Thứ ba, 14 Tháng Một, 2025

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 17: HIẾN DÂNG

 

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM

   

 Nội san linh đạo đan tu 

 

 

HIẾN DÂNG

 

 Số 17 – Tháng 06 năm 2015

 

 

LỜI GIỚI THIỆU

Cùng bạn đọc thân mến! 

Ngày 30 tháng 11 năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chính thức khai mạc năm đời sống thánh hiến để giúp cho các tu sĩ sống tinh thần tri ân, sám hối và hướng về tương lai với niềm hy vọng. Ngài mời gọi họ trở nên chứng nhân của niềm vui Tin Mừng, của sự hiệp thông và “đi ra” đến các vùng “ngoại vi”. Đến các vùng “ngoại vi” để làm gì nếu không loan báo Tin Mừng. Thế nhưng, tu sĩ chỉ có thể làm chứng cho Chúa Kitô khi bản thân “đầy tràn” sự sống của Ngài. Tu sĩ chỉ đầy tràn Chúa khi để mình hoàn toàn trống rỗng đón nhận sự sống của Chúa.
Để trở nên rỗng, câu trả lời không khó, nhưng khó khi tu sĩ phải thể hiện trong cuộc đời thánh hiến. khó vì tinh thần thế tục ngày càng lấn sâu trong tinh thần và cuộc sống của tu sĩ; khó vì có khi chúng ta “vô cảm” với chính mình, với tha nhân với Thiên Chúa. Tập Nội San “Hạt Giống Chiêm Niệm”số 17 này phần nào nói lên kinh nghiệm yếu đuối đó của chúng ta.
Với chủ đề “Hiến Dâng” , tập nội san diễn tả nỗi lòng khao khát của những con người của những con người được “Hiến Dâng” cho Chúa, nhưng vẫn tham sân, si; “Dậm chân tại chỗ”… để không biết “Tiến bước hay thụt lùi”. Tuy nhiên, ý thức rằng: “Được thánh hiến để được sai đi”, đan sĩ sẽ vượt qua khỏi các chướng ngại để thực thi “sứ vụ của đời sống đan tu” và nuôi dưỡng tình yêu thương huynh đệ trong cộng đoàn.
Hy vọng với những chia sẻ mộc mạc và chân tình này, đem lại cho bạn đọc một kinh nghiệm nhỏ nhoi nào đó, thêm vào hành trang của bạn. trên đường đi tìm một mình Thiên Chúa trong đời thánh hiến.

 

BAN BIÊN TẬP

 

 

 

 

 MỤC LỤC

 

 

 

 

ANH EM LÀ MUỐI CHO ĐỜI

                                           (Mt 5,13)

 

Montfort (CSĐD)

 

Lời mở

“Anh em là muối cho đời” (Mt 5,13)

 

Ý nghĩa của muối: Nó có vị mặn, có tính hòa tan trong nước, và phải trải qua thanh luyện mới có được màu trắng tinh khiết. Từ các đặc tính này muối được sử dụng để bảo tồn thực phẩm, tạo nên hương vị thơm ngon cho thức ăn, và thanh tẩy chất độc và đem lại nhiều ích lợi trong đời sống.
Trong Kinh Thánh muối cũng có ý nghĩa khác nhau:
– Câu chuyện sách Sáng Thế kể lại việc Thiên Chúa phạt một phụ nữ, “Bà vợ ông Lót ngoái lại đằng sau và hoá thành cột muối” (St 19,26). Như vậy, muối là một dụng cụ trừng phạt. Các vùng đất có muối tức là nhiễm mặn, là đất hoang, “không ai gieo vãi, không chi nảy chồi, không cọng cỏ nào mọc lên, giống như cảnh tàn phả ở Xơ-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma và Xơ-vô-gim, những thành mà ĐỨC CHÚA đã phá đổ trong cơn thịnh nộ và lôi đình của Người”(Đnl 29,22). Kẻ chiến thắng rắc muối xuống thành phố bại trận để không ai ở đó được như sách Thủ Lãnh thuật lại: “Suốt ngày hôm ấy A-vi-me-léc đã chiếm được thành, tàn sát tất cả dân cư, rồi triệt hạ và rắc muối lên thành” (Tl 9,45).
– Trong Tân ước, Chúa Giêsu dùng thuật ngữ “muối” để nói tính chất cùa người môn đệ là phải trở nên muối “ướp mặn cho đời” khỏi những băng hoại của thế gian “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lây gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chi còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” (Mt 5,13).
Với tư cách là những người sống đời thánh hiến theo bước Đức Kitô, chúng ta được mời gọi trở nên “muối cho đời” nghĩa là đem lại lợi ích đến cho mọi người. Vậy, trong ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta tìm hiểu những đặc tính và công dụng này của muôi diễn đạt những ý nghĩa tượng trung nào về đòi sống thánh hiến, đời sống của những người bước theo Thầy Chí Thánh Giêsu.

I.TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI THIÊN CHÚA

1.Muối tượng trưng cho sự trung tín trong giao ước với Thiên Chúa

Vì yêu thương, Thiên Chúa muốn ký kết một giao ước tình bạn với con người. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã ký kết một giao ước với A-ha-ron và dòng dõi của ông là các tư tế, những người được thánh hiến để chuyên lo phụng sự Thiên Chúa, và Ngài gọi giao ước này là “giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan Đức Chúa, cho ngươi và dòng dõi ngươi’’ (Ds 18,19). Giao ước này bắt nguồn từ câu chuyện về cuộc phản loạn của dân Israel, và Thiên Chúa đã giáng tai họa xuống trên dân (x. Ds 17,12-13). Sau đó theo lời Thiên Chúa phán, A-ha-ron và gia tộc ông “… là những người được dâng hiến, thuộc về ĐỬC CHÚA, để chuyên lo phục vụ Lều Hội Ngộ” (Ds 18,6). Ông cùng với các con ông sẽ thi hành chức vụ tư tế trong mọi việc liên quan tới bàn thờ và những gì sau bức màn trướng. Và Thiên Chúa nói: “…Ta ban chức tư tế cho các ngươi như dịch vụ và hồng ân” (Ds 18,7), rồi Thiên Chúa kết luận: “Đó là giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan Đức Chúa, cho ngươi và dòng dõi ngươi” (Ds 18,19b). Từ câu chuyện này, các học giả về văn hóa và tôn giáo Do Thái cho rằng: “Muối là dấu chỉ của sự trung tín trong tình bạn và sự liên đới giữa những người cùng ngồi ăn chung với nhau trong một mối dây liên kêt thánh thiêng” [1]
Trong vùng Palestin, người ta xem chức năng quan trọng nhất của muối là bảo tồn thực phẩm, kê đên nó mới là gia vị[2]. Giao ước mà Thiên Chúa ký kết với các tư tế được gọi là giao ước muối bởi vì nó phải tồn tại vĩnh viễn. Vậy các tư tế có trách nhiệm làm cho Dân Thiên Chúa trung tín trong việc giữ giao ước với Thiên Chúa. Họ phải có sự thánh thiện, chuyên chăm cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, luôn sống ữong tình bằng hữu với Thiên Chúa, có như thế họ mới có thể trở thành những người trung gian để chuyển cầu cho Dân.
Chúa Giêsu gọi chúng ta, những người sống đời thánh hiến, là “muối” bởi vì Ngài cũng muốn chúng ta đi vào giao ước tình yêu với Ngài, sống thân mật với Ngài, trở nên bạn hữu thân thiết của Ngài. Và nhất là Ngài muốn chúng ta ừung thành mãi mãi với những gì chúng ta đã khấn hứa, trở nên những người trung gian có trách nhiệm sống thánh thiện, hy sinh để cầu nguyện cho mọi tín hữu khác cũng sống trung tín với Thiên Chúa, giống như bổn phận của các tư tế thời Cựu Ước đôi với dân Israel, Dân riêng của Thiên Chúa.

 

2.Muối là dấu chỉ của việc được thánh hiến cho Thiên Chúa, dành rỉêng cho Thiên Chúa

Muối có tầm quan trọng đặc biệt trong hệ thống các nghi thức dâng hiến lễ phẩm cho Thiên Chúa. Người ta gọi đó là “muối của giao ước với Thiên Chúa”. Trong sách Lêvi, Thiên Chúa đã phán: “Các ngươi phải bỏ muối vào mọi lễ phẩm các ngươi dâng tiến; các ngươi không được để lễ phẩm các ngươi thiếu muối của giao ước của Thiên Chúa các ngươi; các ngươi phải dâng muối cùng với mọi lễ tiến của các ngươi” (Lv 2,13). Như vậy muối là một phương thế để đóng dấu ấn trên mọi lễ vật dâng cho Thiên Chúa, để nói lên việc chúng thuộc về Thiên Chúa.
Trong nghi thức dâng hương, việc bỏ muối vào hương đã làm cho hương trở thành hương thánh hiến dành riêng cho Thiên Chúa, như lời ĐỨC CHÚA đã phán với ông Môsê: “Ngươi hãy lấy các thứ hương chất: tổ hợp hương, hương loa, phong tử hương, các hương chất và nhũ hương nguyên chất; số lượng mỗi thứ sẽ đồng đều. Ngươi sẽ lấy các thứ hương chất đó chế thành hương để đốt : hợp chất các hương này sẽ là sản phẩm của thợ làm hương; hương đó sẽ là hương pha muối, nguyên chất, và là hương thánh. Đối với các ngươi, đó sẽ là một vật rất thánh. Các ngươi sẽ không được chế hương theo kiểu ấy mà dùng: đối với ngươi, đó sẽ là một vật thánh, dành riêng cho ĐỨC CHUÁ ” (Xh 30,34-37).
Cũng theo ý nghĩa này, mà ngôn sứ Êdêkien nói đến việc xát muối cho trẻ sơ sinh Do Thái là một nghi thức nhằm nói lên đứa trẻ được Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc (x.Ed 16,4). Trong nghi thức làm phép nước thánh của Giáo Hội vào các thánh lễ ngày Chúa Nhật cũng có việc linh mục bỏ muối vào nước. Vị linh mục đọc lời nguyện: “Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin đoái thương nhận lời chúng con cầu khấn mà thánh hóa muối này do chính Chúa dựng nên. Xưa kia Chúa đã truyền cho ngôn sứ Êlia bỏ muối vào nước, để nước nên trong lành. Giờ đây, khi chúng con rảy nước đã pha muối nơi nào, xin Chúa xua đuổi ma quỷ ra khỏi nơi ấy, và sai Thánh Thần đến ngự trị, để Người gìn giữ chúng con luôn mãi” (Sách Lễ Rôma trang 1053).
Chúa Giêsu gọi chúng ta là “muối”, vì Ngài cũng muốn chúng ta được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa. Cuộc đời của chúng ta phải thuộc về Thiên Chúa một cách triệt để, là dành riêng cho một mình Thiên Chúa.

 

II.TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI THA NHÂN

1.Muối tượng trưng cho sự thánh thiện và khôn ngoan có ảnh hưởng trên người khác

Chúa Giêsu nói trong bài giảng trên núi: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” (Mt 5,13). Khi Chúa Giêsu sử dụng từ “muối ” để nói về các môn đệ của mình, Ngài đã nhỉn vào đời sống của họ. Ngài không nói họ trở nên muối với đúng đặc tính của nó, đúng hơn là giữ được vị mặn. Trở nên giống như muối ngụ ý rằng mỗi người có một sự hiện diện theo cách thức đặc biệt một lối sống làm cho đức tin của những người khác thêm mạnh mẽ, khích lệ tha nhân kiên trì trong đời sống cầu nguyện, và phục vụ với tấm lòng bác ái yêu thương. Thánh Phaolô đã xem muối là biểu tượng cho sự khôn ngoan: “Anh em hãy ăn ở khôn ngoan với người ngoài; hãy tận dụng thời buổi hiện tại. Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương, để anh em biết đổi đáp sao cho phải với mỗi người.” (C1 4,5-6). Như muối làm cho thức ăn thêm thơm ngon, thì người môn đệ của Chúa Kitô được mời gọi làm lan tỏa hương thơm thánh thiện cho thế gian này, bằng cách đem đến niềm vui, lòng nhiệt thành và niềm hy vọng cho thế giới. Muối làm cho thức ăn thêm đậm đà. Cũng vậy, những người sống đời thánh hiến phải làm cho thế gian mỗi ngày thêm đâm đà tình Chúa tình người, đó là “ướp mặn cho đời”.
Nếu muối ra nhạt, không thể dùng để ướp mặn các vật khác, nó sẽ thành vô dụng. Đây là tình trạng khi tâm hồn chúng ta thiếu sự thánh thiện và khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa. Người môn đệ Chúa Ki-tô được mời gọi theo một cách thức thiêng liêng để thưởng nếm, đón nhận sự thánh thiện và khôn ngoan phát xuất từ việc để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời mình. Sau đó chúng ta sẽ làm cho thế gian thưởng nếm điều này. Nếu chúng ta từ chôi việc trở nên muối để ướp mặn thế giới này, đức tin của chúng ta sẽ thành trì trộ. Nếu chúng ta cũng chạy theo lối sống ích kỷ chỉ lo hưởng thụ như mọi người khác, có lẽ chúng ta sẽ mất đi khả năng làm chứng cho Chúa Ki-tô[3].
Như vậy, ảnh hưởng của người môn đệ Đức Ki-tô trên người khác chính là khả năng làm chứng tá và loan báo Tin Mừng cho thế giới.

 

2.Muối hòa tan trong nước cũng như hạt lúa gieo vào lòng đất

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Cũng vậy, hạt muối được hòa tan trong nước sẽ đem lại cho món ăn thêm hương vị, còn hạt lúa mì phải chết đi trong lòng đất mới sinh nhiều hạt khác. Và “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời ”(Ga 12,25). Hạn từ “mất” ở đây là đánh mất ý nghĩa của cuộc đời mình. Ý nghĩa của muối là ướp mặn cho đời, nếu muối vì sợ hòa tan nên cứ trơ trơ ra đó thì nó đã đánh mất ý nghĩa của sự hiện hữu của nó. ‘Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” (Mt 5,13).

 

3.Muối hòa tan tượng trưng cho lối sống ẩn khuất, khiêm tốn của người môn đệ

Khi ví người môn đệ như “muối”, Chúa Giêsu muốn họ sống trong ẩn khuất, khiêm tốn, chớ có phô trương các việc lành của mình ra cho thiên hạ thấy (x.Mt 6,1-17). Họ phải hòa tan “cái tôi ” của mình, hủy mình ra không như hạt muối tan ra trong thức ăn. Thật vậy, khi nếm một món ăn, người ta cảm nhận hương vị mặn mà của muối dù không nhìn thấy hạt muối. Cũng giống như nắm men trong ba thúng bột, người ta không thấy men đâu cả nhưng nó đã làm cho “tất cả bột dậy men” (Lc 13,21). Thánh Phaolô cũng hiểu như vậy: “Anh em không biết sao? Chỉ một tí men là đã đủ làm dậy men cả khối bột” (lCr 5,6). Những người sống đời thánh hiến càng sống khiêm tốn, nhỏ bé, càng làm cho Nước Thiên Chúa được phát triển, và ảnh hưởng của họ trên trần gian càng mạnh mẽ. Chúng ta đã thấy gương của chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu sống ẩn khuất, khiêm tốn trong Dòng Kín nhưng đã đóng góp rất lớn cho công việc truyền giáo và đã được tôn phong làm bổn mạng của các xứ truyền giáo. Hơn thế nữa, “con đường thơ ấu ” của chị đã khơi dậy nơi bao tâm hồn một quyết tâm sống thánh thiện, yêu thương, chấp nhận hủy bỏ “cái tôi” của mình để luôn khiêm tốn, cậy trông vào Thiên Chúa là Cha. Vì thế, chị đã trở thành một vị Tiến Sĩ của Hội Thánh.

 

4.Muối hòa tan tượng trưng cho sự hòa hợp và hiệp nhất

Khi mời gọi chúng ta: “Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em và sống hòa thuận với nhau” (Mc 9,50), Chúa Giêsu muốn nói đến tính hòa tan của muối, một biểu tượng cho sự hy sinh bản thân để sống hòa hợp và hiệp nhất với mọi người. Thật vậy nguyên nhân của tranh chấp bất hòa là sự tham lam, ích kỷ, chỉ muốn vơ vét cho bản thân như lời thánh Giacôbê đã nói: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau” (Ge 4,1-2). Như thế, Chúa mời gọi chúng ta noi gương Ngài: hy sinh bản thân vì tha nhân, nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến bản thân như lời thánh Phaolô nói: “Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giê-su. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn hủy mình ra không, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thể” (P1 2,4-7). Chúa Giêsu Kitô chính là hạt muối “hòa tan” chính mình trong thân phận phàm nhân. Ngài đã tự hủy mình ra không đến nỗi trở nên giống như mọi người.
Như vậy, những người sóng đời thánh hiến không nên đòi hỏi những đặc quyền, đặc lợi vượt trội những người khác, cũng không được tỏ ra mình là con người đặc biệt, tách mình ra khỏi mọi người theo kiểu “biệt phải”. Chúng ta hãy sống khiêm tốn như hạt muối hòa tan trong biển cả là cộng đoàn. Thánh Biển Đức nói: “Bậc khiêm nhường thứ tám là đan sĩ không làm gì ngoài luật chung của đan viện và gương lành các bậc trưởng thượng” (TL 7). Như vậy nếu mỗi tu sĩ đều “sống khiêm tốn như hạt muối hỏa tan”, thì sẽ tạo nên sự hiệp nhất trong cộng đoàn tu trì.

5.Muối tượng trưng cho sự thử thách và thanh tẩy 

Chúa Giêsu nói: “Quả thật, ai nấy sẽ được luyện bằng lửa như thể ướp bằng muối”(Mc 9,49). Ở đây lửa và muối nói đến sự thanh luyện qua những thử thách và việc từ bỏ. Thật vậy, theo bản chất của muối thì luôn mặn và hòa tan trong nước. Hơn nữa, chỉ khi muối đã trở nên tinh khiết rồi nó mới có thể được dùng để thanh tẩy những vật khác, như sách (2V 21) thuật lại việc ngôn sứ Êlisa ném muối xuống dòng nước gần thành Giêricô và thanh tẩy nó, làm cho nước được thanh sạch để dân cư trong thành có thể uống được.
Những người sống đời thánh hiến cũng phải thanh tẩy bản thân và những công việc trần thế của mình, để có thể thánh hóa những người sống chung quanh mình.
Những công việc trần thế tự chúng là tốt, nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối. Nên công việc của chúng ta có thể hữu ích nhưng cũng có thể làm phương hại do tội lỗi khống chế vì lạm dụng tự do. Vì thế, thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Anh em đừng có rập theo đời này” (Rm 12,2) nghĩa là “đừng buông mình ham chuộng hư danh và gian xảo, khiến sinh hoạt con người vốn quy hướng về việc phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người, lại biến thành phương tiện phạm tội” (Hiến Chế mục vụ “Vui mừng và Hy vọng”, số 37). Như vậy, những người sống đời thánh hiến phải thanh tẩy bản thân và mọi sinh hoạt trần thế của mình đang bị lâm nguy vì kiêu ngạo, và ích kỷ. Chúng ta thanh tẩy chúng nhờ đời sống cầu nguyện và hy sinh, từ bỏ những dính bén có thể nguy hại cho các lời khấn và chấp nhận những thử thách, đau khổ do Chúa gửi đến khi thi hành bổn phận hàng ngày, như lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Chỉ với điều kiện này, những người sống đời thánh hiến mới đủ khả năng thánh hoá mình và làm ích cho tha nhân.

 

Kết

Qua việc học hỏi và nghiền ngẫm những lời Kinh Thánh nói về muối, chúng ta đã hiểu được ước muốn của Chúa Giêsu khi Ngài nói với chúng ta: “Anh em là muối cho đời…” (Mt 5,13). Là “muối” nghĩa là những người sống đời thánh hiến luôn có vị mặn thánh thiện và khôn ngoan, có đời sống cầu nguyện thâm sâu để có thế trung tín với các lời khấn là giao ước tình yêu với Chúa, đê thuộc trọn về Chúa, dành cả cuộc đời cho một mục đích duy nhất là tìm Chúa, gặp Chúa và đem Chúa đến cho ngưòi khác. Là “muối” nghĩa là chúng ta phải sống mầu nhiệm kenosis: tự hủy mình ra không như muối hòa tan trong nước, để có thể sống âm thầm, hy sinh, khiêm tốn, hòa hợp, và hiệp nhất với mọi người. Là “muối” nghĩa là chúng ta cần trải qua thanh luyện, chịu thử thách, đau khổ, từ bỏ những dính bén độc hại, và vác thập giá hàng ngày để có được màu trắng tinh khiết của muối.
Xin Chúa trợ giúp chúng ta, để một khi hiểu được ý Chúa, chúng ta cũng đem lời Chúa ra thực hành: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” (Mt 5,13)

 


 

[1] X. Mark R. Francis,”the collegeville Prastoral Dictionary of Biblical Theology”, tr.866 

[2] Xem: The NIV Thematic Reference Bible trang 1497.

[3] X. Vima Dasan “His Word Challenges” trang 18.

 

 

 

 

 

ĐỜI THÁNH HIẾN

 Đan Nhi

                                Đời thánh hiến,
                                         Một ơn gọi, một ân ban
                                         Lắng nghe, đáp trả hy dâng cuộc đời
                                         Yêu đến cùng và theo Ngài đến tận
                                         Ra khơi tung lưới dù trời bão giông

 

                                         Đời thánh hiến,
                                         Quà vô giá, ơn nhưng không
                                         Hồng ân Chúa tăng tâm hồn khát khao
                                         Một ơn ban chỉ nơi Ngài mới có
                                         Tách riêng, chọn, gọi ,nên duyên ân tình

 

                                         Đời thánh hiến,
                                         Tình đáp tình, ân đáp ân
                                         Một tiềng gọi khẽ: “Con đây! Thưa Ngài”.
                                         Đơn nghèo, thanh tịnh tình Ngài dẫn lối
                                         Trung kiên sứ mệnh tâm thấm đẫm Lời.

 

                                         Đời thánh hiến,
                                         Trở nên một, sống hòa tan
                                         Nên một với Chúa, hòa tan trong Ngài
                                         Bước theo Chúa nên đồng hình đồng dạng
                                         Như chiên sát tế hiền lành hy sinh.

 

                                         Đời thánh hiến,
                                         Yêu mến Chúa trong tha nhân
                                         Say mê vẻ đẹp đức, tài, thiện, chân
                                         Sống niềm vui, khiêm nhu tình tỏa ngát
                                         Tâm cất cao, ngàn vạn lời tri ân.

 

                                         Đời thánh hiến,
                                         Là ngôn sứ loan tin vui
                                         Đuốc sáng hy vọng chiếu soi giữa đời.
                                         Tình nhạt phai, làm muối men ướp mặn
                                         Nên hương hoa giữa lụy chen đời thường.

 

                                         Đời thánh hiến,
                                         Sống nguyện cầu, luôn nhất tâm
                                         Phụng thờ, yêu mến, ngợi khen, đáp đền.
                                         Thánh Thể dưỡng nuôn nguồn ơn kín múc
                                         Phút giây kết hiệp, suy chiêm, trải lòng.

 

                                         Đời thánh hiến,
                                         Có thách đố, nhiều niềm vui
                                         Hành trình phó thác, tin yêu, dâng trào
                                         Dầu rong ruổi… một cõi riêng cho Chúa
                                         Lòng kề lòng , sức mạnh lúc buông câu

 

                                         Đời thánh hiến- tìm gặp Chúa, tâm khát mong
                                         Gặp trong cô vắng, nơi những mảnh đời
                                         Khát mong cho người người tin yêu Chúa
                                         Hy sinh thầm lặng cứu muôn linh hồn.

 

                                         Đời thánh hiến – Sốnga phục vụ, rộng đôi tay
                                         Chứng nhân cho Chúa bằng tình yêu thương
                                         Gieo an vui, trổ sinh cây đức hạnh
                                         Một đời thánh hiến, sáng – đẹp quý trọng thay!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐỌC LẠI TÔNG THƯ

CỦA ĐTC PHANXICÔ

GỬI NHỮNG NGƯỜI SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN

 

FM. Dominico Hiền

 

Chúng ta vui mừng đón nhận tông thư của ĐTC
Phanxicô. Ngài viết cho chúng ta không chỉ như chủ chăn tối cao của Hội Thánh, mà còn như một người anh em, vì trên nửa thế kỷ, Ngài là thành viên của dòng Tên. Vì thế, lời Ngài viết quả thật phát xuất từ trải nghiệm hơn là giáo huấn suông.
Ngay trong phần nhập đề, Ngài đã dẫn chúng ta vào trung tâm của ơn gọi thánh hiến, đó là một cuộc “Đi theo Đức Ki- tô”, Sequel Christi. “Đi theo” nói lên tính năng động của đời tu. “Nó không cho phép chúng ta an nghỉ hay khép kín trong những tiện nghi, vì đó là một cuộc tự sát từ từ” (EG 272). Thánh Gioan Thánh Giá đã chẳng mô tả đời tu như một cuộc leo núi Cát Minh sao (Montée du Carmel)? Hay theo thánh Phaolô, đó là một cuộc chạy đua trên thao trường (x.1Cr 9,25-26). Riêng ĐTC Phanxicô, trong Tông Thư này và trong Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, đã hơn một lần đề cao sự nhiệt thành của người loan báo Tin Mừng đầy Thần Khí (x.EG chương V). Đọc Tông Thư này,không ai trong chúng ta không cảm thấy nóng lên bởi lửa nhiệt thành của vị Cha Chung.
Tông thư được chia thành 3 phần chính:
Trước hết, ĐTC Phanxicô xác định 3 mục tiêu của năm nay.
Tiếp đến, ngài bày tỏ mong đợi của ngài nơi các tu sĩ.
Cuối cùng, ngài hướng đôi mắt chúng ta về 5 viễn cảnh, có liên hệ đến ơn gọi thánh hiến.

PHẦN I: NHỮNG MỤC TIÊU CỦA NĂM THÁNH HIẾN
Theo Đức Thánh Cha, tu sĩ có ba hướng nhìn: quá khứ, hiện tại và tương lai.

1.Mục tiêu của cái nhìn về quá khứ: đó là lịch sử phong phú của các đặc sủng.
Khởi đầu của lịch sử ấy là một tác động đặc biệt của Chúa Thánh Thần trên các đấng sáng lập. Trước tiên, Ngài cho họ khả năng chuyển dịch Tin Mừng thành một lối sống đặc biệt, sau khi đọc được dấu chỉ thời đại nhờ đôi mắt đức tin. Ngài cho các đấng ấy lòng quảng đại và khôn ngoan, khả dĩ đáp ứng những nhu cầu của Hội Thánh một cách sáng tạo.
Thế rồi nhờ tích luỹ kinh nghiệm sống Tin Mừng, từ nơi cuộc sống các ngài toả ra một sức hút mãnh liệt, khả dĩ lôi cuốn được nhiều tâm hồn đi theo linh đạo của mình. Hầu như lịch sử dòng tu nào cũng dệt nên theo cách ấy.
Năm nay, các người thánh hiến được Đức Thánh Cha mời gọi đọc lại lịch sử tu hội mình không ngoài những mục đích sau đây:

– Trước hết để duy trì căn tính mà đấng sáng lập đã đề ra.

– Thứ đến để thắt chặt mối hiệp nhất giữa các thành viên, khi họ ý thức mình có chung một nguồn cội như anh em một nhà.

– Thứ ba, để nhận rõ tia sáng đã gợi hứng cho các nhà sáng lập, lý tưởng các ngài ôm ấp, cách thức các ngài đã sống, những khó khăn các ngài phải đương đầu, và thậm chí cả những giới hạn hay lệch hướng nơi thế hệ đàn anh. Hẳn thật không công trình nào mà chẳng trả giá!

Vì vậy, chúng ta cần dâng lên Cha Trên Trời những tâm tình: Tri ân về những hồng ân của Thiên Chúa trên Hội Dòng mình; sám hối về những mỏng dòn quá khứ; rút ra bài học cho thế hệ sống đời thánh hiến hôm nay. Thiết nghĩ ở đây, nên nhắc lại câu nói của Đức Thánh Cha: “Các con không chỉ có một lịch sử oai hùng đê ôn nhớ và thuật lại, mà còn có một lịch sử oai hùng cần phải xây đắp ” (Lời dẫn nhập).

 

2.Mục tiêu II: Hãy sống cái hiện tại say mê

Lời khuyên này được Thánh Kinh và các linh phụ coi như bí quỵết số một để nên thánh. Hẳn thật, Thiên Chúa phán với tổ phụ Abraham: “…Ngươi hãy đi trước mặt Ta và người sẽ nên hoàn thiện” (St 17,1). Đi trước mặt cũng đồng nghĩa sống giây phút hiện tại trong niềm tin vào Giavê. Linh phụ Théodore Studite khuyên ta: “Quá khứ bạn, bạn hãy phó thác cho lòng Chúa thương xót, tương lai bạn, bạn hãy tin tưởng nơi Chúa Quan Phòng còn hiện tại của bạn, bạn hãy sống hết mình”. Nhưng sống hiện tại như thế nào? Đức Thánh Cha Phanxicô tra lòi: Bạn hãy thể hiện những yếu tố cấu thành đời sống thánh hiến, mà Chúa Thánh Thần nhắc lại cho bạn trong giây phút hiện tại. Thánh Thần phán trước hết qua Tin Mừng do Ngài linh ứng. Do đó, Tin Mừng là luật tối thượng, còn các quy luật khác chỉ là cách diễn đạt Tin Mừng trong nếp sống cụ thể. Trong mọi lúc, chúng ta hãy sẵn sàng để cho Tin Mừng chất vấn mình.
Tin Mừng là Vademecum, cuốn sách tuỳ thân. Đọc và suy niệm thường xuyên là điều tốt, nhưng trên hết phải sống Tin Mừng, theo những câu hỏi sau đây:
– Chúa Giêsu có còn là đối tượng thứ nhất và duy nhất của lòng tôi như tôi đã long trọng tuyên khấn chăng?
– Tôi có học với Ngài để biết yêu là gì và yêu như thế nào không?
– Điều quan trọng là tôi phải trở thành chuyên viên hiệp thông theo gương nhóm mười hai và cộng đoàn Giêrusalem tiên khỏi.
– Hãy can đảm hiện diện nơi nào đang có tranh chấp
và cố gắng trở thành dấu chỉ sự hiện diện của Thánh Thần Tình Yêu. Như thế, chúng ta sẽ làm cho ánh sáng và khuôn mẫu của Ba Ngôi Thiên Chúa chiếu toả trên mọi người.

3.Mục tiêu III: Hãy nhắm đến tương lai với niềm hy vọng

Nhìn nét mặt ĐTC Phanxico lúc nào cũng tươi cười, ta đoán ra một tâm hồn chất chứa niềm hy vọng. Tuy nhiên, thái độ ấy không chỉ do bản tính tự nhiên được thừa hưởng từ một dân tộc vui tươi Nam Mỹ, mà trước hết do cái nhìn đức tin. Ngài viết: “Giữa những hoang mang mà chúng ta chia sẻ với bao nhiêu người đương thời, bừng lên niềm hy vọng của chúng ta, đỏ là hoa trải của đức tin vào Đấng làm chủ lịch sử và không ngừng lặp lại với chúng ta: Đừng sợ, Ta đang ở với con ” (x. Gr 1,8).
Có hai điều càn phải tránh:
– Đừng chiều theo chước cám dỗ về số lượng và hiệu quả do công sức mình.
– Đừng liên minh với những ngôn sứ yếm thế. Họ luôn dự đoán về những ngõ cụt của đời thánh hiên.
Trái lại, hãy có hai thái độ của một người môn đệ chân chính của Đức Ki-tô: đó là luôn tỉnh thức và tiến bước.
Riêng các bạn trẻ, ĐTC Phanxico tha thiết căn dặn:
– Chúng con là hiện tại, vì trong đời thánh hiến, các con biểu trưng cho sự quảng đại và tươi trẻ.
– Các con là tương lai, vì các con sẽ thừa kê các bậc đàn anh trong việc điều khiển các sinh hoạt cũng như việc đào tạo và phục vụ dòng mình. Dĩ nhiên, chúng con phải hội đủ ba điều kiện sau đây:

+ Biết đối thoại với bậc đàn anh để học hỏi sự khôn ngoan và kinh nghiệm.

+Biết cùng nhau thảo ra những chương trình cho cuộc sống và cho việc loan báo Tin Mừng.

+ Sẵn sàng gặp gỡ các bạn thuộc tu hội khác để trai đổi về những chương trình vừa được đề cập trên đây

 

PHẦN II: NHỮNG MONG ĐỢI CHO NĂM SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN

Như bác nông phu đi gieo giống, mong có một mùa bội thu, ĐTC Phanxicô cũng mong thu lượm được những hoa quả tốt đẹp cho năm thánh này. Và đây là những mong đợi:

1.Mong đợi thứ nhất: là trở thành những người đầy niềm vui, như chính ĐTC Phanxicô đã phát biêu nhiều lần: “Ở đâu có các tu sĩ, ở đấy rộn niềm vui”.
Tại sao
– Vì Thiên Chúa có khả năng đong đầy con tim đang khát vọng hạnh phúc nơi ta.
– Vì chúng ta sống đời tu không nhằm mục đích nào khác hơn là chia sẻ cho nhau niềm vui huynh đệ và phục vụ.
– Dĩ nhiên cuộc sống tu không chỉ có màu hồng hạnh phúc, mà còn có màu tím của Thập giá, vì hoa hồng nào mà chẳng nở trên thân có gai! Đó là niềm vui hoàn hảo mà thánh Phaolô đã khám phá ra: “Tôi cảm thấy sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10).
– ĐTC Phanxicô tóm kết triệt này bằng cách nhắc lại lời Đức Biển Đức XVI: “Giáo Hội được gia tăng không do chiêu mộ, nhưng do sức hút”. Đức Phanxicô tiếp: “Các bạn trẻ sẽ bị cuốn hút, khi thấy chúng ta sống hạnh phúc, nhất là khi thấy đời tu trở thành tiếng nói và ánh sáng chiếu toả vẻ đẹp của Tin Mừng”.

2.Mong đợi hai là hãy đánh thức thế giới

Khi lãnh bí tích Thánh Tẩy, người Ki-tô hữu đã nhận thiên chức làm ngôn sứ (x.lPr 2,9). Tu sĩ muốn sống nghiêm túc ơn gọi Ki-tô hữu (Dom Guéranger). Do đó, mong đợi thứ hai này không nằm ngoài bổn phận căn bản của tu sĩ. Sau đây là những công việc chính của ngôn sứ:
-Truy tìm lịch sử mình đang sống và giải thích các biến cố đã xảy ra dưới ánh sáng Tin Mừng.
-Phân định và tố giác những bất công xã hội, vì ngôn sử tự bản chất tự do, ông chỉ trả lẽ với Thiên Chúa chứ không phải trả lẽ cho quyền bính nào hết.
-Ngôn sứ luôn đứng về phía người nghèo để bênh vực và trợ giúp họ.
Nói tóm, người sống đời thánh hiến phải trở thành men cho nhân loại! Tuy nhiên, trong thực tế có những ngôn sứ, như Elia hay Jona, đã trốn tránh trách nhiệm vì sợ sệt hay chán nản trước những kết quả khiêm tốn! Họ quên rằng: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (x. Lc 1,37).

 

3.Mong đọi thứ ba là hãy trở nên những “chuyên viên hiệp thông ”

Nói đến “chuyên viên”, chúng ta nghĩ ngay đến những người thành thạo về một vấn đề, khả dĩ cố vấn cho cả một tập thể. Chẳng hạn, các chuyên viên thần học của công đồng chung Vatican II, chỉ có khác là “hiệp thông” không phải là vấn đề lý thuyết, nhưng trước hết là một sun nghiệm về tình yêu và sự sống. ĐTC Phanxicô mong rằng các tu sĩ sẽ làm cho Giáo Hội trở thành ngôi nhà và truờng học hiệp thông. Nhưng bằng cách nào?
Trước hết họ phải tránh những gì phá đổ mối hiệp thông trong chính cộng đoàn của mình. ĐTC Phanxicô viết: “Tôi mời gọi anh chị em hãy đọc lại những gì tôi lặp lại nhiều lần rằng: những lời chỉ trích, đàm tiếu, ghen tương, tị hiềm, đố kỵ không được phép cư ngụ ở trong nhà anh chị em”
Tiếp đến, con đường còn lại của bác ái sẽ được mở ra đen vô tận:
– Mở ra cho việc hội nhập văn hoá, vì cộng đoàn tu hành ngày càng mang tính quốc tế.
– Mở ra cho mối tương quan giữa các dòng tu qua các cuộc gặp gỡ để lên dự án chung cho việc đào tạo, việc loan báo Tin Mừng và các hoạt động xã hội.
– Mở ra cho việc họp tác huynh đệ với các nhóm giáo dân chung quanh cộng đoàn.
Như thế, sự hiệp thông sẽ như vết dầu loang lan ra mãi trong Giáo Hội và trong xã hội, và dĩ nhiên nhằm mục đích đưa tất cả vào trong sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. 1 Ga 1,3).

