Thứ hai, 9 Tháng mười hai, 2024

Hạt Giống Chiêm Niệm số 31: Hướng Vọng Trời Cao

 Số 31 – Tháng 7 năm 2023

Lời ngỏ

Kính thưa quý độc giả,

Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày qua đời của cha Biển Đức Thuận (1933-2023), đấng sáng lập Hội dòng Xitô Thánh Gia và 105 năm thành lập Hội dòng (15.8.2023), toàn thể Hội dòng cùng nhau suy tư, học hỏi giáo huấn và tái khám phá tinh thần đan tu của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận.

Trong tinh thần đó, Ban biên tập Nội san Hạt Giống Chiêm Niệm đề xuất chủ đề Hướng vọng trời cao như một nỗi niềm con cái hướng về người cha quá cố cách nay đã 90 năm.

Trong số này, các tác giả tập trung suy tư về cái chết. Từ “Cái chết của người công chính” đến “cái chết gây sốc của ngôn sứ Môsê,” từ suy tư về cái chết dưới nhãn quan triết học đến những cảm nhận bình dân về cái chết…Đặc biệt, nhiều tác giả đã minh họa cái chết của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận như là hạt lúa gieo vào lòng đất, phải chết đi mới mang lại nhiều bông hạt mới; nói cách khác, cha Tổ Phụ như là người gieo hạt giống, hạt giống chiêm niệm trên đất Việt Nam đã chết đi với năm tháng mà nay trổ sinh hoa trái dồi dào cho Hội dòng và cho Toàn dòng.

Suy tư về cái chết trong chủ đề Hướng vọng trời cao thực sự như một nén hương lòng kính dâng cha Tổ Phụ nhân ngày lễ Giỗ, nhưng còn là lời mời gọi quý độc giả hướng về cứu cánh của cuộc nhân sinh vốn mỏng manh như cơn gió thoảng ngoài.

Các đan sĩ Xitô Thánh Gia có thể tự hào thuộc về một Hội dòng lớn mạnh nhất trong Toàn dòng Xitô hiện nay. Ước mong niềm tự hào ấy sẽ trọn vẹn hơn khi nhân lên với tinh thần đan tu được bén rễ sâu vào nguồn mạch đấng sáng lập dòng.

Trong tâm tình đó, Ban biên tập trân trọng giới thiệu và trao gửi đến quý độc giả Nội san Hạt Giống Chiêm Niệm, số 31, sẽ được phát hành vào tháng 7 năm 2023 này.

Ban biên tập

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 ÔNG MÔSÊ VÀ CÁI CHẾT GÂY SỐC

Duyên Thập Tự Lê Văn Đoàn

Nội san “Hạt Giống Chiêm Niệm” số 31 xoay quanh chủ đề “HƯỚNG VỌNG TRỜI CAO” như là một định hướng cho cuộc sống mà điểm kết nhân sinh tại thế là cái chết. Đó cũng là điểm nhắm mà các đan sĩ Xitô Thánh Gia hướng nhìn lên Tổ Phụ -cha Biển Đức Thuận- nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày ngài qua đời. Và để có một ánh nhìn rộng lớn hơn, cái chết của ông Môsê được nêu lên để làm nổi bật vừa tính bi thảm của một cái chết “gây sốc” vừa chiều kích huyền nhiệm của một cuộc đời mà điểm kết -với cái chết- mang tính biểu tượng.

Cuộc đời ông Môsê gắn liền với dân tộc Ítraen. Lịch sử cuộc đời ông gắn liền với lịch sử dân Ítraen trong một giai đoạn quan trọng đó là cuộc Xuất Hành ra khỏi Ai Cập để tiến vào đất hứa. Ông đã cùng với những anh chị em mình thực hiện cuộc hành trình gian khổ trong sa mạc trong suốt 40 năm. Và cái chết của ông như là một diễn tả đẹp của sự hiệp thông trọn vẹn với số phận những người chết bên ngoài đất hứa.

Nhưng cái chết của ông là một “cái chết gây sốc”,[1] nghĩa là một cái chết không những gây sốc cho bản thân ông, vì ông không ngờ cuộc đời ông lại kết thúc như vậy; mà còn gây sốc cho những ai mang trọng trách “lãnh đạo” khi nghĩ mình cũng có thể rơi vào hoàn cảnh tương tự như ông Môsê. Chẳng lẽ bao nhiêu công khó, nhiệt tâm đến quên mình, rồi cuối cùng lại được trả công một cách “bạc bẽo” như thế sao? Hình như vẫn có đó -nơi cả phán xét của Thiên Chúa- một cái gì đó “bất tương xứng” giữa chút lỗi lầm và hình phạt nặng ông phải chịu!

Chúng ta -qua cái chết gây sốc của ông Môsê- được mời gọi đứng trước nhiều điều bí ẩn và mầu nhiệm, mà chỉ với suy nghĩ nhân loại không thể hiểu được ý nghĩa. Chúng ta cần ánh sáng đức tin và “linh hứng” của Chúa Thánh Thần để có thể “giải mã” một chút nào đó ý nghĩa mà thực tại muốn dẫn đến.

  1. Ông Môsê: một con người phục vụ đến hơi thở cuối cùng

Chúng ta biết cuộc đời của ông Môsê được chia làm ba giai đoạn với thời gian cân bằng. Ông thọ 120 tuổi và ba giai đoạn chia đều cho hành trình cuộc đời ông: giai đoạn thứ nhất -40 năm- là những năm tháng sống tại gia đình và nhất là tại hoàng cung Pharaô. Biến cố ông giết một người cai Ai Cập lúc ông 40 tuổi và câu chuyện đến tai Pharaô khiến nhà vua muốn giết ông đã khởi đầu cho giai đoạn thứ hai khi ông chạy trốn và đến cư ngụ tại đất Mađian. Nơi đây ông làm “rể” một tư tế và ngày ngày đi theo đàn vật. Trong suốt 40 năm, ông sống trong “sa mạc”, trong sự quên lãng của dân tộc ông. Rồi một ngày kia, lúc ông 80 tuổi, chứng kiến một bụi cây bốc cháy mà không bị tiêu huỷ, ông tới gần để xem, và từ bụi cây ấy, tiếng Thiên Chúa gọi ông và trao cho ông sứ vụ: “Ta sai ngươi đến với Pharaô để đưa dân Ta là con cái Ítraen ra khỏi Ai Cập” (Xh 3,10). Dù sau khi nêu mọi lý do để thoái thác, ông Môsê miễn cưỡng chấp nhận sứ vụ từ Thiên Chúa, để từ đây cuộc đời còn lại -40 năm- là thời gian ông đồng hành với dân Ítraen.

Ông đồng hành với dân với tư cách là một con người phục vụ. Chúng ta có thể nêu lên một số hoạt động của ông mang ý nghĩa phục vụ.

Giải thoát dân khỏi Pharaô

Đây là sứ vụ cụ thể mà Thiên Chúa trao cho ông: ông phải đến gặp vua Pharaô để đưa dân Ítraen ra khỏi Ai Cập. Đây là trọng trách hết sức nặng nhọc và gian nan. Đọc lại những trình thuật về những lần hội kiến với Pharaô, chúng ta nhận ra bầu khí căng thẳng và dường như chỉ là ngõ cụt. Tình thế dân Ítraen thêm nguy khốn hơn trước, vì Pharaô đưa ra những chỉ thị làm dân Ítraen cực khổ hơn. Pharaô thì cứng lòng, dân Ítraen thì khổ đau oán trách ông, còn Thiên Chúa lại không hành động gì cả. Nỗi đau cùng cực đến nỗi ông đã thưa với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, tại sao Ngài làm khổ dân này? Tại sao Ngài đã sai con đi? Từ khi con đến với Pharaô để nhân danh Ngài mà nói, thì vua ấy làm khổ dân này, và Ngài chẳng giải thoát dân Ngài gì cả!” (Xh 5,22).

Sau khi ra khỏi đất Ai Cập, ông Môsê và dân Ítraen tiến bước về đất hứa. Chặng đường không xa lắm, chỉ cần vài tháng là có thể vào được đất hứa. Nhưng hành trình lại kéo dài đến 40 năm. Tại sao? Dân đã phản loạn chống lại ông Môsê khi phải đối diện với những khó khăn. Họ cũng có dự tính đặt người cầm đầu rồi cùng trở về Ai Cập, sống dưới quyền Pharaô. Chúng ta đọc sự cố gây nên bước ngoặt này trong sách Dân Số, chương 13 và 14; sách Đệ Nhị Luật, chương 1, từ câu 19-24. Thiên Chúa đã can thiệp đúng lúc những người phản đối kéo theo dân chúng muốn ném đá ông Môsê. Trong 40 năm cùng đi với dân chúng, ông đã học những bài học “phục vụ” mà ông không được chuẩn bị trước.

Phục vụ sự sống thể lý

Vừa ra khỏi Ai Cập, dân Ítraen đã phải đối diện với cái chết. Trước mặt là Biển Đỏ án ngữ, phía sau là quân của Pharaô đang áp tới. Tiến thoái lưỡng nan. Dân chúng sợ hãi cùng cực và kêu khóc đêm ngày. Ông Môsê cũng xé lòng. Ông đã không được chuẩn bị để học những khoá đào tạo quân sự, nhất là lãnh đạo để chỉ huy quân đội tác chiến. Bốn mươi năm ở sa mạc Mađian, ông chỉ chỉ huy đàn vật… Nhưng, giờ đây, ông đã học biết nghệ thuật chiến đấu kiến hiệu nhất, đó là đức tin vào Thiên Chúa: “Đừng sợ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc Đức Chúa làm hôm nay, không bao giờ anh em thấy lại nữa. Thiên Chúa sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ có việc ngồi yên” (Xh 14,13). Ông đã ngỏ lời với đoàn dân đang sợ hãi tột cùng. Và đức tin của ông được thể hiện trong sự tuân phục Thiên Chúa, khi sử dụng cây gậy theo lệnh của Thiên Chúa. Một bài học quá tốt cho ông Môsê trong việc phục vụ.

Vượt qua Biển Đỏ ráo chân, dân Ítraen di chuyển trong sa mạc. Sa mạc là nơi thiếu thốn về mọi phương diện. Hình ảnh sa mạc gợi nên nơi không có gì để ăn, để uống, để sinh sống và tồn tại. Dân đi trong sa mạc phải đối diện với cái khát và cái đói. Mỗi lần như vậy, họ kêu trách ông Môsê và oán ông đã dẫn đưa họ tới đây. Hành trình gian khổ làm họ hoa mắt không còn “hướng vọng đất hứa”. Họ sống với những gì trước mắt, phải giải quyết ngay. Ông Môsê không được chuẩn bị cho việc cung cấp này. Ông đã không được học các lớp đào tạo sản xuất thực phẩm cũng như tổ chức những chuỗi cung ứng liên kết. Bốn mươi năm trong sa mạc Mađian, ông chỉ biết lùa chiên dê đến những nơi có sẵn nước và cỏ. Tình hình hiện tại như bó tay. Dân khát, dân đói. Bao tử ông cũng rỗng, cùng những cơn khát xé họng. Ông phải làm gì cho dân đây? Mỗi lần gặp thiếu thốn, mỗi lần dân oán trách, “ông hướng lên Thiên Chúa”. Ông “HƯỚNG VỌNG TRỜI CAO”. Và từ Thiên Chúa, ông biết cách phục vụ dân. Thiên Chúa đã hành động qua trung gian ông, qua cây gậy, lời nói và hành động của ông. Ông đã phục vụ bằng cách học phục vụ cụ thể. Dân có nước uống. Dân có man-na để ăn. Dân có thịt để thướng thức, qua cơn thèm.

Phục vụ sự an toàn cho dân

Đi trong sa mạc là dấn bước vào hiểm nguy. Trong sa mạc luôn có những toán thảo khấu, những kẻ rình chờ cơ hội hãm hại tính mạng để cướp bóc tài sản. Tại Rơphiđin, dân Ítraen đã bị những người Amalếch tấn công. Nguy cơ đến tính mạng không phải là nhỏ. Ông Môsê đã biết cách phục vụ sự an toàn cho dân bằng một hoạt động “kép”: đó là sử dụng sức mạnh của tuổi trẻ, và bản thân ông lên nơi cao để “dang tay và chúc lành”. Ông đã đưa dân Ítraen đi vào vùng an toàn là “sự che chở của Thiên Chúa” với cây gậy cầm trong tay: cây gậy của Thiên Chúa (x. Xh 17,9) và đôi tay của ông. Cây gậy phúc lành và đôi tay chúc phúc. Một sự cộng tác tốt đẹp mà ông đã học được và thực hiện trong công việc phục vụ.

Phục vụ sự sống tâm linh

Cùng với việc phục vụ sự sống thể lý của đoàn dân, ông Môsê còn phải mang đến cho dân sự sống tâm linh, nghĩa là một sự sống “bên trong” tâm hồn con người, sự sống trong mối tương giao với Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện giữa dân và dẫn dắt dân. Chúng ta có thể nhận ra việc phục vụ này dưới hai phương diện: Lời Thiên Chúa và cầu nguyện.

Lời Thiên Chúa

Phục vụ Lời Chúa là việc phục vụ quan trọng nhất mà ông Môsê thực hiện cho dân Ítraen. Để có thể chuyển ý muốn của Thiên Chúa, những thánh chỉ và mệnh lệnh của Người -nghĩa là Lời Thiên Chúa- ông sống thân mật với Thiên Chúa. Ông ở với Thiên Chúa hai lần, mỗi lần suốt 40 ngày đêm trên núi Si-nai, và biết bao lần thường xuyên ở trong Lều Hội Ngộ. Cận kề Thiên Chúa để học các huấn lệnh, thánh chỉ, rồi sau đó chuyển lại cho dân. Nhưng Lời Thiên Chúa luôn chờ đợi một sự đáp trả cụ thể từ dân; cho nên, ông như con thoi “lên xuống”. Ông lên với Thiên Chúa để nghe điều Thiên Chúa muốn nói với dân; rồi ông xuống nói với dân ý muốn của Thiên Chúa, đồng thời nghe lời dân phản ứng với Lời Thiên Chúa. Ông lại lên núi để thưa với Thiên Chúa về ước muốn của dân. Một việc phục vụ đòi hỏi nhiều công sức, vất vả và độ chính xác hầu như tuyệt đối. Chúng ta như nhìn thấy ông Môsê lên núi xuống núi trong đoạn văn sách Xuất Hành, chương 19. Ông Môsê không một chút chậm trễ và ái ngại trong công việc phục vụ quan trọng này.

Cầu nguyện

Vì sống với tư cách “trung gian” giữa Thiên Chúa và đoàn dân, nên ông luôn phải giữ thế “quân bình”, nghĩa là ông đứng về hai phía. Khi ở bên Thiên Chúa, ông đứng ra để chuyển cầu cho dân khi dân phạm tội, để cầu xin Thiên Chúa thứ tha. Khi ở bên dân, ông đề cao sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa và đòi hỏi dân phải nhận biết tội lỗi nặng nề họ đã phạm đến Thiên Chúa. Chúng ta đọc lại trình thuật trong sách Xuất Hành, chương 32, từ câu 7 đến chương 33, câu 17, để khám phá ra sự phục vụ “chuyển cầu” vừa tuyệt vời của tấm lòng nhân ái của ông Môsê vừa cảm động của những lời cầu nguyện của ông cho đoàn dân.

