HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM
Nội san linh đạo đan tu
SAY MÊ THIÊN CHÚA
Lời ngỏ
THƯƠNG XÓT NHƯ CHÚA CHA
Cùng quí độc giả thân mến!
Hướng về bách chu niên ngày cha tổ phụ Henry Denis Thuận lên núi Phước đặt nền cho đời sống Đan Tu Chiêm Niệm Xitô tại Việt Nam (1918-2018). Tổng Hội đã quyết định dành ba năm học hỏi để chuẩn bị cho sự kiện quan trọng này. Đây là thời điểm hồng phúc mà Thiên Chúa thương ban cho Hội Dòng Xitô Thánh Gia. Vì thế, Hội Đồng Quản Trị tha thiết mời gọi toàn thể anh chị em trong Hội Dòng cùng nhau suy niệm, học hỏi tinh thần và giáo huấn của cha Tổ Phụ được cô đọng trong ba chủ đề:
Noi Gương Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận-Đan Sĩ Xitô Thánh Gia Say mê Thiên Chúa;
Cùng Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận-Đan Sĩ Xitô Thánh Gia Sống Huyền Nhiệm Hiệp Thông;
Từ Cội Nguồn Phước Sơn Đến Sự Phát Triển Hội Dòng, Và Mở Ra Tương Lai.
“Noi Gương Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận-Đan Sĩ Xitô Thánh Gia Say mê Thiên Chúa” là chủ đề được chọn cho năm chuẩn bị đầu tiên với ước mong cho toàn thể Hội Dòng:
– Hướng về người cha yêu quí của mình: Henry Denis Thuận. Ngài chính là mẫu gương tuyệt vời của một con người chỉ “Say mê Thiên Chúa”, đáng để chúng ta bắt chước và học cách say mê như Ngài.
– “Say mê Thiên Chúa” là lối sống của tất cả những ai sống đời thánh hiến, vì chúng ta được mời gọi tìm kiếm một mình Thiên Chúa. Mong ước rằng: đây là cơ hội nhìn lại chính mình để lượng giá và định hướng, hầu có thể trung thành với căn tính và tri ý của Đấng Sáng Lập.
Nội san “Hạt giống chiêm niệm” số 18, với chủ đề “Say Mê Thiên Chúa”, là một cố gắng chia sẻ cho nhau những kinh nghiệm đơn sơ giữa các anh chị em trong Hội Dòng về mong ước này.
Với xác tín: chúng ta là con cái của Cha Tổ Phụ, “bước theo Chúa Kitô” trong ơn gọi Đan tu; chúng ta cần phải có bầu nhiệt huyết như Cha của mình: “Say mê Thiên Chúa”. Để có nhiệt huyết này, phải có “lửa” như “Êlia, ngôn sứ lửa”. Lửa chỉ cháy bừng lên, nếu mỗi người “thực tâm tìm Chúa”. Muốn có “thực tâm”, cần phải để cho “Chúa yêu theo cách của Chúa”. “Yêu theo cách của Chúa” là biết đón nhận ý Chúa, thuận theo ý Chúa và thi hành ý Chúa. Một khi biết thuận theo ý Chúa, thì “Vô cảm”, là thứ độc dược hủy hoại sự nhiệt thành, không có chỗ dung thân trong đời sống thiêng liêng của mỗi Đan sĩ. Nhờ đó, chúng ta lại tìm được “Tình yêu thuở ban đầu” (Kh 2, 21)…
“Ước gì ngọn lửa sẽ bùng cháy lên” trong con tim chúng ta, khi tập Nội San nhỏ bé này được anh chị em đón nhận và “tiêu hoá”. Chắc chắn, anh chị em sẽ hoan hỉ noi gương Đức Mẹ, trở nên “Con chim hót hay nhất”, luôn tạ ơn Chúa vì Chúa đã chọn mình trở nên những con người “Say mê Thiên Chúa” và “Say mê anh chị em”.
Ban Biên Tập
MỤC LỤC
- Ê-li-a, ngôn sứ “lửa”
(Tác giả: FM. Duyên Thập Tự) - Đối với tôi_sống là Đức Kitô
(Tác giả: FM.Montfort Huyên_ Đan viện CSDĐ) - Misericodiae Vultus
(Tác giả: FM.Dominico Phạm Văn Hiền) - Theo Tu Luật thánh Biển Đức, Đan sĩ là người say mê Thiên Chúa
(Tác giả: FM.Gioan Vianney_ Đan viện Phước Sơn ) - Tình trạng việc thành lập các cộng đoàn đan tu ngày nay
(Tác giả: FM.Duyên Thập Tự ) - Khát khao Thiên Chúa & say mê con người
(Tác giả: M.Vinh Sơn_Đan viện Vĩnh Phước ) - Hãy để Thiên Chúa yêu chúng ta theo cách của người
(Tác giả: FM. Dominico Phạm Văn Hiền ) - Chúa quyến rũ tôi và tôi để cho người quyến rũ
(Tác giả: FM.Minh Tuyển_ Đan viện An Phước ) - Tình yêu thuở ban đầu
(Tác giả:FM. Gioan Tân_Đan viện Thiên Phước) - Thực tâm tìm Chúa
(Tác giả: M.Mazazello + Goretty_Đan viện Phước Thiên) - Mất lửa
(Tác giả: FM.Mai Vương An_Đan viện An Phước) - Đức Maria_con chim hót hay nhất
(Tác giả: FM.Alberto_Đan viện Phước Lý) - Thuộc trọn về người tôi yêu
(Tác giả:FM.Thiên Ân_Đan viện Châu Thuỷ) - Vô cảm
(Tác giả: FM.Mai Thi_Đan viện CSĐD) - Khơi nguồn cảm hứng
(Tác giả: FM.Thomas Nguyễn Văn Giang_ Đan viện CSĐD)
Ê-LI-A, NGÔN SỨ “LỬA”
FM.Duyên Thâp Tự
Ngôn sứ Ê-li-a thoáng xuất hiện mà người ta không biết rõ nguồn gốc: “Ông Ê-li-a, người Tít-be, trong số dân cư ngụ tại Ga-la-át” (1V 17, 1), và ông cũng biến mất một cách mầu nhiệm trên một chiếc xe ngựa phủ đầy lửa (x. 2V 2, 1-13). Ông hoạt động trong một thời gian ngắn và địa bàn hoạt động của ông cũng không có gì là rộng lớn. Dầu vậy, ông là một ngôn sứ lớn và có tầm ảnh hưởng trên dân Ít-ra-en, không phải do số lượng các can thiệp của ông mà là chất lượng của những tuyên bố và hành động của ông.
Sở dĩ chọn khuôn mặt của ngôn sứ Ê-li-a trong số 18 nội san Hạt Giống Chiêm Niệm xoay quanh chủ đề “say mê Thiên Chúa”, tôi muốn làm nổi bật nơi vị ngôn sứ này niềm đam mê đối với vinh quang Thiên Chúa và dành vị trí độc tôn cho người. Đây không phải là một bài viết mang tính nghiên cứu Kinh Thánh, cũng không mang tính thần học chuyên biệt, nhưng đề nghị một hành trình cho những ai mang trong mình sự say mê Thiên Chúa.
1. MỘT NIỀM SAY MÊ VINH QUANG THIÊN CHÚA
Câu chuyện của ngôn sứ Ê-li-a được bắt đầu với một tuyên bố với vua A-kháp: “Có ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa hằng sống của Ít-ra-en, Đấng tôi phục vụ: trong những năm tới, sẽ chẳng có mưa, có sương, nếu tôi không ra lệnh” (1V 17, 1).
Chúng ta tự hỏi tại sao ông Ê-li-a lại tuyên bố như thế? Điều gì thúc đẩy ông phát ngôn một cách mạnh mẽ như vậy? Ông có quyền năng gì mà dám ra lệnh cho mưa hay sương rơi xuống hay không đổ xuống trên mặt đất?
Chúng ta cần ghi nhận rằng ngôn sứ Ê-li-a xuất hiện trong một bối cảnh mà niềm tin vào Thiên Chúa hằng sống đã bị khủng hoảng và có thể nói là đang bị tàn lụi một cách khủng khiếp. Vua cha là Om-ri đã cưới cho vua A-kháp một người vợ tên là I-dơ-ven, một người ngoại quốc. Chính bà hoàng hậu này đã nhập khẩu thần Ba-an vào Ít-ra-en, và cùng với Ba-an là biết bao tư tế dân ngoại để lo việc thờ cúng. Các tế đàn đã được xây dựng nơi cao, thay thế cho bàn thờ kính Thiên Chúa hằng sống của Ít-ra-en. Ngôn sứ Ê-li-a xuất hiện để cảnh tỉnh vua A-kháp và dân Ít-ra-en nguy cơ xói mòn và đánh mất đức tin vào Thiên Chúa. Chính vì thế, lời đầu tiên mà ông ngỏ lời với vua A-kháp, và qua đó cho toàn dân Ít-ra-en, là một lời cảnh tỉnh mang tính tiên báo một tai họa, một đại hạn hán.
Chúng ta cần ghi nhận là trước khi loan báo tai họa hạn hán, ngôn sứ Ê-li-a đã nêu lên một chân lý, đó là: “Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của Ít-ra-en”. Đây là một khẳng định, một xác tín căn bản cho sứ vụ của vị ngôn sứ này. Ông đề cao vị trí độc tôn của Thiên Chúa, ông nêu bật căn tính “hằng sống” của Thiên Chúa. Qua xác tín này, chúng ta như thấy hé lộ tâm hồn của ông ấp ủ một niềm “say mê Thiên Chúa” và vinh quang của Người. Chính niềm say mê này thúc đẩy ông phát ngôn, bất chấp hiểm nguy khi ông dám đương đầu với vua A-kháp, và hơn thế nữa, với hoàng hậu I-dơ-ven và các thầy cúng thờ Ba-an, cũng như với toàn dân. Niềm say mê lớn hơn mọi sợ hãi.
Sau khi nêu lên căn tính hằng sống của Thiên Chúa, ngôn sứ Ê-li-a khẳng định mối tương giao của ông với Thiên Chúa hằng sống của Ít-ra-en: “Đấng tôi phục vụ”. Từ “phục vụ” ở đây mang âm hưởng của một tình yêu thiết tha. Ông phục vụ Thiên Chúa với tất cả con người của ông, và ông phát ngôn cũng như hành động do sự thúc đẩy của chính nhiệt tâm này. Một lần nữa, chúng ta như nhìn thấy tình yêu say đắm của ông đối với Thiên Chúa.
Khi loan báo tai ương hạn hán sẽ đến, ông muốn đề cao vai trò tuyệt đối của Thiên Chúa hằng sống. Ba-an được coi như vị thần của chiến thắng, của mưa, nghĩa là của sự phong nhiêu. Khi ngôn sứ Ê-li-a loan báo đại hạn hán, ông thách thức Ba-an để xem nó có thể làm được gì, nghĩa là cho mưa, cho sương, làm cho phong nhiêu. Nơi đây, chúng ta lại khám phá ra tâm tình tôn kính tuyệt đối với Thiên Chúa và Ba-an chẳng là gì. Ông loan báo tai họa như là một lời cảnh tỉnh, một lời mời gọi hoán cải. Ông loan báo tai họa vì một điều gì khác hơn là chính tai họa.
“Nếu tôi không ra lệnh”. Điều gì thúc đẩy ngôn sứ Ê-li-a tuyên bố như thế? Ông có quyền năng nào? Thánh Gia-cô-bê đã giải thích: “Lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực. Ông Ê-li-a xưa cũng là người cùng chung một thân phận như chúng ta; ông đã tha thiết cầu xin cho đừng có mưa xuống trên mặt đất suốt ba năm sáu tháng. Rồi ông lại cầu xin, thì trời liền mưa xuống và đất đã trổ sinh hoa trái” (Gc 5, 17-18). Cầu nguyện là một diễn tả mạnh mẽ mối tương giao với Thiên Chúa và việc Thiên Chúa nhận lời minh chứng mối tình thân thiết. Ông tuyên bố với cả uy lực của một con người say mê Thiên Chúa và vinh quang tuyệt đối của Người. Lời ngôn sứ Ê-li-a chất đầy lửa, vì tâm hồn ông tràn đầy nhiệt tâm. Dầu vậy, nhiệt tâm đó cần được nuôi dưỡng để đương đầu với những thách đố lớn hơn.
2. “NGỌN LỬA” CẦN ĐƯỢC NUÔI DƯỠNG
Sau lời tuyên bố trước vua A-kháp, ông Ê-li-a nhận được lệnh truyền từ Thiên Chúa. Có lời Đức Chúa phán với ông như sau: “Ngươi hãy bỏ đây đi về phía đông, và ẩn mình trong thung lũng Cơ-rít, phía đông sông Gio-đan. Ngươi sẽ uống nước suối. Ta đã truyền cho quạ nuôi ngươi ở đấy” (1V 17, 2-4). Chúng ta có thể tìm thấy một số nguyên nhân mà Thiên Chúa muốn kéo ông Ê-li-a ẩn mình trong nơi hoang vắng. Có thể bảo vệ tính mạng của vị ngôn sứ, tránh được sự giận dữ của vua, của cả đám dân chúng. Cũng có thể, để cho vua và dân chúng trở về với lòng mình để duyệt xét lương tâm và thẩm định tình trạng tâm hồn và tôn giáo của mình. Nhưng cũng rất có thể là để ngôn sứ nuôi dưỡng ngọn lửa đang nung nấu tâm hồn ông được vững bền qua chính những kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa.
Thật vậy, ngọn lửa dù mạnh mẽ đến đâu, nếu không được nuôi bằng những dưỡng chất – những chất đốt – thì vẫn có nguy cơ lụi tàn. Kinh nghiệm tại Cơ-rít và sau đó tại Xa-rép-ta là những nơi mà Thiên Chúa chăm sóc tôi tớ Người là ngôn sứ Ê-li-a.
Chúng ta trở về với Ê-li-a bên dòng suối Cơ-rít, phía đông sông Gio-đan. Ông Ê-li-a vẫn ở lại trong đất Ít-ra-en. Nơi đây, nguồn tài nguyên thiên nhiên – dòng nước suối – và một nguồn khác là con quạ, đã được Thiên Chúa sử dụng để nuôi dưỡng ông Ê-li-a. Điều đáng chúng ta ghi nhận là Thiên Chúa không dùng những phương tiện siêu việt, nhưng là những phương tiện tự nhiên và tầm thường như con quạ, một con vật không đáng yêu vì màu lông đen đủi và nhất là tiếng kêu khó chịu của nó. Đối với Thiên Chúa, điều quan trọng là: bằng tình yêu, nuôi dưỡng nhiệt tâm của tôi tớ Người. Phương tiện không quyết định nhưng chính là mục đích mới quan trọng.
Điều ghi nhận thứ hai là ông Ê-li-a sẵn sàng đến nơi Thiên Chúa kêu gọi ông ra đi. Sự tuân phục Thiên Chúa không điều kiện, không thắc mắc, không đặt vấn đề, là một diễn tả rất đẹp của một người say mê Thiên Chúa: yêu Thiên Chúa và những gì Người xếp đặt. Ngôn sứ Ê-li-a đã cảm nghiệm được Thiên Chúa chăm sóc ông từ những chi tiết nhỏ nhặt nhất: thức ăn và thức uống. Ông thấy Thiên Chúa yêu thương và không bỏ ông trong cảnh khó khăn. Ông càng yêu mến Thiên Chúa hơn. Ngọn lửa thiêng trong ông ngày càng được nuôi dưỡng một cách hết sức cụ thể qua thân xác được bồi dưỡng.
“Nhưng sau một thời gian, suối cạn khô, vì trong xứ không có mưa. Bấy giờ có lời Đức Chúa phán: Ngươi hãy đứng dậy đi Xa-rép-ta, thuộc Xi-đôn, và ở lại đây. Này ta truyền một bà góa ở đó nuôi ngươi” (1V 17, 7-9). Dòng suối cạn có nghĩa là lời tuyên bố của ông Ê-li-a đã thành hiện thực. Và chính ông cũng thấy rằng mình cũng chịu ảnh hưởng của cơn đại hạn hán này, khi ngày ngày ông thấy mực nước suối thấp đi cho đến ngày nước cạn kiệt. Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi tôi trung của Người trong nỗi quẫn bách. Người sai ông đi đến một địa danh khác. Nơi đây không còn là “nhà mình” – vì Cơ-rít còn thuộc lãnh thổ Ít-ra-en – mà là “nhà người”, vì Xa-rép-ta thuộc Xi-đôn là đất ngoại bang.
Tại sao Thiên Chúa lại sai ngôn sứ Ê-li-a đến vùng đất ngoại bang này? Ngài không tìm đâu ra một nơi ẩn trú trong đất Ít-ra-en hay sao? Hay là Người có ý định nào khác? Và tại sao lại là một bà góa – đương nhiên là cô thân cô thế và nghèo khó – chứ không phải một điền chủ hay một thương gia nào có của cải vật chất bảo đảm cho ông Ê-li-a?
Chúng ta biết Xa-rép-ta thuộc Xi-đôn và địa hạt này đang được cai quản bởi anh ruột của hoàng hậu I-dơ-ven; nghĩa là thủ phủ của việc thờ kính Ba-an. Thiên Chúa sai ngôn sứ Ê-li-a vào lãnh địa của Ba-an. Điều đó có ý nghĩa gì?
Trước hết, việc lớn lên trong tâm hồn cũng song song với việc ra đi tới một địa dư rộng lớn hơn, để đương đầu với những thử thách lớn hơn. Ngọn lửa trong tâm hồn ông Ê-li-a đã được bảo tồn và lớn lên tại Cơ-rít nhờ tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa hằng sống, Đấng ông phục vụ. Nay ông được gọi ra đi để ngọn lửa đó còn được nuôi dưỡng để mạnh hơn nhờ việc ngụ tại chính mảnh đất thù nghịch, nghĩa là lãnh địa của Ba-an, của việc thờ cúng Ba-an.
Tiếp đến, ông cư ngụ tại đó – bao nhiêu thời gian, chúng ta không biết, cho đến khi hết thời hạn ba năm – để minh chứng rằng Thiên Chúa vẫn có thể chăm sóc tôi trung của Người ngay trong lãnh địa của Ba-an. Nghĩa là Thiên Chúa uy quyền nhất và là Đấng Hằng Sống, không có gì cản trở được ý định của Người. Nơi đó, tại Xa-rép-ta, ngôn sứ Ê-li-a tạo lập một gia đình thiêng liêng gồm ông, bà góa và người con của bà, để cùng nhau phụng thờ Thiên Chúa ngay trong lãnh địa Ba-an. Ngày ngày, Thiên Chúa chăm sóc gia đình thiêng liêng này với những thứ cần thiết “không vơi, không cạn”. Chính tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa, ngày qua ngày, nuôi dưỡng nhiệt tâm của ngôn sứ. Ông lớn lên trong tình yêu quan phòng của Thiên Chúa hằng sống.
Cuối cùng, thái độ hoàn toàn tuân phục của ông, một lần nữa, diễn tả tình yêu trọn vẹn của ông đối với Thiên Chúa. Ông không đặt vấn đề, không thắc mắc, không do dự, ông lên đường ngay, dù rằng ông không biết điều gì đang chờ đón ông ở đó. Ông hoàn toàn buông theo con đường của Thiên Chúa, với xác tín về việc phục vụ của ông đối với Thiên Chúa của ông. Tình yêu say mê của ông và tình yêu trọn vẹn của Thiên Chúa đã gặp nhau và giúp ông lớn lên ngay trong nghịch cảnh, trong nơi tôn thờ Ba-an.
Như vậy, Cơ-rít và Xa-rép-ta như là một hành trình củng cố và gia tăng nhiệt huyết của ngôn sứ Ê-li-a. Không chỉ là hai địa danh để nơi đó ông ẩn trú hay thể lý được nuôi dưỡng – tuy rằng những điều này cũng quan trọng – mà là một tiến trình nội tâm, để chuẩn bị cho một cuộc đối đầu lớn hơn trong tương lai, khi “dòng máu nóng”, khi “tình yêu say mê” đối với Thiên Chúa, đổ tràn ra bằng ngôn từ và hành động.
3. LỜI ĐANH THÉP, BỪNG CHÁY LỬA THIÊNG
Sau thời gian dài vắng mặt, bỗng nhiên ông Ê-li-a xuất hiện. Chúng ta không ghi lại mọi chi tiết cuộc tái xuất hiện của ngôn sứ, chỉ nhắc lại rằng đã có cuộc gặp mặt với vua A-kháp và ngôn sứ để đề nghị một cuộc hẹn với các ngôn sứ Ba-an. Có sự hiện diện của vua và dân chúng, trên núi Các-men.
Một mình hiện diện giữa hằng trăm ngôn sứ và tư tế của Ba-an và nhất là vua và đám đông dân chúng đến dự như để chứng kiến một cuộc vui chơi hay cuộc biểu diễn. Tâm hồn của dân chúng đang lạnh băng đối với Thiên Chúa, họ không còn tình yêu đối với Thiên Chúa hằng sống của Ít-ra-en. Ngôn sứ Ê-li-a ở đó, một mình, giữa những con người sẵn sàng nuốt sống ăn tươi ông, vì họ vu khống ông là người gây tai họa cho Ít-ra-en. Ông không nao núng, ông tin vào Thiên Chúa, ông yêu mến Thiên Chúa, ông hướng mắt nhìn Thiên Chúa, Đấng sẽ không bỏ rơi ông.
Trình thuật hy lễ trên núi Các-men đầy kịch tính, chúng ta không dừng lại nơi những chi tiết. Chúng ta ghi nhận lời nói của ngôn sứ Ê-li-a ngỏ với đám dân chúng đang hiện diện: “Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, hãy theo Người; còn nếu là Ba-an thì cứ theo nó!” (1V 18, 21).
Tại sao ngôn sứ Ê-li-a lại dùng hình ảnh “nhảy khập khiễng hai chân” để nói với dân chúng? Đâu là sự thật của tâm hồn dân này? Qua câu hỏi dành cho dân chúng, ngôn sứ Ê-li-a, một cách nào đó, bộc lộ tâm hồn của ông.
Hình ảnh “nhảy khập khiểng hai chân” rất gợi hình: hai chân không cùng một nhịp, không vững vàng. Khi dùng hình ảnh này, ngôn sứ Ê-li-a diễn đạt rất đúng tâm hồn của dân Ít-ra-en: không trung thực, không trọn vẹn với Thiên Chúa. Nói một cách nôm na là đi hai hàng: không hoàn toàn lìa bỏ Thiên Chúa – vì còn mang danh nghĩa – nhưng tâm hồn hoàn toàn đã lìa xa Thiên Chúa, vì chạy theo Ba-an. Hay nói theo sách Khải Huyền: không nóng cũng không lạnh (x. Kh 3, 15).
Sau khi đã cật vấn dân chúng về thái độ không rõ ràng với Thiên Chúa, ngôn sứ Ê-li-a đã nhấn mạnh phải chọn thái độ dứt khoát, chứ không thể lúc chạy theo Thiên Chúa, khi lại đuổi theo Ba-an. Ông dõng dạc tuyên bố: “Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, hãy theo Người; còn nếu là Ba-an thì cứ theo nó!”
Ở đây chúng ta dừng lại để khám phá thêm một chút sự gắn kết của ngôn sứ Ê-li-a với Thiên Chúa. Như chúng ta biết, ngay từ khởi đầu sứ vụ, ngôn sứ đã nói lên sự gắn kết mật thiết không gì lay chuyển được giữa ông và Thiên Chúa: “Đấng tôi phục vụ”. Vì thế, trong tất cả các tình huống xảy ra, đó là cơ hội để ông tái khẳng định chọn lựa dứt khoát của ông. Khi ông nhận định với dân chúng về việc không dứt khoát của họ với Thiên Chúa hoặc Ba-an, ông muốn nói lên tính tuyệt đối của bản thân ông trong việc đứng về phía Thiên Chúa. Ông không chút do dự trong định hướng của mình. Điều đó biểu lộ tình yêu say mê mà ông dành cho Thiên Chúa. Lời đanh thép ông ngỏ với vua A-kháp và dân chúng trên núi Các-men phát xuất từ tâm hồn ông, từ tấm lòng gắn kết keo sơn của ông với Thiên Chúa. Ông say mê Thiên Chúa và ông không thể chấp nhận những ai mang danh là dân tuyển chọn của Người lại có thể “nhảy khập khiễng hai chân”, “đi hai hàng”, “không nóng cũng chẳng lạnh”. Ông không chấp nhận việc biến Thiên Chúa như là đồ vật để lợi dụng. Thiên Chúa phải là Thiên Chúa.
Và với lời đanh thép đó, ngôn sứ Ê-li-a đã đề nghị một “cuộc chơi” công bằng và sòng phẳng, có phần thiệt về mình khi ông ra lệnh tưới ướt cả bàn thờ, củi và lễ vật. Nhân cơ hội này, ông đã chế giễu Ba-an, vì đối với ông, Ba-an chẳng là gì. Và sau đó, chúng ta đã biết kết cục. Lòng nhiệt tâm đã thúc đẩy ông tàn sát tất cả các ngôn sứ của Ba-an, trước sự hiện diện của vua A-kháp. Vua rất ấn tượng và sau khi về hoàng cung đã kể lại cho hàng hậu I-dơ-ven việc ông Ê-li-a tàn sát hết các ngôn sứ (1V 19, 1).
4. HÀNH TRÌNH SƯỞI ẤM CON TIM VÀ TIẾP TỤC SỨ MỆNH NGÔN SỨ
Bà I-dơ-ven liền sai sứ giả đến nói với ông Ê-li-a rằng: “Xin các thần minh làm cho ta như thế này, và còn hơn thế nữa, nếu giờ này sáng mai ta không biến mạng ngươi ra như mạng một trong các người ấy” (1V 19,2).
Tại sao bà không sai người đến thủ tiêu ông Ê-li-a mà lại sai người đến báo? Đây là một thủ đoạn tinh vi, làm cho ngôn sứ Ê-li-a sợ sệt và tê tái chờ cái chết. Loan báo sẽ lấy mạng, nhưng không nói cách nào, vì vậy bất cứ ai, bất cứ một tiếng động nào cũng trở thành mối đe dọa tiềm ẩn. Ngôn sứ chỉ còn có một cách là chạy, chạy thật nhanh để trốn tránh hết mọi người, trong tâm trạng hoảng loạn. Ông chạy về sa mạc, bỏ cả đứa tiểu đồng từng đi theo ông lâu nay. Ông đã không sợ Ba-an và sẽ không bao giờ sợ Ba-an, vì đối với ông, Ba-an chẳng là gì, chẳng có quyền lực gì. Nhưng ông sợ I-dơ-ven, người đàn bà căm ghét ông tận xương tủy và luôn tìm cách triệt hạ ông. Ông sợ, ông chạy trốn, ông than thở, và nếu còn một niềm an ủi nào, thì đó lại là thương hại cho số phận mình. Ông muốn chết: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1V 19, 4). Vinh quang, chiến thắng trên núi Các-men đã lùi lại đàng sau, và giờ đây là trốn chạy với tâm trạng hoàn toàn thất vọng. Vị anh hùng hôm qua nay trở thành một kẻ thất bại ê chề, ngay cả đối với chính bản thân. Ngôn sứ Ê-li-a đã “mất lửa” quá nhanh. Thân phận con người mỏng dòn quá!
Điều chúng ta muốn nhấn mạnh nơi đây là cách thức Thiên Chúa nâng đỡ tôi trung của Người trong cảnh cùng khốn, để niềm say mê, để nhiệt tâm ngày trước không bị tàn lụi. Chúng ta đi theo ngôn sứ trong hành trình tiến đến núi Khô-rếp.
Vì quá mệt mỏi, ngôn sứ Ê-li-a thiếp ngủ dưới cây kim tước. Thiên Chúa để ông ngủ. Cần ngủ để lấy lại sức lực. Rồi Người nuôi sống ông bằng của ăn và thức uống. Ăn xong, ông lại ngủ. Thức dậy, lại ăn. Thể lý cần đi bước đầu trong việc hồi phục. Thời gian cũng cần thiết. Thiên Chúa không nóng vội, không giục giã ngôn sứ lên đường ngay. Cần nghỉ ngơi, cần hồi phục, vì đường còn xa. Ở đây, Thiên Chúa hiện diện – qua hình ảnh một thiên sứ – và nuôi sống với những yếu tố vật chất. Thiên Chúa không giảng dạy, không đưa ra những bài học luân lý, nhưng hiện diện bên cạnh và nuôi sống. Thiên Chúa rất tế nhị và cũng rất thực tế. Người đáp ứng điều cần thiết bây giờ và nơi đây – hic et nunc.
Rồi khi đã đến núi Khô-rép, khi mà ngôn sứ Ê-li-a cảm thấy an toàn hơn vì ông ẩn mình trong một chiếc hang, Thiên Chúa mới ngỏ lời và đi vào trọng tâm của vấn đề.
– “Ê-li-a ngươi làm gì ở đây?”
– “Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa các đạo binh nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá hủy bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ còn sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng sống con” (1V 19, 9-10).
Ông Ê-li-a vẫn sợ dù đã đến nơi ẩn nấp, ông thu mình, ông tự cô lập mình, ông trốn trong hang. Ông than thở và coi mình là duy nhất phụng thờ Thiên Chúa và ông cảm thấy quá đắt cái giá của nhiệt tâm đối với Thiên Chúa. Niềm an ủi ông có bây giờ là than thở! Nhưng Thiên Chúa không muốn tôi trung của Người mất nhuệ khí, Người kêu gọi ông đi ra ngoài : “Hãy đi ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa” (1V 19, 11). Sau đó là một vài hiện tượng xảy ra. Chúng ta không dừng lại các chi tiết này.
Một lần nữa, Thiên Chúa lại đối thoại với ngôn sứ.
– “Ê-li-a, ngươi làm gì ở đây?”
– “Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa các đạo binh nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá hủy bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ còn sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng sống con” (1V 19, 13-14).
Chúng ta thấy ngôn sứ sử dụng từng chữ trong câu trả lời trước; điều đó cho thấy ông vẫn khổ đau và chủ bại. Ông còn bị chôn chặt vào thất vọng và chán nản. Nhưng Thiên Chúa cần cho tôi trung của mình sức mạnh để tiếp tục sứ vụ bằng cách kêu gọi ông đi trên con đường dẫn đến đây và hành động như một ngôn sứ. Người cho ông biết là còn hơn bảy nghìn người vẫn trung tín với Thiên Chúa (x. 1V 19, 15-18).
Một chút dừng lại trình thuật của ngôn sứ Ê-li-a trốn chạy hoàng hậu I-dơ-ven để đến điểm hẹn là núi Khô-rép, hé lộ cho chúng ta thấy tình yêu thương của Thiên Chúa đối với ngôn sứ Ê-li-a trong cơn cùng quẫn, thất vọng. Cách hành xử của Thiên Chúa, từ vật chất qua miếng ăn thức uống, giấc ngủ, đến mạc khải siêu việt, diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa, và điều đó làm cho ngôn sứ lấy lại nghị lực, kín múc sức sống thần linh, để tiếp tục hành trình cuộc sống và sứ vụ được Thiên Chúa ủy thác.
5. THIÊN CHÚA CỦA CÔNG LÝ
Một khía cạnh của lòng nhiệt thành đối với Thiên Chúa nơi ngôn sứ Ê-li-a, đó là bênh vực Thiên Chúa của công lý, công bằng. Chúng ta đã biết câu chuyện vua A-kháp chiếm đoạt vườn nho của ông Na-vốt (1V 21, 1-26). Trong câu chuyện này, chúng ta khám phá thủ đoạn và những chiêu ghê tởm của hoàng hậu I-dơ-ven. Bà đã nhân danh vua để thảo một lá thư cho các thân hào tại nơi ông Na-vốt sinh sống. Bà là người thù địch với Thiên Chúa của Ít-ra-en, vậy mà bà lại lấy lý do tôn giáo để vu cáo người vô tội, bằng cách công bố một kỳ chay tịnh. Người ta ăn chay mà không biết lý do, tạo nên một bầu khí căng thẳng và chờ đợi một việc khủng khiếp nào đó sắp xảy ra. Nhưng ai là thủ phạm? Điều này còn trong bí mật. Và người ta lại càng căng thẳng vì tò mò hơn. Ông Na-vốt được đặt lên ở vị trí hàng đầu, nghĩa là người quan trọng. Nhưng đây là cái bẫy hại ông, bằng cách cho những kẻ vô lại vu cáo ông nguyền rủa Thiên Chúa và nhà vua. Thật ác hiểm con người I-dơ-ven, thù địch và chính bà nguyền rủa Thiên Chúa, nay lại lấy cớ bênh vực Thiên Chúa để vu cáo kẻ đã không làm điều đó. Thật thâm ý! Quá ác tâm! Đây là vòng xuyến của tội ác: bà I-dơ-ven thay mặt vua thảo lá thư, rồi dùng những thân hào tạo bẫy, rồi các thân hào lại dùng những đứa vô lại vu khống. Một vòng tội ác! Chúng ta cũng đau lòng nhận thấy sự im lặng hoàn toàn của những dân cư nơi ông Na-vốt sống. Không một ai lên tiếng bênh vực, dù họ biết ông vô tội. Tội ác thỏa hiệp tội ác! Và cuối cùng, họ đã giết chết ông Na-vốt và vua đến chiếm đoạt vườn nho, mà không cần trả tiền hay đổi chác.
Và đây Thiên Chúa sai ngôn sứ Ê-li-a đến can thiệp: “Có lời Đức Chúa phán với ông Ê-li-a, người Tít-be, rằng: Ngươi hãy đứng dậy, xuống gặp A-kháp, vua Ít-ra-en, ở Sa-ma-ri. Này, nó đang ở trong vườn nho của Na-vốt, vì nó đã xuống chiếm đoạt vườn nho ấy. Ngươi hãy nói với nó rằng: ‘Đức Chúa phán thế này: ngươi đã giết hại, lại còn chiếm đoạt nữa ư? – ngươi hãy nói với nó, Đức Chúa phán thế này: tại nơi chính chó đã liếm máu Na-vốt, thì chó cũng sẽ liếm máu ngươi” (1V 21, 17-19). Ngôn sứ đã ra đi như lời Thiên Chúa nói với ông. Ông đã bắt gặp vua A-kháp và tuyên bố những tai họa đang chờ ông vua tham lam và sát nhân này.
Ở đây, chúng ta khám phá lòng say mê Thiên Chúa dẫn đến chỗ bênh vực công lý, công lý của Thiên Chúa. Nói cách khác, lòng yêu mến Thiên Chúa luôn đi đôi với công cuộc của Thiên Chúa. Một tình yêu say mê chỉ trung thực khi đứng về phía Thiên Chúa để bênh vực người cô thế, người vô tội. Tình yêu đối với Thiên Chúa bao giờ cũng sinh hoa kết trái qua việc phục vụ lợi ích chính đáng của con người. Tình yêu say mê bao giờ cũng mang tính năng động. Ngọn lửa bao giờ cũng quang tỏa sức nóng và ánh sáng nơi nó hiện diện.
Một thoáng nhìn vào đời sống và hoạt động của ngôn sứ Ê-li-a cho phép chúng ta khám phá ra “chất lửa” trong con người của ông. Nhưng lửa đó từ nơi đâu? Chúng ta có thể quả quyết mà không sợ sai lầm rằng nó phát xuất từ Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được ví như ngọn lửa, và những cuộc thần hiện của Người hầu như đều có lửa tháp tùng, thí dụ cuộc gặp gỡ với ông Mô-sê khi đang đi chăn đàn vật, khi ông nhìn thấy một bụi gai bốc cháy, hay cuộc thần hiện tại núi Si-nai khi Thiên Chúa trao ban Lề Luật cho dân Ít-ra-en. Dầu vậy, để chất lửa có thể thấm nhập vào con người, để lời nói và hành động đậm chất “nóng”, cũng rất cần thiết là phải có một mối tương giao thân tình. Trong trường hợp vị ngôn sứ của chúng ta, đó là cầu nguyện. Chính sự cầu nguyện “sưởi ấm” và mang lại nội lực cho cuộc sống. Ngoài ra, cũng cần phải làm nổi bật “kinh nghiệm” được Thiên Chúa dẫn dắt, nuôi dưỡng và phục hồi. Lửa trong con người cũng sẽ có lúc nguội đi và có nguy cơ bị dập tắt vì những biến cố, sự cố và chướng ngại, gây nên chán nản, thất vọng. Nhưng hành trình trải nghiệm rất cụ thể, sống động và thực tế, qua từng giai đoạn, sẽ lại thắp lên một ngọn lửa mới, thổi vào một luồng hơi ấm mới, để có thể lên đường thực hiện một dự phóng mới.
Ngôn sứ Ê-li-a mời gọi chúng ta sống và hoạt động với tất cả “nhiệt tâm” của một con tim nồng nàn yêu mến, phát ngôn những lời đậm chất lửa có khả năng cảnh tỉnh tha nhân và dám hành động dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ngôn sứ Ê-li-a là ngôn sứ lửa, ngôn sứ của nhiệt thành, ngôn sứ của say mê và can đảm, vì ông đã chọn Thiên Chúa hằng sống và đã dành cả cuộc đời phục vụ Người và công cuộc của Người. Và đoạn kết của cuộc đời ngôn sứ cũng vẫn “rực lửa” khi ông ra đi khỏi trái đất này trên “một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa” (2V 2, 11).
ĐỐI VỚI TÔI_SỐNG LÀ ĐỨC KITÔ
FM. Montfort Huyên
Lời Mở
Phaolô là người đã chống lại Chúa Kitô để bảo vệ Luật Môsê. Nhưng sau biến cố trên đường Đamát, ngài đã biết sự thật về Chúa Kitô, đồng thời cũng nhận ra mình đã được Người thương xót. Ngài thuật lại trong thư thứ nhất gửi Timôthê: “Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin” (1Tm 1, 13). Kể từ đó, ông đã tách lìa hoàn toàn khỏi điều mà trước đây dường như là quan trọng nhất đối với ông, để gắn bó với Chúa Kitô: “Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô” (Pl 3, 7-8). Hướng đi mới này dẫn ngài đến chỗ nhận thức rằng mọi điều tốt lành xưa kia chẳng là gì khi so với Chúa Kitô. Không phải tự thân chúng không là gì cả, nhưng khi so sánh với Chúa Kitô thì chúng chẳng có giá trị gì. Chúa Kitô đã trở thành sự sống của Phaolô và là tất cả đối với Phaolô[1] .
1.Nhận thức của thánh Phaolô về việc trở lại với Chúa Kitô.
Khi Chúa Giêsu hỏi Phaolô: “Tại sao anh bắt bớ Ta?”, thánh bất thình lình hiểu ra mình đã nhầm lẫn, nhờ việc gặp gỡ trực tiếp với sự thật. Ngài biết mình phải làm lại, suy nghĩ lại trong mọi sự từ đầu đến cuối. Tin Mừng Mátthêu trong chương 13 đã mô tả một tình huống tương tự: một thương gia tìm được viên ngọc quí liền nhận ra rằng mọi sự khác chẳng có giá trị gì. Người tìm ra kho báu giấu trong ruộng cũng nhận ra bây giờ mọi sự khác không có giá trị gì. Điều xảy ra cho Phaolô trên đường Đamát là ngài đã lãnh nhận một mặc khải về Chúa Giêsu. Mạc khải đó đã làm đảo lộn hoàn toàn hướng đi nội tâm của ngài. Mọi sự đã được ban cho ngài. Sự thay đổi của ngài không phải vì sức mạnh của bản, việc suy niệm, cầu nguyện lâu giờ hay ăn chay đánh tội. Mọi sự được ban cho ngài để ngài có thể là một dấu chỉ cho mọi người về lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng luôn luôn đi bước trước, trước khi chúng ta tìm kiếm Ngài.
Phaolô sử dụng Cựu Ước để mô tả điều đã xảy ra cho ngài: “Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi,” (Gl 1, 16), người đi bước trước trong cuộc hoán cải không phải là Phaolô mà là Thiên Chúa. Mọi hành động là do Thiên Chúa. Ngài là tác giả của việc hoán cải. Mọi sự được ban cho ngài nhờ việc biết Chúa Giêsu. Chúng ta đã thấy Phaolô mô tả cuộc trở lại của ngài trong một cuộc gặp gỡ. Chúa Kitô là mạc khải của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tôi.Chúa Kitô là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Phaolô[2]. Ngài còn thấy ơn gọi của mình được Thiên Chúa tuyển chọn trước khi tạo dựng vũ trụ: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1, 4).
2. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình qua Đức Kitô.
Phaolô đã cảm nghiệm tình yêu cứu độ của Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Tột đỉnh của tình yêu này là cái chết của Chúa Kitô trên thập giá với tính cách là hy tế đền tội: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20). Như thánh Gioan tông đồ, Phaolô hiểu rằng Chúa Giêsu Kitô là mức độ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga 3, 16).
Khi nói về tình yêu của Thiên Chúa, Phaolô thường qui chiếu đến việc cứu chuộc của Chúa Kitô. Tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ cả nơi thập giá và trong việc kêu gọi, tuyển chọn ngài: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô”(Ep 1, 4-5).
Phaolô đã hiểu tội lỗi của mình được Thiên Chúa tha thứ và cứu chuộc do tình yêu vô biên của Ngài: “Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8). Tình yêu đó làm cho ngài được sống với Đức Kitô: “Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ!” (Ep 2, 4-5). Nhờ tình yêu của Thiên Chúa mà ngài có được niềm an ủi và cậy trông giữa cuộc đời đầy sóng gió của mình: “Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp” (2Tx 2, 16).
3. Thánh Phaolô say mê thập giá Chúa Kitô.
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Phaolô đã viết: “Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá” (1Cr 2, 1-2). Đây là sự say mê thập giá Chúa Kitô của Phaolô. Đối với Phaolô, thập giá Chúa Kitô không chỉ là nền tảng cho ơn cứu độ loài người, nhưng còn là nền tảng của việc Thiên Chúa tự mạc khải chính Ngài nữa. Chính vì thế, khi thấy có những Kitô hữu không có đức tin vào thập giá của Chúa Giêsu thì Phaolô đã phải thốt lên: “Vì, như tôi đã nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô” (Pl 3, 18).
Điều đánh động nhất là Phaolô đã tố cáo điều sai lầm này và đã khóc khi lặp lại lời này nhiều lần. Ai là kẻ thù của thập giá Chúa Kitô? Phaolô khóc khi thấy rằng họ dấn mình vào các việc hy sinh vô ích và có hại. Đây là những người Kitô hữu gốc Do Thái mà chúng ta đọc trong phần đầu của chương 3 trong thư Philiphê: “Anh em hãy coi chừng quân chó má! Hãy coi chừng bọn thợ xấu! Hãy coi chừng những kẻ giả danh cắt bì” (Pl 3, 2). Những người này cho rằng họ có thể tự cứu lấy mình nhờ các công việc của họ, nhờ các hy sinh và từ bỏ của họ, nhờ việc cắt bì và giữ luật Môsê. Và họ không có đức tin vào thập giá của Chúa Giêsu. Họ là những kẻ tìm kiếm sự công chính hóa nhờ việc tuân giữ lề luật, họ loại bỏ ơn cứu độ đến từ tình yêu tha thứ của Thiên Chúa.