4.Mong đọi thứ tư là hăng say đi loan báo Tin Mừng (x.Mc 16,15)
ĐTC Phanxicô viết: Hãy ra khỏi mình và đi về những vùng ngoại ô của cuộc đời… vì cả một nhân loại đang chờ đợi: Đó là những người đang đánh mất niềm hy vọng, những gia đình đang gặp khó khăn, những trẻ bị bỏ rơi, những thanh niên không có tương lai hoặc cả những người giàu có mà tâm hôn trông rỗng.
Chương trình Phúc Âm hoá thật mênh mông rộng lớn. Nó đòi hỏi: “Những cử chỉ sáng tạo trong việc huấn giáo, rao giảng Tin Mừng và hướng dẫn cầu nguyện”. ĐTC Phanxicô bảo đảm: “Anh chị em sẽ tìm thấy sự sống khi trao ban sự sống, tìm thấy hy vọng khi trao ban hy vọng, tìm thấy tình thương bằng cách yêu thương”.

5.Mong đợi thứ năm: hãy tự vấn về điều mà Thiên Chúa và nhân loại đang đòi hỏi
– Trước hết, ĐTC Phanxicô nhắn nhủ các đan viện và những tu hội có hướng chiêm niệm: “Trong năm nay, họ cần tổ chức những cuộc gặp gỡ để trao đôi kinh nghiệm về việc cầu nguyện cũng như về phương cách làm tăng trưởng sự hiệp thông với Giáo Hội
– Đối với các dòng hoạt động, ĐTC Phanxicô nói lên sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn về những đặc sủng do “Óc tưởng tượng của Thánh Linh” làm nảy sinh trong Giáo Hội. Ngài kêu mời: “Năm nay đừng ai tránh né việc kiểm tra nghiêm túc về sự hiện diện của mình trong Giáo Hội, cũng như về cách đáp ứng những nhu cầu khẩn thiết đang vang lên chung quanh mình. Có như thế, năm nay mới thực là thời điểm hồng phúc (kairos) cho đời thánh hiến! ”

 

PHẦN III: NHỮNG CHÂN TRỜI CỦA NĂM ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

Giáo Hội luôn coi đời thánh hiến như quả tặng của Chúa Cha ban cho mình. Vì thế, xét về mọi mặt, ơn gọi thánh hiến có liên hệ mật thiết với cộng đoàn dân Chúa. Trong năm thánh này, ĐTC Phanxicô muốn làm sáng tỏ mối liên hệ này, nhằm cổ vũ ơn gọi thánh hiến, đồng thời gây ý thức về tính liên đới giữa cộng đồng và người sống đòn thánh hiến.
Trong phần III này, ĐTC nêu lên 5 đối tượng có liên hệ với tu sĩ Ki-tô giáo

– Trước hết, đó là những giáo dân, mặc dù sống đời hôn nhân hay độc thân giữa đời, song muốn chia sẻ một phần nào tinh thần và sứ vụ của một “gia đình đặc sủng” nào đó. Chẳng hạn: Các hội dòng ba, các tu đoàn giáo dân… ĐTC Phanxicô khuyến khích những giáo dân này trong năm nay hãy tham dự các buổi gặp mặt, những cử hành cầu nguyện, tạ ơn với “gia đình đặc sủng” của mình.

– Thứ đến là toàn thể cộng đoàn dân Chúa. Hẳn thật, người thánh hiến phục vụ và hiện diện giữa cộng đoàn giáo dân. Ảnh hưởng của họ thật phong phú và đang dạng, ĐTC tự hỏi: “Nếu như có thánh Biển Đức, thánh Đa minh, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu hay Mẹ Têrêsa thành Calcutta thì Giáo Hội sẽ ra sao? ĐTC Phanxicẽ cũng nhấc lại câu nói bất hủ của chân phước GH Phaolô VI: “Nếu không có dấu chỉ cụ thể này (đời thánh hiến), thì đức mến hun nóng toàn Giáo Hội có nguy cơ nguội đi, nghịch lý của Tin Mừng sẽ cùn đi, “muối” đức tin sẽ tan loãng trong một thế giới đang bị tục hoá ” (X- Tông huấn “Loan báo Tin Mừng”, số 3). ĐTC Phanxicô kêu mời mọi tín hữu hãy dâng lời tạ ơn và hỗ trơ ơn gọi thánh hiến.

– Thứ ba, ĐTC không quên mối liên hệ với các truyền thống tu hành xưa và nay trong các Giáo Hội ly khai. Chẳng hạn các dòng tu Chính Thống Đông Phương. Ngài ước mong sẽ có những trao đổi về kinh nghiệm tu hành và đời sống thiêng liêng giữa đôi bên.

Với giới tu hành trong các Tôn giáo bạn

– Trong chiều hướng đối thoại liên tôn, đáng mong ước biết bao nếu năm nay có những cơ hội trao đổi kinh nghiệm giữa những người sống đời thánh hiến Ki-tô giáo và các truyền thống tu hành tôn giáo bạn, nhăm mục đích hiểu biết nhau cách sâu xa hơn, và hợp tác trong nhiều môi trường chung nhằm phục vụ đời sống nhân loại.
– Sau hết, ĐTC quay lại nhắn nhủ “các anh em trong hàng Giám mục”. Vì các ngài là mục tử các giáo đoàn địa phương, trong đó có các tu sĩ nam nữ hiện diện và phục vụ. ĐTC xin các ngài nhân danh Giáo Hội, như mẹ hiền âu yếm săn sóc họ. Một lần nữa, ĐTC khăng định: “Đời sống thánh hiến là một nguồn vốn góp phần vào thiện ích của Giáo Hội…đời sống thánh hiến tự bản chất nằm ở trung tâm điểm của Giáo Hội như là yếu tố quyết định của sứ mạng Giáo Hội”

 

Kết luận

Tông thư kết luận với cái nhìn của ĐTC Phanxicô hướng về Mẹ Maria. Ngài tôn dương Mẹ như gương mẫu tuyệt vời của đời thánh hiến. Mẹ đúng là môn sinh tiên khởi của Chúa Ki-tô và gương mẫu trong việc lắng nghe và suy niệm Lời Chúa , cũng như trong việc thực thi huynh đệ đối với tha nhân. Tất cả những ai đang nối gót Mẹ trên đường theo Chúa Ki-tô hẳn năm nay sẽ nhận được niềm vui và muôn phúc lành qua bàn tay dịu hiền của Mẹ có Mẹ che chở, có ĐTC Phanxicô đồng hành với phép lành Toà thánh, chúng ta hãy hân hoan tiến bước, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần

 

 

 

 

 

 

 

 

CỐT LÕI PHÚC ÂM

CỦA ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

Enzo BIANCHI
Collectanea Cistersiensi T. 65,2003,233-24

 

Chuyển ngữ: Phan Bảo Luyện

Tôi xin phép được mở đầu bài suy tư này bằng một lời tâm sự: Đã từ nhiều thập niên tôi tự vấn, tôi suy niệm, tôi ngẫm nghĩ. Đôi khi tôi nói cho các anh em và chị em tôi biết kết quả những suy tư này về cốt lõi đời sống đan tu và tính chất phúc âm của đời sống ấy. Tuy nhiên, tôi không bao giờ thực sự mãn nguyện. Tôi luôn gặp khó khăn để đạt tới được một cái nhìn đơn giản và có tính phúc âm về đời sống đan tu, sát với thực trạng của đời sống này trong lịch sử và với thực chất nó phải có theo Phúc Âm.
Trong mọi bộ luật đan tu đều thấy nổi bật, bằng những cách thức khác nhau, yêu sách muôn đời đan tu phải “đi trên đường của Chúa theo hướng dẫn của Thánh Thần ” (TLBĐ 21). Lm Étienne de Muret quả quyết rằng “bộ luật đâu tiên và căn bản của đời sống đan tu là Phúc Âm, nguồn mạch và nguyên lý của mọi bộ luật”[1] . Dù thế vẫn khó mà thấy được Phúc Âm giữ vị trí hàng đầu và trung tâm trong một forma vitae (hình thức sống) đan tu như thế nào, và đâu là cách sống Phúc Âm riêng cho đan sĩ. Theo tôi, khó khăn này cũng phát sinh từ sự kiên đời đan tu một đàng muốn sống phù hợp với Phúc Âm không gì khác ngoài Phúc Âm, dù phải tìm cho mình một không gian “khác” đối với Giáo Hội và thế gian- nhưng một đàng lại thấy giới hạn không thể tránh trong việc tìm kiếm đó.
Không thể nghi ngờ được rằng “sống theo hình thức phúc âm (thánh Phanxicô[2] ) là ước mong chân thực và ý muốn cơ bản trong giai đoạn thành lập đan viện, nhưng chẳng bao lâu ước mong và ý muốn đó không những tỏ ra thất bại mà còn viển vông và không tưởng, “không nơi chốn ”, ngay trong đời đan tu. Phải, ngay trong nội bộ đời đan tu Phúc Âm cũng vẫn bị đe dọa: nhiều lần trong lịch sử, về cơ cấu, đời đan tu đã đi tới chỗ không chung thủy với Lời Chúa.
Vậy một lần nữa, suy tư của tôi muốn nêu rõ mối tương quan giữa “đời đan tu và Phúc Âm ”, tuy không mong đạt được kết quả dứt khoát.

 

1. Đời sống đan tu như hiện tượng nhân chủng học

Nếu đúng là người ta lượng giá tính chính thức và sự thật của đời đan tu kitô giáo khởi từ Phúc Âm và từ sequela Christi (việc đi theo Chúa Kitô), vẫn không thể quên – và không được quên – rằng đời đan tu là một hiện tượng nhân chủng học có mặt nơi nhiều miền văn hóa khác nhau: nó xuất hiện như một khả năng sống “cách khác ”, và đã cỏ những thời kỳ khai sinh, phát triển và suy tàn ở những thời đại khác nhau trong lịch sử. Điều mà người ngoài kitô giáo và chuyên gia nhân chủng học nhận thấy đó là cổ những người nam và những người nữ vĩnh viễn ở độc thân, từ bỏ lập gia đình và sinh con cái, khi sống theo một hình thức “khác ” với đa số đồng bào của họ. Đôi khi họ sống trong nơi thanh vắng, nhưng thường hom họ sống theo những hình thức sống chung có tổ chức, họ hứa sống cho một mục đích duy nhất và cùng theo một nếp sinh hoạt như nhau.
Trong mọi miền thế giới có các tôn giáo lớn đều thấy hiện tượng đan tu: trong Ấn Độ giáo có các ẩn sĩ du tu, các “sannyasin”, các cộng đoàn, các “ashram”, trong Phật giáo, tôn giáo cốt yếu là đan tu, cộng đoàn “sangha ” đan viện lập nên bộ luật đời sống thiêng liêng. Ngay trong Hồi Giáo, tuy theo quan niệm chung không hề có đời sống đan tu, từ ban đầu đã có những nhà khổ hạnh trong các làng mạc và các nơi hoang địa, họ sống theo những hình thức khác nhau nhưng vẫn luôn là đan tu; giáo sĩ khổ hạnh (của Hồi Giáo) cho ta một chứng cứ hiển nhiên. Sau cùng không thể quên rằng Do Thái Giáo cũng đã có những hình thức sống đan tu – ta nghĩ tới các tu sĩ “esséniens ”, các tu sĩ “thérapeutes” ở Qumrân – trong không gian địa lý của Israel cũng như trong các “diaspora”.
Nơi Kitô Giáo, ngay từ đầu thế kỷ 14, một cơ cấu thực thụ của hiện tượng đan tu xuất hiện dưới những hình thức khác nhau (ẩn tu, cộng tu và du tu) trong tất cả các vùng thuộc Địa trung hải. Và khi cuộc Cải cách thệ phản chỉ trích kịch liệt tới độ bãi bỏ đời đan tu thì đó đây vẫn có những tín hữu tiếp tục sống theo một hình thức đời tu, không còn minh nhiên gọi là đan tu nữa, nhưng nội dung cuộc sống vẫn là đan tu thì đó đây vẫn có những tín hữu tiếp tục sống theo một hình thức đời tu, không còn minh nhiên gọi là đan tu nữa, nhưng nội dung cuộc sống vẫn là đan tu. Cứ như thế mãi cho tới thế kỷ vừa qua mới xuất hiện những hình thức đời tu khác nhau, rồi tiếp đến hình thức đời đan to thực thụ. Tất cả đều làm triển nở và đổi mới đời sống thiêng liêng cho mọi Giáo Hội[3].

 Như thế, hiện tượng đan tu là một hiện tượng nhân chủng học, và ngày nay tính cách nhân chủng học của hiện tượng đan tu đã giúp cho có được cuộc đôi thoại liên tôn sâu sắc và nghiêm chỉnh. Cuộc đối thoại này cùng một lúc chất vấn đời đan tu Kitô Giáo về tính đặc thù phúc âm của nó đối với những đời đan tu khác và đối với thân thể Giáo Hội. Trước khi qua đời, cha Thomas Merton đã để lại – trong phát biểu của ngài tại Hội nghi Calcutta (tháng 10.1968) và trong việc trao đổi tại cuộc gặp liên tôn ở Bangkok (10.12.1968) – một tài liệu như một chứng từ, nơi đó ngài tìm cách định nghĩa quan niêm của mình về đời đan tu, so với những đời đan tu đông phương. Trong những trang tài liệu ấy ngài giải thích cách rất sáng suốt hiện tượng nhân bản của đời đan tu như một hiện tượng bên lề đối với xã hôi và với ngay cả Giáo Hội
Bên lề, nhưng không hoàn toàn ngoại sinh, vậy không phải là bè phái, nhưng cũng chẳng hoàn toàn nội sinh như thể được sát nhập vào hệ thống cơ chế tôn giáo. Chính vì thế mà đòi đan tu có khả năng tiêm nhiễm vào Giáo Hội và xã hội những hạt mầm của chống đối và của xây dựng. Ở bên lề và “sống khác”: không phải trong thụ động, nhưng trong tỉnh hiệu quả của một không tưởng thực hành, dù phải gây sốc với số đông, với nền văn hóa thống trị. Nếu đời đan tu sống xu thời, nếu nó không phát huy nhiệm vụ tiên tri của mình mà nếu các vấn nạn, mà nói lên những nỗi lo âu, mà tỏ ra phê phán thế giới, và làm tất cả những điều đó qua cuộc sống hằng ngày, một cuộc “sống khác”, cách có ý thức và nhằm biến đôi con người, thì nó đã mất hết ý nghĩa.

 

 2.Tuy vậy, trong Kitô Giáo, đời đan tu là một ơn gọi đặc biệt

Nếu đời đan tu là một hiện tượng nhân chủng học, thì trong Kitô Giáo nó vẫn là lời đáp lại một ơn gọi đặc thù. Đời đan tu xuất hiện và phát triển liên tục qua các thế kỷ không phải là để đáp ứng một chương trình đã vạch sẵn, không nảy sinh từ một phân tích những nhu cầu của Giáo hội hay của xã hội, và không tùy thuộc một quyêt định nào của phẩm trật giáo quyền. Trong Tiểu sử thánh Pacôm ta đọc thấy rằng khi đang sống như một ẩn sĩ bên cạnh vị thầy của mình là Palamon, thì thánh nhân nghe có tiếng từ trời yêu cầu ngài xây dựng một đan viện để sống đời cộng tu ở đó. Mặc dầu biết sẽ mất người môn đệ, thầy Palamon đã giúp ngài vững tin vào ơn gọi này: “Thầy không thể ngăn cản con, vì việc này không do con nhưng do Chúa” Tất cả các vị sáng lập đều chứng thực rằng vì được sức mạnh thần linh thúc đẩy mà các ngài đã khởi công đặt nền cho những hình thức đời sống đan tu khác nhau.

Như vậy, trong Kitô Giáo đời đan tu trước hết là đáp trả, và tác động của Thánh Thần, đóng vai chủ chốt luôn luôn được xác nhận: chính Thánh Thần thúc những người nam và những người nữ cam kết sống hình thức sống này. Đó là đời sống theo Thần Khí bởi vì việc ở độc thân, làm cho đời sống ấy có thể hình thành, là một đoàn sủng đặc thù, một hồng ân của Thần Khí (x.Mt 19,11-12; lCr 7,26), và bởi vì chính việc theo Chúa Kitô trong cuộc sống ấy chỉ thực hiện được nhò năng lực của Thần Khí. 

Nhưng tiếng của Thần Khí mời gọi vào đời sống đan tu luôn luôn là tiếng mời gọi gia nhập đời đan tu nhu một cơ cấu sống động không bao giờ thôi trở nên chính mình: công việc của Thánh Thần không bao giờ kết thúc, forma vitae (hình thức sống) cứ thay đổi và cứ canh tân mãi, cho đến khi có được một cuộc cải cách làm mới lại cảm hứng ban đầu trong quá khứ. Đời sống đan tu không được xây dựng chỉ một lần mà đủ. Đó là một sáng tạo liên tục hay một tái lập không ngừng. Chi cần nhớ lại biết bao lần người ta đã nhận thấy một hình thức đan tu nào đó cần phải được đổi mới, và biết bao lần những nguồn cảm hứng Đông Phương cũng đã hấp dẫn đội đan tu Tây Phương: việc trở về nguồn la một sự tái thiết lập đời sống đan tu.
Tuy nhiên, ơn gọi đan tu không phải là cái “thêm vào” đời sống của người được rửa tội, không phải là y đường hẹp so với con đường rộng của mọi kitô hữu, cũng không phải là một đời sống thánh hiến có cái gì riêng biệt với đời sống của những người đã chịu phép rửa với thánh Pacôm đời sống đan tu kitô giáo chỉ đơn giản một phương tiện để đi theo Chúa Kitô, được thực hiện trong koinonia, trong sự hiệp thông huynh đệ. Với thánh Đasiliô, đó tuyệt đối không phải là một cộng đoàn tách biệt khỏi cộng đoàn giáo hội. Và trong truyền thống chân chính, đó không bao giờ là một phép rửa khác, nhưng là phép rửa duy nhất của các môn đệ Chúa Kitô được sống cách chặt chẽ và triệt để.
Hiểu căn tính đời sống đan tu như thế, nhưng cũng phải tỉnh táo, vì người ta vẫn bị cám dỗ thay thế các “lời khuyên phúc âm ”, “bậc sống hoàn thiện ” và những phạm trù khác nhờ đó người ta xác nhận trong quá khứ sự ưu việt và tuyệt hảo của đời sống ấy, bằng những phạm trù mới như sự triệt để phúc âm hay đức ái thánh hiến hay việc thánh hiến vì một cùng đích mới.

 Phải nhấn mạnh rằng triệt để theo Chúa Kitô không phải là một yếu tố của đời sống kitô giáo: đó là chiều kích căn bản của đời sống ấy, là cách thức đúng và chính thực để sống đức tin kitô. Đối với mọi kitô hữu, triệt để theo Chúa Kitô có nghĩa là phải xác nhận tính ưu tiên của Nước Thiên Chúa, vị trí trung tâm của Chúa Kitô, và phải theo Chúa của mình bằng việc thực hiện lời ngài và chấp nhận ở nơi ngài ở cho đến cả vác thập giá và chết với ngài. Đời đan tu chỉ là một cách thể hiện tính triệt để trong việc theo Chúa Kitô, và nó không thể tự coi là một cuộc dấn thân cao hơn hay một con đường mà trên đó những khó khăn sẽ lớn hơn so với những cách sống Phúc Âm khác. Bởi vì, trong Giáo Hội, ơn gọi nên thánh chỉ có một và phổ quát. Đời đan tu là một trong những hình thức sống khác nhau, nơi đó người ta đón nhận hồng ân nên thánh bằng cách thực hiện công việc của Thánh Thần và gắng công vất vả đi theo Chúa Kitô trên đường về với Chúa Cha. 

 

3.Những phương diện có tính phúc âm đặc thù của đời sống đan tu: độc thân và cộng đoàn.

Chúng tôi đã nói rằng đời đan tu kitô giáo chỉ có được nhờ tiếng Thiên Chúa mời gọi và nhờ hồng ân đặc biệt của ngài, tức là đặc sủng sống độc thân vì Nước Trời ! Sống độc thân là phương diện tuyệt đối cần cho mọi hình thức đời sống đan tu.
Tân Ước trình bày việc sống độc thân như một forma vitae (hình thức sống) có thể thực hiện được đối với người môn đệ. Theo thánh Matthêu, khi xác minh ý muốn nguyên thủy của Thiên Chúa tạo hóa về bậc sống gia đình và gợi ý cho các môn đệ từ bỏ cuộc sống ấy, Chúa Giêsu tuyên bố rằng từ nay người ta có thể vì Nước Trời mà sống như hoạn nhân (x.Mt 19,3-12). Qua những lời nói về hoạn nhân (c.12), Chúa Giêsu cho thấy có những người nam và những người nữ tự do từ bỏ đời sống phái tính và gia đình.
Không phải mọi người đều chấp nhận lời nói đó, không phải mọi người đều hiểu và sống được như vậy, nhưng chỉ một số người được ơn sống như hoạn nhân vì Nước Trời. Lời Chúa Giêsu nói về cuộc sống của hoạn nhân là ẩn dụ rõ ràng nhất và chính xác nhất về bậc độc thân. Đó là một cái sống không đang chờ đợi được lấp đây cách thiêng liêng, một cái trống không kêu xin điều phải đến, tức là Vương quốc và Đức Vua, đấng đang đến.
Động cơ cánh chung này cũng được thánh Phaolô nói tới trong lCr 7. Để không bận tâm lo lắng (7,32), để không bị giằng co (7,35) và để không bị cám dỗ đến nỗi lòng trí phải chia đôi (7,34), bậc độc thân, đặc sủng hồng ân Chúa ban cho một số người trong Giáo hội thể là một cách sống không chỉ khả thi mà còn được đòi hỏi bởi chính ơn gọi Chúa ban. Đây là một đặc sủng của Thần Khí, bao hàm một động cơ kitô học và cánh chung học. Như vậy, dữ kiện cốt yếu tạo lập nên đời đan tu như một hiện tượng nhân chủng học trở thành nền tảng của đời đan tu kitô giáo.
Đó là lý do chính xác cho tôi thấy rằng dường như đời sống đan tu có mặt trong Giáo Hội như một ơn gọi giữa những ơn gọi khác, chứ không phải như một lý tưởng nên hoàn thiện mà những ơn gọi khác cần noi theo, cũng không phải như một dòng tu mẫu mực. Thực ra đời sống đan tu thuộc về phạm vi dấu chỉ, nó “ra dấu ”, nó là ám chỉ là ký ức, và vì thế có thể nói nó là một tác vụ trong Giáo Hội và cho Giáo Hội. Đời sống đan tu là dấu chỉ, bởi vì nó là một cuộc sống có hình thức riêng biệt mang một sứ điệp từ nơi Thiên Chúa đến cho cộng đoàn và cho mọi người. Chúng ta không quên Isaia 8,18: “Này tôi và những đứa con mà Chúa đã ban cho tôi, chúng tôi là dâu chỉ và điềm báo trong Israel, do từ nơi Chúa”.
Và đời sống đan tu là một ký ức có tính dụ ngôn, là bản tường thuật hiện sinh về vita Jesu et discipulorum (cuộc đời Chúa Giêsu và các môn đệ) trong bậc độc thân vì Nước Trời và trong cộng đoàn được xây dựng trên giới răn mới. Đó là lý do cho thấy tại sao đời sống chung lại tạo nên phương diện phúc âm đặc thù khác của đời sống đan tu. Sự hiệp thông huynh đệ trong hình thức sống cộng tu là một thực tế đã trở nên khả thi nhờ bậc độc thân vì Nước Trời. Trong viễn cảnh phúc âm, bỏ vợ chồng, con cái (độc thân vì Nước Trời) sẽ được gấp trăm về anh chị em, mẹ và con cái (x.Mt 10,29-30; Lc 18,29-30), tới độ đời sồng chung, cùng với bậc độc thân, luôn luôn xuất hiện một nét nổt bật. Phải chăng vì tầm quan trọng của đời sống cộng đoàn mà khi tìm cách tự giải thích về mình đòi đan tu đã luôn luôn nhận ra cộng đoàn nguyên thủy Giêrusalem, nổi bật về đòi sống chung (x.Cv 2 42-45- 4,32), là khuôn mẫu lý tưởng cho dự kiến về cách sống của mình?
Một nhà xã hội học muốn tìm hiểu đời sống đan tu trong tương quan với đời sống kitô giáo chỉ có thể nhận ra được tính độc đáo và đặc thù của nó nơi bậc độc thần được dứt khoát chấp nhận và nơi đời sống chung. Dầu rằng những tính chất riêng biệt kia có ý nghĩa thần học và dựa trên lời mời gọi của Chúa, trên lời hứa của Chúa Kitô và trên qui chiếu tuyệt đối cần thiết vê bản thân ngài để thực hiện cuộc sống ấy. Điều đó rất thật khi mà đức tin, sự gắn bó với Chúa, yếu đi hay tàn lụi, thì sẽ chẳng còn lý do gì khiến người đã chọn cuộc sống ấy và phải kiên trì sống trong đó nữa. Quả thực, cuộc sống ấy sẽ trở thành một forma vitae (hình thức sống) vô nghĩa.
Ơn gọi đan tu không phải là ơn gọi cá nhân: đó là lời mời gọi sống với người khác để cùng nhau xây dựng nên một thân thể độc đáo và đặc thù, thân thể của tình huynh đệ. Không phải các chi thể của thân thể này tự chọn lấy nhau, nhưng họ đón nhận nhau vì cùng muốn sống đời đan tu và muốn thực hiện ý Thiên Chúa.
Ở đây có một khác biệt mới so với mọi hình thức huynh đệ của con người dựa trên nguyên tắc chọn lựa. Đây là một tình huynh đệ được đón nhận, trước khi được xây dựng nên, vì mỗi người đón nhận người khác như một người được Chúa mời gọi và như một hồng ân của Chúa. Như vậy, đời sống chung trở nên một dụng cụ lớn trong cuộc chiến chống ngẫu tượng, trong việc giải thoát khỏi mọi ích kỷ, giải thoát khỏi ảo tưởng và những điều viển vông. Đời sống chung là không gian giải thoát nơi đó con tim học biết nghệ thuật hiệp thông, sự phục vụ vô vị lợi đối với anh em, sự vâng phục nhau, nhờ thế đời sống chung sẽ trổ sinh hoa quả là đức bác ái.
Đời đan tu không phải là một “đời sống đức ái hoàn hảo”, vì nó cũng phải vươn tới đức ái trọn đầy như mọi cuộc sống khác trong Giáo Hội. Đó là một ngôi trường đức ái, và việc các đan sĩ cùng nhau chung sống là một lời cầu xin Thánh Thần ngự xuống trên họ. Như chúng ta biết, đời sống chung đan tu thực ra là chuyện bình thường, đôi khi còn thấy như chỉ là một cuộc sống khổ cực, nếu không nhận xét và phán đoán nó với đức tin tinh ròng. Tuy nhiên đời sống ấy lại là việc chu toàn giới răn mới và là nơi chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa (x.Ga 13,34; 17,22-23)
Tất cả sự phong phú của việc sống độc thân tùy thuộc ở phẩm chất phúc âm của đời sống huynh đệ, của đời sống chung. Ý nghĩa của đời đan tu, tính chất dấu chỉ và tính chất ký ức của nó sẽ được nhận biết, được biểu lộ cách tương ứng với chất lượng cuộc sống huynh đệ. Đời sống chung, là trường đức ái theo truyền thống Xitô, có thể diễn tả cho thấy cộng đoàn giáo hội và mang ý nghĩa tình yêu giữa Ba Ngôi.

Việc san sẻ của cải cũng là một điều cần thiết để cho cộng đoàn được bền vững và có tính hụynh đệ. Việc chia sẻ ấy thể hiện qua sự từ bỏ chiếm hữu của riêng. Kinh Tế đan viện xây dựng trên nhu cầu chứ không phải dựa trên lợi nhuận mà người ta hưởng dùng cách bừa bãi như những người chỉ biết hưởng thụ. Nền kinh tế ấy không loại trừ lao nhọc, trái lại nó biểu dương nồ lưc khổ chế và công trình sáng tạo của việc làm. Chắc hẳn các đan sĩ biết sức mạnh của tiền bạc và, sống trong thế gian họ xử dụng tiền bạc nhưng không để tiền bạc chi phối những tương quan huynh đệ của họ, và điều đó làm thay đổi thực sự nhiều điều trong cuộc sống cụ thể hằng ngày.
Hẳn là Phúc Âm không có “lời khuyên ” nào liên quan tới sự nghèo khó, nhưng đối với kitô hữu lại có luật về việc sống cộng đoàn, về sự chia sẻ, về cách dùng của đời này có chừng mực, về sự nghèo khó vì chờ đợi tất cả nơi Thiên Chúa. Đan sĩ thực hiện những điều ấy một cách khác với những anh em kitô hữu khác, nhưng luôn luôn vì yêu sách hiệp thông.
Cũng phải nói như thế về đức vâng phục, hay đúng hơn về sự phục tùng lẫn nhau, thiếu vâng phục không thể xây dựng nên cộng đoàn. Noi theo Chúa Kitô mà sống vâng phục như ngài là điều cần thiết để làm môn đệ Chúa. Và các đan sĩ sống vâng phục khi phục tùng lẫn nhau trong đời sống chung và khi vâng lời người có trách nhiệm phục vụ sự hiệp thông, vì chính sự phục vụ phải được coi như quyền bính.
Qua việc tùng phục lẫn nhau và qua đức vâng lời, đan sĩ chấp nhận bị anh em hoặc chị em cùng chung sống thử thách tính chủ quan của mình, và như thế đan sĩ theo đuổi cách sống “một lòng một ý” tránh cho cộng đoàn khỏi bị phân rẽ. Vì sự hiệp thông đòi hỏi mà cần thiết phải có vâng phục. Sự vâng phục này được thể hiện băng việc liên tục vượt qua những lựa chọn cá nhân để nhắm tới công ích. Thánh Basiliô, người triệt để trung thành với phúc Âm, đã đề cao sự vâng lời và sự tàng phục nhau trong cuộc sống hiệp thông. Theo ngài, sự hiệp thông này phải giống như một thân thể mà mọi chi thể đều hòa hợp và vâng phục nhau ngõ hầu sự sống của toàn thân được dồi dào và có khả năng chống lại cái chết.
Ở độc thân và đời sống huynh đệ là những đặc tính phúc âm của đời đan tu. Còn theo Chúa Kitô là nhiệm vụ của mọi kitô hữu. Họ phải thực hiện điều đó với óc sáng tạo để cuộc đòi họ rập khuôn theo cuộc đời Chúa Giêsu Nadaret.

 

Vài nhận xét

Một số tác phẩm về đời sống đan tu, ngay cả mới đây, muốn phác họa cốt lõi của cuộc sống này, thực ra lại gây rối rắm thêm. Tôi nhớ tới tác phẩm của Innocenzo Gargano, khi phác họa mẫu gốc của đan sĩ kitô, đã kể ra bảy nét như sau:
– Vị trí hàng đầu của Nước Thiên Chúa,
– Chọn sống khiết tịnh,
– Chăm chú đón nhận lời Chúa,
– Sự cần thiết của thanh vắng và thinh lặng,
– Ý thức về những giói hạn và sự dòn mỏng của mình,
– Siêu thoát trên mọi thành tựu của con người
-Chứng tá cụ thể cho mầu nhiệm của một dân đươ qui tụ nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần[4] .

 Trong bảy nét trên đây chỉ có việc chọn sống khiết tinh là riêng cho các đan sĩ, những nét khác đều liên quan đến mọi kitô hữu, và đó không phải là những lời khuyên cũng không phải những lựa chọn, nhưng là những điều kiện cốt yếu để trở thành môn đệ.
Nơi tác phẩm của Giuseppe Dossetti cũng thế, khi ông mô tả đan sĩ theo Bài giảng 40 của Grégoire Palamas người ta thấy nổi bật nét đặc thù, cái riêng biệt của đan sĩ là sự xa cách thực thụ và thể lý với những cách sống và thói quen của thế gian, sự kêt hiệp trí năng với Chúa Kitô phục sinh qua việc cầu nguyện bằng Kinh Thánh, sự thanh tẩy dần dần con mắt tinh thần tới mức độ đan sĩ trở nên ngôi lều của Danh cứu độ[5] . Nhưng tại sao lai coi những điều ấy là điểm riêng biệt của đan sĩ? Ta lại không thấy đó cũng là những điểm chung cho mọi người đã được rửa tội đang triệt để phát huy ơn sủng của bí tích thánh tẩy mà vẫn không cam kết ở độc thân và sống cộng đoàn sao?

Đàng khác, kinh nghiệm lịch sử của đời đan tu kitô giáo ở Đông Phương và Tây Phương cho thấy rằng sự xa cách thế gian, thinh lặng, khổ chế, cầu nguyện và phụng vụ được hiểu và được sống khác nhau tùy theo các thời đại và các miền văn hóa. Hơn thể nữa, toàn thể Giáo Hội đã hiểu và sống những yêu sách này theo cách hội nhập văn hoá được thực hiện từ Phúc Âm.
Phúc Âm đòi hỏi một số kitô hữu sống độc thân và sống cộng đoàn như ơn gọi riêng biệt của họ. Đời đan tu đã bảo đảm cho sự hiện hữu của cách sống này trong cộng đoàn kitô giáo.

 

Kết luận: Phúc Âm, không gì khác ngoài Phúc Âm

“Sống theo cách sống của Phúc Ầm ” (thánh Phanxicô Assi), đi trên đường của Chúa theo sự hướng dẫn của Phúc Âm (thánh Biển Đức), sống theo Luật các luật, tức là Phúc Âm (Étienne de Muret), đó là cuộc sống đan tu, đã xuất hiện và được sống qua dòng lịch sử. Không phải là tình cờ nếu, trong các tác phẩm dựa theo những cách sống đan tu cụ thể khác nhau, chính Phúc Âm là điều đan sĩ phải sống, chính Phúc Âm, với tất cả những yêu sách triệt để, trình bày cho thấy hình thức sống mà người ta khát mong, mặc dầu ít nói đến bậc độc thân, tuy rằng đó là điều kiện cần thiết và cốt yếu của đời sống đan tu. Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng nếu đó là khát vọng, là dự phóng mà đan sĩ bày tỏ khi khấn hứa, thì sống Phúc Âm vẫn là một nhiệm vụ không bao giờ hoàn tất được. Phúc Ầm vẫn tiếp tục là “khác ” đối với cộng đoàn đan tu. Và ngay cả cuộc sống cộng đoàn lại là mối đe dọa cho Phúc Âm, vì phản bội, không nhận biết, hiêu sai Phúc Âm, và không tuân giữ cách thích đáng.
Tuy thế, mặc dầu bị đe dọa và xỉ nhục, ngay cả bị phản bội, Phúc Âm vẫn tiếp tục lên tiếng trong cuộc sống đan tu. Khi tiếng nói của Phúc Âm bị xóa bỏ, khi đức tin và tình yêu đối với Chúa biến mất, khi ấy đời sống đan tu cũng tàn lụi, hoặc nơi cá nhân đan sĩ hoặc nơi cộng đoàn
Xin cho phép tôi được nói rằng đó là sự cao cả và là sự cùng khốn của đời sống đan tu. Đòi sống nàỵ có thể đươc tiếp tục sống bởi những con người đã mất hiệp thông trong tình yêu và tự do với Chúa Kitô. Một đan sĩ có thể làm nhục cho Phúc Âm, nhưng nếu không nhận biết Phúc Âm đúng như là Phúc Âm, họ chẳng còn là đan sĩ nữa và sẽ từ bỏ đời sống đan tu, một đời sống chỉ có ý nghĩa nơi Chúa Kitô mà thôi. Nếu có một ý niệm thực tế về đan sĩ, mà ta có thể áp dụng ở đây và lúc này, một kiểu mẫu mà chúng ta có thể thực sự rập khuôn theo, thì đó chính là kiểu mẫu chúng tôi vừa phác họa trong sự cao cả, trong cái may rủi và trong nỗi khốn khổ của nó. Vì lý do này, đan sĩ biết mình không xây dựng cộng đoàn đan viện như một Giêrusalem mới, nhưng họ chuẩn bị sẵn sàng để Giêrusalem trên trời giáng thế (x.Kh 21,1). Họ biết nỗi yếu đuối và sự cùng khổ của đời mình làm hạ giá Phúc Âm, nhưng họ không ngừng nhượng bộ trước sự lôi cuốn và sức mạnh của Phúc Âm. Kinh nghiệm về nỗi khốn khổ, về sự khinh xuất, về cái trống rỗng của chúng ta sẽ khiến Chúa động lòng thương xót và ban ơn giúp chúng ta bắt đầu lại mỗi ngày sự nỗ lực sống Phúc Âm.
Viện phụ Arsène thốt lên với Chúa: “Lạy Chúa, xin đừng bỏ con. Con chẳng làm được gì tốt trước mặt Chúa; nhưng xin thương giúp con bắt đầu ”[6] .