Chúng ta cần nêu một chi tiết quan trọng nữa trong việc phục vụ bằng cầu nguyện của ông Môsê. Đó là việc làm một “Lều Hội Ngộ”. Đây là nơi gặp gỡ thân tình: trước hết giữa Thiên Chúa và ông Môsê. Mỗi lần ông đi vào Lều Hội Ngộ, thì cột mây đáp xuống. “Đức Chúa đàm đạo với ông Môsê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11). Tiếp đến, Lều Hội Ngộ cũng là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và những ai muốn thỉnh ý Thiên Chúa. Đây là không gian thân mật. Đây là thời gian của tương giao thân ái.

Ông Môsê đã biết phục vụ sự sống tâm linh của đoàn dân. Ông không dừng lại nơi những nhu cầu trước mắt -tuy cần phải giải quyết- mà còn dẫn đưa dân đến “nguồn” làm thoả mãn những “cơn đói, cơn khát” sâu xa hơn, căn bản hơn. Ông đưa dân đến với Thiên Chúa và kéo Thiên Chúa ở lại với dân. Một việc phục vụ không luôn dễ dàng và đòi hỏi nơi chính ông một con tim đầy tình yêu mến với Thiên Chúa và với toàn dân.

Việc phục vụ của ông Môsê phát xuất từ trách nhiệm lãnh đạo đoàn dân mà Thiên Chúa trao cho ông. Trách vụ “chăm sóc” này thật nặng nề, không những do chính công việc mà do những phản ứng của đoàn dân dành cho ông mà phần đại đa số là những phản ứng tiêu cực và cực đoan mỗi khi họ gặp những thử thách, khó khăn. Gánh nặng đè trên ông Môsê đến nỗi ông cảm thấy không thể chịu đựng được nữa! Ông đã thưa lên với Thiên Chúa: “Sao Ngài làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này trên con? Có phải con đã cưu mang tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con: ‘Hãy bồng nó vào lòng, như vú nuôi bồng trẻ thơ, mà đem vào miền đất Ta đã thề hứa với cha ông chúng? […] Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn -ấy là nếu con đẹp lòng Ngài! Đừng để con thấy mình phải khổ nữa!” (Ds 11,11-15).

Một vài dòng tâm sự của ông Môsê hé lộ cho thấy gánh vác dân chúng nặng biết bao! Dù vậy, Thiên Chúa luôn trợ giúp ông và ông kiên trì đến cùng trong việc phục vụ dân. Có thể nói ông kiệt lực trong việc phục vụ dân chúng.

Bây giờ chúng ta đến gặp ông với phần thưởng dành cho ông.

  1. Mạch nước Mơriva: một lỗi phạm và án phạt nặng nề

Dân Ítraen rong ruổi gần 40 năm trong sa mạc. Mỗi ngày đoàn dân đi lòng vòng trong nơi khô cằn này -vì sa mạc nhốt họ lại! (x. Xh 14,3)- và họ chứng kiến những đồng bào, những anh chị em của họ tắt thở. Họ nhìn thấy những nắm xương khô rải rác trên cát trắng sa mạc. Những người ra khỏi Ai Cập đã lần lượt ra đi, vì chính họ đã không muốn vào và Thiên Chúa cũng không muốn cho họ vào (x. Đnl 1,19-46). Và một thế hệ mới, trẻ trung đã sinh ra trong sa mạc. Họ đã được ông Môsê dưỡng dục. Họ đã được chứng kiến vinh quang Thiên Chúa qua những lần Người can thiệp. Ông tin vào thế hệ này và đặt kỳ vọng vào họ. Ông hy vọng đám dân trẻ này sẽ phản ứng tốt hơn cha ông họ. Nhưng phản ứng của họ ra sao khi gặp thử thách? Cộng đồng không có nước. Họ phản đối ông Môsê và ông Aharon.

Vẫn chẳng có gì thay đổi! Vẫn những lời kêu ca, than trách và oán giận! “Phải chi lúc anh em chúng tôi tắt thở trước mặt Đức Chúa, thì chúng tôi cũng tắt thở luôn cho rồi. Hai ông đưa đại hội của Đức Chúa vào sa mạc để làm gì? Có phải để chúng tôi và súc vật của chúng tôi chết ở đây hay không?” Trái tim con người vẫn thế! “Họ chẳng hơn gì cha ông! Loài ngoan cố bất tuân! Dạ bất trung với Chúa!” Đó là sự cố xảy ra tại Mơriva (x. Ds 20,1-13).

Chúng ta đọc lại một phần trình thuật và ghi nhận những chi tiết:

“Ông Môsê và ông Aharon rời đại hội đến cửa Lều Hội Ngộ, các ông sấp mặt xuống đất. Bấy giờ vinh quang Đức Chúa hiện ra với các ông. Đức Chúa phán với ông Môsê: ‘Hãy cầm lấy cây gậy, và cùng với Aharon, anh ngươi, triệu tập cộng đồng lại. Trước mặt chúng, các ngươi sẽ nói với tảng đá và chúng sẽ cho nước; từ tảng đá, ngươi sẽ làm cho nước chảy ra cho chúng, và ngươi sẽ cho cộng đồng và súc vật của chúng uống” (Ds 20,6-8).

Hai ông đã nhận được chỉ thị rõ ràng đến từng chi tiết. Vậy, ông Môsê đã hành động ra sao? Chúng ta nghe tiếp trình thuật. “Ông Môsê cầm lấy cây gậy ở trước nhan Đức Chúa, như Người đã truyền cho ông. Ông Môsê và ông Aharon triệu tập đại hội trước tảng đá. Ông Môsê nói với họ: ‘Nghe đây, hỡi quân phản nghịch! Từ tảng đá này, chúng tôi có thể làm cho nước chảy ra cho các người được không? Ông Môsê giơ tay, lấy gậy đập vào tảng đá hai lần; nước trào ra lai láng cho cộng đồng và súc vật uống” (Ds 20,9-10). Nếu trình thuật kết thúc ở đây, chúng ta sẽ không thấy “một cái chết gây sốc” dành cho ông Môsê. Nếu trình thuật kết có hậu đẹp ở đây -vì có nước lai láng- thì Kinh Thánh sẽ viết tiếp câu chuyện ông Môsê dẫn dân vào đất hứa. Nhưng sự thể lại khác. Một lần nữa, chúng ta nghe tiếp trình thuật và hồi kết câu chuyện.

“Bấy giờ Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon: Bởi vì các ngươi đã không tin vào Ta để biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt con cái Ítraen, nên các ngươi sẽ không được đưa đại hội này vào đất Ta đã ban cho chúng” (Ds 20,12). Tại sao câu chuyện lại đưa đến một thảm cảnh cho chính ông Môsê và ông Aharon? Chúng ta điểm lại một vài chi tiết của trình thuật.

Thiên Chúa ra lệnh cho ông Môsê nói với tảng đá, nhưng ở đây, ông lại mắng dân chúng: “Nghe đây, hỡi quân phản nghịch!” Từ xưa đến thời điểm này, ông Môsê luôn dịu dàng, yêu thương dân, ngay cả ông cũng đã có những lần “làm cho khuôn mặt Thiên Chúa dịu lại”, khi Người muốn tru diệt họ. Giờ đây ông mắng họ là “quân phản nghịch.” Họ đáng mang danh phận đó! Vì họ hành động như vậy! Nhưng, đối với người lãnh đạo, người phục vụ, mắng dân là điều Thiên Chúa không muốn. Phải chăng sự nhẫn nhịn của ông Môsê đã quá mức chịu đựng? Phải chăng niềm hy vọng của ông đối với đoàn dân trẻ -mà ông kỳ vọng- đã tan biến? Phải chăng giờ phút này, sự dồn nén của ông sau 40 năm đã đạt đỉnh điểm?

Cây gậy ông cầm trong tay, từ xưa đến nay là cây gậy ân phúc -vì qua đó Thiên Chúa thi ân và can thiệp; nhưng giờ đây, cầm cây gậy trong tay để mắng mỏ dân, ông đã biến cây gậy phúc lành trở thành cây gậy lên án và nguyền rủa.

Từ xưa đến nay, trong các thử thách, ông luôn hành động như Thiên Chúa yêu cầu. Nhưng lần này, ‘ông vỗ ngực xưng tên’: “Từ tảng đá này, chúng tôi có thể làm cho nước chảy ra cho các ngươi được không?” Ông đã phạm vào điều tối kỵ là tìm vinh quang cho chính mình, biểu dương “cái tôi”.

Phân tích như vậy, nhưng thực ra, vẫn có cái trăn trở về một sự bất cân xứng giữa lỗi phạm và hình phạt. Hình phạt quá nặng!!! Một chút lỗi lầm vì tâm trạng và cả ngoại cảnh kích động, nhưng lại lãnh hậu quả quá lớn, nặng nề. Chẳng lẽ bao năm phục vụ hết sức, hết lòng, trọn vẹn, nay lại được trả công như vậy!

Ông Môsê cũng không nghĩ rằng kết thúc cuộc đời của ông cay đắng thế! Ông cũng không nghĩ tưởng rằng phần thưởng dành cho ông ‘bạc’ như thế! Ông đau khổ vì phán quyết này của Thiên Chúa. Đã hơn một lần ông xin Thiên Chúa xét lại phán quyết. Chúng ta nghe được tâm trạng của ông khi ông ngỏ lời với đoàn dân về sự cố trên.

“Thời ấy, tôi đã năn nỉ Đức Chúa rằng: “Lạy Chúa là Đức Chúa, Ngài đã bắt đầu cho tôi tớ Ngài thấy Ngài thật vĩ đại và tay Ngài mạnh mẽ. Có thần nào trên trời dưới đất thực hiện được những công trình và những chiến công như Ngài? Xin cho con được sang qua sông Giođan và nhìn thấy miền đất tốt tươi ở bên kia sông, miền núi tốt tươi ấy và núi Libăng.” Vì anh em, Đức Chúa bất bình với tôi, Người không nghe tôi; Đức Chúa phán với tôi: “Đủ rồi! Đừng bao giờ nói với Ta chuyện ấy nữa!” (Đnl 3,23-26).

“Đủ rồi! Đừng bao giờ nói với Ta chuyện ấy nữa!” Một câu trả lời của Thiên Chúa gây sốc! Gây sốc cho ông Môsê, người trực tiếp nghe lời. Gây sốc cho chúng ta khi đọc lại những lời này!

  1. Một cái chết gây sốc

Đoàn dân Ítraen được ông Môsê dẫn dắt ra khỏi Ai Cập để tiến vào đất hứa. Ông được anh mình là Aharon phụ giúp và cả người chị là bà Miriam trợ lực. Có thể nói đoàn dân xuất hành này được ba người chăm sóc với những vai trò khác nhau. Cả ba chị em này đều ra đi khỏi trần gian khi dân chưa vào đất hứa.

Bà Miriam qua đời tại Cađê và được chôn cất tại đây (x. Ds 20,1), nghĩa là trước khi sự cố Mêriva. Bà qua đời giữa cộng đồng dân chúng. Dân chúng rời Cađê đi đến núi Ho, và ông Aharon qua đời tại đây. Ba người -ông Môsê, ông Aharon và người con là Elada- lên núi Ho trước mặt toàn thể con cái Ítraen. Nghĩa là có cuộc từ biệt. Ông Aharon qua đời trên đỉnh núi trước sự hiện diện của hai người thân yêu nhất của ông. Khi toàn thể cộng đồng hay biết ông Aharon qua đời, thì cả nhà Ítraen đã khóc thương ông ba mươi ngày (x. Ds 20,22-29).

Còn cái chết của ông Môsê xảy ra thế nào?

Thiên Chúa báo trước cái chết của ông: “Chính ngày đó, Đức Chúa phán với ông Môsê rằng: “Ngươi hãy lên ngọn núi kia của dãy Avirim, lên ngọn núi Nơvô, ở đất Môáp, đối diện với Giêrikhô, và hãy nhìn xem đất Canaan mà Ta ban cho con cái Ítraen làm sở hữu. Rồi ngươi hãy chết trên ngọn núi ngươi sắp lên, và hãy về sum họp với gia tộc ngươi, cũng như Aharon, anh ngươi, đã chết tại núi Ho và đã về sum họp với gia tộc. Bởi vì giữa con cái Ítraen, các ngươi đã không trung thành với Ta tại mạch nước Mơriva ở Cađê, trong sa mạc Xin, và bởi vì các ngươi đã không biểu lộ sự thánh thiện của Ta giữa con cái Ítraen, nên ngươi chi được nhìn thấy đất ấy từ xa, chứ không được vào đó, vào đất Ta ban cho con cái Ítraen” (Đnl 32,48-52).

Và đây ngày ra đi của ông Môsê đã tới. “Từ đồng bằng Môáp, ông Môsê lên núi Nơvô, tới Pítga, đối diện với Giêrikhô, và Đức Chúa cho ông xem thấy tất cả miền đất: miền Galaát cho đến Đan, tất cả Náptali, miền đất Épraim và Mơnase, tất cả miền đất Giuđa cho đến Biển Tây, miền đất Nêghép, vùng sông Giođan, thung lũng Giêrikhô là thành Chà Là, cho đến Xôa. Đức Chúa phán với ông: “Đây là miền đất Ta đã thề hứa với Ápraham, Ixaác và Giacóp, khi nói: ‘Ta sẽ ban đất ấy cho dòng dõi ngươi.’ Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không được qua đó.” Ông Môsê, tôi trung của Đức Chúa, qua đời tại đó, trong đất Môáp, theo lệnh của Đức Chúa. […] Cho đến ngày hôm nay, không ai biết mộ ông ở đâu” (Đnl 34,1-6).

