúng ta vui mừng ngày Đức Giêsu khải hoàn, Đấng chiến thắng tử thần, đem lại ơn cứu độ cho nhân loại. Biến cố ngôi mộ trống mà thánh sử Gioan trình thuật hôm nay cho chúng ta thấy được mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu là một mầu nhiệm tỏ lộ tình yêu và ơn cứu độ, đó cũng là sự quan phòng và tiên liệu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Sự Phục Sinh của Đức Giêsu là niềm vui của Triều Thần Thiên Quốc, niềm hạnh phúc cho toàn thể con người và vũ trụ vạn vật. Bởi vì, sự Phục Sinh của Đức Giêsu đem lại ơn cứu độ cho con người; mặt khác, cho con người được phục hồi lại sự sống mới mà nguyên tổ xưa đã đánh mất; không những thế, cho con người được ơn làm con cái Thiên Chúa; và đồng thời, cho con người được thừa hưởng sự sống đời đời. Trong bài chia sẻ này, xin được trình bày qua ba điểm:
– Chứng từ ngôi một trống
– Sự tin nhận của Maria Mácđala, người môn đệ Đức Giêsu thương mến và Phêrô
– Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu
- Chứng từ ngôi mộ trống
Như chúng ta thấy, trong biến cố Phục Sinh, biến cố và yếu tố đầu tiên mà chúng ta thấy được và nắm bắt được chính là biến cố ngôi mộ trống. Bản văn Ga 20,1-9 là trình thuật đầu tiên về biến cố Đức Giêsu Phục Sinh trong Tin Mừng thứ tư. Trước đó chúng ta thấy, khung cảnh Đức Giêsu được mai táng trong một ngôi mộ mới (x. 19,38-42). Sau đoạn này là trình thuật về sự hiện ra của Đức Giêsu với bà Maria Mácđala (x. Ga 20,11-18). Rõ ràng đoạn Ga 20,1-9 này được nối kết một cách rất chặt chẽ với đoạn trước đó bởi từ ngữ và ý tưởng: ngôi mộ và chôn cất. Hình ảnh “ngôi mộ mới” ở 19,41.42 được lặp lại trong 20,1-9 đến 7 lần (x. Ga 20,1b.2.3.4.6.8.) với mạo từ xác định, ngụ ý đến ngôi mộ đã được đề cập trước đó. Ngôi mộ này cũng được nhắc đến hai lần nữa trong trình thuật sau đó (20,11b).
Hình ảnh Đức Giêsu đã được chôn trong mồ (x. 19,42) nối kết với việc Maria giờ đây không thấy xác Đức Giêsu ở trong ngôi mộ ấy. Maria Mácđala này lại cũng xuất hiện trong đoạn sau (x. 20,11-18) trong bộ dạng “đang đứng khóc ở bên ngoài ngôi mộ” (20,11). Ngôi mộ trống trong đoạn này chắc chắn có sự nối kết chặt chẽ với trình thuật những lần hiện ra của Đức Giêsu sau đó (x. 20,11-18; 20,19-29 và 21,1-23) để làm nên một hệ thống chứng từ đầy đủ cho Mầu Nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu và cả cộng đoàn của Gioan. Tự nó, điều này không phải là một bằng chứng trực tiếp. Việc thân thể Đức Giêsu không còn trong mộ có thể được giải thích bằng những cách khác (x. Lc 24,3.22-23).
Ngôi mộ trống có thể không phải là một bằng chứng thực nghiệm tỏ tường về sự sống lại của Đức Giêsu, một sự kiện làm nền tảng cho lòng tin vào mầu nhiệm ấy. Thế nhưng, ngôi mộ trống có thể có một ý nghĩa khác cho sự kiện Phục Sinh của Đức Giêsu. Thánh sử Gioan cho chúng ta biết: “Bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ” (Ga 20,1), ngài còn cho biết thêm về trường hợp của Phêrô: “Ông đi thẳng vào mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại, xếp riêng ra một nơi” (Ga 20,6-7). Chuyện này thật sự rất khó hiểu? Có hai câu hỏi được đặt ra: thứ nhất, nếu không phải Đức Giêsu Phục Sinh thì tại sao lại có một sự sắp xếp gọn gàng đến như vậy? Thứ hai, nếu người ta lấy xác Đức Giêsu thì tại sao lại có một sự tài tình rất phi lý như vậy? Ngôi mộ trống và những đồ liệm là những dấu hiệu cho thấy sự Phục Sinh của Đức Giêsu là một mầu nhiệm. Đó là dấu hiệu minh chứng hay là chứng từ chứng tỏ Đức Giêsu đã Phục Sinh một cách chắc chắn. Những sự kiện mà thánh sử Gioan trình thuật xem ra có phần phi lý, thế nhưng, nó là một thực tế không thể phủ nhận sự Phục Sinh của Đức Giêsu. Dẫu vậy, ngôi mộ trống vẫn là một dấu chỉ căn bản để chúng ta thấy được biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu một cách tỏ tường nhất.