 


 

[1] Tu luật Grandmont, Lời mở 

[2] X. Saint BONAVENTURE, Legenda major 3,1 

[3] X. Phần phụ lục của tạp chí Joural d’Asie (trong Thomas Merton Mystique et zen, Albin Michel,1995,tr.487-490 và 499-516)

[4]X.I.GARGANO, “Ura riflessione sul monachesimo”, trong Monachesimo, laicità e vita religiosa, G.BRUNELLI (éd). EBD,Bologone 1995,tr.109-110

[5]X. Dossetti, “identità pan-cristiana del monachesimo e sue valenze ecumeniche”,sđd, tr.120-121.

[6]L. REGNAULT, Les sentences des Pères du désert. Coll. Alphfli Arsène 3, Solesmes, 1981.

 

 

 

 

 

 

MỘT HIẾN LỄ SỐNG ĐỘNG

 

Duyên Thập Tự

 

Chủ đề tập nội san Hạt giống Chiêm Niệm số 17 xoay quanh tư tưởng Hiến Dâng. Được đề nghị viết về việc hiến dâng của Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, tôi chợt nghĩ rằng việc hiến dâng của ngài không chỉ là hành động dâng bản thân cho Thiên Chúa, mà còn hướng về con người, về tha nhân. Thật vậy, việc hiến dâng mang tính Kitô giáo có đối tượng kép là Thiên Chúa và tha nhân, và chứa đựng nhiều chiều kích.

Đời sống của Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, trong từng giai đoạn, luôn mang tính lưỡng diện này. Ngài hiến dâng cuộc đời cho Thiên Chúa trong tư cách linh mục thừa sai hay đan sĩ chiêm niệm, để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho các linh hồn. Chúng ta có thể nói, ngài hiến dâng bản thân cho Thiên Chúa và trao hiến cuộc đòi cho tha nhân, đặc biệt những người chưa nhận biết Tin Mừng của Chúa Kitô, mà ngôn ngữ thời đó gọi là lương dân hay dân ngoại.

Trong bài viết này, tôi mòi độc giả tái khám phá lại hai chiều kích việc hiến dâng của Cha Tổ Phụ, trước hết trong việc ngài chọn lựa một định hướng cho cuộc đời đầy thử thách, tiếp đến qua nỗ lực trọn vẹn cho công cuộc của Thiên Chúa, và cuối cùng, qua thập giá như lànơi hội tụ của việc hiến dâng được diễn tả như  một hy tế của tình yêu lớn nhất.  

  

1.Chọn lựa một định hướng cuộc đời đầy thử thách

Hành trình cuộc sống con người luôn được cắm mốc bằng những quyết định. Những quyết định diễn tả định hướng được cưu mang và ấp ủ theo thời gian. Vì thế, quyết định bao giờ cũng hết sức quan trọng, đặc biêt những quyết định lớn ảnh hưởng trên toàn bộ cuộc sống

Khoảng thời gian 23 năm đầu tiên, khi còn là môt Henri Denis, Cha Tổ Phụ đã phải đưa ra những quyết định rất hệ trọng, thí dụ hiến dâng cuộc đời cho Thiên Chúa qua ơn gọi làm linh mục. Nhưng trong khi đi theo định hướng đó, ngài còn phải thực hiện một quyết định còn táo bạo hơn đòi hòi rất nhiều can đảm, đó là hiến thân cho sứ vụ truyền giáo mà điểm đến chắc chắn ở nơi xa xôi lắm.

Như chúng ta đã biết, khi còn đang là một tiểu chủng sinh tại Boulogne-sur-Mer, chú Henri Denis đã muốn chọn con đường trở thành thừa sai. Trong lá thư gửi từ đại chủng viện Thánh Thomas, giáo phận Arras, thầy đã nói rõ điều đó trong thư gửi cho Cha Giám Đốc chủng viện Hội Truyền Giáo Paris vào tháng tám năm 1900[1]

“Sau khi con đã được các cha linh hướng và các bề trên trước kia cũng như bây giờ khuyến khích, như cha Tổng Đại Diện Lẹịeune, cha Delatte, bề trên chủng viện thánh Thomas, cha bề trên tiểu chủng viện Boulogne và cha chỉnh xứ, con hết lòng tin tưởng kính xin cha vui lòng nhận con vào chủng viện của Hội Truyền Giáo
“Thưa cha, lần đầu tiên là hồi cuối năm học lớp đệ lục, con đã cảm thấy nổi khát khao dâng hiến cuộc đời con để cửu rỗi những người chưa nhận biêt Chúa, đặc biệt là những người Trung Hoa đảng thương… Ước nguyện này ngày càng trở nên rõ nét và mãnh liệt đến mức vào năm đệ nhất; cha linh hướng có thế quả quyết với con rằng chắc chắn là con được ơn gọi làm thừa sai… ”
Trong lá thư này, cha linh hướng của thầy là cha Golliot viết vài dòng chữ cha cha Giám Đốc chủng viện Hội Thừa Sai:
Kính Cha Bề Trên,
Thầy Henri Denis xin tôi thêm vài lời vào lá thư của thầy, tôi rất sẵn lòng. Thầy là một trong những học sinh cũ của chủng tôi. Thầy đã chịu phép cắt tóc hổi tháng ba vừa qua. Thầy đã tốt nghiệp tủ tài toàn phần. Đây là một chàng trai thông minh, đạo đức, có nhiều phấm chất vững vàng và có thể trở thành một vị thừa sai tuyệt vời, có những phẩm chất như cha Eloy… “
Vào ngày 8 tháng tám năm 1900, cha Giám Đốc đại chủng viện Thánh Thomas, giáo phận Arras, cụng viết cho cha Giám Đốc chủng viện Hội Thừa Sai Paris lá thư giới thiệu thầy Henri Denis[2] :
Kính thưa Cha Bề Trên,
Tại chủng viện Thảnh Thomas, thầy Henri Denis được coi như là một trong những thầy ưu tú của chúng tôi về mọi mặt: đạo đức, tính tình, chuyên cần.”

Tuy không có những năng khiếu đặc biệt, song thầy đạt được những thành quả rất mỹ mãn. Hơn nữa thầy đã có bằng tú tài ban văn chương. Đó là những thông tin tốt nhất liên quan đến chàng trai trẻ này mà tôi có thể kính báo đến cha không một chút e dè. Việc thầy rời bỏ chúng tôi sẽ là một mất mát đối với giáo phận vốn đặt nhiều kỳ vọng tốt đẹp nơi thầy. Tuy nhiên, mặt khác, điều đó sẽ có lợi: chúng ta cần một vài ơn gọi đặc biệt. Những om gọi như thế sẽ duy trì ở mức độ cao hơn chuẩn mực của ơn gọi bình thường. Riêng tôi, tôi sẵn lòng nhượng thầy lại cho cha, và tôi sẽ không quên cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo đầy thử thách, nhưng đồng thời cũng đầy phúc lành của cha.
Kính xin Cha Bề Trên nhận nơi đây những tâm tình kính mến rất trân trọng của tôi trong Chúa chúng ta.
Trong lá thư của cha Delatte, chúng ta đọc thấy kiểu nói “ơn gọi đặc biệt” để chỉ ơn gọi làm thừa sai. Vậy đâu là ý nghĩa của diễn ngữ này?
Thầy Henri Denis bước chân vào chủng viện Hội Thừa Sai Paris đúng vào thòi điểm mà ở Việt Nam, các cuộc bách hại đã chấm dứt được vài năm. Tuy nhiên, đối với các chủng sinh của Hội Truyền Giáo Paris, chân dung các vị tử đạo vẫn luôn là tấm gương để họ noi theo suốt quá trình đào tạo. Thật vậy, sau mỗi giờ kinh, mọi người đến quì gối cầu nguyện trong phòng các Thánh Tử Đạo. Nhiều lần trong ngày, từng người hoặc từng nhóm nhỏ, đến cầu nguyện ở đó. Thây Henri Denis trẻ trung chắc chắn đắm mình trong bầu khí như thế. Thầy có nghĩ đến phúc tử đạo không? Thầy có muốn dâng hiến cuộc đời mình như một hy lễ cho Chúa không? Chúng ta không biết được.
Tuv nhiên, viễn ảnh đi truyền giáo tại một nước xa xôi chăc chắn gợi lên trong tâm trí thầy những ý tưởng rất thực tế. Thật vậy, thực hiện việc truyền giáo giữa một dân tộc mà hầu hết cư dân đều là những người nghèo khổ, bệnh tật dưới nhiều phương diện, đòi hỏi phải thi hành nhiều hoạt động, thành lập những tổ chức và cả thời tiết khắc nghiệt, đã bào mòn sức khỏe và giết chết nhiều người… điều này bắt buộc phải có những cố gắng anh hùng. Dù rằng không còn cái chết tử đạo chờ đợi, nhưng còn những thứ khác đang đón chờ: đó là phong trào bài ngoại, hoặc những cuộc nội chiến, và biết bao những khó khăn khác. Các vị thừa sai ngoại quốc bị coi như kẻ thù nghịch, chọ nên dễ mất mạng hoặc mất tự do!
Qua viễn ảnh đó, G. Goyau lột tả tâm trạng của những vị thừa sai tương lai:
Đứng trước thực tế hằng ngày của một sứ vụ như thế, trí tưởng tượng của những vị thừa sai tương lai phải chấp nhận tự chế, phải phục tùng những nhu cầu rất tầm thường do công việc mai ngày của vị thừa sai… nó bao gồm thời gian dài lê thê, những trì trệ không tiến triển, những lúc ủ ê ảm đạm, những nỗi đau vốn không thể khoác lấy tính cách anh hùng, những hy sinh liên lỉ mà nếu nhiều quả có thể dẫn đến sự chán ngắt…[3]

 “Đối với những vị thừa sai tương lai của Hội Truyền Giáo thì khung cảnh đào tạo của họ là như thế: một khung cảnh tưởng chừng như là một thách đố đối với niềm vui sống; một khung cảnh liên tục diễn ra trước mắt họ những ý niệm về sự chết, nhưng lại không có gì là khủng khiếp, một khung cảnh tập cho họ quen với tất cả những thứ đó, để rèn cho họ “có cảm giác thoải mái với sự chết”, như lời văn hào Bossuet đã nói[4]

Nhìn lại những năm tháng thanh xuân của Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận – những năm tháng được đào luyện, đặc biệt tại chủng viện Hội Truyền Giáo Paris – chúng ta thấy ngài đã chuyển cuộc đời mình theo hướng “hiến dâng” nghĩa là chọn hy sinh cho Thiên Chúa và việc truyền giáo. Đó là một sự chuẩn bị tốt nhất cho sứ vụ đang chờ đợi tại một đất nước xa xôi mà ngài không thể mường tượng những gì sẽ xảy ra cho bản thân mình, nhưng chăc chắn sẽ đòi hỏi một sự dấn thân triệt để.

 

2.Dấn thân trọn vẹn cho công cuộc của Thiên Chúa

Ngày 29 tháng 04 năm 1903, mười bốn vị tân thừa sai, trong đó có cha Henri Denis, đang có mặt tại nhà nguyện của Hội Truyền Giáo Paris đế tham dự nghi thức ra đi truyền giáo. Sau nghi thức, các tân thừa sai lên đường đi Marseille, từ đó các ngài xuống tàu đi đến các nhiệm sở ở các đất nước xa xôi đã được chỉ định. Vị thừa sai tuổi 23 của chúng ta được sai đi truyền giáo ở Việt Nam, tại giáo phận Bắc Đàng Trong (giáo phận Huế sau này). Từ đây cuộc đời của Vị thừa sai này sẽ gắn bó mãi mãi với một dân tộc mà lúc bấy giờ hoàn toàn xa lạ với ngài. Ngài nóng lòng đến đất nước mà ngài được kêu gọi để rao giảng Tin Mừng và sẽ dấn thân triệt để cho công cuộc này.
Để có thể truyền giáo cho người bản địa, các vị thừa sai phải được trang bị những kien thức về liền văn hóa và nói được ngôn ngữ của những người sẽ nghe các vị rao giảng Tin Mừng, cố Thuận[5]. nhận thức rõ điều này, nên ngài mải miết, học ngày học đêm ngôn ngữ Việt Nam. Cùng với ngôn ngữ, ngài đã học và khám phá tính tình và nếp sống cùa người Việt Nam để có thể thích nghi một cách tốt đẹp nhất. Phải chăng sự nhiệt tâm hăng say học hỏi đó phát xuất từ ước muốn nồng cháy muốn “hiến dâng” cho những người Việt Nam điều quí giá nhất là Tin Mừng, với tất cả sự tận tụy hy sinh của bản thân?

Thay vì đi rao giảng cho những người chưa nhận biết Chúa, Cố Thuận lại nhận bài sai dạy học tại tiểu chủng viện An-Ninh. Dù rằng có chút hụt hẫng vì chưa được thi hành sự sứ vụ truyền giáo hằng mong mỏi, ngài chu toàn một cách tốt nhất nhiệm vụ của một giáo sư chủng viện với tư cách một nhà sư phạm và một nhà mô phạm gương mẫu: chương trình sống từng ngày của ngài đã diễn tả một cách nào đó sự dấn thân trọn vẹn cho công cuộc của Thiên Chúa:
Một giờ rưỡi vừa rồi, con đã kêu đủ thứ tiếng: Pháp, Việt, Hán, La…. Vừa hết giờ dạy học, con vội về nghỉ, nói chuyện với cha mẹ đôi chút. Xin cha mẹ lo gìn giữ sức khỏe. Cha mẹ biết rằng: nếu cha mẹ liều mình để phải đau yếu thì lỗi đức thương yêu nặng nề như núi! Phần con không phải giữ cho khỏi phạm tội ấy, vì dầu con gầy còm như con tu hú, con còn khỏe như cái cầu mới và mạnh bằng nửa tá người Thổ Nhĩ Kỳ rất lực lưỡng. Không chút bệnh tật chi trong mình con, dầu hơi đau, dầu một chút cũng không! Hằng ngày, con cứ làm chút việc bình thường của con một cách thanh thản và bằng an như cha mẹ đó, nghĩa là con liệu đi nghỉ sớm độ 9 rưỡi, 10 giờ, có khi đến 11 giờ. Rồi mai sớm gà gáy lần thứ nhất, độ 3 rưỡi, tư giờ, con dậy nguyện gẫm, nghĩa là cầu xin với Chúa, nói chuyện với Ngài. 6 giờ kém 15 con đi dâng lễ, cám ơn, đọc kinh, xem sách thiêng liêng. 7 giờ rưỡi lót lòng rồi dọn bài, dạy học, rồi dọn bài khác, dạy giờ sau xong là đến giờ cơm. Cơm trưa rồi, con vào nhà thờ chầu Mình Thánh nói chuyện với Chúa, đó là lúc con nói chuyện với Ngài về cha mẹ. Xong, con về dọn bài dạy buổi chiều, dạy rồi con lại vào nhà thờ đọc kinh nhật khóa và đi đàng Thánh Giá tùy ngày. Khi các chú làm việc thủ công thì con đi làm thuốc cho kẻ liệt. Lúc đó hết các thứ bệnh đến tìm con. Chú thì ghẻ, chú thì mụt, chú thì đau rét, chú khác đau mắt, chú khác nữa đau bụng v.v… Mà ít khi con không tìm được cách nào chữa họ, cám ơn Chúa. Rồi kẻ liệt ngoài cũng đến xin thuốc. Mỗi ngày con làm bác sĩ chừng nửa giờ hơn kém tùy ngày. Làm thuốc xong con đọc sách thánh ít phút, đoạn chấm bài tập hoặc bài thi, thế là đến giờ cơm tối. Cơm xong con lại xem sách, đọc kinh rồi đi nghỉ. Đó là hết một ngày cuộc đời của con. Xin cha mẹ cầu cho con luôn.[6]

Phải chăng khi chu toàn tốt nhất nhiệm vụ được trao, dù rằng bản thân không ưa thích – vì có lần ngài đã ví căn phòng tại Tiểu chủng viện như nhà tù – cố Thuận đã diễn tả một cách sâu xa sự hiến dâng cho Chúa và thánh ý của Chúa? Hiến dâng luôn đòi hỏi hy sinh, hy sinh ngay ý riêng của mình để phục tùng ý muốn của bề trên. Cố Thuận đã đi vào con đường dâng hiến đó.
Rồi khi được sai đi rao giảng Tin Mừng bằng việc coi sóc giáo xứ Nước Mặn mà đa phần là tân tòng và nhiều người còn là dự tòng, cố Thuận đã hiến dâng tất cả sức lực và tài lực để mong ước mang các linh hồn về cho Chúa. Đọc lại những chương của sách Hạnh Tích viết về cuộc sống và sinh hoạt của cố Thuận trong 5 năm tại giáo xứ Nước Mặn (còn gọi là Thừa Lưu), chúng ta nhận ra sự hy sinh to lớn của ngài trong những hoạt động để xây dựng đời sống thiêng liêng và các cơ sở phụng tự.Chúng ta trích một đoạn thư ngài gửi cho song thân nói về việc ngài dạy giáo lý, để chúng ta có thể thẩm định được phần nào sự dấn thân và vất vả của ngài:
Kính thưa cha mẹ rất yêu dấu, con đang dạy 62 người ngoại để chịu phép Thánh Tẩy và dạy một lớp trẻ rước lễ vỡ lòng. Tuần trước con đã rửa tội một bà lão 85 tuổi. Bà đến xin trở lại mà rằng: Trời bắt tôi phải tòng giáo! Rủi Trời không cho bà thính tai, muốn nói chi với bà phải la lối hết sức. Mặc lòng, nhờ ơn Chúa, bà đã thuộc đủ điều cần cho được lãnh phép Thánh Tẩy. Con cũng dạy một bà lão khác 82 tuổi mê muội lắm; song may không điếc như bà trước. Việc dạy kinh bổn và đạo lý là việc không vui mấy, họa mới được một ngày vui. Con mới rửa tội được 6 người lớn và mấy đứa trẻ, đỏ là ít trận con thắng được với con cựu xà.
Con viết thư này giữa một lũ 60 đứa trẻ, chúng nó đang đọc kinh bổn om sòm chung quanh con và nhờ lúc con mắc viết đây mà tập võ ngầm với nhau dưới bàn con (…) Đó cha mẹ xem cái phòng dạy học của con khác xa phòng khách các ông hào phú, các vị công tước biết chừng nào! Thế nhưng trong phỏng tồi tàn này con với những người nghèo khó bàn nhau về những điều hệ trọng gấp mấy những chuyện nói trong các phòng khách lộng lẫy! Con không thể bộc lộ được sự vui sướng khi thấy họ mở mắt nhìn con, ngạc nhiên vì nghe con nói Chúa lần mẫn vô cùng, đã từ trời cao xuống đất thấp chết ô nhục trên Thập Giá đế cứu vớt sinh linh mà còn bao kẻ chưa nhận biết Người!
Công việc chiếm nhiều thời giờ nhất của con là dạy kinh bổn cho giáo hữu tân tòng, song than ôi! Họ không sáng trí mấy; nhất là có bà lão già quả 70 tuổi! Tội nghiệp các bà, phải chịu hết các sự khó thế gian này mới thuộc được mấy kinh! Khi con dạy kinh bổn cho họ hơn 10 tiếng đồng hồ rồi thì con chạy chung quanh bên tả bên hữu một chặp cho khuây. Thấy mình mệt muốn nghỉ thì con tự bảo: Hỡi Henri Denis, nêu mày không làm linh mục thì mày phải làm anh hàng bánh, nên mày phải làm việc cho gắt, phải làm việc đi, nghỉ chi mà nghỉ. Vạn tuế các cha sở, và cũng vạn tuế các ông hàng bánh nữa![7]
Sau 5 năm hoạt động truyền giáo tại giáo xứ Nước Mặn, Cố Thuận lại trở về tiểu chủng viện An-Ninh theo bài sai của Đức Cha Allys (Lý). Ngài vẫn nhiệt tâm chu toàn mọi công việc tại đây, đồng thời vẫn mong ước được ra đi sống đời đan tu chiêm niệm đã manh nha trong tâm trí ngài từ lâu.

Sau bao nhiêu năm chờ đợi, ngài đã được phép thành lập nhà dòng Đức Bà An Nam. Như cá gặp nước, hay đúng hơn, đón nhận sự linh hứng của Chúa Thánh Thần và nhiệt tâm sẵn có, Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận[8]   đã vận dụng tất cả bản thân cho công cuộc quan trọng này. Những vất vả, hy sinh ẩn kín trong tâm hồn ngài, chúng chỉ lộ diện một phần nào lên bề mặt của cuộc sống. Đã có lần ngài tâm sự với mẹ ngài:

 “Dạo này con mắc việc quá lẽ, đến nỗi con thấy một ngày nó qua đi mau như một giờ, một tuần mau như một ngày nên con quên trăm ngàn việc…[9]
Thăm mẹ rất yêu dấu của con, con viết đôi lời thăm mẹ thôi, không viết dài được vì mắc coi thợ mộc, thợ nề, nhân công đông vô số, nhất là phải coi sóc đào luyện các thầy và kiếm bạc tiền, con không biết để trí khôn vào việc nào hơn. Rầy con dần dần ra người bất lịch sự trải ý con, vì con bỏ liều biết bao thư không trả lời được, tại bận quả [10]

 Và đây là một trong những ưu tư của ngài:
“Việc nhà cũng xuôi, song không được trọn vẹn vì mẹ biết: dưới đất này không chi hoàn hảo. Mấy ngày nay mưa to gió lớn, lạnh queo, vườn tược cây cối úa cả. Một thầy đau phải đi nhà thương, còn mấy thầy ở nhà thì ma quỉ nó quấy phá: hết thầy này đến thầy nọ coi bộ tịch họ buồn thiu, làm con cũng buồn. Vậy phải làm chỉ? Phải câu nguyện, phải nhịn nhục, phó dâng mọi sự thuận theo ý Chúa, vì những việc buồn như vậy không lâu: buồn đó rồi hết đó. Song có điều khác là thầy nầy vừa vui thầy kia lại buồn, thành ra con lại sinh ái ngại. Ôi, chớ chi con được làm một thầy nhà tập rốt hết thì khỏi phải lo về việc ai cả. Con nói vậy để xin mẹ cầu nguyện cho con và cho các thầy dòng hết thảy, vì cả nhà dòng hèn mọn còn đâỵ chỉ nội một tuần cũng đủ tan nát hết mà con không thể chổng đỡ lại được cách nào, có khi con lại càng làm hư mau hơn. Nếu công việc xuôi thuận thì rõ không phải tại con, song tại Chúa. Càng ngày con càng thấy rõ sư ấy. Cảm ơn Chúa…”[11] 

Ghi nhận một vài nét của đời sống Cha Tổ Phụ, chúng ta có thể nhận ra rằng dù trong hoàn cảnh và môi trường nào, dù công việc có đúng sở nguyện hay không, ngài vẫn luôn là một con người ‘‘cho đi” và dám “cho đi đến cùng”. Những ghi nhận bên ngoài không thể nào diễn tả hết những ẩn kín bên trong tâm hồn ngài. “Đi đến cùng” trong chính chọn lựa dâng hiến cuộc đời của mình cho Thiên Chúa và công cuộc được giao phó. Ngài đảm nhận tất cả với trách nhiệm cao nhất, với lượng độ hy sinh lớn nhất: điều đó biểu lộ tình yêu lớn nhất trong ngài.

 

3.Thánh giá là chứng từ của tình yêu lớn nhất
Như đã nói trên, hiến dâng bao giờ cũng bao hàm sự hy sinh, từ những từ bỏ bên ngoài đến sự hy sinh bên trong, cho đến trọn vẹn bản thân. Để đạt được điều đó, chúng ta phải thực hiện một hành trình dài, hành trình của sự hiến dâng: từ sự dâng hiến chuyện nhỏ đến việc dâng hiến lớn hơn. Trở về với đời sống Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, chúng ta khám phá nơi ngài là một con người dâng hiến, và rất “nhạy cảm” với những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống để có gì dâng hiến cho Thiên Chúa và cho tha nhân.
Chúng ta đã đề cập đến một vài nét về sự dâng hiến của ngài trong những giai đoạn khác nhau, từ 23 năm sống tại nước Pháp và sau đó 15 năm tại Việt Nam. Giai đoạn 15 năm tại Việt Nam đã in đậm dấu ấn của hy sinh, vất vả về nhiều phương diện. Trước hết về vấn đề sức khỏe. 15 năm sống tại việt Nam đã lấy đi khỏi ngài rất nhiều sức lực. Đâu là nguyên do? Trước hết là thời tiết: những ngày hè nóng đổ lửa, đến nửa đêm bầu khí vẫn hừng hực nóng, và những ngày trời lạnh buốt. Ngài đã kể lại trong các lá thư gửi cho song thân. Tiếp đến là thực phẩm. Cuộc sống người Việt Nam thời đó rất đạm bạc, lương thực thiếu thốn và rất thiếu chất bổ dưỡng, thêm vào đó, ngài lại sống khắc khổ và chay tịnh nhiều. Cuối cùng là công việc dạy học, truyền giáo và xây dựng đời đan tu, đã biến ngài từ một người trẻ tuổi, mạnh khỏe thành một “cụ già” gầy gò và qua đời lúc mới 53 tuổi. Dầu vậy, nơi ngài có một ý chí bất khuất. Ngài đảm nhận mọi công việc, từ đốc công đến cu li, cưa gỗ, chèo thuyền đến việc dọn nhà vệ sinh mà ngài đảm nhận cho đến gần cuối đời, khi sức khỏe không cho phép. Ngài đã chu toàn mọi công việc như tất cả anh em mình. Đã có lần ngài viết cho mẹ ngài rằng người ta gọi dòng ngài lập là dòng giết người, vì người ta thấy các thầy thay nhau đau ốm [12] .

 Chúng ta tự hỏi những hy sinh kia có giá trị gì? Phải chăng đó là một thứ bệnh đi tìm khổ đau?
Trong các lời giáo huấn, Cha Tổ Phụ luôn mời gọi các môn sinh của mình biết lợi dụng mọi cảnh huống và các việc xảy ra để thánh hóa bản thân, để có gì dâng cho Chúa và làm ích cho tha nhân. Ngài không ảo tưởng và làm cho người khác ảo tưởng rằng không có đau khổ khi sống đời đan tu là một đời hằng liên lỉ kết hợp với Chúa và thật là hạnh phúc[13]  . Trái lại, biết lợi dụng khổ đau, thánh giá để trở thành con người hiến dâng. Như vậy, hy sinh chỉ có thể hiểu được trong tình yêu. Càng yêu càng hy sinh, cho đến sự “tự hủy” như chót đỉnh của một tình yêu lớn nhất. Phải chăng Cha Tổ Phụ đã học nơi Thầy Giêsu con đường thánh giá, để hiến dâng một tình yêu lớn nhất?

 Chúng ta đọc được tâm tình hiến dâng đó trong một số giáo huấn của ngài. Xin được trích một vài đoạn:
“Thường Chúa để phần rỗi các linh hồn trong tay người ta. Đó là sự Mầu nhiệm, cũng là vinh hạnh cho chúng ta. Vì xem ra Người muốn dùng chúng ta mà làm việc của Người… Vậy, chúng ta hễ khi gặp sự gì trái ý cực lòng, hay sự khốn khó nào, hãy dâng cho Chúa đế cứu các linh hồn. Như vậy, ở trong Nhà dòng mới vui; và khi gặp sự khó, mới dễ chịu, vì được dịp mà tỏ lòng mến Chúa, cứu các linh hồn cho Chúa. Xin Chúa cho chúng ta được như vậy. [14]  ”

 “Nếu chúng ta biết ấp yêu Thánh Giá vào lòng, thì mọi sự gian nan tân khổ đời này, không làm cho chúng ta nao núng. Có lòng trìu mến Thánh Giá thật thì ở trong Nhà dòng này rất đỗi vui mừng. Như vậy, ai mà làm chi được chúng ta! Bề trên có quở phạt, anh em có khinh chê, đó là Thánh Giá, là điều mình hằng nâng niu trân trọng. Những kẻ ấy ở trong Nhà dòng này vui thích biết mấy. Xin Chúa và Đức Mẹ, khấng soi cho chúng ta được hiểu sự cha nói đó, và lo cho được như vậy[15] . ” 

 “Chúng ta hãy biết dùng cơn bệnh mà nên thánh, vì là lúc được rảnh rang mà ở với Chúa; tùy theo sửc, chở làm cho mình phải thêm mệt quá. Hãy cầu nguyện cho Bê trên, cho nhà Dòng, và cho hết mọi anh em ở đây; lại cầu cho cả Hội thánh, cho kẻ có tội, kẻ ngoại, và các linh hồn trong chốn luyện ngục. [16] ” 

 “Chúng ta hãy hỏi mình xem thử, ngày hôm nay chúng ta có làm gì cho được tấn tới chăng?. Chủng ta hãy cố gắng. Ngày nào cũng phải làm ít việc chi dâng lên Chúa, cho linh hồn mình được tấn tới: khi thì chừa tính xấu, lúc lại tập nhân đức, lúc khác lại vui lòng chịu lấy sự khốn khó. Néeu mỗi ngày chúng ta có làm được một việc chi, thì thấy trong mình thêm vui. Mà ngày nào cũng có việc mà làm, cho nên vui luôn. Còn như ở nhưng ở nể, không làm chi, thì chỉ thêm buồn. [17] ”

 

Kết: Âm hưởng từ một lời mời gọi

“Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12,1).

Khi viết thư gửi các thành viên cộng đoàn Kitô tại Roma, thánh Phaolô đã gợi lại một con đường mà chính Chúa Giêsu đã bước qua, đó là con đường hiến dâng: hiến dâng bản thân lên Thiên Chúa như một của lễ. Thật vậy, “khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bây giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến đế thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-6). Tác giả thư Do Thái đã đặt vào miệng Chúa Kitô lời nói làm định hướng cho cuộc đời của Ngài và công cuộc cứu độ: đó là hiến dâng chính bản thân để qua đó thánh ý cua Chúa Cha được thực hiện. Chúa Kitô đã chọn con đường “tự hủy” chính bản thân (P1 2,6-11) để trở thành của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa Cha.

Khi thoáng nhìn về cuộc đời Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, tôi cũng khám phá nơi cuộc sống và hành trình đời ngài nét in đậm của sự hiến dâng, một sự hiến dâng hướng tới Thiên Chúa và cho tha nhân, một sự hiến dâng mang chiêu kích thánh thiêng nhưng cũng rất hiện sinh.

Từ nhịp đập của trái tim ẩn kín, qua những ngôn từ và hành động, đến sự hi sinh trọn vẹn cho công cuộc lãnh nhận, ngài nhìn lên cao để tìm một định hướng, ngài mở rộng tầm nhìn như một mời gọi dấn thân, nhìn vào thật sâu như một thúc bách, và cũng có khi nhìn vào chính mình để thách đố cho sự toàn hiến.
Ý nghĩa đời con người- vì chỉ có một kiếp sống được gói gọn trong sự trao ban, sự cho, đi sự hiến dâng. Đó chính là hạnh phúc và là niềm vui của đời người, như cha tổ phụ đã tâm sự với mẹ ngài: “Con mạnh luôn, vui hết sức vui, con vui đến nỗi tưởng con sang Việt Nam 17 năm không khi nào con có phước bằng bây giờ”[18] . Nhưng để đạt được điều đó, chúng ta phải thực hiện cuộc hành trình mỗi ngày, từng ngày từng bước với những việc làm cụ thể, trong định hướng dâng hiến. cảm nghiệm được điều đó, chính cha tổ phụ đã nói: “Nhà dòng là trường học tập làm tôi Chúa, cho nên chúng ta ngày nào cũng phải tấn tới, chỉ ở nhà dòng mới vui[19]

 


 

[1] Lá thư này được lưu giữ tại văn khố Hội Truyền Giáo Paris.

[2] Lá thư này được lưu giữ tại văn khố Hội Truyền Giáo Paris

[3] G.GOYA, Les prêtres dé Missions Etrangères, nxb Bernard Grasset 1933, tr.196

[4] Sđd, tr.196

[5] Danh xưng của ngài này được xử dụng trong thời gian 15 năm đầu tiên tại Viêt Nam, khi ngài ià vị thừa sai. “Thuận” là tên gọi mà đức cha Caspar đã trao cho ngài.

[6] Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, Hạnh Tích, tr.45-46        

[7] Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, Hạnh Tích, tr.51-52

[8] Danh xưng này được xử dụng cho thời gian 15 năm khi ngài sống đời đan tu.

[9] Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, Hạnh Tích, tr.106.

[10] Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, Hạnh Tích, tr.142.

[11] Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, Hạnh Tích, tr.183-184.

[12] Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, Hạnh Tích, tr.166-167.

[13] “Nếu cả Nhà dòng chúng ta ai nấy cứ chăm lo làm như vậy thật là tốt lành biệt mấy! Người ta trông vào thì thấy Giêsu, Giêsu thay thảy. Ấy, sự sống thiêng liêng là đó2. Cha xin chúng con thử coi, chắc sẽ sinh ích, và Nhà dòng chúng ta sẽ ra khác, vì là Thiên Đàng ở dưới đất mà chớ.”, DN 136, “Một phương thế giúp chúng ta nên thầy dòng…và để kết hiệp với Chúa”, tr. 172-173.

[14] DN 121, “Cứu giúp các linh hồn”, tr.150-151

[15] DN126, “Về sự yêu mến Thánh Giá”, tr. 157.

[16] DN127, “Phải ra sức làm thầy dòng lúc đau ốm”, tr. 158.

[17] DN146, “Mùa Áp: hãy bắt đầu lại” tr. 188.

[18] Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, Hạnh Tích, tr.136.