Khi suy niệm về cái chết của ông Môsê, đức hồng y Carlo Maria Martini đã nhìn cái chết này là “một cái chết gây sốc”: “Từ trình thuật cái chết của ông Môsê này tôi rút ra được ba khía cạnh căn bản: nó là một cái chết trong cô đơn, trong vâng phục và trong đau khổ. Chắc chắn nó là một cái chết cô đơn. Ông Môsê không chết giữa dân chúng nhưng cách xa những người ông yêu mến và những người ông đã chăm sóc. Bây giờ ông ở một mình trên núi, không có ai chứng kiến, và ông chết trong cô đơn. Ông ra đi sau khi đã kiệt sức vì chu toàn công việc phục vụ dân Ítraen. Ông Môsê chết trong sự vâng phục, như bản văn nói cách hết sức đơn giản: “Ông Môsê, tôi trung của Đức Chúa, qua đời tại đó, trong đất Môáp, theo lệnh Đức Chúa.” Ông là nhân vật duy nhất trong Kinh Thánh được nói đến về cái chết theo cách này: Thiên Chúa ra lệnh và ông chết! Cuối cùng, ông chết trong đau khổ. Hãy chú ý bản văn cứ lặp đi lặp lại: “Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không được qua đó.” Và với sự khiêm tốn cũng như sự buồn rầu, ông Môsê phải chấp nhận hoàn cảnh của mình. Theo một nghĩa nào đó, ông phải hy sinh bản thân vì mọi người: Họ sẽ thấy, còn ông thì gánh lấy tội của họ. Quả thực, như chúng ta đã thấy, tội lỗi của dân Ítraen hơn là tội của ông Môsê. Chính họ đã đưa ông Môsê đến sự thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa. Ông để cho mình bị đưa đi xa chỉ vì lòng thương xót đối với dân của ông. Bây giờ ông gánh lấy tội của những người khác và bằng lòng đền bù vì tội đó. Vì vậy, ông Môsê chết trong cô đơn, vâng phục và đau khổ. Ngay cả không ai biết ông được chôn ở đâu nữa, để họ hàng của ông có thể đến than khóc tiếc thương ông. Đây thật là một cái chết gây sốc.”[2]

  1. Có ai đó lớn nhất bên cạnh ông

Tôi đã mượn diễn ngữ “một cái chết gây sốc” của Đức Hồng y Carlo Maria Martini để đề cập đến khía cạnh thê lương của cái chết của ông Môsê. Nhưng, tôi thiết nghĩ, cái chết “gây sốc” của ông Môsê còn diễn đạt một thực tại lớn hơn nhiều, một thực tại mà suốt đời ông theo đuổi. Tôi có thể nói: Nếu trong giờ phút cuối cùng, không có ai bên cạnh -nghĩa là không có người nào-, thì vẫn có AI ĐÓ -LỚN NHẤT CUỘC ĐỜI ÔNG- bên cạnh ông. Người đó thân thiết với ông đến nỗi sự vắng mặt nhân loại không thành vấn đề cho ông. Đối với ông Môsê, NGƯỜI ĐÓ LÀ TẤT CẢ. Đây là THỰC TẠI ông đã trải nghiệm trong cuộc đời, nhất là trong những biến cố trở thành bước ngoặt trong việc phục vụ của ông. Trong những hoàn cảnh đó, ÔNG Ở ĐÓ MỘT MÌNH VỚI MỘT MÌNH NGƯỜI ĐÓ.

Ở Bụi Gai, ông Môsê đã ở “một mình với một mình Thiên Chúa”. Đất thánh nơi Đấng tự mặc khải và mời gọi tôi tớ Người phải thi hành sứ vụ Người giao phó là giải thoát dân khỏi Pharaô.

Trên núi Sinai, hai lần -mỗi lần 40 ngày- ông Môsê đã ở “một mình với một mình Thiên Chúa” khi thay mặt dân đón nhận Giao ước và các thánh chỉ, giới luật của Thiên Chúa. Ông đã đón nhận hai tấm bia chứng ước ghi Thập Điều.

 Tiếp đến, nơi hốc đá, ông đã học biết các tư tưởng và ân phúc của Thiên Chúa. Được nhìn thấy Thiên Chúa khi ông ở ‘một mình với một mình Thiên Chúa.”

Trong Lều Hội Ngộ, bao lần vị lãnh đạo Môsê mệt mỏi vì sự vô ơn bạc nghĩa của dân, đã đi vào, trong thinh lặng của cung thánh, “một mình với một mình Thiên Chúa” để nghe tiếng Thiên Chúa nói với ông. Ông đàm đạo với Thiên Chúa của ông như hai người bạn, diện đối diện.

Và giờ đây, trên ngọn núi trọc Pítga, vào thời điểm tận cùng của cuộc đời, cũng “một mình với một mình Thiên Chúa.” Thiên Chúa, người bạn trung tín và quá quen biết của ông, hiện diện bên cạnh tôi trung của Người.

 “MỘT CÁI CHẾT GÂY SỐC”, đó là một cái chết vượt quá suy nghĩ thường tình của chúng ta. Nó gây sốc vì nó không đáp ứng những tiêu chí nhân loại mà con người đặt ra. Cái chết của ông Môsê là một cái chết gây sốc, vì ý nghĩ thường tình nhân loại là một con người đã phục vụ tuyệt vời như ông, thì cái kết phải là một cái kết đẹp, nghĩa là “dẫn dân vào đất hứa” và sau đó, sẽ là hát bài “ra đi bình an” như cụ già Simêon sau này hát lên khi đã gặp được điều cả đời chờ mong. Nhưng đây lại là cái chết “cô đơn, do tuân phục và mang nét khổ đau.”

Nếu nhìn vào cái chết của Chúa Giêsu,[3] chúng ta cũng “rất sốc”! Con Thiên Chúa chết như một đại tội nhân, gian ác!!! Cũng là cái chết cô đơn đến tận cùng. Tất cả đều rút lui, từ những môn đệ thân tín nhất (x. Mc 14,50). Đó cũng là cái chết do tuân phục, “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,8). Đó cũng là cái chết vì đau buồn, vì bị bỏ rơi, “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).

Nhưng cũng có “cái sốc” của ánh nhìn về cái chết trong nhãn giới của Thiên Chúa. Nơi đây cũng vượt trên và vượt trên rất xa ánh nhìn nhân loại ở trên. Nó cũng gây sốc, vì cái chết “theo cách của Thiên Chúa.” Nơi đây không còn là cái sốc của một thứ cảm xúc hay cảm thức trên bình diện con người với lý trí và tình cảm tự nhiên, nhưng là cái sốc của sự “đụng chạm” đến chính mầu nhiệm của ý định Thiên Chúa trong cuộc đời một con người mà chúng ta đang nói đến là ông Môsê. Đó cũng là cái sốc của một con người đã xác tín bằng kinh nghiệm điều gì là quan trọng nhất, ý nghĩa nhất.

Nếu Thiên Chúa hiện diện bên cạnh, gần gũi ông Môsê, tôi trung của Người, thì còn gì thiếu cho ông nữa?! Ông hoàn toàn thoả mãn! Và như vậy, kết thúc hành trình cuộc đời, hoàn tất trách vụ phục vụ theo cách của Thiên Chúa là cách thức tốt đẹp nhất. Cái chết của ông Môsê được nhìn dưới nhãn quan của Thiên Chúa, là một cái chết đẹp của bậc chính nhân, của người tôi trung của Thiên Chúa.

Được thấy trong ánh nhìn nhân loại, cái chết của ông Môsê luôn là “MỘT CÁI CHẾT GÂY SỐC”. Và khi được chiêm ngưỡng trong ánh nhìn thiên linh, cái chết của ông Môsê cũng là một “CÁI CHẾT GÂY SỐC”.

 

 

CÁI CHẾT CỦA CÁC CHỨNG NHÂN
TRONG CỰU ƯỚC

Mai Thương

Theo nghĩa thông thường, chứng nhân là người làm chứng cho sự thật. Theo nghĩa tôn giáo, chứng nhân trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là martys, là người lấy cái chết của mình để nói lên niềm tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa sáng tạo, và tình thương của người. Đặc biệt, đối với Kitô giáo, chứng nhân là người chấp nhận cái chết để làm chứng cho Đức Kitô (x. Cv 7,55-60).

Trong bài này, người viết tìm hiểu về cái chết của các chứng nhân trong Cựu Ước, đặc biệt tập chú vào sự tuẫn đạo của tám mẹ con trong sách Macabê quyển thứ hai.

Bối cảnh của cuộc tuẫn đạo này diễn ra dưới thời vua Antiokho Êpiphanê, vua Syria, xâm lăng nước Israel, thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Khác với các vua đô hộ lúc trước còn mềm dẻo, vua này triệt để bắt các thần dân của mình phải theo cùng một tôn giáo duy nhất, giữ những truyền thống như nhau. Do đó, ông bắt dân của Thiên Chúa từ bỏ niềm tin của mình và chỉ thờ các thần thánh Hy Lạp. Bởi vậy, lòng trung thành với lề luật Môsê trở thành một hành động chính trị chống đối, đáng bị tử hình. Kinh Thánh chua xót ghi nhận: “Trong Israel có nhiều người hưởng ứng việc thờ phượng vua đã truyền, họ dâng cúng tế lễ cho các ngẫu tượng, vi phạm luật sabát” (1Mcb 1,43).

Tám mẹ con trong sách Macabê, vì trung thành tuân giữ lề luật Môsê nên bị xử tử một cách tàn khốc, mà tác giả gọi là “các hình khổ quái ác” (2Mcb 7,42). Họ đã có thái độ như thế nào; cách thức chấp nhận cái chết làm sao trong việc chịu khổ hình để tuân giữ luật Chúa truyền? Đó là những điều chúng ta cùng tìm hiểu về cái chết của họ, của những chứng nhân làm chứng cho chân lý và sự sống đời đời.

Qua những điểm sau:

  1. Về cuộc tử đạo với các hình khổ quái ác.
  2. Thái độ khiêm tốn và cầu nguyện của họ.
  3. Một niềm tín trung và vững lòng cậy trông.
  4. Tha thứ cho kẻ thù nghịch.
  5. Yếu tố quan trọng và chính yếu nơi cuộc tuẫn đạo của họ là chết vì tình yêu.
  1. Cuộc tử đạo với các hình khổ quái ác

Đây là những cái chết tàn khốc xét về mức độ đau khổ thể lý cũng như tâm lý.

Xét về mặt thể lý, có lẽ không có cái chết nào làm cho thân xác đau khổ hơn cái chết này. Những cách hành hình của vua chúa Việt Nam ngày xưa, cho dầu là xử bá đao, có lẽ chưa sánh bằng với cực hình của bảy anh em tuẫn đạo trong sách 2Macabê: bị đánh bằng roi gân bò, lột da đầu, chặt cụt tay chân, rồi đưa thân thể nạn nhân còn thoi thóp nướng trong chảo được nung nóng. Bảy người con đều phải chịu cực hình như thế. Riêng người con út còn phải bị trừng trị tàn bạo hơn các anh em của mình (x. 2Mcb 7,39).

Xét về mặt tâm lý, đây là cuộc tuẫn đạo tập thể, đè nặng trên tâm lý của những người thân yêu trong gia đình. Không phải vua hành hình một lần tất cả tám người này, nhưng lần lượt từng người một, sau cùng mới đến lượt người mẹ. Người ta không khó để tưởng tượng về hiệu ứng sang chấn tâm lý trên từng người của gia đình là như thế nào: sợ sệt, bị đe dọa, đau đớn trong lòng, nhất là đối với bà mẹ, người ra đi sau cùng. Gia đình này thật can đảm chịu đựng cái chết đau đớn về thể lý, dằn vặt về tinh thần. Anh em thương nhau như thủ túc. Mẹ con tình thâm như ruột thịt.

Xét theo sự thường tình, con người không thể nào chịu đựng một sự đau khổ về tâm thể lý lớn lao như thế. Nhưng họ đã vượt thắng được. Chúng ta căn cứ vào bản văn Kinh Thánh để tìm ra lý do của sự chịu đựng can đảm anh hùng này.

  1. Khiêm tốn cầu nguyện

Để trung thành với giao ước và lề luật của Thiên Chúa, tám mẹ con trong câu chuyện của Macabê đã từ chối ăn thịt heo thứ được cho là ô uế theo lề luật. Với hành động này họ phải đánh đổi bằng sự tra tấn và cái chết để vượt qua được thử thách ấy, họ đã khiêm tốn và cầu nguyện.

Họ khiêm tốn chấp nhận tội lỗi của dân tộc mình đã đắc tội với Chúa vì thờ lạy tà thần, và không muốn một lần nữa cơn thịnh nộ của Thiên Chúa tiếp tục giáng xuống trên đầu họ như cha ông họ từng phải gánh chịu (x. 2Mcb 7,18.32).

Họ cầu nguyện bằng cách nhớ đến lời cầu nguyện của ông Môse và biến nó thành lời cầu nguyện của mình (x. 2Mcb 7,38).

Vậy bằng sự khiêm tốn và cầu nguyện, Thiên Chúa đã rủ lòng thương, ban ơn giúp sức cho họ bởi Chúa luôn ban ơn cho kẻ khiêm nhường và hạ nhục kẻ kiêu căng.

  1. Tha thứ cho kẻ thù

Đối với kẻ bách hại mình, họ không hề thốt ra lời chửi rủa, mạt sát, chua chát, đắng cay như những tội nhân bị kết án một cách bất công thường hành xử đối với lý hình. Với một thái độ khoan dung tha thứ, họ thẳng thắn nói với nhà vua về án phạt của Thiên Chúa đối với những ai chống lại Người mà ra tay đối xử độc ác với các tôi tớ của Người (x. 2Mcb 7,19.36).

Còn người mẹ, dùng tiếng mẹ đẻ của mình để khuyên nhủ người con út giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa tạo hóa. Chắc chắn vua chẳng hiểu những gì bà nói với con của bà, nhưng nhìn thấy thái độ của bà, ông tưởng rằng bà đang mạt sát lăng nhục mình. Bởi vậy ông nổi giận ra lệnh hành hạ người con út dữ dằn hơn các người khác (x. 2Mcb 7,24,39). Thật ra, trong lời lẽ của bà mẹ không hề tỏ ra tâm tình oán hận, nhưng chỉ khinh thường nhà vua, khi đánh giá ông như một tên lý hình tầm thường (x. 2Mcb 7,29). Còn người anh cả đánh giá vua là một tên hung thần, hơn là một vị quân vương nhân hậu và xét xử công minh (x. 2Mcb 7,9).

  1. Một niềm tín trung và vững lòng cậy trông

Nhà vua không những tỏ ra là người độc ác trong khi hành pháp, mà còn là người có sách lược. Ông tỏ ra sành sỏi tâm lý các bà mẹ, nên có sự xếp đặt hữu ý khi hành quyết các nạn nhân. Ông cho hành hình từng người một trước sự chứng kiến của bà mẹ đáng thương với mục đích làm bà lung lay niềm tin qua sự đau khổ kéo dài của con cái. Ông thừa hiểu tình thương mẫu tử lớn lao biết là chừng nào. Con vui thì mẹ vui. Con buồn, lòng mẹ héo hon. Con đau khổ, lòng dạ mẹ quặn đau. Rõ ràng nhà vua cố ý hành hạ từ người anh cả cho đến người con út. Thường tình, người mẹ thương con út hơn các con khác. Nhà vua hy vọng sẽ đánh gục được tâm lý của người mẹ khi chỉ còn lại người con út thân thương. Bởi vậy, ông vừa khuyên bảo bà hãy cứu lấy đứa con duy nhất còn sống sót, vừa hứa hẹn công danh phú quý cho anh ta (x. 2Mcb 7,24).