Cũng có những người loại bỏ mầu nhiệm thập giá của riêng họ. Họ không muốn cộng tác với tình yêu của Chúa Giêsu, đi ngược lại với cách sống của Phaolô: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1, 24). Cuối cùng, có những người sống thiếu tinh thần hy sinh. Trước hết là thiếu đức tin vào Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta vô cùng và rộng lòng thứ tha cho chúng ta. Tình yêu của Đấng chịu đóng đinh trên thập giá đã trở thành động lực giúp Phaolô sống đời truyền giáo hăng say nhiệt thành: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người, thì mọi người đều chết” (2Cr 5, 14). Cả đời ông chỉ có mục đích làm cho người ta yêu mến Chúa Kitô là Đấng đã yêu thương chúng ta quá đỗi.
4. Thánh Phaolô chứng tỏ tình yêu của ngài đối với Chúa qua việc yêu thương dân Do Thái, và Nhiệm Thể của Chúa Kitô là Giáo Hội.
Như lời thánh Gioan Tông đồ nói: “Nếu ai nói:Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4, 20-21), vì vậy thánh Phaolô đã diễn tả tình yêu của mình đối với Thiên Chúa qua sự quan tâm sâu sắc của ngài dành cho những người đồng bào Do Thái là Dân riêng đã được Thiên Chúa tuyển chọn: “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi. Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng” (Rm 9, 2-3). Với tư cách là một Kitô hữu và là một tông đồ, thánh Phaolô mặc dù có quan điểm bất đồng với dân Do Thái nhưng ngài vẫn tha thiết yêu thương họ. Ngài không chối bỏ nguồn gốc của mình.
Đối với các cộng đoàn do chính thánh nhân sáng lập, ngài có tình cảm vừa dịu dàng vừa mạnh mẽ. Ngài đã không do dự diễn tả những cảm xúc này: “Thật thế, tôi đã vô cùng đau khổ, con tim se thắt, nước mắt chan hoà khi viết cho anh em: tôi viết không phải để gây ưu phiền, nhưng là để cho anh em biết tôi hết lòng yêu mến anh em” (2Cr 2, 4), và ngài còn cho thấy tấm lòng của mình đối với họ: “Thưa anh em người Côrintô, chúng tôi đã chân thành ngỏ lời với anh em, chúng tôi đã mở rộng tấm lòng” (2Cr 6, 11). Ngài đã nối kết cuộc đời mình với họ: “Tôi nói thế không phải để lên án anh em, vì tôi đã từng nói: anh em hằng ở trong lòng chúng tôi, sống chết chúng ta đều có nhau” (2 Cr 7, 3).
Chỉ những ai yêu thương rất nhiều mới có thể nói một cách thành thực như thánh Phaolô và được chấp nhận. Tình yêu của ngài thì thực tế và trung tín. Thánh Phaolô có những cảm xúc nồng nhiệt nhất là dành cho tín hữu ở Philipphê: “Tôi có những tâm tình như thế đối với tất cả anh em, đó là điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi. Khi tôi bị xiềng xích, cũng như lúc tôi bênh vực và củng cố Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ân sủng tôi đã nhận được. Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Kitô Giêsu” (Pl 1, 7-8).
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Thessalonica, ngài cũng diễn tả những cảm xúc như vậy: “Phần chúng tôi, thưa anh em, phải xa cách anh em một thời gian ngắn, xa mặt chứ không cách lòng, chúng tôi càng cố gắng hơn để lại thấy mặt anh em, vì chúng tôi rất ước ao điều đó. Bởi vậy chúng tôi đã muốn đến thăm anh em” (1Tx 2, 17-18).
Tình yêu của thánh Phaolô cũng được đáp trả, nhưng điều này không làm giảm bớt sự tự do của ngài trong việc thực thi sứ vụ của mình vì lòng mến Chúa Giêsu: “Nghe vậy, chúng tôi và các người địa phương nài xin ông Phaolô đừng lên Giêrusalem. Bấy giờ ông Phaolô trả lời: ‘Có gì mà anh em phải khóc và làm tan nát trái tim tôi? Phần tôi, tôi sẵn sàng không những để cho người ta trói, mà còn chịu chết tại Giêrusalem vì danh Chúa Giêsu“(Cv 21, 12-13).
5. Thánh Phaolô khao khát ở với Chúa Kitô
Thánh Phaolô đang bị giam tù, sống trong một hoàn cảnh bấp bênh. Khi nghĩ đến điều đang đợi mình trong tương lai, ngài viết: “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi. Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1, 21-24). Chúng ta hãy suy nghĩ lời này: “Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô”. Thuật ngữ “ao ước” trong tiếng Hy lạp là epithymia có nghĩa là “thèm thuồng”, đặc biệt là những điều tốt cho thân xác. Thánh Phaolô áp dụng thuật ngữ này cho việc ở với Chúa Kitô để chỉ ra rằng nỗi khao khát của ngài không chỉ là của trí khôn, nhưng bao gồm cả thân xác, cuộc sống, tâm tư tình cảm của ngài nữa. Phaolô còn dùng thuật ngữ này trong thư thứ nhất Thessalonica: “Phần chúng tôi, thưa anh em, phải xa cách anh em một thời gian ngắn, xa mặt chứ không cách lòng, chúng tôi càng cố gắng hơn để lại thấy mặt anh em, vì chúng tôi rất ước ao điều đó” (1Tx 2, 17). Đây là nỗi khát khao cuồng nhiệt của một người đang yêu và muốn ở với người mình yêu, muốn thấy diện đối diện với người ấy.Như thế, được ở với Chúa Giêsu là nỗi khao khát, chờ mong cháy bỏng của thánh Phaolô[3] .
Việc “ở với Chúa Giêsu” này có một lịch sử, có những giai đoạn, như một cuộc hành trình. Để hiểu các giai đoạn khác nhau, chúng ta sẽ đọc lại thư Rôma, trong đó thánh Phaolô trình bày một tổng hợp với nhiều cảm xúc. Ngài có khả năng diễn tả nó bởi vì ngài có kinh nghiệm trong cuộc đời về những gì Chúa Kitô đã làm cho ngài.
Giai đoạn đầu tiên là chết cho tội lỗi: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao?” Sau đó ngài nhấn mạnh đến các hệ quả của việc được dìm vào trong cái chết của Chúa: được mai táng với Chúa, nên một với Chúa, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Chúa (x. Rm 6, 4-6). Và ngài nói thêm: “Vậy tội lỗi đừng có thống trị thân xác phải chết của anh em nữa, khiến anh em phải nghe theo những dục vọng của thân xác. Anh em đừng dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều bất chính, phục vụ cho tội lỗi nữa. Trái lại, anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa. Tội lỗi sẽ không còn quyền chi đối với anh em nữa” (Rm 6, 12-14). Bước thứ hai của việc “chết cho tội lỗi” được thực hiện trong việc “chết đi cho cái tôi”, để đi vào thái độ của Chúa Giêsu: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”(Gl 2, 20).
6. Chúng ta noi gương thánh Phaolô
Câu hỏi của Tin Mừng không phải ‘tôi là ai?’ nhưng là “tôi thuộc về ai?”. Tôi thuộc về Thiên Chúa của tình yêu hay là tôi thuộc về tiền tài, danh vọng, thuộc về các thú vui trần thế? Khi chịu phép rửa tội, chúng ta đã bước vào giao ước yêu thương gắn bó với Chúa Giêsu. Chúa muốn chúng ta mở mắt để nhìn thấy Ngài đã bước vào đời chúng ta, mở tai để nghe lời Ngài nói với chúng ta, những lời yêu thương, những lời ban sự sống và mở con tim để Chúa bước vào tâm hồn chúng ta, trở nên đối tượng duy nhất của tình yêu chúng ta, trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng ta. Điều quan trọng trong cả cuộc đời chúng ta là làm sao để xây dựng mối liên hệ quan trọng nhất, mối liên hệ tuyệt đối cần thiết với Chúa Giêsu Kitô. Và chúng ta phải xây dựng mối liên hệ yêu thương với Chúa trước đã, một khi mối liên hệ đó vững vàng rồi thì mọi sự khác sẽ trở nên dễ dàng vì Chúa sẽ hoạt động trong chúng ta.
Chúng ta cần xin ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp để có thể nhận ra và “thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết” (Ep 3, 18-19). Điều khó nhất là làm sao chúng ta có thể bước vào đại dương tình yêu đó, nếm được tình Chúa một lần trong đời. Tình Chúa nếm qua một lần rồi thì sẽ không bao giờ quên được. Chúng ta tuy yếu đuối, nhưng cần nhớ rằng ngay cả tội lỗi chúng ta đã phạm, Chúa để nó xảy ra cũng là dịp để Ngài thi thố tình yêu vô biên và để chúng ta cảm nghiệm được tình Chúa một cách sâu xa hơn, vì “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8, 28).
Kết Luận
Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài dành cho mỗi người chúng ta qua cuộc đời và cái chết của Chúa Kitô trên thập giá. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được tình yêu đó và đã say mê đáp lại tình yêu của Thiên Chúa qua việc bắt chước Chúa Kitô: sống yêu mến vâng phục thánh ý Chúa Cha và tận tâm yêu thương phục vụ mọi người. Thánh nhân đã không quí gì hơn tình yêu Chúa Kitô. Đây cũng là giới răn trọng nhất của Kitô giáo: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi” (Lc 10, 27). Nếu trái tim của chúng ta còn hờ hững với Chúa Kitô, chưa say mê yêu mến Chúa như thánh Phaolô, chúng ta cần xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong lòng chúng ta ngọn lửa yêu mến đó. Đồng thời chúng ta cần đọc và suy niệm sâu xa hơn những đoạn Kinh Thánh nói về tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhất là cố gắng thực thi lời Chúa dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”(Ga 14, 23).
[1] X. Carlo Maria Martini, “The Gospel acording to St. Paul”, trang 22.
[2] Sách đã dẫn, trang 23.
[3] Martini “Pilgrims not strangers” trang 20
MISERICODIAE VULTUS
Tìm hiểu Tông chiếu “Khuôn mặt thương xót ”
của Đức Thánh Cha Phanxicô
FM.Gioan Vianney
Thật là hợp lý khi Đức Thánh Cha Phanxicô mở năm thánh kính lòng thương xót Thiên Chúa, nhân kỷ niệm 50 năm kết thúc Vatican II, một công đồng không đưa ra một câu lên án nào! Quả thật, trong diễn từ khai mạc Công Đồng Vatican II, Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tuyên bố: “Giờ đây Hiền Thê của Chúa Kitô muốn sử dụng dược phẩm lòng thương xót chứ không phải là vũ khí của sự hà khắc…Giáo Hội Công giáo, khi giơ cao ngọn đuốc chân lý tại công đồng đại kết này, muốn thể hiện mình là một một bà mẹ yêu thương mọi người: kiên nhẫn, dịu dàng, từ tâm và nhân hậu với những con cái đã xa đàn…”. Khi kết thúc công đồng Vatican II, Chân Phước Phaolô VI cũng nhất trí xác nhận: “Chúng tôi muốn chỉ ra lòng bác ái là tính năng tôn giáo chủ yếu của công đồng này như thế nào… câu chuyện xưa về người Samaritano nhân hậu đã là mô hình cho linh đạo của công đồng …một làn sóng tình cảm và ngưỡng mộ đã tuôn chảy từ công đồng trên thế giới nhân loại” (MV 4). Trải hơn nửa thế kỷ, Giáo Hội chứng kiến những hoa quả mà hai vị thánh giáo hoàng trên đây đã thấy trước. Với lòng biết ơn, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người đào sâu giáo huấn của Vatican II, đồng thời cụ thể hóa lòng thương xót, xuất phát từ Thiên Chúa, trong gia đình Hội Thánh và trên thế giới. Chúng tôi mạn phép tô đậm nét một số điểm nổi cộm của Tông Chiếu này, nhằm giúp bạn đọc đào sâu giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô
Misericordiae Vultus
“Khuôn mặt thương xót của Thiên Chúa chính là Đức Kitô”
Về tâm lý, khuôn mặt bày tỏ mọi tâm tình của con người: người vui có khuôn mặt tươi như hoa, người đang buồn khuôn mặt đưa đám chảy xệ thê thảm! Ca dao có câu: “trông mặt mà bắt hình dong” là thế đó! Ở đây không dám quyết rằng câu ca dao này hoàn toàn đúng, mà chỉ nói lên tính “mạc khải” của khuôn mặt.
Thiên Chúa Cha là “Đấng giàu lòng thương xót” (Ep 2,4) đã sai Con Một đến trần gian để mạc khải tình thương của Ngài. Đức Ki-tô thể hiện trọn vẹn tình thương của Thiên Chúa trong toàn bộ cuộc sống nơi trần gian. Mặc dù Ngài đang ngự bên hữu Chúa Cha, nhân loại vẫn nhận ra khuôn mặt đầy lòng thương xót của Ngài qua Tin Mừng và qua Hội Thánh, thân thể Ngài.
Vậy chúng ta khám phá gì nơi khuôn mặt ấy? Chúng ta tìm được câu trả lời ngang qua những kiểu nói của Đức Thánh Cha như: “Lòng thương xót là suối nguồn của niềm vui, thanh thản và bình an, thương xót là từ mạc khải các mầu nhiệm của Thiên Chúa, là cầu nối giữa Thiên Chúa và nhân loại, là niềm hy vọng được Thiên Chúa yêu thương mãi mãi…”. Tất cả những cụm từ ấy mang đến một niềm an ủi to lớn cho những ai đang bị tội lỗi, bạo lực và chiến tranh đe dọa từng ngày, khi họ biết có Cha giàu lòng thương xót hiện diện bên mình! (MV 2)
Nhưng phải chăng ai cũng nhận ra lòng thương hải hà Thiên Chúa? Chắc chắn là không! Hơn bao giờ hết, Hội Thánh cần gào to để không một ai không nghe biết chân lý này. Đó hẳn là lý do khiến Đức Thánh Cha mở năm thánh về lòng Chúa thương xót.
Về thời gian, địa điểm và nền tảng đạo lý
Thời gian
Năm thánh được khai mạc vào lễ Đức Mẹ Vô nhiễm, 8.12.2015,vì hai lý do: Thứ nhất, mầu nhiệm “một Người Nữ đạp đầu Rắn Sa-tan” được tiên báo ngay khi Adam và Eva vừa phạm tội; thứ đến, vì công đồng Vatican II đã bế mạc cách đây tròn nửa thế kỷ, đúng vào ngày lễ Đức Mẹ vô nhiễm!
Năm thánh sẽ kéo dài cho đến lễ Chúa Kitô Vua năm 2016. Đức Thánh Cha viết: “Vào ngày đó, khi niêm phong Cửa thánh, chúng ta sẽ được đầy tràn, trên tất cả, với một cảm thức tạ ơn Chúa Ba Ngôi chí thánh, đã ban cho chúng ta một thời gian ngoại thường của ân sủng. Chúng ta sẽ phó thác đời sống của Giáo Hội, của nhân loại và của toàn bộ vũ trụ cho quyền chủ tể của Chúa Ki tô…Tôi ước ao xiết bao là năm tới sẽ được ngập tràn trong lòng thương xót, để chúng ta có thể vươn tới mọi người, mang đến cho họ sự tốt lành và dịu dàng của Thiên Chúa” (MV 5)
Địa điểm
Cũng như những năm thánh khác, ngày bắt đầu được đánh dấu bằng việc mở cửa bốn đại thánh đường Roma, rồi lần lượt, như vết dầu loang, từ Roma đến các giáo phận trên toàn thế giới.
Nền tảng giáo lý
Chúng ta đừng tưởng rằng Đức Thánh Cha làm việc tùy hứng. Bên cạnh ngài có một giáo triều, cũng như một đội ngũ hùng hậu cố vấn và các chuyên viên đa ngành. Trong Tông chiếu này, Đức Thánh Cha lần lượt trình bày giáo lý về lòng thương xót của Thiên Chúa, dựa trên Mạc khải Cựu và Tân ước, kèm theo giáo huấn của Giáo Hội trải qua hai nghìn năm lịch sử.
Trong Cựu ước, đặc biệt ngang qua các Thánh vịnh, lòng thương xót hải hà của Thiên Chúa được minh họa trong mỗi biến cố lịch sử dân Israel, từ ơn gọi của Abraham đến biến cố xuất hành, giao ước Si nai và việc chiếm đất Hứa, thậm chí ngay trong thời lưu đày gian khổ tại Babylon. Đâu đâu trên miệng Dân Chúa cũng trổi lên điệp khúc “Tình thương Chúa muôn đời trường cửu” (Tv 135).
Mạc khải lòng thương xót Thiên Chúa đạt tới hồi viên mãn trong Đức Kitô, bởi chính Ngài là Quà Tặng tình thương cao cả nhất: “Thiên Chúa yêu thế gian qúa đỗi, đến nỗi ban chính Con Một” (Ga 3, 16; Rm 8,32).
Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta hãy “dán chặt vào Chúa Giêsu và ánh mắt của Ngài, chúng ta sẽ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh” (MV 8). Hẳn thật qua Chúa Kitô, nhờ nhân tính của Ngài, tình yêu Thiên Chúa như được đụng chạm tới cách cụ thể. Đức Thánh Cha dám quả quyết: “Không có gì nơi Ngài thiếu vắng lòng từ bi” (MV 8).
Tin Mừng có những chứng từ sống động về lòng thương xót của Thiên Chúa qua Đức Kitô: “Ngài chạnh lòng thương” đối với các bệnh nhân và đoàn lũ đi theo Ngài (x. Mt 14,14), ngài đọc được nỗi đau của bà mẹ góa thành Na-in đang đưa con trai duy nhất ra nghĩa địa (x. Lc 7,15); với lòng xót thương Ngài đã chăm chú nhìn Matthêu để hoán cải ông (x. Mt 9. 9).
Lòng thương xót của Thiên Chúa được diễn tả sống động biết bao qua ba dụ ngôn mà thánh sử Luca ghi lại ! (x. Lc 15). Nơi đây quả thật ta cảm nhận được nét âu yếm, sự quý trọng và cả niềm vui của Cha Trên Trời khi tìm được con chiên lạc hay người con trở về! (MV 9).
Nhưng tình thương của Thiên Chúa là mạch suối tuôn tràn, một khi tưới đẵm lòng ta, cũng phải tràn ra tha nhân, đặc biệt qua sự tha thứ. Dụ ngôn “Hai con nợ” trong Tin Mừng Matthêu cho thấy sự ti tiện của con người đối với nhau (x. Mt 18, 22-35). Để gút lại điểm này, Đức Thánh Cha xác quyết: “Tình yêu nói cho cùng, không bao giờ chỉ là một khái niệm trừu tượng, vì tự bản chất của nó, tình yêu hướng đến một cái gì cụ thể, như một ý định, một thái độ, một hành vi trong cuộc sống thường ngày” (MV 9).
Hội Thánh với lòng thương xót
“Lòng thương xót phải là nền tảng của đời sống Hội Thánh” (MV 10).“Người ta sẽ nhìn ra sự khả tín của Hội Thánh qua những cách thức Hội Thánh thể hiện lòng thương xót (…) Có lẽ đã từ lâu chúng ta quên làm thế nào để chứng tỏ và sống theo cách thương xót…” (MV 10). “Phải chăng vì quá nhấn mạnh công lý nên việc thực hành thương xót suy yếu dần trong nền văn hóa hôm nay” (MV 10). Sau đây là khẳng định của thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II: “Hơn bao giờ hết, não trạng của con người thời nay muốn chống lại một Thiên Chúa của lòng thương xót, và trong thực tế, có xu hướng loại khỏi cuộc sống và con tim những tâm tình xót thương”(MV 10). Để hàn gắn lại lỗ hỏng này, Đức Thánh Cha Phanxicô lập ra năm thánh của lòng thương xót.
Sau đây là những việc cần thực hiện trong năm thánh: hành hương, lãnh bí tích Hòa Giải và hưởng ân xá. Ý nghĩa mỗi việc đạo đức ấy được Đức Thánh Cha quảng diễn khá tỉ mỉ, đồng thời đưa ra những chỉ dẫn thực hành.
Hành hương
Năm Thánh, Đền thờ Thánh Phê-rô và một số thánh đường tại Roma cũng như trên thế giới được mở ra cách trọng thể, đánh dấu ngày khai mạc năm thánh, và để cho các ki-tô hữu kính viếng hầu lãnh ơn toàn xá. Đức Thánh Cha không dừng lại nơi các nghi thức, nhưng muốn chúng ta thực hiện với một ý nghĩa thiêng liêng rộng rãi hơn.
Đức Thánh Cha nêu rõ: “Cuộc sống tự nó là một cuộc hành hương, vì nhân loại là đoàn người lữ hành đang tiến về một đích điểm” (MV 14). Hành hương vừa “là dấu chỉ cho thấy lòng thương xót vừa là một mục tiêu cần vươn tới trong năm hồng phúc này, dĩ nhiên nó đòi hỏi chúng ta một sự dâng hiến và hy sinh. Đức Thánh Cha trích Tin Mừng Luca 6, 36-38 để nêu lên những bước hành hương mà Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện:
Bước thứ nhất là vượt qua những cái tiêu cực, như thói lên án, ghen tương, đố kỵ bêu xấu hoặc tung ra những tin đồn lệch lạc… Hãy cố gắng khám phá những điểm tốt nơi người anh em. Hãy luôn lấy Chúa Cha làm gương mẫu, như lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy xót thương như Cha anh em là Đấng thương xót” (Lc 6, 36).
Bước thứ hai của cuộc hành hương năm thánh là “mở lòng mình ra với những người đang sống ngoài rìa xã hội. Chính xã hội hiện đại đang tạo ra những vùng ngoại vi như thế, biết bao người đang phải sống trong cảnh bấp bênh và đau đớn trên thế giới hôm nay” (MV 15). Và đây là ước muốn cháy bỏng của Đức Thánh Cha: “Chúng ta hãy tái khám phá những hoạt động thể lý của lòng thương xót: đó là cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống…Và dĩ nhiên không quên những hoạt động thiêng liêng của lòng thương xót như lấy lời lành khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo…Thánh Gioan Thánh Giá hẳn thật đã xác quyết: “Khi chúng ta lìa đời, chúng ta sẽ được phán xét trên cơ sở của tình yêu” (MV 15).
Bước thứ ba của hành hương thiêng liêng là thực hiện lời sấm về Đức Kitô sau đây: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi…Ngài sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn (…). Lời rao giảng của Đức Giêsu trở nên hữu hình trong đáp trả đức tin mà các kitô hữu được mời gọi đưa ra qua chứng tá của họ” (MV 16)
Lãnh bí tích Hòa Giải
Năm thánh là thời điểm thuận lợi nhất cho sự hòa giải: hòa giải với Thiên Chúa, hòa giải với tha nhân. Đức Thánh Cha nhắc lại một lời nguyện trong thánh lễ Chúa Nhật 26 mùa thường niên: “Khi thương xót và thứ tha, Thiên Chúa bày tỏ quyền năng của Ngài hơn cả…”. Vì được giải thoát khỏi tội lỗi cũng là một cuộc tái sinh trong ân sủng. Nhưng ân sủng là gì nếu không phải tình thương Thiên Chúa. Giáo Hội có nhiệm vụ công bố cho mọi người, dù ở trong tình trạng tội lỗi nào chăng nữa, để họ cảm nhận lòng từ bi Thiên Chúa hải hà đến mức nào.
Đức Thánh Cha đặc biệt nhắn nhủ các linh mục giải tội: Các ngài phải là dấu chỉ thiết thực của lòng thương xót, vì chính bản thân các ngài cũng là hối nhân đang tìm kiếm sự khoan dung tha thứ. Vì thế các ngài đừng biến tòa giải tội thành phòng tra tấn hối nhân “với những câu vặn hỏi vô ích”, trái lại hãy khuyên răn và giúp đỡ tội nhân nhận ra khuôn mặt nhân từ của “Cha giàu lòng thương xót” (MV 17). Trong chiều hướng này, Đức Thánh Cha hứa sẽ gửi đi khắp Giáo Hội những “sứ giả của lòng thương xót” với những năng quyền ngoại thường. (Cũng cần ghi nhận thêm: Trong năm thánh này, Đức Thánh Cha ban cho tất cả các linh mục năng quyền giải vạ cho mọi tội phá thai).
Tình thương và công lý
Ở đây, Đức Thánh Cha tự hỏi: Khi đề cao lòng thương xót, phải chăng ngài làm giảm nhẹ ý nghĩa của công lý?
Đối với Đức Thánh Cha, tình thương và công lý không mâu thuẫn, nhưng bổ túc vì đó là hai mặt của một thực tại. Trong Kinh Thánh, công lý là sự thành tâm phục tùng thánh ý Thiên Chúa. Thế nên không ai thực hiện yêu thương mà chống lại Thiên Ý. Nói cách khác, tình thương đi quá mức đòi hỏi của công lý, chứ không chống lại công lý. Câu chuyện dụ ngôn về việc trả lương cho nhân công minh họa cách khéo léo đạo lý này (x. Mt 20, 1-17). Đức Thánh Cha khẳng định: “Nếu Thiên Chúa tự giới hạn mình trong công lý, Ngài sẽ không còn là Thiên Chúa. Ngài đã đi xa hơn công lý với lòng thương xót và tha thứ. Kinh nghiệm trường đời cho hay: một lời kêu gọi công lý mà thôi sẽ dẫn đến sự hủy diệt nó” (MV 21). Đức Thánh Cha trích dẫn câu chú giải của thánh Augustino về sách ngôn sứ Hôsê: “Thiên Chúa giữ lại cơn giận dễ hơn là nén lại lòng thương xót”. Và đúng như thế, cơn giận của Thiên Chúa thì thoáng qua, còn lòng thương xót của Ngài tồn tại mãi mãi (MV 21). Công lý của Thiên Chúa chính là tình thương mà Ngài ban cho tất cả mọi người như một ân sủng, tuôn tràn từ cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu (x. MV 21).
Ân xá
Năm thánh cũng bao gồm việc ban ân xá. Tất cả chúng ta biết rõ kinh nghiệm về tội lỗi: Mặc dù Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha thứ bằng những cách mới mẻ đáng ngạc nhiên. Nhưng sức nặng của tội lỗi để lại những ảnh hưởng tiêu cực trong cách suy nghĩ và hành động của chúng ta. Chúng ta cần được trợ giúp cách đặc biệt của Hội Thánh, các chân phúc và những tâm hồn thánh thiện, hầu giải phóng ta khỏi những cặn bã của tội lỗi. Đạo lý về ân xá hẳn thật đặt nền tảng trên tín điều các thánh thông công. Vì thế, khi đón nhận ân xá, ta trải nghiệm được sự thánh thiện của Giáo Hội. Nhờ trung gian của Đức Mẹ và chư thánh, mà sự tha thứ của Thiên Chúa được chuyển tới mọi tội nhân biết chân thành hoán cải.
Một cái nhìn đại kết
Giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng, đang diễn ra mỗi ngày tại Trung Đông, nơi người ta dám nhân danh Đấng Allah để chém đầu không gớm tay những người anh em đồng loại, nhiều người tự hỏi: trong tôn giáo cực đoan ấy còn có lòng thương xót chăng? Đức Thánh Cha Phanxicô, với cái nhìn lạc quan, vẫn tin rằng có! Ngài khuyến khích tổ chức những buổi gặp gỡ với Hồi giáo và các tôn giáo bạn trong năm thánh này. Hẳn thật không ai có thể đặt một giới hạn cho lòng thương xót của Thiên Chúa, vì những cánh cửa từ bi của Ngài luôn rộng mở (x. MV 23).
MATER MISERICORDIAE
Bài ca bất hủ Salve Regina dẫn Đức Thánh Cha hướng về Mẹ của tình thương xót (Mater misericordiae). Mẹ xứng đáng với danh hiệu ấy, bởi lẽ ngay sau khi Adam và Eva sa ngã, Thiên Chúa đã hứa ban Mẹ như dấu chứng lòng thương xót rồi: “Một Người nữ sẽ đạp nát đầu mi” (sa tan)! Chính Mẹ cũng hát lên trước ngưỡng cửa nhà chị họ Elisabeth, nhân danh các Tổ phụ: “Vì Người đã nhớ lại lòng thương xót, dành cho Tổ Phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời” (Lc 1,56). Và hôm nay trong cảnh nhiễu nhương của nhân loại, Đức Thánh Cha ước mong rằng Mẹ dủ thương cho con cái Mẹ mãi mãi chiêm ngưỡng khuôn mặt xót thương của Chúa Giêsu, Con Mẹ (kinh Salve)!
Kết luận
Lời kết luận tông chiếu nhắc lại một cách tha thiết những ước mong của Vị Cha Chung:
– Ước gì trong năm thánh này, chúng ta để cho Thiên Chúa làm ta ngạc nhiên về lòng xót thương tha thứ không biết mệt mỏi của Người!
– Ước gì Hội Thánh luôn cảm thấy nhu cầu cấp thiết công bố lòng thương xót của Thiên Chúa, vì cuộc sống và sứ mang của Hội Thánh chỉ có sức thuyết phục khi Hội Thánh chu toàn bổn phận này!
– Ước gì từ chiều sâu thẳm của mầu nhiệm Ba Ngôi, những dòng sông của lòng thương xót dâng cao và tràn ra khắp năm châu, bất kể người đến kín múc là bao nhiêu.
– Ước gì Hội Thánh trở thành tiếng nói của mọi người nam nữ để không ngừng lặp lại: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu, Ngài đã từng biểu lộ từ muôn ngàn đời” (Tv 25,6).
THEO TU LUẬT THÁNH BIỂN ĐỨC,
ĐAN SĨ LÀ NGƯỜI SAY MÊ THIÊN CHÚA
Fm. Gioan Vianney
Khi nhận định về Bản Tu Luật của mình, thánh Biển Đức đã khiêm nhường xác nhận: “Cha viết Bản Tu Luật này, để khi chúng ta tuân giữ trong Đan Viện mới chứng tỏ mình có một đời sống lương thiện phần nào hoặc mới bắt đầu vào đời tu. Còn ai muốn mau chóng đạt tới đỉnh trọn lành của đời tu, thì đã có giáo huấn của các Thánh Phụ … Thực vậy, có trang nào, lời nào Chúa phán trong Cựu Ước và Tân Ước lại không phải là quy tắc rất mực ngay chính cho đời sống con người sao? Có sách nào của các Thánh Phụ Công Giáo lại chẳng lên tiếng dẫn đường chỉ lối cho ta chạy thẳng đến Đấng Tạo Thành chúng ta sao? … Vậy dù con là ai, nôn nóng tiến về Quê Trời, nhờ ơn Chúa Kitô giúp sức, con hãy giữ trọn Bản Tu Luật khai tâm nhỏ bé này. Bấy giờ nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ đạt tới đỉnh cao đạo lý và nhân đức Cha vừa trình bày trên kia” (TL 73, 1-4.8-9).
Nhưng đây cũng là lời xác tín của một người đã say mê đi tìm và đã tìm được “kho tàng” cùng với “viên ngọc” quý giá là Nước Trời (x. Mt 13, 44-46); của người đã biết chọn “điều răn” (x. Mt 22,37-38) hay chọn “phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10,42); của người đã dám trả giá để được sống triệt để “quy luật” của Nước Trời là “ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ thì cũng bất lương trong việc lớn” (Lc 16,10).
Tuy “sở hữu” một kho tàng đạo lý khôn ngoan và kinh nghiệm thiêng liêng phong phú nhưng thánh Biển Đức đã không giữ lại cho riêng mình mà ngài luôn sẵn sàng chia sẻ cho những ai muốn “chạy mau trên đường hoàn thiện” (Tu Luật, Lời Mở, 22) và chỉ nhắm một mục tiêu là “Không quý gì hơn lòng mến Chúa Kitô” (TL 4, 21) hoặc “Tuyệt đối không lấy gì hơn Chúa Kitô” (TL 72, 11).
“Chính vì mục đích ấy, Cha phải thiết lập Trường Học Phụng Sự Thiên Chúa. Trong đó Cha hy vọng chẳng thiết định điều gì khắt khe, nặng nề. Nhưng nếu theo lẽ phải mà quy định điều gì hơi nghiêm nhặt hầu giúp sửa nết xấu và bảo toàn đức ái, thì con chớ vội hoảng sợ mà trốn xa con đường cứu độ, vì vạn sự khởi đầu nan. Nhưng một khi đã tiến bộ trong đời tu và đức tin, một khi lòng phấn khởi và nếm được sự ngọt ngào khôn tả của tình yêu, chúng ta sẽ chạy trên đường giới răn Chúa. Đến nỗi chúng ta không bao giờ lìa xa giáo huấn Người; trái lại chúng ta kiên trì trong giáo lý của Người nơi Đan Viện cho đến chết, kiên nhẫn chia sẻ các đau khổ của Đức Kitô để đáng được dự phần trong Nước Người” (Tu Luật, Lời Mở, 45-50).
Bởi đó, học cụ duy nhất và bắt buộc phải có của người môn đệ trong Trường Học Phụng Sự Thiên Chúa chính là “niềm say mê”. Đó Là Niềm Say Mê Thiên Chúa và được cụ thể hóa qua việc say mê lắng nghe, đón nhận, thực hành và vâng phục: “Con ơi, lắng nghe lời thầy dạy, ghé tai lòng con mà thuận tình đón nhận lời cha hiền khuyên nhủ và thực hiện cho bằng được, để nhờ gắng công vâng phục, con trở về với Đấng, con đã xa lìa vì ươn lười bất tuân” (Tu Luật, Lời Mở, 1-2).
Như thế, trong Trường Học Phụng Sự Thiên Chúa, đan sĩ phải là người say mê Thiên Chúa và cố gắng sống cùng thể hiện niềm say mê ấy qua việc say mê tìm Chúa; say mê phụng sự Chúa và say mê phục vụ con người.
I. SAY MÊ TÌM CHÚA
Với kinh nghiệm dày dạn, thánh Biển Đức đã viết: “Ai mới đến xin tu, không nên dễ dàng nhận ngay; nhưng theo lời Thánh Tông đồ: ‘Hãy nghiệm xét các thần khí có phải bởi Thiên Chúa không?’ Vậy nếu người đến xin tu kiên nhẫn gõ cửa, chịu đựng những sỉ nhục và khó khăn để xin vào, … bấy giờ mới nhận…Hãy đặt một vị lão thành có khả năng thu phục lòng người để chăm chú quan sát họ, xem có thực tâm tìm Chúa, có mộ mến Thần Vụ, mộ mến vâng lời và ham chịu sỉ nhục không. Nói trước cho họ biết tất cả mọi cực khổ cam go, nhờ đó họ mới đến với Chúa” (TL 58, 1-8).
Thậm chí, “nếu có vị nào trong hàng linh mục xin nhập Đan Viện, thì đừng chấp thuận ngay. Nhưng nếu ngài cứ một mực xin, ngài nên biết mình phải giữ mọi khoản Tu Luật, không được chuẩn miễn gì, như đã viết: Này bạn, bạn đến đây làm gì?” (TL 60, 1-3).
Hơn nữa, thánh Biển Đức còn yêu cầu người đến xin tu phải ba lần lập lại ý muốn quyết tâm và ý chí say mê tìm Chúa của mình theo mẫu công thức: “Nếu họ hứa kiên trì định sở” (TL 58, 9) và “Nếu họ còn kiên vững” (TL 58, 11.13). Theo suy nghĩ chủ quan, người ta có thể hỏi liệu ba lần xác định này có được gợi ý gì từ ba lời tung hô “Thánh! Thánh! Chí Thánh” của các Xê-ra-phim trong thị kiến của tiên tri Isaia, khi ngài được mời gọi đảm nhận ơn gọi ngôn sứ chăng? (x. Is 6, 1-8). Vả lại, nếu tiên tri Isaia được thị kiến chiêm ngưỡng sự thánh thiện của Thiên Chúa để bắt đầu thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình thì các đan sĩ cũng cần xác định sự say mê của mình trong việc khám phá sự hiện diện của Thiên Chúa, trong việc cử hành thần vụ và trong việc hoán cải bản thân.
1. Say mê khám phá sự hiện diện của Thiên Chúa
Nếu tiên tri Isaia đã viết về ơn gọi ngôn sứ của mình là “Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán: ‘Ta sẽ sai ai đây?’ Tôi thưa: ‘Dạ, con đây, xin sai con đi’” (Is 6, 8) thì Thánh Biển Đức cũng viết về ơn gọi của các đan sĩ như sau: “Đang khi tìm giữa đám đông người thợ mà Người muốn gọi, Chúa phán: ‘Ai muốn sống đời đời và mong thấy ngày hồng phúc’. Khi nghe lời ấy, nếu con thưa: ‘Dạ, con đây’; Chúa sẽ phán: ‘Nếu con muốn hưởng sự sống đích thực và vĩnh cửu thì lưỡi con chớ nói lời xằng bậy và môi con chớ thốt lời gian dối; con hãy làm lành lánh dữ, hãy tìm kiếm và theo đuổi sự bình an’. Khi các con đã thực thi các điều ấy, thì mắt Cha hằng theo dõi các con, tai Cha hằng lắng nghe các con khẩn nguyện, và ngay khi các con chưa kịp kêu cầu thì Cha đã bảo: ‘Có Cha đây’” (Tu Luật, Lời Mở, 14-18).
Vì xác tín “Chúa hằng ở trước mặt ta” nên “ta phải cảnh giác những ước muốn xấu xa, vì cái chết rình chờ bên cửa lạc thú. … Vậy nếu con mắt Chúa hằng theo dõi người lành kẻ dữ, và từ trời cao, Chúa hằng quan sát con cái loài người, xem có ai hiểu biết và tìm kiếm Chúa … thì mọi giờ phút chúng ta phải cảnh giác, … kẻo có lúc nào Chúa bắt gặp chúng ta đang chiều theo sự dữ và trở thành vô dụng” (TL 7, 24.26-29).
Bởi đó, việc say mê khám phá sự hiện diện của Chúa chính là con đường đúng nhất và ngắn nhất giúp đan sĩ “chạy mau trên đường hành thiện” (Tu Luật, Lời Mở, 22), vì sự khám phá này cũng là ân huệ Thiên Chúa ban để đưa các đan sĩ đi vào sự cầu nguyện và sống lời cầu nguyện của mình cách liên lỉ. Điều này thật đúng với kinh nghiệm tu đức, khi các nhà tu đức khẳng định rằng ai cầu nguyện thế nào thì sẽ sống như vậy.
Viện Phụ Armand Veilleux đã xác nhận:“Để cầu nguyện, chúng ta không cần phải đặt mình hiện diện trước mặt Thiên Chúa vì Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trước mặt chúng ta. Ngài luôn luôn ở đó cách hoàn hảo, vì Thiên Chúa luôn luôn trọn vẹn là Ngài. Ngài không thể hiện diện trước mặt chúng ta nhiều hay ít. Ngài luôn luôn ở đó, trong nơi sâu thẳm nhất của bản thân ta. Chính chúng ta mới thường vắng mặt. Cầu nguyện là hiện diện trước sự hiện diện của Chúa” [1].
Như vậy, nếu nói đời đan sĩ là đời cầu nguyện hay ơn gọi của đan sĩ là ơn gọi cầu nguyện thì đan sĩ chỉ thật sự là mình khi luôn để mình được hiện diện trước sự hiện diện của Thiên Chúa.
2. Say mê thần vụ
Theo Viện Phụ Armand Veilleux:“Đan sĩ cộng tu sống chung với nhau. Vì thế, việc cầu nguyện mà họ cố gắng sống thường xuyên trong suốt cả ngày sẽ được diễn đạt trong việc cử hành chung gọi là Thần Vụ hay Giờ Kinh Phụng Vụ. Trong Tu Luật, Thánh Biển Đức gọi là Opus Dei – Thần Vụ. Từ ngữ này rất đẹp. Nó nói tới một công việc. Đó là một hoạt động chung. Tuy nhiên, việc cầu nguyện trong ngày không phải chỉ có các giờ Thần Vụ, vì chúng ta phải cố gắng cầu nguyện không ngừng, nhưng các giờ Thần Vụ là những lúc chúng ta góp chung lại tất cả những yếu tố làm nên trái tim của đời sống chúng ta” [2] .
Khi cử hành phụng vụ, đan sĩ góp chung lại tất cả những gì làm nên trái tim của đời sống cộng đoàn nên “chúng ta tin Chúa hiện diện khắp nơi và mắt Người hằng nhìn xem người lành kẻ dữ khắp chốn. Nhưng chúng ta càng xác tín điều này hơn khi tham dự Thần Vụ. Vì thế, chúng ta hãy nhớ lời ngôn sứ rằng: ‘Anh em hãy phụng thờ Chúa với lòng kính sợ’. Lại rằng: ‘Hãy ca vịnh cho thật khéo’” (TL 19, 1-4). Bởi đó, “chúng ta hãy hát Thần Vụ thế nào cho tâm trí hòa hợp với lời ca” (TL 19, 7).
Chúng ta hãy cầu nguyện “với lòng sốt sắng tinh tuyền. Hãy ý thức rằng: chẳng phải do nhiều lời nhưng chỉ cần một lòng thanh sạch, hòa với dòng lệ thống hối là được Chúa nhận lời. Vì thế, lời cầu nguyện phải ngắn gọn và tinh tuyền, trừ khi được ơn Chúa thúc đẩy thì kéo dài thêm” (TL 20, 2-4).
Vì say mê Thần Vụ nên “các đan sĩ hãy luôn sẵn sàng để khi vừa nghe hiệu là dậy ngay và đua nhau nhanh chân đi cử hành Thần Vụ, tuy nhiên vẫn hết sức trang nghiêm và nết na” (TL 22, 6). Và “khi thức dậy đi đọc Thần Vụ, anh em hãy nhẹ nhàng đánh thức nhau, để người mê ngủ khỏi viện cớ chữa mình” (TL 22, 8).
Hơn nữa, “tới giờ Thần Vụ, vừa nghe báo hiệu, ai nấy phải bỏ ngay những gì đang cầm trong tay và nhanh chân đến dự. Tuy nhiên vẫn phải nghiêm trang để khỏi sinh dịp chia trí. Đừng lấy gì làm hơn việc Chúa” (TL 43, 1-3). Nếu tiếng chuông báo hiệu giờ Thần Vụ là tiếng mời gọi có sức thôi thúc mãnh liệt như vậy thì công việc này phải do chính Viện Phụ đảm nhận: “Báo hiệu giờ Thần vụ ngày đêm là trách nhiệm của Viện Phụ. Chính ngài phải tự đảm nhiệm hoặc giao việc ấy cho một anh em cần mẫn để mọi sự được chu toàn đúng giờ đã định” (TL 47, 1).