[19] DN146, “Mùa Áp: hãy bắt đầu lại” tr. 189.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TÌNH HUYNH ĐỆ ĐAN TU

 

Cao Minh Long (CSĐD)

Chúng ta đang sống trong thời đại kỹ thuật tiên tiến nhất từ trước đến nay. Nền văn minh kỹ thuật này có nguy cơ biến con người thành những bộ máy được sản xuất đồng loạt. Thế giới hiện nay đang chứng kiến hai điều trái ngược nhau, nhưng lại tồn tại chung với nhau. Một đàng, do ảnh hưởng của cá nhân chủ nghĩa với việc đề cao tự do cá nhân và tinh thần hưởng thụ, con người sống như chỉ biết có mình mà không biết đến kẻ khác. Đàng khác, do ảnh hưởng của văn minh kỹ thuật và tiến trình toàn cầu hóa, con người lại bị chi phối rất mạnh bởi kẻ khác, bởi môi trường xung quanh, đến độ nhiều khi họ phản ứng như một cái máy không hồn, thiếu cá tính.
Có thể nói: Trong một thế giới như thế tình huynh đệ trở nên một yếu tố hết sức quan trọng trong đời đan tu, “TÌNH HUYNH ĐỆ ĐAN TU” giúp ta thoát khỏi sự chi phối của qui luật máy móc, để có thể sống với nhau bằng mối tương quan nhân vị, sống có tình có nghĩa và tôn trọng lẫn nhau.
Khi nói đến tình huynh đệ đan tu, là nói đến mỗi người chúng ta đang có một chỗ đứng quan trọng bất khả thay thế, và được nhìn nhận như người bạn đồng vai đồng vế, cùng nhau chia sẻ ngọt bùi, chứ không bị lợi dụng như một thứ dụng cụ phục vụ lợi ích riêng tư của một ai. Khi tập sống trọn vẹn tình huynh đệ giữa anh em đan sĩ với nhau, các đan sĩ sẽ có khả năng đối xử với mọi người bằng tất cả sự yêu thương và kính trọng.
Cốt lõi của tình huynh đệ đan tu là thể hiện sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Mỗi người lưu tâm đến nhau trong những lúc chán nản, buồn phiền, cô đơn; sẵn sàng nâng đỡ những anh em gặp đau khổ vì những khó khăn và thử thách… sống linh đạo tình huynh đệ, các đan sĩ được chữa lành khỏi mọi nỗi sợ hãi, hoài nghi và thiếu tin tưởng lẫn nhau; gia tăng sự thông cảm và hài hòa; khơi dậy sự khoan dung, yêu thương, tha thứ, đón nhận và đối thoại.
Phải chăng, trong một cộng đoàn huynh đệ chân chính, mỗi phần tử đều phải có tinh thần đồng trách nhiệm đối với sự trung thành của những người khác ? Phẩm chất đời sống huynh đệ có ảnh hưởng quan trọng đối với sự bền chí của cá nhân đan sĩ hay không?. Phẩm chất nghèo nàn của đời sống huynh đệ vẫn thường được coi là “lý do khiến người ta bỏ đời tu thế nào, thì việc sống sung mãn tình huynh đệ, thường là một sự nâng đỡ quí giá cho sự kiên trì của nhiều người như thế, có đúng không?
Chính vì thế, để cho tình huynh đệ đan tu có ý nghĩa và giá trị đích thực, thì trước hết và trên hết nó phải được đặt trên nền tảng “sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa”.

 

I. TÌNH HUYNH ĐỆ ĐAN TU ĐƯỢC XÂY DỰNG TRÊN SỰ HIỆP NHÁT CỦA BA NGÔI CHÍ THÁNH

Ba Ngôi Thiên Chúa là “Cộng Đoàn mẫu mực và hoàn hảo” cho đời sống thánh hiến đan tu trong mọi chiều kích. Trong Ba Ngôi, vừa có sự duy nhất, vừa khác biệt. Chính sự duy nhất trong khác biệt của Ba Ngôi đã khai sinh tình huynh đệ trong nhân loại.
– Chúa Cha là nguồn mạch Tình Yêu, đã tuôn đổ tràn đầy tình yêu thương xuống cho nhân loại qua người Con Duy Nhất của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.
– Chúa Giêsu, hiện thân tình yêu của Chúa Cha, đã mạc khải cho con người biết Thiên Chúa yêu thương con người như thế nào. Ngài là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người, là Đấng làm cho con người được giao hoà với Thiên Chúa Cha và với nhau, qua mầu nhiệm thập giá và phục sinh của Ngài. Chính sự giao hòa và ơn bình an phục sinh khơi dậy mối hiệp thông huynh đệ (koinonia) trong Hội Thánh (x.Cv 4,42-44)
– Chúa Thánh Thần, nguyên lý và là nguồn mạch của sự hiệp nhất và canh tân, đã thánh hoá và biến đổi chúng ta trở nên con người mới sống theo ân sủng, và liên kết chúng ta nên một trong tình yêu Thiên Chúa (x 2Cr 5,17).
– Hội Thánh là nhiệm thể Chúa Kitô và là “Mầu Nhiệm Hiệp Thông” của Ba Ngôi Thiên Chúa, tiếp nối công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu ở trần gian này.
– Đan sĩ phát xuất từ cộng đoàn đan tu trong Hôi Thánh và cho Hội Thánh, do đó đan sĩ là người của Cộng Đoàn, của Hội Thánh.
Chính trong cung lòng của Cộng Đoàn Ba Ngôi Chí Thánh này, mà tình huynh đệ trong cộng đoàn đan tu được thực thi trước hết và trên hết. Bởi các đan sĩ, do lời khấn, đã thực sự trở nên những người cộng sự viên để đem ân sủng của Thiên Chúa cho tha nhân. Vì Thiên Chúa là tình yêu (x.1Ga 4,8), một tình yêu vô cùng phong phú và mãnh liệt. Người đã yêu con người và yêu cho đến tận cùng (x.Ga 13,1), đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian (x.Ga 3,16) để con người được sống, và sống dồi dào. Do đó, nếu đan sĩ không sống chiều kích Ba Ngôi trong đời sống cộng đoàn thì họ sẽ đánh mất nét tươi đẹp nhất của tình yêu. Nói cách khác, “không thể nào hiểu được cộng đoàn tu trì, nếu chúng ta không bắt đầu từ bản chất của cộng đoàn như là một ân huệ trên cao ban xuống, như một mầu nhiệm, bắt nguồn từ chỉnh trọng tâm mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chí thánh và là Đấng thánh hoá, Đấng hằng mong muốn cộng đoàn tu trì trở nên thành phần của mầu nhiệm Giá o Hội nhằm phục vụ đời sống con người.[1]

 Thực tế trong đời sống hằng ngày cho thấy, đan sĩ đang minh chứng cho niềm tin của mình vào Ba Ngôi Thiên Chúa. Đối với họ, đời sống huynh đệ có chiều kích sâu rộng, nó bắt nguồn từ những đòi hỏi cơ bản là tìm kiếm một mình Thiên Chúa trong thinh lặng và cầu nguyện. Việc đan sĩ thường xuyên gắn bó với Thiên Chúa, làm cho họ găn bó với những phần tử khác trong cộng đoàn cách tế nhị và tôn trọng hơn. Đời sống chiêm niệm đem lại một sức mạnh mãnh liệt giải phóng họ khỏi mọi hình thức ích kỷ, nhỏ nhen.

Mặt khác, đời sống huynh đệ trong đan viện còn được coi là dấu chỉ sống động của Mầu Nhiệm Giáo Hội, thân mình Đức Giêsu Ki-tô. Họ thực sự đang sống trong tương quan mật thiết với anh em, bằng sự tôn trọng nhân phẩm, yêu thương, chia sẻ. Họ tạo điều kiện cho nhau để thăng tiến và sẵn sàng quảng đại cộng tác với người khác. Cùng nhau xây dựng để hướng tới một cộng đoàn lý tưởng theo hình ảnh cộng đoàn Ba Ngôi Thiên Chúa.

 

II.THỰC THI TÌNH HUYNH ĐỆ, HIỆP NHẤT YÊU THƯƠNG TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN.

Đời sống chung đem lại nhiều lợi ích vật chất và tinh thần cho các phần tử của một Đan viện. Nó tạo nên tình liên đới huynh đệ, vì “đời sống huynh đệ hiển nhiên không phải tự động có được bằng việc tuân giữ các nguyên tắc chi phối đời sống chung, nhung rõ ràng đời sống chung cổ võ cho đời sống huynh đệ rất nhiều”[2] . Ngay cả những khía cạnh khó khăn của đời sống cộng đoàn như: tuân phục quyền bính, bỏ ý riêng, chịu đựng những khuyết điểm của nhau…cũng là những cơ hội giúp thanh luyện các mối tương quan trong cộng đoàn ngày một huynh đệ hơn.
Ngày nay, mặc dù đời sống cộng đoàn không còn nghiêm nhặt như xưa, nhưng đan sĩ cũng không nên coi nhẹ tầm quan trọng của đời sống cộng đoàn, là yếu tố giúp họ thăng tiến trong đời sống thiêng liêng. Khi dâng hiến đời mình phụng sự Thiên Chúa trong ơn gọi đan tu qua việc tuyên khấn, đan sĩ dâng hiến toàn thân cho Thiên Chúa và để làm vinh danh Thiên Chúa. Sự dâng hiến này không tách rời, nhưng còn làm tăng thêm phần gắn kết tình huynh đệ trong đời sống cộng đoàn qua đời sống phục vụ và cầu nguyện.

 

Để xây dựng một đời sống chung, đan sĩ cần gắn kết và qui hướng về Đức Ki-tô vì Ngài là trung tâm của đời sổng cộng đoàn (x.Ga 15,16). Như Đức Ki-tô đã tuân phục Chúa Cha thì đan sĩ cần phải tuân phục bề trên như là hiện thân của Chúa Ki-tô (x. TL 2). Đây là chìa khoá để xây dựng đời sống chung và từ đó làm phong phú tình huynh đệ trong cộng đoàn.

Lời khấn vâng phục làm nên “của lễ toàn thiêu” trong đời sống thánh hiến. Với lời khấn này, đan sĩ vui vẻ hăng say phục vụ cho lợi ích của cộng đoàn. Tuân phục luôn luôn được nhấn mạnh trong tu luật và trong sinh hoạt của đời sốhg đan tu. Nó giúp đan sĩ kiện toàn nhân vị, cũng như đời sống thiêng liêng và làm cho họ nên giống Đức Ki-tô, Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên Thập Tự (x. P12,8).

Vì thế, đan sĩ cần phải biết từ bỏ cái riêng để sống cho cái chung của cộng đoàn qua việc tuân phục ý Chúa thể hiện nơi bề trên. Nhờ đó, đời sống cộng đoàn trở nên một lòng, một ý và trổ sinh hoa trái là niềm vui và bình an.

 

III.TÌNH HUYNH ĐỆ: ĐEM BÌNH AN VÀ NIỀM VUI ĐÍCH THỰC ĐẾN TRONG CỘNG ĐOÀN

 

Thomas Merton nói: “không ai là một hòn đảo”. Điều đó nói lên mỗi người là một hữu thể tương quan. Nói lên tương quan là nói đến việc sống với, sống cho và sống cùng. Chúng ta chỉ có thể thực hiện được điều này nếu mỗi người biết chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau, chia sẻ và tương trợ lẫn nhau trong tình huynh đệ.

 

 1. Chân thành giúp nhau sửa lỗi.

Trong thực tế, con người là một sự đan xen giữa ánh sáng và bóng tối; vị tha và vị kỷ; trưởng thành và ấu frĩ. Là con người, ai cũng có những khuyết điểm, như người ta thường nói: “Nhân vô thập toàn”. Các đan sĩ không chỉ giúp nhau khi đau ốm, bệnh tật, khi gặp hoạn nạn đau buồn, mà còn phải giúp nhau sửa sai.

Tính chất lành mạnh thánh thiêng của Đan Viện, không chỉ dựa trên sự thánh thiện của từng đan sĩ riêng rẽ, mà còn dựa trên mối tương quan giữa các đan sĩ có khả năng làm cho người anh em phạm lỗi chỗi dậy hay không. Đó là một việc khó khăn, tế nhị, đòi hỏi một tình huynh đệ chân thành và một đức khiêm nhường cao độ. Khiêm nhường không những nơi người được sửa sai mà còn nơi người sửa sai.

Nếu ta là người được sửa lỗi, thì hãy khiêm tốn đón nhận với sự cởi mở và lòng biết ơn. Thomas Kempis đã nói: “Ai nhận ra mình lầm lẫn, chứng tỏ rằng người ây hôm nay khôn ngoan hơn hôm qua”. Sự cởi mở giúp ta nhận ra sai lầm của mình cách tự nhiên và dễ dàng. Trong trường hợp không liên quan đến việc sửa lỗi, nhưng đến các góp ý của người khác về lời nói, cử chỉ, hành động hay thái độ của ta, thì ta có thể đón nhận chúng cách có phê phán. Ta có thể bỏ ý kiến của mình để theo ý kiến của người khác khi ta thấy rõ mình đã làm. Nhưng cả khi ta nghĩ là phải bảo vệ ý kiến cùa mình, ta cũng nên cởi mở để đón nhận ý kiến của người khác.

 

 2.Hãy Tha thứ cho nhau.

Tha thứ là bài học quan trọng mà Chúa Giêsu thường dạy cho các môn đệ của Ngài và cho mọi người. Có thể nói đó là một nét đặc trưng của Tin Mừng như Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em hãy tha thứ thì được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6,37).

Tha thứ là tìm kiếm một cái nhìn mới về các mối tương quan giữa anh em với nhau. Trong mối tương quan giữa anh em hằng ngày, chúng ta sẽ không tránh khỏi những va chạm và cãi vã, vì chúng ta là những con người mỏng dòn, yếu đuối, luôn luôn là kẻ có tội trước mặt Thiên Chúa trong lời nói, việc làm, cũng như trong ý nghĩ. Cho nên, chúng ta cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa.

Chúng ta tha thứ là để cho dòng suối tha thứ của Thiên Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận chảy tràn qua người anh em mình. Chúng ta tha thứ là dấu hiệu chúng ta đã lãnh nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa, đồng nghĩa với việc chúng ta tha thứ cho chính mình.

 

3.Chia sẻ cách chân tình và thiện chí.

Chia sẻ nghĩa là chúng ta chia sẻ những gì chúng ta có chúng ta biết, chúng ta nhận với một tẩm lòng chân thành cởi mở. Chúng ta không chỉ chia sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc, mà còn can đảm để chia sẻ những nỗi đau và cả những vấp ngã trong cuộc sống (x.Rm 12,15). Chia sẻ cho nhau sẽ tạo ra một môi tương quan để thấu hiểu người anh em của mình: Tôi hiểu anh và anh cũng hiểu tôi, vì vậy, tôi và anh có thể sống chung với nhau.

Những cuộc gặp gỡ với mối tình huynh đệ là cơ hội để trao cho nhau những chia sẻ chân thực. Chúng ta chia sẻ với nhau về bất kỳ vấn đề gì trong cuộc sống với một tấm lòng thẳng thắn và đầy yêu thương hầu tạo nên sự cảm thông. Một khi chân thành và thẳng thắn như thế thì không hề có dối trá, là yếu tố tạo nên sự chia rẽ trong đời sống cộng đoàn.

Những buổi họp cộng đoàn cũng là nơi tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta chia sẻ cùng anh em, để cùng nhau xây dựng đời sống cộng đoàn ngày càng thăng tiến và giúp nhau trung thành với ơn gọi hơn. Trong đời sống hằng ngày, những giờ câu nguyện, làm việc, thư giãn, bữa ăn, cũng như mọi sinh hoạt khác, sẽ giúp chúng ta siết chặt hơn mối tương quan huynh đệ trong đời sống cộng đoàn.

 

4.Nâng đỡ nhau trong tình huynh đệ.

Đan viện được hình thành từ những con người khác biệt, nhưng là một cộng đoàn huynh đệ, trong đó mọi người nhìn nhận và đối xử với nhau như anh em. Cuộc sông huynh đệ dầu có nhiều thử thách mà vẫn tràn ngập Sự nâng đỡ của tình bác ái huynh đệ, như cây trên ngàn che chở nhau trong lúc gió bão.

Chúng ta tuy có nhiều khác biệt, nhưng cũng không thiếu những tương đồng. Điều đó là cần thiết, tạo nên sự phong phú cho cộng đoàn như Paul Gérandy đã nói: “Cần giống nhau một chút để hiểu nhau, nhưng cần khác nhau một chút để yêu nhau”

Đan sĩ là người hạnh phúc, bởi vì họ ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn. Trong đời thường ai cũng cảm thấy sung sướng khi đem tin vui đến cho kẻ khác, phương chi đó là tin vui về ơn tha thứ và tình thương của Thiên Chúa.

Đan sĩ cảm thấy hạnh phúc vì bên cạnh mình, chung quanh mình, đi trước và đi sau mình, có những anh chị em cùng chia sẻ, đồng hành và nâng đỡ mình trong cùng một lý tưởng. Đó là niềm vui của tình huynh đệ đan tu, như huấn thị “Về đời sống huynh đệ trong cộng đoàn” đã dạy: Cuối cùng, chúng ta không được quên rằng sự bình an và hoan lạc trong đời sống chung là những dấu chỉ của Nước Thiên Chúa, sống niềm vui cả giữa những khó khăn gặp phải trên hành trình thiêng liêng và nhân bản, và cả giữa những phiền muộn hằng ngày cũng đã là một phần của Nước Trời… đời sống cộng đoàn mà không có niềm vui là tình huynh đệ đang chết, sớm muộn các thành viên sẽ bị cám dỗ đi tìm sự bù trừ điều mà họ không thể tìm thấy trong cộng đoàn của mình. Một tình huynh đệ đầy niềm vui là ân huệ từ trên ban cho anh em, chị em, là những người biết cầu xin và biết chấp nhận nhau, phó thác cho đời sống huynh đệ, tin tưởng vào hành động của Chúa Thánh Thần, ứng với lời thánh vịnh: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau… Nơi đây ân huệ Chúa ban chính là sự sống chứa chan muôn đời” (Tv 132,1-3)[3].

 

 VI. KẾT LUẬN

Tình yêu của Đức Ki-tô đã quy tụ chúng ta nên một, để như Ngài, với Ngài và nhờ Ngài, trong Chúa Thánh Thần, theo thời gian, chúng ta có thể đáp lại tình yêu của Chúa Chạ bằng cách yêu mển Người “hết lòng, hết dạ và hết sức lực” (Đnl 6,5) và “yêu anh em như chính mình” (Mt 23,39). Được sinh ra không phải do ý muốn của xác thịt, không bởi sự hấp dẫn cá nhân, cũng không phải động lực con người, nhưng bởi Thiên Chúa (x.Ga 1,13). Thế mà cộng đoàn đan tu thực sự trở nên dấu chỉ sống động về sự tối thượng của tình yêu Thiên Chúa, Đấng đã làm nên những điều kỳ diệu về tình yêu đối với Thiên Chúa và với anh em mình, như đã được Đức Ki-tô biểu lộ và thực thi.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Tôi ước ao gửi đến mọi người, cả nhân cũng như các dân tộc, ước mong về một đời sống được đỗ đầy với niềm vui và hy vọng. Trong trái tim của mỗi người nam và người nữ luôn thường trực một nỗi khao khát vể một đời sống sung mãn, bao gồm khao khát không thể kìm nén được về tình huynh đệ, vốn là điều lôi kéo chúng ta đến với người khác, và giúp chủng ta đối xử với họ không như là kẻ thù hay người đối địch, nhưng như là anh chị em được đón nhận và ôm ấp”[4] .
Đó cũng là điều Thiên Chúa muốn nơi mỗi đan sĩ hôm nay: Hãy sống triệt để tình huynh đệ như là một dấu chỉ sống động, để mọi người có thể nhận ra mình là môn đệ đích thực của Đức Kitô, là khí cụ trao ban bình an, xây dựng sự hiệp thông huynh đệ giữa lòng Giáo Hôi và thế giới.
Nhờ Tình Yêu của Chúa Kitô mà đan sĩ đã chọn sống chung với nhau dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Tình yêu đã gắn kết chúng ta nên một với nhau, để làm nên sự thông phần và là chứng tá đặc biệt của Thiên Chúa… Vì thế, đan sĩ có bổn phận phải “theo đuổi những gì đem lại bình an và xây dựng cho nhau”(Rm 14,19), và làm triển nở tình yêu đó trong đời sống chứng nhân cho Đức Kitô.

 


 [1] Huấn thị “Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn”, số 8, Bộ đời sống thánh hiến và tu đoàn tông đồ

[2] SĐD, số 03

[3] Huấn thị của Bộ Tu sĩ về  đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, sổ 28.

[4] 32 ĐTC Phanxicô, Sứ Điệp ngày thế giới hoà bình, 2013.

 

 

 

 

 

 

 

 

TIẾN BƯỚC CÙNG GIÊSU

 M.Vinh Sơn (VP)

 

DẪN NHẬP
Chúng ta thường thấy hình ảnh của đứa trẻ trong những bước đi chập chững đầu đời, chúng vẫn luôn cần đến sự đồng hành nâng đỡ của người cha, người mẹ. Việc đồng hành ấy không những khởi đi từ những bước chân đầu tiên của đời người mà nó còn kéo dài cho đến lúc cha mẹ khuất bóng. Đối với đời sống thiêng liêng của người ki-tô hữu cũng thế, đặc biệt hon với người sống đời thánh hiến.
Thiên Chúa, qua Đức Giê-su Ki-tô vẫn mãi luôn đồng hành với mỗi người chúng ta trong suốt cuộc hành trình dương thế. Đó là sứ vụ tình yêu và cũng là lời hứa của chính Đức Giê-su Ki-tô sau khi sống lại là Ngài mãi ở với chúng ta cho đến ngày tận thế (x.Mt 28,20). Với Đức Ki- tô, Ngài không chỉ hiện diện nơi mỗi người chúng ta hôm nay qua các bí tích, Ngài vẫn cùng ta tiến bước mỗi ngày trong cuộc đời.
Người sống đời thánh hiến luôn ý thức có Chúa Ki-tô đồng hành hay nói khác đi là chúng ta được “Tiến Bước Cùng Giêsu”. Một khi được “Tiến Bước Cùng Giêsu”, phải chăng mỗi người chúng ta đều tự hỏi: ta tiến bước cùng Ngài hay Ngài đang cùng ta tiến bước? Và nếu đi với Ngài thì ta theo Ngài ở những điểm nào? Đức thánh cha Phanxicô nói: “Chúng ta đi theo Đức Giêsu trong việc gắn bó trọn vẹn với Tin mừng và trong việc phục vụ Giáo Hội… Nhờ đó, chúng ta thành những chứng nhân cho Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Chúa trước mặt thế giới”[1] . Trong năm đời sống thánh hiến này các tu sĩ nam nữ đặc biệt những đan sĩ sống đời chiêm tu đang được chính Đức Ki-tô mời gọi “đi vào trong mầu nhiệm mà Ngài dẫn chúng ta tới. Chúng ta mang Đức Giêsu đến với muôn dân, nhưng chúng ta phải để cho Người dẫn dắt. Đây là điều mà chúng ta phải trở thành: người dẫn đường được dẫn dăt” (xem Đức Thánh Cha Phanxicô- Bài giảng ngày lễ Dâng Chúa Giê-su vào đền thánh 2/2/2015).

 

I.CÙNG GIÊSU VÀO ĐỜI

Khi nói đến “vào đời”, ta liên tưởng đến một sự dấn thân và nhập cuộc trong cuộc sống cụ thể. Đó cũng là một lý tưởng, một ơn gọi. Đặc biệt, với người sống đời thánh hiến “vào đời” còn có nghĩa là noi gương Đức Giêsu qua việc “nhập thể” và “nhập thế”.

 

1.Đức Giêsu vào đời qua con đường nhập thể

Khi vào thế giới con người, Đức Giêsu Ngôi Lời nhập thể đã đi đến tận cùng để Lời của Thiên Chúa trở thành lời của con người. Ngôi Lời ấy chính là nhịp cầu, là gạch nối giữa đất với trời, là sự giao hòa trọn vẹn giữa trời và đất, giữa Tạo Hóa và thụ tạo. Nhờ công trình của Thánh Linh: “Đức Giêsu được sinh ra từ hôn lễ giữa hai tình yêu: tình yêu Thần Linh của Thiên Chúa và tình yêu thần linh của nhân loại”[2]. Do đó, Ngôi Lời đã trở thành xác phàm để cửu độ chúng ta (x.1Ga 4,10; 1Ga 4,14 và 1Ga 3,5). Nhưng đỉnh cao của tình yêu Nhập Thể cũng chính là hy tế Thập Giá (Ga 15,13). Nhờ hy tế ấy Chúa Giêsu làm cho Tình Yêu của Thiên Chúa trở thành tình yêu của con người. Và qua mầu nhiệm Nhập Thể này chúng ta nhận ra vinh quang của Thiên Chúa ẩn mình noi Đức Giêsu. Nên khi chiêm ngắm Mầu Nhiệm Nhập Thể, các giáo phụ đã phải thốt lên:“Vĩnh cửu trở thành thời gian, vô hạn trở thành hữu hạn, vô hình trở thành hữu hình, Đấng bất tử trở thành khả tử, cái lớn nhất trở nên nhỏ nhất để cho cái nhỏ nhất trở nên lớn nhất”. Do đó, Ngôi Lời đã trở thành xác phàm để cửu độ chúng ta (x.1Ga 4,10; 1Ga 4,14 và 1Ga 3,5). Nhưng đỉnh cao của tình yêu Nhập Thể cũng chính là hy tế Thập Giá (Ga 15,13). Nhờ hy tế ấy Chúa Giêsu làm cho Tình Yêu của Thiên Chúa trở thành tình yêu của con người. Và qua mầu nhiệm Nhập Thể này chúng ta nhận ra vinh quang của Thiên Chúa ẩn mình noi Đức Giêsu. Nên khi chiêm ngắm Mầu Nhiệm Nhập Thể, các giáo phụ đã phải thốt lên:“Vĩnh cửu trở thành thời gian, vô hạn trở thành hữu hạn, vô hình trở thành hữu hình, Đấng bất tử trở thành khả tử, cái lớn nhất trở nên nhỏ nhất để cho cái nhỏ nhất trở nên lớn nhất”[3]. Đó chính là con đường của tỉnh yêu cứu độ. Trước mẩu nhiệm ấy thánh Irênê đã nói “Thiên Chúa làm người để con người được làm chúa Thánh Phêrô cũng có cùng tư tưởng ấy khi nói: Ngôi Lời đã trở thành xác phàm để cho chúng ta được thông phần “bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Vậy lý do khiến Ngôi Lời Nhập Thể là để con người được hiệp thông và nhận lãnh tương quan làm Con Thiên Chúa. Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Đức Giêsu đã cảm nhận được những yếu đuối nơi bản tính nhân loại của chúng ta bởi Ngài đã “trải qua mọi cảm xúc vui buồn, hạnh phúc và đau khổ, đã sống những giờ phút cô đơn khi bị bỏ rơi, nhất là trong cuộc khố nạn và khi phải đổi diện với sự chết” (x.Dt 2,18) .  Ngài đã yêu mến chúng ta bằng một trái tim nhân loại vì Ngài rất hiểu và đồng cảm với những yếu đuối của chúng ta. Như vậy, chúng ta tự tin hơn để cùng Ngài nhập thể [4].

 

 2.Chúng ta “vào đời” vói Ngài để nhập thế

Muốn “vào đời” với Chúa Giêsu chúng ta phải sẵn sàng nhập cuộc với Ngài, tức là trở nên đồng hình đông dạng với Ngài. Vì, “càng để cho mình nên đồng hinh đồng dạng với Chúa, người tận hiến càng làm cho Ngài hiện diện và hành động trong thế giới để cứu độ nhân loại”[5] . Một khi người tu sĩ đã trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, họ dễ dàng cảm thông, sẻ chia với những hy vọng và khổ đau của nhân loại theo lời mời gọi của Công Đồng Vaticanô II: “ Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay… cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô… Họ phải cảm thấy thực sự liên hệ mật thiết với loài người và lịch sử nhân loại”[6] .
Nhưng trước khi nói đến nhân loại rộng lớn ta hãy nói về “nhân loại thu nhỏ” nơi cộng đoàn chúng ta. Làm sao đan sĩ phải để cho Chúa Giêsu hiện diện bằng sự năng động của thế hệ trẻ, và sự hiện diện âm thầm của thế hệ già. Ngay cả khi đan sĩ sống trong sự cô đơn, bệnh tật và đau khổ nhất, họ vẫn cảm nhận mình được tham dự trong: “Giáo Hội yêu thương” nhờ sự liên kết và bổ khuyết nơi cuộc khổ nạn của Chúa Kitô họ được góp những phần hy sinh nhỏ bé của mình để xây dựng Cộng Đoàn trong tình huynh đệ chân thành, trong sự bác ái yêu thương. Và đó chính là hồng ân quý giá của đời dâng hiến đối với Giáo Hội và thế giới[7]

 Tuy nhiên “thử thách lớn nhất của đời sống dâng hiến hôm nay là sự tục hoá đã len lỏi vào bên trong các cộng đoàn. Do đó họ cần phải trở về với Nguồn của Đặc Sủng thành lập và với những giá trị Tin Mừng. Phải trả lại vị trí trung tâm của đời sống thánh hiến qua: đời sống cầu nguyện, đời sống huynh đệ, các lời khấn. Nhờ sự tái khám phá lại những giá trị căn bản này mà đời sống tu trì có một đà vươn lên mới”[8] . Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã kêu gọi: “Các con không những phải nhớ và kể lại một lịch sử huy hoàng, mà còn phải kiến tạo một lịch sử vĩ đại nữa. Hãy hướng về tương lai, tới chỗ mà Thánh Thần đang sai các con đi để làm những việc trọng đại. Các con hãy biến cuộc đời các con thành cuộc trông đợi Chúa Kitô cách sốt sắng… Hãy trung thành với Chúa Kitô, với Giáo Hội, với Tu hội của mình và với con người thời đại này. Nhờ thế… các con sẽ được Chúa Kitô đổi mới, nhờ Thảnh Thần trợ giúp, các con sẽ kiến tạo những cộng đoàn huynh đệ, …và góp phần vào sự biến hình của thế giới…”.
Và khi mở ra với thế giới, người tu sĩ đã được củng cố đời sống cộng đoàn vững chắc để khi hoà đồng với mọi người họ không bị hoà tan, dấn thân nhưng không bị tha hóa. Qua việc hội nhập, đồng hành và chia sẻ với con người, người tu sĩ giúp mình tìm được giá trị đích thực để khám phá ra niềm vui trong cuộc sống. Nhất là nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi những con người đau khổ, nhận ra tiếng nói của Người qua lời cầu cứu vang lên từ thế giới nghèo đói, từ những người lầm lỗi, từ các bệnh nhân… và mỗi khi người tu sĩ “phản chiếu” ánh sáng của Tình thương và Tin Mừng cho những bóng đêm tội lỗi và thất vọng là lúc người tu sĩ đang đưa họ đến với Ánh Sáng Chúa Kitô.
Riêng đan sĩ không “nhập thế’’ bằng những bước chân rong ruổi trên cánh đồng truyền giáo, nhưng qua đời sống thầm lặng, qua những “cuộc tử đạo trắng” hằng ngày đan sĩ cũng đang cùng Đức Ki-tô nhập thế để chính nhờ sức mạnh của lời câu nguyện và những hy sinh âm thầm này mà Chúa làm cho tâm hồn những người lầm lạc được rộng mở để đón nhận “ân huệ biến đổi họ thành tạo vật mới”[9] . Nhờ đó “Một thiên niên kỷ mới sẽ được mở ra cho họ dưới ánh sáng của Chúa Kitô…”. Đó cũng là sứ vụ của người môn đệ Chúa Ki-tô là hiến thân phục vụ như Thầy.

II.CÙNG GIÊSU PHỤC VỤ                                        

1.Gương phục vụ của Đức Gêsu (Ga 13,15)

 Trong suốt cuộc đời tại thế, từ khi nhập thể đến lúc Đức Giêsu bước lên đồi thập giá là một sự “rửa chân ”, phục vụ con người. Đó là một cuộc đòi được hiến ban cho người khác, sống vì hạnh phúc của người khác. Một cuộc đời trở thành “tấm bánh bẻ ra cho thế giới”. Chính Ngài đã khẳng định: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhung là để phục vụ… ” Nhưng có lẽ việc phục vụ được cụ thể nhất và trở thành phương châm cho sử vụ của người môn đệ là biến cố “rửa chân”. Vì rửa chân là cách “thâu tóm tất cả ý nghĩa cuộc đời của Chúa”. Khi dạy chúng ta “hãy làm như Thầy đã làm” Đức Giêsu đã coi sự phục vụ như một luật nền tảng, một lối sống, một gương mẫu cho mọi mối tương giao trong Giáo Hội và xã hội[10]. Và Ngài đã đi đến tận cùng các đòi hỏi của tình yêu thúc đẩy Ngài phục vụ bằng cách hiến dâng cả mạng sống mình để cứu chuộc các tội nhân (x.1Ga 3,16). Vì vậy, chúng ta cũng phải học để biết phục vụ tha nhân theo gương Thầy.

 

 2.Phục vụ theo gương Đức Giêsu

Khi nói đến “phục vụ” có người hỏi: “phục vụ theo gương Chúa là phục vụ như thế nào ”? Đoạn Lc 22,27 trả lời cho chúng ta thật rố ràng “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ”. Mà người “phục vụ ” là người “giúp việc ”, một người rất khiêm tốn luôn âm thầm làm theo lệnh của chủ. Chúa Giêsu làm công việc này bởi vì tình yêu thúc đẩy Ngài (x.Ga 13,1). Nó là cách diễn tả đẹp nhất của điều răn mới “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em”. Qua đó Chúa muốn dạy chúng ta cách để phục vụ anh chị em mình. Mà cách Thầy ‘’phục vụ ” được phát xuất từ chính tình yêu chân thành và việc làm cụ thể chứ không chỉ nói nơi đầu môi (x.lGa 3,18). Thánh Phaolô tiếp nối “sự nghiệp” của Thầy nên cách ông phục vụ cũng phảng phất tâm tình của Thầy khi nói phục vụ là biểu lộ tình yêu không ích kỷ, không tìm tư lợi cho mình nhưng tìm lợi ích cho người khác, không tìm kiếm mình, nhưng là hiến mình (x.lCr 13,5). Cho nên ngài mời gọi người môn đệ khi phục vụ tha nhân “Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô”.
Bởi vậy, khác với sự phục vụ của người đời, phuc vụ theo Tin Mừng là ngưới làm đầu, làm thủ lãnh, phải là người phục vụ (x.Lc 22,26; x.Mc 10,44). Tức là gắn liền cuộc sống của mình với việc theo đuổi và chung chia con đường phục vụ và hiến dâng của Chúa Giêsu: “Ai muốn làm đầu thì phải làm người đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ…” (Mt 20,27-28). Ý thức được vai trò làm đầu của mình là người phục vụ Chúa và Giáo Hội nên khởi đầu triều giáo hoàng của mình Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã xác tín điều đó: “Khi chúng ta tiến bước mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Đức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ cùa Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám mục, Linh mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa. Tôi ao ước rằng tất cả chúng ta, sau những ngày ân sủng này, có được can đảm, can đảm để tiến bước trước thiên nhan Chúa, với Thánh Giá của Chúa, để xây dựng Hội thảnh trên Máu Thánh Chúa được đổ ra trên Thánh Giá, và để tuyên xưng một vinh quang duy nhất là Đức Kitô chịu đóng đinh. Bằng cách này, Hội thánh sẽ tiến lên ”[11] . Đó là điều mà Chúa Giêsu mong những môn đệ của mình khi phục vụ tha nhân, không tìm vinh quang cho mình nhưng tìm hạnh phúc cho người khác.

 

 3.Không tìm vinh quang cho mình.

Không tìm vinh quang cho minh khi thi hành sứ mệnh tông đồ đó quả thực là một lý tưởng cao đẹp. Tuy nhiên, dọc dài trên con đường phục vụ và hiến dâng, chúng ta – những người môn đệ của Chúa Ki-tô cũng không tránh khỏi những cám dỗ muốn được người khác ca ngợi và biết đến. Bởi vì ai cũng muốn người khác nhận ra tài năng và sự cống hiến của bản thân mình. Chính danh vọng và quyền bính là một cám dỗ tinh vi ẩn núp sau những công việc mà người ta gọi là phục vụ, nhưng đó lại là cám dỗ đi ngược lại tính nhưng không của tình yêu và tinh thần phục vụ của Thiên Chúa – một Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi hiến ban Con Một của Người để cứu độ trần gian (x.Ga 3,16-17), một Thiên Chúa đã cho thế gian thấy “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sổng mình cho kẻ mình yêu ”(Ga 15,13)[12] .
Thật vậy, “phục vụ ” tự thân nó là tốt. Đây là điều kiện để giúp nhau trong các môi tương quan giữa người với người. Nhưng ngày nay “phục vụ ” dường như đã bị lạm dụng và được đưa vào nhiều lãnh vực chẳng hạn trong kinh doanh khi họ gọi “khách hàng là thượng đế” điều đó muốn diễn tả họ trân trọng khách hàng như chính thượng đê, nhưng thực ra họ trân trọng cái “ví tiền” của khách. Phục vụ cũng có thể đưa vào để tìm tiếng khen khi “họ muốn cho người khác thấy là mình đang phục vụ, đang làm ơn cho họ và mong được người khác ca ngợi mình: bạn làm tốt quá, sơ làm thật hay, không có sơ thì chúng con chẳng biết làm sao…dù những từ đó xem ra quen thuộc nhưng nếu họ quên không nói lời ‘cảm ơn’ thì ta cũng thấy buồn”, trong khi Chúa lại dạy chúng ta khi làm việc gì cho ai thì “đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,3). Ngoài ra người ta cũng có thể lợi dụng việc “phục vụ” để được đứng trên cao, để điều khiển người khác phải làm theo ý mình. Chẳng hạn: một người làm công tác tông đồ, cho rằng việc mình làm là hay, phương pháp mình đưa ra là tốt, nên chẳng cần bàn hỏi với ai, cứ thế bắt người khác làm theo phương án của mình, dù biết rõ những người này không đồng tình với mình. Cho nên điều mình làm tuy là tốt nhưng cung cách của mình vô tình đã bắt người khác phải phục vụ và làm theo ý mình, chứ không phải mình phục vụ người khác. Điều đó cho thấy việc phục vụ của ta đang nằm dưới lớp tham vọng thống trị mà ta không biết[13].