- Sự tin nhận của Maria Mácđala, người môn đệ Đức Giêsu thương mến và Phêrô
Như chúng ta thấy, sự tin nhận của bà Maria Mácđala, người môn đệ Đức Giêsu thương mến và Phêrô có một sự khác biệt. Trong đoạn trình thuật này, thánh sử Gioan đã sử dụng ba động từ “thấy” và ba động từ này được gán của ba nhân vật. Chủ ý của thánh sử Gioan cho chúng ta biết được từ “thấy” của ba nhân vật này gắn liền với ba thái độ tin nhận vào biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu với khung cảnh của ngôi mộ trống.
Trước hết, đối với bà Maria Mácđala. Thánh sử Gioan trình thuật: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ” (Ga 20,1). Với đoạn trình thuật này, thánh sử Gioan sử dụng động từ “thấy” của bà Maria Mácđala là “blepein”, và động từ này“thấy” ở đây là “thấy” một cách trực diện, “thấy” ở đây mang tính chất và cấp bậc thấp nhất, nói về cái nhìn mang tính vật chất, cái nhìn bằng mắt thịt (x. Ga 9; 21,9), và như thế “blepein” không mang một ý nghĩa đặc biệt nào. Động từ thấy này mang tính suy đoán, nghĩa là bà “thấy” một một hình ảnh nào đó với sự suy đoán. Vì thế, sự “thấy” của bà Maria Mácđala không có gì là chắc chắn, nó không đúng hoàn toàn và có thể bị sai lầm. Do đó, sự “thấy” của bà làm cho việc tin nhận của bà thiếu đi nền tảng.
Thứ đến, đối với Phêrô. Thánh sử Gioan trình thuật: “Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó” (Ga 20,6). Với đoạn trình thuật này, thánh sử Gioan sử dụng động từ “thấy” của ông Phêrô là “theorein”. Động từ “thấy” ở đây là “theórein” có nghĩa là nhìn tập trung, tức là phải có nhiều thời gian hơn so với “blepein”, do đó cũng hàm ý một sự hiểu biết sâu xa hơn. Một cách nào đó, cái “thấy” này đưa đến chỗ chấp nhận Đức Giêsu là một con người đặc biệt, có khả năng làm các việc kỳ diệu, nhưng chưa phải là đức tin tròn đầy (x. Ga 2,23; 4,19; 6,2.19;20,12.14). Thế nhưng, ở đây “thấy” của Phêrô vào ngôi mộ trống vẫn có một mục đích nào đó, Phêrô đã “thấy” một cách xác định, nhưng “thấy” này không mang đến một đức tin, nó chỉ mang tính kiểm chứng mà thôi. Do đó, Phêrô đi vào ngôi mộ trống, chỉ thấy những hình ảnh đó và mang tính xác định, chứ chưa mang đến đức tin, có nghĩa là ông chưa đón nhận đức tin vào Đức Giêsu đã Phục Sinh. Có lẽ, ông có một sự hoang mang, nghi ngờ hay do một vấn đề tâm lý nào đó.
Cuối cùng, đối với người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Thánh sử Gioan trình thuật tiếp: “Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng người môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào” (Ga 20,3-5), và “Bấy giờ, người môn đệ kia, kẻ đã tới một trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8). Chúng ta nhận thấy, thánh sử Gioan sử dụng hai động từ “thấy” cho người môn đệ Đức Giêsu thương mến là: “blepein” và “horan”. Với đoạn trình thuật thứ nhất này, thánh sử Gioan sử dụng động từ “thấy” là “blepein”, động từ này giống như động từ “thấy” “blepein” của bà Maria Mácđala, một cái “thấy” mang tính vật chất, bằng xác thịt, nghĩa là “thấy” đó có thể dẫn đến sự sai lầm. Với đoạn trình thuật thứ hai, thánh sử Gioan đã có một sự thay đổi về cái “thấy” của người môn đệ Đức Giêsu thương mến và cái “thấy” này dẫn đến đức tin (x. Ga 20,8.25), “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8). Qua động từ “thấy” “horan” này cho chúng ta biết được cái “thấy” của người môn đệ Đức Giêsu thương mến có một sự nhảy vọt rất lớn trong việc đón nhận đức tin, nghĩa là tin vào sự Phục Sinh của Đức Giêsu.
- Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu
Như chúng ta thấy, trong đoạn trình thuật Ga 20,1-9, thánh sử Gioan kể về những hình ảnh nơi ngôi mộ trống. Có thể nói, ngôi mộ trống vẫn luôn là vấn đề trực tiếp liên quan đến biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu. Sự Phục Sinh của Đức Giêsu là một hiện tượng có một không hai trong lịch sử loài người, một hiện tượng nói lên quyền năng và sự siêu việt của Thiên Chúa, một hiện tượng thật sự lạ lùng và mầu nhiệm. Câu hỏi được đặt ra: đâu là mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu? Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu cho chúng ta thấy và biết được điều gì? Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu đem lại điều gì cho chúng ta?
Trước hết, mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu. Sự Phục Sinh của Đức Giêsu là sự kiện liên quan trực tiếp đến những lời tiên báo về chính Người: “Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại” (Lc 18,32). Như vậy, Đức Giêsu đã mạc khải và khẳng định sự Phục Sinh của mình cho các môn đệ biết. Điều này, Đức Giêsu khẳng định, cái chết của Người là một điều thật sự và sự Phục Sinh của Người cũng là một điều thật sự. Sự Phục Sinh của Đức Giêsu không phải là việc trở lại với cuộc sống trần thế, giống như trường hợp của những ai mà Người đã cho sống lại trước khi sự Phục Sinh của Người, như: con gái ông Giairô (x. Lc 8,49-56), người thanh niên con trai bà góa thành Nain (x. Lc 7,11-17) hay anh Lazaro (x. Ga 11,1-43). Thế nhưng, sự Phục Sinh của Đức Giêsu hoàn toàn khác hẳn. Thật vậy, sự Phục Sinh của Đức Giêsu là đối tượng của đức tin, vì đó là sự can thiệp siêu việt của chính Thiên Chúa trong công trình tạo dựng, trong lịch sử và trong chương trình cứu chuộc. Đó cũng là mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Thứ đến, mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu cho chúng ta biết và thấy được chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thật vậy, sự Phục Sinh của Đức Giêsu là việc hoàn thành những lời hứa của Cựu Ước (x. Lc 24,26-27.44-48) và sự Phục Sinh này của Người kết thúc hành trình trên dương thế trong cuộc đời trần thế (x. Mt 28,6; Mc 16,7; Lc 24,6-7). Kiểu nói “đúng như lời Thánh Kinh” nêu rõ rằng sự Phục Sinh của Đức Giêsu đã hoàn thành các lời tiên báo này. Không những vậy, sự Phục Sinh của Đức Giêsu đã hoàn thành trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, trong việc Thiên Chúa thiết lập mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và hoàn thành kế hoạch cứu độ, cũng như trao ban ơn cứu độ một cách nhưng không và duy nhất mà Thiên Chúa dành tặng cho nhân loại. Đức Giêsu, nhờ sự chết của Người, giải thoát chúng ta khỏi mọi tội lỗi, nhờ sự Phục Sinh của Người, mở đường cho chúng ta tiến vào sự sống mới, sự sống mà ông bà nguyên tổ xưa đã đánh mất. Đời sống mới này cốt tại việc Đức Giêsu chiến thắng cái chết của tội lỗi của ông bà nguyên tổ và việc cho con người tham dự mới, vào ân sủng (x. Ep 2,4-5 1Pr 1,3), nghĩa là vào ơn cứu độ của Đức Giêsu. Sự sống này đã được mặc khải trọn vẹn trong sự Phục Sinh của Người.
Cuối cùng, mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu đem lại cho chúng ta sự sống đời đời trong ngày cánh chung. Thật vậy, sự Phục Sinh của Đức Giêsu là nguyên lý và là nguồn mạch cho chúng ta ngày sau được sống lại. Trong 1Cr, thánh Phaolô cho chúng ta thấy được chiều kích cánh chung của sự Phục Sinh của Đức Kitô: “Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu…Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1Cr 15,20-22). Với chiều kích này, Đức Giêsu cho chúng ta thấy được sự Phục Sinh của Người là nền tảng để con người bước vào đời sống vĩnh cửu. Có thể nói, Đức Giêsu đã xuống cõi thâm sâu của sự chết (x. Mt 12,40; Rm 10,7; Ep 4,9). Đức Giêsu, “Đấng khơi nguồn sự sống” (x. Cv 3,15), đã “nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ” (Dt 2,14-15). Vì thế, “Cái Chết” của Đức Giêsu không phải là một sự chấm hết, nhưng “Cái Chết” của Người là dấu chấm để mở ra sự sống, một sự sống không còn phải hư mất vì tội lỗi của nguyên tổ, một sự sống không bị đánh mất do tội lỗi của cá nhân, nhưng là một sự tái sinh mới trong sự sống và sự Phục Sinh của Đức Giêsu. Đó là sự sống thần linh của Thiên Chúa mà thánh Phaolô đã xác quyết (x. Cl 3,1-3). Vì vậy, từ nay, sự Phục Sinh của Đức Giêsu “nắm giữ chìa khóa Tử thần và Âm phủ” (Pl 2,10) để con người được sống trong mầu nhiệm cánh chung một cách sung mãn và viên mãn nhất.