Tuy vậy, chúng ta cũng nên nhớ rằng: “Cử hành Thần Vụ không phải là cùng nhau đọc lên những lời kinh đẹp giúp mỗi người có được những tư tưởng đạo đức và âm thầm cầu nguyện trong đáy lòng mình. Nếu được như vậy cũng là điều tốt. Nhưng đấy không phải là mục đích của Thần Vụ. Thần Vụ là một ‘sinh hoạt’. Một cử chỉ bên ngoài và tập thể của kinh nguyện, được kết cấu bởi các bài đọc, các thánh ca, những cử điệu của thân xác, những lúc thinh lặng. Toàn thể tổng hợp ấy là kinh nguyện. Nếu tôi hát một câu tiền ca hay một bài thánh thi, khi đó cách cầu nguyện tốt nhất không phải là hát thế nào cũng được miễn sao tôi sốt sắng suy niệm theo những lời tôi hát, nhưng là để hết tâm trí vào lời tôi hát sao cho chính xác và đúng nhịp điệu.
Là kinh nguyện tập thể, Thần Vụ còn là lúc thực hiện Lectio Divina chung của cộng đoàn nữa. Qua các bài Thánh Kinh và các bài đọc, qua các lời nguyện và các Thánh Vịnh, tất cả cộng đoàn, chứ không phải chỉ có các cá nhân trong cộng đoàn, được Lời Chúa chất vấn, xây dựng và biến đổi”[3] .
Như vậy, Thần Vụ vừa là lời ca tụng nhưng cũng vừa là lời cầu nguyện của đan sĩ. Thần Vụ vừa là lời diễn tả sự say mê Thiên Chúa mà cũng vừa là lời diễn tả lòng say mê hoán cải của đan sĩ, vì khi cử hành phụng vụ, các đan sĩ sẽ được chính Lời Chúa chất vấn, xây dựng và biến đổi. Thần Vụ có giá trị giáo dục và bồi dưỡng thiêng liêng là thế. Do đó, đan sĩ nào say mê Thần Vụ thì cũng say mê sống sự hoán cải nội tâm qua việc để mình được chất vấn bởi Lời Chúa.
3. Say mê hoán cải
Trước câu hỏi: Liệu có một phương pháp cầu nguyện riêng của Xitô không? Viện Phụ Armand Veilleux, OCSO, đã trả lời: “Nếu muốn nói đến một cách cầu nguyện thật là Xitô, tôi sẽ nói là chẳng có một kỹ thuật hay một phương pháp đặc biệt nào dạy chúng ta cách cầu nguyện đó cả. Cầu nguyện Xitô nằm trong sự quân bình giữa các yếu tố của cuộc sống hằng ngày. Trong toàn bộ, nếp sống Xitô là cách sống mà Tu Luật Biển Đức gọi là ‘cuộc hoán cải’, là nếp sống phải dẫn đưa đan sĩ tới việc cầu nguyện liên lỉ.
Tôi xin nhấn mạnh là ‘cầu nguyện liên lỉ’, vì đó là mục đích của cuộc đời đan sĩ cũng như của cuộc đời mọi Kitô hữu … Dĩ nhiên, cầu nguyện liên lỉ không có nghĩa là đọc kinh liên tục, nhưng phải duy trì liên tục bao nhiêu có thể sự hiện diện của mình trước Tôn Nhan Thiên Chúa, hiện diện trước Đấng luôn ở trước mặt mình. Hẳn là có những lúc chúng ta ý thức cách mạnh mẽ về sự hiện diện của Chúa, nhưng cũng có những lúc ý thức đó lại tiềm ẩn hơn, nhưng vẫn có thể và phải liên tục qua mọi sinh hoạt. Nếu không cố gắng sống liên tục trước Nhan Chúa, mọi kinh nguyện chúng ta thực hành trong những giờ phụng vụ cộng đoàn sẽ có nguy cơ chỉ là giả tạo”[4] .
Để tránh sự giả tạo này, đan sĩ “hãy chỗi dậy theo lời Thánh Kinh giục bảo: ‘Đã đến lúc chúng ta phải tỉnh giấc’. Và một khi mở mắt nhìn ánh quang thần hóa, chúng ta hãy lắng nghe tiếng Chúa ngày ngày văng vẳng bên tai: ‘Hôm nay nếu các con nghe tiếng Người, các con đừng cứng lòng nữa’” (Tu Luật, Lời Mở, 8-10).
Đan sĩ tin chắc rằng chỉ những người này mới được vào Nhà Chúa. “Đó là kẻ bước vào mà lòng trong sạch và biết thực thi sự công chính, đó là kẻ nói sự thật phát xuất tự lòng mình và không ăn gian nói dối, không làm hại và cũng không nhục mạ người thân cận. Đó là kẻ biết đẩy lui tà thần cùng mọi âm mưu quyến rũ của nó ra khỏi lòng mình mà tiêu diệt đi,và chộp ngay các tà ý vừa nảy sinh mà đập tan vào Chúa Kitô. Đó là kẻ kính sợ Thiên Chúa, không kiêu căng vì đã giữ luật cách trọn hảo, trái lại chân nhận rằng những gì tốt lành nơi mình không do tự sức mình nhưng do ơn Chúa” (Tu Luật, Lời Mở, 25-29). Họ nên khuyến khích và nhắc nhau rằng: “Nếu Chúa còn gia hạn cho chúng ta sống thêm ngày nào, là để chúng ta sửa chữa lỗi lầm, như lời thánh Tông đồ: Bạn không biết rằng lòng kiên nhẫn của Chúa thúc giục bạn hối cải đó sao?” (Tu Luật, Lời Mở, 36-37).
Ngay cả Viện Phụ cũng phải nhớ rằng: “Trong khi khuyên người khác tu sửa, thì chính ngài cũng tự sửa mình” (TL 2, 40).
Trong Chương thứ tư của Bản Tu Luật nói về các khí cụ làm việc lành, thánh Biển Đức đã viết: “Hãy bỏ mình để theo Chúa Kitô. Sửa trị thân xác. Không ham mê khoái lạc. Yêu thích chay tịnh” (TL 4, 10-13). “Đừng kiêu căng. Đừng rượu chè. Đừng mê ăn. Đừng mê ngủ. Đừng biếng nhác” (TL 4, 34-38). “Canh chừng hành động của mình trong từng giây phút. … Sửa chữa những lỗi lầm. Đừng thỏa mãn những thèm muốn xác thịt. Gớm ghét ý riêng” (TL 4, 58-60).
Tương tự, trong Chương thứ bảy bàn về Đức Khiêm Nhường, thánh Biển Đức viết: “Bậc khiêm nhường thứ nhất: là luôn đặt trước mắt lòng kính sợ Chúa, chẳng bao giờ quên … Trong mọi giây phút lo giữ mình khỏi tội lỗi và các nết hư do tư tưởng, miệng lưỡi, tay chân và ý riêng, cả đến những thèm muốn xác thịt” (TL 7, 10.12). Nhưng “muốn giữ mình khỏi những tư tưởng xấu xa, đan sĩ chân tu luôn tâm niệm: ‘Chỉ khi nào tôi giữ mình khỏi điều gian ác tôi mới được trong sạch trước Nhan Ngài” (TL 7, 18). Thế nên, “trong mọi giờ phút, chúng ta phải cảnh giác” (TL 7, 29).
Thái độ chỗi dậy, tỉnh giấc, lắng nghe, đừng cứng lòng và cảnh giác của các đan sĩ theo Tu Luật cũng chính là nội dung lời mời gọi “hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” của Đức Giêsu (Mc 1, 15).
II. SAY MÊ PHỤNG SỰ CHÚA
Các đan sĩ được mời gọi xác tín rằng: “Tất cả chúng ta là một trong Chúa Kitô, cùng chiến đấu và phụng sự một Chúa” (TL 2, 20); nên ở đâu, đan sĩ “cũng phụng sự một Chúa và chiến đấu cho một Vua” (TL 61, 10). “Bởi thế, trong mọi lúc chúng ta phải dùng các ơn lành Chúa ban mà phụng sự Ngài” (Tu Luật, Lời Mở, 6); nghĩa là “hãy lấy đức tin và việc thực thi các việc lành như đai nịt lưng, rồi dưới sự hướng dẫn của Tin Mừng, chúng ta tiến bước trên đường của Chúa, để đáng được xem thấy Đấng đã gọi chúng ta vào Vương Quốc của Ngài. Nếu chúng ta muốn cư ngụ trong Vương Quốc của Ngài mà không chạy mau trên đường hành thiện, thì không tài nào đến được” (Tu Luật, Lời Mở, 21-22).
Muốn chạy mau trên đường hành thiện, đan sĩ phải say mê kính sợ Chúa, kiên quyết bỏ ý riêng, say mê vâng phục và say mê chu toàn việc bổn phận.
1. Say mê kính sợ Thiên Chúa
Lòng kính sợ Chúa là nền tảng cho mọi hình thức phụng sự Chúa, phục vụ con người và của mọi phúc lành, vì “những kẻ kính sợ Người chẳng thiếu thốn chi” (TL 2, 36) và “kẻ kính sợ Chúa sẽ được phúc trường sinh Chúa sắm sẵn cho” (TL 7, 11).
Bởi đó, ngay trong Lời Mở của Bản Tu Luật, thánh Biển Đức đã viết: “Hỡi các con hãy đến nghe Ta, Ta dạy các con biết kính sợ Chúa” (Tu Luật, Lời Mở, 12). “Kẻ kính sợ Chúa thì không kiêu căng vì đã giữ Luật cách trọn hảo, trái lại chân nhận rằng những gì tốt lành nơi mình không do tự sức mình nhưng do ơn Chúa. Họ chúc tụng Chúa và cùng tuyên xưng với ngôn sứ: Không phải cho chúng con, lạy Chúa, … nhưng cho danh Chúa được vinh hiển” (Tu Luật, Lời Mở, 29-30).
Đan sĩ xác tín mình có làm được gì hoặc phải làm những gì thì cũng “để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh” (TL 57, 9). Nên trong mọi công tác phục vụ, đan sĩ phải trang bị cho mình “dụng cụ” căn bản và trước tiên là “lòng kính sợ Chúa”. “Chính Viện Phụ phải thi hành mọi sự với lòng kính sợ Chúa, và tôn trọng Tu Luật” (TL 3, 11). Nhờ “dụng cụ” này, “lệnh thầy truyền và việc môn đệ thi hành đều hoàn tất mau lẹ như cả hai cùng xong một trật, vì cả hai cùng có lòng kính sợ Chúa” (TL 5, 9).
Người quản lý của Đan Viện cũng phải có nhân đức đầu tiên là “lòng kính sợ Chúa” (TL 31, 2). Với công tác chăm sóc bệnh nhân, “hãy cử anh em có lòng kính sợ Chúa và siêng năng cần mẫn để săn sóc họ” (TL 36, 7). “Phòng khách cũng vậy, phải trao cho một anh em có lòng kính sợ Chúa” (TL 53, 21).
Trong các công tác chung và thường lệ, nếu “anh em làm việc quá xa không thể về đúng giờ kinh trong nhà nguyện được và Viện Phụ cũng nhận thấy thế, hãy lấy lòng kính sợ Chúa mà quỳ xuống tại nơi làm việc để cử hành Thần Vụ” (TL 50, 1-3).
Việc say mê kính sợ Chúa của đan sĩ cũng là tiêu chuẩn để được Viện Phụ bàn hỏi: “Để duy trì sự bình an và bác ái, Viện Phụ phải được toàn quyền tổ chức Đan Viện theo ý mình … Tuy nhiên, nếu hoàn cảnh đòi hỏi hoặc cộng đoàn thỉnh cầu … và Viện Phụ xét là nên, thì ngài hãy bàn hỏi với những anh em kính sợ Chúa, rồi chọn ai tùy ý, mà đặt làm Viện Phó của mình” (TL 65, 11.15).
Như vậy, trong hoàn cảnh nào và với công tác nào được trao, đan sĩ cũng cần trang bị cho mình lòng say mê kính sợ Chúa để có thể kiên quyết từ bỏ ý riêng, say mê vâng phục và say mê chu toàn việc bổn phận.
2. Kiên quyết bỏ ý riêng
Thánh Biển Đức đã viết: “Còn về ý riêng, Cha cấm không được chiều theo. Vì Thánh Kinh dạy rằng: ‘Ý riêng con, con hãy từ bỏ’” (TL 7, 19).
Bỏ ý riêng, tức “gớm ghét ý riêng” (TL 4, 60) cũng là một trong những khí cụ giúp đan sĩ làm việc lành, vì“trong mọi trường hợp, tất cả phải theo Tu Luật là thầy, chớ ai cả gan sai lệch ra ngoài. Trong Đan Viện, không ai được theo ý muốn lòng mình” (TL 3, 7-8).
Hơn nữa, đan sĩ bỏ ý riêng để được sống vâng phục, vì “vâng phục không chậm trễ là bước đầu của đức khiêm tốn. Đó là nhân đức của những người không lấy gì làm quý hơn Chúa Kitô… Những người như thế họ bỏ ngay những công việc cá nhân và từ khước ý riêng” (TL 5, 1-2.7).
Ai kiên quyết bỏ được ý riêng là dấu chứng tỏ người ấy đang sống khiêm nhường vì “bậc khiêm nhường thứ hai là không yêu thích ý riêng, không tìm thỏa mãn ước muốn của mình” (TL 7, 31).
Nhưng trên hết, do lời khấn, các đan sĩ biết rõ rằng ngay đến bản thân và ý muốn riêng của mình, họ cũng không còn quyền làm chủ nữa (x.TL 33, 4). Vì thế, đan sĩ nào sống kiên quyết bỏ ý riêng thì chứng tỏ mình cũng tha thiết muốn sống vâng phục.
3. Say mê vâng phục
Say mê vâng phục là “vâng phục không chậm trễ; vâng phục không do dự, vâng phục cách điềm tĩnh, không lãnh đạm, không cằn nhằn phản đối và vâng phục với hết cả hảo tâm” (TL 5, 1.4.14.16).
“Vâng phục không chậm trễ là bước đầu của đức khiêm tốn. … Nên lệnh trên vừa ban ra, họ coi như từ Chúa, và thi hành tức khắc không do dự. … Những người như thế họ bỏ ngay những công việc cá nhân và từ khước ý riêng, … những gì đang cầm trong tay và công việc còn dang dở họ cũng bỏ ngay để nhanh chân thi hành lệnh trên, đến nỗi lệnh thầy truyền và việc môn đệ thi hành đều hoàn tất mau lẹ như cả hai cùng xong một trật, vì cả hai cùng có lòng kính sợ Chúa. … Sống trong Đan Viện, họ chỉ mong tùng phục Viện Phụ. Những người như thế, chắc chắn đã theo đúng Lời Chúa dạy: ‘Tôi không đến để làm theo ý Tôi, nhưng là theo ý Đấng đã sai Tôi’” (TL 5, 1.4.7-9.12-13).
Đan sĩ say mê và mau mắn vâng phục cũng là đan sĩ sống khiêm nhường, vì “Bậc khiêm nhường thứ ba là: Vì lòng kính mến Chúa, ta hết lòng tùng phục người trên theo gương Chúa, như lời thánh Tông đồ nói về Người: ‘Người đã vâng phục cho đến chết” (TL 7, 34).
Tuy nhiên, đan sĩ có thể gặp phải khó khăn với trường hợp “là trong khi vâng phục, ta có gặp những điều cam go trái ý và bất cứ sự sỉ nhục nào, hãy âm thầm kiên tâm chịu đựng; không nản lòng, không lùi bước” (TL 7, 35-36). Hoặc “nếu anh em nào được giao những công việc nặng nhọc hoặc không sao kham nổi, hãy cứ tuân lệnh với tất cả sự hiền từ và vâng phục … chớ đừng kiêu căng chống lại hay phản đối” (TL 68, 1.3).
4. Say mê chu toàn bổn phận
“Trong cuộc sống, đan sĩ có thời gian để lao động, có thời gian đọc Lời Chúa, có thời gian cầu nguyện riêng hay đọc kinh chung. Trong các sinh hoạt này, đan sĩ được mời gọi duy trì thái độ chiêm niệm hướng về Chúa. Nếu không chiêm niệm khi làm việc, đan sĩ cũng sẽ chẳng chiêm niệm được khi cử hành phụng vụ giờ kinh, hay khi qùy gối trước Thánh Thể hoặc ngồi thiền trong phòng riêng.
Tuy nhiên, chiêm niệm trong khi làm việc không có nghĩa là đọc kinh hay suy nghĩ những điều thiêng liêng trong lúc đó. Nhưng đơn giản chỉ là hiện diện trước mặt Chúa. Và cách hiện diện tốt nhất trước mặt Chúa là chăm chú vào việc đang làm, cố gắng làm tốt chừng nào có thể, dù là việc trí óc hay việc chân tay. Làm việc là kết hợp với Chúa, vì làm việc là dự phần vào hoạt động sáng tạo của Chúa, Đấng không ngừng tạo dựng thế giới qua những sinh hoạt của chúng ta. Hẳn là có những việc cho phép chúng ta đọc kinh hay nghĩ tới những điều thiêng liêng cách dễ dàng hơn những việc khác. Nhưng không vì vậy mà những công việc ấy có tính cầu nguyện hơn những việc đòi phải hoàn toàn chăm chú về thể lý hoặc tinh thần để làm cho tốt”[5] .
Do đó, Lời Mở của Bản Tu Luật đã viết: “Chớ gì chúng ta chu toàn bổn phận của kẻ ở trong nhà Chúa, chúng ta sẽ được thừa hưởng Nước Trời” (Tu Luật, Lời Mở 39). Cách cụ thể, đan sĩ “hàng ngày hãy lấy việc làm mà chu toàn huấn lệnh Chúa” (TL 4, 63).
Đan sĩ say mê chu toàn bổn phận để phục vụ mọi người nên một trong những mục tiêu nhắm tới của lòng say mê này chính là làm ích cho mọi người, nhất là khi thi hành phận vụ đọc sách và “hát hay đọc” trong Thần Vụ. “Đọc sách hay hát xướng không cần theo thứ tự, nhưng tùy theo ai có khả năng làm ích Cho người nghe” (TL 38, 12). Vì thế, “đừng ai tự tiện hát hay đọc, nếu không có khả năng chu toàn phận sự ấy để làm ích cho người nghe. Ai được Viện Phụ truyền bảo, hãy chu toàn nhiệm vụ này một cách khiêm tốn, trang nghiêm và kính cẩn” (TL 47, 3-4).
Không chỉ trong phận vụ đọc sách hay hát xướng mà trong mọi công việc bổn phận, thánh Biển Đức đều mong ước các đan sĩ “hãy chu toàn bổn phận mà không buồn phiền” (TL 35, 3); chu toàn bổn phận “mà không phàn nàn vì mệt nhọc quá” (TL 35, 13; 38,10); chu toàn bổn phận mà “không phàn nàn kêu ca” (TL 41, 5), nhất là trong việc phục vụ khách (x. TL 53, 18). Trái lại, ngài luôn muốn các đan sĩ hãy chu toàn bổn phận của mình “trong bình an” (TL 31, 7) và trong vui tươi.
Niềm vui và sự bình an này là hoa trái của một tâm hồn biết sống đời sống cầu nguyện và chiêm niệm trong khi phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người. Vì thế, đan sĩ chân tu cũng là đan sĩ say mê phục vụ con người.
III. SAY MÊ PHỤC VỤ CON NGƯỜI
Thánh Biển Đức đã dành trọn Chương 72 của Bản Tu Luật để nói về niềm say mê này. Ngài đã viết: “Cũng như có thứ nhiệt tâm xấu xa cay đắng làm xa cách Chúa và đưa xuống hỏa ngục, thì cũng có thứ nhiệt tâm tốt lành giúp ta xa lìa nết xấu, dẫn đến Chúa và đời sống vĩnh cửu. Đó là thứ nhiệt tâm mà đan sĩ phải say mê tập luyện, nghĩa là phải ân cần tôn kính lẫn nhau, hết sức nhẫn nại chịu đựng những yếu đuối xác hồn của nhau; thi đua vâng lời nhau; đừng ai chạy theo tư lợi, nhưng tốt hơn hãy mưu ích cho tha nhân, yêu thương nhau trong tình huynh đệ thanh khiết, kính sợ Chúa trong đức ái, kính yêu Viện Phụ trong tình mến chân thành và khiêm tốn. Tuyệt đối không lấy gì làm hơn Chúa Kitô” (TL 72).
Đan sĩ sẽ diễn tả niềm say mê này qua việc phục vụ cộng đoàn, phục vụ những anh em đau yếu và phục vụ quý khách.
1. Phục vụ cộng đoàn
Thánh Biển Đức dạy: “Anh em hãy phục vụ lẫn nhau … vì nhờ đó, ta được thêm phần thưởng và đức ái” (TL 35, 1-2). Do đó, “anh em hãy lấy đức ái mà phục vụ lẫn nhau” (TL 35,6). Ai biết phục vụ anh em thì cũng biết lo cho linh hồn mình, vì “ai phục vụ tốt sẽ được trọng thưởng” (TL 31, 8).
Dường như đối với thánh Biển Đức, các bậc khiêm nhường mà đan sĩ cố gắng sống cũng trở thành những khí cụ để phục vụ cộng đoàn; đặc biệt là các bậc khiêm nhường thứ sáu, thứ tám, thứ chín, thứ mười và thứ mười một.
Cách cụ thể, “Bậc khiêm nhường thứ sáu là: Đan sĩ bằng lòng với tất cả những gì hèn kém và tồi tệ nhất. Trong mọi công việc được giao cho, họ tự coi mình là một nhân công vụng về và bất xứng” (TL 7, 49).
“Bậc khiêm nhường thứ tám là: Trong Đan Viện, đan sĩ không làm gì ngoài luật chung và gương lành của các bậc trưởng thượng” (TL 7, 55).
“Bậc khiêm nhường thứ chín là: Đan sĩ giữ miệng không nói, giữ thói thầm lặng, có hỏi mới thưa” (TL 7, 56).
“Bậc khiêm nhường thứ mười là: Đan sĩ đừng dễ cười, đừng vội cười” (TL 7, 59).
“Bậc khiêm nhường thứ mười một là: Khi nói thì đan sĩ nói nhỏ nhẹ không cười cợt nhưng từ tốn trang nghiêm, ít lời mà hữu lý, không ầm ĩ to tiếng” (TL 7, 60).
Nội dung của các bậc khiêm nhường này đã đặt đan sĩ vào trong mối tương quan sống động và thường ngày với các đan sĩ khác trong cộng đoàn. Nội dung ấy mời gọi các đan sĩ cố gắng sống và gìn giữ môi trường linh thánh và thinh lặng của đan viện. Môi trường ấy sẽ được bảo vệ và sinh ích cho nhiều người nhờ “gương lành của các bậc trưởng thượng” (TL 7, 55) nhưng sẽ bị ô nhiễm vì có thể “một con chiên bệnh làm lây nhiễm cả đoàn” (TL 28, 8).
Hơn nữa, nếu thánh Biển Đức đã dạy người quản lý của Đan viện “hãy coi tất cả các dụng cụ và của cải của Đan viện như bình thánh trên bàn thờ, chớ coi thường vật nào” (TL 31, 10-11) thì tất cả chúng ta cũng cần biết rằng của cải của Đan viện bao gồm cả của cải vật chất và phi vật chất.
Vì thế, tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ phải phục vụ cộng đoàn bằng việc ra sức coi trọng và giữ gìn các của cải phi vật chất của Đan viện. Các của cải ấy là “lòng kính sợ Chúa” (Tu Luật, Lời Mở 12); “Tin Chúa hiện diện khắp mọi nơi” (Tu Luật, Lời Mở 14-18), giữ sự thinh lặng trong bàn ăn (TL 38, 5); giữ thinh lặng trong nhà ngủ, vào ban đêm (TL 42, 1) và sau giờ kinh tối (TL 42, 8). Của cải ấy còn là lòng kính trọng và tình yêu đối với Bề Trên và đối với nhau. “Đàn em hãy tôn kính đàn anh; đàn anh hãy yêu thương đàn em” (TL 63, 10); “anh em hãy ân cần tôn kính lẫn nhau” (TL 63, 17); “anh em hãy vâng lời nhau” (TL 71, 1); “đàn em hãy hết lòng yêu mến và ân cần vâng phục đàn anh mình” (TL 71, 4) …
Tóm lại, mọi người, nhất là các trưởng nhóm phải “săn sóc cho anh em nhóm mình trong mọi sự đúng luật Chúa và theo chỉ thị của Viện Phụ” (TL 21, 2). Cách đặc biệt, mọi người hãy cố gắng phục vụ những anh em đau yếu về thân xác và tinh thần.
2. Phục vụ những anh em đau yếu
Khi nói về những nhu cầu của anh em, thánh Biển Đức đã viết: “Cha không nói phải thiên vị cá nhân nhưng hãy xét đến sự yếu đuối của mọi người” (TL 34, 2). Vì thế, “mọi sự phải giữ chừng mực, vì còn có những kẻ yếu sức” (TL 48, 9). “Những kẻ yếu sức” này luôn cần đến sự săn sóc của Viện Phụ và sự phục vụ của mọi người.
a. Những anh em đau yếu về thân xác
Sinh, bệnh, lão, tử là tiến trình và là quy luật tất yếu của đời người, tuy thời điểm của tiến trình ấy có thể xảy đến cho mỗi người cách khác nhau. Đối với các anh em đau yếu, Thánh Biển Đức dạy: “Trước hết và trên hết mọi sự, phải để ý săn sóc bệnh nhân như phục vụ Chúa Kitô … Viện Phụ phải rất mực săn sóc kẻo anh em đau ốm bị bỏ rơi cách nào chăng” (TL 36, 1.6). “Viện Phụ phải hết sức quan tâm kẻo quản lý hay những anh em phụ trách chểnh mảng việc săn sóc bệnh nhân, vì chính ngài sẽ chịu trách nhiệm về bất cứ thiếu sót nào của môn đệ” (TL 36, 10).
Hơn nữa, mọi người, nhất là các anh em phục vụ bệnh nhân hãy “kiên nhẫn chịu đựng anh em, vì nhờ họ mà ta được nhiều công phúc hơn” (TL 36, 5). “Hãy cử anh em có lòng kính sợ Chúa và siêng năng cần mẫn để săn sóc họ” (TL 36, 7). Hãy chế giảm việc giữ luật cho họ, vì “luật cũng phải dùng thẩm quyền mà đối xử đặc biệt với họ nữa. Phải luôn quan tâm đến sự yếu đuối của họ, đừng khắt khe với họ trong việc ăn uống” (TL 37, 1-2).
“Còn các anh em đau ốm phải nhận thức rằng người ta phục vụ mình là vì tôn kính Chúa, nên đừng quá yêu sách mà làm phiền lòng những kẻ giúp mình” (TL 36, 4). Tích cực hơn, những anh em này đừng tự cho phép mình được sống nhàn rỗi hoặc buồn phiền vì đó là điều không tốt cho linh hồn mình. Vì thế, “với những anh em bệnh hoạn hay yếu sức, hãy giao cho họ một việc hay một nghề gì để khỏi nhàn rỗi, mà cũng không nặng nhọc quá đến nỗi phải lẩn trốn. Viện Phụ cần lưu ý đến sự yếu đuối của các anh em này” (TL 48, 24). Tương tự, “đối với những anh em yếu sức, hãy cho người phụ giúp để họ chu toàn công tác mà không buồn phiền” (TL 35, 3).
b. Những anh em đau yếu về tinh thần
Theo thánh Biển Đức, hễ ai có bệnh thì nhất định phải chữa, hễ ai có “tật” thì dứt khoát phải sửa và hễ ai có lỗi thì rất nên sám hối. Những lỗi ấy có thể xảy ra trong nhà cơm (x. TL 43, 13); trong nhà nguyện (x. TL 45); trong nhà bếp, nhà kho, nhà xưởng, lò bánh, ngoài vườn hoặc bất cứ ở đâu (x. TL 46).
Đối với những anh em bị tổn thương nặng nề hơn, nghĩa là có những sai lỗi trầm trọng, “Viện Phụ phải hết lòng lo lắng săn sóc những anh em lầm lỗi … Ngài phải dùng mọi phương cách như một lương y lành nghề … Viện Phụ hãy tận lực săn sóc và đem hết tài lực khôn khéo lo lắng, để không một con chiên nào được ủy thác cho ngài phải hư mất” (TL 27, 1-2.5). “Còn mọi người thì phải cầu nguyện cho họ” (TL 27, 4). Viện Phụ “hãy dùng thứ linh dược này là lời cầu nguyện của ngài và của toàn thể anh em” (TL 28, 4).
Như vậy, mọi người trong cộng đoàn đều có bổn phận phục vụ những anh em đau yếu bằng sự săn sóc và lời cầu nguyện cùng với việc hy sinh hãm mình. Đan sĩ không chỉ phục vụ những anh em đau yếu bằng tinh thần nhân bản theo kiểu “anh em tôi có lỗi thì tôi chỉ được phép nhìn lỗi ấy bằng nửa con mắt” mà còn phải phục vụ những anh em ấy bằng tinh thần đức ái và con mắt đức tin dưới sự hướng dẫn của Tin Mừng.
3. Phục vụ khách
“Sự hiệp thông giữa các đan sĩ với Chúa và giữa họ với nhau có thể sẽ không xác thực nếu chỉ khép kín trong nội vi Đan viện. Bình thường sự hiệp thông ấy phải được mở ra bên ngoài. Trong Tu Luật, thánh Biển Đức đã thấy trước là Đan viện sẽ không bao giờ thiếu khách và ngài đã tiên liệu một nghi thức để đón tiếp khách với sự kính trọng như đón tiếp Chúa Kitô. Mọi Đan viện Xitô đều có nhà khách để tiếp đón những người muốn tới không những để tĩnh dưỡng về thể xác, tinh thần hay thiêng liêng, mà còn để tham dự các giờ kinh của đan viện. Việc cởi mở để chia sẻ này thuộc thành phần kinh nghiệm cầu nguyện của đan sĩ Xitô”[6] . Vì thế, mọi khách đến Đan viện phải được đón tiếp như đón tiếp Chúa Kitô, nhất là người nghèo, khách hành hương và khách đến tĩnh tâm.
a.Đón tiếp người nghèo
Về việc đón tiếp những người nghèo, thánh Biển Đức đã dạy người quản lý của Đan viện “hãy hết dạ săn sóc bệnh nhân, trẻ em, khách và người nghèo. Người nên biết rằng: tới ngày phán xét, người sẽ phải tường trình về những điều đó” (TL 31, 9). Hơn nữa, “với người nghèo và khách hành hương, ta phải hết sức ân cần đón tiếp, vì chính trong họ mà ta đón tiếp Chúa Kitô hơn hết” (TL 53, 15).
Vì thế, người nghèo luôn có chỗ đứng trong bậc thang những khí cụ làm việc lành và trong mối bận tâm của các đan sĩ: “Nâng đỡ người nghèo. Mặc cho người không áo. Thăm viếng bệnh nhân. Chôn cất kẻ chết. Cứu trợ kẻ hoạn nạn. An ủi người sầu khổ” (TL 4, 14-19). Cách cụ thể, “khi lãnh đồ mới, luôn luôn phải trả ngay đồ cũ, để cất vào phòng áo cho người nghèo” (TL 55, 9).
Ngày nay “không những các đan sĩ được mời gọi hiệp thông với các vị khách tới Đan viện, mà còn với Giáo Hội và xã hội nói chung, đặc biệt là với những người dân sống chung quanh Đan viện. Tùy theo hoàn cảnh về nơi chốn và thời gian, các cộng đoàn đan tu thường được kêu mời thực hiện một sinh hoạt bác ái hay xã hội nào đó cho những người dân trên đây. Đan sĩ không chỉ cầu nguyện cho các sinh hoạt ấy được thực hiện tốt, nhưng chính các sinh hoạt ấy cũng là một hình thức cầu nguyện vì là hình thức hiệp thông với Thiên Chúa, như Ngài đã dạy: “Điều gì các con làm cho một kẻ bé mọn nhất trong những kẻ thuộc về Ta là các con đã làm cho Ta”[7].
Như vậy, những nhu cầu của thế giới, các chương trình mục vụ của Giáo Hội, nhất là của Giáo Hội địa phương, của Giáo xứ, của những người dân … đang sống chung quanh các đan viện chúng ta có trở thành lời mời gọi hay thành mối bận tâm trong sứ vụ sống hiệp thông của chúng ta không?
b. Đón tiếp khách hành hương và khách tĩnh tâm
Vì biết trước “đan viện không bao giờ thiếu khách” (TL 53, 16) nên “mọi khách đến Đan viện phải được đón tiếp như Chúa Kitô vì chính Người đã nói: ‘Ta là khách và các ngươi đã đón tiếp Ta’. Phải tỏ lòng tôn trọng xứng hợp với từng người, nhất là những người phục vụ Tin Mừng và khách hành hương. Vậy vừa khi được tin khách đến, Bề Trên hoặc anh em hãy trọn tình bác ái đi đón khách… Ta hãy hết lòng khiêm tốn chào hỏi khách đến cũng như khách đi. Hãy cúi đầu phủ phục thờ lạy và đón tiếp Chúa Kitô trong quý khách” (TL 53, 1-3.6-7).
Đan sĩ tin Chúa Kitô đang ở trong khách nên sẽ “khiêm tốn chào khách và xin khách chúc lành cho mình” (TL 53, 24).
Các đan sĩ khách được coi là những người đang phục vụ Tin Mừng nên “hãy tiếp nhận người vào ở bao lâu tùy ý. Nếu vì bác ái khiêm nhường, người có phê bình hay chỉ bảo điều gì hợp lý, Viện Phụ hãy khôn ngoan cứu xét biết đâu vì lý do đó mà Chúa sai người đến. Nếu về sau, người muốn xin được định sở thì đừng từ chối… chẳng những vậy mà còn nên thuyết phục người định sở để nên gương cho kẻ khác” (TL 61, 3-5.9).
Cách cụ thể, với niềm say mê phục vụ con người, đan sĩ được mời gọi hãy luôn sẵn sàng phục vụ khách để “bất luận lúc nào khách đến cũng có người đón tiếp” (TL 66, 2).
Với niềm say mê phục vụ con người, đan sĩ được mời gọi hãy “lấy lòng kính sợ Chúa mau mắn trả lời khách với tình bác ái và lòng nhiệt thành” (TL 66, 4).
Kết luận
Bản thân người viết đã từng tiếp một người tìm đến “gõ cửa” đan viện. Với tất cả sự chân thành và thiện chí, người ấy đã hỏi rằng: Con biết Thánh Biển Đức đã đề ra bốn tiêu chí cho một người đến gõ cửa xin tu trong một đan viện là: “thực tâm tìm Chúa, mộ mến Thần Vụ, mộ mến vâng lời và ham chuộng sỉ nhục” (TL 58, 7). Con thấy mình có được ba tiêu chí đầu, còn tiêu chí “ham chuộng sỉ nhục” thì con thấy mình không thể đáp ứng được thì liệu con có tu được không? Câu hỏi này nhắc chúng ta, trong tư cách là một đan sĩ hoặc đang khao khát được trở thành một đan sĩ, tự vấn và tự trả lời cho chính mình về một câu hỏi khác có tầm quan trọng và có tính quyết định đến sự trung thành, niềm vui và niềm hạnh phúc của mỗi người. Câu hỏi đó là: Đối với tôi, đâu là đặc nét căn bản nhất trong ơn gọi của tôi? Đó có phải là niềm say mê và lòng thực tâm đi tìm Chúa không?
Chẳng ai trong chúng ta dám vỗ ngực xưng tên mình là người “lắm đức, nhiều đạo” hoặc “lắm tài, nhiều hạnh” mà có lẽ chúng ta chỉ dám nhận mình là những tôi tớ đang được Chúa giao cho những nén bạc kèm với lệnh truyền rằng: “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho đến khi tôi đến” (Lc 19, 13). Nén bạc ấy là những của cải vật chất và phi vật chất của Đan viện mà không ai trong chúng ta có quyền hoặc được phép coi thường, phung phí, làm thất thoát hay đem chôn giấu. Trái lại, chúng ta có nhiệm vụ và bổn phận phải làm lợi từ chính những nén bạc ấy bằng niềm say mê tìm Chúa, say mê phụng sự Chúa và say mê phục vụ con người theo tinh thần và những đòi hỏi của Tu Luật thánh Biển Đức.
[1] Armand Veilleux OCSO – Cầu nguyện theo truyền thống Xitô; Thuyết trình tại Ligège, Bỉ, ngày 24.11.2005
[2] Sđd
[3] Armand Veilleux OCSO – Sđd
[4] Armand Veilleux OCSO – Sđd
[5] Armand Veilleux OCSO – Sđd
[6] Armand Veilleux OCSO – Sđd
[7] Armand Veilleux OCSO – Sđd
TÌNH TRẠNG VIỆC THÀNH LẬP
CÁC CỘNG ĐOÀN ĐAN TU NGÀY NAY
Duyên Thập Tự
Linh mục Peter Eghwrudjakjor, dòng Biển Đức, Đan viện trưởng Ewu-Ishan, Nigeria.
Với tư cách là thành viên Hội Đồng Cố Vấn của AIM, cha Peter trình bày một quan điểm độc đáo về sự biến chuyển của việc thành lập các cộng đoàn, dựa trên chính kinh nghiệm của ngài trong một đất nước mà sức sống không ngừng phát triển và lôi cuốn lục địa châu phi hướng về tương lai, vượt qua mọi loại bạo lực đang xuyên qua lục địa này.
Bài viết “L’état des fondations monastiques aujourd’hui” được đăng trong nội san của AIM (Alliance-Inter-Monastères), số 109 (năm 2015) INSTITUTIONS EN MUTATION, trang 25-29.
Quan niệm truyền thống của việc thành lập được đặt trong mối liên hệ với chuyển hướng truyền giáo của Bắc bán cầu tới Nam bán cầu, của Âu-châu tới Châu-phi, Á-châu và Nam Mỹ. Ngày nay, chuyển hướng nhiều hơn từ Bắc bán cầu hướng tới Nam bán cầu và đôi khi từ Nam bán cầu hướng về Bắc bán cầu, nguyên do là nhân số đông hơn tại Nam bán cầu.
Chuyển hướng từ Nam bán cầu đến Bắc bán cầu
Nhân số đông các đan sĩ nam và nữ trong các nước thuộc Nam bán cầu đôi khi dẫn đến việc chuyển hướng của họ từ Nam bán cầu đến Bắc bán cầu, đặc biệt đến Âu-châu, hoặc để gia nhập trong các đan viện, hoặc đến trợ giúp và nâng đỡ các cộng đoàn già nua, hoặc để được các cộng đoàn Âu-châu huấn luyện hay nâng đỡ. Cũng xảy ra là ý định muốn sở hữu đan viện tiếp nhận hay thành lập một cộng đoàn mới với những nhân sự đến từ Nam bán cầu như Phi-châu, Á-châu hay Nam Mỹ. Nhiều đan viện thuộc loại này tại nước Ý tràn ngập những thành viên người Phi-châu, Á-châu (nhất là những người Phi-luật-tân và Ấn-độ) hay những người thuộc Nam Mỹ. Điều đó cũng nhận thấy trong phần lớn các nước thuộc Âu-châu.
Chuyển hướng từ Bắc bán cầu đến Nam bán cầu
Khi một cộng đoàn thuộc một đất nước Nam bán cầu phát triển, có thể hình dung một cách thực tế việc thành lập những cộng đoàn trong các quốc gia khác thuộc Nam bán cầu. Cũng có thể thành lập những cộng đoàn trong địa giới của một quốc gia. Trong các trường hợp khác, việc thành lập các cộng đoàn trong một quốc gia khác trong cùng một lục địa. Thí dụ, một đan viện các nữ đan sĩ Biển Đức mới được thành lập bởi đan viện Thánh Lucia, trong vùng Ca-ri-bê, và một đan viện khác tại nước Angola được thành lập từ nước Nigeria. Đó là những sự kiện hiện thời.
Những hình thái của việc thành lập
Hình thái của việc thành lập rất khác biệt. Bình thường, khi người ta nhận biết cộng đoàn thành lập, thì tất cả đều rõ ràng. Dầu vậy, cũng có trường hợp những người đã lìa bỏ đan viện của họ để thành lập, một số với sự chúc lành của các cộng đoàn của họ, số khác thì không. Có những người xin thời gian nghỉ ngơi hay phép được sống tại ngoại để bắt đầu công việc thành lập cộng đoàn mới; hoặc có những người khác có thể đã là cựu đan sĩ hay tu sĩ tụ họp lại với nhau để hình thành những cộng đoàn đan tu mới.
Động lực
Theo nguyên tắc, động lực nguyên khởi của việc thành lập một cộng đoàn mới phải là để Thiên Chúa được tôn vinh trong mọi sự. Nhưng đáng tiếc, vinh quang Thiên Chúa không luôn luôn là nguyên do chinh yếu của việc thành lập một đan viện mới.
Một vài cộng đoàn cần phải thành lập để giảm bớt số các đan sĩ qui tụ trong cùng một nơi chốn. Điều đó có ý nghĩa nếu cộng đoàn đã trở nên quá đông, nơi ở quá chật chội.
Có những cộng đoàn mới được thành lập bởi vì cộng đoàn bị thúc đẩy do một vị lãnh đạo quá nhiệt tâm hay tham vọng, hay vì một thành viên quyền lực của nhóm thấy đó như việc thuận lợi để đính thêm một viên ngọc quí nữa vào chiếc triều thiên của ông ta.
Cũng có những đan sĩ nam hoặc nữ mơ ước thấy một đan viện được thành lập nơi chôn nhau cắt rốn của mình, hay trong làng xã hoặc giáo phận quê hương và cuối cùng họ đi đến đó.
Một vài cựu đan sĩ, sau khi đã được chuẩn miễn lời khấn đan tu, không thể nghĩ tưởng rằng mình phải sống ngoài đan viện. Điều đó rất thường xảy ra ở nước Nigeria nơi các cựu tu sĩ, bởi vì căn rễ văn hoá xã hội rất mạnh. Hiệp hội các đan viện Biển Đức- Xitô nước Nigeria đã viết cho Hội Đồng Giám Mục Nigeria để thức tỉnh lương tâm về một hiện tượng như vậy và để xin giải quyết vấn đề thành lập các cộng đoàn đan tu tự phát mọc lên như nấm trong các giáo phận. Phần đông các đan viện được thành lập tự phát đều do các cựu tu sĩ và một vài cựu đan sĩ thuộc truyền thống Biển Đức và Xitô. Một vài giám mục hình như không quan tâm xét xem những cộng đoàn được thành lập do ai và bằng cách thức nào: điều quan trọng duy nhất là đan viện được thiết lập trong giáo phận và điều đó được coi như một thứ uy tín nào đó. Ngoài ra, một đan viện mới rất dễ nhận được sự phê chuẩn nếu không đòi hỏi một chút tài chánh nào nơi giám mục hay giáo phận. Khi ấy là một món quà tốt đẹp cho giáo phận.