Là đan sĩ chúng ta được chia sẻ đời sống của Đức Ki- tô một cách thân mật và là sự hiện diện nối dài của Ngài trong thế giới qua đời sống lao động và cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện và lao động là cách phục vụ tốt nhất khi ta nối kết đời sống chúng ta với chiều cao là Thiên Chúa mỗi khi chúng ta cầu nguyện, và nối dài đời sống với tha nhân bằng chiều ngang khi lao tác. Như vậy, việc phục vụ Chúa và Giáo Hội của Đan sĩ chính là cuộc sống thầm lặng, với những công việc bình thường không ai biết đến ngoài một mình Thiên Chúa, mỗi người làm những công việc khác nhau tùy theo khả năng, sức khỏe riêng và nhu cầu cùa Cộng Đoàn. Nhưng nhìn chung mọi người đều trân trọng những chị em suốt đời lãnh công tác thầm lặng thay cho chúng ta bởi vì trong cộng đoàn không có những người chị em hy sinh làm những công việc đó thì cộng đoàn sẽ khó mà ổn định, trật tự và thăng tiến cả về tinh thần lẫn vật chất.
Tuy nhiên phảng phất đâu đó cũng còn những “mỏ than” “Tại sao làm việc hết mình cho Cộng Đoàn mà chẳng được Bề Trên quan tâm, không được chị em nhìn nhận, không thấy những cố gắng của mình”. Do đó họ trở nên bất mãn, trách Bề Trên không biết dùng người, không trân trọng tài năng của người khác… nhưng thường những “thở than” ấy chỉ biết “than” mà ít khi nhìn lại cung cách phục vụ của mình xem mình phục vụ Cộng Đoàn và chị em với tinh thần nào? Có khiêm tốn? Có làm theo ý Cộng Đoàn? Nếu phục vụ mà thiếu khiêm tốn, luôn làm theo sở thích của mình, độc đoán… thì cho dù công việc của mình có thành công rực rỡ đến đâu cũng thất bại vì không nhận được sự ủng hộ và trợ giúp của chị em. Vậy khi Chúa mời gọi hãy học tinh thần phục vụ của Chúa nghĩa là hãy làm những việc nhỏ bé với tinh thần khiêm tốn và vâng phục, không phô trương, không tìm tiếng khen. Và khi phục vụ như thế, đan sĩ đang bắt đầu hiến tế con người mình cho Chúa và tha nhân.

 

 

 III.CÙNG GIÊSU HIẾN TẾ

1.Chúa Giêsu – tình yêu hiến tế

Chúa Giêsu Kitô là tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, nơi Người chính Thiên Chúa đã hiến mình cho trần gian và từ đó dòng suối cứu độ cứ trào tràn luôn mãi qua mọi thời đại. Như thế, Thiên Chúa ở trong Chúa Giêsu Ki-tô và Ngài ở trong Thiên Chúa và chính Ngài là Thiên Chúa. Đặc biệt qua dòng “Máu cùng Nước ” chảy ra từ Thánh Tâm, Ngài đã hiến tế trọn vẹn đời mình, hiến tế đến cùng, trao ban đến giọt máu cuối cùng. Chúa đã chấp nhận hiến tế “vì loài người chúng ta và đế cứu độ chúng ta”. Do đó, bí tích Cứu Độ từ hiến tế vô giá ấy,không ngừng mang lại sự sống cho nhân loại nhờ chính Thân Mình Đấng tự hiến[14] . Có thể nói, khi vâng lời Cha đến trần gian này Chúa Giêsu luôn ý thức sứ mệnh của mình là Đấng cứu độ trần gian. Cho nên ngay từ bé Ngài đã ý thức “Con phải có bổn phận với Nhà Cha con”. Chính vì vậy, tất cả cuộc đời của Ngài là một cuộc hiến tế: Ngài hiến tế địa vị của mình (P1 2,5-11), hiến tế lời nói “luôn nhân danh Cha, không tự mình nói gì”, hiến tế những hành động “Cha tôi làm việc tôi cũng làm việc” và cuối cùng Ngài hiến tế chính con người của Ngài “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì các con” (Lc 22, 20). Cho nên thánh giá trên đồi tử nạn chỉ là chặng cuối, là cao trào của cuộc hiến tế mà Chúa đã ấp ủ và thi hành trong suốt cuộc sống của Ngài. Nhiều lần Ngài nói rõ về sự tự hiến ấy “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác ’’ (Ga 12,24), hay là “Khi Thầy chịu treo lên khỏi mặt đất, Thầy sẽ kéo mọi người lên với Thầy” (Ga 12,32). Ngài ước ao cho việc hiến tế ấy được thực hiện nên Ngài gọi cuộc khổ nạn của mình là giờ vinh quang “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh ” (Ga 12,23). Là những người theo sát Đức Kitô, chúng ta cũng được mời gọi hiến tế với Ngài bằng chính cuộc sống hy hiến của mình.

 

2. Đời sống của những người Thánh Hiến là một hiến tế

Khi bước theo Đức Giêsu trên con đường phục vụ cho Tin Mừng là chúng ta đang cùng Ngài bước vào một cuộc Tình phiêu lưu. Thật vậy, khi quyết đi theo Ngài trên hành trình hiến dâng, chẳng ai biết trước số phận tương lai của mình sẽ ra sao. Nhưng ai cũng đi theo Ngài trong niềm tin yêu và phó thác. Chính vì thế, bất cứ ai dám từ bỏ tất cả mọi sự vì Chúa và vì Tin Mừng thì đó là của lễ, là hiến tế đẹp nhất. Cho nên khi sai các môn đệ đi sử vụ Chúa Giêsu căn dặn: “Không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo ” (Mc 6, 8-9). Đó cũng là điều Chúa muốn người môn đệ phải hoàn toàn tin tưởng, phó thác vào Chúa. Chính sự nghèo khó giúp người môn đệ ý thức sự thiếu thốn của mình để biết trông cậy nơi Chúa và dễ cảm thông với người nghèo. Vì thế, sống nghèo để chỉ chọn một mình Chúa làm gia nghiệp duy nhất của đời mình, khi đã chọn Chúa làm gia nghiệp thì từ suy nghĩ, từ hành động và từng giây phút sống, từng mối tương quan, từng sự liên đới…người môn đệ luôn đong đầy lửa tình yêu nơi Chúa. Nhờ đó họ trở nên người anh em giữa mọi anh em để cùng sớt chia, cùng vui với cái vui và cùng đau với cái đau của họ. Và đó là hiến tế trọn vẹn, hiến tế đén cùng cho Chúa và cho anh chị em như Chúa Giêsu đã hiến tế cả cuộc đời và mạng sổng của mình vì chúng ta.
Với Đan sĩ, Chúa Giêsu cũng đang mời gọi họ tham dự vào hy tế thập giá của Ngài bằng cách chấp nhận vác thập giá với Chúa Giêsu qua những việc bổn phận hằng ngày, qua những việc từ bỏ hưởng thụ, từ bỏ những tiện nghi vất chất…Họ ý thức rằng mỗi lần họ “tử đạo’’ một lời nói, một sở thích, một ước muốn xấu là họ đang được hiến tế cùng với Chúa Ki-tô trên bàn thờ thập giá. Cho nên, cả cuộc đời của họ là một hiến lễ mà họ vẫn dâng mỗi ngày trên bàn thờ cuộc đời. Như thế, dù là linh mục hay tu sĩ, bất cứ ai bước theo Đức Ki-tô thì cũng hy hiến như Ngài trên con đường “tự hủy”, cho đến khi không còn gì và hủy mình ra không (x.Pl 2,7-8). Đối với đan sĩ, càng lớn lên là càng hạ mình xuống để phục vụ. Đó là hành trình phục vụ như Chúa Giêsu, Đấng “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa” (P1 2,6). Hạ mình trở thành người tôi tớ để phục vụ và hiến mình cho anh chị em mình.

 

THAY LỜI KẾT

Như vậy, bước theo Đức Giêsu, đặc biệt trong năm đòi sống thánh hiến này còn là việc tái canh tân và đổi mới đời sống của người tu sĩ nói chung và của đan sĩ nói riêng trong bối cảnh xã hội hôm nay. Đức Giêsu – Đấng đã đến với chúng ta để chúng ta có thể bước đi với Ngài, chính Ngài đã đi trên con đường của chúng ta, và Ngài đã dẫn chúng ta đi trên con đường mới, một “con đường sống động” (x.Dt, 10,20) con đường ấy chính là Đức Ki-tô. Qua đó, Ngài mượn đôi chân của ta để đến với tha nhân, mượn đôi môi của ta để công bố sứ điệp của Ngài, mượn đôi tay của ta để phân phát ơn lành của Thiên Chúa. Nhưng mỗi người chúng ta phải: giữ cho đời dâng hiến của mình không rơi vào kiểu giác ngộ và thoát tục như một người ngộ đạo, một kiểu tu trì đã kéo đời dâng hiến xuống như một bức tranh biếm họa trong đó, họ bước đi mà không từ bỏ, cầu nguyện mà không gặp gỡ, song một tình huynh đệ không có sự hiệp thông, vâng phục mà không tin tưởng, sổng đức ái mà không hướng về siêu nhiên…” [15]. Nhưng bước theo Chúa ở đây là bước đi trên con đường tự hạ, con đường phục vụ và hiến tế với tất cả niềm vui của đời dâng hiến. Nhờ đó ta có thể thưa lên với Chúa:
Lạy Chúa! Bước theo Chúa là một hành trình tuyệt đẹp! trên hành trình ấy, Chúa dạy con khám phá thật nhiều điều, khám phá ra chính mình với đầy những yếu đuối và bất toàn, khám phá ra tình yêu của Chúa luôn vô biên và vô điều kiện, khám phá ra tình liên đới giữa mọi con người không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ…
Bước theo Chúa là một cuộc ra đi liên lỉ trong cái yếu hèn nhỏ nhoi của bản thân, cả khi trong ta còn nhiều vướng bận và đam mê còn nhiều những lầm lạc và mộng tưởng. Ra đi là cung cách sống liên lỉ, bởi khi dừng lại ta sẽ có nguy cơ thu gom tất cả những gì vốn không thuộc về mình.

 Bước theo Chúa vốn không thiếu những cam go thử thách nhưng đa số thử thách lại đến từ trong chính bản thân, khi ta cứ còn mãi kiếm tìm những điều ngoài Chúa, để cho sự dễ dãi thắng vượt những quyết tâm. Khi ta vô tình hay cố ý buông bỏ những giới hạn chấp nhận kiểu sống không phù hợp với bậc sống tu trì.
Bước theo Chúa là một cuộc gặp gỡ giữa những con người chung niêm tin và chí hướng chung niêm trông cậy và ước muốn dấn thân, giữa những con người đang sống kiếp nhân sinh đang cần một bàn tay biết trao ban bình an và hy vọng, nhờ cuộc gặp gỡ mật thiêt với Chúa Đấng là nguồn mạch mọi sự bình an và thiện hảo.
Lạy Chúa, theo Chúa quả là một hành trình tuyệt đẹp! Xin cho con mãi trung thành và mãi bước đi. Xin cũng gởi đến nhiều bạn trẻ can đảm cùng nhịp bước và song hành với con [16] .
Và đó là hành trình mà đan sĩ Xitô đang tiến bước cùng với Đức Giêsu trong đời hiến dâng hôm nay.

 


 

[1] Tông thư đời sống thánh hiến – Đức Thánh Cha Phanxico

[2] ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc – Suy tư về mầu nhiệm nhận thể theo lượt đồ thần học của Cha Chalcédonie

[3] Ibid

[4] Vũ Quang Trung – Mầu nhiệm nhập thể: giáo lý sơ lược

[5] Tông huấn đời sống thánh hiến, số 72.

[6]X. Đại hội tu sĩ toàn quốc Lần thứ IV – Giáo cảm phục và biết ơn những người sống thánh hiến

[7] X.Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI – Ngày thế giới Cầu nguyện cho Bệnh nhận năm 2010

[8] Xuất phát lại từ Đức Kitô

[9] Tông huấn đời sống thánh hiến, số 72.

[10] Micae Trần Đình Quảng – Phục vụ theo gương Đức Giêsu

[11] Bài giảng thánh lễ đầu tiên của ĐGH Phanxicô, ngày 15.3.2013.

[12] Phêrô Phạm Ngọc Hoa – Tinh thần phục vụ

[13] Lm Micae Trần Đình Quảng – Phục vụ theo gương Chúa Giêsu

[14] Jb Nguyễn Minh Hùng – Đời sống của linh mục là một hiến tế.

[15] ĐTC Phanxico – Dâng Chúa Giêsu trong đền thờ, chuyển dịch từ bản Ý ngữ: Phêrô Nguyễn Thành Nam,SJ

[16] Lm: Josep. Cao Gia An ,SJ

 

 

 

 

 

 

ĐƯỢC THÁNH HIẾN SAI ĐI

 

Leo Chiến (PS)

Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết này, bản thân không có tham vọng trình bày cách chi tiết và đầy đủ về sự thánh thiện và sứ vụ của Giáo Hội, được diễn tả nơi đời sống thánh hiến trong lòng thế giới hôm nay. Vì thế, xin được mạn phép bàn đên một vài nét chấm phá về những người sống đời thánh hiến và sứ vụ. Họ đươc Đức Ki-tô qua Giáo Hội sai đi, nhưng bản chất của người môn đệ Đức Ki-tô là muối và là ánh sáng cho trần gian. Họ là người thuộc về Chúa qua việc tuân giữ ba lời khuyên Phúc Âm, nhờ đó họ được toàn tâm toàn ý phục vụ cho Tin Mừng. Đây là một ân huệ Chúa ban cho con người: “Đời sống Thánh hiến qua việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm, là một lối sống bền vững, nhờ đó, các tín hữu theo sát Đức Ki-tô hơn, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa mà họ yêu mến trên hết mọi sự, để một khi đã hiến thân cho việc tôn vinh Thiên Chúa, cho việc xây dựng Giáo Hội và cho phần rỗi thế giới, với một danh nghĩa mới mẻ và đặc biệt… họ trở nên dấu chỉ rực rỡ trong Giáo Hội, họ tiên báo vinh quang thiên quốc” (GL 573 §1).

1) Được thánh hiến nghĩa là gì?

Như chúng ta biết, trong bất cứ tổ chức xã hội cũng như trong bất cứ lĩnh vực chuyên môn nào, người cũng cần phải tuyển chọn những ứng viên phù hợp để đào tạo theo “chuyên môn – chuyên ngành”. Có như vậy những ứng viên đó mới đủ năng lực, toàn tâm toàn ý phục vụ cho sự nghiệp phát triển chung. Vậy được thánh hiến cũng có nghĩa là: được tuyển chọn và thuộc về Thiên Chúa, để được Ngài trao cho một sứ vụ đặc biệt. Trong cuốn Điển Ngữ Đức Tin Công Giáo, thuật ngữ “thánh hiến” có nghĩa: “Đó là nghi thức phụng vụ do Chúa Giêsu hay Giáo hội thiết lập, do đó, một người hay một vật được dâng hiến tuyệt đối cho Thiên Chúa. Người và vật được cung hiến, được dâng cho Chúa và Người đổ ơn Thánh Thần xuống để thánh hiến. Thánh Tôma coi việc Thánh hiến là dấu chỉ thực hiện dành riêng cho Thiên Chúa, đồng thời trở nên dụng cụ thánh hóa và cứu rỗi’’ (Lm Hồng Phúc, Điển ngữ đức tin Công giáo, 516). Ở đây chúng ta cần phân biệt, được thánh hiến theo nghĩa phổ quát và đặc thù. Hẳn đã rõ, khi lãnh nhận bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta đã được thánh hóa để “trở nên thụ tạo mới ” trong Đức Giê-su Ki-tô, đồng thời được mời gọi tham dự vào chức năng: Tư tế, Tiên tri, Vương đế của Người. Vậy đâu là sự khác biệt, giữa người được thánh hiến trong ơn gọi phổ quát và người được thánh hiến trong ơn gọi đặc thù? Thưa có sự khác nhau về bản chất và mục đích. Trong Tông Huấn “Đời sống Thánh Hiến“, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao II nhấn mạnh: “Nhờ việc khấn giữ các lời khuyên phúc âm, những đức tính đặc biệt của Chúa Giê-su: khiết tịnh – khó nghèo- vâng phục. Trở nên hữu hình ngay giữa thế gian cách mẫu mực, trường kỳ và ngoan ngoãn vâng theo tiếng gọi của Chúa Cha và sự thúc giục của Chúa Thánh Thần, đã chọn con đường đặc biệt “bước theo Chúa Kitô để theo sát Ngài hơn, hiến thân cho Thiên Chúa với rnột con tim không chia sẻ” (x.1Cor 7,34). Ở đây, chúng tôi cần để ý tới những lời được nhấn mạnh trong Tông huấn: “theo sát Đức Ki-tô hơn ” và “hiến thân với một con tim không chia sẻ ” vói việc “giữ các lời khuyên phúc âm“. Đó là những người “được thánh hiến và sai đi”, để làm chứng cho sự hiện diện của Chúa trong một thế giới đang ngày càng bị tục hóa.

 

2) Được thánh hiến — sai đi trong Cựu Ước

Lịch sử cửu độ được đan xen vào trong lịch sử của dân tộc Israel. Thiên Chúa đã chọn dân Israel giữa các dân tộc khác, để trở thành dân riêng của Ngài. Dân được thánh hiến, để thực hiện chương trình cứu độ muôn dân: “Vì ngươi là một dân được hiến thánh, Đức Chúa, Thiên Chúa đã chọn ngươi, để ngươi sống tách biệt với các dân khác sống trên mặt đất này” (Đnl 7, 6-7). Vì là dân được tuyển chọn để thuộc về Thiên Chúa, nên họ phải sống gương mẫu, đạo đức, thánh thiện hơn những dân tộc xung quanh: “các ngươi phải nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh ” (Lv 11,44-45; 19,2; 20,7-8). Dân Israel đã bất trung với Thiên Chúa, không thực thi đường lối huấn lệnh Chúa truyền. Cho nên, Chúa đã tuyển chọn và thánh hiến một số người được coi là mẫu mực trong dân, để lãnh đạo và đồng thời làm trung gian giữa Thiên Chúa với dân của Người. Đó là các Thủ lãnh và các Ngôn sứ. Các ngài có sứ vụ truyền đạt huấn lệnh của Chúa cho dân; hướng dẫn nhắc nhở, cảnh báo, động viên khích lệ dân trung thành “tuân theo đường lối, Thánh chỉ của Chúa, và đặc biệt là, không được thờ thần dân ngoại – để xứng đáng là dân được hiến thánh và được tuyển chọn ” Những vị đó là ai? Thưa, đó là những gương mặt tiêu biểu được Thiên Chúa “tuyển chọn và sai đi” trong Cựu Ước- Abraham (x.St 12), Môisê (x.Xh 3,1 – 4,17), Đavid (x.1Sm 16), các ngôn sứ (x.Is 6; 42,1-7; Gr 1,5). Thế nhưng, lịch sử cứu độ không chỉ đóng khung trong Cựu Ước. Nói cách khác, lịch sử cứu độ khởi đầu trong Cựu Ước và hoàn tất nơi Tân Ước.

 

3.Được thánh hiến – sai đi trong Tân Ước

Nếu như trong Cựu Ước, Israel được Thiên Chúa tuyển chọn từ giữa các dân khác, để thuộc riêng về Ngài thì Giáo Hội cũng là một Israel mới, được tuyển chọn giữa lòng nhân loại, để trở thành dân riêng, một dân được hiến thánh và được cứu chuộc. Dân Thánh này có sứ mạng chuyển giao ơn Cứu Độ cho muôn dân, qua mọi thời đại cho đến ngày Chúa trở lại. Nếu như Giáo Hội là dân thánh, là thân thể mầu nhiệm của Đức Giê-su Ki-tô, thì Đấng là Đầu của thân thể này phải là Đấng Thánh, đồng thời cũng là Đấng được hiến thánh.
Để chương trình cứu chuộc được tiếp tục, trước khi trở về cùng Cha, Ngài cũng đã xin Cha thánh hiến những người mà Ngài đã tuyển chọn, và sai họ đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ: “Như Cha đã sai Con đến thế gian. Vì họ, Con xin thánh hiến chính mình Con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,17-19). Những người này được thánh hiến, nghĩa là được tách ra khỏi thế gian, để không thuộc về thế gian; nhưng đồng thời lại được Chúa sai đi vào trong thế gian, để thực thi sứ vụ cao cả của mình, ngõ hầu thánh hóa và biến đổi thế gian: “Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con đây, không thuộc về thế gian ’’ (Ga 17,16). Ở đây Chúa muốn minh định: những người được thánh hiến để thực thi sứ mạng, thì không thuộc về thế gian, không thỏa hiệp với thế gian, nhưng vẫn ở trong thế gian, nơi họ được sai đến. Vì thế, để chu toàn sứ vụ, người “được thánh hiến ” phải liên kết nên một với Đấng là nguồn mạch sự thánh hiến. Do đó, Đức Giê-su đã xin Cha gìn giữ các môn đệ Ngài: “Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ còn ở trong thế gian. Lạy Cha Chí Thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong Danh Cha, mà Cha đã ban cho Con, để họ nên một như Chúng Ta” (Ga 17,11). Vậy các môn đệ này là những ai? Thưa họ thuộc “Nhóm 12”, những người đầu tiên được Chúa tuyển chọn và mời gọi cộng tác với Ngài trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng (Chúa gọi ông Matthiêu: Mt 9,9; Mc 2,13-14; Lc 5,27-28 – Chúa gọi 4 môn đệ đầu tiên (x.Mt 4,18-22; Mc 1,16-20; Lc 5,1-11). Trước khi về cùng Cha, Người đã chính thức sai các ông đi, với lệnh truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân Danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thày đã truyền cho anh em ” (Mt 28,19-20). Như thế, các môn đệ là những người được thánh hiến, được tuyển chọn để được sai đi dựng xây Nước Trời, để loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, những người được thánh hiến, để trở nên những ngư phủ “lưới người như lưới cả”;trở nên những thợ gặt lành nghề trên đồng lúa chín vàng. Đến đây chúng ta có thể dừng lại để đặt câu hỏi: Được thánh hiến – sai đi, phải chăng chỉ thích hợp cho các dòng tu hoạt động? Còn chúng ta, những đan sĩ chiêm niệm thì sao?

4) Đan sĩ được thánh hiến — sai đi

Được thánh hiến – sai đi được hiểu cho tất cả các đan sĩ sống ơn gọi Chiêm niệm. Vì, được thánh hiến – sai đi là để loan báo Tin Mừng. Thế mà, loan báo Tin Mừng không chỉ dừng lại ở việc thuyết giảng hoạt động bên ngoài môi trường xã hội, trong lĩnh vực phục vụ bác ái nhưng còn làm chứng bằng đời sống. Nói như thế để thấy rằng: Đan sĩ không phải là những người thụ động trong công cuộc loan báo Tin Mừng; trái lại họ loan báo Tin Mừng bằng chứng tá của cuộc sống âm thầm, phục vụ trong ơn gọi của mình, như nắm men trong thúng bột. Các đan sĩ đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử truyền giáo ở Châu Âu; nói đến Châu Âu là người ta phải nói đến tu trào Biển Đức — Xi-tô. Vậy các ngài đã truyền giáo với cách thức như thế nào, để có thể biến đổi cả lục địa Châu Âu? Thưa với phương châm “Cuốn sách và cái cày”, các đan sĩ đã biến đan viện trở nên trung tâm cầu nguyện – trung tâm học thuật – và cũng là trung tâm phổ biến mô hình canh tác nông nghiệp, đồng thời khai sáng nền văn minh Châu Âu.
Hiện nay các đan sĩ vẫn đang sống theo tinh thần “Ora et Labora” (lao động và cầu nguyện). Đan sĩ được sai đi làm chứng tá cho Tin Mừng bằng cách diễn tả niềm vui Nước Trời trong những sinh hoạt thường ngày của cộng đoàn. Hẳn thật trong sắc Lệnh Đức Ái Hoàn Hảo, số 7 Công Đồng Vatican II: “Họ dâng lên Thiên Chúa hy lễ chúc tụng tuyệt hảo làm vẻ vang dân Chúa, bằng những hoa trái thánh thiện dồi dào, lấy gương lành lôi cuốn và làm cho dân ấy lớn mạnh bằng việc tông đô tuy âm thầm nhưng rất phong phú như thế, rõ ràng việc truyền giáo của đan sĩ hệ tại ở việc làm chứng cho Thiên Chúa bằng đời sống thấm nhuần tinh thần Tin Mừng và bằng sự khổ chế. Như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định trong Tông huấn Đời sống Thánh Hiến số 6: “Các đan sĩ cố gắng dung hòa một cách cân đối đời sống nội tâm và lao động trong sự dấn thân theo Tin Mừng bằng việc hoán cải thói quen, bằng sự vâng phục và vĩnh cư, cũng như chuyên chăm suy niệm Lời Chúa, cử hành phụng vụ và cầu nguyện. Ngay giữa lòng Giáo Hội và giữa thế gian, các đan viện đã và vẫn còn là dấu chỉ mạnh mẽ của sự hiệp thông, là nơi ân cần đón tiếp những ai tìm kiếm Thiên Chúa và những thực tại thiêng liêng; các đan viện đã và vẫn còn là những trung tâm học hỏi, đối thoại và trau dồi để xây dựng đời sống Giáo Hội và xây dựng thành trì trần thể, trong khi chờ đợi thành trì Thiên quốc”

 

Để kết luận: tôi xin trích dẫn lời của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, đấng sáng lập Hội Dòng Xi-tô Thánh Gia Việt Nam, trong bản Hiến pháp số 1: Mục đích và bản chất của Hội Dòng chúng ta là:
– Cung cấp cho các linh hồn được Chúa mời gọi nên trọn lành trong nếp sống tu trì này, những thuận lợi của đời sống chiêm niệm và sám hối;
– Làm thành một Cộng Đoàn các Đan sĩ chuyên lo việc cứu giúp người chưa nhận biết Chúa, bằng sự cầu nguyện và hãm mình. Chúng ta cũng cần phải tham chiếu nhiều hơn nữa vào sắc Lệnh Truỵền giáo, số 40: “Các Hội dòng chiêm niệm góp phần rất lớn vào việc trở lại của các linh hồn, nhờ những lời kinh nguyện, việc khổ hạnh và thử thách; vì Thiên Chúa là Đấng sai thợ đến gặt lúa của Ngài, theo lời chúng ta cầu xin. Đang mở rộng tâm hồn người ngoài Ki-tô giáo để họ lắng nghe Phúc Âm, và làm cho Lời cứu rỗi sinh hoa kết quả trong lòng họ …Đến đây chúng tôi có thể kết luận được rằng: Đan sĩ, chúng ta cũng được thánh hiến và sai đi, để loan báo Tin Mừng. Vậy chúng ta hãy ra đi thực thi sứ vụ với niềm vui của Tin Mừng, đó cũng là lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô (x. EV).

 

 

 

 

 

SỨ VỤ CỦA ĐỜI SỐNG ĐAN TU

 

PhanSa (PV)

Lịch sử Giáo hội đã cho nhân loại biết ngoài việc thi hành sử vụ rao giảng Tin Mừng, thì việc cộng tác với Giáo Hội của các dòng tu rất quan trọng để giáo dục và củng cố đời sống đức tin cho con người. Đặc biệt đòi sống đan tu, như là một tiếng chuông cảnh báo phản ứng lại tình trạng suy thoái của giáo hội từ thế kỷ thứ III. Các cuộc bách hại đạo không còn, đời sống các Kitô hữu được tự do hơn, họ đam mê vật chất, thích chỗ ồn ào náo nhiệt. .họ đánh mất niềm tin thuở ban đầu, vì thế đời sống thiêng liêng xuống cấp trầm trọng. Cho nên, trong Giáo Hội đã xuất hiện những vị ẩn tu vào sa mạc thanh vắng để tự do tìm kiếm Chúa. Từ đó hình thành những cộng đoàn đan tu rất phong phú và đa dạng, như các đan viện Biển Đức, Xi-tô, Clara, Cát Minh… Các đan sĩ sống cộng đoàn (cộng tu) trong tình bác ái, kiến tạo đòi nội tâm, hy sinh cầu nguyện và lắng nghe tiếng Chúa trong không gian tĩnh mịch của đan viện, trong lao động. Vì thế đời đan tu được dịch từ tiếng Latinh monacus (gốc bởi tiếng Hylạp monachos), bởi tính từ monos: một, duy nhất, độc nhất, một mình. Ngay từ thế kỷ 4, giám mục Eusebio Cesarêa đã giải thích danh từ monacus với nghĩa chính: là người tự do chọn một lẽ sống duy nhất – sống cho một mình Chúa mà thôi – muốn trở nên một vói Chúa (monogeneis)[1]
Hiệp thông với Giáo Hội trong năm đời sống thánh hiến, bài viết này muốn nhấn mạnh đến ơn gọi được sai đi! Tức là sứ vụ tông đồ của đời đan tu trong thế giới hôm nay. Sứ vụ đan tu cần hòa nhập với sự phát triển mạnh mẽ trên thế giới về mọi lãnh vực. Đan sĩ cần thích ứng – hòa nhập với mọi biến chuyển, với các mối tương quan của thế giới bên ngoài.

 

1.Sứ vụ đan tu trong lòng Giáo Hội

 Giáo Hội trân trọng và đề cao sứ vụ đan tu trong lòng Giáo Hội. Dù trong mọi hoàn cảnh thuận, nghịch, Giáo Hội muốn linh đạo đan tu cần được thể hiện cụ thể trong đan viện nhất là đời sống cộng đoàn. Nơi đan viện với khung cảnh trâm lăng của các giờ Thân vụ, kết hợp với thời gian lao động hằng ngày, đan sĩ không thể “lăn lộn” với công việc mục vụ như các tu sĩ dòng hoạt động, trái lại đan sĩ dùng cuộc sống chiêm niệm để trở thành một chứng từ sống động trong Giáo Hội, nói cách dễ hiểu là dù nhu cầu của Giáo Hội khẩn thiết đến mức độ thế nào đi nữa “thì việc cầu nguyện, ăn chay hãm mình luôn giữ địa vị cao quỹ trong nhiệm thế Chúa Kitô. Họ là vinh dự của giáo hội và là mạch tuôn trào các ơn thiêng bằng những hoa trái thánh thiện, những hy tế, gương lành, những việc tông đồ của họ tuy âm thầm mà rất phong phú. Tuy nhiên vân phải kính cẩn bảo tồn sự cách biệt thế gian và những sinh hoạt riêng trong đời sống chiêm niệm của họ[2]
Qua đời sống đặc thù này mà Kinh Thánh đã chứng minh cho nhân loại thấy: Sa mạc là môi trường lý tưởng nhất của đời đan tu. Sa mạc giúp đan sĩ lắng nghe tiếng Chúa, đối thoại với Chúa [3] . Đức Giêsu đã vào sa mạc cầu nguyện ăn chay suy tư suốt 40 đêm ngày và chống lại các cám dỗ của ma quỷ trước khi công khai rao giảng Tin Mừng. Đức Giêsu suy tư điều gì, nếu không phải là về sứ vụ Ngài sắp thi hành? Và trong suốt thời gian thi hành sứ vụ Cứu thế, Ngài thường tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện, để nhắc nhở các tông đồ: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn nhờ Lời Chúa nữa[4] . Chính sa mạc sẽ giúp đan sĩ ý thức “đừng bao giờ để mất bóng ơn gọi tối cao, đó là luôn luôn ở với Chúa[5]

 Đời đan tu là một cuộc hành trình tìm Chúa liên tục, được nuôi dưỡng trong sa mạc nội tâm. Đan sĩ từ bỏ tất cả ở thế gian để tìm Chúa, tìm Chúa trong cầu nguyện, lao động, khổ chế… [6] đan sĩ sống và làm việc trong đan viện, một nơi được gọi là TRƯỜNG HỌC PHỤNG SỰ THIÊN CHÚA, một nơi mà Giáo Hội xác định “đời đan tu đã và đang đem lại sinh khí cho Giáo Hội và nhân loại, các đan viện đã và đang là một dấu chỉ hùng hồn về sự hiệp thông, là một nơi ân cần đón tiếp những người đi tìm Thiên Chúa, là trường học về đức tin, là những trung tâm đích thực về học vấn, đối thoại và văn hóa, hầu xây dựng đời sống Giáo Hội...”[7]  

Như thế trong đời đan tu, sứ vụ duy nhất là “Tìm Chúa”

• Tìm Chúa trong cộng đoàn:

 Khi bước chân vào đan viện, người môn sinh luôn xác tín: tìm Chúa. Tìm là xác định một điều “có” trong khi chưa có, và cảm nhận được Thiên Chúa đang đi tìm mình. Cho nên trong cộng đoàn, đan sĩ lạc quan vui sống “tôn kính lẫn nhau, thi đua vâng lời nhau… ” [8]  thao thức nỗ lực tìm Chúa hơn bao giờ hết. Đan sĩ luôn quy chiếu về Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi để diễn tả chiều kích hiệp nhất trong lòng Giáo Hội nói chung, (cộng đoàn nói riêng) khi cùng nhau tìm kiếm Thiên Chúa, đồng thời “cho hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa[9]. Kitô Giáo Đông Phương nhấn mạnh điều này khi “vì các đan sĩ là những thiên thần của Thiên Chúa trên mặt đất ”[10]  loan báo cuộc canh tân thế giới trong Đức Giêsu Ki-tô. Truyền thống Tây Phương thì cho rằng đời đan tu đề cao quyền năng của Thiên Chúa luôn luôn mang lại cho con người một đời sống ý nghĩa và tràn đầy niềm vui. Ý nghĩa trong cuộc chạy đua trường kỳ tìm kiếm Thiên Chúa, cùng với niềm vui đích thực khi nhận ra tác động của Tin Mừng sẽ lan tỏa và thấm đượm vào lòng những ai cảm nếm được hương vị ngọt ngào của Lời Chúa. Dù sống trong thế giới đang tìm kiếm, có khi trong lo âu, có khi trong hy vọng, nhưng sức mạnh của Tin Mừng vẫn giúp con người “chạy hoài mà không mệt, đi mãi mà chẳng chùn chân” [11] nhằm đạt tới đích điểm là Đức Giêsu Ki-tô.