Người mẹ này cũng sành đời không kém nhà vua. Bà biết rằng đó chỉ là những lời hứa hão của các bậc quân vương. Nhưng điều quan trọng hơn cả, là bà vẫn giữ vững một niềm tin trung kiên vào Thiên Chúa, một niềm hy vọng không lay chuyển vào tình thương cứu độ của Người. Bà khuyên người con út đừng sợ tên đao phủ, nhưng chấp nhận cái chết vì tin tưởng vào Đấng dựng nên vũ trụ và loài người từ hư vô. Người sẽ ban lại sự sống cho các con của bà trong ngày Chúa viếng thăm. Hơn nữa bà tha thiết kêu mời cậu út hãy thương đến người mẹ đã sinh thành dưỡng dục con cho đến tuổi này. Còn người con út, không thua kém gì các anh mình, đã can đảm tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa, Người luôn trung tín với lời hứa. Và Kinh Thánh kết luận “anh đã chết mà vẫn hoàn toàn trong sạch” (2Mcb 7,40), nghĩa là giữ vững một niềm tin cậy, mến yêu đối với Thiên Chúa.

Đây cũng là chiến lược nhà vua sử dụng để thuyết phụ cụ già Elea Daro: dùng người trẻ để thuyết phục người già. Dùng con cái để lung lạc lòng tin của người mẹ. Người cao niên là người nắm giữ truyền thống đạo đức của cha ông. Đốn ngã được họ, là một thành công to lớn trong việc làm lung lay niềm tin nơi người trẻ. Nhưng vua không thành công. Cụ già Elea Daro vẫn trung kiên với niềm tin và “để lại cho đám thanh niên một tấm gương cao đẹp về cái chết tự nguyện và cao quý, vì đã trung thành với lề luật đáng kính và thánh thiện” (2Mcb 6,28).

  1. Chết vì tình yêu

Cuộc tử đạo của tám mẹ con nói trên, đầy can đảm, kiên cường khi đối diện với khổ hình và cái chết để làm chứng cho Thiên Chúa và sự sống đời đời. Nhưng chỉ có thế thôi, thì chưa phải là những chứng nhân đích thực. Yếu tố quan trọng và chính yếu của cuộc tử đạo chính là tình yêu. Thánh Phaolô quả quyết về điều này trong thư 1 Côrintô: “Giả như tôi… nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).

Không kể đến niềm tin yêu và trung thành với Thiên Chúa là Vua vũ trụ, còn phải kể đến tình thương dân tộc, là một động lực to lớn giúp họ vượt qua các khổ hình quái ác. Họ vui lòng chịu đau khổ vì mong ước Chúa sẽ tha thứ cho tội lỗi của dân tộc họ. Đây phải chăng là tâm tình của người tôi tớ đau khổ trong Isaia: “Người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã mang thương tích để chúng ta được chữa lành” (Is 53,5). Qua đau khổ, họ cảm nhận được đây là sự sửa phạt và giáo huấn yêu thương để dân tộc của họ được hòa giải với Thiên Chúa (2Mcb 7,33).

Tình thương của bà mẹ đối với con cái cũng là một động lực không kém phần mạnh mẽ để khích lệ con cái lướt thắng được các cực hình, và cách riêng người con út: “Con ơi hãy thương đến mẹ… Hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa xót thương, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ” (2Mcb 7,27-29).

Nietzsche có nói: “Người nào có lý do để sống thì có thể tồn tại trong mọi nghịch cảnh.”[4] Ông muốn nói: lý do để sống là nguồn sức mạnh giúp con người tồn tại trong bất cứ nghịch cảnh  nào. Sau này Viktor E. Frankl đã đem câu nói này áp dụng vào trường hợp của những ai đã phải trải qua những trại tập trung khắc nghiệt của Đức quốc xã. Họ chỉ sống sót được khi có một lý do để sống: tình yêu vợ con, cha mẹ, tha nhân… Áp dụng vào trường hợp của các chứng nhân, lý do để các ngài vượt thắng được mọi cực hình và cái chết, chính là tin vào tình yêu của Thiên Chúa Giao Ước, tình yêu dân tộc và tình yêu mẫu tử.

Kết luận

Tám chứng nhân trong sách 2 Macabe đã chết để làm chứng cho Thiên Chúa vũ trụ, cho sự phán xét công minh và sự sống trường cửu mà Ngài hứa cho các con cái trung thành. Họ không khinh chê sự sống. Họ không phải là những con người vô cảm, nhưng biết sợ hãi cái chết. Họ bị bó buộc lựa chọn cái chết để nói lên sự trung tín tôn thờ Thiên Chúa và gìn giữ lề luật của Người. Họ thể hiện một sự tự chủ đáng kinh ngạc trước bạo quyền, muốn thuyết phục họ thông hiệp với sự thờ phượng tà thần qua việc ăn đồ cúng tế cho thần linh. Họ vẫn vững vàng trong niềm tin, lòng yêu mến Thiên Chúa, tình thương đồng bào, tình mẫu tử sáng suốt, cho dầu phải lãnh lấy cái chết quá ư là đau khổ! Tình yêu đối với Thiên Chúa, tha nhân, sự sống đời đời làm cho họ luôn kiên vững trong gian nan, thử thách, đúng như lời sách Khôn Ngoan đã nói: “linh hồn họ trong tay Chúa, và chẳng cực hình nào đụng tới các Ngài” (Kn 3,1).

Đây chính là những đức tính chân chính của người làm chứng cho niềm tin, sự thật mà sau này sẽ gây ảnh hưởng lớn lao trên truyền thống Kitô giáo. Chính thánh Chrysotomos đã có những lời lẽ tán dương cuộc tử đạo của tám mẹ con trong sách 2 Macabê. Ngài ám chỉ về việc các kitô hữu có thu giữ hài cốt của các ngài để tôn kính. Còn thánh giám mục Gregorio Naziazeno, nơi bài giảng thứ 26 về các chứng nhân trong sách 2 Macabê, đã bảo vệ cho việc tôn kính các ngài; đồng thời thánh nhân chống lại một số phần tử trong cộng đoàn lơ là với sự tôn kính này, vì cho rằng các ngài không phải là những Kitô hữu.[5] Thế nhưng, vô hình chung, đặc tính chết vì tình yêu của các ngài đã hướng tới kiểu mẫu chứng nhân tối thượng là Đức Giêsu Kitô, Ngài chết để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau.

 

 

 

 

 

NGÀY SABÁT TRƯỜNG CỬU

Sr M. Pio Mến

Sự ngưng nghỉ của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo vừa được coi là nguyên lý căn bản của luật ngày Sabát (x. Xh 20, 8-10; Đnl 5, 12-15), vừa tạo nên một đà tiến, một không gian và thời gian tuyệt đẹp cho con người. Thiên Chúa ngưng nghỉ để con người cũng được nghỉ ngơi, và hơn thế nữa, họ còn được vinh dự tiếp nối vào công trình sáng tạo của Người. Sabát là hạn từ quen thuộc với độc giả Kinh Thánh, Sabát được phiên âm từ tiếng Hípri שָׁבַת‎ và thường dịch là “nghỉ ngơi” hay “ngưng” công việc. Người Do Thái gọi ngày thứ bảy là Sabát, đó là ngày nghỉ, ngày đặc biệt mang nhiều ý nghĩa, vì “Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người” (St 2,3).

“Công trình Chúa quả thiên hình vạn trạng! […] Công trình Chúa làm Chúa được hân hoan” (Tv 103). Công trình thành lập một dòng nam chiêm niệm cho người Việt cũng nằm trong chương trình của Thiên Chúa mà cha Biển Đức Thuận đã cưu mang ấp ủ. Trải qua bao gian khó, ước muốn của cha được hiện thực, Hội Dòng Xitô Thánh Gia được hình thành. Tuy nhiên, dòng sinh-tử không ngừng luân chuyển qua từng thế hệ, và đến một ngày “Sabát”, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã “ngưng nghỉ”, tạo một không gian và thời gian, một đà tiến cho các đan sĩ Xitô hậu duệ tiếp nối công trình đan tu chiêm niệm của ngài. Thừa kế di sản đan tu trong bối cảnh thế giới hôm nay, đâu là không gian và thời gian thích hợp để người đan sĩ Xitô xác định một đà tiến cho mình?

  1. Không gian thánh

“Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người” (St 2,3). Ngày mà Thiên Chúa ngưng nghỉ cũng là ngày được Thiên Chúa chúc lành và thánh hóa. Thánh hóa là làm cho trở nên thánh, thuộc về Thiên Chúa. [6] Nếu không gian sống của con người trên trái đất là chính trái đất, thì không gian sống của các đan sĩ là chính đan viện mình. Schola Dominici servitii – Đan viện là trường học phụng sự Thiên Chúa[7] và đan sĩ là Deum quaerit – người tìm Chúa[8]. Nhưng điều gì làm cho người tìm Chúa trong trường học phụng sự Thiên Chúa được thánh hóa và thuộc về Chúa? Thưa, là cầu nguyện, “nhà này mà không cầu nguyện thì hóa ra một nhà nông phu.”[9] Theo cha Tổ Phụ, sự khác biệt giữa một nhà nông phu và một đan viện, một đan sĩ và một nông dân, là cầu nguyện.

Ngày Sabát được gọi là “ngày thánh”, khác biệt với sáu ngày lao động khác, vì đó là ngày “kính Đức Chúa” (Xh 20,10), cụm từ “kính Đức Chúa” là một kiểu nói khác của người xưa bao gồm việc đọc Sách Thánh và cầu nguyện. Như vậy, chiều kích linh thánh của ngày Sabát, há chẳng phải là một trong những yếu tố quan trọng, tạo nên ngày sống của đời đan tu bao gồm Lectio divina và cầu nguyện đó sao?

“Cầu nguyện là chính việc chúng ta,… đó là việc riêng của chúng ta.”[10] Tại sao? Đơn giản chỉ là “đan sĩ phải là con người cầu nguyện.”[11] Nhưng cầu nguyện thế nào? Vẫn theo cha Tổ Phụ cầu nguyện, “là thực sự gặp Chúa cách thân tình như giữa Cha và con”[12]. Thực tế, định nghĩa đan sĩ là con người cầu nguyện không phải điều gì mới, khái niệm đó hiển nhiên ngay từ đầu trong giáo huấn các thánh Tổ đan tu. Evagre le Pontique (345-399) đã viết: “Moine est celui qui est séparé de tous et uni à tous – Đan sĩ là con người tách rời khỏi tất cả, nhưng liên kết với tất cả” (Traité sur la Prière, 124). Điều thú vị là trải qua bao thay đổi của các cuộc cách mạng tư tưởng, dòng tu và thời thế, khái niệm về người đan sĩ dường như không đổi thay. Trong buổi tiếp kiếp chung ngày 26.04.2023, trước khoảng 30 ngàn tín hữu hiện diện, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đề cao đời sống các đan sĩ trong một bài giáo lý về các chứng nhân của lòng nhiệt thành tông đồ khi nói: “Các đan sĩ là trái tim đang đập của việc loan báo Tin mừng: lời cầu nguyện của họ là dưỡng khí cho tất cả các chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô, là sức mạnh vô hình duy trì việc truyền giáo…. Trái tim của các đan sĩ là trái tim, như một ăng-ten, đón nhận bất cứ điều gì xảy ra trên thế giới và cầu nguyện, cầu bầu cho điều này. Và như vậy, họ luôn sống hiệp thông với Thiên Chúa và mọi người.”[13]

Lời cầu nguyện làm cho đan sĩ trở thành con người của hiệp thông, và không gian sống của họ trở nên một không gian thánh, vì được thánh hóa bởi các lời cầu. Do vậy, sức mạnh và hiệu năng của lời cầu nguyện nơi các cộng đoàn chiêm niệm luôn được Giáo hội trân trọng: “Các dòng hoàn toàn sống đời chiêm niệm là một lý do hãnh diện cho Giáo hội, và là nguồn mạch đưa lại những ân sủng thiên quốc. Nhờ nếp sống và sứ mạng của họ là bắt chước Đức Kitô cầu nguyện trên núi, họ sống đơn sơ trong cô tịch và thinh lặng, bằng việc lắng nghe Lời Thiên Chúa, cử hành phụng vụ, khổ chế cá nhân, kinh nguyện, hãm mình và hiệp thông vào tình yêu huynh đệ, họ hướng đời sống và toàn bộ sinh hoạt vào việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Họ cống hiến một chứng tá độc đáo về tình yêu của Giáo hội dành cho Chúa.”[14]

Lời cầu nguyện biến đổi tất cả, bao trùm tất cả và làm được tất cả (x. Mc 9,14-29). Chính bằng lời cầu nguyện, ngày sống của các đan sĩ trở nên ngày “kính Đức Chúa” và không gian sống của họ trở thành một không gian thánh, thánh hóa cả chủ thể lẫn đối tượng của lời cầu. Đây chính là điều xác tín mà cha Tổ Phụ năng nói một cách đơn sơ thân tình với các đan sinh: “Cầu nguyện có ích luôn.”[15]

  1. Thời gian chúc lành

“Còn ngày thứ bảy là ngày sabát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều trong thành của ngươi ” (Xh 20,10).

Ngày Sabát không chỉ mang chiều kích linh thánh “kính Đức Chúa”, nhưng còn là ngày đặc biệt dành cho con người. Nói cách khác, ngày Sabát là một phúc lành, một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa dành cho con người (x. Xh 31,13-17; Đnl 5,14). Tại sao? Vì con người thời xưa, chưa có luật lao động về ngày nghỉ hưởng lương, họ làm việc, làm việc…, và dường như không có khái niệm về thời gian. Tuy nhiên, từ khi luật Sabát được thiết lập, con người có ngày nghỉ, họ có thời giờ thờ phượng Thiên Chúa và sống tương quan với nhau. Điều tuyệt vời trong luật Sabát là không phân biệt màu da, giai cấp…, mọi người, ngay cả gia súc đều được ngưng nghỉ, đó là ý nghĩa nguyên thủy của ngày Sabát – ngày được làm vì con người  (x. Mc 2,27).

Nhân linh ư vạn vật – con người khác con vật, con người là con vật có tôn giáo và mang tính xã hội nên chiều kích tôn giáo và xã hội của ngày Sabát mang lại cho con người một nhân phẩm trọn vẹn. Xét về hai chiều kích này, ta có thể nhìn về nếp sống đan tu như một ngày Sabát không? Hiển nhiên là có, vì khi nói về đan sĩ là con người cầu nguyện, chiều kích tôn giáo đã được chứng minh. Nhưng còn chiều kích xã hội, người đan sĩ thể hiện cụ thể như thế nào?

Nếu xã hội là một hệ thống trong đó con người sống chung tạo thành những cộng đồng thì ngay từ khi bước vào đan viện, đan sĩ đã chọn cho mình một hệ thống sống “cộng tu” mà thánh Biển Đức gọi là: Fortissimum – mạnh nhất[16]. Mạnh vì họ là những người sống với nhau trong cùng một đan viện, cùng “chiến đấu theo một tu luật, dưới quyền một Viện phụ”[17]; mạnh vì họ “đã đoạn tuyệt với ý riêng”; “không chạy theo tư lợi”[18]; mạnh vì họ “hết sức nhẫn nại chịu đựng những yếu đuối xác hồn của nhau”[19]; mạnh vì họ biết lắng nghe nhau, nhắc bảo và giúp nhau tiến tới;[20] mạnh vì họ “tôn kính lẫn nhau…, thi đua vâng lời nhau.., yêu thương nhau trong tình huynh đệ chân thành …”; mạnh vì họ lấy Chúa là tất cả[21] và “hết lòng khao khát sự sống vĩnh cửu.”[22]

Sự sống vĩnh cửu là khát vọng của các đan sĩ, nên ngày sống của họ được đan quyện bằng những tác động fortissimum – mạnh nhất. Các tương quan, hay nói cách khác là đời sống cộng tu của các đan sĩ là một “huyền nhiệm”,  làm cho cuộc đời của họ trở nên một cuộc “lữ hành thánh thiện” – một thời gian chúc lành  – một kairos dồi dào ân lộc của Thiên Chúa[23] tiến đến sự viên mãn.