Thực tế cho thấy, biến cố ngôi mộ trống đã đem lại cho các môn đệ có một niềm tin và sự xác quyết về sự Phục Sinh của Đức Giêsu. Trong bài đọc I: Cv 10,34a.37-43. Thánh Phêrô trong bài giảng tại gia đình ông Cornelio đã làm chứng và khẳng định về sự Phục Sinh của Đức Giêsu: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do thái và tại chính Giêrusalem” (Cv 10,39a). Niềm tin vào sự Phục Sinh của Đức Giêsu đã làm cho Phêrô có một sức mạnh để rao giảng Tin Mừng Phục Sinh. Để nói về sự Phục Sinh của Đức Giêsu, ông nói tiếp: “Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10,39b-41). Có thể nói, đây là một bài Kegryma làm chứng hùng hồn nhất về những lời rao giảng về sự Phục Sinh của Đức Giêsu. Đây cũng là điều mà Phaolô muốn nhắm tới khi nói về sự Phục Sinh của Đức Giêsu (x. Cl 3,1-4).
Như chúng ta đọc thấy, trong bài đọc II: Cl 3,1-4, thánh Phaolô một cách nào đó đã trình bày về sự Phục Sinh của Đức Giêsu, đây cũng là một bài Kegryma mà các môn đệ muốn hướng tới. Thế nhưng, thánh Phaolô đã trình bày về sự Phục Sinh của Đức Giêsu mang chiều kích mới, nghĩa là sự Phục Sinh của Đức Giêsu mang nguyên lý của đời sống mới, nguyên lý của ơn cứu độ mà Thiên Chúa dành tặng cho nhân loại một cách đặc biệt và duy nhất. Nếu chúng ta kết hợp vào nguyên lý này thì chúng ta được ơn cứu độ. “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh sẽ được xuất hiện với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3,3). Thánh Phaolô cho chúng ta thấy được sự sống mới của Đức Giêsu sẽ đưa chúng ta đến vinh quang bất diệt của Thiên Chúa, nếu như chúng ta tin và kết hợp với sự sống này. Vì thế, thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3,1). Đó là một sự tìm kiếm và kết hợp trong mầu nhiệm Phục Sinh của Người, là nền tảng của sự phục sinh của chúng ta, một sự phục sinh trong sự Phục Sinh của Đức Giêsu.
Tóm lại, qua biến cố ngôi mộ trống, sự tin nhận của các môn đệ và những hình ảnh là những băng vải xếp ở đó, tự chúng nói lên rằng, thân thể của Đức Giêsu đã Phục Sinh, sự Phục Sinh của Đức Giêsu là nhờ quyền năng của Thiên Chúa, đã thoát khỏi xiềng xich của sự chết và hư nát. Đó là những dấu chỉ cho thấy sự Phục Sinh của Đức Giêsu là một sự thật hiện nhiên, đúng như lời tiên báo của Người dành cho các môn đệ, đó cũng là đức tin mà chúng ta cần phải đón nhận và tin theo. Đức Giêsu, “trưởng tử trong số những người từ cõi chết” (Cl 1,18), là nguyên lý của sự sống lại của chính chúng ta, ngay bây giờ nhờ ơn cứu độ của Đức Giêsu và nhờ vào sự công chính hóa của Người mà linh hồn chúng ta được phục sinh (x. Rm 6,4) và sau này nhờ sự Phục Sinh của Người làm cho thân thể chúng ta được sống (x. Rm 8,11). Câu hỏi được đặt ra: qua ngôi mộ trống, đức tin của chúng ta như thế nào đối với sự Phục Sinh của Đức Giêsu? Chúng ta phải sống đức tin đó ra sao trong đời sống đức tin của mình? Đức tin của chúng ta có biến đổi chúng ta hay không? Và đức tin đó có đem lại ơn cứu độ cho người khác không? Trong niềm vui Phục Sinh của Đức Giêsu, chúng ta cùng xác tín lại một lần nữa: Chúa sống lại thật rồi, Halleluia!