Đời sống cộng đoàn còn phong phú nhờ nổi bật đặc tính hiệp thông. Hiệp thông trong mọi sinh hoạt: kinh nguyện, lao động, học hành, ăn uống, ngủ nghỉ…; chính nếp sống chân tình, đơn sơ mộc mạc đó, làm cho sự hiệp thông trong cộng đoàn tự nó có khả năng cháy sáng niềm tin và lan tỏa đức ái, điều mà cha Henri Denis (Cố Thuận) – Tổ Phụ Dòng Xitô Thánh Gia  đã xác định: “Cái đạo ăn chay, cái đạo đánh tội, cái đạo Chầu Thánh Thể, các đạo ấy dễ mà không chắc chi, còn cái đạo yêu thương anh em, đạo ấy thì chắc là đạo ”..[12]

 

 • Tìm Chúa trong Thần Vụ -việc tiếp cận Lời Chúa:

Ngoài việc chú trọng đến cao điểm của đời sống thiêng liêng là Thánh Lễ và Thần Vụ như hơi thở của cộng đoàn, thì mối tương quan mật thiết giữa đan sĩ với Thiên Chúa được thể hiện qua việc: đọc (Lectio); suy niệm (Meditatio); cầu nguyện (Oratio) và chiêm niệm (Contemplation) Lời Chúa. Chính đời sống thiêng liêng này đã biến đổi đan sĩ cách tiệm tiến nhưng hiệu quả trong cuộc sống thường nhật. Nhờ ánh sáng thần hóa đan sĩ luôn hướng lòng về với Thiên Chúa qua cộng đoàn, qua việc tiếp xúc với những biến cố đang xảy ra chung quanh.
Vì thế mà Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI đã chia sẻ với các đan sĩ tại Monte Cassino vào ngày 24.10.1964: “Giáo Hội và thế giới cần thấy thánh Biển Đức và con cái của ngài (các đan sĩ) song tách biệt… để có điều kiện ca ngợi Thiên Chúa, để cho nhân loại được thưởng thức những cung giọng mê ly của lời kinh bình thản và thâm thúy; để cho mọi người đến bên cạnh nội vi mà ngắm xem khung cảnh của một xưởng thợ nghệ thuật thiêng liêng mà trong đó có sự hiện diện của tình thương lòng tuân phục, sự trong trắng… nơi các đan sĩ…

 

• Tìm Chúa trong lao độngkhổ chế:

Đời đan tu rất sinh động phong phú là nhờ lao động: chân tay và trí óc. Lao động không những thánh hóa bản thân đan sĩ, mà còn đề cao sự hiệp thông, sống tinh thần phục vụ vô điều kiện, cũng như giáo dục tinh thần tự lực cánh sinh, dẹp bỏ tư tưởng “ỷ lại- cậy nhờ” người khác. Lao động giúp đan sĩ trưởng thành thực sự về khía cạnh nhân văn, cảm thấy vui khoẻ tự tin khi “sống bằng thành quả lao động của mình ”[13] về ý nghĩa thiêng liêng, thì khi lao động đan sĩ kiến tạo niềm vui bình an, thanh thản. Lao động luôn song hành vói tinh thần khổ chế vì khổ chế được xem là ý lực sống và là điều kiện cần của đời đan tu. Nhờ vậy, đan sĩ biết “Thiên Chúa đòi hỏi mọi sự nơi mình, nhưng Ngài cũng ban cho bản thân mọi sự…”[14]

Khổ chế còn là phương thế hỗ trợ cho đời sống cộng đoàn, được liên kết qua sinh hoạt thường ngày, có khi phải thu hoạch mùa màng cho kịp thời vụ, có khi làm việc chung “ngoại lệ” vì nhu cầu cộng đoàn đòi hỏi. Khổ chế giúp đan sĩ luôn sống kết hiệp với Chúa, dù đảm nhận trách nhiệm nào trong cộng đoàn: đối nội đối ngoại, đều cần thực thi 12 bậc khiêm nhường trong Tu Luật Thánh Phụ Biển Đức. Đây là điều kiện tiên quyết và khả thi để đan sĩ có đủ khả năng chống trả, vượt thắng mọi cám dỗ liên quan đến các lời khấn trong đặc sủng đan tu. Vì sống tinh thần khổ chế đúng mức, nên có người ví đời đan tu như là một ‘‘Một cuộc tử đạo trắng” (không đổ máu).

 

 • Tìm Chúa trong Sứ vụ truyền giáo:

Người đời thường lầm tưởng về ơn gọi đan tu và cho rằng họ không tham gia một công tác mục vụ, xã hội hay giáo dục nào, họ sống lãng phí, ích kỷ chăng? Nhưng lịch sử Giáo Hội đã trả lời: linh đạo của thánh Phụ Biển Đức “Không lấy gì làm hơn Chúa Kitô” cùng với ý lực “Lao động và cầu nguyện” nguyên thủy không chỉ dừng lại và gói gọn với thời gian sinh hoạt hằng ngày trong nội vi đan viện, nhưng bao hàm cả chiều kích phúc âm hóa xã hội. Chính Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI đã dùng hình ảnh: cái cày – cuốn sách – Thánh Giá (1964) để diễn tả sứ vụ truyền giáo của các đan sĩ luôn mang tính phổ quát, hiện thực. Hơn nữa, một trong những chứng tá của đan sĩ là rao giảng Tin Mừng bằng chính đời sống của mình, qua việc đón tiếp khách tĩnh tâm[15] . Qua việc lao động và cầu nguyện hằng ngày, đan sĩ liên kết đời sống cầu nguyện trong tương quan với tha nhân. Đan sĩ dung hòa cuộc sống bằng cách thực hiện cho tha nhân những gì Chúa dạy qua Tin Mừng, qua lời kinh tiếng hát trong phụng vụ và thần vụ, cho nên sống ơn gọi đan tu là “cách diễn tả tình yêu thuần túy, có giá trị hơn mọi hoạt động, nên có hiệu năng tông đồ và truyền giáo phi thường ”[16] Cảm nhận được điều đó mà cha Andre Louf đã viết: “Lâu nay tôi cứ hình dung những đan sĩ là những người thô thiển, cứng cỏi, là những anh hùng của cô tịch và tiết dục, ngán ngại với mọi tiếp xúc bên ngoài. Nhưng thực tế thì khác hẳn.. đời đan tu là một ăn huệ lớn lao cho Giáo Hội và thế giới” [17]
Sứ vụ truyền giáo còn là loan báo Tin Mừng cho người khác. Loan báo Tin Mừng chính là nền tảng của Giáo hội. Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng đã lấy lại giáo huấn của Đức Giêsu mà dạy rằng Giáo hội chỉ là chính mìmh khi ra khỏi mình và đi đến với thế giới.‘Tôi thích hơn một giáo hội gặp nạn, bị thương tích bị vấy bẩn vì đã đi ra đường phố hơn là một giáo hội bệnh tật vì đóng kín và gắn bó với nhiều tiện nghi với những an tồn cố hữu của mình. Tôi không muốn một giáo hội bận tâm để là một trung tâm và cuối cùng lại đóng kín trong những luật lệ và thủ tục rối mù .”[18]

 

 2.Sứ vụ đan tu giữa lòng xã hội

Tu Luật Cha thánh Biển Đức đã phác họa một mô hình lý tưởng: một đan viện tự cung ứng cho mình mọi nhu cầu tinh thần và vật chất để “không vì một lý do nào mà đan sĩ kiếm cớ phải ra ngoài… ”[19] . Cha thánh Biển Đức không quan trọng hóa việc tính toán hiệu quả kinh tế cho bằng phần rỗi các linh hồn đan sĩ. Một đòi hỏi “sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian… ” cho đan sĩ! Nghe qua thấy dễ dàng, nhưng thực tế rất phức tạp. Cho nên đan sĩ được mời gọi sắm sẵn cho mình một hành trang thiêng liêng: sự trưởng thành nhân bản và đời nội tâm phong phú dồi dào để đồng hành với thế giới, sống đặc sủng chiêm niệm để chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa giữa thế gian này.
Rõ ràng ơn gọi đan tu âm thầm hoạt động trong lòng giáo hội rất hiệu quả và mãnh liệt. Mọi hoạt động hằng ngày đều nhắm đến sự hiện diện của Chúa Ki-tô với vai trò: tôn thờ, ca ngợi Thiên Chúa: “Đan sĩ nhất tâm phụng sư Thiên Chúa trong cô tịch và thanh vắng, trong chuyên lo cầu nguyện và hoan hỉ hy sinh, họ lấy gương lành lôi cuốn và làm cho dân Chúa thêm lớn mạnh bằng một việc tông đồ tuy âm thầm mà phong phú ”[20]
Đan sĩ ý thức nhiệm vụ cao quý của mình trong Giáo Hội, luôn cảm thức với Giáo Hội, mang trong mình những thao thức và nhu cầu của Giáo Hội, luôn sống đời nội tâm của Giáo Hội, đặc biệt sống phong phú đời cầu nguyện của Giáo Hội trong phụng vụ, thần vụ, như Giáo Hội đã khẳng định: “nhiệm vụ chủ yếu của ơn gọi đan tu là phụng sự Thiên Chúa uy linh, một bổn phận khiêm tốn và cao sang…, và làm sao cho các đan viện thành những trung tâm sống động để xây dựng dân Chúa… ”[21].

Sống trong lòng xã hội và thế giới, đan sĩ hòa mình vào dòng chảy phát triển cuộc sống. Không nhằm tìm kiếm tiện nghi thực dụng, nhưng biết thích ứng và hòa nhập vào nền văn minh, nhằm phục vụ con người.
Đời đan tu cần làm chứng một cách sống động giữa lòng xã hội; hội nhập, thích ứng với mọi hoàn cảnh, môi trường khác nhau. Qua đời sống cộng đoàn, cầu nguyện, khổ chế, đan sĩ cần có đủ khả năng biện phân điều chính điều phụ khi thi hành sứ vụ theo nhu cầu Giáo Hội địa phương, để trung thành với đặc sủng đan tu. Đời đan tu không sống lập dị, bảo thủ, nhưng luôn trân trọng phát huy mọi truyền thống tốt đẹp mà các vị tiền bối để lại.
Thực tế ngày nay các đan viện không còn “khép kín ” theo nhiều nghĩa, một cách nào đó đời đan tu đã và đang bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khách quan: đi thành lập các đan viện đơn lập, các nông trại với mục đích kinh tế, xây dựng nhiều cơ sở vật chất, giao tiếp với người ngoài (các Hội Ân Nhân, giao lưu các đoàn thể); mục vụ giáo xứ. Tuy nhiên, dù sống trong mọi hoàn cảnh, dù phải chu toàn bổn phận thế nào đi nữa, thì đan sĩ cũng cần nhận ra sự giới hạn của mình để tỉnh táo, tế nhị, khi tiếp xúc với mọi thành phần trong xã hội. Cụ thể như công việc “nhạy cảm’’ và phức tạp, đó là đón tiếp khách hành hương, khách vãng lai. Đan sĩ thực thi bác ái trong sự khôn ngoan, cẩn trọng; kể cả một chút dè dặt, đứng đắn. Đan sĩ cũng cần gạt bỏ mọi thái độ “tự tôn – tự ti ” để sống cầu tiến học hỏi hầu giúp ích cho phần rỗi mình và tha nhân. Chính nhờ sự phong phú của đời chiêm niệm, nên đan sĩ luôn mang sẵn trong mình những tinh hoa của những lời giáo huấn trong Tin Mừng. Dù phải “bảo tồn sự cách biệt thế gian và những sinh hoạt riêng của mình trong đời chiêm niệm ”[22] nhưng đan sĩ luôn nhận ra chiều kích nhập thể của mình, để sẵn sàng hòa nhập cũng như chấp nhận những thách đố trong việc thích ứng hội nhập các nền văn hóa địa phương. Vì vậy mà đời đan tu cũng rất thiêt thực và giúp ích trong đời sống thiêng liêng cho con người trong thể giới và tinh thần chiêm niệm cũng rất phù hợp với con người thời đại hôm nay.

 

Kết:
Người ngoài hiểu rằng sứ vụ của ơn gọi các dòng hoạt động thì luôn có hiệu quả thực tế, họ có khả năng hiện thực hóa mọi công việc trong các lãnh vực nhân sinh. Và các dòng đan tu chiêm niệm không chủ trương điều đó?
Nhưng nếu chúng ta lưu tâm học hỏi thêm về lịch sử Giáo Hội, thì lại thấy đời đan tu luôn đề cao chiều kích chiêm niệm. Trong Giáo Hội ai có đời sông nội tâm phong phú thì người đỏ có khả năng thi hành sứ vụ của mình một cách hoàn hảo.
Cha Jean Leclercq cũng lấy hình ảnh cha thánh Bênađô để minh chứng: thánh nhân vừa là một nhà chiêm niệm vừa là một tông đồ; vừa là nhà thần bí vừa là là hoạt động…, thánh Benado hoạt động bởi vì ngài đã là một nhà thần bí. Thật chí lý! Đan sĩ sống nội tâm là để chiêm niệm và để hoạt động. Chiêm niệm – hoạt động luôn bổ túc cho nhau và là hai chiều kích song song của cuộc sống thiêng liêng. Tính hoạt động theo nghĩa đan tu là sống kết hiệp với Chúa bằng đời sống nội tâm, là yếu tố căn bản dẫn đưa đan sĩ tới chóp đỉnh của đời chiêm niệm, trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Xin đơn cử, tại Vatican nhân dịp Tổng hội Dòng Nữ Biển Đức toàn thế giới lần thứ 3 (ngày 11.9.1998), trong sứ điệp gửi cho Tổng Hội, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: Giáo Hội dành cho các (nữ) đan sĩ một niềm ưu ái đặc biệt vào đúng thời điểm chúng ta đang thực hiện phúc âm hóa toàn cầu. Trong Giáo Hội sẽ không có Phúc Âm Hóa nếu không có đời sống chiêm niệm! Giáo hội và thế giới phải học hỏi nhiều hơn nữa về ý nghĩa của linh đạo đan tu: cầu nguyện và lao động.
Bài viết này không dựa vào các văn kiện của Giáo Hôi để đề cao vị trí của mình, nhưng muốn chia sẻ về sứ vu đời đan tu. Trong bối cảnh hiện tại, thuận tiện nhiều nhưng khó khăn thử thách cũng không ít. Vì xác định vai trò sứ vụ của mình trong Giáo Hội và xã hội, nên đan sĩ luôn có một đời sống bình an thanh thản trong đan viện với lòng tín thác. Cha Thomas Merton cũng cảm nhận: “Sống đời đan tu, các đan sĩ làm chứng cho tính cách siêu việt của Thiên Chúa vô biên…, họ tuyên bố cho toàn thể nhân loại biết rằng Thiên Chúa có quyền gọi riêng một số người để họ chỉ sống cho một mình Người mà thôi… ”[23]. Với ơn gọi đặc biệt, Giáo Hội đã cho mọi người thấy: đan viện không phải là một ốc đảo hoang sơ, nguội lạnh, đan sĩ thi hành sứ vụ đan tu không phải là điều gì mơ hồ, mông lung, cũng không phải là những người mình đồng da sắt (siêu nhân); sống trên mây trên gió, nhưng là người “dùng chính cuộc sống tu trì của mình làm chứng cho thế giới biết chính Đức Giêsu đang hiện diện giữa trần gian này. Người là đích điểm và là lý tưởng tuyệt đối cho những ai sống vì mọi người”[24] .

 


 

[1] Đời sống tâm linh- tập 2- Lm. Phan Tấn Thành, trang 100

[2] Hiến chế L.G-7

[3] X. Hose 2,16

[4] x. Mt 4,4 

[5] Gioan-Phaolô II; Tông huấn v.c -7

[6] Tu Luật Biển Đức -58

[7] Gioan-Phaolô II; Tông huấn v.c – 6

[8] Tu luật Biển Đức – 72

[9] x.Lc3,6

[10] Gioan PhaolôII; Tông huấn VC-27

[11] X. Is 40.31

[12] Di Ngôn-112

[13] Tu Luật-11

[14] ĐGH Phanxico, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng – 12

[15] Hiến pháp -6

[16] Gioan Phaolô II- tông huấn V.C-59

[17] X. Augré de sa grace. 1990. Trang 201

[18] ĐGH Phanxico, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng – 49

[19] Tu Luật – 66

[20] Sắc lệnh dòng tu-7

[21] Sắc lệnh dòng tu-9

[22] Gioan Phao lô II – Tông huấn V. c -80

[23] Không ai là một hòn đảo – 89

[24] Gioan Phao lô II – Tông huấn V. C -80

 

 

 

 

MỘT CÁI NHÌN VỀ NỘI VI

 

Aelredo (PV)

Khi nói đến “nội vi”, là đề cập đến một cụm từ rất đặc trưng trong giới nhà tu, cách riêng trong giới đan tu. Xét về phương diện địa lý, nội vi đan viện là nơi “thanh vắng”, tách biệt với thế giới náo nhiệt bên ngoài. Môi trường thanh vắng yên tĩnh này, được khuôn định bằng những tường rào kiên cố chung quanh.
Mặt khác, nội vi đan viện cũng là nơi thuận tiện, khả dĩ giúp đan sĩ kiên trì định sở, sinh hoạt, lao động, ăn uống, ngủ nghỉ, suy niệm, sống đời cầu nguyện một cách triệt để hơn trong lộ tình theo Chúa Giêsu. Theo tu luật thánh phụ Biển Đức, đan sĩ sau khi đã suy nghĩ chín chắn, cầu nguyện, họ tự nguyện đoan hứa kiên trì định sở trong nội vi đan viện, tuân giữ mọi qui chế, các huấn lệnh, bấy giờ họ mới chính thức gia nhập cộng đoàn, trở nên thành viên chính thức của cộng đoàn. Vì thế: “họ phải biết rằng, do luật buộc, từ nay không được xuất khỏi Đan Viện nữa, cũng không được trút bỏ ách lề luật mà họ đã có thể từ chối hay chấp nhận sau một thời gian suy xét lâu dài như vậy” (Tl 58). Để hiểu rõ hơn về nội vi xin đưa ra ba khía cạnh: Ngoại tại, nội tại và thực tiễn.

 

1. Cái nhìn ngoại tại về nội vi

Theo nhãn quan của người Ki-tô hữu, khung cảnh đan viện quả là thanh tịnh, thánh thiêng, có nhiều nét rất khá với môi trường gia đình, giáo xứ và trường học. Hạn từ thanh, có thể hiểu, bầu khí nội vi đan viện an tĩnh trong lành không pha tạp bởi sự ồn ào, tạo cảm giác thoải mái dễ chịu, bình an cho con người. Tuy nhiên, thanh vắng ở đây không có nghĩa là trống rỗng, vắng tình người, vắng tình Chúa; chỉ vắng những tiếng ồn vô bổ. Bên trong bầu khí thanh vắng ấy, người ta lại không còn cảm thấy cô đơn, bất an vì có Chúa luôn hiện diện, đồng hành, ủi an, nâng đỡ, ban sức mạnh cho những tâm hồn sống đời thanh hiến.
Dĩ nhiên, không phải ai cũng có thể cảm nhận hết được giá trị của sự thanh vắng đó, mà chỉ những người có ơn Chúa, mới cảm nhận được sự hiện diện của Chúa, lắng nghe, tin tưởng, mở lòng mình ra để đón nhận, và đáp lại tiếng gọi của Chúa, họ mới đủ nhạy bén để nhận ra sự hiện diện của Ngài trong bầu khí thanh vắng ấy mà thôi.
Xưa kia ngôn sứ Êlia cũng ngộ nhận, tưởng rằng Thiên Chúa hiện diện trong cảnh ồn ào náo động. Nhưng: “Thiên Chúa không ở trong gió bão. Sau trận gió bão thì động đất; Thiên Chúa cũng không ở trong cơn động đất. Sau cơn động đất thì có lửa; nhưng Thiên Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa thì có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe thấy, Êlia liền lấy áo choàng che mặt lại, đi ra đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng nói với ông: Êlia, ngươi làm gì ở đây? Ông thưa: vì lòng nhiệt thành với Đức Chúa… đã nung nấu con” (1V 19,11-14).
Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm có những vần thơ thật là ý nghĩa: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn, người tìm chốn lao xao”. Có thể nói, cụ đã áp dụng phương pháp tương phản, để khẳng định sự đối lập gay gắt giữa quan niệm sống của ta và của người. Nơi vắng vẻ là nơi xa lánh sự ồn ào, tranh chấp, là miền thôn dã hiền hòa, là chốn thiên nhiên thuần phác. Chốn lao xao là nơi quan trường đua chen, tranh quyền đoạt lợi, là chốn thị thành náo nhiệt, giả trá, lọc lừa. Ta từ bỏ cân đai, áo mão, danh lợi, tiền tài để trở về chốn thiên nhiên, thanh vắng, chấp nhận cuộc sống nghèo, nên ta tự nhận mình là dại.
Cũng thế, môi trường thanh vắng trong đan viện, tự nó mang một đặc trưng rất riêng biệt, có sức thu hút và cảm hóa lòng người. Cụ thể, hằng năm có rất nhiều người đến tĩnh tâm, cầu nguyện, suy niệm, gặp gỡ Chúa trong bầu khí thanh vắng của đan viện. Có thể nói: với cái nhìn đức tin, bầu khí thanh vắng trong nội vi đan viện, chỉ vắng tiếng người đời, nhưng không vắng tiếng Chúa, chỉ vắng sự ồn ào, bất an, nhưng không vắng niềm vui, không bao giờ vắng sự bình an. Bên cạnh đó, hiện tại có rất nhiều bạn trẻ đến gõ cửa đan viện xin tu, vì họ cảm nhận được giá trị sâu xa tiềm ẩn trong môi trường thanh vắng của đan viện.

2.Cái nhìn nội tại về nội vi

Cha Tổ Phụ Henri Denis Benoit nói: “Các thầy dòng đi giảng, đi giúp các nhà thương, trường học, thế gian còn hiểu được. Còn như thầy dòng nguyện gẫm hãm mình như chúng tôi, thế gian không hiểu được. Vì sao tìm đến nơi rừng rú vắng vẻ này, mà chẳng phải điên, cũng chẳng phải là vô tâm vô trí, như có người hiểu lầm như vậy! Một lần kia, có người gặp cha trên xe lửa, họ tưởng chúng tôi là hạng điên. Song, không phải vậy. Dòng chúng ta có nhiều người có trí khôn lắm lắm, như các tu viện thuộc Dòng Cha Thánh Biển Đức, đã có nhiều bậc khôn ngoan thông thái, nhiều vị vua chúa bỏ hết mọi sự mà vào Dòng ” (DN. số 141).
Đó là cái nhìn nội tại của một đan sĩ gạo cội về nội vi, bầu khí, môi trường thanh vắng. Ngang qua cái nhìn của một bậc thầy chân tu, người cha tinh thần của ngàn đan sĩ chiêm niệm trên đất nước mang hình chữ S này, các đan sĩ tự nguyện khước từ vinh quang thế sự, để (chôn) gieo mình trong nội vi thanh vắng, họ không phải là hạng người điên, mất trí, bất bình thường, thất tình, bất mãn, trốn đời, cũng chẳng phải vào nội vi đan viện để thu gom hư danh, vinh quang thế tục.
Vậy, đan sĩ ẩn mình vào trong nội vi thanh vắng nhằm mục đích gì? Thưa, họ tự nguyện hiến mình trong đan viện là để: Tìm Chúa, gặp Chúa, nói khó với Chúa, cầu nguyện với Chúa, cầu nguyện cho thế gian nữa (x.DN số 141. x.HP.số 6,7,8, trg 149). Đó là một cái nhìn nội tâm nghiêm túc, chín chắn, đúng đắn về nội vi. Cái nhìn nội vi này rất cần thiết cho mọi người tín hữu nói chung, nhất là cho đan sĩ chiêm niệm nói riêng.
Đan sĩ tự nguyện gieo (chôn) mình trong nội vi thanh vắng, một môi trường có bầu khí, khung cảnh yên tĩnh, trầm lắng, tách biệt khỏi thế giới bên ngoài. Tách biệt về phương diện ngoại tại như: không gian, nếp sống sinh hoạt, tương quan giao tiếp. Đó là qui chế hiến pháp, tu luật, và giáo luật đòi buộc như thế (x.HP.số 3,4,trg 148). Đan sĩ sống tách biệt thế gian, sự tách biệt đó được cụ thể hóa ngang qua lời khấn vĩnh cư. Đó là phương thế hữu hiệu khả dĩ giúp đan sĩ sống triệt để ơn gọi tận hiến của mình cho Thiên Chúa, về lãnh vực tinh thần, tuy sống tách biệt nhưng vẫn luôn hiệp thông với thế giới, với Giáo Hội, với các đan sĩ, tu sĩ khác, tất cả đêu là những “chuyên viên hiệp thông” (x.BHT.số 87).
Đan sĩ sống trong nội vi, nhưng ngày đêm vẫn đồng hành, hiệp thông, hướng về thế giới, Giáo Hội và mọi người, trong từng lời kinh, lời cầu nguyện, nhất là hiệp thông với mọi người trong tình yêu cùa Thiên Chúa. “Đan sĩ Thánh Gia mặc dù sống cô tịch và thầm lặng, nhưng còn phải sống theo chiều hướng của Giảo Hội, cùng chia sẻ niềm hy vọng chính đáng, cũng như những lo âu khắc khoải của nhân loại trên đường tìm về cánh chung. Đan sĩ tuy không thuộc về thế gian, nhung vẫn sống trong thể gian, và nếu trung thành với ơn thiên triệu, họ sẽ tham gia đăc lực vào sứ mệnh cứu rỗi nhân loại, thánh hiến và xây dựng trần gian ” (HP số 33). Đó là cái nhìn siêu nhiên trong lãnh vực niềm tin và tình yêu, được khởi phát từ con tim của đan sĩ, đã và đang sống âm thầm trong nội vi thanh vắng của đan viện ngày nay.

3.Cái nhìn thực tiễn về nếp sống nội vi

Để có được một cái nhìn nghiêm túc, đúng đắn chín chắn về nội vi, rất cần có một sự phân định quân bình hài hòa, mềm dẻo về nội vi, một cái nhìn theo hướng mở tích cực trong từng bối cảnh cuộc sống con người, cần tránh những cái nhìn quá khích, câu nệ, cứng ngắc, mang đậm sắc thái thành kiến, tiêu cực, chật hẹp, hình thức và duy lý. Nghĩa là, cứ một mực theo tiểu tiết của chữ đen chữ đỏ, cứ một mực theo cái đã mặc định sẵn, những cái nhìn như thế, rất dễ gây nên những tình trạng ngột ngạt trong nội vi đời tu.
Chẳng hạn, có người vì công việc bổn phận, vì lợi ích chung của cộng đoàn, họ phải sống xa nội vi đan viện, sống ở ngoài nhiều ngày, nhiều năm. Tuy thân xác có ở ngoài nội vi đan viện, nhưng về nội vi lương tâm của họ vẫn luôn gắn bó với Chúa, với cộng đoàn, thì chưa hẳn ho đã ở ngoài nội vi. Trái lại, có người cả đời sống trong nội vi đan viện, nhưng tâm hồn lại du tu đây đó, thì cũng chưa hẳn là chân tu triệt để. Vì thế, rất cần có một cái nhìn thực tiễn về nếp sống nội vi, một cái nhìn quân bình, hài hòa, mềm dẻo, một cái nhìn mở theo hướng tích cực.
Tất nhiên, “cái nhìn mở’’ về nếp sống nội vi, không có nghĩa là buông thả, bỏ mặc, độc lập tự do theo lối bèo dạt mây trôi. Cái nhìn mở về nếp sống nội vi, cũng không có nghĩa là cách mạng, cấp tiến, phóng khoáng không còn tuân thủ luật lệ nội vi. Nhưng, cần mở theo tinh thần của Tin Mừng, theo sự định hướng của Chúa Thánh Thần, theo qui chế Giáo Luật, Hiếp Pháp, Tu Luật, Thói Lệ và tinh thần của toàn dòng.
Bởi vì, “Đan sĩ Thánh Gia cũng là người của thời đại; vì thế chương trình canh tân cũng đòi hỏi thích ứng với điều kiện của con người và xã hội ngày nay. Không nên câu nệ vào tập tục dĩ vãng đến nỗi sinh bối rối hoang mang trước các thích nghi và cải đổi cần thiết. Trái lại, cũng đừng viện lý do canh tân mà trở thành hời hợt xu thời. Để tránh lầm lạc đáng tiếc, cần phải biết phân biệt sáng suốt, thấm nhuần tinh thần đan tu, biết lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần, mới có thể tìm thấy những hình thức đổi mới cần thiết và hữu ích” (HP.số 32,trg 165). Nhờ đó, đan sĩ có được một cái nhìn nhân bản, quân bình, trưởng thành về nếp sống nội vi đan tu chiêm niệm. Khả dĩ giúp đan sĩ biết ứng xử linh hoạt, hài hòa, mềm dẻo theo từng hoàn cảnh đời tu. Cho nên, để có “cái nhìn mở” về nếp sống nội vi theo định hướng của Chúa Thánh Thần thúc đẩy, đan sĩ cần cầu nguyện nhiều, cầu nguyện nghiêm túc bằng tinh thần tin tưởng phó thác, “mở” theo thánh ý Chúa, chứ không phải theo ý thích dễ dãi của mình. Đó là cái nhìn của “sự can trọng” về nội vi lương tâm của đan sĩ trong thời hiện đại.

 

Kết luận

Nhận định về nội vi đan viện, người Ki-tô hữu có thể có nhiều cái nhìn, mỗi cái nhìn lại mang những sắc thái dị biệt, tùy theo tầm hiểu biết của họ. Nhưng với đan sĩ, rất cần có một cái nhìn quân bình, “cân đối” về nếp sống nội vi. Nghĩa là cần giữ một sự thích hợp với bản chất, sắc thái đời chiêm niệm. Sự cân đối này cần được thể hiện ngang qua “tĩnh và hành” của các chủ thể sống các lời khấn…, đặc biệt là lời khấn vĩnh cư. Đan sĩ không nên quá thiên về phong cách hoạt động của Mattha, (đến nỗi Chúa Giêsu phải nhắc nhở: “Mattha, Mattha, chị lo lắng bồi rối nhiều chuyện, chỉ có một chuyện cần mà thôi… ”) mà cần được két hợp với “phong cách Maria ” để cả hai phong cách này làm thành phương châm “ora et labora”, (cầu nguyện và lao động). Đó la một cái nhìn quân bình, hài hòa, mềm dẻo, nó mang một sắc thái rất riêng biệt của đời đan sĩ chiêm niêm.
Một cái nhìn về nội vi như thế giúp khai mở lối nhìn mới về nội vi của đời sống đan tu, khi mà sự bùng nổ thông tin và các phương tiện truyền thông đã trở nên vấn đề gai góc đặt ra cho đời sống đan tu hiện nay. Một đàng vẫn bảo tồn và tôn trọng nội vi truyền thống, đàng khác hết sức cẩn trọng và khôn ngoan khi sử dụng các phương tiện truyền thông để bảo tồn “nội vi vô hình” mà nhờ đó, đan sĩ mới có thể sống một mình với Thiên Chúa duy nhất, (solus cum Solo Dei).

 

 

 

 

 

 

 

TRUYỀN THÔNG VỚI ĐỜI TU

 

M. Guerrico Vũ

Ngày 08 Tháng 12 năm 2015 là ngày kỷ niệm lần thứ năm mươi bế mạc Công Đồng Chung Vatican II. Giáo Hội thấy có một nhu cầu lớn là phải giữ cho sự kiện này sống động. Với Công Đồng này, Giáo Hội bước vào một giai đoạn mới trong lịch sử của mình. Chính trong Công Đồng này, sắc lệnh về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội đã ra đời.
Qua đó, tôi xin trình bày bài viết chủ đề Truyền thông với đời tu trong thời hiện tại. Nói cách khác những người sống đời sống thánh hiến có cái nhìn hay sử dụng các phương tiện truyền thông như thế nào? Rất là bao quát. Vì thế, người viết chỉ muốn chia sẻ một khía cạnh nhỏ liên quan đến việc sử dụng Internet và điện thoại di động trong nội vi đan viện.

 

I.Các phương tiện truyền thông

1.Truyền thông là gì?

Có nhiều cách trả lời. Theo trang điện tử Wikipedia: “Từ Latin: communicare, nghĩa là ‘chia sẻ là hoạt động truyền đạt thông tin thông qua trao đổi ý tưởng, cảm xúc, ý định, thái độ, mong đợi, nhận thức hoặc các lệnh, như ngôn ngữ, cử chỉ phi ngôn ngữ, chữ viết, hành vi và có thể bằng các phương tiện khác như thông qua điện từ, hóa chất, hiện tượng vật lý và mùi vị. Đó là sự trao đổi có ý nghĩa của thông giữa hai hoặc nhiều thành viên”[1].

Ngay ở Lời mở của sắc Lệnh về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội, các Nghị phụ đã khẳng định Giáo Hội như người mẹ rất quan tâm cũng như đặc biệt ân cần đón nhận và ủng hộ những phát minh liên quan đặc biết đến tâm hồn con người và những phát minh mở ra những con đường mới để truyền thông cách dễ dàng các tin tức tư tưởng và kiến thức. Trong số những phát minh ấy, trổi vượt hơn cả là các phương tiện tự bản chất không những có liên hệ và ảnh hưởng đên từng người, mà còn đến cả đại chúng và toàn thể xã hội nhân loại như báo chí, điện ảnh, phát thanh, vô tuyến truyền hình..[2].  Và các Nghị phụ quả quyết: đây là những phương tiện đáng được gọi là những phương tiện truyền thông xã hội[3] .

 

2.Thời điểm ra đời của các phương tiện truyền thông.

Chúng ta cảm được Mẹ Giáo Hội đặc biệt quan tâm đến các phương tiện truyền thông xã hội, bởi chúng không những ảnh hưởng đến từng người một, mà còn ảnh hưởng đến toàn xã hội. Chúng ta cũng không quên rằng, vào thời điểm Sắc lệnh về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội ra dời, Internet cũng như điện thoại di động chưa có tên trong danh sách những phát minh kỳ diệu về kỹ thuật của con người, như trang điện tử Wikipedia liệt kê sau đây:

Vào cuối thế kỷ 20, truyền thông đại chúng có thể được phân ra thành 8 ngành công nghiệp: sách, báo in, tạp chí, ghi dữ liệu, phát thanh, điện ảnh, truyền hình và Internet. Trong thập niên 2000, một sự phân loại gọi là “seven mass media” (bảy loại hình truyền thông đại chúng) đã trở nên phổ biến. Nó bao gồm:

1.In ấn từ cuối thế kỷ 15

2.Ghi dữ liệu từ cuối thể kỷ 19

3.Điện ảnh từ khoảng năm 1900

4.Phát thanh từ khoảng năm 1910

5.Truyền hình từ khoảng năm 1950

6.Internet từ khoảng năm 1990.[4]

 

3. ích lợi và sự bất cập của phương tiện truyền thông.

a.Tiện ích.

– Điện thoại
Ngày nay, không ai còn lạ gì với những hình ảnh được đăng trên các trang mạng. Nhưng tôi không sao quên được hình ảnh một cụ bà miệt quê, lưng đã còng vì tuổi tác, khuôn mặt cụ đan chi chít những nếp nhăn. Ấy vậy mà từ ánh mắt cụ toát ra một niềm vui rạng rỡ khả dĩ làm cho khuôn mặt vốn già nua trở nên tươi trẻ lạ thường! mặc dù trên vai cụ đang gánh đôi thúng chất đầy hoa màu thu từ ruộng đất đang từ ngoài đồng trở về nhà, trên tay cụ đang áp chiếc điện thoại di động vào tai để nghe. Gợi lên như thế không ngoài mục đích để lòng nhủ lòng mình rằng: các phương tiện truyền thông không phải là không hữu ích thiết thực.
Niềm vui rạng rỡ của cụ bà nói trên, là tiếng nói mạnh hơn những gì chúng ta muốn chứng minh cho những tiện lợi mà kỹ nghệ Internet đã mang lại cho con người đương đại. Thật vậy, khi ngắm bức hình bà cụ vui tươi hạnh phúc với chiếc điện thoại di động cầm ứên tay, bản thân người viết nhớ lại vào những năm đầu của thiên niên kỷ thứ 3, tại nước ta, tuy điện thoại di động đã được người dân sử dụng tập trung nhiều ở các thành phố lớn, nhưng chưa phổ biến rộng rãi khắp nơi như ngày nay. Vào thời điểm đó, khi bản thân được bề trên giao nhiệm vụ phụ giúp cha coi nhà khách, cứ mỗi lần khách đến muốn xin gặp ai, thì sau khi mời khách ngồi dùng tạm ly nước mát cho đỡ mệt, bản thân phải xin lỗi khách ngồi chờ để chạy đi kiếm người khách muốn gặp. May thì kiếm được ngay, bằng không thì kiếm hết đầu này tới đầu kia mà chẳng gặp được người mình muốn tìm. Ngày nay các thầy phụ trách nhà khách chỉ cần vài giây thao tác trên chiếc máy nhỏ xíu, chỉ cần một hai phút sau thì khách có thể tiếp chuyện với người mình muốn gặp. So sánh như thế không phải để hoài cổ hay để phàn nàn than trách, nhưng để làm nổi bật sự tiện ích của các phương tiện đã cống hiến cho con người mà chúng ta không thể chối cãi.