  1. Đà tiến viên mãn

“Đà” là sức mạnh đầu tiên nhằm đẩy mạnh mọi hoạt động. Đối với các môn thể thao, kỹ thuật lấy đà là một trong những yếu tố quan trọng quyết định thành công của mọi vận động viên. Trong triết học, người ta khá quen thuộc với hạn từ “đà sống – élan vital” của Henri Bergson. Đà sống là nguồn sáng tạo và là năng lực uyên nguyên làm phát sinh sự sống tiềm tàng trong mọi hữu thể.[24] Do đó, đà là cái gì nền tảng, nó như một bệ phóng, bật đẩy cho tất cả những gì theo sau đó được tiến xa hơn và cao hơn.

Nhìn về công trình sáng tạo (x. St 1-2), ta có thể thấy, tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng cho con người ban đầu đều có thể ví như một đà tiến. Con người – “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,27) sẽ là những chủ thể tiếp nối, góp phần sáng tạo, cải biến, thăng tiến và hoàn thiện vũ trụ. Cũng vậy, đà tiến mà cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã mang đến và để lại cho các đan sĩ Xitô Thánh Gia là cả một truyền thống đan tu tốt đẹp. Truyền thống ấy cần được các đan sĩ hôm nay sống cách sáng tạo, thăng tiến, phát triển và tái khám phá để đưa đến một tầm vóc viên mãn trong Đức Kitô (x. Ep 4,13).

Vẻ đẹp của cầu nguyện và lao động; vẻ đẹp của cô tịch và thanh vắng; vẻ đẹp của nếp sống chiêm niệm, đơn sơ, khó nghèo; vẻ đẹp của lòng khao khát làm vinh danh Chúa, cứu các linh hồn và cầu cho người chưa nhận biết Chúa… đó là những vẻ đẹp đặc trưng của đời sống đan tu mà Giáo hội luôn kỳ vọng và mong ước sẽ “đánh thức thế giới.”[25] Đức Thánh Cha Phanxicô chân nhận điều này khi nhắn nhủ đặc biệt đến các đan sĩ: “ … Các con hãy là những người lính gác ban mai (x. Is 21,11-12), những sứ giả vào lúc rạng đông (x. Lc 1,78)… Các con hãy gào lên như thánh André đã làm với Simon: “Chúng tôi đã tìm thấy Chúa! ” (x. Ga 1,40) và hãy hân hoan loan báo như thánh Mađalêna vào sáng phục sinh: “Tôi đã thấy Chúa! ” (x. Ga 20,18). Các con hãy yêu mến và giữ gìn giá trị ngôn sứ đời sống tự hiến của các con. Đừng sợ sống trọn vẹn niềm vui Tin mừng, hợp với đặc sủng của các con.”[26]

Niềm vui Tin mừng không là của riêng ai, cũng không bị rào nhốt hay đóng kín trong các tu phòng hoặc các bức tường đan viện, nhưng nó được sống trọn vẹn, sống dồi dào và sống viên mãn triển nở nơi đời sống hằng ngày của các đan sĩ. Đan sĩ – những kẻ “một đi chung cùng nhau” – noli in via remanere, noli deviare… không dừng lại giữa đường, cũng không đi trệch…, nhưng semper adde, semper ambula, semper profice… luôn thêm lên, luôn bước đi, luôn tiến tới… (St. Augustinô). Đan sĩ bước đi trong niềm hân hoan, bước đi trong niềm cảm mến – tri ân, vừa đi vừa hát, hát khúc tân ca, hát noi gương Đức Mẹ – Magnificat. Đan sĩ tiến thêm và tiến tới, tiến đến sự hoàn thiện (x. Mt 5,48); tiến thêm và tiến tới, tiến đến sự nghỉ ngơi vĩnh cửu của Thiên Chúa (x. Tv 61,2).

Lời kết

“Công trình Chúa quả thiên hình vạn trạng! […] Công trình Chúa làm Chúa được hân hoan” (Tv 103). Công trình lập dòng chiêm niệm cho người Việt của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận không chỉ làm “Chúa được hân hoan” mà còn mang lại ân phúc dồi dào cho các tâm hồn yêu thích đời chiêm niệm.

Ngày ngưng nghỉ – ngày Sabát trường cửu của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận cũng là ngày các đan sĩ Xitô Việt Nam lãnh nhận sứ mạng tiếp nối công trình lập dòng của Cha. Thật hãnh diện, ấm áp và an lòng biết bao khi được nghe những lời này của thánh Gioan Phaolô II nói trong Tông huấn Đời sống Thánh hiến [Vita Consecrata]: “Các con không chỉ có một lịch sử huy hoàng để nhớ lại và tường thuật, mà còn có một lịch sử oai hùng cần viết lên! Hãy nhìn về tương lai, nơi mà Thánh Linh đã dự định thực hiện cùng với các con những điều trọng đại hơn nữa.”[27]

Vâng, cùng với Thánh Linh chúng ta tiến bước, tiến bước để thực hiện những điều trọng đại, tiến bước để viết tiếp những trang sử hồng ân, những trang sử oai hùng của Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam.

NGÀY NGÀY ĐINH NINH MÌNH SẼ CHẾT

 Tu Luật thánh Biển Đức, chương 4,47

Quốc Vũ

“Cả mặt trời, cả cái chết, đều không thể nhìn thẳng được.” Phần lớn những người đã từng đọc cuốn sách của tác giả người Pháp, La Rochefouchauld (1613-1680), đều để ý đến câu nói trên của ông. Thật vậy, nếu đặt trong bối cảnh của các tôn giáo, người ta có thể nhìn vấn đề đó ở góc độ hoàn toàn khác nhờ sự soi sáng của niềm tin mà họ theo đuổi; nhưng khi xét trên bình diện thuần túy tự nhiên, thì cái nhìn của La Rochefouchauld là hoàn toàn có lý, nếu không muốn nói là rất chính xác. Bởi vì, trong cõi nhân sinh, mặt trời và cái chết, ánh sáng và bóng tối, thiện và ác, […] luôn là những thực tại mà con người không thể nào hiểu hết, không thể nào đi đến tận cùng của ý nghĩa, mà chỉ có thể nhìn chúng ở một góc độ hết sức phiến diện và chủ quan.

Giáo hội Công giáo, bên cạnh việc dạy các Kitô hữu hướng ánh nhìn của mình cái chết vào mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô, Mặt Trời Công Chính, còn dạy con cái mình nhìn nhận giá trị tự nhiên của thụ tạo mà Thiên Chúa đã sáng tạo. Mối tương quan này được khởi đi và đặt nền tảng trên mầu nhiệm của chính Đức Giêsu – Emmanuel: “Ngôi Lời đã làm người và đã cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14); nên những gì là “thần linh nhất” (divinissimus) lại được tỏ bày qua những gì là “con người nhất” (humanissimus), để làm cho những gì là “rất người” đều trở nên linh thánh.

Chính vì thế, khi thánh phụ Biển Đức nói “ngày ngày đinh ninh mình sẽ chết”, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của cái chết và sẵn sàng đón nhận nó trong lăng kính phục sinh của “Mặt Trời Công Chính.” Và thánh Biển Đức dạy đan sĩ hãy xem cái chết như một trong bảy mươi hai khí cụ cần thiết cho hành trình nên thánh của mình.

  1. Trong nhãn quan tự nhiên

Sinh ra trong cuộc đời, con người phải đối diện với hai mầu nhiệm lớn nhất đó là sự sống và sự chết, ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng xuất ra từ mặt trời, con người nhìn thấy ánh sáng, nhưng để có thể nhìn thẳng vào mặt trời, thì cần phải có những sự trợ giúp cách này hay cách khác.

1.1. Con người không thể nhìn thẳng vào mặt trời

Con người không thể nhìn thẳng vào mặt trời, vì mặt trời quá sáng và quá nóng. Mặt trời giống như một quả cầu lửa nóng bỏng, chói chang. Hàng giờ, hàng phút nó đều bức xạ một năng lượng rất lớn, phát ra ánh sáng và nhiệt lượng trong vũ trụ, trong đó có trái đất chúng ta.

Theo các nhà thiên văn học, lượng ánh sáng mà trái đất nhận được chỉ bằng 1 phần của 2,2 tỉ toàn bộ năng lượng bức xạ của mặt trời. Thực tế, ánh sáng mặt trời trung bình trong ngày có độ rọi dao động trong khoảng từ 32.000 lux tới 100.000 lux, trong khi các trường quay truyền hình được chiếu sáng với độ rọi chỉ khoảng 1.000 lux mà thôi. Từ sự chênh lệch này cho thấy rằng, với mắt thường, con người không thể nhìn thẳng vào mặt trời, vì chỉ cần ánh sáng của một chiếc đèn ôtô chiếu rọi vào ban đêm cũng có thể làm cho lóa mắt người đối diện trong một thời gian nhất định, thì huống chi là ánh sáng mặt trời.

Mặt khác, trong thực tế, con người sở dĩ có thể sống và tiếp xúc được với ánh sáng mặt trời là nhờ có tầng khí quyển bình lưu bao quanh trái đất, còn gọi là tầng Ozone (O3). Tuy nhiên, con người đang phá hoại thiên nhiên, tầng ozone đã bị bào mòn, là những tác động đe dọa sự sống con người. Bởi lẽ, khi tầng ozone bị thủng, sẽ gây ra hiện tượng một lượng lớn tia cực tím sẽ chiếu trực tiếp xuống trái đất, gây ra nhiều chứng bệnh cho con người như ung thư da, thực vật thì sẽ bị mất dần đi khả năng miễn dịch, còn các sinh vật ở dưới biển cũng sẽ bị tổn thương và chết dần. Trước những hệ lụy đó, học thuyết xã hội của Giáo hội luôn đặt mối bận tâm lớn về môi trường sống của toàn nhân loại. Cụ thể là trong những năm gần đây, Đức thánh cha Phanxicô, qua những Thông điệp như Laudato Si’, Fratelli Tutti…, đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi con người phải ý thức cộng tác bảo vệ và giữ gìn màu xanh của trái đất trước những sự xâm lấn của sức nóng mặt trời mỗi ngày một gia tăng.

Thế mới hay, một mặt, con người sống luôn cần có mặt trời, bởi mặt trời phát ra ánh sáng, và ở đâu có ánh sáng thì ở đó có sự sống; nhưng mặt khác, con người đang phải đối diện với thảm họa trái đất ngày càng bị mặt trời đốt nóng hơn, đồng nghĩa với việc sự sống của mọi loài sinh vật đang bị đe dọa, sức nóng sẽ làm cho chúng biến dạng để thích nghi với môi trường, thậm chí là có thể bị tuyệt chủng. Con người cũng không tránh khỏi những tác động đó, bởi một khi khí hậu biến đổi theo chiều hướng xấu, thì mật độ thiên tai ngày càng nhiều, đồng nghĩa con người phải đối diện với cái chết càng gần hơn. Mặc dù khoa học ngày càng phát triển, con người có khả năng hiểu biết rất nhiều, nhưng lại không tìm được câu trả lời thỏa đáng cho vấn nạn muôn thuở rằng tại sao họ phải chết. Con người không thể nhìn thẳng vào cái chết.

1.2. Con người không thể nhìn thẳng vào cái chết

Theo tạp chí Science Daily, ngày 1 tháng 7 năm 2021, ghi nhận về một cuộc nghiên cứu quy mô bao gồm các chuyên gia thuộc 42 tổ chức đến từ 14 quốc gia và vùng lãnh thổ, đã công bố một giả thiết mang tên “tỷ lệ bất biến của lão hóa”; trong đó, họ tuyên bố rằng mọi loài đều có tốc độ già hóa gần như cố định và không ai có thể đảo ngược quá trình lão hoá, không ai có thể tránh được cái chết. Một cách thuyết phục hơn, trong một nghiên cứu khác, nhà nghiên cứu người Mỹ, Hayflik, đã chứng minh ngược lại hoàn toàn với kết luận của các nhà khoa học trước đây và cho rằng các tế bào trong cơ thể có số lần phân chia vô hạn; trong khi đó, theo Hayflik, chỉ có các tế bào ung thư mới phân chia vô hạn, còn tất cả các tế bào khác chỉ phân chia trong giới hạn 50 lần rồi chết đi. Hệ quả là khi các tế bào không thể phân chia nữa thì con người sẽ chết.

Tự cổ, con người vẫn ý thức về quy luật của kiếp nhân sinh là “sinh, lão, bệnh, tử”. Khoa học có phát triển đến thế nào thì cũng đành phải bó tay trước tiếng gọi của tử thần. Khoa học có thể làm được nhiều thứ giúp cải thiện đời sống con người, nhưng không thể bào chế được phương dược trường sinh. Con người, dù giàu hay nghèo, thông minh hay ngu muội, thì kể từ khi sinh ra là đã bắt đầu cuộc hành trình tiến về cõi chết. Nghe vậy, có ai sợ chăng? Nhưng đó là lẽ thật của kiếp sống con người. Vì con người có sinh thì phải có tử, nên khi chào đời cũng là lúc chào cái chết. Đó là lẽ thật nhưng ở thế gian ít ai dám nói đến phần sau. Vì sao? Thưa, vì bản ngã, vì cái tôi. Con người không dám nhìn thẳng vào cái chết, vì không dám nhìn thẳng vào chính mình.

Cái tôi hay bản ngã của mỗi người bắt nguồn từ những giả định và niềm tin về sự tồn tại của mình dựa trên những nhận thức, mong muốn và những nỗi sợ hãi của chính mình, rồi theo thời gian trở thành ý thức mặc định của mỗi người. Khi sinh thời, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã có lần chia sẻ rằng: “Nỗi ám ảnh lớn nhất, đeo đẳng tôi từ thuở còn nhỏ cho đến sau này vẫn luôn luôn bị ám ảnh, đó là cái chết.” Người ta sợ chết vì sợ bị mất cái tôi, một cái tôi quá lớn đã được nuôi dưỡng sau bao nhiêu năm bằng những mối tương quan và những sự bám víu vây quanh; người ta sợ chết vì sợ bản ngã mất đi tất cả mọi điểm tựa, danh vọng, tài sản, địa vị, thậm chí cả thân xác mình; người ta sợ chết vì sợ mất mát một cái gì đó mà mình từng có trong cuộc đời, đã từng đi qua và đã từng tìm thấy, như tình yêu, như cái gì đẹp nhất của cuộc sống, sợ nó sẽ mất đi một ngày nào đó; và cuối cùng, chính bản năng sinh tồn của con người, là điều chính yếu khiến chúng ta có cảm giác sợ chết và không dám nhìn thẳng vào nó.