Tổng quan
Một cách khái quát, những cộng đoàn Âu-châu thì già nua và ít người. Trong các nước đang phát triển, nhiều cộng đoàn được thành lập tiến triển rất tốt; những cộng đoàn đó, đến lượt mình, dám đáp ứng thách thức của việc bén rễ sâu trong một nền văn hoá đan tu chân thực, và có thể nói rằng những cộng đoàn đó phát triển tiệm tiến một cách lành mạnh. Nhưng, có nhiều, nếu không nói là quá nhiều, những cộng đoàn với rất nhiều ơn gọi lại ở trong tình trạng bấp bênh vì sự mỏng dòn và bất ổn. Những cộng đoàn thường có nhiều thành viên nhưng lại rất nghèo; vì thế việc tồn tại trở thành mối bận tâm hàng đầu. Tất cả những điều còn lại đối với cộng đoàn đều là thứ yếu. Điều đó ưu tiên vượt lên sự quân bình lành mạnh của tất cả đời sống đan tu: một thời khoá biểu được phân chia đều cho công việc, cầu nguyện, học hành và những hoạt động khác của cộng đoàn. Thường thì trong những cộng đoàn đó, đa phần thời gian được dành cho công việc chân tay và chạy đôn chạy đáo để tìm kiếm các ân nhân.
1. Một vài đặc điểm liên quan đến những cộng đoàn được thành lập như trên
Đôi khi có quá nhiều đan sĩ sống trong một không gian chật hẹp, đến nỗi những phòng chung nhỏ bé cũng phải bị phân chia và hai người phải chung nhau một căn phòng.
2. Như một qui luật chung, rất khó tìm được những con người đáng tin cậy cho vị trí trách nhiệm trong những cộng đoàn này:
Việc thiếu những người có thẩm quyền để đảm nhận lãnh đạo cộng đoàn thường đưa đến thảm hoạ.
Thiếu những người có thẩm quyền cũng có nghĩa là những hoạt động sinh lợi để có thể tự túc cũng sẽ làm tình trạng thêm khổ đau.
Việc thiếu những người đào tạo tốt cũng kéo theo khó khăn trong việc chuyển thông đặc sủng đan tu; không có chương trình đào luyện đầy đủ trong đan viện dành cho những nam nữ đan sĩ trẻ.
3. Một vấn đề thường xuyên nơi các cộng đoàn được thành lập này là không biết làm sao để thiết lập những dự án cho phép có những lợi nhuận bền vững.
4. Trong những cộng đoàn đó, thời gian thường được đầu tư cho công việc đồng áng, đến nỗi còn rất ít thời gian để nuôi sống sự phát triển thiêng liêng bằng việc cầu nguyện riêng tư, lectio divina, đọc sách, đồng hành…, ngay phụng vụ đôi khi cũng bị hy sinh để có nhiều thời gian lao động.
Số đông chắc chắn là một phúc lành. Dầu vậy, rõ ràng là sự phát triển về số lượng là một điểm khá yếu trong bậc thang giá trị đan tu. Không đương nhiên số đông diễn tả sự phát triển cộng đoàn trong sự chân thực thiêng liêng hay sức mạnh của sự dấn thân đan tu. Cũng vậy, có đông thành viên không có nghĩa là độc lập hơn về lý tưởng hay tự trị hơn về phương diện kinh tế; đó cũng không phải là dấu chỉ chắc chắn của sự trưởng thành trong các cộng đoàn đan tu và giữa các đan sĩ.
Cuối cùng, công việc thật sự là vượt qua cái ảo tưởng của số đông để đạt đến sự hình thành những đan sĩ thật.
KHÁT KHAO THIÊN CHÚA
& SAY MÊ CON NGƯỜI
M.Vinh Sơn_Đan viện Vĩnh Phước
Thẳm sâu trong lòng mình, ai trong chúng ta cũng mang một khát vọng vô biên. Bởi vì: “Con người được sinh ra trong giới hạn, nhưng lại mang một khát vọng vô hạn”. Để thỏa mãn cơn khát, con người thường đi tìm để lấp đầy bằng những khoái lạc vật chất, những thú vui của hưởng thụ, những đam mê của danh vọng chức quyền… Họ càng tìm càng thấy thiếu và không bao giờ no thỏa, vì nhu cầu được thỏa mãn cứ trào lên vô tận. Họ nhận ra rằng: họ càng khát càng muốn uống và càng uống thì càng thấy khát…Có lẽ thánh Augustinô là người nhiều kinh nghiệm về “cơn khát” này hơn ai hết. Thuở thiếu thời, ngài đã bôn ba tìm kiếm tất cả những gì thế gian cho là “sung mãn” nhất, nhưng tất cả những “thứ nước vật chất” ấy không thể thỏa mãn cơn khát của ngài. Cuối cùng, ngài phải thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, thế mà bấy lâu nay con chỉ mải mê tìm kiếm cái gì khác ở ngoài Chúa. Vì vậy lòng con luôn băn khoăn thao thức mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”[1] . Thật vậy, con người được tạo dựng do Thiên Chúa và cho Thiên Chúa nên chỉ nơi Ngài, con người mới được no thỏa cơn khát của mình. Với tựa đề “khao khát Thiên Chúa và say mến con người”, tôi liên tưởng đến hình ảnh Thập Giá tuyệt đẹp với hai chiều ngang dọc đan kết với nhau. Chiều dọc được nối kết từ đất tới trời khi con người thực sự khao khát Thiên Chúa và ước mơ vươn tới Ngài, chọn Ngài làm đối tượng, làm lẽ sống cho cuộc đời mình; còn chiều ngang được gắn kết với chị em qua đời sống huynh đệ, qua sự dấn thân quên mình vì người khác. Vì những ai thực sự khao khát Thiên Chúa thì cũng dễ dàng đón nhận và yêu mến chị em. Điều này chỉ mình Chúa Giêsu thể hiện cách tròn đầy và cụ thể nhất, đến nỗi hiến dâng cả mạng sống vì vâng Ý Cha và yêu mến con người. Để tiếp bước Ngài, có biết bao tâm hồn tận hiến thuộc mọi thế hệ đang họa lại khuôn mẫu ấy, trong đó nổi lên ánh sao lấp lánh giữa bầu trời là cha Henri Denis Biển Đức Thuận–Đấng sáng lập Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam.
1. Chúa Giêsu-bậc thầy về lòng khát khao Thiên Chúa và say mến con người.
Khát khao Thiên Chúa là điều luôn nung nấu và cháy bỏng trong con tim của Chúa Giêsu, bởi vì Ngài là tình yêu và Ngài cũng là kết quả của tình yêu Ba Ngôi, mà tình yêu thì luôn khát khao và ước muốn hướng về nhau. “Ngài khát khao yêu mến Cha không chỉ bằng cuộc sống của Ngài, dầu là cuộc sống thần linh, và yêu mến Cha không chỉ bằng Trái Tim của Ngài, dầu là Trái Tim của Thiên Chúa làm người. Nhưng Ngài còn khát khao yêu mến Cha Ngài trong muôn triệu con tim của các Kitô hữu cho đến tận thế”[2] .
Nhiều lần Chúa Giêsu nói về sự khát khao Thiên Chúa, khát khao chu toàn thánh ý của Cha: “Tôi khát” (Ga 19, 28), “Thầy những khát khao ăn lễ vượt qua với anh em trước khi bước vào khổ nạn” (Lc 22, 1-38), “Thầy còn một phép rửa và Thầy khát khao chịu phép rửa ấy cho đến khi hoàn tất” (Lc 12, 50)…Điều đó cho thấy nỗi khát khao Thiên Chúa cháy bừng trong tim Ngài, đến nỗi những giây phút cuối cùng thoi thóp trên thập giá cơn khát đó đã bật ra thành lời “Tôi khát” (Ga 19, 28). Chỉ khi nào nỗi khát khao đó quá lớn mà người ta chưa được đáp ứng thì họ mới biểu lộ cảm xúc ra bên ngoài. Chúa Giêsu “khát” ngay từ khi Ngài bước chân vào lịch sử nhân loại nên Ngài đã “xin uống” (Ga 4, 7). Nhưng có lẽ Ngài chưa được đáp ứng hay tại cơn khát của Ngài chưa thỏa lòng? Có lẽ từ khi bước chân vào thế giới con người đến khi bước lên thập giá, lúc nào Ngài cũng “khát” mà không được đáp ứng. Qua hai câu nói nằm ở phần đầu và phần cuối của Tin Mừng Gioan tưởng chừng chẳng ăn nhập gì. Nhưng đọc kỹ hình như Gioan có dụng ý trong việc móc nối này thật khéo léo, ông như muốn trình bày cho ta hiểu rằng: Chúa Giêsu – Đấng vừa bày tỏ cơn “khát” (x. Ga 19, 28) của mình vừa mong được “uống” (x. Ga 4, 7). Vậy Ngài đang khát gì và đang mong được uống gì?
Nếu ở phần đầu, Gioan diễn tả cơn khát thể lý của Ngài khi ngỏ lời với người phụ nữ Samari để xin nước uống thì đằng sau cơn khát về thể lý ấy Gioan đang dần vén mở cho ta thấy Ngài khát Thiên Chúa và chỉ mình Thiên Chúa mới có khả năng thỏa mãn cơn khát của Ngài. Vịnh gia đã diễn tả cơn khát này của Chúa Giêsu đến tột cùng “Cổ họng tôi khô ran như ngói, lưỡi với hàm dính lại cùng nhau, chốn tử vong Chúa đặt vào” (Tv 21). Thế mà dường như Cha vẫn im lặng, vẫn không giãn khát cho Ngài đến độ Ngài phải thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, sao Ngài bỏ rơi tôi” (Mt 27, 46). Như vậy, lời bày tỏ “tôi khát” Chúa Giêsu đang muốn nói với Cha của Ngài rằng: Ngài thực sự khát Thiên Chúa, nên cả cuộc đời của Ngài luôn thi hành ý Cha: “Lương thực của Thầy là thi hành ý của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4, 22). Khi suy niệm về điều này Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã chia sẻ như sau: “Cái chết của Đức Giêsu trên Thập Giá là tột đỉnh của những gì làm cho Thiên Chúa quay ra chống lại chính Người, một thái độ Người hiến mình để nâng con người lên và cứu độ con người. Đó là tình yêu mặc một hình thức cực đoan nhất”[3] . Nhưng đó lại chính là nghịch lý của tình yêu mà chỉ người trong cuộc mới hiểu. Nên việc Thiên Chúa “quay ra chống lại chính mình” khi cương quyết bỏ rơi Con Một của Ngài lại là tác động vô cùng cần thiết đến bất khả thiếu trong việc làm cho Con của Ngài được hoàn toàn giãn “khát”, một cơn khát thiêng liêng chứ không phải thể lý. Cũng vì khát khao hoàn thành sứ mạng cao cả này mà Đức Giêsu đã đến “để thắp lên một ngọn lửa và Ngài khát mong cho ngọn lửa ấy bừng cháy lên” (x. Lc 12, 49-50). Nhưng khi giờ ấn định đã đến Ngài cũng thấy bàng hoàng nên đã thưa với Cha “Lạy Cha xin cứu Con khỏi giờ này? Nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến. Cha ơi xin hãy tôn vinh Danh Cha” (Ga 12, 27-28). Và cuối cùng Ngài đã chọn “vâng lời cho đến chết, chết trên thập tự giá” (Pl 2,8). Như thế, khát vọng của Chúa Giêsu, hay cơn khát núi sọ không phải chỉ là vinh hiển của Cha theo lý tưởng, “mà về thực tế nó còn là phần rỗi, là sự sống đời đời của các linh hồn – những hoa trái thiêng liêng mà cuối cùng cũng qui về cho vinh hiển Cha” (x. Ga 15, 8)[4] .
2. Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận – mẫu gương về lòng khát khao Thiên Chúa và say mến con người
Dường như mỗi vị thánh, Chúa ban cho họ một ân huệ riêng để khi nói đến vị thánh ấy người ta nhớ ngay đến những nét tiêu biểu trong cuộc đời của họ. Cũng vậy, khi nói đến cha Biển Đức Thuận là nói đến sự tuân phục Thiên Ý một cách tuyệt vời. Ngài luôn đặt Thánh Ý Chúa lên trên tất cả mọi sinh hoạt, mọi dự tính của mình, ngài thường nói “Thánh ý Chúa là nhất cho con”. Câu nói này luôn ở trên môi ngài, ngài không chỉ nói bằng lý thuyết nhưng ngài còn nói bằng chính cuộc sống của mình. Ngay từ khi quyết định gia nhập Hội Thừa Sai Paris ngài đã nghe tiếng Chúa nói trong tâm hồn mình “Cha khát, Cha khát các linh hồn” (HT tr. 34). Và từ đó “cuộc chiến” giữa cái tôi của mình với thánh ý Chúa càng ngày càng mãnh liệt trong tâm hồn ngài. Cuộc chiến của việc lựa chọn đi truyền giáo ở Viễn Đông nghèo khó xa xôi, một đi không trở về, không thể phụng dưỡng cha mẹ hay ở lại nước Pháp phồn vinh tráng lệ? Có lúc ngài ước mơ đi giảng đạo ở Cao-ly để chịu lạnh nhưng cha Bề Trên lại sai ngài qua Việt Nam, ngài một lòng “Fiat”. Rồi khi đến Việt Nam, ngài cũng phải lựa chọn giữa việc đi truyền giáo hay ở lại làm giáo sư Tiểu Chủng Viện An Ninh. Sự tuân phục thánh ý Thiên Chúa cứ bị giằng co ngay trong ước muốn và việc làm của ngài: “Chúa xuống thế đã 2000 năm mà còn biết bao kẻ chưa nhận biết Người, khi con suy sự ấy thì cái phòng giáo sư của con đây nên như cái ngục cho con, con ước ao mở miệng la hết sức nói về Chúa cho những kẻ chưa nhận biết Người được trở lại. Chắc năm sau con được đi giảng đạo cho người kinh hay cho người thượng. Được vậy con thỏa lòng lắm, nhưng nếu Chúa muốn con ở lại nhà trường thì con sẽ rất bằng lòng…” (DN số 4). Nhất là những lúc gay cấn như khi phải quyết định chọn Ngân Sơn hay Phước Sơn… tiêu chí của ngài luôn là “Thánh Ý Chúa”, bởi vì ngài cảm nhận rằng: cuộc sống của con người chỉ thực sự có ý nghĩa khi họ được ở trong mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Đó là khát vọng sâu xa nhất mà ngài hằng ước mơ vươn tới. Phải chăng đây là lý do mà ngài lập ra Dòng Chiêm niệm này để ngày đêm được cận kề bên Chúa? “Chúa đưa chúng ta tới đỉnh núi Phước này để an ủi Chúa thay cho vô số người đã ở vô ân bội nghĩa cùng Chúa, làm cực lòng Chúa. Không nói chi kẻ ngoại, biết bao người công giáo cả ngày mấy ai nhớ đến Chúa? Thật ít lắm, vậy nếu chúng ta cả ngày không lo tưởng nhớ Chúa, an ủi Chúa thì ai lo việc ấy?” (DN số 115). Ngài tuân phục ý Chúa không chỉ những lúc được bình an, khi gặp may mắn, cũng không phải ở những lúc cuộc đời êm trôi trong các giờ kinh thánh thót trầm bổng sớm chiều nhưng ngài vâng phục ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, ngay cả những lúc dưới con mắt người đời là rủi ro nhất: “Cái nhà đẹp nhất của chúng con nay đã biến thành đống tro tàn. Trót cơ nghiệp Nhà Dòng ở cả trong đó: sách vở, thuốc men, quần áo, vật thực, hạt giống…thay thảy đều cháy hết mặc lòng chúng con đã hát Magnificat trọng thể tạ ơn Chúa vì lẽ ra các nhà khác cũng bị đồng một số phận…Bị rủi ro như thế chỉ là dấu Cha nhân hậu tỏ lòng thương con cái, chúng con hằng ngợi khen Chúa và cảm ơn Người luôn” (DN số 47), lần khác ngài chia sẻ cho song thân về việc ngài sẵn sàng vâng và làm theo ý Chúa: “Khi con từ giã nước Mặn để về lại chủng viện An Ninh thì mọi người khóc như mưa, cả người ngoại cũng đến, họ tỏ ra thương tiếc con lắm, nhiều người ái mộ làm đơn xin Đức Cha cho con ở lại, mặc thánh ý Chúa” (DN số 20). Chính cha Chất cũng nhận xét về cha Biển Đức Thuận như sau: “Cha Benoit là đấng thật sốt sắng kính mến Chúa hết lòng, phi thường lại rất ái mộ phần rỗi người ta” (HT tr 86)
Vâng! Yêu mến ai thì ước muốn được ở gần người đó, thao thức làm đẹp lòng người mình yêu và biết họ muốn gì, cần gì. Cha Biển Đức Thuận vì khát khao yêu mến Thiên Chúa nên ngài luôn tâm niệm: “Hãy năng nhớ mà hết lòng cảm ơn Chúa vì mọi sự đều vô ích chóng qua trừ ra sự kính mến Chúa mà thôi” (DN số 113). Dường như lúc nào ngài cũng chỉ muốn nói đến Chúa và nói về Chúa: “Trót ngày từ sáng đến tối con chỉ nói với họ về Đức Chúa Trời mà thôi, con thấy họ lần lần biến đổi thành người tín hữu một cách trông thấy” (DN số 12). Và tình yêu của ngài đối với Thiên Chúa được chứng thực bằng tình yêu thương anh chị em. Hai chiều “ngang dọc” này không thể phân lìa và tách rời nhau. Cho nên ngài đã khẳng định: “Muốn biết chúng tôi có kính mến Chúa hay không, hãy xét coi chúng tôi có yêu thương anh em không. Sự kính mến Chúa không biết có chắc không, còn sự thương anh em thì dấu chắc chúng tôi có lòng kính mến Chúa” (DN số 112). Thánh sử Gioan cũng đã xác quyết điều này: “Nếu chúng ta không thương yêu người anh em mà chúng ta trông thấy thì làm sao yêu mến Thiên Chúa là Đấng chúng ta không trông thấy” (1 Ga 4, 20). Tình yêu đòi buộc chúng ta phải hành động bởi vì yêu mà chỉ ước muốn điều tốt cho người mình yêu không thì chưa đủ. Vì thế, tình yêu đích thật thì phải thể hiện bằng hành động cụ thể với tất cả khả năng của mình và làm cho người khác điều tốt mà họ đang cần. Tình yêu ấy phải dựa trên khuôn mẫu là tình yêu Thiên Chúa thì mới bền vững. Thật vậy, “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu”. Thiên Chúa đã yêu và hiến mạng vì chúng ta trước nên chúng ta cũng phải hiến mạng vì anh em (x. 1Ga 4, 10). Do đó, tình yêu của người đan sĩ với tha nhân không dựa trên cảm tính, thứ tình cảm mau qua của con người, nhưng tình yêu đó phải phát xuất từ tình yêu của Thiên Chúa. Nghĩa là biết tôn trọng, đón nhận, bảo vệ và phát triển điều tốt của tha nhân “Chúng ta hãy yêu thương nhau, hãy nhịn nhục nhau khi lầm lỗi, lấy đức thương yêu mà che đậy nết xấu cho nhau, đừng xét nét anh em khi không phải việc mình” (DN số 122).
Có thể nói trong suốt cuộc đời của mình, Cha tổ phụ luôn khát khao thi hành và làm trọn ý Chúa. Từ lòng khát khao Thiên Chúa, ngài rất thương yêu anh em, một tình yêu chân thành và tế nhị. Có lần ngài thấy một anh em ốm yếu quá, ngài nói với thầy làm bếp bắt gà nấu cháo. Ngài luôn nhấn mạnh đến tình yêu huynh đệ, kinh nghiệm làm giáo sư chủng viện mười năm và làm Bề Trên mười mấy năm giúp ngài nhận thấy: những anh em nào có lòng yêu thương anh em của mình thật thì đời sống nội tâm của người đó cũng rất sâu sắc và đời sống đạo đức cũng thật vững vàng. Từ đó ngài rút ra câu nhận xét thật thâm thúy: “Cái đạo ăn chay, đạo đánh tội, đạo chầu Thánh Thể, đạo ấy dễ mà không chắc chi, còn đạo thương anh em đạo ấy thì chắc là đạo” (DN số 112). Tình yêu thương của ngài dành cho Chúa và tha nhân rất cụ thể. Ngài không nói gì và dạy anh em làm gì mà trước đó ngài đã không làm. Điều này càng cho thấy ngài thật là một họa ảnh sống động của Đức Giêsu. Tình thương của ngài được lan tỏa không những nơi anh em trong cộng đoàn mà còn ở nơi tất cả mọi người, những ai cần và chạy đến với ngài. Từ việc làm thuốc để cứu giúp những người đau yếu, bệnh tật đến việc làm phúc bố thí cho người nghèo khổ, kể cả liệm xác người chết bị dịch bệnh… ngài sẵn sàng chia sẻ tất cả tiền của, kinh nghiệm, tình thương. Nói tóm, ‘tất cả những gì Chúa ban cho ngài’, ngài không giữ lại gì cho riêng mình mà ngài sẵn sàng chia sẻ hết cho tất cả mọi người (x. DN số 8). Dường như ngài chỉ lo cho hạnh phúc và nhu cầu của người khác mà không nghĩ gì đến bản thân mình. Những lúc khỏe mạnh ngài chăm lo cho họ đã đành nhưng những lúc đau ốm ngài vẫn hết lòng lo cho mọi người: “Họ con nay phải dịch thời thổ tả, chết mất mười người, con cũng bị song nhờ ơn Chúa đã khá, người ta thất kinh đến nỗi không ai dám liệm xác kẻ chết, chính tay con phải ôm xác bỏ vào quan tài, đậy nắp đóng đinh, rồi bỏ tiền thuê người đem đi chôn” (DN số 8) (x. HT tr 43). Vì thương mọi người nghèo khổ mà chỉ năm năm sống ngoài giáo xứ ngài đã phải mang một khoản nợ lớn: “Con viết thư này trong phòng tối,…con đã hao tốn nhiều lắm, con không tiếc chi cả, song có khi con buồn vì “khánh kiệt” tức thì Chúa lại giúp con ngay…(DN số 9). Những điều tốt lành ai đó làm và giúp đỡ cho mình ngài luôn quy tất cả về cho Chúa. Ngài cảm nhận và xác tín: khi ngài rộng lượng giúp đỡ người khác thì chính Chúa lại giúp ngài để ngài có điều kiện giúp đỡ nhiều người hơn. Tình yêu Chúa và tha nhân đã giúp ngài nhìn ra những nhu cầu để giúp đỡ, sẻ chia với họ. Vì vậy ngài không quản ngại hy sinh vất vả, ngay cả những công việc xem ra chẳng thích thú chút gì: “Con phải ngồi dịch sách, làm một nghề chẳng vui, cực chẳng đã con mới phải làm để kiếm tiền giúp kẻ bần hàn kẻo nó chết đói” (DN số 10). Ngài làm với một tình yêu nhưng không, không cần ai biết đến, thật đúng như lời dạy của Thánh Công Đồng: “Đức ái Kitô giáo thực sự mở ra cho hết mọi người, không phân biệt chủng tộc, hoàn cảnh xã hội hay tôn giáo; bác ái không cần một lợi ích hay một tri ân nào. Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu vô vị lợi, thì các tín hữu phải lấy tình bác ái mà lo lắng cho con người bằng cách yêu mến họ, với một ý hướng như khi Chúa tìm kiếm con người”[5] .
Việc thực thi bác ái là sống Tin Mừng và diễn tả tình thương xót của Chúa cho con người. Ngài ý thức, khi thực thi bác ái là ngài đang tiếp tục công việc của Chúa Giêsu, vì khi giúp đỡ người nghèo chính là ta đang làm cho Chúa và khi làm ơn cho họ cũng là lúc ta gặp chính Đức Kitô.
Từ tình yêu ngài dành cho Chúa và tha nhân giúp tôi hiểu rằng: người sống trong lòng mến dám hy sinh tất cả vì tha nhân. Vì ngài nhận ra người anh em đồng loại là chi thể Chúa Kitô. Tình yêu của ngài dành cho Chúa và tha nhân làm cho nguồn suối Tình Yêu của Thiên Chúa tuôn tràn trong xã hội hôm nay “đang khát mà không biết mình khát”. Là con cái của ngài, người Đan sĩ hôm nay học được nơi ngài điều gì về tình yêu Thiên Chúa và tha nhân?
3. Người Đan Sĩ hôm nay khát khao Thiên Chúa và say mến con người thế nào?
Đứng trước một thế giới tiện nghi của khoa học kỹ thuật, của vật chất, của những thú vui, những khoái cảm lôi cuốn hấp dẫn và trước cơn khát của thời đại. Là đan sĩ, chúng ta có thật sự xác tín rằng Thiên Chúa là đối tượng thực sự của các khao khát mà người đan sĩ đang tìm kiếm? Và sự khao khát, say mến Thiên Chúa được thể hiện như thế nào qua đời sống thường nhật của người đan sĩ? Chúng ta có cảm thấy tình yêu Chúa thôi thúc mỗi khi chúng ta cử hành phụng vụ, hay ta chỉ làm vì thói quen “thấy người khác làm tôi cũng làm”, làm cho xong bổn phận? Và ta có thấy niềm vui mỗi khi được cùng anh chị em lao động? Cùng họ làm việc, góp phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa và để chia sẻ với người nghèo như cha Tổ Phụ từng thao thức? Trong đời sống cộng đoàn, ta có thấy được sự “ngọt ngào” khi anh chị em vui vầy bên nhau hay đời sống chung là một gánh nặng thập giá? Một tâm hồn khao khát Thiên Chúa và yêu thương anh chị em thật thì cho dù cuộc sống vẫn còn đó những Thập Giá, nhưng họ không để cho Thập Giá đè bẹp mà họ làm cho Thập Giá nở hoa. Vì yêu Chúa nên họ thấy được nhu cầu của anh chị em và sẵn sàng giúp đỡ. Để có được tình yêu tinh tế ấy đòi hỏi một sự kết hợp mật thiết với Chúa như khi Chúa Giêsu đang cầu nguyện trên núi. Ngài cảm nhận được sự mệt nhọc của các môn đệ đang phải chèo chống vất vả vì ngược gió, ngay lập tức Ngài đến để giúp họ. Còn các đan sĩ chúng ta hôm nay thì sao?
Ngày nay khi nói về việc “Khát khao Thiên Chúa” người ta thường nghĩ đến một cái gì cao vời, ngoài tầm hiểu của họ vì Thiên Chúa ở quá xa, xa đến nỗi chẳng ai dám khát khao Ngài. Nhưng “khát khao Thiên Chúa” thật ra chỉ đơn giản là thực thi thánh ý Ngài qua những việc bổn phận, qua những người có trách nhiệm và những anh chị em đồng tu. Với người đan sĩ hôm nay, việc khát khao Thiên Chúa còn được thể hiện qua việc biết đón nhận tất cả những gì trái với sở thích, trái với suy nghĩ của mình, biết từ bỏ cái “tôi” để đi vào cái “tha”. Chẳng hạn hôm nay nhìn bảng công tác, tôi phải làm việc với một chị em chẳng mấy thiện cảm gì với tôi. Theo phản ứng tự nhiên tôi tỏ ra khó chịu và tìm cách tránh né. Nhưng người có lòng khát khao thi hành ý Chúa thì họ sẽ đón nhận chị em ấy như một Tặng Ân và coi đó là dịp tốt để thánh hóa mình và người anh chị em ấy. Nếu vượt qua được một lần, hai lần, người đan sĩ sẽ dễ dàng đón nhận những yếu đuối của chị em như họ là. Nhờ vậy, Chúa tác động trên người chị em của mình, giúp họ nhận ra tình thương mà mình đang dành cho họ, khi đó họ sẽ tự sửa đổi. Như vậy, ta đã đưa được một người chị em đến gần Chúa và đến gần ta hơn. Đó cũng là dấu người đan sĩ hôm nay đang khao khát Thiên Chúa và say mến con người. “Khi chúng ta chịu đau khổ để thỏa cơn khát của Chúa Giêsu, chúng ta dành chỗ để Thiên Chúa hành động theo cách mới trong cuộc đời chúng ta và cuộc đời người khác. Chính đức tin và đức ái biến chuyển đau khổ thành vẻ đẹp dành cho Thiên Chúa để rồi đau khổ sẽ mặc khải sự thánh thiện của Thiên Chúa ngay trên thế gian này. Nếu hiểu được mầu nhiệm của lời Chúa Giêsu kêu “khát”, chúng ta sẽ yêu thương tha nhân bằng cách trao cho họ chén nước hy vọng để họ có thể hy sinh và kết hiệp với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm đau khổ”[6] .
Tuy nhiên, với hai động từ “Khao khát” và “Say mến” dường như đã trở nên khó hiểu cho con người thời đại hôm nay. Nhưng phải chăng những động từ này quá trừu tượng đến nỗi không thể hiểu hay do người ta cố tình không muốn hiểu? André Frossard, một ký giả người Pháp là con của một người theo chủ nghĩa Marxit. Chính ông cũng là một người cộng sản vô thần. Có một lần lúc đi ngang qua tu viện khi các nữ tu đang chầu Thánh Thể, ông đã bị “tiếng sét ái tình” của Chúa chiếm trọn, ông kể lại như sau: “Một phút trước đó tôi hoàn toàn chối bỏ Ngài và chế nhạo rằng, Thiên Chúa chỉ hiện diện nơi trí tưởng tượng của con người. Nhưng sau đó một luồng sáng thiêng liêng, luồng sáng giáo huấn, tỏ bày sự thật đã dọi chiếu vào hồn tôi. Cùng với luồng ánh sáng, tôi cảm nhận một làn sóng dịu dàng. Một niềm vui bao la xâm chiếm hồn tôi, bằng một sức mạnh có thể làm vỡ tim. Tôi không bao giờ quên biến cố độc nhất vô nhị này. Tôi có thể xác quyết: Đối với tôi, chỉ mình Thiên Chúa hiện hữu thật sự, còn những vật khác chỉ là tạm bợ chóng qua”[7]
Như thế, người đan sĩ muốn gặp gỡ một Thiên Chúa hiện hữu thực sự như André Frossard thì cần phải “ra khỏi mình, khỏi cái tôi của mình”. Khi đó, ta mới có thể đến với Chúa và một khi đã yêu mến Chúa thì chúng ta cũng dễ dàng yêu chị em, vì họ chính là chi thể của Chúa Kitô. Đức Thánh Cha Benedito XVI cũng đề cập đến vấn đề này bằng một động từ hết sức độc đáo: “Để đến với Chúa và tha nhân chúng ta cần phải: “xuất hành” tức là đi từ cái tôi đóng kín trong chính-mình, đến chỗ giải thoát cái-mình trong việc cho đi chính-mình, và y như thế sẽ đến chỗ tìm lại được chính-mình, và còn hơn thế nữa là tới được chỗ khám phá ra Thiên Chúa”[8] . Còn Đức Phanxicô lại có một lối diễn giải dí dỏm hơn: “Yêu mến Thiên Chúa và say mê con người là “đi ra khỏi vùng ngoại biên của cái tôi đóng kín, của những tiện nghi vật chất…”[9] . Bởi vì “Yêu mến anh chị em là sống tình yêu đối với Thiên Chúa”. Người đan sĩ hôm nay đang đứng trước lời chất vấn mà Đức Thánh Cha Benedicto XVI đã đặt ra cho mỗi người: “Đâu là điều có thể làm thỏa mãn nỗi khát Chúa của tôi?”
TẠM KẾT
Như vậy, trong tâm hồn của mỗi người chúng ta có một thứ khát vọng sâu thẳm vượt lên trên những nhu cầu vật chất và tình cảm. Tự đáy lòng mình, con người luôn khắc khoải tìm biết ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Khi nhu cầu vật chất và tình cảm của con người tương đối được thoả mãn, người ta sẽ khao khát những điều sâu xa hơn như hoà bình, công lý, tự do, dân chủ. Điều này cho thấy tự bản chất con người luôn muốn vươn lên, luôn hướng về chân thiện mỹ. Những khao khát tinh thần này nằm trong ý thức của con người, không thể nào dập tắt hoặc đè nén được. Và cùng đích của sự khao khát tâm linh này là được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, Đấng duy nhất đem lại ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống con người. Bởi chỉ có Chúa Kitô, phát xuất từ Thiên Chúa vô biên mới có thể dạy chúng ta khám phá ra ý nghĩa của những khao khát đó. Ngài dạy chúng ta sống với vô biên, khát cái phải khát, và chỉ có Ngài mới có thể lấp đầy khát vọng vô biên của con người. Chính Đấng Vô Biên đã tạo ra trong lòng chúng ta cái khát vọng vô biên, không sao thỏa mãn, không sao lấp đầy. Nên chỉ khi nào gặp được Đấng Vô Biên trong Đức Kitô, lòng chúng ta mới được no thỏa mà thôi.
[1] Thánh Augustino – Tự Thuật 1.1,1
[2] SpiritualDirection.com
[3] Đức Thánh Cha Biển Đức XVI – Thông Điệp “Deus Caritas Est – Thiên Chúa Là Tình Yêu”
[4] Ltxcvntls.clicforum.com/t2404-Toi–khat-Jn-19-28.htm
[5] Công Đồng Vatican II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo Của Giáo Hội Ad Gentes Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X, Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia, Số 12
[6] Spiritual Direction – Trầm Thiên Thu chuyển ngữ
[7] Khát vọng vô biên của con người – R – KinhMungMaria kinhmungmaria.com/…/Khát_vọng_vô_biên_của_con_người
[8]Deus caritas est, Thiên Chúa là tình yêu số 6
[9] Đức Phanxico – Tông Huấn Niềm vui Tin Mừng
HÃY ĐỂ THIÊN CHÚA YÊU CHÚNG TA
THEO CÁCH CỦA NGƯỜI
FM. Dominico Phạm Văn Hiền
Phải chăng đó là xác tín của Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, được giải bày trong thư gửi Bà kế mẫu, đề ngày 26-8-1922. Ngài viết: “Mẹ đừng buồn, hãy để Chúa làm việc Chúa. Người thương mẹ, Người làm chi cho mẹ thì Người biết” (DN 72). Trong một lá thư khác, ngài giải thích: “Chúa thương yêu mẹ dường nào: Người hằng lưu ý đến mẹ bằng tìm cách làm ích cho mẹ. Mẹ không thấy Người, không hiểu biết các sự xảy ra cho mẹ đều do lòng nhân từ Chúa tỏ dấu yêu thương mẹ. Mẹ xem những đứa con nít, chúng có biết mẹ chúng hằng tìm cách mưu ích cho chúng không? Thế mà sao chúng lại khóc hoài! Chúng tôi cũng là con nít như thế đó!” (DN 52)
Chắc hẳn, phải có một đức tin trưởng thành mới giữ được niềm vui luôn dâng trào như thế trong tâm hồn Cha Tổ Phụ. Tên THUẬN của Ngài là cả một chương trình sống! Sống trong niềm tín thác vào sự quan phòng kỳ diệu của Cha Trên Trời. Đấng đang đếm từng sợi tóc trên đầu con cái Người (Mt 10, 30). Dĩ nhiên cần phải được thử thách, thì niềm tin của Ngài mới đạt tới mức trưởng thành. Hẳn thật, thánh Phêrô đã xác quyết với các tín hữu đang bị thử thách rằng: “Có thử lửa, vàng mới thật là vàng ròng, đức tin của anh em còn quí hơn vàng gấp bội, đức tin đã được thử luyện đó sẽ trở thành lời ca ngợi và vinh quang khi Đức Kitô ngự đến” (1Pr 1, 7).
Hãy để Thiên Chúa yêu chúng ta theo cách của Ngài!
“Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 16), Người không thể không yêu, vì yêu là bản tính của Ngài. Tất cả công trình tạo dựng và cứu chuộc bắt nguồn từ tình yêu vĩnh cửu của Ngài. Đúng như Boetius nói: “Sự thiện hảo tự nó tuôn tràn: bonum diffusivum sui”. Nhưng cũng như nước, tình yêu trào tràn tùy đối tượng: nước sẽ tràn ra mênh mông trên cánh đồng cò bay thẳng cánh, nhưng nước lại uốn khúc qua những dòng suối bé nhỏ, thậm chí đôi lúc như mất hút trong đám rừng âm u. Tuy nhiên với bất cứ địa cảnh nào, nước vẫn là nước. Tình yêu Thiên Chúa cũng thế đó, được tỏ bày trong những cách thế mà Ngài cho là tốt nhất. Thánh Phao-lô đã có một kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa khi ngài viết cho giáo đoàn Roma: “Thiên Chúa làm cho mọi sự sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8, 28). Dưới ngòi bút của thánh Tông Đồ, những người yêu mến Thiên Chúa đây, chính là mọi ki-tô hữu (x. Rm 1, 7)
Đối với Cha Biển Đức Thuận, chính kinh nghiệm trong cuộc đời quá khứ của ngài minh chứng sự xác thực câu: “Hãy để Thiên Chúa yêu ta theo cách của Ngài”.
Đúng vậy, về tình yêu Thiên Chúa, ngài đã trải nghiệm ngay trong mái ấm gia đình, bên một người cha khiêm tốn, cần cù và bên một người mẹ đã biết gieo vào lòng Henri sự say mê Thiên Chúa. Thế rồi, Thiên Chúa đã ban cho Henri ơn gọi truyền giáo qua các linh mục nhiệt thành như Cha Golliot hay Eloy.
Khi đặt chân lên đất nước Việt Nam vào ngày 31 tháng 5. Đấng Bản Quyền, với cái nhìn tiên tri, đã đặt cho cha tên Thuận. Thật danh xưng kỳ đức! Thuận là luôn nói xin vâng như Mẹ Maria. Thuận là dấn thân không ngơi nghỉ cho hoạt động mở Nước Trời, bất kể lúc nào và ở nơi đâu: Tại giáo xứ Nước Mặn hay tại tiểu chủng viện An Ninh hoặc cả trong nếp sống đan tu khổ hạnh tại Phước Sơn, đâu đâu cha cũng “Vạn tuế cho niềm vui”. (HT tr 160)
Theo chứng từ của các bổn đạo và các cựu chủng sinh của Ngài, Cố Thuận rất vui bởi mang tính hài hước (HT tr 135). Bức ảnh mà chúng ta hiện có, phần nào cho ta những ý nghĩ không trung thực về tâm hồn vui tươi của Ngài. Trong các thư mà Cha gửi cho bà kế mẫu, ta thấy toát ra một niềm vui sâu lắng của một người luôn coi “ý Chúa là nhất”.
Nếu đi sâu vào lời giáo huấn của Ngài, ta sẽ ngạc nhiên về tính đơn sơ ngoan ngoãn của một người con: Với Đức Cha Allys, ngài luôn kết thúc các bức thư với câu: “Người con yêu dấu và tùng phục của Đức Cha” (DN số 0); với cha chính địa phận, ngài trình bày: “Theo con nghĩ, con lấy sự ở nhà trường làm tốt lắm, song nếu cha sai con đi giảng đạo, thì con rất bằng lòng” (Hạnh tích tr 51). Trước sự ngoan ngoãn đó, các Bề trên giáo phận đã cho ngài đi coi xứ đạo Nước Mặn 5 năm: Với sự hăng say và lòng nhiệt thành cha đã tự tiêu hao vì các linh hồn như thánh Phao-lô (x. 2 Cr 12, 15) với ba phương thế: cầu nguyện, dạy giáo lý và tiếp cận từng nhà. Cha đã trải nghiệm cả niềm vui, lẫn nỗi khổ, dư dật có mà đói meo cũng thường! Kết toán lại, cha thấy kết quả truyền giáo không nhiều như cha mong. Thế rồi một ý nghĩ lập dòng chiêm niệm để cầu nguyện cho lương dân theo đạo đã đến với cha từ đầu năm 1912. Tuy nhiên cần tìm thánh ý Chúa qua Đấng Bản Quyền.
Lại một cuộc hành trình mở ra, và Đấng đồng hành vẫn là Ngôi Ba Thiên Chúa: “Nếu anh em sống nhờ Thần Khí, thì cũng nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5, 25). Ngài sẽ đổ tràn tình yêu Thiên Chúa trên tâm hồn cha (x. Rm 5, 5), nhưng theo cách nào, đố ai biết được? Sau 15 năm làm cha xứ và làm giáo sư tiểu chủng viện An Ninh, cha hằng mơ ước sao cho công cuộc truyền giáo mang lại kết quả tối ưu, và cha đi đến kết luận: Không gì bằng phương thế cầu nguyện. Cha như thấy trước điều Đức Phanxico xác quyết sau hơn một thế kỷ: “Không có sự cầu nguyện thì mọi hoạt động của chúng ta có nguy cơ vô hiệu quả và sứ điệp của chúng ta trở thành trống rỗng” (EG số 259).
Thế là từ năm 1912, cha bắt đầu cưu mang một dòng chiêm niệm cho người Việt, phái nam. Sự cưu mang này kéo dài trên sáu năm, với bao ngập ngừng về phía cha, đặc biệt về phía Đấng Bản quyền. Cuối năm 1917, Đức Cha Allys, giám mục giáo phận Huế bằng lòng cho cha Denis thử. Nhưng ở đâu? Trong lúc đôn đáo tìm chỗ lập dòng, thì cụ thượng thư Nguyễn Hữu Bài, thể theo lời xin của Đức Cha Allys, bằng lòng dâng một cây số vuông trong đất Phước Sơn, muốn chọn chỗ nào cũng được, trừ những nơi đã khai khẩn rồi (HT tr 109). Đối với cha Denis, đó là món quà tình thương của Cha trên trời! Và niềm vui của cha sẽ vỡ tràn, lúc đôi chân đạp trên ngọn đồi 33 mét cao hơn mặt biển. Có sông lượn quanh trông thật hữu tình. Thế là Phước Sơn đã thành hình trong lòng cha Denis chiều ngày 5-7-1918 (x. HT tr 111). Như đứa con ngoan, cha giáo Denis Thuận “đã vào La Vang viếng Đức Mẹ, ký thác cho Mẹ lành, xin Mẹ ban ơn phù giúp vì từ nay khởi sự bước vào thời cực kỳ cam go” (HT tr 111).