 

– Internet

Cũng xin lấy lại hình ảnh cụ bà hạnh phúc ở trên. Già thiết chiếc máy cụ dùng chưa kết nối với Internet, hay chức năng của máy không nhiều, chỉ có thể gởi đi các tin nhắn, chỉ để gọi đi hay đón nhận những cuộc gọi đến. Nhưng nếu cụ là người biết tận dụng tiến bộ khoa học cho công việc của mình như: tham khảo các tài liệu liên quan đến nhà nông chăng hạn, thì ngoài những kinh nghiệm sẵn có cộng với kinh nghiệm của những đồng nghiệp, của những nhà khoa học chắc chắn mùa màng của cụ sẽ được bội thu.
Còn biết bao lợi ích mà Internet đã cống hiến cho người sử dụng một cách nhanh chóng và phong phú. Người viết không muốn dài lời để chứng minh, vì không ai là không thấy những ích lợi đó. Tuy nhiên chỉ nhìn thấy mặt tốt mà không chỉ ra những bất cập thì vẫn còn thiếu sót.

 

b.Bất cập

– Internet

Không ai lại không biết rằng, ngoài những lợi ích mà các phương tiện truyền thông đã mang lại, thì bên cạnh đó, mặt tiêu cực của nó đã đẩy bao con người vào hố sa ngã. Vì lợi nhuận, các nhà sản xuất đã không ngại tung ra bao nhiêu là sản phẩm mang nội dung tiêu cực thiếu giáo dục. Những phim ảnh đồi trụy đã làm bao nhiêu bạn trẻ sa đọa, đánh mất nhân phẩm và tư cách. Thoạt đầu, người sử dụng Internet không có ý định tìm những điều vô bổ, nhưng trong quá trình tìm kiếm tài liệu hữu ích cho công việc của mình, có thể những trang quảng cáo sẽ xuất hiện hoặc những đường link dặn người ta vào những trang mạng có nội dung xấu, nếu như người ta không cảnh giác.

– Điện thoại di động

Cũng như Internet, người sử dụng điện thoại cũng có thể vô tình làm nô lệ cho những sản phẩm do chính con người sản xuất ra nó. Đành rằng vì giao dịch hay vì công việc, người ta không thể rời bỏ nó dù trong giây lát. Nếu không, có thể họ sẽ đánh mất cơ may hiếm có với một hợp đồng béo bở. Nhưng chúng ta nghĩ sao với những sinh viên, học sinh không có đủ thòi gian để nghiên cứu ôn tập…Trong khi đó lại có thể tán gẫu hằng giờ với bạn bè? Chưa nói đến những trường hợp thiếu xây dựng, như sử dụng điện thoại để gởi đi những tin nhắn nặc danh, gây hoang mang, xáo trộn, nghi ngờ cho những người trong cuộc.
Vậy những người sống đời sống thánh hiến có cái nhìn hay sử dụng các phương tiện truyền thông như thế nào?

 

II.Tu sĩ đổi các phương tiện truyền thông

1.Giáo huấn của Giáo Hội

Trong Sắc Lệnh về các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội, các Nghị Phụ xác quyết rằng: vì nhiệm vụ rao giảng Phúc Âm, Giáo Hội không ngần ngại dùng các phương tiện truyền thông để loan báo ơn cứu độ[5]. Chúng ta cũng không quên Giáo huấn của Giáo Hội được gởi chung cho toàn thể Dân Chúa với mong ước mọi con cái Giáo Hội đón nhận để không bị thiệt hại khi sử dụng các phương tiện đó[6].

Các tu sĩ nói chung được thánh hiến đặc biệt cho Thiên Chúa, sống các lời khuyên Phúc Âm, theo gương Đức Kitô, phục vụ Giáo Hội, chiêm niệm và hăng say hoạt động tông đồ, trau dồi các nhân đức[7] . Mọi hội dòng được mời gọi tham dự vào sinh hoạt của Giáo Hội [8]. Tuy nhiên trong khi mời gọi mọi hội dòng phải hết sức cổ võ những sáng kiến và đề nghị của Giáo Hội như thể là của chính riêng mình, chẳng hạn trong các lãnh vực Thánh Kinh, phụng vụ, truyền giáo; Giáo Hội không quên lưu ý các hội dòng còn phải quan tâm đến tính cách riêng của mình..[9] Khi đề cập đến việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, Bộ Giáo Luật cũng đã có cái nhìn khôn ngoan, khi nhắc nhở các tu sĩ cần có sự cẩn trọng cần thiết, để có thể tránh những điều có hại đến ơn gọi riêng và nguy hiểm cho đức khiết tịnh của người tận hiến..[10] Trong khi mời gọi mọi tu sĩ đừng ngại dấn thân hết mình trong hân hoan phấn khởi để phục vụ Giáo Hội[11] , Mẹ Hội Thánh không quên nhắc đến việc canh tân thích nghi đòi sống dòng tu sao cho hợp lý như sau: “Việc thích nghi công cuộc canh tân đời sống tu trì bao gồm cả sự liên tục trở về nguồn mạch của đời sống Kitô hữu và ơn linh hứng nguyên thủy của Hội dòng, cũng như sự thích nghi của Hội dòng với những hoàn cảnh đổi thay qua các thời đại”[12] . Qua lời nhắn nhủ này, chúng ta đi dần đến vấn đề mấu chốt – đời đan tu sử dụng các phương tiện truyền thông làm sao. Vì khuôn khổ bài viết, sau khi đã phải giới hạn những phương tiện truyền thông trong một vài thể hình, cụ thể là Internet và điện thoại di động. Đến lượt chủ thể sử dụng các phương tiện ấy cũng đươc giới hạn, bởi hạn từ “tu sĩ” bao gồm những ai sống đời sống thánh hiến, không phân biệt dòng chuyên hoạt động hay dòng chiêm niệm, là những dòng luật nội vi phải được giữ ngặt hơn[13] .

 

2.Đời sống đan tu

Theo tu luật Thánh Phụ Biển Đức, ngoài ba lời khấn Vâng Phục, Khó Nghèo và Khiết Tịnh các đan sĩ còn khấn giữ thêm hai lời khấn đặc thù nữa là Canh Tân và Bền Đỗ. Giáo Hội đặc biệt quan tâm các tính cách riêng của mỗi hội dòng khi nói: “Mỗi Hội dòng có đặc tính và phận vụ riêng nhằm mưu ích cho Giáo Hội, do đó, phải trung thành nhận thức vờ tuân giữ tinh thần cũng như ý hướng đặc biệt của các Đấng Sáng Lập, kể cả các truyền thống tốt đẹp, vì đó là những yếu tố tạo nên di sản của mỗi Hội dòng’[14]. Một trong những truyền thống tốt đẹp đó là “Nội Vi’’ mà đan sĩ chúng ta phải trân trọng, nếu không chúng ta sẽ chẳng mang lại hoa trái gì như Giáo Hội đã khắng định: “Tu sĩ của bất cứ Hội dòng nào cũng phải hiếu rằng họ đã đáp trả lời mời gọi của Chúa, chủ yếu qua việc tuyên khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, vì thế, chẳng những họ phải chết đi cho tội lỗi (x.Rm 6,11), mà còn phải từ bỏ thế gian để sống cho một mình Thiên Chúa. Thật vậy, họ muốn dâng hiến trót cả cuộc đời để phụng sự Thiên Chúa, chính hành động ấy đã làm nên cuộc thánh hiến đặc biệt, gắn liền và thể hiện cách trọn hảo ơn thánh hiến của bí tích Thánh Tẩy”[15] .

 

a. Nội vi
– Nội vi theo nguyên nghĩa
Hạn từ Nội vi có gốc từ La ngữ: Clausura (đóng kín, khoá kín). Đan sĩ được ẩn kín trong đan viện để dễ bề nên hoàn thiện. Hiến Pháp có nói rõ: “Nội vi giúp tu sĩ sông tách biệt thể gian và bảo vệ sự thanh vắng của đan viện ” (HP, số 143). Một khi đã tự nguyện dấn thân phục vụ Chúa, tu sĩ không xem Nội vi như nhà tù, nhưng trái lại như lời Cha Thánh Biển Đức mời gọi: “Đến nỗi không bao giờ chúng ta lìa xa giảo huấn Người; trải lại chúng ta kiên trì trong giáo lý của Người nơi Đan Viện cho đến chết, kiên nhẫn chia sẽ các đau khố của Đức Kitô để đáng được dự phần trong Nước Người. Amen” [16]

 

– Nội vi theo nghĩa mở rộng
Tới đây chúng ta có thể áp dụng hạn từ Nội vi theo nghĩa rộng. Các tu sĩ đều “tin” rằng mình rất tha thiết với đan viện và không dám xem thường luật Nội vi. Nhưng trong khi sử dụng các phương tiện truyền thông như Internet hay điện thoại di động vì nhiệm vụ được giao, đương nhiên phải tiếp xúc với thế giới bên ngoài để hoàn thành bổn phận. Nhưng để xác định đâu là làn ranh giữa sự được phép và không được phép; theo thiển ý của người viết xin phân biệt giữa người sử dụng phương tiện đúng ý Chúa là đang còn ở “trong Nội vi”, với người đã lạm dụng phương tiện này là “vượt nội cấm ”? Thánh Phaolô đã cầu xin Thiên Chúa ban cho các tín hữu Philipphê được lòng mến dồi dào để từ đó nhận được tài trực giác siêu nhiên cũng như ơn hiểu biết, để nhận ra cái gì là tốt hơn (X.P11,9-10).

 

Kết Luận
Để kết bài chia sẽ, người viết xin trích một đoạn thư của Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a gửi tín hữu Ê-phê-xô, để giúp cho tu sĩ biết cách thức hành động thế nào cho phải lẽ: “…Nếu anh em có lòng tin và lòng mến hoàn hảo đối với Đức Giêsu Kitô. Đó là khởi đầu và cùng đích của cuộc sống: lòng tin là khởi đầu, lòng mến là cùng đích. Khởi đầu và cùng đích hợp lại là Thiên Chúa, còn tất cả những điều khác liên quan tới đời sống công chính đều phát xuất từ đó. Không ai tuyên xưng đức tin mà phạm tội, không ai có lòng mến mà lại ghét người. Xem quả thì biết cây. Cũng vậy, người ta nhận biết những ai xưng mình là người của Đức Kitô qua các việc những người ấy làm. Qủa thế, không phải là tuyên xưng bây giờ, nhưng là bền đỗ trong đức tin cho đến cùng[17].
Không phải tuyên khấn vĩnh cư là từ nay đan sĩ không đi ra ngoài, nhưng khi xuất hành đan sĩ phải lòng trí của một thầy dòng như Cha Tổ Phụ dạy: “Một thầy dòng thật, khi có việc phải đi khỏi nhà dòng, hoặc cực chẳng đã phải đi nhà thương, thì khi ấy mới biết phước trọng kẻ ở trong nhà dòng là thế nào. Vì linh hồn chỉ gặp những điều chua xót đắng cay… Còn như anh em nào, khi có việc ra khỏi nhà dòng, thì lấy làm vui thích, càng lâu về càng hay, ấy là dấu không tốt, không phải lòng trí thầy dòng, khác thể con quạ ra khỏi tàu, gặp thấy thây ma xác chết thì vui thích vậy” (DN, số 133).
Cũng vậy, trong khi sử dụng các phương tiện truyền thông để góp phần loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo[18] , đan sĩ không quên cảnh giác bởi quá biết mình chỉ là phàm nhân mỏng dòn dễ bị lôi cuốn. Chính vì thế, để giữ được sự quân bình trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông cho đời sống đan tu, đan sĩ phải gắn bó với “Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin”[19] . Chính lòng tin và sự yêu mến sẽ hướng dẫn người tu sĩ sử dụng các phương tiện truyền thông trong tinh thần khổ chế thế nào cho phù hợp. Ước gì Ngài là Đấng khai mở lòng tin cũng kiện toàn lòng mến các tu sĩ, để các tu sĩ không chỉ tuyên xưng niềm tin ngoài miệng, nhưng còn tin yêu thật trong lòng để được nên công chính[20] . Nhờ đó, trong khi sử dụng các Phương Tiện Truyền Thông, để chu toàn mọi nhiệm vụ dù trong hay ngoài đan viện tâm hồn luôn được thanh thoát bình an.
 


 [1] http://vi.wikipedia.org/wiki/Truv%E1%BB%81n_th%C3%B4ng

[2] X. Sắc lệnh về các phương tiện truyền thông, số 1

[3] Ibid

[4] http://vi.wikipedia.org/wiki/Truv%E1%BB%81n_th%C3%B4ng

[5] X. sắc lệnh về các phương tiện Truyền Thông xã hội “lnter Mirilica“, số 3

[6] x.“lnter Mirilica“, số 24.

[7] x.DT 5

[8] X. Perfectae Caritatis, số 2.

[9] Ibid.

[10] X. GL, điều 666

[11] X. Tông Thư của ĐTC Phanxicô Gửi Tất Cả Các Người Tận Hiến Nhân Dịp Năm Đời SốngThánh Hiến: Tôi ước mong rằng luôn luôn thực hiện được điều mà tôi dã có lần nói: “Đâu có các tu sĩ thì có niềm vui“.

[12] Perfectae Caritatis, số 2.

[13] Giáo luật, điều 667

[14] Ibid.

[15] Ibid, số 5

[16] TL, Lời mở; xem them Hiến Pháp số 151: “Đã lánh xa trần tục, tu sĩ yêu sống trong đan viện, chỉ ra ngoài khi có lý do chinh đáng và theo chỉ thị của viện phụ”. Và số 144: “Tu sĩ phải tôn trọng luật nội vi. Không ai được ra khỏi nội vi khi không có phép viện phụ”

[17] Kinh Sách, Tập 3 mùa thường niên, bài đọc 2, thứ hai, tuần II.

[18] X. Mc 16,15.

[19] Dt 12,2.

[20] x. Rm 10,10

 

 

 

 

 

 

HẠNH PHÚC ĐỜI THÁNH HIẾN

 

Cao Minh Long (CSĐD)

 

Bất cứ ai được sinh ra trên cõi đời này, dù ở đâu hay sống trong thời đại nào, đều có chung một “ước mơ” là làm sao cho cuộc đời mình thật hạnh phúc, có ý nghĩa và giá trị đích thực. Thánh Thomas Aquinô cũng đã nói: “Theo bản tính tự nhiên, mọi người đều khát mong hạnh phúc[1]. Chính vì thế, mà nhiều người chấp nhận đánh đổi rất nhiều để mong được hạnh phúc.

Ngày nay, có những người coi hạnh phúc như là một mục đích để phấn đấu đạt tới bằng mọi cách, có người coi hạnh phúc là một điều con người có thể gặp trên từng bước hành trình, và không thiếu những người tìm ra cho mình những kỹ năng để nâng niu và nắm giữ được hạnh phúc lâu dài.

Khi đặt hạnh phúc là đích điểm trong tương lai, thì nhiều khi con người mất đi sự tận hưởng và cảm nếm chính hiện tại vốn cũng đầy niềm vui và tươi đẹp. Nếu không cảm nghiệm chính hạnh phúc là niềm vui trong hiện tại, nhiều khi con người chỉ như người đuổi hình bóng một cách vô định mà thôi. Chính trong những điều bình thường của cuộc sống mỗi ngày, hành trình đường đời của con người có khi tràn ngập hoa lá xanh tươi chan hoà ánh sáng và tràn ngập ơn phúc, nhưng con người có nhận ra hay không.

Đời dâng hiến của đan sĩ cũng thế, nếu không biết biện phân đâu là điều chính yếu hay phụ thuộc, ý nghĩa va cùng đích của đời dâng hiên là gì, thì sẽ không bao giờ có được hạnh phúc đích thực. Tuy nhiên, điều mà đan sĩ mong muốn và tìm kiếm có đúng hay không, hay chỉ là một sự mơ tưởng hoặc bị hiểu sai về hạnh phúc.
Vậy, hạnh phúc là gì và ở đâu?

 

I.THẾ NÀO LÀ HANH PHÚC ?

Khi nói đến hạnh phúc, thì rất khó để khẳng định đâu là hạnh phúc; ai là người được hạnh phúc, và dựa vào tiêu chuẩn nào để cho rằng mình hạnh phúc. Lại càng khó hơn khi mỗi người đều có một quan điểm hay một khái niệm để mặc định cho nó, đôi khi dẫn đến tình trạng uốn nắn hạnh phúc theo chủ ý khách quan của mình.
Nhưng hạnh phúc lại được mỗi người hiểu một cách khác nhau, nên rất khó thống nhất. Các trường phái hay tôn giáo cũng có những quan niệm khác nhau khi bàn vê hạnh phúc.
Thế thì hạnh phúc là gì?
Từ điển Tiếng Việt nói về hạnh phúc là: “Có được nhiều sung sướng, toại nguyện[2].
Theo ngôn ngữ học: “Tình trạng sung sướng của con người, khi khuynh hướng được hoàn toàn thoả mãn, về lượng, về phẩm, về lâu dài theo đúng bậc thang giá trị[3] .
Theo Bách Khoa Toàn Thư: “Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thoả mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí”[4]

 Sự sung sướng hay thoả mãn có thể là cái gì đó nắm bắt được cách cụ thể như: tiền tài, danh lợi, sức khoẻ, địa vị, quyền lực, thành công, thoả mãn các ước muốn…. Bởi vì người ta phỏng chiếu hạnh phúc dưới nhiều lăng kính chủ quan và có phần hiện sinh, nên đôi khi thấy vậy mà không phải vậy. Tôi theo góc độ và vị thế của tôi; anh theo chủ quan của anh. Mỗi người tuỳ thuộc theo quan điểm, hiểu biết và bậc sống của mình, dựa trên nhu cầu về thể lý hay tâm linh để hình thành nên một quan niệm về hạnh phúc.

Nhưng nếu chỉ có thế, thì quan niệm của con người về hạnh phúc thật lệch lạc, vì nó không bám rễ sâu trong tâm hồn, nơi nội căn của con người. Hạnh phúc như thế thì phải chăng không phải là hạnh phúc thật, bởi vì nó mang tính chủ quan, phiếm diện, nên con người cứ nhọc công tìm kiếm, và lòng tham vô đáy của con người biết đâu cho vừa, nên cứ phải tìm hoài, tìm mãi …Người đời thường có câu: “Con dao và cái nĩa không làm cho người ta ngon miệng” (De Sirvy). Trong nhà tu có câu ngạn ngữ như: “Áo dòng không làm nên thầy tu, hoa thơm nhân đức đời tu mới thành”.

Từ cái nhìn đó, mỗi người chúng ta hiểu được ngay rằng: những thứ bên ngoài không đem lại cho người ta hạnh phúc thật, còn những cái ở bên trong mới đem lại cho con người hạnh phúc đích thực.

Như vậy, hạnh phúc là một cái gì đó cao quý, thiêng liêng, là vô hằng mà ai cũng mong muốn đạt được. Nó là một trạng thái nội tâm sâu xa được khởi đi từ nội căn, chứ không phải thứ hạnh phúc bề ngoài do ngoại tại tác động.

Khi nói đến hạnh phúc đời dâng hiến, Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI đã nói; “Giáo Hội không cần có các linh mục, tu sĩ hạnh phúc vì được là linh mục, tu sĩ”[5]. Tiếp theo là Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mỗi người hãy cảm nghiệm được niềm vui Tin Mừng. Khi cảm nghiệm được niềm vui và hạnh phúc vì có Chúa ở cùng và sống với, mỗi người chúng ta có thể loan truyền Đức Tin cho thế hệ tương lai. (x. Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng).

Tuy nhiên, thành phần quan trọng trong sứ vụ này không ai khác chính là những người sống đời thánh hiến. Nhưng trước khi giúp cho người ta khám phá và tái khám phá niềm vui, hạnh phúc khi đi theo và gắn bó với Đức Ki-tô, thì chính những người thánh hiến phải trở nên dấu chỉ về niềm hy vọng, hạnh phúc và niềm vui cho người khác.
Như vậy, “hạnh phúc đời dâng hiến” chính là khi chúng ta được ở bên Chúa, được kết hợp mật thiết với Chúa và sống trong bình an của Chúa.

 

II.HẠNH PHÚC ĐỜI DÂNG HIẾN LÀ SỐNG THÂN TÌNH MẬT THIẾT VỚI THIÊN CHÚA.

Hạnh phúc trong đời dâng hiến, không phải là được ở trong một đan viện to lớn hoành tráng, có bề dày về truyền thống, hay có những cơ sở hạ tầng vĩ đại, nơi giáo dân tôn trọng, nâng đỡ và tạo điều kiện thuận lợi là “hạnh phúc”.
Hạnh phúc đời dâng hiến không phải như thế! Hạnh phúc đời dâng hiến chính là gắn bó với Chúa liên lỉ trong đời sống hằng ngày. Chỉ có sự gắn bó với Chúa, được biểu lộ qua đời sống cầu nguyện, đan sĩ mới thấy được hạnh phúc nội tâm và niềm vui chia sẻ. Vì: “Cầu nguyện là moi tương quan giao ước giữa Thiên Chúa và con người trong Đức Ki-tô[6] . Nhờ cầu nguyện đan sĩ được đi vào “giao ước thánh ” của lòng mình với Thiên Chúa. Có cầu nguyện đan sĩ mới khám phá ra hạnh phúc thật và hạnh phúc giả tạo.

Khi chọn đời sống tu trì để hiến dâng cho Thiên Chúa và con người, thì đời tu của mỗi đan sĩ là một cuộc giao ước thánh. Thông qua giao ước này, đan sì chọn Chúa làm chủ đời mình và thuộc trọn về Ngài, và Ngài thuộc về mình, đó là một “Giao ước tình yêu”.
Lời mời gọi của Đức Giêsu “hãy theo Thầy” và chúng ta đáp trả, ấy là một cuộc tình được thiết lập, mà Đức Giêsu là người chủ động đi bước trước. Đây là một lời mời gọi mang đầy tình mến mà Đức Giêsu dành cho những ai Ngài chọn. Khi chúng ta đáp lại lời mời gọi đó, là chính lúc ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Thánh Phaolô đã nói thật thâm sâu: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi” (Pl 3, 8). Đó cũng là “khởi điểm của chương trình này là sự kiện phải rời bỏ tất cả để theo Đức Kitô và sống gắn bó với Ngài[7]
Sự gắn bó với Đức Ki-tô được hiểu như một sự sống còn. Chính Ngài cũng đã diễn tả tâm tình này khi đưa ra hai dụ ngôn: Người tá điền và anh lái buôn (x. Mt 13,44- 46). Niềm vui và hạnh phúc của người môn đệ chính là xác tín thật chắc chắn về vị Thầy mà mình quyết định đi theo, để được ở cùng và sống với Ngài. Vị Thầy đó chính là kho tàng, là viên ngọc quí. Nói cách khác, Đức Ki-tô là lẽ sống, là lý tưởng và cùng đích của chúng ta và “không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Đức Ki- tô” (Rm 8,38).
Trong Tin Mừng, chúng ta cũng thấy có câu chuyện chàng thanh niên giàu có được Đức Giêsu đem lòng yêu mến, quí trọng và mời gọi anh ta bước đi theo Ngài để được hạnh phúc: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bản những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi. Anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”(Mc 10,21-22).

Đời đan tu cũng thế, có rất nhiều người muốn theo Chúa, hiến thân để sống đời phục vụ… Nhưng oái ăm thay, họ lại không chịu những điều kiện đi đôi với những ước muốn đó. Họ muốn cả hai và luôn trong tình trạng sẵn sàng “bắt cá hai tay”. Họ ngại khó, sợ hy sinh và khó từ bỏ. Hoặc thay vì đi theo và chọn Chúa, thì lại chỉ lo làm việc của Chúa, đến khi không có việc của Chúa hay không ưng ý với công việc được trao, thì sinh ra buồn phiền, chán nản và bỏ đi như chàng thanh niên giàu có kia.
Chính vì thế, đan sĩ không lạ gì khi thấy rất nhiều người bên ngoài xem ra thành công, họ cười nói oang oang, vỗ ngực xưng tên, được nhiều người trọng dụng… Nhưng thực chất, khi đối diện với lương tâm, họ là những người bi đát, thất vọng vì không có nguồn hạnh phúc đích thật là chính Chúa, mà chỉ có những thứ hạnh phúc rẻ tiền mà thôi. Vậy, muốn có một cuộc đời hạnh phúc đích thật, thì trước tiên, đan sĩ phải yêu mến và siêng năng trong đời sống cầu nguyện.

 

III.HẠNH PHÚC ĐỜI DÂNG HIẾN ĐƯỢC XÂY DỰNG BẰNG ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN.

Khi nói đến đời sống đan tu, người ta nghĩ ngay đến đời sống cầu nguyện, vì đó là sứ mạng và ơn gọi đặc thù của đan sĩ. cầu nguyện được ví như “trái tìm” của đan sĩ. Trái tim mà ngừng đập, thì con người sẽ chết. Cũng thế, đan sĩ không yêu mến, không sống khắng khít với Đức Ki-tô bằng đời sống cầu nguyện thì sẽ không phải là đan sĩ đích thực nữa.
Sống đời đan tu, nhiều khi đan sĩ không cảm thấy hạnh phúc ngay trong những chiến thắng bề ngoài. Tại sao vậy? Thưa chỉ đơn giản là không cầu nguyện. Hay lời cầu nguyện của đan sĩ bị đóng khung ở bên trong nhà thờ, bi khoá chặt trong cuốn sách Phụng Vụ Giờ kinh, mà không hề ăn nhập gì với cuộc sống cả. Những người như thế, họ như là “xác không hồn ” và không sớm thì muộn, đời tu của họ sẽ sụp đổ tan tành ngay bởi sự nhàm chán trong công việc phụng vụ, phục vụ cộng đoàn và nỗi cô đơn trong đời tu.
Cho nên, đan sĩ phải cầu nguyện, vì cầu nguyện làm cho đan sĩ được liên kết với Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, được hiệp thông với Chúa Cha. Chính Chúa Giêsu đã cầu nguyện và nhiều lần dạy các môn đệ hãy cầu nguyện trong sự kiên trì và khiêm tốn… Đan sĩ phải cầu nguyện, vì Đức Giêsu Cứu Thế đã mời gọi chúng ta đên để tiếp tay với Ngài Phúc Âm hoá thế giới này. Đan sĩ phải cầu nguyện, vì đó là nguồn mạch nuôi dưỡng và phát huy sự sống của Giáo Hội nói chung và đời dâng hiến nói riêng. Đan sĩ phải cầu nguyện, để chính mình được biến đổi, được nên thánh, và đồng thời cũng giúp người khác được thánh hoá.
Đức Hồng Y Phanxixô Nguyễn Văn Thuận xác tín điêu đó, nên đã nói; “Thứ nhất cầu nguyện, thứ hỏi hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động’’[8] .Khi không có đời sống cầu nguyện trong cuộc đời của đan sĩ, và đan sĩ làm mọi chuyện chỉ là việc cưỡng ép, thì có lẽ máy móc tân tiến ngày nay làm tốt hơn chúng ta nhiều.
Nếu không có đời sống cầu nguyện, thì đan sĩ mất đi nguồn sự sống, nguồn bình an, và như thế, chính bản thân ta đâu cỏ đủ tư cách nói rằng: Tôi làm việc này hay việc khác vì Chúa! Vì cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng, một khi nền tảng đã mất, thì có thể làm được việc gì cho. có ích.
Như vậy, cầu nguyện phải là một trạng thái thanh thoát và bình an, không phải là chuyện làm cho xong, để rồi giờ cầu nguyện được ví như giờ lên lớp hay trả bài. Cầu nguyện là lòng với lòng, ta với Chúa trong tình Cha – Con, giúp cho đan sĩ trở về với lòng mình cách chân thực để biết mình và biết Chúa.

Nhận ra con người yếu đuối của mình, và nhận ra Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Mỹ. Khi nhận ra mình như thế, thì điều đầu tiên cần có là tâm hồn sám hối và sung sướng vì được Chúa yêu thương. Họ được ví là những người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá (x.Mt 7,24-25).
Sống đời cầu nguyện thâm sâu, thì mọi suy nghĩ, nhìn, nói, hành động của đan sĩ luôn theo ý muốn của Chúa Thánh Thần. Khi kết hợp với Chúa, họ không ngừng sám hối và cũng không ngớt thúc đẩy mở rộng lòng bao dung, tình thương đến với người khác.
Pierre Van Brieman đã nói: “cầu nguyện là mở tâm hồn, mở trái tim và đôi bàn tay trước mặt Thiên Chúa. Tôi còn bám víu vào nhiều thứ trong đời sống của tôi và quyết nắm chặt lấy chúng trong tay: của cải vật chất, tinh thần, công việc, địa vị của tôi, bạn bè nguyên tắc của tôi…Nếu tôi mở tay ra, những của cải trên vẫn còn đó, có lẽ không một vật nào vơi bớt đi nhưng ít nhất đôi bàn tay tôi đã mở. Thái độ đó là thái độ của người cầu nguyện ”.
Đúng thế, đan sĩ chỉ hạnh phúc khi gắn bó với Nguồn Cội, với Đấng đã, đang, và sẽ ban cho họ tất cả. Hạnh phúc vì đã “mở ra”, mở ra với Thiên Chúa và mở ra với tha nhân. Lúc ấy, Thiên Chúa là chủ cuộc đời cũng như vận mệnh của đan sĩ. Mọi việc đan sĩ làm đều “quy Kitô” và Chúa Ki-tô là trung tâm của ơn gọi và sứ vụ của mình.
Quả thực, đan sĩ sẽ hạnh phúc vì có Chúa ở cùng, chứ không lệ thuộc vào những công việc của Chúa hay những thứ bề ngoài.

IV.HẠNH PHÚC ĐỜI DÂNG HIẾN LÀ ĐEM NIỀM VUI ĐẾN CHO MỌI NGƯỜI.

Điều không ai chối cãi được, người hạnh phúc là người tràn ngập niềm vui, niềm vui ấy xuất phát từ chính Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là điều mỗi người đều khao khát trong cuộc đời. Niềm vui giúp con người tận hưởng cuộc sống yên bình hạnh phúc và cũng giúp họ vượt lên những gian nan thử thách trên bước đường đi tìm hạnh phúc.
Vậy niềm vui trong đời đan tu mang dáng dấp thế nào? Nó đến từ đâu?
Chúa Giêsu nói với những kẻ muốn bước theo Người rằng: “Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi” (Lc 9,23). Như thế chắc chắn những người sống đời dâng hiến không thể tìm cho mình niềm vui dễ dãi, vị kỉ, hay những gì thuần tuý thế gian. Niềm vui của họ chỉ có thể đến từ Thiên Chúa và từ việc thực hành sứ mạng của Người. Chỉ một mình Thiên Chúa mới đảm bảo niềm vui đích thực cho họ.
Niềm vui căn bản và sâu xa nhất nơi đan sĩ hệ tại ở việc ý thức rằng mình đáng yêu và được yêu. Đặc biệt là được yêu bởi chính Đức Kitô: “Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh và đem lòng yêu mến” (Mc 10,21). Thật vậy, nhu cầu yêu và được yêu là một một nhu cầu cốt yếu nhất của con người. Khi người ta có thể yêu và đón nhận được tình yêu thì đó cũng là lúc niềm vui có ở nơi họ. Nhất là lại được yêu bởi Đức Kitô_Đấng chính là tình yêu thì còn gì vui bằng.
Tiếp theo là Niềm vui được thể hiện qua công việc phục vụ, thấy mình có thể trao ban, có thể đem lại niềm vui cho tha nhân. Vui khi thấy những công việc của mình đơm bông kết trái, tựa như niềm vui của các bậc cha mẹ tần tảo lao động khi thấy con cái thành đạt… Niềm vui đến từ tỉnh huynh đệ trong đời sống cộng đoàn: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau ” (Tv 133,1). Tất nhiên, để có được niềm vui huynh đệ này, đôi khi phải đổ rất nhiều mồ hôi và nước mắt, cùng với sự trợ giúp của ơn Chúa để làm phá sản câu nói thời danh đầy bi quan của Jean-Paul Sartre: “Tha nhân là địa ngục”.
Thường thì niềm vui chỉ đến sau những thử thách, những nỗi buồn vì “nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16,20). Thật vậy niềm vui phục sinh chỉ có được sau khi đã trải qua thương khó thập giá!
Vì thế, trên hết mọi sự, đan sĩ phải luôn biết lạc quan và mỉm cười, với lòng tín thác và yêu mến Thiên Chúa, tương quan tốt đẹp với anh em, điều đó làm cho môi trường đan viện mình đang hiến thân tràn ngập niềm vui thánh thiện. Như ngạn ngữ Việt Nam có nói: “Có thể ta không mỉm cười khi hạnh phúc, nhưng ta có thể hạnh phúc hơn khi mỉm cười với đời”.
Trong cuộc sống, những khả năng Chúa ban cho mỗi người là khác nhau, nhưng có chung một điểm là tất cả đều rất phong phú và dồi dào. Đan sĩ hãy khám phá và làm cho khả năng ấy triển nở và sinh hoa kết trái tốt lành, đem lại niềm vui cho cuộc sống ơn gọi.
Mỗi người đều được Chúa trao cho những nén bạc khôn ngoan, chúng ta đừng để nó hư hao theo thời gian. Chúa không hẹp hòi với chúng ta, nhưng nhiều khi chính chúng ta lại hẹp hòi với mình, giới hạn những khả năng của mình, làm cho cuộc đời mình trở nên già cỗi, khô cằn, xơ cứng và vô dụng.
Mỗi một cuộc đời, đòi hỏi phải có một mục đích, một chung cục, một điểm tới và một ơn gọi để thực hiện, ơn gọi và cuộc sống là hai mặt phải-trái của cùng một chiếc mề đay là chính con người. Nếu con người không biết khám phá ra và tiếp nhận chính ơn gọi của mình thì không thể thi hành ơn gọi đó và đạt đến mức độ sung mãn cũng như hạnh phúc đích thật.
Chính vì thế, đan sĩ cần xác định và tái xác định cho mình một mục đích, một lý tưởng trong đời dâng hiến. Mục đích tốt lành sẽ thúc đẩy đan sĩ rèn luyện tâm trí, tư cách con người mình trở nên tốt hơn. Mục đích ấy sẽ hun đúc đan sĩ trở nên người phục vụ theo tinh thần của chính Đức Kitô, Đấng mà họ khao khát trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài mỗi ngày. Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích. Do đó, đan sĩ hãy xác định mục đích của mình và nỗ lực phấn đấu, với ơn Chúa và sự nhiệt tâm giúp đỡ của anh em.
Con người là một huyền nhiệm, là một kỳ quan của thế giới. Cuộc sống con người là một hành trình được Thiên Chúa chúc phúc. Cuộc sống sẽ được hạnh phúc và nhiều niềm vui hơn, nếu đan sĩ biết khám phá và trân trọng từng giây phút mình đang tận hưởng, nhất là trong môi trường đan tu. Đây là một môi trường rất thuận lợi để đan sĩ suy tư và sống tràn ngập niềm vui Tin Mừng, niềm vui trong nhà Chúa, niềm vui trong trường học yêu mến và phụng sự Thiên Chúa, để rồi từ đó chia sẻ niềm vui ấy đến cho anh em mình.

 

V.KẾT LUẬN.

Để có được hạnh phúc đích thực trong đời sống dâng hiến, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng: “Bất cứ nơi nào có cuộc sống dâng hiến thì ở đỏ cỏ niềm vui. Nhung niềm vui này từ đâu đến?… Những thứ chúng ta sở hữu có mang lại niềm vui không?… Niềm vui đích thực không hệ tại ở vật chất, mà ươm mầm từ những cuộc gặp gỡ và trong tương quan với người khác, trong cảm giác được đón nhận, được thấu hiểu, và được yêu mến, vì niềm vui đích thực thì có sức lan tỏa và làm cho đời sống dâng hiến trổ sinh hoa trái. Niềm vui là vẻ đẹp của đời dâng hiến[8]
Như thế, “hạnh phúc ” là quà tặng và là nguồn nâng đỡ lớn lao mà Thiên Chúa ban cho con người. “Niềm vui ” giúp đan sĩ thêm yêu cuộc sống, thăng hoa sự hiện hữu của mình, tìm thấy ý nghĩa những gì đan sĩ đang tận hưởng.
Cuộc đời đan sĩ sẽ trở thành hoả ngục khi vắng đi tiếng cười, khi không có cảm giác hạnh phúc hay không biết mình tồn tại trên thế gian này để làm gì.
Chính vì thế, đời đan tu phải được đặt trên kinh nghiệm của những người cảm thấy mình được Thiên Chúa thu hút. Đòi đan tu là lời đáp trả tiếng gọi tình yêu của Đức Giêsu Ki-tô, Đấng kêu mời con người lắng nghe và hiến toàn thân cho Ngài với lòng trung tín. Cuối cùng, đời sống đan tu không khác gì hơn, là cố gắng mỗi ngày nên giống Đức Giêsu Ki-tô và thuộc trọn về Ngài.