Cái chết, có lẽ không là sự ám ảnh của riêng ai. Nỗi ám ảnh ấy, bằng cách này hay cách khác, vẫn vây lấy toàn thể sự sống hiện hữu trên cõi đời. Chính vì thế, để hiểu được ý nghĩa của cái chết, để định nghĩa được nó, để nhìn rõ tiến trình diễn ra của vòng tuần hoàn sinh – tử, hay để con người sẽ thôi phí hoài cuộc sống và “giải quyết” được nỗi ám ảnh lớn nhất của đời mình, có lẽ con người chỉ có thể nại đến niềm tin tôn giáo.

  1. Trong ánh sáng đức tin

Trong lăng kính đức tin Kitô Giáo, Đức Kitô là Mặt Trời Công Chính, là Vầng Đông từ chốn cao vời viếng thăm nhân loại (x. Lc 1,78), hầu giúp cho con người có thể nhìn thẳng vào Mặt Trời.

2.1. Con người có thể nhìn thẳng vào Mặt Trời

Kinh Thánh nhiều lần mặc khải Thiên Chúa là Ánh Sáng, Đức Kitô là Mặt Trời. Theo Cựu Ước, con người không thể nhìn thẳng vào Ánh Sáng, vì “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống” (Xh 33,20). Tuy nhiên, Thiên Chúa chọn Môsê làm trung gian giữa Người và dân Israel, để thông truyền cho dân những lệnh truyền của Người, nên ông mới có thể đến gần và tiếp cận trực tiếp diện đối diện với Người: “Với Môsê tôi tớ Ta thì khác: tất cả nhà Ta, Ta đã trao cho nó. Ta nói với nó trực diện, nhãn tiền, chứ không nói bí ẩn, và hình dáng Đức Chúa, nó được ngắm nhìn (Ds 12,7-8).

Đến thời Tân Ước, nhiều lần các sách Tin mừng ám chỉ Đức Giêsu là Môsê mới, làm trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại (x. Mt 17,1-8 // Xh 34,29-35; Ga 6,1-15 // Ds 11,13). Quả thật, chỉ có Chúa Giêsu mới là Đấng duy nhất có đủ tư cách và khả năng để mặc khải Chúa Cha, vì Người là Con Một, hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha. Chính Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12).

2.2. Con người có thể nhìn thẳng vào cái chết

Đa phần con người ta sợ đối diện với cái chết vì nhiều lý do: không dám chấp nhận những mất mát; không thể cầm lòng trước những cuộc chia ly; không dám đối diện với sự thật về phận người vốn chỉ là một hữu thể mỏng giòn như hoa cỏ sớm nở chiều tàn.

Tuy nhiên, đức tin Kitô giáo giúp chúng ta nhìn trực diện sự chết qua cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Đức Kitô: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6,8-11).

  1. Trong linh đạo Biển Đức

Qua chương 4 Tu luật của mình, với 72 khí cụ làm việc lành, thánh phụ Biển Đức đã phác họa lộ trình nên thánh cho các môn sinh trong Trường Học Phụng Sự Thiên Chúa – Dominici Schola Servitii; ở đây, chúng ta đặc biệt đề cập đến khí cụ thứ 47, đan sĩ “ngày ngày đinh ninh mình sẽ chết” (Tu Luật 4,47).

Cụm từ “ngày ngày”, diễn tả ý muốn của thánh phụ là làm sao để khí cụ này phải được các đan sĩ sử dụng cách thường xuyên; nghĩa là, đan sĩ lúc nào cũng đặt mình trước cái chết, hầu luôn thức tỉnh và thúc giục chính mình sống tinh thần sẵn sàng cho ngày Chúa đến. Bên cạnh đó, động từ “đinh ninh” là cách diễn tả đan sĩ luôn xác tín rằng: “Sống làm người, ai không phải chết? Ai cứu nổi mình thoát quyền lực âm ty?” (Tv 89,49). Khi đinh ninh hằng ngày mình sẽ chết, đan sĩ sẽ lo lắng sống sao cho tốt trong giây phút hiện tại; mà sống như thế nào thì cha thánh đã chỉ dạy cho các môn sinh những điều cốt yếu đó là: lắng nghe, vâng phục và “tuyệt đối không lấy gì làm hơn Chúa Kitô” (Tu Luật 72,11).

3.1. “Con ơi, lắng nghe lời thầy dạy”

Với thánh Biển Đức, ơn gọi đan tu bắt nguồn từ một cảm nghiệm và một ước mong. Cảm thấy mình bị xa cách, và ước mong trở về gần gũi. Nhưng xa cách ai, và ước mong gần gũi ai? Thánh Biển Đức bảo rằng ta đã xa cách Thiên Chúa. Tuy nhiên, cảm nhận mình đã xa cách và ước mong trở về là cả một hành trình thiêng liêng thực hiện việc lắng nghe: “Ghé tai lòng con,… để nhờ gắng công vâng phục, con trở về với Đấng con đã xa lìa vì ươn lười bất tuân” (Tu Luật, Lời mở, 2).

 Linh đạo Biển Đức, hướng người đan sĩ đến ba đối tượng phải vâng phục: vâng phục Tu luật, vâng phục viện phụ, và vâng lời nhau. Linh đạo vâng phục này được sánh như một cuộc “tử đạo trắng”, bởi ở đó đan sĩ phải chết đi mỗi ngày. Do đó, cùng với sự thực hành 71 khí cụ việc lành khác, việc đan sĩ “ngày ngày đinh ninh mình sẽ chết”, không còn phải chỉ là học thuộc lòng những mệnh đề mang tính lý thuyết, nhưng là những điều đan sĩ ôm ấp và sống từng giây phút trong suốt đời đan tu. Như thế, cái chết thể lý của đan có thể ở thì tương lai “sẽ chết”, nhưng cái chết thiêng liêng của đan sĩ luôn ở thì hiện tại khi họ sống trung thành triệt để với linh đạo vâng phục.

Trước hết, vâng phục Tu luật, đòi hỏi đan sĩ phải từ bỏ ý riêng để sống theo luật chung, chẳng hạn: “Tới giờ Thần vụ, vừa nghe báo hiệu, ai nấy phải bỏ ngay những gì đang cầm trên tay và nhanh chân đến dự” (Tu Luật 43,1); vâng phục viện phụ, đòi hỏi đan sĩ phải từ bỏ cái tôi của mình để thi hành lệnh truyền: “khi lệnh trên vừa ban ra, họ coi như từ Thiên Chúa, và thi hành tức khắc không chút do dự” (Tu Luật 5,4); cuối cùng là “thi đua vâng lời nhau”, đòi hỏi đan sĩ phải có tâm hồn rộng mở, lòng tôn kính lẫn nhau và sự nhẫn nại trước những yếu đuối của anh em: “Anh em thi đua vâng lời nhau; đừng ai chạy theo tư lợi, nhưng tốt hơn hãy mưu ích cho người khác, yêu thương nhau trong tình huynh đệ thanh khiết” (Tu Luật 72,6-8). Như thế, có thể nói rằng, nếu để nói về cái chết thể lý thì đan sĩ luôn xác tín: “Ngày ngày đinh ninh mình sẽ chết”, nhưng khi nói về cái chết thiêng liêng, thì đan sĩ phải học cách chết đi mỗi ngày trong sự vâng phục theo gương Thầy Chí Thánh, với phương châm sống suốt cả cuộc đời là “Tuyệt đối không lấy gì hơn Chúa Kitô” (Tu Luật 72,11).

3.2. Tuyệt đối không lấy gì hơn Chúa Kitô

Trải qua gần mười lăm thế kỷ, nhiều học giả đã nhận định rằng Tu luật Biển Đức là một cuốn luật quy Kitô. Bởi vì, như lời thánh Gregorio Cả giáo hoàng đã nói: “Thánh Biển Đức không dạy điều gì khác ngoài điều ngài đã sống”, và thực tế là trung tâm đời sống của ngài là Đức Kitô và mọi hoạt động của ngài cũng đều quy hướng về đó. Quả thật, khi đọc trọn cuốn Tu luật, chúng ta gặp được mười chín lần thánh nhân nhắc đến đích danh Chúa Kitô: Bốn lần trong chương 4, ba lần trong chương 55 và Lời mở, hai lần trong chương 2 và chương 63, một lần trong các chương 5, 7, 36, 72 và 73; trong đó có ba lần ngài nói đến tình yêu ưu tiên đối với Chúa Kitô: “Không quý gì hơn lòng mến Chúa Kitô” (Tu luật, chương 4,21), “Không lấy gì làm quý hơn Chúa Kitô” (Tu luật, chương  5,2) và “Tuyệt đối không lấy gì hơn Chúa Kitô” (Tu luật, chương 72,11).

“Không lấy gì hơn Chúa Kitô” là lợi khí việc lành thứ 21, cũng là câu châm ngôn được thánh phụ mượn nơi thánh Antôn và thánh Cyprianô để đặt vào phần cuối của Tu luật, với mục đích làm nổi bật chiều kích Kitô của linh đạo của thánh Biển Đức. Nói cách khác, theo Tu luật Biển Đức, Đức Kitô chính là sự khởi đầu, là động lực, và là cùng đích của cuộc đời đan sĩ. Người là khởi đầu, vì từ khi gia nhập vào Trường học Phụng sự Thiên Chúa, đan sĩ lãnh nhận khí giới mạnh mẽ và vinh dự của đức vâng phục để chiến đấu dưới quyền của vị vua chân thật là Đức Kitô (x. Lời mở 3); Người là động lực, vì thánh Biển Đức không khoan nhượng với những người chiều theo những ước muốn thấp hèn, nhưng nhắc nhở họ: “Những tà ý phát khởi trong lòng, hãy vội đập tan vào Chúa Kitô” (Tu luật, chương  4,50); và Người là cùng đích, vì khi bước vào đan viện, đan sĩ xa tránh thế gian để được gần Thiên Chúa, không một tình yêu đối với thụ tạo nào được trổi vượt hơn tình yêu đối với Đức Kitô, Người là trên hết và là cùng đích cuộc đời đan sĩ. Hơn nữa, thánh Biển Đức muốn các đan sĩ phải dành quyền ưu tiên tuyệt đối cho Chúa Kitô, để có thể nói được như thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21), cũng như mong được trở nên đồng hình đồng dạng với Người: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

Tuy nhiên, tình yêu ưu tiên của đan sĩ đối với Chúa Kitô không chỉ có tính cách trừu tượng hướng trực tiếp vào Người, nhưng còn phải được lan tỏa đến với tha nhân. Cách cụ thể, Tu luật thánh Biển Đức phác họa những hình ảnh rõ nét nhất về Chúa Kitô nơi Bề trên (x. Tu luật, chương 2 và chương 63), nơi những người yếu đau (x. Tu luật, chương 31; 34; 36; 37) và nơi quý khách (x. Tu luật, chương 53). Thánh nhân dạy các môn sinh của mình phải đặc biệt quan tâm đến ba đối tượng này với lòng tôn kính chỉ vì tình yêu Chúa Kitô; bởi chính tình yêu Chúa Kitô sẽ giúp cho đan sĩ làm được mọi sự, sẽ thắng được mọi khó khăn như lời thánh Phaolô quả quyết: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,35-37). Bên cạnh đó, ở chương 7, thánh Biển Đức còn nói rõ tình yêu của các đan sĩ đối với tha nhân phải tinh ròng, không vì bất cứ lý do vụ lợi nào khác, cả đến vì sợ hỏa ngục đi chăng nữa cũng không được, nhưng chỉ duy nhất “vì lòng mến Chúa Kitô” (Tu luật, chương 7,69) mà thôi.

Tóm lại, Tu luật thánh Biển Đức đã đặt Chúa Kitô làm trung tâm cho những lời giáo huấn của ngài. Chỉ có tình yêu Chúa Kitô mới giúp đan sĩ vượt thắng mọi khó khăn và vui lòng thi hành thánh luật. Chỉ có tình yêu Chúa Kitô mới là động lực sống của đan sĩ, là ánh sáng soi chiếu cuộc đời, là điểm tựa cho những khát vọng vươn lên để sống đời trọn hảo. Đối với các đan sinh của thánh Biển Đức, Đức Kitô là nguồn sống và là cùng đích; họ xác tín “ngày ngày đinh ninh mình sẽ chết” nên họ vẫn âm thầm trung thành sống đời dâng hiến trong đan viện, tự hủy mình đi như hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để sinh được nhiều bông hạt khác (x. Ga 12,24).

Kết

Theo lẽ tự nhiên, con người không thể nhìn thẳng vào mặt trời, không dám đối diện với cái chết. Nhưng trong ánh sáng đức tin, con người thực hiện “bước nhảy hiện sinh” để quán triệt ý nghĩa sự sống và cái chết của mình: dám chết về phần xác để bảo tồn sự sống của linh hồn, như lời thánh Augustinô đã từng nói: “Bởi đâu mà con người chết về phần hồn? Vì họ không có lòng tin. Bởi đâu mà con người chết về phần xác? Vì họ không có linh hồn. Như vậy, lòng tin là linh hồn của sự sống và là sự sống của linh hồn chúng ta.”[28]

Trong Cựu ước, một trong những mẫu gương lớn nhất của niềm tin vào sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa, là chứng từ của ông Gióp; giữa những đau khổ, ông đã không nao núng trong niềm tin vào Thiên Chúa khi quả quyết rằng: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân này, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa” (G 19,25-27). Niềm tin của Gióp cũng là niềm tin của Giáo hội, từ thời các Tông đồ cho đến ngày nay, vào Đấng Lang Quân của mình khi Người đã nói: “Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Tôi, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Thánh Augustinô đã chú giải đoạn Tin mừng này như sau: “Đức Kitô là sự sống lại, bởi vì Người là sự sống. Nên dù ai đã chết như ông Ladarô, cũng sẽ được sống, bởi vì “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống.” Hãy tin vào điều ấy, và như vậy, dù bạn đã chết, bạn cũng sẽ được sống; ngược lại, nếu bạn không tin, thì dù bạn đang sống, cũng kể là bạn đã chết.”[29] Được đặt trên nền tảng đức tin này, đời sống của các đan sĩ ngày nay vẫn luôn là một sự tiếp nối truyền thống đan tu Biển Đức trong sự trung thành sống mầu nhiệm tự hủy theo gương Thầy Chí Thánh, qua việc: “ngày ngày đinh ninh mình sẽ chết” và hy vọng được “Người dẫn đưa đến cuộc sống đời đời” (Tu Luật, chương 72,11).

 

 

 

 

ARMAND-JEAN BOUTHILLIER DE RANCÉ

Đan sĩ Xitô, Viện phụ (1626-1700)

Martino Toàn

Trong năm nay, Hội dòng hướng về 90 năm ngày cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận qua đời (1933-2023). Ngài là đấng sáng lập dòng Phước Sơn tại Việt Nam (năm 1918), tiền thân Hội dòng Xi-tô Thánh gia. Để chọn cho phần linh đạo đan tu của Nội san HGCN số 31 một vị linh phụ, có lẽ không ai khác thích hợp hơn ngài Rancé, người sáng lập dòng Xitô Nhặt Phép. Việc chọn lựa này là hành vi có chủ ý, vì cả hai vị, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận và Viện phụ Rancé đều là Đấng sáng lập dòng (Lập dòng Trappiste – nhánh Xitô Nhặt Phép).