Đúng như Cha linh cảm: ra đi lập dòng một thân một mình, với chú đệ tử nhà quê, trên vai chỉ có một đôi gánh, đặt hết gia tài của Cha. Nơi Cha, cái vĩ đại nhất là một con tim bừng cháy ngọn lửa yêu mến các linh hồn! Với ý chí sắt đá, cha vượt qua những lời chê bai của các đấng bậc đạo đời. Với lòng tín thác, cha giang tay hát bài Magnificat khi ngọn lửa thiêu rụi ngôi nhà tranh vách đất đầu tiên của cha, cha coi đó như cơ hội để sống thanh thoát. Sau biến cố ấy, cha tâm sự với Bà kế mẫu: “Bây giờ, con không còn bị cám dỗ mà nói: sách “của con”, bàn viết “của con” cái dao ‘của con’ nữa…Vạn tuế đức khó nghèo! Sau nếu Chúa ban lại sách vở, quần áo, thuốc men, thì thảy là của chung nhà dòng. Dầu vậy, chúng con không mất sự bình an vui vẻ. Bị rủi ro như thế chỉ là dấu Cha nhân hậu tỏ lòng thương con cái. Chúng con hằng ngợi khen Chúa và cám ơn Ngài luôn…Chúa là ông chủ tốt nhất hạng!” (HT tr 158).
Cuộc thử thách lớn nhất đến với cha trong thời điểm này, có lẽ là lệnh Đức Cha truyền dời nhà dòng đi Ngân Sơn. Dĩ nhiên cha rất buồn, nhưng rồi cha phó thác với lòng tuân phục, cha sẵ sàng bỏ tất cả ở Phước Sơn để đi Ngân Sơn. May thay, các Bề trên đã nhận ra thánh ý Thiên Chúa nên cho cha tiếp tục công trình đã khởi sự!
Thế rồi lúc no hay lúc đói, cha luôn tạ ơn Chúa: “Lẽ ra chúng con chết đói từ lâu rồi, song như một phép lạ Chúa làm cho chúng con hằng được no ấm trong cánh tay Ngài. Hôm nay chúng con có đủ mọi sự cần, còn ngày mai, mai lo”. (HT tr 142). Cha Denis hẳn đã thuộc bài Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng Matthêu 6, 25-34!
Nếp sống đan tu Phước Sơn quả thật muốn họa lại cảnh gia đình Nazareth của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh cả Giuse: yêu thương, bình dị và vui tươi ! Có lúc cha cảm thấy “vui hết sức vui, con vui đến nỗi con tưởng sau 17 năm ở Việt Nam chưa khi nào con có phước bằng bây giờ” (HT tr 143).
Nơi cha Tổ Phụ, chúng ta thấy hiện rõ ba chữ “luôn” của thánh Phao-lô: “Vui luôn, cầu nguyện luôn, cảm tạ luôn” (1Tx 5, 16-18). Đó là lý do tại sao cha đã chịu đựng được thời tiết khắc nghiệt của miền trung Việt Nam, sự thiếu thốn nơi rừng khô cỏ cháy, nhất là tiêu hao sức lực cho việc xây dựng nếp sống đan tu chiêm niệm. Theo các bậc cao niên, cha Tổ Phụ là cuốn sách sống thánh thiện, là gương mẫu của sự phó thác cho Chúa, ngay cả lúc Ngài sắp ly trần: “Còn phần cha, cha xét: phó mình trong tay Cha Lành là điều tốt hơn cả. Vậy trong chúng con, chớ có ai buồn, chớ có áy náy lo sợ, một đi chung cùng nhau, vui vẻ theo ý Cha chúng ta. Cám ơn Chúa. Cám ơn Đức Mẹ” (Lời Trối)!
Đến đây ta ngộ ra ý nghĩa của lời mời gọi: “Hãy để cho Chúa yêu chúng ta theo cách của Ngài”. Dĩ nhiên, ta hãy theo gương cha Tổ Phụ đáp trả bằng cuộc đời hiến dâng không so đo tính toán!
Ngày nay tu viện Phước Sơn, nơi ướt đẵm mồ hôi nước mắt của Cha Tổ Phụ và thế hệ cha anh tiên khởi, không còn một viên gạch hay một di tích lịch sử nào. Tuy nhiên trên “một cây số vuông” của cụ thượng thư Nguyễn Hữu Bài năm xưa vẫn xanh um một rừng thông và bạch đàn! Người viết bài này đã được phúc đặt chân tới đó, chiều trước ngày áp lễ Đức Mẹ lên trời 2015, cảm thấy tâm hồn như rộn lên niềm khao khát trở về “Quê Cha Đất Tổ”, nhân dịp kỷ niệm Bách chu niên khai lập “Dòng Đức Bà Việt Nam”!
CHÚA QUYẾN RŨ TÔI
VÀ TÔI ĐỂ CHO NGƯỜI QUYẾN RŨ
FM.Minh Tuyển
Sống trong đời, ai ai cũng phải kinh qua nhiều thứ trải nghiệm: vui, buồn, sướng, khổ. Đó có thể là những phút giây khiến tâm hồn ta thơ thới, hân hoan. Đó cũng có thể là những khoảnh khắc khiến lòng ta tê tái. Cuộc sống mang đến cho ta đủ mọi cung bậc cảm xúc: cay, đắng, ngọt, bùi.
Đối với những người sống đời thánh hiến, có thể nói rằng, khoảnh khắc họ lắng nghe tiếng Chúa mời gọi là một khoảnh khắc mang tính bước ngoặt. Gọi là bước ngoặt vì nếu họ đáp lời xin vâng để theo đuổi tiếng gọi của Chúa tức là họ đã chính thức bước vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm: trải nghiệm những cung bậc cảm xúc trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian.
CHÚA QUYẾN RŨ TÔI
Hành trình ơn gọi sống đời thánh hiến của mỗi người có thể khác nhau, nhưng tất cả đều chung quy ở một điểm: đó là cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa và muốn đáp trả lại tình yêu cao vời ấy. Như vậy, Thiên Chúa luôn là người đi bước trước để mời gọi, để lôi cuốn con người vào mối tình muôn thuở với Ngài. Và để thực hiện điều ấy, Thiên Chúa bắt đầu quyến rũ như lời ngôn sứ Hôsê: “Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình” (Hs 2, 16).
Lật lại những trang Tin Mừng, Chúa tuyển chọn các môn đệ theo cách thức rất lạ. Với các môn đệ đầu tiên, theo lời giới thiệu của Gioan Tiền Hô: “Đây là Chiên Thiên Chúa”, các ông liền đi theo Đức Giêsu. Họ đã đi theo Người và “đến mà xem” nơi Người ở (x. Ga 1, 35-39). Ông An-rê – một trong hai môn đệ đã đi theo Đức Giêsu hôm ấy – lại giới thiệu Đức Giêsu cho em mình là ông Simon. Để rồi khi Đức Giêsu đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, Ngài cất tiếng gọi “hãy theo Thầy”, hai ông liền bỏ mọi sự mà đi theo. Cũng cách thức ấy, Chúa đã lôi kéo được các ông Gioan và Giacôbê (x. Mt 4, 18-22), Philipphê và Nathanael (x. Ga 1, 43-49), Matthêu (x. Mc 2, 13-14),… Cách thức Chúa gọi các ông xem ra rất đơn giản: chỉ bằng một câu mời gọi ngắn gọn, không bóng bẩy, không hoa mỹ, không hứa hẹn điều gì về một tương lai tươi sáng. Điều đó chứng tỏ nơi Người có một sự cuốn hút, một sức quyến rũ đến kỳ lạ. Sức quyến rũ không đến từ vẻ bề ngoài hay do tài ăn nói, nhưng đến từ trong tâm khảm con người Giêsu. Sức quyến rũ ấy mạnh đến nỗi các ông dám từ bỏ tất cả để “lập tức” đi theo Người (x. Mt 4, 20).
Phần chúng ta, có người nhận ra mình có ơn gọi khi nhìn thấy gương sáng nơi các linh mục và tu sĩ. Người thì muốn bước theo Chúa để theo đuổi lý tưởng Phúc Âm. Có người theo Chúa khi nhìn vẻ duyên dáng của các nữ tu trong bộ tu phục đẹp. Hoặc có người bước vào đời tu chỉ vì đời tu có những thứ mình thích như thể thao, học thức hoặc địa vị… Chúa có muôn vàn cách để lôi kéo người ta đi theo Ngài. Làm thế nào để hiểu cho thấu ơn gọi, làm thế nào để lý giải tiếng Chúa kêu mời trong tim? Vì thế, có thể nói rằng ơn gọi là mầu nhiệm, là bí mật giữa Thiên Chúa và người mà Ngài tuyển chọn. Cũng như các môn đệ xưa, người bước theo ơn gọi dâng hiến là người cảm nhận được nơi Chúa một lời mời gọi đầy lôi cuốn, một sức quyến rũ mạnh mẽ kéo họ vào cuộc. Sự quyến rũ ấy được Chúa tỏ ra với những cách thức khác nhau. Nhưng chung hết, tất cả đều là những hương vị dịu ngọt của tình yêu thuở ban đầu. Những năm tháng đầu bước vào đời tu, người ứng sinh nhìn thấy biết bao cái đẹp trong “thiên đàng tại thế” này. Mọi thứ luôn chứa đựng trong nó một vẻ đẹp thuần khiết, các giờ kinh nguyện sốt sắng, các buổi lao tác hăng say, ai ai trong nhà dòng cũng đều hiền lành và thánh thiện… Họ xem thấy những điều ấy và chấp nhận ở lại. Và một khi họ đã chấp nhận ở lại để theo đuổi ơn gọi, Chúa sẽ tỏ mình ra cho họ.
TÔI ĐỂ CHO CHÚA QUYẾN RŨ
Không biết hai môn đệ đến với Đức Giêsu theo lời giới thiệu của Gioan Tiền Hô đã xem thấy gì. Tin Mừng đã không nói tới điều ấy. Nhưng có thể chắc chắn rằng, các ông đã nhìn thấy một con người Giêsu một cách chân thật nhất: không nhà, không cửa, không chỗ tựa đầu (x. Mt 8, 20). Đó là chính con người Giêsu. Đó là chính Thiên Chúa làm người. Có thể ban đầu các ông bước theo Chúa với biết bao mộng ước thời trai trẻ. Những mộng ước ấy có thể là những hoài bão mà lâu nay các ông hằng ấp ủ trong lòng, nay các ông muốn được hiện thực hóa nơi con người Giêsu này.
Sự thật là gì? Bước theo Chúa là bước trên con đường khổ giá đầy gai góc, đầy lệ rơi. Bước theo Chúa là chấp nhận đánh đổi tất cả như điều kiện mà Chúa đã đặt ra cho những ai muốn đi theo Người: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Nào có gì khó khăn để từ bỏ cho bằng từ bỏ chính bản thân mình, bỏ đi cái tôi ích kỷ, bỏ đi cái tinh thần yếu đuối, nặng nề. Thế mà ta vẫn thấy hầu hết các môn đệ vẫn trung thành với Chúa Giêsu tới cùng dẫu có bao phen các ông sa ngã vì yếu đuối. Chính điều đó nói lên một chân lý: nơi Người có một sức quyến rũ mạnh mẽ đến độ các môn đệ dám chấp nhận đánh đổi tất cả để theo và để trung thành với Người.
Người ứng sinh sau một thời gian tìm hiểu sẽ dễ dàng nhận thấy đời tu không còn đẹp như mơ nữa. Kiếp người mỏng dòn yếu đuối làm sao có thể dễ dàng thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩn của kiếp trần ai: đi tìm danh vọng, lạc thú, quyền lực. Có nhiều hình thức khác nhau của đời sống thánh hiến, nhưng không có hình thức nào mà người theo đuổi nó không phải trải qua đau khổ, không phải bước đi trên con đường thập giá. Đó là sự thật.
Nhìn về kinh nghiệm của ngôn sứ Giêrêmia, ta có thể dễ dàng thấy rõ điều này:
“Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã quyến rũ con,
và con đã để cho Ngài quyến rũ.
Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.
Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con.
Mỗi lần nói năng là con phải la lớn,
phải kêu lên: “Bạo tàn! Phá hủy!”
Vì lời ĐỨC CHÚA mà con đây bị sỉ nhục và chế diễu suốt ngày.
Có lần con tự nhủ: “Tôi sẽ không nghĩ đến Người,
cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa”.
Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng mãi trong tim, âm ỉ trong xương cốt.” (Gr 20, 7-9)
Giêrêmia đã được Thiên Chúa tuyển chọn khi ông còn ở trong dạ mẹ. Thiên Chúa đã thánh hóa ông để ông trở thành một ngôn sứ của Người. Dẫu rằng ông có sợ hãi và chối bỏ vì tuổi trẻ và không có khiếu ăn nói, nhưng Thiên Chúa, bằng chính tình thương quan phòng của Người, đã không cho ông cơ hội chối từ (x. Gr 1, 5-10). Chính Giêrêmia đã phải thừa nhận điều ấy khi nói: “Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng”. Động từ “để cho Ngài quyến rũ” nói lên một sự tín thác vô hạn của Giêrêmia vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu, và có tình yêu nào mạnh mẽ cho bằng tình Chúa thương con người. Như thế, ta không có gì ngạc nhiên khi Giêrêmia bị thua cuộc trong tình yêu ấy, bởi chính Thiên Chúa đã lấy tình yêu làm vũ khí của Người. Đó là cái “dại” của ông – một cái dại của tình yêu, một cái dại có tính bước ngoặt bởi ông đã bị tình yêu Chúa quyến rũ. Chấp nhận tình yêu cũng là chấp nhận bước vào thử thách. Bị quyến rũ vì tình yêu là chấp nhận đánh đổi cả phận người.
Khi đáp lại tình yêu ấy, Giêrêmia đã phải gánh chịu biết bao đau khổ khi ông nói nhân danh một sứ mạng đến từ Thiên Chúa. Sứ mạng này đòi hỏi nơi ông một sự dấn thân. Sự dấn thân của ông, nhiệt huyết của ông vấp phải quá nhiều thử thách và chống đối: ông trở thành trò cười cho thiên hạ diễu cợt và phỉ báng. Người ta không tin lời ông, không đón nhận lời ông như những sấm ngôn đến từ Đức Chúa. Những chống đối ấy không phải ngày một ngày hai, nhưng là những chống đối mang tính tiệm tiến: mỗi ngày một nhiều hơn.
Rồi cái mỏng dòn của kiếp người lại trỗi dậy. Bao thử thách nghiệt ngã mà cuộc đời dành cho Giêrêmia như muốn quật ngã ý chí của ông: “Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa”. Có dễ dàng không khi cố gắng quên đi tình yêu một khi đã bị nó quyến rũ? Từ bỏ dễ đến thế sao khi tiếng gọi đã chạm thấu vào tim? Sự dằn vặt trong tâm trí Giêrêmia như một vết cắt sâu vào tim làm cho cõi lòng ông luôn phải băn khoăn thổn thức. Quả thực tình yêu của Thiên Chúa là một thứ gì đó quá mãnh liệt khiến cho con người một khi đã cảm nếm thì luôn phải khát mong. Tình yêu ấy cứ như một ngọn lửa “bừng mãi trong tim, âm ỉ trong xương cốt”, nó thiêu đốt Giêrêmia nhưng cũng cho ông một nghị lực. Nghị lực ấy làm cho ông luôn trung tín với Thiên Chúa. Từ kinh nghiệm về đau khổ, Giêrêmia đã có được kinh nghiệm gắn bó với Thiên Chúa.
Sống trong đời sống thánh hiến, người tu sĩ cũng được Thiên Chúa cho cảm nếm sự ngọt ngào bằng tình yêu của Ngài. Chỉ có tình yêu mới có sức mạnh kéo ta đến với Chúa. Thế nhưng tình yêu nào mà không phải trải qua thử thách. Con đường Chúa mời gọi ta theo Ngài là con đường của khổ hạnh, đắng cay, con đường của thập giá. Ta không thể cứ ngồi đấy nếm mãi thứ tình yêu dịu ngọt trong khi người ta yêu đã cất bước lên đường. Ta phải cùng lên đường với Ngài để vượt qua mọi nguy khó.
Lắm lúc trong đời sống tu trì, ta bỗng thấy mình thật lẻ loi. Đó là khi ta phải đối mặt với những thực tại trần gian: hiểu lầm của bề trên, những nghi kỵ của anh chị em đồng tu, những thách đố của đời sống cộng đoàn hay chỉ đơn giản là ta phải đối mặt với những đớn hèn nơi bản thân mình cả ngoài thể xác lẫn trong tâm hồn. Những thực tại ấy như muốn gào thét, xô đẩy ta đến với những bến bờ của tuyệt vọng. Hơn nữa, đó không phải là một cuộc chiến đấu mau qua. Bao lâu còn sống trong thân xác này, ta còn phải đối mặt. Thế thì tình yêu kia đâu rồi, người yêu ta đâu rồi? Ta có cảm giác như Thiên Chúa cũng đã ruồng bỏ ta rồi. Cảm giác bị Thiên Chúa ruồng bỏ luôn là một trong những cảm giác, một trong những kinh nghiệm đau đớn nhất của đời tu. Những tháng ngày tươi đẹp trong tình yêu thưở ban đầu nay đâu còn nữa. Những ngày phía trước sao chỉ là một cõi mù mịt không nhìn thấy lối ra. Tất cả có thể đánh gục ta nếu ta không kiên vững, không còn thiết tha bám víu vào một tình yêu mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho ta.
Đó cũng chính là lúc ta phải xác định lại rằng: tôi được tuyển chọn và kêu gọi do tình yêu và cho tình yêu. Lời mời gọi ấy thật ngắn gọn như lời Chúa mời gọi các môn đệ xưa: “Hãy theo Thầy”. Tuy ngắn gọn nhưng lại mang đầy ý nghĩa. Hãy theo Thầy để Thầy ở đâu thì các con cũng được ở đó. Hãy theo Thầy vác thập giá và sau này được cùng Thầy hưởng phúc vinh quang. Như ngôn sứ Giêrêmia, nếu thật sự ta đã được Thiên Chúa đụng chạm đến bằng chính tình yêu của Người và ta đã mạnh dạn đáp lại tình yêu ấy, thì nó cứ mãi như ngọn lửa thiêu đốt trong tim, âm ỉ trong xương tủy. Ta sẽ không thể lẩn tránh, không thể chối từ. Ta cần có tâm tình như Giêrêmia, đó là tín thác một cách vô điều kiện vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Chính Người, vâng chính Người, sẽ làm cho ta điều Người muốn vào đúng lúc đúng thời.
KẾT
“Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31, 3). Lời của ngôn sứ Giêrêmia như muốn nhắc nhở chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã, đang và vẫn sẽ mãi yêu thương chúng ta – những con người yếu đuối. Chính vì vậy mà Ngài sẽ không ngừng quyến rũ, sẽ không ngừng mời gọi ta đến với Người. Đến với Người, đồng hành với Người là chấp nhận cùng Người bước đi qua những thăng trầm biến đổi, những thử thách gian lao của cuộc đời này. Và dẫu cho những thứ đau khổ ấy có gian lao đến đâu đi nữa, hãy đặt nơi Người lòng tín thác, niềm cậy trông. Hãy cứ để cho Thiên Chúa dùng ta như khí cụ của Người. Hãy cứ để Thiên Chúa quyến rũ. Người sẽ không thể làm ngơ, nhưng sẽ cùng với ta tiến bước.
TÌNH YÊU THUỞ BAN ĐẦU
FM. Gioan Tân_Đan viện Thiên Phước
Trong sách khải huyền, Thiên Chúa đã khen ngợi Hội thánh Ephêsô nhiều điều, nhưng Ngài cũng trách họ “đã để mất tình yêu thuở ban đầu” (Kh 2, 4). Nên Ngài kêu gọi họ hãy hối cải và làm những việc đã làm thuở ban đầu (Kh 2, 5), nếu không cây đèn sự sáng sẽ bị lấy đi khỏi họ. Qua đây chúng ta nhận thấy, vấn đề chính không phải là chúng ta khởi đầu như thế nào, nhưng là sự kiên trì và lòng trung thành của chúng ta như thế nào mới là điều quan trọng. Người sống đời thánh hiến là người đã nghe và cảm nghiệm được tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa và họ dấn thân đáp lại tình yêu đó một cách trọn vẹn, tuyệt đối và vô điều kiện (x. VC 17) bằng cách hiến trọn con tim không chia sẻ (x. 1Cr 7, 34) để bước theo Đức Kitô qua việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm. Nhưng giữ mãi được ngọn lửa nồng nàn của tình yêu thuở ban đầu và trung tín cho đến cùng trong ơn gọi quả là một thách đố. Vậy chúng ta xác tín rằng, ơn gọi thánh hiến trước hết là ân ban của Thiên Chúa cho Giáo hội nói chung và cho mỗi cá nhân sống đời thánh hiến nói riêng, tiếp đến mới là lời đáp trả của người được Thiên Chúa mời gọi. Thánh Phaolô đã xác tín: “Những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính” (Rm 8, 30). Tin tưởng phó thác vào tình yêu trung tín của Thiên Chúa, chúng ta hãy lấy tình yêu đáp trả tình yêu và dùng những phương thế tự nhiên lẫn siêu nhiên mà Giáo hội và Hội dòng cung cấp, chúng ta can đảm bước theo Đức Kitô trên con đường Ngài đã đi.
Trong bài chia sẻ này, tôi xin đề cập đến hai mục chính: Tình yêu đáp lại tình yêu và phương thế để người tu sĩ không những chỉ giữ được vị nồng của mối tình thuở ban đầu với Đấng mà họ đã kết ước qua việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm, mà còn được “biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô” (x. Rm 8, 29), cho “đến tầm vóc viên mãn của Thân Thể Người” (x. Ep 4, 13).
1. Tình yêu đáp trả tình yêu
Đời sống thánh hiến trong Giáo hội “là một ân huệ Thiên Chúa Cha ban cho Giáo hội Người qua trung gian của Chúa Thánh Thần” (VC 1). Và “nó cũng thuộc về đời sống và sự thánh thiện của Giáo Hội” (GH 44). Vì thế, qua mọi thời, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, trong Giáo hội luôn có những người đáp lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa “đã chọn con đường đặc biệt để bước theo Đức Kitô, sequela Christi, để tự hiến cho Chúa với một con tim ‘không chia sẻ’” (x. 1Cor 7, 34; VC 1). Sở dĩ người tu sĩ có thể làm được điều đó vì Thiên Chúa đã yêu họ trước. Bước đầu là tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu chúng ta đến nỗi đã ban Con Một cho chúng ta (Ga 3,16; 1Ga 4,10) để hòa giải chúng ta với Ngài (2Cr 5, 18-19 ), nhờ đó mà chúng ta được “gọi là con Thiên Chúa” (1Ga 3, 1; Rm 8, 14-16); được làm em của Đức Giêsu Kitô (x. Cl 1, 18); và được đồng thừa kế với Người (Rm 8, 17). Thêm vào đó, Đức Giêsu Kitô còn coi chúng ta là bạn nghĩa thiết với Ngài (Ga 15, 14-17), và đã hiến mạng sống mình vì chúng ta (x. Ga 15,13). Bước tiếp theo mới là sự đáp trả đầy lòng yêu mến đối với tình yêu Thiên Chúa. Nếu ‘chúng ta yêu mến’ đó là ‘Người đã yêu chúng ta trước’ (1Ga 4, 10.19). Điều đó có nghĩa là nhìn nhận Người yêu ta với cái ý thức sâu đậm đã làm cho thánh Phaolô thốt lên: “Đức Ki-tô đã yêu tôi và đã hiến mạng sống cho tôi’ (Gl 2, 20)” (x. Huấn thị XPLTĐKT, số 22). Chính “kinh nghiệm về tình yêu nhưng không của Thiên Chúa mang tính cách thâm sâu và mạnh mẽ đến nỗi họ hiểu rằng mình phải đáp trả bằng việc hiến dâng cuộc đời vô điều kiện, bằng cách trao dâng mọi sự cho Người, ngay bây giờ và trong tương lai” (DT 17).
Người tu sĩ đáp lại tình yêu Thiên Chúa bằng cách hiến dâng “thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12, 1), qua hành động tuyên khấn trọng thể cách công khai các lời khuyên Phúc Âm. Khi làm thế, họ biểu lộ “nguyện ước minh nhiên được hoàn toàn nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô” (x. VC 18), để ngày càng trở nên giống Người hơn, hầu có thể diễn tả lại cho thế giới những khuôn mặt khác nhau của Chúa Kitô tùy theo ơn gọi và đặc sủng của ơn gọi mà họ đang sống (x. VC 29, 32).
Giây phút linh thiêng nhất của cuộc đời người tu sĩ là đọc lời tuyên khấn. Đó là một khởi đầu cho việc dấn thân quyết liệt “lấy tình yêu đáp lại tình yêu”, vì họ đã cảm nghiệm được tình yêu vô biên và giàu lòng xót thương của Thiên Chúa (x. Hs 2, 18-20). Từ đây, họ chọn Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí và không có gì có thể tách họ ra khỏi mối tình này (x. Rm 8, 35-39). Từ nay, họ “không lấy gì hay quí trọng gì hơn tình yêu của Đức Kitô” (Tu luật Thánh Biển Đức 4, 21). Đó là ý nghĩa và mục đích của lời khấn như thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Các lời khấn của tu sĩ có mục tiêu là thể hiện chóp đỉnh của tình yêu: một tình yêu hoàn toàn dành cho Đức Kitô dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, và nhờ Đức Kitô mà tiến dâng lên Chúa Cha” (Gioan Phaolô II ngày 26/10/1994).
Mặc dầu ý thức thân phận yếu hèn của mình và những khó khăn đang chờ phía trước, nhưng với sự tin tưởng phó thác vào ân sủng có sức biến đổi của Thiên Chúa và tình yêu của Ngài, người tu sĩ can đảm dấn bước trên con đường theo Chúa. Bên cạnh đó, họ cũng phải biết nỗ lực không ngừng canh tân bản thân và chuyên cần sử dụng những khí cụ tự nhiên lẫn siêu nhiên mà Chúa và hội dòng cung cấp để không những chỉ luôn giữ mãi được “tình yêu thuở ban đầu” mà còn ngày được “biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô” (x. Rm 8, 29), cho “đến tầm vóc viên mãn của Thân Thể Người” (x. Ep 4, 13).
2. Những Phương Thế
a. Biết được mục đích của đời sống thánh hiến
Khởi đầu đời tu, có thể chúng ta có nhiều mục đích, dự tính và cả những tham vọng nữa. Thế nhưng, trong suốt thời gian được huấn luyện, và trước lúc tuyên khấn trọn đời, chúng ta phải xác định được mục đích chính của đời tu là gì. Xác tín mục đích mà chúng ta tìm kiếm trong đời tu không phải danh vọng, vật chất, như được khấn trọn đời; được chịu chức thánh…, nhưng đó là một Con Người- Đức Giêsu Kitô. Ngài là cùng đích chúng ta nhắm tới, là kho tàng chúng ta tìm kiếm và bán tất cả để có được (x. Mt 13, 44-46). Do đó, “thực tâm tìm Chúa” (Tu luật thánh Biển Đức 58, 7), và “Không tìm kiếm hay quí trọng điều gì hơn Chúa Kitô” (Tu luật thánh Biển Đức 4, 21), phải là mục đích chính của mọi ơn gọi tận hiến. Công Đồng Vatican II dạy rằng: “Những ai khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm đều phải tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, Đấng đã yêu thương chúng ta trước (x. 1Ga 4, 10)” (DT 6). Cùng với thánh Phaolô, chúng ta phải coi mọi sự là “thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu”, sánh với điều ấy, người sống đời thánh hiến không ngần ngại coi mọi sự như “đồ bỏ, để giành được Đức Kitô” (Pl 3, 8; VC 18). Có vậy đời tu chúng ta mới được triển nở và hạnh phúc.
Chỉ một mình Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa và là con người bằng xương bằng thịt như chúng ta, Đấng đã yêu thương đến cùng và đã thí mạng sống mình vì chúng ta (x. Gl 2, 20), Đấng luôn trung tín dù chúng ta bất tín (x. 2Tm 2, 13), mới có thể giúp chúng ta trung tín đến cùng với tình yêu thuở ban đầu mà chúng ta đã thề ước với Ngài trong ngày tuyên khấn. Chỉ tình yêu của Ngài mới giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn trong đời sống để chu toàn sứ vụ Chúa trao một cách hăng say và đầy sáng tạo. Huấn Thị Phát Xuất Lại Từ Đức Kitô số 22 khẳng định: “Chỉ khi ý thức mình được yêu thương vô cùng mới có thể giúp chúng ta vượt thắng mọi khó khăn cá nhân hay của Hội dòng cơ cấu. Người thánh hiến không thể có tính sáng tạo, có khả năng canh tân Hội dòng và mở ra những con đường mục vụ mới nếu họ không cảm thấy được yêu mến với tình yêu ấy. Chính tình yêu ấy làm cho họ trở nên mạnh mẽ và can đảm, có thể dám làm mọi sự”.
b. Sống đúng căn tính ơn gọi của mình
Để có thể trung thành với lời mình khấn hứa, với giao ước và tình yêu thuở ban đầu, người tu sĩ bắt buộc phải biết và sống ba điều: Tôi là ai? Căn tính đời sống thánh hiến nói chung và căn tính ơn gọi riêng biệt của hội dòng mà mình đang sống.
* Tôi là ai? Tôi đến đây để làm gì?
Là người sống đời thánh hiến chúng ta xác tín rằng, mặc dầu không phải là người thánh thiện, tốt lành hơn người khác, nhưng đã được Thiên Chúa mời gọi, tuyển chọn và thánh hiến cho một sứ vụ (x. VC 22). Sứ vụ của chúng ta phải là men muối và ánh sáng cho đời (x. Mt 5, 13-16.13, 33). Chúng ta phải có khả năng phân định, tự lập và tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Chúng ta cần luôn tự vấn xem tôi đến đây để làm gì? Thường xuyên tự vấn về ý hướng của mình là phương thế giúp chúng ta trung thành với ý hướng và tình yêu thuở ban đầu: “Nếu người tu sĩ muốn trung thành theo Chúa, thì trong suốt thời gian tu hành luôn phải đặt lại vấn đề ý hướng, như thánh Bênađô, dù là bậc thánh nhân và là đan viện phụ cũng luôn tra vấn chính mình: Hỡi Bênađô, anh đến đây để làm gì?” (Bernarde, ad quid venisti?)” (Antôn Ngô Văn Vững, p.28).
* Căn tính đời sống thánh hiến
Theo Antôn Ngô Văn Vững thì căn tính đời tu là “sống trọn vẹn chương trình Phúc Âm bằng một cuộc sống tận hiến”[1] . Chính vì thế Công Đồng Vaticanô II đã nhắc nhở các cộng đoàn dòng tu phải lấy Phúc Âm làm qui luật tối thượng[2] . Và chỉ trong việc hiến mình cho Thiên Chúa qua việc bước theo Chúa Kitô trong tình yêu và phục vụ vô điều kiện mà đời thánh hiến tìm thấy căn tính của mình (Huấn Thị Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô, số 13).
* Căn tính ơn gọi riêng biệt của hội dòng mà mình đang sống
Chúng ta phải biết căn tính và đặc sủng của ơn gọi chúng ta đang sống, kiên định trong căn tính, đặc sủng và sứ mạng ơn gọi đó đòi hỏi. Giáo Hội đòi hỏi chúng ta “phải trung thành với đoàn sủng sáng lập và với gia sản thiêng liêng được gầy dựng lên tiếp sau. Lý do mà Giáo Hội đưa ra là Việc trung thành với linh ứng của các đấng sáng lập,… giúp tìm lại và sống nhiệt thành những yếu tố cốt yếu của đời thánh hiến”[3] . Chính vì thế mà người tu sĩ phải biết rõ căn tính, đặc sủng và sứ vụ của hội dòng mình, tránh du nhập những tập tục “ngoại lai” từ những ơn gọi khác vào trong ơn gọi của mình. Bởi vì có những điều rất tốt đối với ơn gọi này, nhưng lại không thích hợp và không có tính cách xây dựng đối với ơn gọi khác. Đó là điều thánh Phaolô đã viết: “Được phép làm mọi sự; nhưng không phải mọi sự đều có ích. ‘Được phép làm mọi sự’; nhưng không phải mọi sự đều có tính cách xây dựng” (1Cr 10, 23). Tốt nhất chúng ta hãy biết trân trọng luật dòng vì “Càng trân trọng luật dòng, những người tận hiến càng có những tiêu chuẩn chắc chắn để tìm ra những phương thức thích đáng để làm chứng, đáp ứng những đòi hỏi của thời đại mà không xa rời linh ứng nguyên thủy” (PC 37).
c. Trung thành với đời sống cầu nguyện
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Xa mặt, cách lòng”. Chúng ta khó có thể tạo được mối liên hệ thân mật, sự hiểu biết lẫn nhau giữa cha mẹ, vợ chồng và con cái khi chúng ta không thường xuyên sống với nhau, dùng bữa và trò chuyện với nhau. Cũng vậy, làm sao chúng ta có được mối liên hệ thâm tình với Chúa Giê-su nếu chúng ta không thường xuyên hiện diện, chuyện trò, lắng nghe, chiêm ngưỡng Ngài và để cho Ngài nhìn ngắm chúng ta?
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đặt đời sống thánh hiến trong khung cảnh cuộc hiển dung của Chúa trên núi và đặt lời của thánh Phêrô trên môi miệng của người sống đời thánh hiến “chúng con ở đây, thật là đẹp” (Mt 17, 4). Theo ngài: “Những lời ấy…diễn tả mạnh mẽ đặc tính triệt để của ơn gọi vào đời tận hiến: đối với chúng con, thật là đẹp khi được ở với Thầy, khi được hiến mình cho Thầy, khi dồn hết cuộc đời chúng con cho một mình Thầy” (VC 15). Cùng cái nhìn đó, Đức Thánh Cha Phanxicô khuyến khích chúng ta hãy ở lại với Chúa Giêsu; hãy để cho Ngài ngắm nhìn chúng ta; và hãy để cho lửa tình yêu của Ngài sưởi ấm tâm hồn chúng ta (x. Giáo Hội Giàu Lòng Thương Xót, tr. 30).
Chính đời sống cầu nguyện chung cũng như riêng của người tu sĩ là ngọn lửa sưởi ấm tình yêu thuở ban đầu với Đức Kitô, Đấng Lang Quân. Trong cầu nguyện, họ “hướng những khát vọng lên Chúa Cha, hàn huyên tâm sự với Người…, và trao tặng Người trái tim nồng nàn tình yêu” (Huần từ của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Sống cầu nguyện trong đời sống thánh hiến, ngày 04/01/1995). Nên người tu sĩ phải “dành riêng thường xuyên, mỗi ngày, những thời gian thích hợp để tiến sâu vào việc đàm thoại trong thinh lặng với Người, Đấng mà họ biết rằng họ được yêu mến, để chia sẻ chính cuộc sống họ với Người và để đón nhận những soi sáng hầu tiếp tục cuộc hành trình mỗi ngày. Đó là một sự thao luyện đòi hỏi sự trung thành…” (Huấn thị xuất phát lại từ Đức Ki-tô, số 25).
Chúng ta không thể giữ được “tình yêu thuở ban đầu” nếu chúng ta không trung thành với đời sống cầu nguyện chung cũng như riêng. Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã từng nói: “Con ngạc nhiên vì sao nhiều người mất ơn Chúa gọi,…? Trong bao nhiêu lý do, luôn luôn có một lý do chính: họ bỏ cầu nguyện từ lâu” (Đường Hy Vọng, số 125). Công Đồng chung Vatican II đã khuyên các tu sĩ phải trung thành cử hành phụng vụ của Giáo Hội, và phải chuyên cần đọc và suy niệm Kinh Thánh: “Tu sĩ của các hội dòng phải cần mẫn luyện tập tinh thần cầu nguyện và cả sự cầu nguyện, múc lấy nơi nguồn mạch đích thực của nền tu đức Kitô giáo. Trước hết, hằng ngày, phải có quyển Thánh Kinh trong tay, để nhờ đọc và suy gẫm mà học được những ‘Kiến thức siêu việt về Chúa Giêsu Kitô’ (Pl 3,8). Phải theo tinh thần của Giáo Hội mà đem hết cả tâm hồn, miệng lưỡi chu toàn các Lễ nghi Phụng vụ, nhất là Mầu Nhiệm Thánh Thể, lại phải nuôi dưỡng đời sống tu đức bằng nguồn mạch phong phú ấy” (DT 6b; x. Gh 26c, 27c; LM 14a, 18c, DT 8b). Tóm lại, để có thể giữ mãi được vị nồng của “tình yêu thuở ban đầu”, chúng ta cần cảm được “cái nhìn thẩm thấu tràn đầy tình yêu” (Gioan Phaolô II) của Chúa Giêsu qua đời sống cầu nguyện và chiêm ngưỡng của chúng ta.
Kết luận
Đời thánh hiến là một sự đáp trả tiếng mời gọi thần linh của Đức Kitô: “Hãy theo Tôi” (Nhưng trước hết đó là một quà tặng mà Thiên Chúa ban cho Giáo hội nói chung và từng người sống đời sống thánh hiến nói riêng. Thiên Chúa đã yêu thương, kêu gọi và tuyển chọn từng người tu sĩ: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15,13). Họ đáp trả lời mời gọi đó bằng chính tình yêu của họ. Họ đã lấy tình yêu đáp trả tình yêu, bằng cách dâng hiến cho Thiên Chúa “một con tim không chia sẻ” để được thuộc trọn về Người. Sự đáp trả này được cụ thể hóa bằng việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm một cách công khai và được Giáo Hội chuẩn nhận. Dẫu vậy, chúng ta những người sống đời thánh hiến ý thức được thân phận yếu đuối mỏng dòn của mình, chúng ta mang “kho tàng đó trong những bình sành dễ vỡ”. Vì thế, với một lòng tin tưởng phó thác và xác tín rằng, đời thánh hiến là một ân huệ của Chúa Cha ban cho Giáo hội dưới tác động của Chúa Thánh Thần, trước khi là lời đáp trả của chúng ta. Cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng ta hãy dâng lời tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi về hồng ân thánh hiến và hãy dấn thân sống đời thánh hiến bằng cách nhìn về quá khứ với lòng tri ân, sống hiện tại một cách say mê và hướng tới tương lai với niềm hy vọng.
[1] Antôn Ngô Văn Vững, Đời Sống Thánh Hiến theo công công đồng Vaticanô II: Dấu chỉ- Chứng từ- Ngôn sứ, tr 28.
[2] x Công đồng Vaticanô II. DT, số 2a
[3] Thánh giáo hoàng Gioan Phaolo II, tông huấn Vita Consecrata, số 36
THỰC TÂM TÌM CHÚA
M.Mazazello + Goretty_Đan viện Phước Thiên
Lời mở
Có lẽ không ai trong chúng ta phủ nhận một điều là con người sống ở đời này để tìm hạnh phúc. Bằng nhiều cách và nhiều hình thức khác nhau, con người không ngừng đi tìm hạnh phúc cho cuộc sống của mình; khác nhau chăng là quan niệm của mỗi người về hạnh phúc mà thôi. Số đầu tiên của sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo dạy chúng ta rằng: “Con người sống ở đời này để tìm hạnh phúc, và hạnh phúc thật là được nhận biết Thiên Chúa” (x. GL 1). Hoàn toàn không là ngẫu nhiên khi điều kiện đầu tiên mà thánh luật Biển Đức đặt ra để nhận ứng sinh vào đan viện phải là người “thực tâm tìm Chúa” (TL 58, 7). Vì thực tâm nói lên khát khao kiếm tìm, và khao khát kiếm tìm luôn là khởi đầu của tiến trình gặp gỡ.
Để phần nào hiểu hơn việc “thực tâm tìm Chúa”, chúng tôi xin trình bày những điểm sau: Thế nào là thực tâm tìm Chúa? Những dấu hiệu thực tâm tìm Chúa. Những khó khăn và phương thế khắc phục những khó khăn đó.
I. Thực tâm tìm Chúa.
1. Bản chất đời thánh hiến.
Khi nói “tìm Chúa”, chúng ta hiểu rằng tự bản chất con người là thụ tạo duy nhất Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài (x. St 1, 27). Vì thế, con người mang trong mình khát vọng tìm về với Đấng là tình yêu vô biên, tự do và hạnh phúc. Lời mời gọi của Thiên Chúa luôn vang vọng trong tâm hồn con người khiến con người nỗ lực đáp lại lời mời gọi ấy khi tìm kiếm Thiên Chúa. Trong cuộc tìm kiếm ấy, Thiên Chúa luôn đi bước trước: “trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi” (Gr 1, 5). Tìm về Thiên Chúa cũng chính là tìm về cùng đích đời mình, để biết lý do mình hiện hữu.
Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolo II, trong Tông Huấn Vita Consecrata đã định nghĩa về những người sống đời thánh hiến là “những người nam nữ đã chọn con đường bước theo sát Đức Kitô cách đặc biệt” để “ra tay phục vụ Thiên Chúa và anh em” (x. VC 1). Người sống đời thánh hiến thể hiện lòng khao khát kiếm tìm Thiên Chúa nơi trần gian. Chính trong khi quên mình, dấn thân phụng sự Thiên Chúa và phục vụ anh chị em, người tu sĩ vừa gặp gỡ Thiên Chúa, vừa tìm thấy ý nghĩa hạnh phúc đời mình, đồng thời, họ trao tặng hạnh phúc của Thiên Chúa cho anh chị em.
2. Trong môi trường đan tu
Trong khi những hoạt động tông đồ ngày càng làm sáng rõ sứ vụ của Giáo Hội, thì đan sĩ vẫn được mời gọi sống trong nội vi đan viện, để không chỉ “bước theo” Chúa Kitô, mà còn nên đồng hình đồng dạng với Người và nên dấu chỉ Nước Trời cho nhân loại hôm nay. Công Đồng Vaticanô II đã xác định trong sắc lệnh “Đức Ái Hoàn Hảo”, số 7: “Trong những hội dòng hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm, các tu sĩ chỉ nhất tâm phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch và lặng lẽ, trong việc chuyên lo cầu nguyện và hãm mình. Cho dù nhu cầu hoạt động tông đồ có khẩn thiết đi nữa, thì những hội dòng ấy vẫn phải luôn giữ địa vị cao quý trong nhiệm thể Chúa Kitô, trong đó, ‘mỗi chi thể đều có một tác động khác nhau’ (Rm 12, 4)”. Như vậy, đan sĩ chỉ chuyên lo tìm Chúa trong môi trường của mình là cô tịch và lặng lẽ bằng việc cầu nguyện và hân hoan hãm mình. Đan sĩ xác định cho mình nơi chốn để tìm kiếm Thiên Chúa qua lời khấn Vĩnh Cư là nội vi đan viện. Nơi đây, đan sĩ không chỉ tìm kiếm Thiên Chúa ở trong mọi thụ tạo, mà còn được lời mời gọi tham dự vào chính sự sống thần linh của Người. Blaise Pascal, nhà toán học và triết học người Pháp sống vào khoảng giữa thế kỷ 17 đã từng nói: “Nói về chuyện của loài người, ta thường bảo rằng phải hiểu biếtchúng để yêu thích chúng. Nói về chuyện thần thiêng, ta bảo rằng phải yêu mến chúng để hiểu biết chúng”. Kiếm tìm Thiên Chúa trong đời đan tu là một mầu nhiệm, phải yêu mến và tìm kiếm với hết tâm hồn, trí khôn, sức lực mới mong có thể hiểu và mới là tìm kiếm thực sự.