  


 

[1]Thomas Aquinô, Tổng luận Thần Học. Sum. Theo.I, q2.ad 1.

[2] Ngôn ngữ học Việt Nam, Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển bách khoa, 2010, tr 246.

[3] Trần Văn Hiến Minh,Từ điển và danh từ Triết Học, Tủ sách ra khơi, Sài Gòn, tr.93

[4] Xem bách khoa toàn thư trên: http:/vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A1nh_ph%C3%BAc ,truy cập ngày 08.02.2014

[5]  ĐTC Bênêdictô XVI, Buổi gặp gỡ các linh mục tại Hoa Kỳ trong chuyến thăm mục vụ, 2008.

[6] GLHTCG, số 2564

[7] ĐTC Gioan Phaolô II, Tông Huấn Đời sống Thánh Hiến, 25/03/1996, số 93.

[8] Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, số 119

[9] ĐTC Phanxicô, Buổi gặp gỡ chủng sinh và nhà tập sinh các dòng tu, 10.07.2013

 

 

 

 

 

DẬM CHÂN TẠI CHỖ

 

Mai Thi

Chúng ta cần phải xác định với nhau ngay về tựa đề của bài viết, “Dậm Chân Tại Chỗ” theo nghĩa nào tỏ đó chúng ta mới hiểu đúng và thấy vấn đề cần được giải quyết. Trong ý hướng sắp trình bày, chúng ta không thể hiểu theo nghĩa đen của từ ngữ hay liên tưởng đến mệnh lệnh “Dậm Chân ” vốn là điều lệ thuộc nghi thức duyệt đội thiếu niên tiền phong mà các giới học sinh tiểu học và trung học vẫn phải thực hiện vào mỗi đầu tuần hay trong các ngày lễ.
Theo cách hiểu thông thường, thành ngữ “Dậm Chân Tại Chỗ” được dùng để ám chỉ một người không đạt được thành quả gì, tất nhiên không phải là thua cuộc hay thất bại. Ý của câu nói này muốn đề cập đến sự ù lì, một sự an phận, ở yên trong một trạng thái nào đó cho dù là thụ động hay chủ động.
Ngoài việc “Sống Là Chiến Đấu”, các đan sĩ sống theo Tu luật thánh Biển Đức còn có lời khẩn Canh Tân – thăng tiến mỗi ngày. Tất nhiên việc thay đổi, thích nghi, cập nhật ở đây bao gồm tất cả mọi khía cạnh của đời sống mà đan sĩ đảm nhận. Vì thế, ai cố tình sống phương châm “Dậm Chân Tại Chỗ” là chưa chu toàn nghĩa vụ sống lời khấn Canh Tân đúng nghĩa, và cũng chưa hoàn thành sung mãn đời dâng hiến của mình. Đời sống cộng tu được đan dệt bởi rất nhiều mối tương quan liên hệ; vì thế trong hành trình nên thánh của đan sĩ cần cẩn thận duyệt xét từng mảng một thì mới thành nhân và thành thánh nhần được. Dựa vào tư tưởng trong cuốn Đường Hy Vọng, chúng ta có thêm những gợi ý thiết thực phương thế hiệu nghiệm khả dĩ giúp chúng ta quyết tâm đổi mới, nên hoàn thiện để sống vui, sống thánh và thăng tiến ơn gọi giữa cộng đoàn đan viện mỗi ngày.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng “Dậm Chân Tại Chỗ”, ở đây chỉ xin đề cập đến mấy điểm sau:
1.Những yếu tố ngoại tại.
2.Thiếu vắng đời sống tâm linh.
3.Chưa sẵn sàng cộng tác với ơn Chúa.

 

1.Những yếu tố ngoại tại.

Nguyên nhân đầu tiên của việc “ở lì ” một chỗ là không có cách nào khác, dù muốn dù không việc cập nhật và thích ứng cũng không thể thực hiện được. Người Việt Nam chúng ta vẫn nói: “lực bất tòng tâm” là vậy. Kinh nghiệm cho biết, muốn thực hiện một kế hoạch nào, nhất là các dự án lớn và dài hạn trong đời sống chung cần nhiều thòi giờ và ý tưởng mới đi đến nhất thống trước khi bắt tay vào thực hiện. Vì vậy đòi các bên liên quan có đủ những khả năng cần thiết để lượng định một chương trình rõ ràng, xuyên suốt nhưng phải rất cụ thể.
Như đã nói trên đây, việc đổi mới trong đòi sống đan tu không chỉ giới hạn trong lãnh vực phát triển kinh tế hay cách tổ chức một lãnh vực nào đó nhưng bao gồm tất cả mọi sinh hoạt xây dựng nên cuộc sống của đan sĩ: nhân bản, tâm linh, tri thức và sứ vụ.
Khi chọn đời sống cộng tu, các đan sĩ phải chấp nhận qui luật “cọ sát” giữa các quan điểm trái chiều của nhiều thế hệ sống chung: Người thế này, kẻ thế khác, mỗi thánh một thể…. Khuynh hướng chung của giới trẻ thì muốn đổi mới, thích có những thay đổi táo bạo; trái lại người già muốn yên phận, ngại thay đổi. Dù thế nào đi nữa vấn đề của chúng ta là làm cách nào để giảm thiểu tối đa các khuyết điểm dẫn đến việc trì trệ một cách thụ động ngoài ý muốn, dù đó là người trẻ hay những anh em cao niên.
Tích cực với việc canh tân, thích đổi mới là điều hợp lý nhưng đổi mới theo tiêu chuẩn[1] nào là bài toán thiết tưởng mỗi cộng đoàn cũng phải đặt ra ngay, trước khi bắt tay thực hiện. Bất cứ lãnh vực nào cũng vậy, đường hướng, chính sách là điều phải có và vô cùng quan trọng làm nên thành công hay thất bại. Nhiệm vụ của những người có trách nhiệm, những vị cố vấn, những anh em chuyên môn, những anh em thạo nghề… cần được trân trọng và sử dụng tối đa để nhất thống một chương trình cho sự phát triển đầy đủ và hiệu quả theo đúng đặc sủng và hoàn cảnh cụ thể của từng cộng đoàn. Nếu những chi tiết đó không được tôn trọng thì việc “Dậm Chân Tại Chỗ” của cá nhân hay tập thể chẳng có gì là khó hiểu. Tuy nhiên, việc canh tân đúng mục tiêu khi dựa vào ba tiêu chí, đây là những lý do khiến chúng ta phải canh tân không trì hoãn: Canh tân để tồn tại. Canh tân để tăng trưởng và Canh tân để thi hiệu quả ơn gọi và sứ mạng[2] .

 

2.Thiếu vắng đời sống tâm linh

Đời sống tâm linh là một trong những yếu tố quan trọng của đời dâng hiến, vì thế cũng cần có những đổi mới không ngừng. Canh tân đúng mức không chỉ lệ thuộc vào khiếm khuyết của yếu tố ngoại tại nhưng trên hết cấn khởi đi từ mỗi cá nhân trong việc tăng trưởng đời sống tâm linh. Nhiều người sẽ thắc mắc, có chăng: ‘‘một con én làm nên mùa xuân?” hay “sao lại lưu tâm trước tiên đến vấn đề cầu nguyện của riêng mỗi người?”

Đúng là muốn canh tân điều gì cần phải có ơn của Chúa. Nhờ Chúa Thánh Thần Chúa là Đấng soi sáng, hướng dẫn mọi sự ta mới làm được. Vì vậy, nếu mỗi người chưa nghe được lời chỉ dạy của Thánh Thần trong các giờ tiếp xúc cá vị với Thiên Chúa, tất nhiên sẽ không biết đường hoặc theo một hướng đi khác không phải theo Chúa hướng dẫn.
Đời sống cầu nguyện cần phải đặt ở trung tâm đời sống đan sĩ, đó là yếu tố quyết định cuộc đời dâng hiến có thành công hay không. Trong cuốn sách Đường Hy Vọng, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã cho chúng ta chìa khóa để giải quyết vấn đề khi nhắc đến sự cần thiết của cầu nguyện: “Nếu chúng ta không nhìn lên Chúa là nguồn hy vọng cho đời ta luôn luôn mới mẻ, an vui. Ai giải đáp được? (ĐHV 648). Cũng trong cuốn Đường Hy Vọng, tác giả xác định danh tánh của Đấng có quyền năng đổi mới mọi sự: “Động lực và tác giả mọi cuộc canh tân trong Hội Thánh là Chúa Thánh Thần, “Đấng canh tân mặt đất”. Mỗi cuộc canh tân phải là một lễ Hiện Xuống mới và không thể có lễ Hiện Xuống mới ngoài Chúa Thánh Thần. Con không thể canh tân ngoài Chúa Thánh Thần” (ĐHV 660).

Quả thật không bám víu vào Chúa, không có sự can thiệp của Chúa Thánh Thần thì chúng ta không có sức mạnh để sống và làm việc. Chúa Giêsu đã hứa: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn đưa anh em đến sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13). Nhưng đón nhận Thánh Thần như thế nào? Đó là phần của từng người ngang qua những “điểm dừng” để tự vấn lương tâm, để ý thức cuộc sống trong giây phút hiện tại và kín múc ơn Chúa qua tác động của Thánh Thần[3] . Tất cả những điều đó đều được thực hiện trong cầu nguyện và thinh lặng. Mỗi ngày cần: “Phúc Âm hóa lại” trí óc và quả tim con bằng cách đọc, suy ngắm, say sưa uống lấy lời hằng sống, để từ từ phúc âm thấm nhuần sâu xa vào mọi tế bào, mọi thớ thịt của con, đó là canh tân, cách mạng chắc chắn nhất (ĐHV 646).

Sở dĩ, cuộc sống chúng ta còn trì trệ vì tình yêu mến của chúng ta với Chúa chưa mặn mà, đời sống nội tâm còn trống rỗng. Ai cũng thấy rằng từ nền tảng của đời sống bến trong sẽ tỏ lộ ra những cử chỉ và hành động bên ngoài, một cách tự nhiên thoải mái chứ chẳng cần gò ép hay giả tạo.

Như đã nói: “Muốn canh tân cộng đoàn nhất thiết phải canh tân bản thân trước ”, nếu không chẳng đi đến đâu và ý nghĩa của đời sống cộng đoàn chẳng còn được đánh giá đúng mức, nếu không muôn nói là cộng đoàn hết lý do hiện hữu. Vì thế một cách cá vị, mỗi người cần luôn luôn làm mới lại tương quan với Thiên Chúa. Ai cũng làm như thế, cộng đoàn sẽ biến đổi. Mọi sinh họat trong đời đan tu cần được tái khám phá dựa trên cảm nhận tình Chúa thực hiện ngang qua đòi ta và bổn phận của ta là đáp lại tình yêu đó.

3.Chưa sẵn sàng cộng tác với ơn Chúa

Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận viết trong cuốn Đường Hy Vọng, ràng: “Con phải canh tân tâm hồn quảng đại đơn sơ đối với Chúa: Chúa muốn gì con cũng cho hết”, và đừng quên điểm thứ 2: “Chúa cho gì con cũng nhận hết” (ĐHV 642).
“Phải canh tân bao lâu? Phải luôn luôn khởi sự lại. Phải luôn luôn tu chỉnh thêm. Con đừng an nghỉ, bao lâu hôm nay con chưa tiến hơn hôm qua một bước trong sự hiệp nhất với Chúa. Con phải đinh ninh rằng lúc con khởi sự dừng lại là khởi sự thụt lùi xuống dốc, khởi sự cô hủ ” (ĐHV 640).

Sở dĩ chúng ta chưa sẵn sàng cộng tác với Chúa vì chúng ta thích yên thân, ngại thay đổi, sợ hy sinh….
Nếp sống đan tu được “lập trình ” trong từng chi tiết: thời khóa biểu thường nhật và những ngày lễ, những qui định trong các cử hành phụng vụ cho đến những thái độ và cử chỉ cần phải có ở những nơi chốn trong đan viện. Tất cả đều hướng tới một sự trật tự bên ngoài và bình an nội tâm, là hai điều kiện cần thiết để ơn gọi đan tu được tăng trưởng[4] . Tuy nhiên, các đan sĩ được mời gọi khám phá ra cái gì mới trong nếp sống “ổn định ” mặc dù xét dưới khía cạnh, nào đó cuộc đời đan sĩ thật đơn điệu và tẻ nhạt, nếu không muốn nói là nhàm chán như một số người nhận định. Mỗi đan sĩ cần vượt ra khỏi tầm nhìn bi quan để đọc ra điểm mới qua cuộc sống ổn định đó chứ không phải giữ cho đủ cho đúng những qui định mà chăng màng gì đến ý nghĩa và chuyên động của đời sống nội tâm. Bao lâu chưa thực hiện được như vậy thì thật đáng tiếc và uổng phí cuộc đời. Một khi chủ trương cuộc sống coi như đã, chẳng cần cố gắng làm chi thì bản thân cũng thấy nặng nề dần và cộng đoàn rơi vào tình trạng trì trệ là điều không xa lạ.

Thiếu can đảm, nhụt chí trước khó khăn là biểu hiện của việc đánh mất chính mình. Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận viết: “Canh tân đòi hỏi con can đảm. Canh tân đòi hỏi quyết định: trước bao nhiêu đau khổ, trước tiếng gọi của Thiên Chúa, con đừng hững hờ giả lờ. Hãy nên một tông đồ dấn thân cho công cuộc canh tân, dĩ nhiên với nhẫn nại, hy sinh và chỉ vì mến yêu Hội thánh ” (ĐHV 659). Cộng đoàn đan viện là hội thánh thu nhỏ, cho nên yêu mến hội thánh cũng là yêu mến cộng đoàn của mình. 

Mạnh mẽ, can đảm và cần nhiều kiên nhẫn, vì đôi khi quá nóng vội trong cách đổi mới mọi sự nên kết quả cũng không thành công như chúng ta mong đợi. Kinh nghiệm về điêu này, tác giả sách Đường Hy Vọng viết: “Không phải bước nhanh, bước gấp, nhưng bước vững, bước đúng con sẽ tiến xa. Không phải hô hào thúc đẩy cho thế giới tiến, nhưng chính con phải khởi sự tiến lên ” (ĐHV 654). Từng bước một, chậm mà chăc và nhất là với một quyết tâm lớn, chúng ta sẽ có được những đổi mới đúng như Chúa muốn.

Trong lãnh vực thiêng liêng, nhân đức vẫn được hiểu là thói quen tốt được lặp đi lặp lại nhuần nhuyễn đến nỗi trở thành bản năng. Vì thế, những ai đã từng quen chiến đấu và chiến thắng, sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn khi đứng trước những khó khăn. Còn những ai đã quen sống nhàn nhã, dễ dãi, thì gặp một ứở ngại nhỏ cũng đã thấy nặng nề. Sống lâu trong đời tu chúng ta càng nghiệm thấy việc canh tân đời sống thật cần thiết, bởi vì những nhiệt huyết ban đầu có thể bị lu mờ theo thời gian: dường như số năm trong nhà dòng lại tỉ lệ nghịch với đường nhân đức.

Không chỉ giới hạn ở lãnh vực thiêng liêng mà ở bất cứ sinh họat nào của đời đan tu cũng vậy, mỗi khi đối mặt trước một vấn đề, ta thấy khỏ khăn hay không, ít hay nhiều, cũng tuỳ thuộc tâm trạng và cái nhìn của mình. Ai cũng đã quen với câu châm ngôn của Nguyễn Bá Học: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Cũng trong luông tư tưởng đó, tác giả cuốn sách Đường Hy Vọng số 222 đã viết: “Đừng nói: “Tôi tự nhiên như vậy, sửa sao được” – Không, đó là những khuyết điểm, con phải “nên người” “nên con Chúa”. Những tính ấy bất xứng với con”

Thực vậy, khó khăn trở nên gay go và phức tạp hơn do chính lòng mình. Với ý chí chủ bại thì khi gặp khó khăn dễ làm ta chùn bước, nản lòng, muốn tránh né. Nhưng đó là ta đang tự làm mất cơ hội thể hiện bản lãnh của mình. Với quyết tâm chiến thắng thì khó khăn nào rồi cũng sẽ vượt qua. Trái lại, ở trong thái độ tự ru ngủ mình, tìm cảm giác an toàn, không muốn đụng chạm, sợ vất vả, sợ mất mát, sợ hy sinh là những tư tưởng ngược với lời khấn canh tân. Dường như chúng ta bị bóng tối của khó khăn che lấp tất cả đến nỗi không nhận ra đó là cơ hội, là ân ban, là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa đang kết dệt nên cuộc đời chúng ta. Những lời nguyện xin của chúng ta đẹp ý Chúa nhất có lẽ đó là: “con không xin cho con khỏi mọi khó khăn, nhưng xin cho con sức mạnh để vượt qua khó khăn”.

Vượt khó khăn thử thách để đổi mới chính mình, hoàn thiện bản thân và là đích điểm chúng ta phải nhắm tới để xây dựng cộng đoàn. Nhưng canh tân theo mẫu mực nào? Cha tổ phụ Hội dòng Xitô Thánh Gia cho chúng ta câu trả lời ngắn gọn, đơn giản nhưng quan trọng và chính xác: Hãy nhìn Chúa Giêsu xem Ngài sống thế nào, Ngài ăn uống thế nào… (x.DN 136). Đúng vậy, mẫu gương tuyệt đối của đan sĩ là Chúa Ki-tô, Đấng đã hiến trọn đời để sống cho tình yêu Thiên Chúa. Qua các lời khấn, đan sĩ bắt chước mẫu gương ấy để dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi đó là một sự thánh hiến mới, vì nó đòi hỏi một ý thức mới, một sự quyết tâm mới, tình yêu và ơn gọi mới, một sự cải hoán mới (x.RD 7). Tắt một lời, mọi sự canh tân đều khởi đi với Đức Kitô, trong Đức Kitô và cùng với Đức Kitô dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần.

Thay lời kết
Nhìn vào thời biểu của các cộng đoàn đan tu dường như người ta thấy mỗi ngày như mọi ngày và mọi ngày như một ngày. Nhiêu bạn trẻ đã không dám hay bỏ ý định tiếp tục theo đuổi ơn gọi chỉ vì lý do đó. Nhưng những ai đang can đảm bước theo tinh thần của thánh Biển Đưc lời mời gọi “Hãy theo Thầy ” của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục được thực hiện mạnh mẽ trên cuộc đời. Không chỉ nghe và đáp lại là đủ nhưng “Hãy theo Thầy ” là lời thúc giục chúng ta hoàn thiện mỗi ngày bao nhiêu có thể với ơn Chúa và cố gắng của bản thân. Tự bản thân đan sĩ nếu không biết khắc phục những nguyên nhân trên đây để khám phá ra ý nghĩa cuộc sống, tìm niềm vui và đổi mới thì mãi ở trong vòng luẩn quẩn, không có lối thoát. Nếu việc canh tân khởi đi tò mỗi cá nhân thì cộng đoàn cũng được biến đổi, mang một sắc diện mới, và như vậy việc dậm chân tại chỗ không còn lý do để hiện hữu.

 

 

 


 [1] X. Nội san linh đạo đan tu số 16, bài Những Thách Đố Của Lời Khấn Canh Tân trong xã hội ngày nay, tr.93

[2] X. Nội san linh đạo đan tu số 16, bài Canh Tân Hay Cơ Chế?, TR.61-64

[3] Nội san linh đạo đan tu số 16, bài Canh Tân Cuộc Sống Hàng Ngày, tr.71-73

[4] Nội san linh đạo đan tu số 16, bài Canh Tân Trong Cuộc Sống Hàng Ngày, tr.70

 

 

 

 

THẦY GỌI EM ĐÓ

 

Gierado (PH)

Trong cuộc sống có nhiều sự việc xảy ra, ta được người này người kia nhăc bảo chỉ dẫn. Có khi ta tự hỏi tại sao lại phải có người nhắc tôi, nhắc để làm gì, nó có thực sự cần thiết không? Hẳn trong cuộc sống có lúc ta như bị lôi kéo về một vấn đề gì đó khiến không nghe được tiếng người đang gọi hay nói với ta, nên một sự giúp đỡ là cần thiết, nhắc nhở để ta nhận ra. Nhận ra chính bản thân mình, nhận ra những tiếng gọi chung quanh để đáp trả hay sửa đổi. Matta đã trở nên người chuyển giao sứ điệp của Chúa Giêsu cho em mình: “thầy gọi em đấy”, đan sĩ chúng ta có thể làm người trung gian cho thế giới hôm nay được không? Trung gian chuyển giao lòi mời gọi của Ngài. Nhờ thế họ có thể nhận ra chính mình, nhận ra mình đang cần gì và phải làm như thế nào?

Thực trạng thế giới

Chúng ta đang sống trong một thế giới bị bao vây bởi một thứ văn hóa không còn thuần tủy kiến thức nhưng tiền bạc đã xen vào. vệ một khía cạnh nào đó thì tiền đã trở thành trung tâm điểm cho mọi sinh hoạt. Ngoài mặt tốt nó cũng có thể làm cho chúng ta dám bán rẻ giá trị nhân phẩm hay giá trị truyền thống. Và từ đồng tiền có thể dần dẫn đưa chúng ta đánh mất cảm nhận vai trò và vị trí của chúng ta khi chúng ta chỉ biết chạy theo và kiếm tim nỏ, một thứ không mang lại sự tự do và hạnh phúc đích thực cho mình và nhân loại. Theo đức thánh cha Phanxicô thì: “mối nguy lớn trên thế giới hôm nay một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng, phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham vọng, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ[1] .Vâng chúng ta không thể nói là mình phản kháng lại điều đó, nhưng là cố gắng nói cho thế giới biết rằng đang có một người mời gọi họ. Mời gọi họ trở về với những giá trị tốt đẹp ban đầu của Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng làm sao trở về? thiết tưởng điều không thể bỏ qua đó chính là nghe. Để nghe được cũng cần phải có những môi trường riêng, môi trường ở ngoài và chính lòng mình trong thinh lặng.
Vì thinh lặng cho ta khám phá những bài học quý. Khi người ta chỉ biết hưởng thụ trong tiếng ồn mà quên đi sẽ có một ngày nào đó ta kiệt sức, vì con người cần có những phút giây thinh lặng như bể tắm cho tâm hồn mình. Đức Giê su đã chẳng bảo các môn đệ của mình rút vào nơi thinh lặng đó sao[2] . Nơi đó ta gạt bỏ, gạn lọc những gì là không cần thiết của cuộc sống, “nhiều người trong chúng ta không còn ý thức về không gian thánh thiêng trong chúng ta, nơi đó chúng ta cỏ thể suy gẫm và chiêm niệm, từ không gian này mà sự kinh ngạc có thể phát xuất khi chúng ta nhìn lên những ngọn núi hay nhìn lên bầu trời, những bông hoa, …nơi này chính là chôn sâu thẳm nhất trong chúng ta, nơi của bình an nội tâm. Chính trong nơi ấy chúng ta thực hiện những chọn lựa cho cuộc sống và cũng từ nơi đó phát sinh tình yêu dành cho người khác[3]. Nhưng Làm sao tìm lại? có lẽ không gì tốt hơn là chính môi trường đan viện với những quy luật và nếp sống đan tu sẽ giúp các đan sỹ thự hiện điều đó.

 

1. Đan sĩ – người đánh thức

Là đan sĩ, chúng ta có thể chỉ cho thế giới biết có một Đấng đang mời gọi họ, qua chứng tá của chính đời sống mình. Chính vì vậy mà trong Tông huấn gửi Giáo Hội tại Á Châu, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khuyên nên mở rộng các đan viện chiêm niệm nơi những vùng đất truyền giáo mới. Vì hình thức truyền giáo đan tu là chứng tá mạnh mẽ nhất. Trong số 23, Tông huấn viết: “Việc truyền giáo là hành động chiêm niệm và là sự chiêm niệm hoạt động. Do đó, một nhà truyền giáo mà không có kinh nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa qua kinh nguyện và chiêm niệm, thì sẽ có ít ảnh hưởng thiêng liêng hay thành công về mặt truyền giáo”. Tông huấn còn nhấn mạnh thêm: “Tại Á Châu, tương lai của việc truyền giáo tùy thuộc phần lớn vào đời sống chiêm niệm[4] . “Giáo Hội nhận thấy rằng, một đời sống chứng tá thầm lặng vẫn là con đường cần thiết để loan báo Nước Chúa trong nhiều lục địa tại Á Châu[5] .
Lại một lần nữa chúng ta được nghe Tông Huấn khẳng định: “Trong nhiều truyền thống tại Á Châu những người nam và nữ hiến mình sống đời chiêm niêm và khổ tu … việc làm chứng của họ đạt tới trình độ thuyết phục đặc biệt. Đời sống của họ trong cộng đồng trong chứng tá bình an và thầm lặng có thể soi dẫn dân chúng biết làm việc để mang lại vẻ hài hòa hơn cho xã hội[6]
“Thầy gọi em đó ”, một lời nhắc của Matta cho Maria, còn với thế giới chúng ta không thể nói như thế chúng ta phải hoạ lại lời mời gọi đó và mời gọi họ hãy đến mà xem “hiệu năng tông đồ không lệ thuộc vào hiệu năng dồi dào của các phương tiện. Phải làm sao cho chính cuộc đời anh chị em trở thành tiếng nói, cuộc đời chiếu tỏa niềm vui và vẻ đẹp của việc sống Tin Mừng và của việc đi theo Đức Ki-tô’’[7] . Mẹ Têrêsa xác quyết: “chúng tôi không nói, chúng tôi không rao giảng, chúng tôi chỉ cố gắng đặt tình yêu của Đức Ki-tô trong mọi hành động của mình”.Chính nhà văn Dominique Pierre cũng khẳng định cho câu nói của mẹ Terexa: “tôi tin rằng sứ điệp của Mẹ là một sứ điệp mà thế giới rách nát ngày nay muốn được nghe: đó là sứ điệp tình yêu và xót thương, sứ điệp hòa bình. Một cách nào đó, bà đã khôi phục lại việc thực hành bác ái. Sứ điệp của bà đã gửi tới từng người chúng ta

 “Thầy gọi em đó ”, một lần nữa sứ điệp được gởi tới cho thế giới của tiếng ồn chiếm gần hết không gian yên lặng. Tiếng ồn của nhà máy, truyền thanh hay chính bản thân tạo nên. Nếu thế giới đánh mất chính mình trong sự ồn ào thì thinh lặng của đan sĩ cho họ một dấu hỏi, sự thắc mắc và như vậy có thể dẫn đưa họ tìm lại chính mình, một không gian thánh thiêng. Sự thinh lặng không phải là một sự chạy trốn nhưng cho ta những khám phá mới, đồng thời cũng đưa chúng ta đến gần tha nhân hơn. Thinh lặng đem lại sự nối kết với đấng vô hình. Ngoài ra chúng ta cũng xét đến một vấn đề khác đó lặ sự khó nghèo của người tu sĩ cũng là một cách thức tỉnh.

Con người dường như hạnh phúc hơn vì được hưởng nhiều của cải và tiện nghi, vậy mà chúng ta có thể nói đời sống nghèo của người tu sĩ lại có thể đánh thức thế giới sao? Phải chăng chúng ta muốn thế giới nghèo? Điều đó chắc hẳn là không, bởi vì: “mọi người tu sĩ phải xác tín rằng: cho dầu lời khấn dòng buộc phải từ bỏ của cải, và nhờ thế mà họ rất được trọng vọng, thì lời khấn đó không trở thành một trở ngại cho sự phát huy nhân cách, mà còn giúp phát huy hơn bội phần[8] . Không tìm dạy dỗ ai hay muốn làm gương cho ai, nhưng bằng cuộc sống chúng ta dấn thân vào. “phải làm sao cho cuộc đời anh chi em trở thành tiếng nói, chiếu tỏa niềm vui và vẻ đẹp của Tin Mừng, khi đi theo Chúa Ki-tô[9].
Sự khó nghèo của tu sĩ không phá hủy con người mình nhưng xây dựng lại nó.
Thực vậy, sự giàu có không phải là một tội nhưng là một điều tốt lành, thế nhưng nó tùy thuộc vào cách ta sử dụng mà thôi. “Nếu tiền bạc phục vụ thiết thực cho thiện hảo của cộng đồng thì sẽ không có gì nhục nhã khi sử dụng nó, kể cả khi tiêu dùng những số bạc khồng, còn nếu nó phục vụ cho những mục tiêu ích kỷ hoặc nó trở thành một thần tượng, thì sự kêu gọi nghèo khó và siêu thoát lấy lại tất cả sự quyết liệt của nó. Khi sống nghèo khó Giáo Hội cảnh giác sự giàu có phải đi theo hướng nào, và nó không phải là nguồn suối của sung sướng. Người ta có thể hạnh phúc trong thanh bần được mưu tìm hoặc được chấp nhận[10] . Chính trong sự khó nghèo giúp người ta biết chia sẻ và trao ban trong sự tôn trọng nhau chứ không phải một sự bố thí trong khinh bỉ, biết được những giá trị lớn lao của lao động. Nghèo để người khác được giàu như trong thư Côrintô cho thúng ta thấy điều đó: “Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: người vốn giàu sang phú quỷ, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cải nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có[11]
Khi nhận thức được giá trị những gì mình làm nên, những gì mình có được lúc đó ta sẵn sàng chia sẻ cho tha nhân. Vì hiện nay thế giới ngoài những người đói khát về của ăn vật chất còn có những người đói khát Lời Chúa, đói khát ý nghĩa cuộc sống, đang khát một điều gì đó linh thiêng, cao cả, mà chỉ có thực tại vô hình mới đáp ứng được, xã hội càng biến động bao nhiêu thì nhu cầu tâm linh càng lớn, khát vọng tìm về suối nguồn bình an càng cao. Vậy sao chúng ta không chia sẻ cho họ lời của Chúa và niềm vui của mình. Đức thánh Cha Phanxico cũng đã từng bảo chúng ta. “Ở đâu có tu sĩ ở đó có niềm vui[12] . Niềm vui nào đây? Hẳn không phải vui vì có cảnh sống an nhàn, nhưng vì tin rằng có một Đấng đang quan phòng mọi sự dù: một sợi tóc trên đầu cũng được đếm cả rồi. Và có khả năng lấp đầy những khát vọng của mọi người. Vui vì trong toàn thể vũ trụ này là những gì mà Thiên Chúa ban tặng cho tôi, mọi người là bạn hữu, là anh em một nhà, như thế sự chia rẽ và phân biệt đâu còn nữa. Chúng ta phải trở nên những con người của sự nối kết này ngay trong chính cộng đoàn mình.

 

Kết

Vâng một lời nhắc nhở làm xoay chuyển cả một cuộc hành trình. “Thầy gọi em đó” một lần nữa nhắc ta về sứ vụ làm chứng của mình. Chuyển giao lời mời gọi qua chính cuộc sống của mình là một điều khó, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không làm được, “ơn thầy đủ cho con” hay “trong Đức Ki-tô anh em làm được mọi sự”. Với lời mời của Chúa chúng ta sẽ làm chứng cho mọi thụ tạo đến tận cùng trái đất cho họ thấy cuộc sống Thiên Quốc ngay ở trần gian này trong bầu khí thinh lặng tình yêu huynh đệ với cuộc sống nghèo của môn đệ Chúa Ki-tô.

 


[1] Tông huấn Niềm vui tin mừng của Đức Thánh Cha Phanxicô số 2.

[2] Mt

[3] Được lôi cuốn vào mầu nhiệm Chúa Ki tô qua Tin Mừng Gioan. JEAN VANIER Tr 63

[4] Tông huấn Giáo Hội tịa Á Châu, năm 2000, số 23

[5] Tông huấn Đời sống thánh hiến, Vita Consecrata, số 38.

[6] Tông huấn Ibid, số 32; sắc lệnh về dòng tu, số 7.

[7] Tông thư của Đức Thánh Cha gởi các người tận hiến nhân dịp năm đời sống thánh hiến mong ước 1.

[8] GH 46

[9] Tông thư của Đức Thánh Cha gởi các người tận hiến nhân dịp năm đời sống thánh hiến, mong ước 1.

[10] Ba lời khấn của linh mục Nguyễn Hưng, tr.264

[11] 2Cr 8,9

[12] Tông thư của Đức Thánh Cha gởi các người tận hiến nhân dịp năm đời sống thánh hiến. Mục II.1

 

 

 

 

ĐAN SĨ – NGƯỜI LÀ AI?

 

Mai Ân Thông

                                       Đan sĩ là nụ cười Thiên Chúa
                                       Nở trong tim đức ái thăm ngàn hoa
                                       Vui – phục vụ là nét đẹp giao thoa
                                       Lời kinh nguyện cao dâng đời cảm tạ.

                                       Đan sĩ chỉ cung chiêm Thiên Chúa
                                       Sống tin yêu trọn vẹn niềm khát khao
                                       Đời kếp hiệp, sủng lộc đẹp biết bao !
                                       Luôn gắn bó với “Mối Tình Muôn Thưở”.

                                       Đan sĩ song chiều kích thinh lặng
                                       Nguyện trở nên đồng dạng với Giêsu
                                       Làm nhịp cầu trời – đất noi lời ru
                                       Làm ngôn sứ, chứng nhân CHÂN- THIỆN- MỸ.

                                       Ôi đan sĩ, có trái tim bừng sáng !
                                       Một con người dám sống điều trên cao
                                       Buông mình vào ân sủng “mọi nghiêng chao ”
                                       Đời chiêm niệm thắm Tình Yêu lai láng.

                                       Ôi đan sĩ, một tâm hồn lửa mến!
                                       Một cuộc đời quang tỏa sự hiệp thông
                                       Tim yêu người, thôi thúc vạn cõi lòng
                                       Say mê Chúa, dấn thân không mỏi mệt.

                                       Ôi đan sĩ ! người là ai?
                                       Người là Sự Hiện Diện của Tình Yêu
                                       Ôi đan sĩ! người là ai?
                                       Người chính là Khuôn Mặt Đấng huyền siêu.

                                       Ôi đan sĩ ! người là ai?
                                       Là trái tim cho Thiên Chúa xuyên qua
                                       Ôi đan sĩ ! người là ai?
                                       Là hy tế, trọn lời ca Fiat!

 

 

 

 

  

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

BÀI VIẾT MỚI

spot_imgspot_img

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Hạt Giống Chiêm Niệm số 32: Cầu Nguyện Đan Tu

CẦU NGUYỆN ĐAN TU Số 32 – Tháng Giêng năm 2024 ĐÔI LỜI ... Kính thưa quý độc giả, Như chúng ta đã biết, cầu nguyện là hành...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 31: Hướng Vọng Trời Cao

 Số 31 – Tháng 7 năm 2023 Lời ngỏ Kính thưa quý độc giả, Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày qua đời của cha Biển Đức...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 29: Tứ Hải Giai Huynh Đệ

Số 29 – tháng 07 năm 2022 Cùng Độc giả, Các sinh hoạt của Ban Biên Tập Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm (HGCN) của Hội...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 30: Một Đi Chung Cùng Nhau

LỜI NGỎ   Kính thưa Quí Độc Giả! Nội san Hạt Giống Chiêm Niệm số 30 phát hành vào tháng Giêng năm 2023 này mang chủ đích...

Giới Thiêu nội san “HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM” (Viện phụ Dominico Phạm Văn Hiền)

  NỘI SAN   HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     LỜI GIỚI THIỆU      ...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 1: NGUỒN SUỐI CHIÊM NIỆM

    HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM       Nội...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 2: HƯƠNG VỊ LỜI CHÚA

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 3: THAO THỨC

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 4: Những Nẻo Đường Sống Đạo

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     Nội san linh đạo đan tu   NHỮNG NẺO ĐƯỜNG SỐNG ĐẠO   Số 4 tháng 7 năm 2007 LỜI NÓI ĐẦU     Một người nọ hỏi...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số đặc biệt: Cội nguồn hy vọng

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 7: Thử Thách

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...