Một vị sáng lập dòng là người có một linh đạo rõ ràng, ý chí quyết đoán mạnh mẽ. Nói cách khác, họ như một kinh tế gia nắm rõ mục tiêu, kế hoạch hành động và ý chí quyết tâm thi hành. Và đó là đặc điểm của hai vị, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra trong quá trình theo dõi bài viết dưới đây được lược dịch từ tiểu luận của tác giả Alban J. Krailsheimer trong cuốn Linh đạo Xitô: Lịch sử và học thuyết của nhà xuất bản Beauchesne, năm 1998, các trang 415-429.

Nhưng trước hết chúng ta cần tìm hiểu xem viện phụ Rancé là ai.

  1. Đời sống.

Armand-Jean Bouthillier de Rancé sinh tại Paris ngày 9 tháng Giêng năm 1626, là con trai thứ hai và là con thứ sáu của ông Denis Bouthillier, làm thư ký cho Hội Đức Bà thương xót và Hội Charlotte Joly. Gia đình ông thân sinh ngài rất danh giá, đến nỗi Đức Hồng Y Richelieu làm cha đỡ đầu cho Rancé và đặt tên cho cậu.

Vào năm 1637, anh cả Denis của ngài chết sớm, vốn là người đứng tên năm nguồn hoa lợi, nên Armand-Jean phải là người thay thế. Trước hết ngài gia nhập quân ngũ, đột nhiên thành kinh sĩ của Nhà Thờ Đức Bà Paris và là người đứng tên năm nguồn lợi, trong đó có đan viện Trappe.

Trên đường học vấn, ngài rất xuất sắc đặc biệt về cổ ngữ Hy Lạp và La Tinh, vào năm 1643 đã có bằng nghệ thuật tại đại học Paris. Khi cha của ngài qua đời năm 1650, ngài trở thành chủ gia đình và sau đó lãnh nhận chức linh mục vào năm 1651. Năm 1652 ngài lấy bằng cử nhân thần học và năm 1654 tiến sĩ tại đại học Sorbonne. Cùng năm ấy, ngài được đặt là tổng bộ đẳng phó tế trong giáo phận của chú ngài, tổng giáo phận Tours. Ngài cũng trở thành tuyên úy cho Gaston d’Orléans (con trai vua Henry IV) năm 1656. Với bấy nhiêu giai đoạn thăng tiến, phẩm hàm giám mục dường như đã chắc chắn. Nhưng vào năm 1657, Hồng Y Mazarin đã từ chối chuẩn nhận thăng chức để làm giám mục phó cho chú của ngài (giám mục tổng giáo phận Tours).

Sự thất bại đầu tiên trong sự nghiệp của ngài đã kéo theo một cuộc hoán cải tức thời và mạnh mẽ; thêm vào đó ngày 28.4.1657, chỉ sau vài ba ngày bệnh nặng bà Montbazon đã qua đời. Người phụ nữ này rất đẹp, và rất điệu đã là bạn lâu năm của Rancé. Chắc chắn bà có một vai trò kế tục đối với Rancé, vì mẹ ngài qua đời năm 1638 lúc ngài mới 12 tuổi. Sự ra đi đường đột của bà đã thay đổi cuộc sống của Rancé.

Tức khắc ngài rút lui khỏi thế giới bên ngoài, giam mình trong nhà ở vùng nông thôn Véretz, từ bỏ quyền thu hưởng hoa lợi, và đặt mình dưới sự hướng dẫn của các cha dòng Oratoire – Paris.

Nhưng sau những cuộc tham vấn lâu dài, Rancé cuối cùng đã quyết định lui về sở của mình tại Boulogne, gần Chambord sống ở đó như một người hưởng huê lợi và cung ứng nhu cầu cho đan viện Trappe. Về đời sống thiêng liêng, ngài mời nhóm Nhặt Phép (Etroite Observance) để bảo lãnh cho nhà Trappe. Với mục đích này, sáu đan sĩ được gửi đến đan viện Perseigne bên cạnh đó. Về vật chất, những công việc sửa chữa xem ra trầm trọng hơn dự kiến, Rancé đã buộc phải ở lại để trông coi các thầy. Ngài ở đó qua mùa Đông 1662-63, đây cũng là giai đoạn hoàn tất tiến trình hoán cải lâu dài của ngài.

Từ bỏ ý định trở về Boulogne, và thấy có nhiều điều cần giải quyết, ngài đã chọn giải pháp là xin lãnh áo dòng Xitô, để sau một năm Tập, ngài trở thành viện phụ. Ngài khấn dòng ngày 26 tháng 6 năm 1664 và ngày 14 tháng 7 gia nhập đan viện Trappe trong tư cách viện phụ thực thụ, 7 năm sau cuộc hoán cải của ngài.

Ngay từ trước khi trở thành đan sĩ Xitô, Rancé đã cưu mang chương trình cải tổ, vượt xa các luật lệ của Nhặt Phép, nhưng khắc khổ hơn. Ngài được sai đi Rôma trong một sứ vụ vào tháng 9.1664, và chỉ hoàn toàn ở lại đan viện sau 2 năm, tức là vào tháng 4.1666. Tháng 4.1675 Rancé theo đuổi 2 hoạt động cùng lúc: tức là tại đan viện Trappe, ngài nung nấu các chủ đề cho phép thực hiện cuộc cải tổ, rồi trong chính nhóm Nhặt Phép, mà tính độc lập cũng như sự tồn vong bị đe dọa trầm trọng bởi Tông thư In Suprema (1666). Rancé tỏ ra là một trong những người bảo vệ năng động nhất trước hiểm họa này!

Sự phát triển của Đan viện Trappe từ con số 6 đan sĩ vào năm 1662 đã lên đến 90 vào năm 1700, năm mà viện phụ Rancé qua đời, là một chuyện; sự ảnh hưởng cá nhân của viện phụ Rancé là một chuyện khác, nhưng nguyên nhân liên kết chặt hai hiện tượng này chính là sự nổi tiếng của đan viện Trappe đã thu hút nhiều khách tham quan và nhiều ơn gọi mới. Đồng thời ảnh hưởng của ngài Rancé tạo nên một biện pháp rộng lớn ngang qua số lượng thư từ khổng lồ, nhất là sau năm 1675, khi ngài không rời khỏi nội vi nữa. Đan viện Sept-fons, Orval, Tamié Châtillon và Perseigne là những nhà chính, mà các bề trên coi đan viện Trappe như là kiểu mẫu và viện phụ Trappe như là người hướng dẫn. Các Nữ đan sĩ Clairets cũng theo như vậy.

Năm 1683, từ khi phát hành cuốn sách Về sự thánh thiện và bổn phận của đời sống đan tu, tầm ảnh hưởng của ngài Rancé lan rộng thêm, nhưng cũng gây nên những tranh luận thiếu xây dựng giữa các bề trên và giữa các dòng khác.

Tất cả cho thấy típ người của “Viện phụ Bão táp” (Abbé Tempête), nhưng nếu viện phụ Rancé tỏ ra bất khoan nhượng, thậm chí dữ dội trong những tranh luận công khai, với hơn hai ngàn bức thư ngày nay còn giữ được đã minh chứng tính cẩn trọng, sự chừng mực và tế nhị của ngài đối với các bạn thân, nhất là với nữ giới – những người mà ngài không thể gặp gỡ. Ví dụ Jacques II vua Nước Anh, thống chế Bellefonds, giám mục Bossuet và các giám mục miền Lucon (Barillon), Limoges, hay Grenoble, Bà Đầm Guise… trong số người khác có các viện mẫu miền Leyme, Gif và Visitandines là những người mà ngài viết cho thường xuyên.

Vì trọng bệnh ngài buộc phải từ chức năm 1695 và qua đời vào tháng 10.1700. Đã có một đặc ân duy nhất vào thời đó, tức là vua Louis XIV có quyền bổ nhiệm trực tiếp liên tục các viện phụ kế nhiệm của ngài Rancé.

Ngay từ những năm 1682, một nhóm bạn của ngài Rancé đã bắt đầu một chiến dịch cho việc phong thánh sau khi ngài qua đời, nhiều phép lạ được cho là do ngài can thiệp đã được thu thập bởi đan sĩ Pierre Le Nain, đan viện Trappe. Tuy nhiên, bầu khí của thế kỷ XVIII lúc đó không thuận tiện cho một tiến trình như thế. Và người ta, đặc biệt tại Trappe, chỉ hài lòng với việc tôn kính ngài như là “vị thánh cải tổ dòng” cho đến thời Cách Mạng Pháp 1789, và ngay cả sau này. Tác phẩm Về sự thánh thiện… trở nên bộ kinh điển. Khi đã phục hưng, một phần lớn đan sĩ Trappe hay đan sĩ Xitô cải cách sống theo luật của ngài Rancé, vốn là luật nền tảng cho Hiến Pháp của dòng này và được chuẩn nhận năm 1894.

  1. Về tác phẩm

– Hiến Pháp của đan viện Trappe (Paris, Lepetit, 1671; ngài Rancé không hài lòng về bộ luật này, nhưng vì đã trải qua nhiều lần xuất bản, cuối cùng đã cho ra một bản chính thức đã có chỉnh sửa: Luật lệ của đan viện Đức Bà Trappe, dưới dạng hiến pháp (Paris, Michallet, 1690, 1698, 1718).

Requeste presentée au Roy, [Yêu sách trình lên nhà Vua] ( Paris, Langlois, 1673.

Lettre du R.P. Abbé de la Trappe à un ecclésiastique, [Thư của viện phụ đan viện Trappe gửi cho một vị giáo phẩm] (G. Le Roy), (Rouen, Viret, 1677 et Paris, Coignard, 1677.

Relations de la mort de quelques religieux de l’abbaye de la Trappe [Về cái chết của một số đan sĩ dòng Trappe], (Paris, Michallet, 1678; éd. augmentées, 1683, 1691, từ tay viện phụ Rancé; lần xuất bản cuối cùng gồm 5 cuốn, 1755, có bản văn về cái chết của viện phụ Rancé.

De la sainteté et des Devoirs de la Vie monastique [Về sự thánh thiện và những bổn phận trong đời sống đan tu], (2vol., Paris, Muguet, 1683, 1684, 1687, 1701, 1846).

Eclaircissements de quelques difficultés que l’on a formées sur le livre de la sainteté…[Làm rõ vài khó khăn từ cuốn sách Về sự thánh thiện…], (Paris, Muguet, 1685, 1686, 1847).

Les Instructions de Saint Dorothée… [Giáo huấn của thánh Đôrôthê] (Paris, Muguet, 1686).

La Règle de saint Benoist, nouvellement traduite et expliquée selon son véritable esprit [Tu Luật thánh Biển Đức, bản dịch mới với chú giải sát nghĩa] (2 vol., Paris, Muguet, 1688, 1689, 1703).

… và một số sách nữa.

  1. Linh đạo và cải tổ

Một điều chắc chắn là linh đạo của viện phụ Rancé đã hình thành trước khi lãnh áo dòng Xitô. Chúng ta cũng có thể suy diễn từ số thư tín của ngài, nhưng từ khi vào dòng Trappe, linh đạo ấy được diễn tả chủ yếu trong cuộc cải tổ của ngài. Đó chính là một linh đạo sống thực, hơn là một hệ thống trừu tượng hoặc lý thuyết. Điều này nói rằng, ngang qua các thư tín, ta thấy ngài có thể nói về chân lý thiêng thiêng cho rất nhiều hạng người, không chỉ trong đan viện mà thôi. Do vậy, linh đạo ấy có thể áp dụng cho tất cả, kitô hữu cũng như những người sống đời thánh hiến.

Công cuộc hoán cải của viện phụ Rancé ghi dấu ấn từ đầu cho đến hết cuộc đời ngài. Cảm giác tội lỗi và ước muốn đền tội là hai cột trụ ngài xây cuộc đời mới trên đó. Nó cũng cho thấy rằng Rancé đã đồng hoá tội lỗi với việc lãnh nhận chức linh mục để phục vụ cho mục đích thế tục và thỏa hiệp ngang qua các mối tương quan cho dù ít nghi ngại nhất, như trường hợp ngài với Bà Montbazon.

Khi viết cho các linh mục và những ai hướng tới thiên chức ấy, ngài luôn nhấn mạnh đến phẩm giá thánh thiêng của chức linh mục, cần thủ đắc ý hướng ngay lành và nhớ đến lời cam kết long trọng đã tuyên.

Ngài cũng phê bình nghiêm khắc hàng giáo phẩm chểnh mảng. Ngài tỏ ra là người rất đòi hỏi phẩm cách cần thiết cho các linh mục, và trong 30 năm làm viện phụ, ngài chỉ tiến cử vài ba người cho được chịu chức linh mục.

Sau cuộc hoán cải, viện phụ Rancé kiên định giữ việc sám hối, nhưng với thời gian, dần dà ngài nhấn mạnh đến những khía cạnh khác nhau của nhân đức này. Hình ảnh chủ đạo trong tâm trí ngài là Sa Mạc (Désert). Từ lý tưởng Sa Mạc này đã sớm được thêm vào chiều kích thực hành. Trong thời lưu lại tại Trappe khi còn đảm nhận bảo trợ (commendataire) với số đan sĩ được gửi đến từ Perseigne, viện phụ Rancé đã trải nghiệm đời sống Xitô, trước tiên như một thám tử không mấy thân thiện, sau mới tham dự vào trọn vẹn hơn. Trong năm tập, ngài phải học chi tiết lối sống hằng ngày, học Tu Luật thánh Biển Đức và Thói lệ Xitô, nhưng những yếu tố của linh đạo ngài vẫn còn là thứ yếu. Những hiểu biết ban đầu về thánh Biển Đức dường như không có thay đổi lớn gì trong tư tưởng của ngài vốn đã bén rễ sâu trong lý tưởng Sa Mạc. Điều đó giải thích tại sao chương trình cải tổ của ngài muốn kết hợp đời sống Biển Đức dưới hình thức Xitô với một linh đạo dường như chưa bao giờ giống hệt tây Âu. Thậm chí không giống.

Điều quyết định cho sự phát triển linh đạo của ngài chính là vai trò viện phụ khi chăm sóc các linh hồn được Thiên Chúa giao phó. Vì thế, thay vì ở lại trong việc sám hối cá nhân, viện phụ Rancé buộc phải bắt đầu quan tâm người khác: trước tiên một nhóm đã hình thành tại Trappe; sau đó, từ 1664 đến tháng 4.1666 là nhóm Nhặt Phép (Étroite Observance) mà ngài đã phải đi Rôma để giải trình. Cuối cùng, khi trở lại Pháp, ngài chăm sóc cả hai nhóm đồng thời cho đến 1675. Từ đây dường như nếm mùi thất bại, đã đẩy ngài đến một hoạt động mạnh hơn nhưng ít hiệu quả, nơi quyền bính dân sự và Giáo hội. Ngài luôn ở trong đan viện, dù đan viện phát triển rực rỡ, và chỉ ra ngoài khi tuần viếng các nhà của Clairets.