3. Trong sinh hoạt đan tu
Nếu đan sĩ còn để trí lòng mình bị chi phối bởi một thụ tạo nào khác ngoài Thiên Chúa, thì dù có sống trong nội vi, họ cũng không khác gì ngoài thế gian. Vì thế, mọi khoảnh khắc trong ngày sống của đan sĩ đều hướng về Thiên Chúa. Chấp nhận theo Chúa Giêsu là phải dám chấp nhận hệ lụy của thập giá. Không thể chỉ có một Chúa Giêsu dịu dàng bé thơ trong máng cỏ, cũng không thể chỉ có một Chúa Giêsu vinh quang chói lọi trên đỉnh Tabor; nhưng là Chúa Giêsu trọn vẹn trong tất cả, nhất là trên đồi Calve rồi mới đến ngày Phục Sinh. Nếu đan sĩ chỉ muốn tìm kiếm một Chúa Giêsu không có thánh giá, họ sẽ gặp được những thánh giá mà ở đó không có Chúa Giêsu (GH Phanxicô). Đan sĩ được mời gọi để ấp yêu thánh giá mình trong cuộc sống hằng ngày và khiêm tốn đón nhận Chúa muốn nói gì với mình,Chúa cần gì nơi mình trong những biến cố ấy, để rồi vui vẻ thi hành điều Chúa muốn. Đan sĩ thực tâm tìm Chúa vẫn ý thức tội lỗi, yếu đuối và giới hạn của bản thân mình, nhưng họ không dừng lại ở đó, mà bám víu vào ơn Chúa, và cứ thế từng ngày, họ thi hành ý muốn của Chúa trên cuộc đời mình. Đan sĩ luôn tìm Chúa trong tâm tình sám hối, nhưng cũng vẫn phải là người biết “quên đi chặng đường đã qua mà lao mình về phía trước” (Pl 3, 13), sống hài hòa với vạn vật và anh chị em trong an bình nội tâm. Một người chỉ nhất tâm phụng sự một mình Thiên Chúa, dù chỉ ở trong bốn bức tường, họ vẫn kết hiệp với Người, thánh hóa mọi công việc và thời khắc sống của mình.
II. Dấu hiệu của sự thực tâm tìm Chúa.
Tìm kiếm Thiên Chúa là hành vi đức tin được biểu hiện qua những việc làm cụ thể (x. Gc 1, 19). Ở đây, xin dựa Tu Luật thánh Biển Đức chương 58 câu 7 về “cách thức nhận anh em” để tìm ra dấu hiệu của người thực tâm tìm Chúa.
1. Mộ mến thần vụ.
Theo truyền thống, việc cử hành thần vụ vẫn được xem là trọng tâm của đời đan tu. Vì các đan sĩ cử hành thần vụ thay cho Giáo Hội để ca ngợi Chúa, và cầu thay nguyện giúp cho dân Chúa. Lời ca tiếng hát phát xuất từ cõi lòng đan sĩ làm vui lòng Chúa, như lời của vịnh gia: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thỏa” (Tv 103, 34). Có thể nói lúc cử hành thần vụ là lúc đan sĩ chiêm ngắm Chúa và gặp gỡ anh chị em cách thánh thiêng.
Ngày nay giữa một thế giới muốn “nhanh– gọn– nhẹ”, cái gì cũng vội vàng, gấp gáp và dễ thay đổi, hăng say chiêm ngắm Chúa và trung thành trong giờ thần vụ, nhất là đối với các ơn gọi trẻ là cả một nỗ lực “lội ngược dòng” so với dòng chảy của thế gian. Mọi thời khắc của sinh hoạt đan tu cứ diễn ra đều đặn từng ngày trong cô tịch dễ khiến cho những tâm hồn vọng động thấy tẻ nhạt và chán chường. Điều này có lẽ cũng tự nhiên đối với những ơn gọi trẻ. Những người thực sự khao khát Thiên Chúa, thì khao khát ấy sẽ đủ lớn để hướng dẫn họ vượt qua những buồn chán. Đến một lúc nào đó, họ sẽ kinh nghiệm được rằng cầu nguyện cần thiết cho đời sống đan sĩ như hơi thở cần cho sự sống vậy. Đến đây, hẳn đan sĩ Xitô nào cũng nhớ lại lời giáo huấn của Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận về việc sống kết hợp với Chúa: “Mọi sự thế gian thảy đều vô lối, vô ích, chóng qua cả, trừ sự kính mến Chúa và làm tôi Người đáng cho chúng ta chăm lo mà thôi. Vậy, cám ơn Chúa đã kêu gọi chúng ta vào dòng, để lo một việc cao trọng ấy” (DN 107).
2. Mộ mến vâng lời
Vâng phục là yếu tố quan trọng cho đời sống thánh hiến. Điều đó lại càng được nhấn mạnh trong truyền thống và tu luật đan tu. Thánh Biển Đức muốn con cái ngài phải thực thi đức vâng lời mau mắn đến độ “lệnh thầy truyền và việc môn đệ thi hành đều phải hoàn tất mau lẹ như cả hai cùng xong một trật” (TL 5, 9), và “vâng lệnh viện phụ trong mọi điều, cho dù ngài có ngôn hành bất nhất” (TL 4, 61). Vì với Thánh Biển Đức “vâng phục không chậm trễ là bước đầu của đức khiêm tốn, là nhân đức của người không lấy gì quý hơn Chúa Kitô” (TL 5, 1-2). Đó là điều ngài đã rút ra khi chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu, Đấng “dù là Con Thiên Chúa, Người cũng đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5, 7).
Người ta thường hay coi những người dễ vâng lời người khác là những kẻ không có lập trường, thiếu khôn ngoan, hơn là họ biết nhìn nhận những người mau mắn vâng lời là những người khiêm tốn, đơn sơ. Dẫu sao, đó cũng là cách nhìn nhận và đánh giá của người đời; còn với những ai có đức tin thì sự vâng lời hay còn gọi là đức tuân phục sẽ được nhìn nhận trong ánh sáng của đức tin, và như thế, việc thực thi đức tuân phục đối với họ không còn là sự lệ thuộc mà là tự do và tự nguyện. Đan sĩ thi hành lời khấn vâng phục cũng trong chiều hướng ấy.Đan sĩ thấy Chúa Kitô trong mọi sự và nơi mọi người, nên vâng lời Bề trên, vâng lời anh chị em cũng chính là vâng lời Đức Kitô.Tinh thần vâng lời của đan sĩ là không lý giải, không biện minh. Ai cho rằng cách vâng lời như thế là thiếu phán đoán, là không trưởng thành, thì có lẽ người đó còn chưa hiểu đúng và đủ về đức vâng lời. Hãy nhìn vào ơn gọi của Giêrêmia sẽ thấy.Ông đã nói gì trước lời sai đi của Đức Chúa? “Con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói” (Gr 1, 6). Một lý do thật chính đáng để thoái thác. Nhưng thánh ý Chúa thì vượt xa những suy luận của con người. Trong những cái mà dường như là không hợp lý ấy (sai một người còn trẻ, không có tài ăn nói đi làm ngôn sứ) thì quyền năng Thiên Chúa được tỏ bày, “Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi, Ta truyền cho ngươi nói gì ngươi cứ nói, vì Ta ở với ngươi” (Gr 1, 7-8). Phải chăng đây là câu khóa cho mọi thái độ mau mắn thực thi đức vâng lời của những ai sống đời thánh hiến? Lý do duy nhất để ta thực thi mọi lệnh truyền vì biết rằng người ban lệnh cũng như người thi hành luôn Chúa ở cùng. Khi sống lời khấn vâng phục theo đúng đòi hỏi của Tu luật, người đan sĩ sẽ có được kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa, và như vậy, đức vâng phục là dấu chỉ của người thực tâm tìm Chúa và có khả năng tác tạo bình an.
3. Ham chịu sỉ nhục
Ham chịu sỉ nhục là điều mà ngày nay ít được nghe nói đến. Phải chăng vì nó được viếtra trong bối cảnh xã hội thời Thượng Cổ vẫn còn chế độ nô lệ? Phải chăng nó không còn “hợp thời”, bởi chúng ta ngày nay đang sống trong một thế giới văn minh, và trào lưu cá nhân chủ nghĩa? Mặc lòng, nó vẫn tồn tại trong Tu Luật và là điều kiện cần của bất kỳ ai muốn sống đời đan tu theo luật Biển Đức hơn 15 thế kỷ qua. Có lẽ, không ít lần chúng ta phải đối diện với sự chất vấn của người khác, hoặc của bản thân khi chọn một lối sống phải chấp nhận sỉ nhục. Phải chăng chúng ta đang đi thụt lùi so với sự tiến bộ của nhân loại? Chúng ta lý giải thế nào cho sự nghịch lý này?
Thánh Tông đồ Phaolô sẽ cho chúng ta câu trả lời: “Thiên Chúa làm cho mọi sự sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8, 28). Phần chúng ta, dường như chúng ta sẽ không là đan sĩ chân chính nếu không có được tâm tình sống như thánh nhân: “Tôi coi mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hiệp với Người” (Pl 3, 8-9). Thư thứ nhất của thánh Phêrô gợi cho ta thấy hình ảnh của Chúa Giêsu khi sống kiếp phàm nhân: “bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe” (1Pr 2, 23). Họa lại đời sống Chúa Kitô trong cuộc sống mình, đan sĩ đón nhận thái độ khen chê của mọi người với lòng thanh thoát và bình an. Ai đó đã nói rằng: “thật ra trong Nhà dòng, chẳng có ai cố tình sỉ nhục ai cả. Những điều mình coi là bị sỉ nhục đó,chẳng qua vì nó là điều trái ý nghịch lòng của mình mà thôi”. Vậy, ham chịu sỉ nhục cũng có nghĩa là dám từ bỏ ý riêng của mình, điều này cũng liên hệ đến chiều kích khó nghèo của lời khấn. Cha Tổ Phụ còn cho chúng ta một hướng nhìn thật tích cực khi nói: “Bề trên có quở phạt, anh em có khinh chê, đó là thánh giá, là điều mình hằng nâng niu trân trọng. Những kẻ ấy ở trong nhà dòng này vui thích biết mấy” vì “một lần chịu khổ vì Chúa, thì hơn trăm lần làm lành cho thế gian” (DN 126).
III. Những khó khăn và phương thế khắc phục
1. Khó khăn:
Có thể nói khó khăn lúc nào cũng có trong cuộc sống của con người dù ở môi trường nào. Theo Chúa là một hành trình, trên hành trình ấy cũng không ít những khó khăn mà người lữ hành phải đối diện cho đến lúc hoàn tất cuộc hành trình.
* Môi trường
Có lẽ không sai khi người ta nói chưa bao giờ thế ồn ào như hiện nay: ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi trường, ô nhiễm âm thanh. Không nhiều thì ít, điều này vẫn ảnh hưởng đến môi trường sống của đan viện. Trong khi “thinh lặng là yêu sách đời đan tu” (Tl 6), có người lại cảm thấy ngột ngạt khi bước vào sự cô tịch của đan viện. Nhưng sự tĩnh lặng ấy đang có ít nhiều biến đổi. Vì thế, sự cô tịch của không gian sống nơi đan viện phần nào gặp khó khăn.
* Lệch hướng
Bước đầu của đời tu ban ai cũng ôm ấp những lý tưởng thanh cao tốt đẹp, muốn dấn thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Nhưng dần dần, như sách Khải Huyền nói, chúng ta đánh mất “tình yêu thuở ban đầu” (Kh 2, 4), đánh mất lòng nhiệt thành ban đầu đời đan tu, lòng nhiệt thành với Chúa. Hay có khi là nhiệt thành với công việc của Chúa, mặc lòng đó vẫn không phải là Chúa. Chúng ta bắt đầu chệch hướng và tìm sai mục đích. Thay vì tìm Chúa, chúng ta tìm khả năng, tri thức, tiếng tăm, quyền lợi, địa vị cho mình. Bên cạnh đó, tiện nghi và phát triển về đời sống vật chất cũng cần nhắc đến như là một thách đố khi tìm Chúa.
2. Phương thế khắc phục.
Người thực tâm tìm Chúa thấy được cơ hội nên thánh của mình trong những khó khăn xảy đến qua chương trình sống của thánh luật Biển Đức: “Cầu nguyện và lao động”, mặc dù thuật ngữ này mãi đến thế kỷ 19 mới xuất hiện do Viện phụ Maurus Wolters, người Đức. Bỏ qua các lý luận về các “nền thần học cầu nguyện” hay “nền thần học lao động” theo thánh Biển Đức, chúng ta chỉ nhìn châm ngôn ấy trong nhãn quan thế giới ngày nay.
• Cầu nguyện
Nhà nguyện là nơi ưu tiên cho đời sống đan tu, nơi đó người đan sĩ cử hành các giờ kinh phụng vụ mà cao điểm là thánh lễ. Nhưng ngày sống của đan sĩ là thánh lễ nối dài, nghĩa là không ngừng kết hiệp với Chúa. Theo đó, đan sĩ yêu mến sự tĩnh lặng, tạo cho mình và cho người khác sự tĩnh lặng để gặp gỡ Chúa. Vì trong chiêm niệm, họ thấy Chúa hiện diện trong mọi biến cố, và với họ, có Chúa là có tất cả.
• Lao động
Nhờ lao động con người được tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, cũng là để nâng cao giá trị hiện hữu của mình. Với Thánh Biển Đức: “Ở nhưng là thù địch của linh hồn”(TL 48, 1). Vì thế, lao động để quân bình đời sống tâm thần và thể xác là phương cách giúp rèn luyện con người đan sĩ phát triển và trưởng thành. Đó đây trong các cộng đoàn, chúng ta vẫn bắt gặp những người nại vào việc thi hành thần vụ, giữ luật để né tránh công việc, từ chối dấn thân. Bên cạnh đó, cũng có những anh chị em nhiệt tâm cho công việc của cộng đoàn mà bỏ qua việc cử hành thần vụ.Thật khó cho họ khi cùng lúc vừa phải thi hành bổn phận thiêng liêng, vừa phải chu toàn trách nhiệm được giao. Cả hai hình thức trên đều có phần thái quá. Vì thế, họ cần được đào tạo để trở thành người biết say mê Thiên Chúa, trưởng thành tâm linh; dù khi cầu nguyện hay lao động, tâm tình của họ vẫn “không lấy gì làm hơn Chúa Kitô” (TL 72, 11), bất chấp sự tác động của ngoại cảnh.
Kết
Hiển nhiên, đời đan tu không là lối đường duy nhất để nên thánh giữa lòng Giáo Hội. Nhưng những ai đang tìm Chúa trong ơn gọi này phải xác tín đây là con đường đưa mình đạt tới hạnh phúc thật. Xin mượn lời trối của Cha Tổ Phụ để vừa như thay lời kết, và như tâm tình nhắc nhau, hầu thêm một lần thức tỉnh để thực tâm tìm Chúa: “Cha khuyên chúng con hãy nhớ: đàng nhân đức là tuân theo ý Chúa, mà theo thánh ý Chúa là giữ luật dòng cho trọn. Cha còn nói lại một lần nữa: chúng con muốn nên thánh thì hãy giữ luật dòng” (DN 150). Bởi vì căn tính của người đan sĩ là: “chỉ nhìn một mình Thiên Chúa, chỉ mong ước một mình Thiên Chúa, chỉ gắn bó với một mình Thiên Chúa, và là người, khi phụng sự một mình Thiên Chúa, trở thành nguyên cớ bình an cho mọi người” (Theodore Studite).
MẤT LỬA
FM.Mai Vương An_Đan viện An Phước
Từ xa xưa, khi con người biết cách chế biến thức ăn chín từ lửa, thì lửa đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống của tất cả nhân loại. Khi nền văn minh nhân loại chưa được phát triển cách vượt bậc như hiện nay, lửa chính là nguồn chiếu sáng duy nhất cho con người vào mỗi lúc trời đêm…nếu không có lửa hoặc mất lửa thì chúng ta sẽ ra sao…?
Khi nói đến lửa chúng ta cũng không những nói đến “Lửa” của vật chất mà còn có thể nói đến “Lửa” của con tim là lòng nhiệt huyết. Vậy, đối với đời sống tinh thần của con người, đặc biệt với người sống đời thánh hiến cho Thiên Chúa thì chúng ta sẽ thấy thế nào khi “lửa lòng đã mất”?
Chúng ta thấy, khi một bếp lò không có lửa nó sẽ trở nên nguội lạnh thế nào thì đời sống tâm linh con người một khi “mất lửa” cũng thế. Lúc đó, mối tuơng quan tình yêu giữa Thiên Chúa và con người, cũng như mối tương quan giữa anh chị em trong đời sống cộng đoàn sẽ đối diện với những khó khăn. Ở đây người viết chỉ xin nêu ra hai vấn đề trong tương quan tình yêu giữa người sống đời thánh hiến với Thiên Chúa và với nhau đời sống cộng đoàn.
Tương quan với Thiên Chúa.
Mỗi một người tu sĩ khi bước vào đời tu với bao nhiêu nhiệt huyết bừng cháy từ ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa, đã mời gọi và dường như đã thiêu đốt tâm hồn họ theo từng cách thức, mà Thiên Chúa muốn mời gọi người tu sĩ dấn thân theo Người. Nhưng, với thời gian người tu sĩ đã dần trở nên nguội lạnh và đánh mất đi ngọn lửa ban đầu ấy. Do đâu? Do yếu tố ngoại tại hay do chính bản thân?
Chúng ta biết, điều gì xảy đến đều có nguyên nhân của nó. Chúng ta thường đổ lỗi cho chính hoàn cảnh sống hơn là nhận ra sự thiếu kiên định và thiếu lòng tin của bản thân vào tình yêu Thiên Chúa.
Khi gặp sóng gió thử thách, chúng ta dễ dàng chán nản, buông xuôi…lúc đó ngọn lửa nhiệt huyết bắt đầu dần suy yếu và nếu những khó khăn hằng ngày ta gặp phải càng lớn thì ngọn lửa ấy cũng sẽ theo thời gian bị ngụn tắt. Có người thì chậm, có người thì nhanh, đến khi lửa lòng đã tắt, tim đã giá lạnh mà họ cũng không hề hay biết… do đâu? Do chính bản thân người tu sĩ mà thôi. Tại sao? Do người tu sĩ thiếu cầu nguyện.
Chúng ta cứ thử ngồi lại một lần để suy ngẫm xem như thế nào. Khi mới bắt đầu đi vào đời tu, chúng ta sợ mình không thể đi theo Chúa đến cùng, nên chúng ta thường dành nhiều thời gian gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện. Còn bây giờ thế nào? Chúng ta dành cho Chúa được bao nhiêu thời gian…?
Khi ngồi lại, chúng ta chỉ có thể tự trách chính mình mà thôi khi ta đã để cho lửa nhiệt huyết ban đầu suy yếu hay mất hẳn. Vì chính ta là người đánh mất ngọn lửa ấy do ta không biết nung nóng con tim mình trong lò lửa mến yêu Chúa qua việc cầu nguyện.
Người tu sĩ khi không được tôi luyện trong lò lửa mến yêu Chúa thì làm chi có sức lực để vượt qua khó khăn, làm gì đủ sức để chiến đấu trước sự dữ… Điều này cũng giống như một bếp lửa đang rực cháy. Nếu chúng ta lấy đi một thanh củi trong bếp ấy ra bên ngoài, thời gian đầu nó vẫn còn rực sáng, nhưng ngọn lửa cũng sẽ dần suy yếu. Khi chúng ta đặt nó lại trong bếp chúng ta sẽ thấy nó cũng được cháy sáng trở lại. Cũng vậy, một khi tu sĩ đã tách mình ra khỏi lò lửa tình yêu Đức Ki-tô, họ cũng sẽ bị cơn cuồng phong của sự dữ thế gian làm cho ngụm tắt bởi những sự ham muốn của thế gian. Họ sẽ bị cơn gió của vật chất, của ý riêng được ngụy trang dưới vỏ bọc của việc tranh đấu quyền lợi đánh mất tình yêu ban đầu dành cho Thiên Chúa…để rồi làm tắt đi ngọn lửa say mê yêu mến đời sống “Thanh Bần, Vâng Phục và Khiết Tịnh”.
Tương quan đời sống Cộng Đoàn.
Theo dòng thời gian, người tu sĩ sống trong đời sống cộng đoàn được sánh ví như “thanh củi” trong lò lửa, đầy nhiệt huyết và say mê trên con đường tìm kiếm để dấn thân theo Chúa. Tu sĩ chỉ có thể cháy sáng mãi khi chấp nhận bị thiêu đốt trong lò lửa huynh đệ. Nhưng do đâu mà đôi khi lửa nhiệt huyết của tu sĩ bị lụi tàn?
Thông thường, tu sĩ hay đổ lỗi cho cộng đoàn hơn là chính bản thân. Họ cảm thấy anh em không hiểu họ, dường như muốn loại họ ra khỏi đời sống cộng đoàn…Nhưng trong thực tế, tu sĩ đã tự ý tách mình ra khỏi đời sống cộng đoàn. Họ tách ra vì sợ va chạm; sợ lửa của đời sống anh em làm cho họ bị thiêu cháy và lụi tàn. Họ không chịu nổi sức nóng của lò lửa ấy vì tính ích kỷ và sự ham muốn vật chất, cũng như những yêu hận theo kiểu thế gian.
Trái lại, tình yêu Tin Mừng đòi buộc mỗi người Ki-tô hữu, cách riêng tu sĩ phải chấp nhận hiến mình, chấp nhận bị tàn lụi vì tha nhân, vì anh em. Sự tự hủy vì tình yêu Đức Ki-tô không làm cho con người trở nên suy yếu, nhưng trở nên mạnh mẽ và phát sinh một sự sống mới: “Chính khi chết đi là lúc được sống muôn đời” (Phanxico Assi).
Dẫu biết rằng đó là chân lý cho người Ki-tô hữu và đặc biệt là cho tu sĩ. Thế nhưng, chính họ lại không thể và dường như không muốn hiểu bởi những xung đột họ đã và đang gặp phải. Vì những xung đột đó, họ không chấp nhận bị thiêu cháy cùng với anh em trong lò lửa tình yêu của cộng đoàn. Trong khi đó, họ lại đi tìm “sự mát dịu” của những quyến rũ trần gian mà họ cứ ngỡ như là dòng suối mát của tâm hồn… cũng chính từ đó lửa lòng họ không còn giữ được hay hoàn toàn mất hẳn ngọn lửa của nhiệt huyết tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho anh em trong đời sống thánh hiến. Và như thế, dù có khoác trên mình bộ tu phục cho đến chết đi nữa thì họ vẫn không thực danh là người thánh hiến cho Thiên Chúa.
Thay lời kết
Lạy Chúa! Buổi đầu, khi nghe tiếng Chúa mời gọi, lòng con đã cháy bừng lửa mến yêu Chúa và yêu mến anh em. Nhưng với thời gian năm tháng, ngọn lửa này dường như đã và đang cháy một cách yếu ớt bởi tính ích kỷ, tự kiêu… để rồi tâm hồn con trở nên nguội lạnh. Nguội lạnh vì không còn được Chúa nung đốt; nguội lạnh vì không còn được tôi luyện trong tình yêu Thiên Chúa và đời sống cộng đoàn.
Lạy Chúa! Nếu như trong giây phút hiện tại, lửa lòng con đã nguội lạnh, thì xin Chúa, qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria-Đức Nữ Trinh Kiều Diễm dẫn đưa con vào lò lửa tình yêu diệu hiền của Thiên Chúa.
ĐỨC MARIA
CON CHIM HÓT HAY NHẤT
Để chuẩn bị cho ngày mừng Bách Chu Niên cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận lập Dòng Đức Bà An-Nam trên núi Phước (15-08-2018), toàn thể Hội Dòng cùng nhau học hỏi trong ba năm liên tiếp về linh đạo của Cha với những chủ đề khác nhau, mà chủ đề của năm nay (2015) là “Đan Sĩ Xitô Thánh Gia say mê tìm kiếm Thiên Chúa”. Đã hẳn, vì Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc tuyệt hảo của người Kitô hữu, nên trước hết và trên hết đan sĩ phải là con người tìm kiếm và sống cho duy mình Thiên Chúa. Trọn cả cuộc đời đan sĩ theo Chúa Kitô (Sequela Christi), nên giống Chúa Kitô trong đời sống đan tu chiêm niệm. Thực như cha Tổ Phụ đã nói: “Phận vụ của thầy dòng chúng ta, không phải là hoạt động bên ngoài, nhưng là dâng lên Chúa bài ca chúc tụng liên lỉ. Phước của chúng ta là trở nên một ‘loài chim’, hót lên lời ca ngợi Chúa, theo gương Đức Mẹ, là ‘con chim hót hay hơn cả’. Xin Đức Mẹ giúp chúng ta được noi gương Đức Mẹ, mỗi ngày nên giống Đức Mẹ hơn”[1] .
Vì ý thức giá trị cao quý của việc ca tụng Chúa bằng việc cử hành thần vụ, nên cha Tổ Phụ mong muốn đan sĩ Thánh Gia chúng ta noi gương Đức Mẹ là mẫu gương sáng ngời trong việc ngợi khen Chúa. Xưa thánh Ambrosio từng khuyên nhủ: “Mỗi người cần phải có trái tim của Đức Mẹ để chúc tụng Chúa, phải có lòng trí của Đức Mẹ để ca ngợi Chúa”[2] . Đối với thánh Phanxico Salesio, Mẹ là “nữ tu rất hoàn hảo”; Mẹ là nữ tu đầu tiên; Mẹ sống đời tu sĩ một cách hoàn hảo và thánh thiện siêu việt; không một lời nói, không một cử động, không một cái nhìn nào mà Mẹ không hướng về Chúa và làm vinh danh Chúa[3] . Mẹ Maria đã “hát” bằng chính cuộc sống của Mẹ. Cuộc đời của Mẹ thực là bản thánh ca tán tụng Thiên Chúa qua muôn thế hệ. Vậy Mẹ đã “hát” với giai điệu bổng trầm như thế nào trong suốt hành trình đức tin trên dương thế bên Người Con yêu dấu của Mẹ là Chúa Giêsu Kitô, để trở nên mẫu gương cho đan sĩ Xitô Thánh Gia noi theo?
1. Đức Maria “hát” trong biến cố Truyền Tin (Lc 1, 26-38)
Thánh sử Luca thuật lại rằng: “Bà Elisabeth có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Nazareth, gặp một trinh nữ đã thành hôn với ông Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: ‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1, 26-28).
Khi sứ thần Gabriel đến chào Mẹ, lời đầu tiên ngài nói với Mẹ là một tiếng diễn tả niềm vui: “Mừng vui lên” (khaire). Sứ thần mời gọi Mẹ vui mừng lên và mở rộng lòng để đón niềm vui không chỉ cho một mình Mẹ, mà còn cho cả nhân loại. Lời chào này như là âm vang của những lời loan báo ơn cứu độ cho Giêrusalem, cho thiếu nữ Sion. Quả thế, xưa qua các ngôn sứ, Thiên Chúa đã mời gọi dân Do Thái hãy vui mừng lên vì ơn cứu độ mà Ngài hứa ban cho dân sắp thành hiện thực: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp 3, 14); “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi…” (Dcr 9,9). Lời tiên tri xa xưa đó bây giờ được ứng nghiệm trong căn nhà của Mẹ ở Nazareth. Mẹ mừng vui, vì Đấng là vua của Mẹ đến với Mẹ để làm con của Mẹ. Tất cả những gì là vui mừng xưa kia trong dân Do Thái, do bởi lời hứa ban Đấng Cứu Thế, bây giờ đạt tột mức trong trái tim Mẹ. Thánh Bênađô đã ca tụng sự khiêm hạ của Mẹ đã khiến cho Thiên Chúa đoái thương cách đặc biệt: “Ôi Trinh Nữ diễm phúc, làm sao người có lòng khiêm nhường thẳm sâu như thế, một lòng khiêm nhường có khả năng lôi cuốn được Thiên Chúa”[4] .
Vậy Mẹ đã làm gì để cõi lòng được chan chứa niềm vui? Chỉ đơn giản là Mẹ đã mở thật rộng tâm hồn mình cho tình yêu Thiên Chúa đổ tràn trên Mẹ. Mẹ đã để cho Thiên Chúa hiện diện trong Mẹ. Niềm vui dạt dào khôn tả trong lòng khiến cho Mẹ thốt lên hai tiếng ‘xin vâng’: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38). Tiếng ‘fiat’ mà Mẹ vừa thốt lên là lời đáp trả đầy tình con thảo trước đề nghị của Thiên Chúa, đồng thời khởi đầu cho sự kết hiệp nhiệm mầu: Chúa ở trong Mẹ và Mẹ ở trong Chúa. Chúa sống trong Mẹ và Mẹ sống trong Chúa[5] . Tiếng ‘fiat’ của Mẹ thật quan trọng, như là sự quyết định cho cả vận mệnh nhân loại vậy, đến nỗi thánh Bênađô đã phải diễn tả: “Lạy Đức Maria, xin thốt lên lời mà đất trời và âm phủ đang mong đợi, hãy nhìn kìa; Đức Vua và Chúa tể của vũ trụ, Đấng đã ước muốn sắc đẹp của Mẹ, cũng đang nôn nóng ơn cứu độ thế giới tùy thuộc nơi sự ưng thuận của Mẹ”[6] .
Qua đó, Mẹ Maria chỉ cho chúng ta thấy rằng hạnh phúc đến từ sự tiếp xúc với Thiên Chúa. Càng sống gần Thiên Chúa, người ta càng gần với nguồn vui. Vì Thiên Chúa đã muốn đến nơi mẹ, nên chính nơi Mẹ, Ngài đã làm trào vọt chan chứa niềm vui, một niềm vui có mục đích tràn lan trong nhân loại. Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã diễn tả đời sống nội tâm của Đức Mẹ một cách đơn sơ như sau: “Đức Mẹ không ở một mình vì có Chúa Giêsu ở với”[7] . Có Chúa là có niềm vui. Ai sống kết hiệp cách mật thiết với Chúa trong lòng, người ấy không thể nào không hát lời ngợi khen Chúa liên lỉ, vì “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao…” (Is 61, 10). Khi nghiền ngẫm sâu xa các mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ bày, Đức Maria được chan chứa niềm vui, đầy tràn Thần Khí, quy hướng về Thiên Chúa mà vẫn một lòng khiêm hạ[8] . Đức Maria hoàn toàn thi hành ý Chúa Cha. Mẹ đã muốn phục vụ Chúa với tất cả tình mến kín đáo nhưng mãnh liệt. Vì Mẹ yêu mến, nên Mẹ đã đặt tất cả niềm vui của mình trong việc phục vụ, hằng luôn luôn sao cho mình được hoàn toàn sẵn sàng trong tay Chúa. Mẹ sung sướng được thực thi mọi điều Người đòi hỏi Mẹ. Cùng với Đức Maria, chúng ta cũng hãy hát lên lời “fiat” trước thánh ý của Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời.
2. Đức Maria hát bài ca Magnificat (Lc 1, 46-55)
Thoạt nghe sứ thần Gabriel báo tin bà chị họ Elisabeth của mình mang thai được sáu tháng trong lúc tuổi đã già, với lòng ao ước muốn phục vụ, Đức Maria vội vã đi đến miền núi thăm bà Elisabeth (Lc 1, 39). Sự xuất hiện của Mẹ với lòng trào tràn niềm vui khiến cho bà Elisabeth được đầy Thánh thần liền kêu lớn tiếng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 42). Bây giờ, Mẹ hoan hỷ cất lên lời tán tụng: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi…” (Lc 1, 46-55).
Khi chú giải bài thánh ca Magnificat này, thánh Beda diễn tả rằng Đức Mẹ muốn tuyên xưng những ơn riêng Chúa đã ban cho người cách đặc biệt, tiếp sau đó là kể ra những ơn chung Thiên Chúa không ngừng ban cho nhân loại đến muôn đời. Mẹ đem hết tình cảm con người bên trong ra mà ca ngợi Chúa. Lời tán tụng “Vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật Chí Thánh Chí Tôn” ngụ ý ám chỉ Mẹ không kể gì là do công trạng riêng của mình nhưng tất cả sự cao trọng của mình là do ơn của Đấng tự bản tính vốn là quyền năng và vô cùng cao cả thường làm cho các tín hữu từ chỗ nhỏ bé thấp hèn nên mạnh mẽ cao sang[9] . Chính Thiên Chúa là Đấng đã làm tất cả nơi Mẹ, vì thế, lời ngợi khen và tri ân của Mẹ càng nồng nàn hướng lên Người. Ca vãn đó kết thúc bằng một lời ngợi khen tình thương Thiên Chúa, ngợi khen lòng nhân nghĩa qua đó Thiên Chúa đã thương xót dân Người bằng cách thực hiện lời “Người đã phán với Abraham và dòng dõi cho đến muôn đời” (Lc 1, 54-55). Qua trình thuật này, chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI ca tụng Đức Maria là ‘Trinh nữ cầu nguyện’ (Virgo Orans). Lời kinh Magnificat tuyệt hảo của Đức Maria là bài ca của các thời đại mong chờ Đấng Thiên Sai, nó hội tụ niềm hân hoan của Israel cũ và nỗi vui mừng của Israel mới. Trong thực tế bài ca của Đức Maria đã nới rộng tầm vóc để trở thành lời kinh của Giáo Hội trong mọi thời[10] . Thánh Beda cho rằng Hội Thánh có thói quen hát kinh này vào giờ Kinh Chiều để các tín hữu vừa năng tưởng nhớ đến mầu nhiệm của Chúa mà thêm lòng sốt mến, vừa năng suy niệm các gương lành của Thánh Mẫu mà thêm vững mạnh trên đường nhân đức[11] .
Mẹ ca tụng Thiên Chúa vì muôn ơn lành Chúa đã ban cho Mẹ và cho dân được Chúa tuyển chọn. Cuộc đời chúng ta cũng đã là một ân huệ Chúa ban rồi, nhưng chúng ta có thực hành giống Đức Mẹ như lời thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Êphêsô: “Hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5, 19). Cũng theo thánh Phaolô, việc hát ca tụng Chúa là dấu chứng biểu lộ niềm tri ân cảm tạ: “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài Thánh Vịnh, Thánh Thi và Thánh Ca, do Thần Khí linh hứng” (Cl 3, 16). Muốn hát ca tụng Chúa thì phải có tâm hồn như Đức Mẹ. Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận xem người đan sĩ Xitô Thánh Gia như loài chim hát ca tụng Thiên Chúa liên lỉ theo gương Đức Mẹ là “con chim” hót hay nhất. Đặc điểm của “bầy chim” này là không hát trong ngày xuân nắng đẹp, mà cả trong đêm tối hay giữa tuyết lạnh mưa sa. Nếu gian khổ không làm tắt được ngọn lửa yêu mến (Rm 8, 35), thì nó cũng không làm im bặt tiếng ca nơi đoàn con cái Mẹ. Chính bản thân cha Tổ Phụ đã sống trước lời giáo huấn này như trong một bức thư gửi cho bà kế mẫu: “Cái nhà đẹp nhất của chúng con nay đã biến thành đống tro tàn. Trót cơ nghiệp nhà dòng ở trong đó: sách vở, thuốc men, quần áo, vật thực…thay thảy đều cháy hết. Mặc lòng, chúng con đã hát Magnificat trọng thể tạ ơn Chúa”[12] . Lặng người trước cảnh gian nan đến thế, cha vẫn thốt lên lời “Muôn năm Chúa”, và thấy “Không mất sự bằng an vui vẻ” vì đó là “Dấu Cha nhân hậu tỏ lòng thương con cái” cho nên “hằng ngợi khen Chúa và cám ơn người luôn”[13] .
Cuộc đời Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã theo gương Đức Mẹ mà hát lên lời tán tụng Thiên Chúa. Cha cũng muốn con cái mình hãy dệt cuộc đời của mình thành bài Magnificat sống động. Đành rằng cuộc sống tựa như một “bản hòa tấu” được kết cấu với nhiều cung điệu bổng trầm vui buồn, nhưng bài thánh ca đó phải được hát lên từ con người của niềm vui thể hiện qua đời sống yêu thương huynh đệ. Vì lẽ đó cha muốn con cái mình hãy thương yêu nhau, hãy giúp đỡ nhau, hãy gánh đỡ gánh nặng cho nhau. Cha nói: “Nếu trong nhà dòng, mọi người đều bỏ mình đi mà lo đến anh em cách riêng, thì mọi người trong nhà đều được sự an ủi vui vẻ biết mấy”[14] .
3. Đức Maria Đã “Hát” Trong Nỗi Thống Khổ Dưới Chân Thập Giá Chúa Giêsu
Trong Phúc Âm theo thánh Gioan, có một chi tiết được thánh sử mô tả như sau: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19, 25-27).
Trong đoạn văn này, ta nhận thấy Đức Maria không thốt lên một lời nào cả. Nhưng nếu các Thánh Tử Đạo đã dệt những đau khổ của mình thành bài ca ngàn trùng dâng về Thiên Chúa, thì hẳn đây là lúc Đức Mẹ đã “hát” trọn vẹn và hay nhất bản thánh ca Magnificat mà Mẹ từng hát: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”. Người đời có lẽ sẽ không thể hiểu nổi một người mẹ sao đặng có thể hớn hở vui mừng, khi ngước mắt nhìn con mình đang đau đớn quằn quại trên thập giá? Đó phải là nỗi đau thấu tận trời hơn là niềm vui ngợi khen Thiên Chúa chăng? Thánh Bênađô đã nhìn Mẹ như vị tử đạo anh hùng hiên ngang dưới chân thập giá khi viết rằng: “Lạy Mẹ diễm phúc, một lưỡi gươm đã đâm thâu lòng Mẹ. Lưỡi gươm ấy không thể đâm vào thân con của Mẹ mà một trật không đâm thâu lòng Mẹ. Lòng Mẹ đã bị đau khổ đâm thâu, vì vậy chúng con thật có lý mà tuyên bố rằng Mẹ còn hơn cả vị tử đạo, bởi vì nỗi đau do việc Mẹ cùng chịu khổ chắc chắn đã vượt quá sự đau khổ trong thân xác. Câu: thưa Bà, đây là con Bà, đối với Mẹ, chẳng còn hơn một lưỡi gươm và đã chẳng đâm thâu lòng Mẹ cùng đạt tới chỗ phân cách tâm với linh sao?”[15] . Chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI cũng nói lên nỗi đau tột cùng mà Mẹ phải chịu khi đứng gần bên thập giá Chúa Giêsu: “Sự kết hiệp giữa Đức Maria và con mình trong sự nghiệp cứu thế đạt tới tột đỉnh trên núi sọ: nơi đây, Đức Kitô “đã tự hiến dâng chính mình làm của lễ tinh tuyền cho Thiên Chúa” (Dt 9, 14), và cũng nơi đây, Đức Maria đứng kề bên cây thập giá (Ga 19, 25) “chịu đau khổ ác liệt với Con Một của mình và tham dự vào hy tế của người con với tấm lòng một người Mẹ, sẵn sàng chấp nhận trong tình yêu cuộc sát tế lễ hy sinh bởi xương thịt mình”, và chính Mẹ cũng dâng hiến hy lễ đó cho Chúa Cha vĩnh cửu”[16].
Tuy nhiên, nếu người đời có vui mới hát, thì ngược lại, Mẹ đã “hát” lời ca chúc tụng Thiên Chúa trong chính nỗi đau khổ tột cùng khi đứng dưới chân thập giá trên đồi Gôn-gô-tha. Sở dĩ ta có thể nói được điều đó, vì Mẹ thấy Đấng Cứu Độ của Thiên Chúa Cha sắp hoàn thành sứ vụ cứu độ nhân loại; chính Con Chí Thánh của Mẹ sắp chiến thắng tử thần mà ban sự sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người. Qua đó, Mẹ dạy chúng ta cũng biết “hát” như Mẹ trong cảnh đắng cay nghiệt ngã của cuộc đời chúng ta. Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn chúng ta noi gương Mẹ, vì Mẹ là người có trái tim bị lưỡi gươm đâm thâu qua, Đấng hiểu tất cả nỗi thống khổ của chúng ta. Mẹ bước đi với chúng ta, chiến đấu với chúng ta, và không ngừng tuôn đổ sự gần gũi của tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta[17] . Thánh Bênađô dạy chúng ta rằng: “Nếu gió cám dỗ nổi lên, nếu cạm bẫy thử thách lô nhô trên đường sống, hãy ngước nhìn ánh sao hãy cầu cứu Maria. Chớ gì danh thánh người không hề rời xa môi miệng bạn, không hề rời xa trái tim bạn. Và để được người nguyện cầu cho, bạn đừng xao nhãng noi gương người đã sống. Theo Người, bạn chắc sẽ không lạc lối; kết hợp với Người, bạn chắc sẽ không tuyệt vọng; bàn hỏi Người, bạn sẽ không lầm lỡ. Nếu Người nâng đỡ, bạn sẽ không sa ngã; nếu Người che chở, bạn chẳng còn sợ hãi; nếu Người hướng dẫn, bạn chẳng còn mệt nhọc; nếu được Người chiếu cố, bạn sẽ đạt tới đích”[18] .
Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận cũng muốn chúng ta hãy hát lên bài ca tụng Chúa như Mẹ Maria, ngay cả khi gặp trái ý nghịch lòng: “Chúa cho chúng tôi vui, chúng tôi cũng vâng. Chúa để chúng tôi buồn, cũng dạ. Chúa cho gặp những gì trái ý nghịch lòng, cũng vâng. Dẫu phải lâm những điều khốn cực lắm, cũng xin vâng hết thảy”[19] ; “Nếu chúng ta biết ấp yêu Thánh Giá vào lòng, thì mọi sự gian khổ đời này, không làm cho chúng ta nao núng. Có lòng trìu mến Thánh Giá thật, thì ở trong nhà Dòng này rất đỗi vui mừng. Như vậy, ai mà làm chi được chúng ta! Bề Trên có quở phạt, anh em có khinh chê, đó là Thánh Giá, là điều mình hằng nâng niu trân trọng. Những kẻ ấy ở trong nhà Dòng này vui thích biết mấy” [20]. Cha năng nhắc rằng: “Không nên than van kêu trách, một đội ơn Chúa vì những sự khó chúng ta thường gặp. Chúng ta nghĩ xem, sự ấy là một điều rất nghịch. Một người ở trong nhà Dòng này, mà than van kêu trách buồn bực, tỏ mặt quạu cọ, không bằng lòng với Bề Trên, với anh em. Chúng ta nghĩ xem, thật là một điều rất nghịch, không biết nói làm sao được”[21] . Như thế, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ta hãy hát ca tán dương Thiên Chúa như Mẹ Maria bằng mỗi phút giây cuộc đời, để cuộc đời chúng ta đáng là bản Te Deum hát mừng Thượng Đế ngàn lời hoan ca, được hát lên lúc chúng ta từ giã cõi đời này.
4. Đức Maria hát giữa Giáo Hội cầu nguyện
Chương đầu của sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại việc Đức Maria cầu nguyện cùng với các Tông Đồ và vài người phụ nữ trong căn phòng các ông trú ngụ (Cv 1,14). Đây là hình ảnh một Giáo Hội cầu nguyện cùng với Thánh Mẫu Thiên Chúa. Mẹ “hát” với lời kinh của Giáo Hội để nài xin Thánh Thần Thiên Chúa xưa đã ngự xuống trên Mẹ, thì nay cũng ngự xuống trên Giáo Hội. Không hẳn là Mẹ xuất hiện như là Mẹ của từng môn đệ cho bằng là Mẹ của tất cả cộng đoàn. Việc chuẩn bị cho cuộc Hiện Xuống đòi phải có sự đồng tâm nhất trí cầu nguyện của các Tông Đồ. Vậy Mẹ khuyến khích cầu nguyện và Mẹ nâng đỡ sự chuyển cầu của mỗi người. Theo Đức Giáo Hoàng Phaolô VI: “Sự hiện diện của Đức Maria đang cầu nguyện trong Giáo Hội sơ khai cũng như với trong Giáo Hội qua mọi thời đại, vì được mông triệu về trời, Mẹ vẫn không bỏ bê sứ vụ nguyện cầu và cứu độ của Mẹ”[22] . Sau khi được rước lên trời, Mẹ không từ bỏ nhiệm vụ mang ơn cứu độ này, nhưng Mẹ vẫn chuyển cầu cho chúng ta bằng trăm phương ngàn cách, vẫn tiếp tục xin cho chúng ta những ân huệ cần thiết để hưởng ơn cứu độ muôn đời. Mẹ lấy tình mẫu tử mà chăm sóc đàn em của con mình đang lữ hành và đương đầu với bao nguy hiểm lo âu, cho đến khi họ được đưa vào quê trời vĩnh phúc[23] .
Xin Mẹ cũng ban cho chúng ta ham thích cầu nguyện hơn nữa, vì mỗi khi cử hành thần vụ là chúng ta được tham dự cùng với ca đoàn thiên quốc mà tung hô chúc tụng Thiên Chúa[24]. Xin Mẹ cũng dạy chúng ta biết cầu nguyện riêng, trong việc chú ý liên lỉ đến sự hiện diện của Chúa hoặc trong sự đối thoại êm đềm với Chúa. Ai hơn Mẹ, có thể hướng dẫn chúng ta trên con đường cầu nguyện, vì Mẹ đã hướng dẫn cộng đoàn Kitô Giáo tiên khởi trên con đường đó.
Kết luận
Trong Sắc lệnh Perfectae Caritatis, Công Đồng Vaticanô II đã xác quyết nhiệm vụ chính yếu của đan sĩ là phụng sự Thiên Chúa uy linh trong phạm vi đan viện[25] . Hằng ngày đan sĩ phụng sự Thiên Chúa uy linh bằng việc hát lên lời ca chúc tụng Thiên Chúa trong các giờ thần vụ, Lectio Divina và lao tác. Đây thực là công việc rất cao quý đến nỗi thánh Biển Đức muốn đan sĩ phải nhanh chân đi cử hành thần vụ cùng với cộng đoàn khi nghe hiệu báo và đừng lấy gì làm hơn việc Chúa[26] . Với thánh Augustino, “hát thánh ca là cầu nguyện hai lần”, nhưng để ta có thể ca ngợi Chúa liên lỉ thì ngài đã khuyên rằng: “Nếu bạn hát lên bằng lời, thì có lúc bạn sẽ ngưng bài ca. Hãy hát lên bằng cuộc sống của bạn, bạn sẽ không bao giờ thôi hát ca”[27] ; “Đừng để cho đời sống của bạn đi ngược lại lời miệng bạn đang hát…Bạn muốn ngợi khen Thiên Chúa phải không? Hãy sống đúng như điều bạn hát. Bạn sẽ là lời ngợi khen Thiên Chúa, nếu bạn sống tốt lành”[28] .
Thế nhưng làm sao ta có thể “hát đúng, hát hay” bài ca chúc tụng Thiên Chúa với cả tâm hồn và ước nguyện, nếu như ta không cần đến một “nhà sư phạm đầy kinh nghiệm” tuyệt hảo là Mẹ Maria-con chim hót hay nhất trong cả niềm vui lẫn nỗi đau khổ xé lòng? Thật có lý khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô ký thác năm đời sống thánh hiến cho Đức Maria, Trinh nữ của lắng nghe và chiêm niệm, môn sinh tiên khởi của người Con yêu dấu của mình, là nữ tử quý mến của Chúa Cha và được trang điểm bởi mọi hồng ân, như mẫu gương tuyệt vời của việc đi theo Chúa Kitô trên con đường yêu mến Thiên Chúa và phục vụ tha nhân[29] . Ngài muốn chúng ta học nơi Mẹ, người môn đệ lý tưởng của Chúa Kitô, để trong năm thánh về đời sống thánh hiến này, “ở đâu có các tu sĩ thì có niềm vui” và niềm say mê Thiên Chúa được lan tỏa đến với mọi người, khiến dân Chúa khắp nơi cùng hát lên rằng: “Hồng ân Thiên Chúa bao la, muôn đời con sẽ ngợi khen danh Ngài”.
[1] Di Ngôn số 128
[2] Trích lại trong chú giải Di Ngôn số 128
[3]x. P.Colin C.ss.R, Đức Mẹ Với Đời Tu, bản dịch di của G.M Đồng Tiến CMC, 1998, tr 13.23
[4] Trích lại trong “Nhớ Nguồn”, Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, 1993, tr 171
[5] x. P.colin C.ss.R, Đức Mẹ Với Đời Tu, bản dịch di của G.M Đồng Tiến CMC, 1998, tr 40
[6] Trích lại trong “Xin Vâng, 40 bài suy niệm về Đức Maria”, tr 27
[7] Di Ngôn số 144
[8] x. Thánh Lô-ren-xô Giút-ti-a-nô, Bài Đọc Kinh Sách Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ
[9]x.thánh Beda, Bài Đọc Kinh Sách Lễ Đức Maria Thăm Viếng Bà Elisabeth
[10] x. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Tông Huấn Marialis Cultus số 18
[11]x. Thánh Beda, Bài Đọc Kinh Sách Lễ Đức Maria Thăm Viếng Bà Elisabeth
[12] Hạnh Tích Cha Benoit, tr 158
[13]Hạnh tích Cha Benoit, tr 158
[14] Di Ngôn số 122
[15]Thánh Benado, Bài Đọc Kinh Sách Lễ Đức Mẹ Sầu Bi
[16] Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Tông Huấn Marialis Cultus số 20
[17]x. Đức Giáo Hoàng Phanxico, Tông Huấn Evangelii Gaudium, Phaolô Phạm Xuân Khôi Dịch, số 286
[18] Trích trong Xin Vâng-40 Bài Suy Niệm Về Đức Maria, tr 145
[21] Di Ngôn số 128
[22]Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Tông Huấn Marialis Cultus số 18
[23]x. Hiến Chế Lumen Gentium số 62
[24]x. Hiến Chế Sacrosanctum Concilium số 83
[25]x. Sắc lệnh Perfectae Caritatis số 9
[27]x. Phần chú thích Di Ngôn số 128
[28]Thánh Augustino, Hát Lên Mừng Chúa Một Bài Ca Mới, Bài Đọc Kinh Sách Thứ Ba Tuần 3 Phục Sinh
[29] Đức Giáo Hoàng Phanxico, Tông Thư Gửi Tất Cả Các Người Tận Hiến Trong Năm Đời Sống Thánh Hiến, mục III, số 5
THUỘC TRỌN VỀ NGƯỜI TÔI YÊU
FM.Thiên Ân_Đan viện Châu Thuỷ
Dẫn Nhập
Trong Tông Huấn Vita Consecrata, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói lên tầm quan trọng của đời sống đan tu trong lòng Giáo hội: “Các hội dòng hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm… là một niềm vinh dự và là nguồn mạch muôn vàn ơn thiêng cho Giáo hội… Trong cô tịch và thinh lặng, bằng việc lắng nghe Lời Chúa, phụng thờ Thiên Chúa, khổ chế bản thân, đọc kinh cầu nguyện, hãm mình và chia sẻ huynh đệ, các vị qui hướng trọn vẹn đời sống và mọi sinh hoạt của mình về sự chiêm ngắm Thiên Chúa”[1] . Như vậy, Giáo hội đặt kỳ vọng vào đời sống đan tu hệ tại việc ở lại trong tình thân mật với Thiên Chúa và xây dựng đời mình trên nền tảng Đức Kitô. Với khát mong thuộc trọn về Chúa, người đan sĩ luôn chuyên tâm cầu nguyện, canh tân đời sống, vâng phục Thiên Chúa. Nhờ đó, cuộc đời mỗi người được thêu dệt bằng những ân thiêng từ Thiên Chúa để có thể dấn thân phục vụ anh chị em và nên nhân chứng cho Tin Mừng.
Vậy để phần nào hiểu được chiều kích “thuộc trọn về Chúa”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu những khía cạnh sau:
I. TÌNH YÊU ĐI BƯỚC TRƯỚC CỦA THIÊN CHÚA
1. Thiên Chúa đã gọi mời con
Với cái nhìn đức tin, chúng ta không tự chọn cho mình một ơn gọi, nhưng tất cả được khởi đi từ tình yêu Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, Chúa đã gọi Ápraham và ông đã sẵn sàng từ bỏ quê hương, họ hàng thân thuộc, sự nghiệp để theo tiếng Chúa dù đã cao niên. Khi Chúa gọi Môsê trở thành người giải phóng dân tộc, ông đã thoái thác với lý do: “Con là ai mà dám đến với Pharaô và đưa con cái Israel ra khỏi Ai cập” (Xh 3, 11). Thế nhưng ông vẫn cất bước lên đường nhờ lời hứa của Chúa: “Có Ta ở với ngươi” (Xh 3, 12). Giêrêmia đã nại vào tuổi trẻ và khả năng kém cỏi để tránh né lời mời gọi của Chúa, nhưng cuối cùng ông cũng phải chấp nhận làm ngôn sứ của Ngài (x. Gr 1, 6).
Trong Tân Ước, chúng ta thấy Mẹ Maria cũng đã khiêm tốn phó thác cho kế hoạch yêu thương của Chúa: “Này tôi đây là nữ tỳ, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38). Các môn đệ đầu tiên đã được Chúa mời gọi bước theo Ngài để Ngài biến đổi họ thành những kẻ thu phục người ta (Lc 5, 1-11). Vào buổi sơ khai của Hội thánh đã xuất hiện một ơn gọi đặc biệt là thánh Phaolô, một Kinh sư trẻ nhiệt thành, ngài những muốn tiêu diệt Hội thánh vì đã làm xáo trộn đến tôn giáo và tập tục người Do thái. Tuy nhiên, qua biến cố Damas, thánh nhân đã trở nên khí cụ hữu hiệu của Tin Mừng thập giá Đức Giêsu: “Người ấy là lợi khí Ta chọn để đem danh Ta đến trước mặt dân ngoại, các vua chúa và con cái Israel” (Cv 9, 15).
Như vậy, Thiên Chúa can thiệp một cách có uy quyền vào đời sống những người mà Ngài muốn tuyển chọn. Ngài tuyển chọn không theo tiêu chuẩn của người đời, nhưng nhắm tới chương trình mà Ngài muốn làm cho con người. Điều này giúp chúng ta cảm được nhận sự bình an, hạnh phúc và không ngớt lời tri ân khi nhìn lại ơn gọi của mình.Khi được Chúa mời gọi, không mấy ai trong chúng ta tài cao đức độ, cũng không ai dám cho mình xứng xứng đáng để lãnh nhận ân phúc này; tất là hồng ân Thiên Chúa. Cha Tổ Phụ H. Denis Biển Đức Thuận đã nói: “Chúng tôi năng nhớ lại mà hết lòng cám ơn Chúa, vì Chúa đã thương gọi chúng tôi vô Dòng này.Thật là một ơn rất trọng”[2]
Thiên Chúa hoàn toàn tự do khi mời gọi con người; điều này nói lên mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Chúa Giêsu xác quyết: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15, 16). Do đó, chúng ta không thể tìm ra lý lẽ để giải thích, nhưng khiêm tốn thưa tiếng “xin vâng” với những gì Thiên Chúa muốn thực hiện nơi cuộc đời mình.
2.Sống cho một mình Thiên Chúa
Sự đáp trả của chúng ta trước tiếng gọi của Thiên Chúa phải dứt khoát, trọn vẹn và vĩnh viễn; không có sự đáp trả nửa vời, không có ơn gọi bán thời gian.
Tuy nhiên, lối sống hưởng thụ, an phận theo kiểu “bèo dạt mây trôi” vẫn còn lai vãng nơi người đan sĩ. Nó tựa như con sâu gặm nhấm sự nhiệt huyết của đời tu và làm băng hoại khả năng yêu thương. Quả thực, trong đời sống cộng đoàn, chúng ta không những đối diện với sự khô khan về đàng thiêng liêng mà còn gặp phải sự thiếu trung thành với ơn gọi, khép kín, chán nản, cám dỗ, nhẹ dạ và dửng dưng; những thứ đó tựa như bức tường ngăn chặn bước đường theo Chúa của chúng ta, làm giảm niềm tín thác và bào mòn đức tin.
Do đó, để sống trung thành và tìm lại nhiệt tâm ban đầu của ơn gọi, mỗi người cần phải canh tân đời sống, tin nhận và phó thác vào tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, tất cả mọi ơn gọi, cách riêng đời sống đan tu đều phát xuất từ Thiên Chúa, vì Thiên Chúa và được qui hướng về Ngài. Thánh Phaolô xác quyết: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Hơn nữa, “tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Pl 3, 8-9). Chắc hẳn, thánh nhân không khinh chê thế gian và những gì thuộc về nó, nhưng được nhìn dưới góc độ khác: gốc độ của niềm tin và khát khao thuộc trọn về Chúa. Ngài xem những hào nhoáng của thế gian chẳng là gì trong tiến trình liên kết với Đức Kitô và được Ngài chiếm hữu (x. Pl 3, 13). Với thánh nhân, chỉ khi nào ở trong Đức Kitô, cuộc đời mới trở nên phong phú về mọi phương diện, được lắng nghe Lời Chúa và hiểu được các mầu nhiệm của Ngài (x.1Cr 1, 5).
Cha Tổ Phụ H. Denis Biển Đức Thuận cũng mang nơi mình tâm tình của thánh Phaolô. Là một người đầy nhiệt tâm truyền giáo, cha Tổ Phụ đã bôn ba nơi viễn xứ để rao giảng Tin Mừng, chăm sóc bệnh nhân, nâng cao văn hóa. Nhưng khát vọng được tiến sâu hơn trong mối liên kết thân tình với Thiên Chúa đã thúc đẩy cha chọn nếp sống đan tu chiêm niệm. Với cha, tất cả chỉ là chóng qua tựa làn gió thoảng, như áng mây bay, ngoại trừ việc yêu mến Chúa và làm tôi Người: “Chúng tôi nên nhớ điều này, mọi sự thế gian thảy đều vô lối vô ích, chóng qua cả; trừ sự kính mến Chúa và làm tôi Người, đáng cho chúng tôi chăm lo mà thôi. Vậy cám ơn Chúa đã gọi chúng tôi vào dòng để lo một việc cao trọng ấy”[3].
Là những môn sinh của cha Tổ Phụ, chắc hẳn chúng ta cũng không thể đi ra ngoài quỹ đạo: lấy Chúa làm nguồn sống và cùng đích cho đời chứng nhân đan tu. Từ đó, chúng ta được mời gọi luôn nhớ đến những ân phúc Thiên Chúa đã rộng ban để rà soát lại đời sống hầu đáp trả tình yêu Chúa ngày một quảng đại hơn.
II.SỐNG CHIỀU KÍCH THUỘC TRỌN VỀ CHÚA
1.Cầu Nguyện
Là đan sĩ, chúng ta không những cần cầu nguyện và thực hành cầu nguyện mà còn phải trở nên những con người cầu nguyện. Người khác chờ nơi chúng ta trở nên những chuyên viên cầu nguyện, có khả năng nói với Chúa và nói về Chúa. Nhờ việc cầu nguyện, chúng ta nhận ra một Thiên Chúa gần gũi, giàu lòng nhân từ và khoan dung, mặc dầu bản thân vẫn còn nhiều khiếm khuyết và tội lỗi; một Thiên Chúa siêu việt mà chúng ta thần phục, đồng thời cũng là một người Cha yêu thương để chúng ta bàn bạc, tham khảo, tâm sự, van xin và ngay cả kêu ca, phàn nàn. Thiên Chúa là thực tại duy nhất, là trọng tâm của cuộc đời chúng ta, cho dù chúng ta có phản bội và bất trung.
Cầu nguyện là lối ngỏ dẫn chúng ta vào mối thân tình với Thiên Chúa, cầu nguyện không chỉ được diễn ra trong thánh lễ, các giờ kinh phụng vụ mà được nối dài trong suốt ngày sống. Nói cách khác, cầu nguyện là công việc chính của người đan sĩ. Cha Tổ Phụ H. Denis Biển Đức Thuận củng cố ý tưởng này: “Cầu nguyện là chính công việc chúng tôi. Thầy dòng phải là người cầu nguyện.Cầu nguyện là thực sự gặp gỡ Chúa cách thân tình như giữa Cha và con. Vậy chúng tôi phải cầu nguyện vì có lời Chúa phán: xin thì được, tìm sẽ thấy, gõ sẽ mở cho”[4].
Chúa Giêsu là khuân mẫu về cầu nguyện. Quả thật, cuộc đời của Ngài là chuỗi ngày cầu nguyện liên lỉ: Ngài đã thức suốt đêm để cầu nguyện trước khi chọn các tông đồ (x. Lc 6, 12-16), cầu nguyện trước mộ Lazaro (x. Ga 12, 41-42), cầu nguyện trong vườn cây dầu trước giờ chịu nạn (x. Mt 26, 36-46; Mc 14, 32-42), cầu nguyện trên cây thập giá (x. Mt 27, 46; Lc 23, 34.46). Đàng khác, bằng Kinh Lạy Cha, Ngài dạy chúng ta đừng quá lo lắng tới bản thân, mà hãy nghĩ đến Cha trên trời và ưu tiên tìm kiếm nước Thiên Chúa: “Các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người trước đã, còn các sự khác sẽ được ban thêm cho các con” (x. Mt 6, 33). Đó cũng là những gì Chúa Giêsu đã làm khi còn ở dương thế: trọn vẹn cuộc sống và những lời cầu nguyện của Ngài đều lấy Chúa Cha làm tâm điểm, như Ngài đã nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4, 34).
Tuy nhiên, bản tính nhân loại vốn bất toàn, yếu đuối nên biết cầu nguyện thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa và sinh ích cho bản thân; cần phải có sự cộng tác tích cực của mỗi người với ân sủng của Chúa(x. Rm 8, 26). Hơn nữa, lời cầu nguyện phải được gắn liền với một đức tin tinh tuyền và vững mạnh. Nhờ đó, chúng ta được Thiên Chúa biến đổi thành những con người mới, được tình yêu Ngài làm tan chảy sự băng giá của con tim, hầu có thể nhận ra thánh ý Chúa trong từng giây phút cuộc sống.
2. Canh Tân
Canh tân không có nghĩa là bỏ quên chặng đường đã qua, quên đi những thiếu sót và lầm lỗi của mình hay làm ngơ trước những lỗi phạm của người khác. Đúng hơn, canh tân là can đảm đứng dậy chính nơi mình hoặc cộng đoàn đã vấp phải, tiếp tục làm tốt những gì đang làm và sống tốt hơn trong giây phút hiện tại.
Thánh Phaolô đã để lại cho chúng ta mẫu gương về việc canh tân không ngừng. Biến cố Đamas đã giúp thánh nhân nhận ra lý tưởng ngài đang dấn thân, đòi hỏi phải đối diện với sự thật. Thánh nhân không biết Thiên Chúa mà cứ tưởng mình biết; ông bảo vệ Thiên Chúa, nhưng lại bắt bớ và loại trừ Ngài (x. Cv 9, 5). Thiên Chúa mà thánh nhân biết là một Thiên Chúa của lề luật.
Tuy nhiên, Đức Kitô đã giải thoát ngài khỏi u mê lầm lạc và mời gọi ngài làm lại một khởi đầu mới. Từ đó, thánh nhân say mến Đức Kitô (x. Gl 2, 20) vì được Ngài chiếm đoạt (x. Pl 3, 12). Tình yêu Đức Kitô đã dẫn thánh Phaolô vào một sứ mạng mới: “Tông đồ dân ngoại” (Rm 11, 13). Và trong hành trình rao giảng Tin Mừng, thánh nhân bao phen bị bỏ tù, đánh đòn, ném đá, gặp nguy hiểm do trộm cướp, do đồng bào hay dân ngoại. Ngài phải vất vả mệt nhọc, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng (x. 2Cr 11, 24-28). Nhưng các khó khăn đó đã không làm cho ngài chùn bước, trái lại, làm tăng thêm sức mạnh cho hành trình chứng nhân. Thái độ của thánh Phaolô trước thử thách là: “Vì Thiên Chúa đoái thương giao cho chúng tôi công việc phục vụ, nên chúng tôi không sờn lòng nản chí” (2Cr 4, 1).
Với kinh nghiệm chỗi dậy từ lầm lỗi, thánh nhân đã hun đúc cho mình một cái nhìn mới về Thiên Chúa và sứ vụ tông đồ. Ngài khuyên các tín hữu: “Cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa… để Thần Khí đổi mới tâm trí, mặc lấy con người mới, con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4, 22-24). Ý hướng này, chúng ta cũng gặp thấy nơi thư Rôma: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12, 2). Với thánh nhân, mỗi người là hình ảnh Thiên Chúa, được đổi mới không gì hơn là trao lại cho Ngài hình ảnh nguyên sơ mà Ngài đã tạo tác.
Trong chiều hướng đó, chúng ta cần được đặt trong khuôn thức của Đức Kitô, để Người tặng ban cho ta một nhãn quan mới, một niềm hy vọng và sức mạnh khả dĩ vượt qua mọi ngang trái. Nhờ đó, chúng ta có thể chấp nhận thập giá với niềm vui và bình an vì biết rằng Thiên Chúa luôn đồng hành.
3. Vâng phục Thiên Chúa
Vâng phục Thiên Chúa được thể hiện qua sự yêu mến, qui hướng về Ngài tất cả bản thân, lấy Ngài làm khởi điểm, niềm vui, chốn tựa nương và cùng đích đời sống. Đàng khác, chúng ta chấp nhận thánh ý Thiên Chúa một cách vô điều kiện khi để Ngài sử dụng chúng ta như khí cụ hữu hiệu.
Mẫu gương vâng phục cho chúng ta là Chúa Giêsu. Chính Ngài đã nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của người” (Ga 4, 34). Con đường vâng phục của Chúa Giêsu cũng gặp phải những khó khăn, nhưng Ngài đã vượt thắng để chu toàn thánh ý Chúa Cha và vì phần rỗi nhân loại. Thư Do Thái đã viết: “Dầu là con Thiên Chúa, Đức Kitô đã phải trải qua nhiều đau khổ, mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5, 8). Công đồng Vaticanô II cũng đã nói lên ý hướng này: “Để chu toàn Thánh ý Chúa Cha, Chúa Kitô đã khai nguyên nước trời nơi trần gian, mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm của Ngài, và thực hiện việc cứu thế bằng sự vâng phục Chúa Cha”[5] . Chúa Giêsu đến không chỉ thực hiện những phép lạ phi thường, nhưng còn kinh qua con đường khổ giá bằng sự vâng phục. Như vậy, sự vâng phục của Chúa Giêsu mang giá trị cứu độ; một sự vâng phục đem lại cho nhân thế niềm hy vọng và hạnh phúc.
Trong chiều hướng đó, giá trị cuộc sống của chúng ta không hệ tại ở những thành quả việc làm có thể cân đo đong đếm được, mà hệ tại ở việc vâng phục Thiên Chúa. Bởi vì, dù đã hiến toàn thân mà không vâng phục, thì đang làm hoen úa của lễ mà mình đã dâng cho Thiên Chúa.
Chúng ta xác tín rằng một khi đặt tất cả trong vòng tay quan phòng của Chúa, thì sự vâng phục sẽ dễ dàng và ý nghĩa hơn. Nhờ đó, những phản kháng sẽ được hóa giải, loại bỏ những lý lẽ tự nhiên để đặt vào đó những xác tín về chiều kích siêu nhiên đã thúc đẩy chúng ta vâng phục. Đó cũng là tâm tình của cha Tổ Phụ H. Denis Biển Đức Thuận: “Xin Chúa cho chúng tôi được bằng lòng chịu đau khổ, và chịu cách vui vẻ… Hãy nhìn ngắm thánh giá và thưa: Dạ con xin vâng mọi sự Chúa gửi đến cho con”[6] .
Như vậy, chỉ có nơi Chúa, chúng ta mới hiểu được giá trị vâng phục. Trong Chúa, vâng phục không còn là một chướng ngại, cho bằng là phương thế hữu hiệu giúp chúng ta tiến sâu vào mầu nhiệm tình yêu mà Thiên Chúa đang mời gọi: vâng phục cách nhưng không, vâng phục đến cùng và hướng tới sứ vụ.
III. NƠI THIÊN CHÚA, CHÚNG TA ĐƯỢC MỜI GỌI
1. Kiến tạo sự hiệp nhất
Xây dựng cộng đoàn hiệp nhất và yêu thương là ước mong của những ai sống đời thánh hiến. Sự hiệp nhất là nhịp cầu nối kết đôi bờ của sự khác biệt để giải quyết những bế tắc và khắc phục những giới hạn. Nhờ đó, mỗi người không còn tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng tìm lợi ích cho người khác, cùng nhau chia sẽ những vui buồn sướng khổ và những thăng trầm của đời chứng nhân.
Sự hiệp nhất mà chúng ta tìm kiếm và nỗ lực kiến tạo là sự hiệp nhất khởi đi từ Thiên Chúa. Trong Người, chúng ta là con cái Thiên Chúa, có cùng “huyết thống”, nên cũng là anh chị em của nhau. Thánh Phaolo đã nói: “Nhờ đức tin, tất cả anh em là con cái Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô” (Gl 3, 26). Dĩ nhiên, sự hiệp nhất này không thể loại bỏ vai trò của Chúa Thánh Thần. Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy vai trò của Chúa Thánh Thần trong công cuộc xây dựng cộng đoàn sơ khai và sai đi làm chứng nhân. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các đặc sủng, các việc phục vụ hay hoạt động tông đồ, tuy khác nhau về cách thức nhưng có chung tâm điểm là Thiên Chúa, qua Đức Giêsu Kitô. Nơi thư Côrintô, thánh Phaolô viết: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người” (1Cr 12, 4-6). Như vậy, sự hiệp nhất của người kitô hữu, cách riêng của người đan sĩ được khởi đi từ nguyên lý hợp nhất giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Dấu chỉ biểu lộ rõ nét sự hiệp nhất là cùng nhau cầu nguyện và tham dự Bàn Tiệc Thánh. Ở đây, mỗi người được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thể như nguồn mạch và chóp đỉnh của hiệp thông. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày về điểm này trong Thông điệp Vita Consecrata: “Nhờ yêu thương nhau giữa các thành viên trong cộng đoàn, một tình yêu được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thể, được tinh luyện bằng bí tích hòa giải, được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất, là ân huệ mà Chúa Thánh Thần trao ban cho những ai biết lắng nghe và vâng theo Tin Mừng”[7] .
Như vậy, nhờ siêng năng tham gia dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, chúng ta đang mặc lấy tâm tình Đức Kitô (x. Pl 2, 5). Qua đó, mỗi người có được niềm phấn khởi tâm hồn, liên kết chặt chẽ trong tình yêu, đạt tới sự thông hiểu phong phú và nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa (x. Cl 2, 2). Có thể nói, không một thực tại trần gian nào đủ mạnh để lôi kéo chúng ta bỏ tất cả để bước vào con đường đầy cam go vì Tin Mừng. Như thế, cuộc sống của chúng ta hiện tại hóa mầu nhiệm tự hủy của Đức Kitô, Đấng vốn giàu sang đã trở nên nghèo, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có (x. 2Cr 8, 9).
Để tạo nên sự hiệp nhất nơi anh chị em, tiên vàn chúng ta phải hiệp thông với Thiên Chúa. Trong thực tế, ngôi nhà cộng đoàn không thể xây dựng trên nền cát với những thứ tạm bợ của cảm tính, nhưng cần xây dựng trên nền đá là Lời Chúa và các bí tích: chỉ có Chúa mới đem lại sự hiệp thông trọn vẹn, có khả năng giúp chúng ta sống hiệp nhất với nhaucho dầu còn đó những khác biệt.
2. Dấn thân phục vụ
Dấn thân phục vụ đòi hỏi phải có một tình yêu chân thành, một con tim nhạy cảm để nhận ra những nhu cầu thiết yếu mà người khác đang cần. Nói như thế, khi phục vụ, chúng ta nhắm đến nhu cầu cộng đoàn, ngay cả khi phải chấp nhận thua thiệt bản thân vì phần rỗi anh chị em. Lm Quirico thật có lý khi nói: “Phục vụ người khác có nghĩa là đặt sang một bên điều mà chính mình cần làm vì lợi ích bản thân để ưu tiên cho những gì mang lại lợi ích cho người khác. Yêu thương lẫn nhau sẽ dẫn tới phục vụ lẫn nhau”[8] .
Thánh Phaolô là mẫu gương về con người dấn thân phục vụ. Cuộc đời ngài là chuỗi ngày hy sinh, chấp nhận thiệt thòi vì lợi ích Giáo hội; qua Giáo hội, thánh nhân đã phục vụ Thiên Chúa và ngài “hãnh diện về công việc phục vụ này” (Rm 15, 17). Ngài nói: “Tôi tạ ơn Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm tôi mà gọi tôi đến phục vụ Người” (1Tm 1, 12). Niềm khát mong của thánh nhân là kiến tạo một cộng đoàn an bình, trong đó mỗi người tìm lợi ích cho người khác, chứ không phải đóng kín trên chính mình (x. Pl 2, 4). Bởi đó, ngài mời gọi mỗi người: “Anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng những chi thể của anh em như khí cụ làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa” (Rm 6, 13). Ngài xác tín rằng, khi phục vụ là mỗi người đang làm những gì có thể để tôn vinh Thiên Chúa (x. 2Cr 9, 13).
Trên hết, chúng ta phải làm nổi bật tinh thần dấn thân phục vụ. Thật khó để thúc đẩy cộng đoàn dấn thân, trong khi cuộc sống của các thành viên èo uột và thiếu hấp lực. Hơn nữa, chúng ta không thể thắp lên nơi người khác ngọn lửa hăng say, nếu chỉ nhắm đến lợi ích riêng tư hay thiếu nhịp đập của con tim nhiệt thành và đóng kín trước nhu cầu tha nhân. Người khác sẽ phục vụ thực sự khi nhìn thấy nơi chúng ta ước vọng của Thiên Chúa muốn xoa dịu những nỗi đau của người khác, và nếm hưởng niềm vui ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa khi trao ban[9] . Họ không chờ nơi chúng ta làm được hết mọi sự, nhưng cùng với người khác làm những gì có thể.Vả lại, hướng đích của việc phục vụ không phải là làm được cái gì, cho bằng ý Thiên Chúa muốn gì khi làm những việc đó. Điều này giúp chúng ta tránh được sự hăng say thái quá hay nhụt chí, chán chường khi thất bại hoặc bị chống đối.
3.Nhân Chứng Tin Mừng
Sứ vụ truyền giáo là tiêu chí hàng đầu của mọi Kitô hữu, cách riên người đan sĩ, vì nó hiện tại hóa lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19). Cho nên, mỗi đan sĩ là một lực đẩy giúp sứ mệnh loan báo Tin Mừng đạt tới viên mãn.
Dĩ nhiên, sứ mệnh này sẽ không đi về đâu nếu người thừa sai chưa thiết lập mối dây thân tình với Thiên Chúa. Do đó, sứ điệp truyền giáo không đơn thuần là đi ra nhưng còn hệ tại ở lại, chìm đắm trong Đấng đã sai mình. Người sống tinh thần sứ vụ là người biết đặt để đời mình vào Đấng đã mời gọi để tìm nơi Ngài sự tươi trẻ cho đời chứng nhân. Trong Thông điệp Đấng Cứu Thế, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Có ở trong tình liên kết với Đức Kitô thì mới hiểu và sống sứ vụ truyền giáo”[10]. Ở trong tình yêu Đức Kitô đồng nghĩa với việc được Ngài chiếm hữu. Lúc ấy, cùng với thánh Phaolô, chúng ta nói rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Như vậy, để trở thành thợ gặt lành nghề cho Giáo hội, chúng ta phải đào luyện bản thânvới những đức tính phù hợp với Tin Mừng. Điều quan trọng hơn cả là chúng ta cần đi vào mối tương quan thân tình với Chúa để cảm thấu được tình yêu trao ban và tầm quan trọng của việc loan báo Tin Mừng. Nhờ đó, cùng với thánh Phaolô, chúng ta xác quyết: “Đối với tôi rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9, 16).
Kết Luận
Chúng ta không trốn đời hay chán đời khi bước vào khung cảnh thanh vắng và cô tịch của Đan viện. Vả lại, Đan viện cũng không phải là nơi chôn vùi cuộc đời chúng ta trong an phận, dửng dưng trước dòng chảy của cuộc sống và nỗi khổ của tha nhân. Nhưng giữa muôn vàn chọn lựa, chúng ta không lấy gì làm hơn Chúa Kitô. Khát vọng thâm sâu nhất của những ai chọn đời sống chiêm niệm là Thiên Chúa: Ngài là gia nghiệp đời con, là cùng đích con hằng vươn tới và là lẽ sống con hằng khát khao. Nhờ tình yêu Thiên Chúa thúc bách (x 1Cr 14, 9), chúng ta xây dựng mối tương quan bền chặt với Thiên Chúa, sống cho Ngài và qui hướng tất cả về Ngài. Dĩ nhiên, con đường dẫn chúng ta tới gặp Thiên Chúa, cũng là lối ngỏ dẫn chúng ta đến với tha nhân. Qua lăng kính của tình yêu Thiên Chúa, chúng ta đọc ra được những dấu chỉ thời đại, đi vào nỗi thao thức của tha nhân, nhiệt tâm phục phục và nên men muối Tin Mừng để ướp mặn tình người.
[1] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao lô II, Tông Huấn Vita Cosecrata, ban hành ngày 25/3/1996, số 8.
[2] Lời Giáo Huấn của Cha Denis Thuận, đấng sáng lập Hội Dòng Xito Thánh Gia Việt Nam, số 27.
[5]Công Đồng Vaticano II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, Phân Khoa Học Viện Piô X dịch 1972, số 3.
[6] Lời Giáo Huấn của Cha Denis Thuận, đấng sáng lập Hội Dòng Xito Thánh Gia Việt Nam, số 48.
[7]Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Vita Conserata, ban hành ngày 25/03/1996, số 42
[10]Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông Điệp Đấng Cứu Thế, ban hành ngày 7/12/1990, số 88.
VÔ CẢM
“Vô cảm” là một căn bệnh[1] dường như khá phổ biến trong xã hội ngày nay. Nó là một trong 15 căn bệnh[2] của những người phục vụ tại giáo triều Roma và cũng là cám dỗ của mọi tín hữu. Điều này đã được Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc đến trong buổi tiếp kiến các vị lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh sáng ngày 22-12-2014.
Dửng dưng[3] hay vô cảm là thái độ thờ ơ không có một chút cảm xúc, một chút tình cảm nào trước con người hay tình cảnh nào đó. Nó không chỉ dừng lại trên phương diện thiếu nhân bản, kém về giao tế… nhưng là một trong những tội mà nhân loại phạm ngày càng nhiều, như lời Đức Thánh Cha Phanxicô lên án tình trạng chung của thế giới[4] .
Nói riêng về đời sống dâng hiến, thái độ dửng dưng hay vô cảm với nhân loại, nhất là với anh chị em cùng chung sống, khiến nhiều tu sĩ không tìm thấy niềm vui, mất đi ý nghĩa, ảnh hưởng đến căn tính của đời dâng hiến[5] và không hạnh phúc với chọn lựa. Liệu Đan sĩ có mắc phải căn bệnh này không và đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó? Giải pháp nào cho “căn bệnh trầm kha” [6] này? Đây cũng là những vấn đề sẽ được minh giải trong bài viết.
I. Nguyên nhân
Hiểu một cách chung chung “Vô cảm” hay “Dửng dưng” là trạng thái con người không có tình cảm, sống khép mình lại, thờ ơ lạnh nhạt với sự việc hay con người xung quanh. Với nhịp sống hiện đại và văn hóa: “Đèn nhà ai nhà ấy rạng” như ngày nay, khiến một số người chỉ lo vun vén cho đời sống cá nhân mà quên đi các mối tương quan với người lân cận. Một số người tự làm mình trở nên xa lạ, không quan tâm đến ai, không biết đến niềm vui nỗi buồn ngay cả sự hiện hữu của người khác. Đó là “bệnh vô cảm”, là thái độ dửng dưng trước hoàn cảnh của người đồng loại, họ sống phần “con” nhiều hơn phần “người”. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến vô cảm, nó xuất phát từ cách sống ích kỷ, thượng tôn cá nhân hoặc sợ bị phiền phức.
1. Đề cao mình – chủ nghĩa cá nhân.
Tâm lý chung ai cũng cho mình quan trọng, giỏi giang, hiểu sâu biết rộng; còn người khác kém hơn hay ít ra phải thừa nhận khả năng của mình. Vì ngộ nhận mình là “cái rốn của vũ trụ” nên người khác bị lọt khỏi tầm nhìn hoặc chẳng đáng để quan tâm. Do đề cao mình quá đáng, chỉ lo cho mình…. nên chẳng còn thời giờ và sức lực quan tâm đến người khác. Triết gia cổ đại Socrate đã dạy chúng ta bài học khôn khi nói: “Hãy tự biết mình” để giảm bớt tình trạng bệnh tật hão huyền do mình tự tạo nên. Đúng vậy, tự biết mình mới có khả năng biết người. Bao lâu không nhận ra chỗ đứng của mình thì mọi trật tự đều bị đảo lộn. Tội nguyên tổ cũng khởi đi từ đó, nó trở thành mẫu số chung của mọi lạm dụng quyền hành, dẫn đến thái độ bất chấp tất cả, sẵn sàng lên án hay hạ gục người khác, ngay cả Đấng Tạo Hóa.
Một trong những điều tự mãn với những gì mình có. Đó là của cải, tài năng và sắc đẹp…. Người lắm tiền nhiều của sẽ không cần tới ai khác và vì thế sẽ không chú ý đến những người chung quanh. Trường hợp nhà phú hộ trong Tin mừng (Lc 16, 19-26) là một dẫn chứng cụ thể. “Ông có nhà cao cửa rộng, mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Chỉ mải mê hưởng thụ, ông không có thời giờ nghĩ đến người khác. Ladarô nằm thoi thóp bên cửa nhà mà ông không nhìn thấy. Ladarô có rên rỉ vì đau đớn, đói khát ông cũng không nghe thấy. Tự mãn đã khiến trái tim ông khép chặt lại, biến ông thành vô cảm trước những đau khổ của tha nhân. Những mẩu bánh dư thừa, ông đâu có tiếc gì. Thế nhưng ông chẳng có thời giờ nghĩ đến Ladarô. Và người ta vất những mẩu bánh dư thừa vào thùng rác trong khi Ladarô mơ ước được những mẩu bánh dư ăn cho đỡ đói. Tự mãn đã biến ông nhà giàu thành ích kỷ, thiếu tình liên đới”[7] .
Trong Đan viện, nếu Đan sĩ không có tiền của vật chất để coi mình đã đủ thì có những thứ khác như sức khỏe, tài năng, hay địa vị….. cũng rất dễ làm Đan sĩ có lý để tự mãn hay thấy thiếu mình cộng đoàn khó phát triển hoặc cộng đoàn phải cung ứng những gì tôi cần tôi mới phục vụ…. Đó chẳng phải là thái độ đề cao mình quá đáng hay sống theo chủ nghĩa cá nhân sao?
Những thờ ơ lãnh đạm của Đan sĩ nếu có cũng xuất phát từ việc thiếu lòng tin. Chính vì chưa đủ lòng tin nên đây đó vẫn còn xảy ra những điều thiếu tích cực trong các tương quan huynh đệ trong cộng đoàn. Điều này không phải chuyện thời nay nhưng đó là chuyện “xưa như trái đất”. Quả vậy, khi Đức Giêsu trở về quê hương của mình thì dân làng Nazareth, tỏ thái độ hết sức lạnh nhạt, thờ ơ, lãnh đạm. Mặc dù thấy sự khôn ngoan của Đức Giêsu khi giảng trong hội đường nhưng họ không đủ vô tư, còn bị ám ảnh bởi quá khứ mờ nhạt của Người: thành kiến về “bác thợ mộc” chưa được thay thế bởi Đấng Messia. Họ dửng dưng và vấp ngã đối với Đức Giêsu.
Đúng vậy, một khi lãng quên Thiên Chúa, không tin vào Ngài, thì chẳng có gì để bàn thêm nữa: “Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin” (Mt 13, 58). Là Đan sĩ, có lẽ chúng ta không dửng dưng với Thiên Chúa nhưng lại chưa quan tâm đủ đối với những anh chị em của mình, không còn nhận ra người đối diện là hình ảnh Thiên Chúa. Thiếu đi tính thánh thiêng đó, Đan sĩ cũng chỉ xử sự với nhau như “kẻ qua đường”, chuyện đó không liên can gì đến tôi.
Nhìn vào thế giới hôm nay chúng ta thấy ngày càng nhiều những hậu quả đáng tiếc do việc sống thiếu trách nhiệm, vô cảm, dửng dưng giữa con người với nhau, thậm chí xảy ra ngay trong gia đình, giữa con cái với cha mẹ hay giữa anh chị em ruột thịt với nhau: con người trở nên xa lạ, dị hợm nếu không muốn nói là có biểu hiện của sự độc ác, hành động như một kẻ điên – không còn tính người; trái lại hành xử với nhau như bản chất của những loài thú hoang (Jean Paul Sartre). Dụ ngôn người đi vay món nợ khổng lồ được chủ mình tha bổng, nhưng lại không biết tha cho kẻ mắc nợ mình món nợ nhỏ nhoi là minh chứng cụ thể về lối sống đó (x. Mt 18, 23-35). Nhân vật xử tệ với con nợ trong dụ ngôn đã thiếu lòng quảng đại, sự bao dung để thỏa mãn tính ích kỷ của mình, một thái độ khép kín lòng mình trước nỗi khổ đau của tha nhân.
2. Ích kỷ – “cửa lòng” khép kín.
Sự “Dửng dưng” hay “Vô tâm” xét cho cùng là biểu hiện của một thái độ ích kỷ, chỉ biết có mình. Tự rút mình vào đời sống an toàn bản thân, xây dựng pháo đài và ấp chiến lược để cho mình khỏi bị phiền hà nhằm tôn thờ mình, đã tự biến mình thành gỗ đá. Sự ích kỷ cá nhân là mầm mống sinh ra vô cảm và muôn vàn hệ lụy khác, bởi khi sống ích kỷ, người ta không còn thấy ai, mà chỉ thấy có bản thân mình. Xét mọi mặt nó tệ hơn thái độ lạnh nhạt hay vô tư quá đáng, vì nó mang chiều kích của một hành vi nhân linh rõ ràng: một thái độ sống có chọn lựa, với ý thức rõ ràng và tự do đầy đủ.
Không nhìn nhận người khác là anh em của mình cũng đồng thời không nhìn nhận Thiên Chúa là Cha. Thái độ khép kín dẫn đến những hành động tội lỗi, bất lương mà đôi khi người ta cứ tự ru ngủ rằng tôi chẳng làm gì nên tội vì tôi sống công bằng. Dụ ngôn nhà phú hộ và anh Lazaro là một trong những ví dụ như vậy. Nhà phú hộ tự nhủ mình có tiền thì mình ăn xài chứ có làm chuyện bất lương gì đâu, nhưng vì vô cảm với kẻ nghèo khổ bên mình, ông đối xử với người đồng loại của mình không bằng một con chó. Ông phú hộ đã đánh mất ơn cứu độ chỉ vì ông ta đã sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình và ăn chơi hưởng thụ đến độ không còn nhìn thấy hay giả bộ không nhìn thấy để khỏi phải trợ giúp cho Lazarô. Nhà phú hộ sống trên nhung lụa, ngày ngày yến tiệc linh đình thế mà ông lại không hề biết ra tay giúp đỡ cho Lazarô, là kẻ bần cùng, luôn ngồi trước cửa nhà ông. Thái độ bàng quang lạnh lùng, sự dửng dưng, coi như không có sự hiện diện của Lazarô xuất phát từ sự ích kỷ quá đáng, dẫn đến tình trạng mù quáng, thiếu trách nhiệm liên đới với tha nhân. Sẽ không giải quyết được gì nếu sự vô cảm còn tồn tại, khi con người chỉ biết qui hướng về bản thân.
Một dụ ngôn khác trong Tin mừng thánh Luca cho chúng ta rõ hơn diện mạo của những người sống vô cảm: thầy Lêvi và thầy Tư Tế trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (x. Lc 10, 29-37) xuất hiện với tội thiếu trách nhiệm, dửng dưng với người đồng loại. Những người đầu tiên gặp kẻ khốn khổ đang nằm bên đường là thầy Tư tế và thầy Lêvi – những người có nhiệm vụ chăm sóc và giúp đỡ người khác – lại là những kẻ vội vàng tránh đi. Họ không biết chạnh lòng thương, từ chối ra tay giúp đỡ vì sợ bị phiền hà.
Khi chân thành xét mình, mỗi Đan sĩ chúng ta cũng sẽ nhận ra, có không ít lần chúng ta hành xử như thầy Tư tế và thầy Lêvi để đánh mất đi cơ hội quí đóng vai người Samaritanô tốt lành đối với anh chị em trong Đan viện của mình. Vì chúng ta ích kỷ, sợ mất công sức, thời gian… và đủ mọi lý do khác, nên chúng ta tìm đường để thoát. Chúng ta đã quên hay cố tình làm ngơ trước lời nghiêm khắc của thánh Giacôbê khi đưa ra nguyên tắc chung cho tất cả mọi người phải thực hiện, đó là: “Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội” (x. Gc 4, 17).
Dửng dưng với người khác cũng xuất phát từ nguyên nhân là do lòng ghen tị. Đó là bước tiếp theo của tính ích kỷ và quên ân huệ Thiên Chúa. Kinh Thánh đã mạc khải cho chúng ta điều đó ngay từ những ngày đầu tiên của loài người: với lòng ham muốn do ma quỉ gợi lên để cuối cùng người phụ nữ đầu tiên của nhân loại đã vi phạm lệnh truyền của Thiên Chúa. Sự đổ vỡ của con người với Đấng Tạo Hóa là một tiến trình phát xuất từ động lực sâu kín. Đó là việc quên ân huệ dẫn đến nghi ngờ Thiên Chúa, ghen tị với Thiên Chúa và ham muốn trở nên bằng Ngài. Ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, từ ghen tị sẽ phát sinh biết bao điều xấu xa khác: lòng ghen tị của Cain với Abel (St 4, 1-8); các người anh lớn trong gia đình ông Giacóp đối với Giuse (St 37, 3-4…); nhóm kinh sư và biệt phái đối với Đức Giêsu,… và nhân loại cứ thế đi vào vết xe đổ của tội nguyên tổ. Sở dĩ họ không chấp nhận người khác, vì người đó là nguyên nhân làm mất quyền lợi của mình hay ít ra cũng gây phiền hà ít nhiều cho mình.
3. Không muốn bị quấy rầy – sợ mất quyền lợi.
Vì không muốn mất quyền lợi, sợ bị người khác quấy rầy nên chúng ta cứ vô cảm trước nỗi khó khăn, sự đau khổ của người đồng loại. Như thế liệu chúng ta có công tâm và bình an để nhận mình yêu mến Thiên Chúa được không? Thánh Gioan đã viết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối” (1Ga 4, 20). Cứ theo logic tính thì vô cảm là một hình thức vi phạm điều này, một sự lừa dối Thiên Chúa.
Chúng ta hãy tiếp tục nghe lời dạy của thánh Gioan: “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3, 17-18). Yêu mến Thiên Chúa đúng mức phải được cụ thể hóa cách rõ ràng qua hành động cụ thể đối với những người thân cận của mình. Thật vậy, người ta ưa nói lý thuyết hay mơ tưởng thực hiện những tham vọng lớn lao nhưng dễ quên những tương giao bình dị và ra tay kịp thời khi người anh chị em của mình cần được giúp đỡ.
Một trong những biểu hiện của thái độ dửng dưng trong đời sống cộng đoàn đó là sự thinh lặng chết. Chúng ta sẽ nghĩ gì và bình luận thế nào nếu nghe có một người anh em hay chị em ở chung vách tường với anh hay chị em của mình trong Đan viện, nhưng một đêm kia người anh hay chị em đó bị “tụt” huyết áp, chẳng còn biết làm cách nào để đánh thức người bên cạnh giúp đỡ mình. Cây cọc giăng mùng được cố gắng đập vào tường báo hiệu, nhưng tiếng kêu đơn điệu đó không được hồi đáp thì người anh chị em đó cũng phải đành tủi nhục chịu trận một mình trong vô vọng. Hoặc có vị giảng thuyết kia giảng rất hay, các đề tài của bài giảng toàn là bác ái yêu thương nhưng khi trông thấy một anh em có chuyện bất thường về sức khỏe, cần giúp đỡ thì không có bất cứ một động thái nào. Tại sao? vì sợ bị phiền phức, mất giờ, mất ngủ nên chọn giải pháp không nghe, không thấy.
Nguy cơ xảy ra những trường hợp đáng tiếc kể trên đây thường xuất hiện trong các cộng đoàn lớn và mọi sự đã ổn định: một nguyên tắc bất thành văn khi “việc ai người đó làm”, tôi không xía vào việc của người khác khiến xảy ra nhiều điều đáng tiếc. Với chủ trương làm vừa đủ, tránh bao nhiêu hay bấy nhiêu, nên có biết bao lần nghe thấy chuông điện thoại reo hoài, hay bất chợt gió làm chốt cửa bung ra…. mà vẫn “án binh bất động”, thản nhiên như không hề có chuyện gì. Ngay cả đến việc chu toàn bổn phận cũng dễ bị “lạm dụng”: nếu các công tác trong cộng đoàn được giao để mọi người phục vụ nhau nhưng chủ trương từ chối giúp đỡ người khác bao nhiêu có thể để khỏi bị phiền phức là chúng ta chưa thực thi nghĩa vụ công bằng, đừng nói đến chuyện thiếu bác ái.
Ai cũng thấy ngại ngùng và đau buồn khi phải tỉ mỉ nhắc đến những nguyên nhân dẫn đến lối sống vô cảm. Tuy nhiên nó lại rất cần thiết để chúng ta tìm cách khắc phục. Vậy toa thuốc nào cho căn bệnh đó?
II. Một vài đề nghị cách khắc phục.
Vô cảm là căn bệnh khó điều trị, nó “hâm hẩm” như cách nói của sách Khải Huyền: “Phải chăng ngươi nóng hay lạnh hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3, 15-16). Tác hại của bệnh vô cảm gây nên rất lớn, nó ảnh hưởng trực tiếp đối với người khác, đặc biệt khi sống chung suốt đời trong một cộng đoàn Đan viện như các Đan sĩ. Cần có một nhãn quan mới về chính mình và về người đồng loại, chúng ta mới hy vọng chữa khỏi căn bệnh vô cảm tai hại này. Khởi đi từ cái nhìn siêu nhiên, từ đó chúng ta sẽ có hướng thể hiện lòng yêu thương quảng đại của chúng ta với mọi người.
1. Nhìn ra ân huệ của Chúa trong cuộc đời.
Người vô cảm lấy mình làm quan trọng, đặt mình ở vị trí trên hết, tưởng mình làm được tất cả nên từ chối nhận ra ân huệ Chúa ban cho mình cũng như người khác. Người dửng dưng sẽ không sống được tâm tình của thánh Phaolô: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12, 15) nhưng ghen tức với người vui và hoan lạc khi người khác phải đau khổ. Họ cũng không đủ nhạy bén để đọc ra ý nghĩa của mỗi hoàn cảnh hay biến cố xảy đến trong đời.
Toa thuốc thứ nhất giúp những ai mắc bệnh vô cảm là làm thế nào nhận ra những ân huệ Chúa bao trùm cả cuộc đời mình. Công tâm mà nói cuộc đời của chúng ta được như thế này là một chuỗi tháng ngày đón nhận hồng ân bao la của Thiên Chúa ban tặng qua cha mẹ, thầy cô, họ hàng, bạn bè, hàng xóm, cộng đoàn Đan viện và thậm chí cả những người chúng ta không hề quen biết. Một khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa và sự quan trọng của tha nhân trong cuộc đời, chúng ta mới thốt lên lời cảm nghiệm giống thánh Phaolô: “Tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa” (1Cr 15, 10).
Vâng, cuộc sống chỉ tồn tại và có ý nghĩa khi chúng ta ý thức tất cả những gì mình có đều đã nhận lãnh một cách nhưng không. Tất cả đã được chuẩn bị sẵn từ rất lâu rồi để ta có thể đảm nhiệm tốt hơn ơn gọi và sứ mạng hiện tại. Chúng ta sống được là nhờ người khác, và lúc khởi đầu luôn luôn là ơn huệ nhưng không và tuyệt đối. Vì thế, chúng ta được mời gọi ghi nhớ những ơn huệ thuở ban đầu này, một đàng để không ngừng tạ ơn và ca tụng tình thương bao la của Thiên Chúa, đàng khác để định hướng đời mình, làm sao sống tốt hơn ơn gọi từng ngày. Mặc lấy tâm tình của Vịnh gia, chúng ta cũng hát lên: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng” (Tv 88, 2a).
Nhận được ơn Chúa thì chúng ta có trách nhiệm sử dụng những “nén bạc” Chúa trao để sinh lời ra nhiều nén khác; đồng thời cũng biết chia sẻ và trao ban cho người khác, vì người khác cũng là anh chị em của ta, là hình ảnh sống động của Thiên Chúa.
2. Thấy người khác là anh em và hình ảnh của Thiên Chúa.
Sống dửng dưng vô cảm là chưa sống theo lương tâm Kitô giáo. Đan sĩ là gì nếu không phải là những người được mời gọi sống sung mãn ơn gọi Kitô hữu. Vì thế, việc nhạy bén trước nhu cầu người khác chỉ có được nếu Đan sĩ nhìn ra trên khuôn mặt họ dung mạo của Thiên Chúa. Ai sống đúng lương tâm Kitô giáo là biết nhận ra nhu cầu của anh em mà tìm cách đáp ứng.
Dụ ngôn ngày phán xét chung thẩm (x. Mt 25) là cả một bức tranh toàn cảnh nói lên đầy đủ về hình ảnh Thiên Chúa hiện diện nơi những người anh chị em cần được nâng đỡ, điều mà rất nhiều khi chúng ta quên hay không biết. Chúng ta như những người bên tả Vị Thẩm Phán cứ chờ cơ hội để làm phúc cho Chúa nhưng lại ngang nhiên hất hủi, sỉ vả, mắng chửi, đánh đập những người chung quanh là hình tượng sống động của Thiên Chúa do chính Ba Ngôi Thiên Chúa dựng nên mà không áy náy lương tâm.
Sở dĩ điều lành không còn cơ hội để làm lại và bị loại khỏi vương quốc như thế cũng chỉ vì người ta không nhận ra những người đang sống chung quanh mình là những hình tượng sống động của chính Thiên Chúa. Mọi người chung quanh chúng ta, dù bần cùng cơ cực, dù đau yếu bệnh tật, dù bị tù đày hay bị ruồng bỏ… cũng đều đáng được tôn trọng, đáng được yêu thương và phục vụ vì họ là hiện thân của Chúa Cứu Thế, là phần thân thể của Chúa Giêsu.
Sống với nhau trong Đan viện, các Đan sĩ chúng ta “không làm các việc phi thường” nhưng “làm các việc bình thường một cách phi thường”, khi thực hiện tình bác ái huynh đệ qua những điều nho nhỏ đúng lúc và tế nhị cho nhau nhưng nó lại rất cần thiết, ý nghĩa và quan trọng. Một nghĩa cử đơn giản khi trao ban cho nhau những nụ cười chân thành cũng đem lại nghị lực và hạnh phúc cho người anh chị em. Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Chúng ta được kêu gọi để cảm nghiệm và tỏ ra rằng Thiên Chúa có thể làm tràn đầy con tim của chúng ta và làm cho chúng ta hạnh phúc, mà không cần tới việc đi tìm nơi khác, hạnh phúc của chúng ta là tình huynh đệ đích thực được sống trong cộng đoàn của chúng ta”[8] . Có thể một nụ cười, một lời động viên hay một lời chia sẻ chân thành và cảm thông của chúng ta với anh chị em trong cộng đoàn đúng lúc, sẽ xua tan đi những buồn phiền, chán nản, mệt mỏi nơi anh chị em. Thái độ đồng cảm, ý nhị đó bộc lộ gương mặt của Thiên Chúa – Đấng giàu lòng thương xót và tha thứ: Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta và anh chị em của chúng ta.
3. Xót thương như Chúa.
Từ ngàn đời, Thiên Chúa đã thể hiện Ngài chính là Thiên Chúa giàu tình yêu. Ngài chạnh lòng xót thương nhân loại, nhưng không phải nhân loại chung chung nào đó, mà là chạnh lòng thương cụ thể từng người một. Lịch sử cứu độ vẫn còn đó như một bằng chứng hết sức cụ thể, hết sức lớn lao về sự không hề vô cảm, nhưng nghiêng mình xuống của Thiên Chúa để thể hiện lòng xót thương trên nhân loại. Suốt dòng lịch sử cứu độ là trọn cả dòng lịch sử khắc ghi đậm nét tình yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại[9] .
Thiên Chúa từ muôn đời và cho đến tận cùng thời gian đã không vô cảm nhưng luôn chạnh lòng thương con người. Vì thế, Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa làm người đã thể hiện mọi nơi, mọi thời tình yêu thương không mệt mỏi của Thiên Chúa đối với nhân loại. Thờ ơ lãnh đạm, vô cảm đi ngược với đường lối của Thiên Chúa, một Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương trước mọi khổ đau của con người. Đan sĩ cũng được mời gọi bắt chước lòng thương xót yêu thương của Thiên Chúa. Năm thánh lòng thương xót mở ra không những là cơ hội tốt cho chúng ta nhưng đồng thời cũng là hồi chuông cảnh tỉnh chúng ta về những thiếu xót trong lãnh vực này.
Thánh Gioan đã lên án thái độ dửng dưng khi đề cập hai từ trong sách Khải Huyền: “Phải chi ngươi nóng hay lạnh hẳn đi còn cứ hâm hẩm thì….”. Thiên Chúa không thích, cũng chẳng ưa cách sống như vậy. Vì vậy Đan sĩ chúng ta hãy học lấy sự “chạnh lòng thương” của Chúa Giêsu, noi theo tấm gương hy sinh của Chúa Giêsu để tình thương của chúng ta cũng được dàn trải trên mọi người chúng ta gặp gỡ, nhất là những anh chị em sống cùng với mình. Nếu như người Đan sĩ được mời gọi theo sát Đức Kitô, thì việc sống theo những gì Đức Kitô đã sống trở thành điều kiện tất yếu, một đòi hỏi không được miễn chuẩn: Đan sĩ không chỉ an phận sống theo các lời khuyên Phúc Âm và luật lệ trong dòng mà phải sống chính lòng thương xót của Chúa. Có như vậy thì đời Đan sĩ mới thực sự có giá trị trước mặt Chúa.
Các Đan sĩ chúng ta nếu không tìm ra ý nghĩa và mục đích tinh tuyền của hành trình theo Chúa, thì việc vào Đan viện cũng là việc trốn đời, một sự dửng dưng, vô cảm trần gian như nhận định của Thomas Merton. Quả vậy, tác giả cuốn An bình đan tu viết: “Đan sĩ không thể chỉ hài lòng với chuyện trốn tránh một thế giới tội lỗi khủng khiếp để ẩn mình nơi Đan viện trong cuộc sống không vương tội lỗi nhưng lại tự mãn và và vô trách nhiệm”[10] .
Kết
Vô cảm trước nỗi khó khăn nỗi đau khổ của người đồng loại là căn bệnh không chỉ xảy ra với người đời, nơi các Kitô hữu mà ngay cả các tu sĩ, Đan sĩ vốn là mẫu người được coi là sống và chết vì mọi người. Căn bệnh này thật nguy hại vì có khả năng giết chết tính người trong ta. Chữa trị bệnh dửng dưng, phòng chống bệnh vô cảm là điều cấp thiết đối với chúng ta ngay lúc này. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã viết: “Chỉ khi nào tôi phục vụ cho láng giềng của tôi thì mắt tôi mới mở ra được để thấy những gì Chúa đã ban cho tôi và Người yêu tôi chừng nào”[11] .
Người xứ Samaria là hình ảnh rõ nhất gương mặt nhân hậu của Chúa Giêsu vì ông có một trái tim nhạy bén, biết rung cảm với người đau khổ. Trái lại, người vô cảm lại biến trái tim mình thành tảng băng giá lạnh. Chung quanh ta có biết bao nhiêu người nghe, thấy và biết các nhu cầu của anh chị em mình, nhưng vì trái tim bị đóng kín nên vẫn còn đó những thiếu xót bất công và cay đắng. Chỉ khi nào trái tim con người biết mở ra thì người ta mới có khả năng quan tâm đến người anh chị em của mình. Trái tim quan tâm biết làm tất cả để phục vụ anh em như gương của Chúa Giêsu: Người không lãnh đạm, không vô cảm trước nỗi đau, sự thống khổ, hay những hình ảnh đáng thương của con người.
Người xứ Samaria là hình ảnh rõ nhất gương mặt nhân hậu của Chúa Giêsu vì ông có một trái tim nhạy bén, biết rung cảm với người đau khổ. Trái lại, người vô cảm lại biến trái tim mình thành tảng băng giá lạnh. Chung quanh ta có biết bao nhiêu người nghe, thấy và biết các nhu cầu của anh chị em mình, nhưng vì trái tim bị đóng kín nên vẫn còn đó những thiếu xót bất công và cay đắng. Chỉ khi nào trái tim con người biết mở ra thì người ta mới có khả năng quan tâm đến người anh chị em của mình. Trái tim quan tâm biết làm tất cả để phục vụ anh em như gương của Chúa Giêsu: Người không lãnh đạm, không vô cảm trước nỗi đau, sự thống khổ, hay những hình ảnh đáng thương của con người.
Sống trong Đan viện, các Đan sĩ lấy Chúa Kitô làm lẽ sống của mình và làm tất cả theo gương Người. Mặc dù ít có cơ hội làm những gì ngoạn mục nhưng trong Đan viện chúng ta có đủ điều kiện, có đủ cơ hội để sống chan hòa tình bác ái yêu thương anh chị em của mình. Ước gì những nguyên nhân của căn bệnh dửng dưng hay vô cảm sẽ được khắc phục bằng những giải pháp cụ thể, để căn bệnh nguy hiểm đó không còn lý do để tồn tại trong ta, trong cộng đoàn của ta.
[1] Trong y học không có bệnh vô cảm. Đó là căn bệnh của cách hành xử, căn bệnh của lối sống.
[2] Đức Thánh Cha Phanxicô gọi bệnh thứ 11 là Bệnh dửng dưng đối với người khác. Khi mỗi người chỉ nghĩ đến mình và đánh mất sự thành thực và quan hệ nồng nhiệt với nhau.
[5]Theo nhận định của Đức thánh cha Phanxicô.
[6] Lm. Giuse Nguyễn Trọng Viễn, op. “Vô cảm – Căn bệnh trầm kha của thời đại”. Buổi nói chuyện trong Chương Trình Chuyên Đề, Ban Mục Vụ Gia Đình – Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo Phận Sài Gòn, ngày 28.04.2012, tại hội trường Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận.
[7]Bài viết của Đức Cha Ngô Quang Kiệt – http://gpcantho.com/Bai-Viet-Giao-Phan-Can-Tho
[8] Tông thư năm đời sống thánh hiến, số II, 1.
[9] Tham khảo bài “XIN ĐỪNG VÔ CẢM” của Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG, http://www.conggiaovietnam.net
[10]x. An bình Đan tu, Thomas Merton, dịch giả: Viện phụ Phan Bảo Luyện, tr. 5.
[11]Thông điệp Deus Caritas Est số 18.
KHƠI NGUỒN CẢM HỨNG
FM.Thomas Nguyễn Văn Giang_ Đan viện CSĐD
Đam mê là một trong những yếu tố có vai trò quan trọng quyết định đến sự thành công của một người trong cuộc sống.Một học viên nếu học với một lòng đam mê thì sẽ tiến mau và tiến xa trong việc lãnh hội tri thức cũng như sự thành thạo trong nghề nghiệp. Đam mê trở thành nguồn động lực của cuộc sống con người. Và người ta sống với nhiều đam mê khác nhau. Có những đam mê dẫn đến sự thăng tiến bản thân, ích lợi cho xã hội, cũng có những đam mê làm băng hoại xã hội, huỷ hoại bản thân. Nhiều người trong xã hội hôm nay sống trong đam mê “tiền- tài- tình” để mong thoả mãn cơn khát khao “danh- lợi- thú”. Với nhiều người, những đam mê này thúc đẩy họ sống trong sự hưởng thụ và hưởng thụ.
Sống trong xã hội tục hoá như vậy, người tu sĩ hôm nay cũng phải đối diện với nhiều thách đố tiêu cực như cám dỗ chạy theo thế gian, sống theo thói đời, giảm sút lòng nhiệt thành, sự nản lòng, nỗi sợ hãi, ngại dấn thân…Trước thực tại đó đòi người tu sĩ, như lời Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ là phải sống hiện tại với lòng say mê và ôm lấy tương lai với niềm hy vọng[1] .
Trước hết phải “say mê Thiên Chúa” bằng một tình yêu không giới hạn và “say mê phần rỗi các linh hồn” trong nỗ lực loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân. Nhưng cũng như việc phải “tái rao giảng Tin Mừng” mà Giáo Hội đang nỗ lực thực hiện, phải chăng người tu sĩ, người đan sĩ cần được tái khơi nguồn cảm hứng để yêu mến Thiên Chúa cách “say mê”? Nguồn cảm hứng đích thật khơi dậy nơi đan sĩ lòng say mê Thiên Chúa hệ tại ở đâu?
Chúng ta xác tín rằng người đan sĩ cũng luôn cần được khơi dậy nguồn cảm hứng “yêu mến Thiên Chúa”. Chính Đức Giêsu là nguồn và là Đấng khơi nguồn cảm hứng cho ta yêu mến Thiên Chúa cách say mê. Ngài khơi nguồn cảm hứng cho ta qua Lời của Ngài, trên Thập Giá và sự hiện diện của Ngài trong bí tích Thánh Thể. Nói cách khác, Thánh Giá, Thánh Kinh và Thánh Thể là những nguồn động lực khơi dậy lòng say mê yêu mến Thiên Chúa nơi người tu sĩ.
1.Đức Giêsu – Đấng khơi nguồn cảm hứng yêu mến Thiên Chúa
Trong bối cảnh trào lưu tục hoá, chỉ mình Chúa Giêsu có khả năng hóa giải thực tại này. Chỉ Ngài mới có khả năng khắc phục ảnh hưởng của hiện tượng tục hóa trên các tâm hồn tận hiến qua việc dẫn dắt họ đến gặp Thiên Chúa, để khám phá ra tình yêu cao cả của Người, say mê và gắn bó với Người cách mật thiết.
Tông Huấn Vita Consecrata trình bày việc “Chúa Hiển Dung” (x. Mt 17, 1- 9) như là biểu tượng cho đời sống thánh hiến, và nêu bật lên rằng đời tu cần thiết phải cùng đồng hành với Chúa Giêsu để kinh nghiệm về Thiên Chúa. Người tu sĩ trải qua kinh nghiệm của ngôn sứ Giêrêmia: “Lạy Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con để cho Ngài quyến rũ” (Gr 20, 7).
Người tu sĩ say mê chiêm ngưỡng Chúa, ở kề bên Chúa, đàm đạo với Ngài, để rồi phản chiếu dung nhan rạng ngời của Ngài[2]. Với việc chiêm ngắm dung mạo Chúa Kitô biến hình, người tu sĩ trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, tìm cách diễn lại nơi chính mình, “nếp sống Con Thiên Chúa đã chọn khi Ngài xuống thế”, để mọi người có thể nhận thấy Chúa Kitô nơi khuôn mặt, nơi cuộc sống và sự phục vụ của họ.
Một hình ảnh khác cũng đã được nhắc đến như là một biểu tượng cho đời sống Thánh Hiến, đó là hình ảnh người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacop (x. Ga 4, 1-42). Hình ảnh này được dùng để diễn tả sự say mê, lòng khát khao Thiên Chúa của người môn đệ Chúa Kitô[3] .
Thánh Gioan kể việc Chúa Giêsu đến bên giếng nước Giacop, Ngài đã gặp người phụ nữ Samari đến kín nước, và Ngài khởi đầu câu chuyện bằng cách xin chị nước uống. Người tiếp tục cuộc đối thoại và từ từ khơi dậy nơi người phụ nữ Samari cơn khát về ý nghĩa cuộc sống, ước muốn hạnh phúc và nhất là khát vọng ơn cứu độ.
Như người phụ nữ Samari, người tu sĩ cũng được mời gọi gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Giêsu, khát khao nguồn mạch nước hằng sống, để khám phá ý nghĩa cuộc sống, tìm kiếm hạnh phúc trong sự phục vụ, và loan báo nước trời. Người tu sĩ không chỉ nói về Thiên Chúa, mà còn là những người kinh nghiệm về Thiên Chúa, đã gặp gỡ Ngài và vì thế khao khát loan báo Ngài cho thế giới. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu bên bờ giếng Giacóp đã làm biến đổi người phụ nữ Samari, nhờ ơn sủng Thánh Thần giúp khai lòng mở trí, hâm nóng tâm hồn và biến đổi chị trở thành môn đệ loan báo Nước Chúa. Đó cũng là điều cần thiết cho đời sống thánh hiến! Chỉ Chúa Giêsu là lý do cho sự hiện hữu và hoạt động của người tu sĩ. Cho nên, người tu sĩ cần đạt tới niềm say mê Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu.
2. Say mê Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu
Trong Sứ Ðiệp gửi cho Hội Nghị Quốc Tế về Ðời Tận Hiến (27/11/2004), thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khích lệ rằng lòng say mê đối với Chúa Kitô và say mê đối với các linh hồn cũng như niềm khao khát tình yêu Thiên Chúa là như lương thực nuôi dưỡng sự dấn thân của anh chị em sống đời tận hiến, ngõ hầu có thể thực hiện cuộc trở lại, sống thánh thiện và rao giảng Phúc âm.
Say mê Chúa Kitô: Đấng là lý tưởng đời thánh hiến, gắn bó toàn thân với Ngài, say mê Ngài như là tình yêu thứ nhất và duy nhất, tình yêu nguồn mạch giúp ta có thể dâng hiến quên mình và hy sinh quảng đại. Say mê Đức Kitô phải là lẽ sống cho cuộc đời người tu sĩ nói chung và người đan sĩ nói riêng, theo như lời của thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, còn chết là một mối lợi” (Pl 1, 21).
Chính vì say mê Đức Kitô nên chúng ta cùng chung thao thức với Ngài. Mà thao thức của Ngài là cho mọi người được cứu độ, được sống trong Tình yêu của Thiên Chúa. Đức Kitô đã thực hiện việc cứu độ đó bằng chính cái chết trên thập giá. Và vì thế, người tu sĩ cũng phải biết đón nhận Thánh Giá trong cuộc sống.
a. Say mê Thánh Giá
Hiến tế Thập Giá là ngôn ngữ diễn tả tình yêu sống động và tuyệt đối của Chúa Giêsu đối với Thiên Chúa và nhân loại. Với Thiên Chúa, Hy tế này diễn tả sự tuân phục, sự gắn bó toàn thân của Đức Giêsu với Thánh Ý Thiên Chúa; Với nhân loại, Thập Giá là sự trao ban trọn vẹn, biểu lộ tình yêu cứu độ. Hy tế Thập Giá của Đức Kitô đã bắt đầu với việc Nhập Thể (x. Dt 10, 5-7), và được biểu lộ cách hoàn hảo qua cái chết trên Thập Giá (x. Pl 2, 6-8).
Với người môn đệ Chúa Kitô, bước theo Đức Giêsu là chấp nhận theo con đường khổ giá. Đức Giêsu nói ai muốn theo Ngài thì phải “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Lc 14, 27). Ước muốn theo sát Đức Giêsu hơn đã làm phát sinh đời sống thánh hiến trong Hội Thánh, đó là ước muốn đáp lại tiếng gọi của Ngài để vác thập giá và theo Ngài, bắt chước sự hiến dâng của Ngài cho Chúa Cha, bắt chước Ngài hy sinh sự sống mình để tìm lại được sự sống.
Điều này muốn khẳng định về tương quan giữa mầu nhiệm Thập giá Đức Kitô và đời sống thánh hiến.Theo Tông Huấn Đời sống thánh hiến (Vita Consecrata), mọi ơn gọi đời sống thánh hiến đều bắt nguồn từ Thập Giá Đức Kitô (số 23).Chiêm ngắm Đức Kitô chịu đóng đinh là nguồn linh hứng cho mọi ơn gọi. Để rồi, nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 20).
Theo thánh Máccô huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế chỉ được bộc lộ rõ rệt khi Người bị treo trên thập giá với lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng: “Quả thực người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15, 39). Vì thế, nếu ta cố tìm một Đức Giêsu không thập giá, ta sẽ gặp thập giá mà không có Đức Giêsu. Sự khôn ngoan và sức mạnh của thập giá chỉ được hiểu khi người ta đảm nhận và trực tiếp kinh nghiệm nó một cách sâu xa, để từ đó không còn nhìn thập giá như một chướng ngại, nhưng là một cơ hội và cách thế thể hiện chính mình một cách cao độ nhất trong Đức Kitô, tạo nên sự say mê và niềm thâm tín như thánh Phaolô: “Tôi không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá” (1Cr 2, 2).
Thánh giá là tiêu chuẩn để chọn lựa và quyết định trong mọi trường hợp. Chính trong xác tín này mà tâm hồn ta được bình an và thanh thoát cả trong những nỗi ngặt nghèo. Tuy nhiên, thực tế cuộc sống nhiều khi cũng làm ta giằng co và nhức nhối khôn nguôi do những nỗi trăn trở giữa cái muốn và không muốn, giữa cái làm mà không làm, giữa cái cho đi và khước từ, giữa cái dấn thân và đòi hỏi, giữa cái sống và cái chết…và vì thế mà có những kẻ muốn đồng hiển trị với Đức Giêsu Kitô nhưng lại không muốn vác Thánh giá với Ngài.
Bước theo Đức Giêsu là biến các thập giá hằng ngày thành môi trường và cơ hội cho sự phục sinh, cho tình yêu và công lý. Nhưng để có thể xác tín và say mê Thánh Giá, người tu sĩ phải Say mê suy niệm Lời Chúa.
b. Say mê Thánh Kinh
Trong sứ điệp truyền giáo năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô hướng một cách đặc biệt đến những người sống đời thánh hiến, vì họ say mê Đức Kitô đến mức đã tận hiến cuộc sống cho Ngài. Khi say mê Đức Kitô, họ cũng say mê Tin Mừng và lo sống theo Tin Mừng của Ngài.
Hình ảnh hai môn đệ trên đường Emmaus (x. Lc 24, 13-25) phản ánh phần nào về người tu sĩ chúng ta trong hoàn cảnh sống mang nhiều thử thách như hiện nay. Thất vọng, lo sợ, u sầu, hoang mang là tâm trạng của các môn đệ sau hôm Thầy chết. Trước đó các ông đã từng hy vọng rất nhiều vì với quyền năng của Thiên Chúa, Đức Giêsu có thể cứu dân tộc Do Thái thoát khỏi ách nô lệ của người Rôma và mang lại hoà bình, thịnh vượng cho họ. Các môn đệ đã từng được Người chia sẻ quyền năng làm phép lạ, chữa lành bệnh tật cho nhiều người. Các ông thấy đời mình có ý nghĩa.Tuy nhiên, các môn đệ đã thất vọng vì thấy Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá, vì thấy Người không phản kháng mà lại chết một cách nhục nhã. Họ chờ vì hy vọng Người sẽ sống lại như đã báo trước. Nhưng sáng ngày thứ ba, cửa mồ đã mở, mà xác Đức Giêsu lại không còn. Các ông sợ hãi và nhận thấy rằng phải tránh xa nơi nguy hiểm cho cuộc đời của họ.
Có lẽ cũng có những lúc chúng ta giống như hai môn đệ đi về Emmaus. Chúng ta mơ ước thật nhiều, và lòng chúng ta tràn đầy một niềm hy vọng vào lời hứa về cuộc sống vĩnh cửu. Và ngay từ bây giờ chúng ta đã cảm nghiệm phần nào cuộc sống đó với sự bình an, hạnh phúc trong đời đan tu với những giờ kinh lễ trang nghiêm sốt sắng, những sinh hoạt đời thường ít bị xáo trộn. Chúng ta hy vọng sẽ làm được việc này việc nọ để làm vinh danh Chúa và đem lại hạnh phúc cho con người! Nhưng khi phải đối diện với thử thách, cuộc sống không có nhiều vinh quang, chúng ta bị cám dỗ muốn thoái lui, chúng ta dần thất vọng giống như hai môn đệ trên đường Emmaus muốn đi về miền quê nào đó để tìm yên ổn cho cá nhân mình.
Chính những lúc đó chúng ta không nhận ra Đức Giêsu đang đồng hành với mình. Thực tế, Người hiện diện trong cuộc đời của ta, Người theo dõi ta từng bước vì Người đã chết và sống lại vì ta. Dưới một hình thức nào đó, qua một con người nào đó, Người đến giải thích cho chúng ta về niềm hy vọng chưa chính đáng của ta, Người dạy cho chúng ta hiểu rằng đời sống thánh hiến cần phải có những đau khổ và thử thách, cần phải chết như Người thì mới hy vọng được sống lại với Người. Đức Giêsu giải thích cho chúng ta tất cả những điều đó qua Lời của Ngài. Nhưng hình như chúng ta không lắng nghe, không thấm nhập lời Chúa, không hiểu được ý nghĩa của Lời Chúa. Cho nên, chúng ta cũng cần được Chúa đến để “giải thích Kinh Thánh” cho ta hiểu, chúng ta cũng cần được Chúa “khơi dậy nơi mình” lòng khát khao khám phá mầu nhiệm Đức Kitô chết và sống lại.Trên đường Emmaus, hai môn đệ trách Đức Kitô là không biết; và sau khi nghe họ kể chuyện xong, Ngài trách họ là không hiểu: “Các anh chẳng hiểu gì cả… Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24, 25-26).
Lời giải thích của Đức Kitô phục sinh về sự tương hợp giữa mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài và Sách Thánh không chỉ đem lại cho hai môn đệ một sự hiểu biết, nhưng qua đó, còn tạo ra nơi tâm hồn các ông một kinh nghiệm của “con tim bừng cháy”. Tâm hồn của hai môn đệ bừng lên niềm hy vọng khi được Lời Chúa sáng soi. Không biết trong hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu, giữa bao lần lao đao khốn khó trên đường đời, tôi có để cho Lời Chúa đốt nóng cõi lòng và đỡ nâng bước chân? Những lúc buồn phiền, chán nản, hay đau thương, tôi có biết lật Thánh Kinh để tìm tia sáng bình an?
Cũng như hai môn đệ làng Emmaus, chúng ta chỉ nhận ra sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh khi Ngài “bẻ bánh và chia cho các ông”. Và để được Đức Giêsu bẻ bánh thì mỗi chúng ta phải nài ép Người: “Xin ông lưu lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn” (Lc 24, 29). Đây không chỉ là cảnh chiều buông hay đêm dần xuống trong không gian và thời gian, nhưng còn diễn tả nỗi lòng mù tối giữa bao nghi ngờ, khắc khoải, và chán nản của bản thân. Thử hỏi khi cuộc đời bị bóng tối của u sầu, thất bại, và khổ đau bao phủ, liệu tôi có biết nài van: “Xin Chúa lưu lại với con vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn” chăng?
Thật ra, không phải chính chúng ta mà là chính Đức Kitô Phục Sinh sẽ khơi dậy nơi lòng ta “khát vọng yêu mến Chúa” và muốn được “ở lại với Ngài” trong bí tích Thánh Thể.
c. Say mê Thánh Thể
Trong sứ điệp cho Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi lần thứ 41 (2/5/2004), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định rằng Thánh Thể có một giá trị quan trọng trong việc phát sinh ơn gọi cũng như trong việc bền đỗ ơn gọi, vì từ hy tế cứu chuộc của Đức Kitô, những ai được kêu gọi mới có sức mạnh để hoàn toàn tự hiến cho việc rao giảng Tin Mừng.
Trong Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới họp 10/2005 tại Rôma với chủ đề “Thánh Thể, nguồn mạch và đỉnh cao của đời sống và sứ vụ của Giáo Hội”, các nghị phụ đã nhiều lần đề cập đến Bí tích Thánh Thể như là trung tâm điểm mà mọi hoạt động của Giáo Hội đều phải quy về đó. Từ nguồn mạch sung mãn này, con cái Giáo Hội mới có thể kín mức sức mạnh cũng như hứng khởi cho công việc tông đồ.
Những khẳng định trên cho chúng ta một xác tín mạnh mẽ rằng Thánh Thể là sức sống của Giáo Hội, là trọng tâm trong đời sống tu trì. Vì nơi Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu diễn tả tình yêu trọn vẹn khi trao hiến Mình và Máu của Ngài làm của ăn cho nhân loại. Một tình yêu tự hiến và tuyệt đối: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Cũng chính trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta cảm nghiệm rõ ràng tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với nhân loại trong việc trao ban chính Con Một là Chúa Giêsu cho nhân loại (x.Ga 3, 16). Khi gắn bó với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta được tháp nhập vào trong đại dương tình yêu bao la của Chúa, và được liên kết với anh chị em đồng loại như cành cây gắn liền với thân cây: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15, 5).
Là những người sống đời thánh hiến, chúng ta được mời gọi yêu mến Đức Giêsu trong Bí tích cao trọng này. Nơi đó, chúng ta được mời gọi để trở nên giống Ngài, trở nên dấu chỉ của tình yêu thương, xây dựng và gìn giữ mối dây hiệp thông huynh đệ với anh chị em như các chi thể hiệp thông với nhau trong thân mình mầu nhiệm Đức Kitô (x. 1Cr 12, 27). Sự hiệp thông đó dẫn chúng ta đến chỗ dám dấn thân vì tình yêu đối với tha nhân, trở nên tác nhân góp phần làm cho anh chị em được sống và sống dồi dào hơn.Mỗi chúng ta phải trở nên như lời Thánh Inhaxiô thành Antiôkia, hạt lúa mì bị nghiền nát ra để hòa nên một với Đức Giêsu hầu trở nên tấm bánh cho người khác.
Kết luận
Để kết luận, xin mượn lời của Đức Hồng Y José Rodriguez Carballo, OFM – Tổng Giám Mục, Thư Ký Bộ Đời Sống Thánh Hiến, trong bài nói chuyện cho tu sĩ tại Giêrusalem (ngày 22/4/2015 nhân dịp Năm Đời Sống Thánh Hiến, là: “Đời sống thánh hiến, hãy chỗi dậy và say mê bước đi”[4] .
Đời sống thánh hiến đang đối diện với nhiều thách đố, và như Đức Thánh Cha Phanxicô nói thì những thách đố ở đó là để chúng ta đương đầu. Nhưng chúng ta không sợ vì có Chúa ở bên để bảo vệ ta (Gr 1, 8).
Điều cần thiết là mỗi người tu sĩ nỗ lực tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa cách say mê, để cùng nhau xây dựng một đời sống thánh hiến được sinh động bởi lòng khao khát mãnh liệt sống trung thành với đặc sủng cách say mê sáng tạo, cũng như ý thức rõ ràng về tính ngôn sứ của mình trong thế giới hôm nay, ngõ hầu như muối ướp cho đời và như men làm cho thế giới này sống dạy tinh thần của Tin Mừng yêu thương.
[1] x. ĐTC Phanxicô, Tông Thư gởi những người sống thánh hiến, 21/11/2014)
[2] x. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao lô II, Tông Huấn Vita Cosecrata, ban hành ngày 25/3/1996, số 27.
[3]Hội nghị Quốc tế về đời sống thánh hiến năm 2004.
[4] X. Bài nói chuyện với các tu sĩ tại Giê rusalem của Tổng Giám mục, Thư Ký Bộ Đời Sống Thánh Hiến, ngày 22/4/2015 nhân dịp năm Đời Sống thánh Hiến, bản dịch việt ngữ củaLM Nguyễn Công Đoan, S.J.