Những dịp đi công tác bên ngoài rất quan trọng đối với ngài. Thật vậy, sứ vụ tại Rôma 1664 buộc ngài phải đào sâu thêm sử dòng để có thể minh chứng việc cải tổ, khởi đầu với nhóm Nhặt Phép. Khi mà một viện phụ “đi học” thì càng thúc đẩy sự thực hành linh đạo về nhiều phương diện. Người này đã 40 tuổi, chưa có bất kỳ kinh nghiệm đời sống cộng đoàn nào, nhưng khác người về tuổi thơ, văn hóa và trải nghiệm đời, nhưng nhất về cuộc hoán cải của ngài so với phần lớn các đan sĩ của mình. Ngài cũng khác với các viện phụ khác, ngài có nhiều điều để học. Mặt khác, ngài thường gọi các đan sĩ của mình là “anh em”; trải nghiệm thực tế là ngài vừa làm bề trên vừa là anh em. Chính điều này, người ta thấy mối liên hệ thực sự thành công giữa linh đạo Sa Mạc và linh đạo Biển Đức.

Là cha và là anh em một trật, viện phụ Rancé dành thời giờ cho các đan sĩ của mình, ngay cả với những anh em buộc phải rời khỏi Trappe vì lý do sức khỏe, hay lý do khác. Ngài chia sẻ công việc trong nhà nguyện. Làm cha giải tội cho tất cả, nhưng họ có tự do chọn người khác. Ngài để ý liên lạc với anh em vắng mặt, hoặc vì đi giải tội cho nữ đan sĩ, hay các đan sĩ ở các đan viện khác, hoặc vắng mặt vì bất kỳ lý do gì. Ngài giúp anh em hấp hối, viết thư cho gia đình anh em qua đời.

Cuốn sách lớn mang tên Về sự thánh thiện và bổn phận đan tu của viện phụ Rancé là biểu tượng của hoa trái suốt 20 năm sống linh đạo, và theo tác giả, đó cũng là những nét chính khi thuyết trình cho các đan sĩ trong thời gian này.

Trong cuốn sách này, ngài vào đề ngay với một loạt định nghĩa và tóm tắt lịch sử đời sống đan tu. Tiếp theo, ngài liệt kê các phương thế chính yếu để các đan sĩ theo đó mà nên hoàn thiện khởi đi từ tình trạng của họ. Năm chương tiếp theo như một tóm lược những gì tích cực nhất của ngài: Về tình yêu Thiên Chúa, Về tình yêu và sự tín nhiệm đối với các bề trên, Về đức ái và những bổn phận với bề trên, về đức ái mà các đan sĩ phải có với nhau, và về Cầu nguyện.

Thực ra đó là những điểm chung của linh đạo đan tu, nhưng bởi vì những nguyên lý này chưa được phê bình thỏa đáng, nên sự thành công của ngài Rancé cũng có phần tiêu cực. Dù sao, với 450 trang của cuốn một, thì đã có 200 trang bàn về những vấn đề đó. Nó như là lời mở đầu, mà nếu thiếu nó, phần sau nói về sám hối sẽ không có ý nghĩa và không thể giải thích được. Ngoài ra, Rancé còn nhấn mạnh đến cầu nguyện như là “lương thực của linh hồn”, nhưng cần biết rằng mỗi người phải cầu nguyện theo nhịp sống và linh hứng của mình. Sự tiếp cận có vẻ thực nghiệm này tương phản với một số giáo trình thời đó vốn thiết định phải nguyện gẫm thế này và thế kia, điều này cho thấy hơn một lần khẳng định linh đạo của viện phụ Rancé trước hết là thực hành.

Sự hoàn thiện của đời sống đan tu cũng như kitô hữu hệ tại yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu người thân cận cũng như vậy, thế mà phương thế hữu hiệu nhất để đạt cứu cánh ấy, chính là sám hối (pénitence), trong đó điều kiện tiên quyết là từ bỏ mình. Dường như bị ám ảnh bởi kinh nghiệm cá nhân về hoán cải, và cũng trong bầu khí thần học thời bấy giờ, viện phụ Rancé cũng liên kết với những nhà luân lý đời như Rochefoucauld hay La Bruyère, cũng như các nhà hộ giáo như Pascal. Cùng với họ, ngài lên án giá trị thế tục của Đại Kỷ Nguyên (Grand Siècle), và gán nguồn gốc, mục đích của chúng cho lợi nhuận và vị kỷ. Trong bối cảnh đan tu, hệ lụy là dẫn đến việc chống đối có hệ thống tất cả những biểu hiện kiêu ngạo. Vì thế cần thiết lập công cuộc tìm kiếm liên lỷ sự khiêm tốn, đồng thời áp đặt loại bỏ thẳng thừng những thỏa mãn cảm giác. Sự khổ chế vì thế đạt đến cực điểm của nó. Chính vì sự tiêu cực và tính biểu diễn này mà linh đạo của ngài Rancé trở nên đối tượng chỉ trích của người đương thời và cho đến ngày nay.

Dĩ nhiên phải xác định mối nguy hiểm trước khi tìm phương thuốc chữa trị. Cuộc hoán cải đã giúp ngài xác tín về sự phù vân của một thế giới trong đó cái tôi ngự trị, nhưng ngay cả mối nguy cơ này, tất cả trường phái Âu-tinh cũng đã nhìn nhận, mà những người thuộc nhóm Port-Royal cũng chỉ là thiểu số. Do vậy, không phải là xác minh sự dữ mà là phương dược đã phân biệt Rancé với người đương thời và các đan sĩ Trappe với các đan sĩ khác.

Vả lại, trong Dòng đã có những tranh luận mang tính giáo điều, ví dụ tranh luận về sự sỉ nhục. Các vị bề trên phán đoán rằng các đan sĩ của mình chưa có đủ sự sỉ nhục thì lợi dụng mọi dịp cho có. Nói cách khác, người ta chỉ khiêm nhường khi đã chịu sỉ nhục; một vị bề trên tốt là người thỉnh thoảng áp dụng một vài hình phạt mang tính chữa lành, ngay cả những chuyện không đáng. Còn riêng viện phụ Rancé, ngài tin rằng đã được năng động bởi tình yêu, không phải tinh thần một bạo chúa, và các đan sĩ của ngài cũng hiểu rằng vì cứu họ hơn là vì kiêu ngạo. Tuy vậy, người ta cũng thấy loại thực hành đó có thể dễ dàng dẫn đến lạm dụng.

Một cuộc tranh luận khác không kém sôi nổi, đó là cuộc tranh luận giữa Rancé với Mabillon về việc học vấn đan tu. Dĩ nhiên, không phải là không liên hệ với vấn đề trên đây. Khác với Lectio divina, vốn dĩ bắt buộc, việc học vấn về nguyên tắc đã bị loại trong đan viện Trappe, dù một vài người có phép ngoại lệ như đan sĩ Le Nain. Trong cuốn Về sự thánh thiện… viện phụ Rancé giải thích rằng, việc học vấn đòi hỏi một thời khóa biểu vốn không thể tương thích với những bổn phận của Việc Chúa (Opus Dei) và công việc tay chân. Lý lẽ như vậy tuy hợp lý nhưng chỉ là thứ yếu. Rancé cấm tuyệt việc học vấn, bởi vì cũng như tất cả các hoạt động trí thức, nó có thể dung dưỡng sự tự cao (amour-propre) và thỏa hiệp với tính đơn sơ. Chính ngài cũng rất là uyên bác, ngài biết rõ hơn ai hết nguồn gốc sâu xa của sự kiêu ngạo trí thức. Bởi vậy, không một đan sĩ nào của đan viện Trappe được gửi đến trường Bernardins ở Paris; cũng chính vì thế mà nhiều người có học vấn cao, thậm chí tiến sĩ đại học Sorbonne vẫn tự nguyện từ bỏ sinh hoạt trí thức để trở thành một thỉnh sinh của đan viện Trappe.

Những cuộc tranh cãi về sự sỉ nhục và học vấn này đã trở nên công khai và khá quan trọng, nhưng sau khi Rancé qua đời, chúng dường như mất đi tính thời sự và bị quên lãng nhanh chóng. Nhưng những chú giải Tu Luật liên quan đến đời sống vật chất của đan sĩ vẫn không bị lãng quên. Tính khổ tu của dòng Trappe, đã trở nên như một khẩu ngữ cho đến ngày nay, đã khơi gợi tính tò mò nào đó. Để một khía cạnh nào đó được biết đến nhiều nhất, thì điều đó cũng là điều quan trọng nhất đối với Rancé. Ngài viết: “tất cả đời sống đan tu, cho dù khổ tu thế nào, nó cũng chỉ thuần là Do thái giáo nếu như sự chuẩn bị nội tâm không kết nối với những điều kiện bên ngoài”. Những bề trên của nhóm Nhặt Phép đã muốn trở về tinh thần nguyên thủy của Xitô qua việc bỏ bớt phần lớn những khoản luật dễ dãi đã được thêm vào theo dòng thời gian, nhưng điểm xuất phát luôn là thực tại của đời sống đã bén rễ trong các cộng đoàn hiện có; công việc của họ là lôi kéo thêm các đan viện khác cùng cải tổ mà vẫn giữ sự trung dung nào đó. 50 năm sau, viện phụ Rancé cảm thấy cuộc cải tổ đã không đi đến đâu, mặc dù chương trình ngài soạn thảo được xem là logic tuyệt đối.

Cũng cần nói thêm, nếu nhóm Nhặt Phép cấm các đan sĩ dùng thịt, bình dân gọi là “Chay kiêng”, thì viện phụ Rancé cấm luôn ăn cá, trứng và ngay cả bánh mì trắng và rượu vang. Nếu nhóm Nhặt Phép hạn chế việc giải trí khoảng 1 tiếng mỗi ngày, thì viện phụ Rancé cấm tuyệt việc giải trí, và cho phép các đan sĩ của mình nói chuyện không phải với nhau, nhưng là chỉ nói với các bề trên, nghĩa là tối thiểu có thể. Tại đan viện Trappe, áo mặc là loại vải thô và vạt áo lại cứng hơn người ta; công việc tay chân là bắt buộc cho mọi người, ba giờ mỗi ngày; việc sử dụng lò sưởi, chỉ một phòng cho cả nhà, và hạn chế tối đa; những ai xuất hành, vì lý do sức khỏe hay thăm viếng gia đình đều bị cấm, và tất cả sự tiếp xúc cho dù thư từ với gia đình hay bạn bè đều được kiểm duyệt gắt gao. Những ai phải phẫu thuật thì được phép trong trường hợp khẩn cấp, nhưng việc chăm sóc sức khỏe đặc biệt đều bị từ chối; dĩ nhiên tại Nhà liệt, những người đau yếu được hưởng chế độ nhẹ nhàng hơn, nhân bản hơn, nhưng dù sao việc bảo trì sức khỏe không phải là điều ưu tiên.

Những việc thực hành đó đã thể hiện tính ưu việt của sự bàng quan đối với tiện nghi vật chất, nhưng cần đặt sự bàng quan này trong viễn ảnh tốt đẹp. Trước hết, tình trạng thiếu thốn tiện nghi, chế độ thực phẩm đơn giản và thiếu vắng sự chăm sóc sức khỏe từ nhiều thế kỷ nay vốn là phần dành cho nông dân; tiếp theo, nếu việc hãm dẹp giác quan có vị trí lớn trong linh đạo Trappe, viện phụ Rancé còn tinh tế hơn nữa về những gì liên quan đến thống hối cách ngoại thường. Vì vậy, các đan sĩ Trappe chỉ giữ luật chay các thứ sáu mùa Chay, thì đến thế kỷ 19 họ đã giữ tất cả các thứ sáu trong tuần. Viện phụ Rancé kể lại chính ngài đã cho phép ngoại lệ một đan sĩ mang dây thắt lưng có thắt nút. Từ bỏ chính mình và khổ chế là hai việc rất khác nhau; hạn chế việc hãm mình phạt xác cách thái quá, viện phụ Rancé dường như đi trước thời đại của mình.

Từ khổ chế đến suy niệm về cái chết là bước đi hợp lý. Chúng đưa vấn đề linh đạo của Rancé đến điểm xuất phát của mình. “Sự chết và phán xét thực ra là như nhau”, ngài có thói quen nói như vậy. Tuy nhiên thái độ sống cũng như giáo huấn của ngài về chủ đề này lại phức tạp. Lúc đầu, việc xá tội và sợ phán xét trở lại rất thường xuyên trong các thư của ngài. Kể từ năm 1674, khi cái chết bắt đầu tấn công đan viện Trappe, viện phụ Rancé viết cho một số đan sĩ những bản văn được xuất bản sau đó với tiêu đề: Tương quan giữa sự sống và cái chết… Trong tư cách viện phụ, ngài gần gũi họ khi hấp hối, cho họ những lời an ủi sau cùng, ngài đã học được nhiều khi tiếp xúc với những anh em sắp qua đời; họ rất chân thành trong niềm vui, một thái độ tích cực hơn là nỗi sợ phán xét đang đến. Dần dà, ngài đã được xây dựng nhiều khi tiếp xúc với các anh em sắp chết; ngài đã thay đổi cách nhìn, nhấn mạnh nhiều đến niềm hy vọng và niềm vui. Chúng ta có thể và phải yêu mến Thiên Chúa ngay từ cuộc sống này, nhưng sự kết hiệp hoàn hảo với tình yêu thần linh đang chờ đợi chúng ta ở bên kia, và như vậy, cái chết thực ra là ngưỡng cửa phải bước qua cách nhẹ nhàng. Từ việc khinh chê thế gian hoàn toàn và tính phù vân của nó, viện phụ Rancé đã đi đến chỗ đặt ánh nhìn của mình vào nơi vĩnh cửu. Thập giá Đức Kitô, tình yêu của Thiên Chúa, gương các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin, tất cả củng cố nơi ngài niềm tín thác làm cho ngài tiến xa hơn cái chết mà trước đây ngài còn nghi ngại.

Viện phụ Rancé tin rằng, một khi không còn dính bén trần gian, chúng ta chuẩn bị cho niềm vui vĩnh cửu với Thiên Chúa, và trong các suy niệm của ngài về cái chết không hề còn bóng dáng tiêu cực. Vả lại trong thông điệp ngài gửi cho các hối nhân cũng rất tích cực: khi “Thiên Chúa gõ cửa” thì mau mắn đáp trả không đợi chờ một khoảnh khắc nào. Thay thế nỗi sợ hãi là niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng muốn tội nhân thống hối. Chính trong bối cảnh như vậy mà ta hiểu sự bàng quan đối với bệnh tật và sức mạnh của sự chết đang hoành hành tại đan viện Trappe; chậm trễ để làm chi khi thời điểm rất được mong chờ đã đến?

Tất cả cuộc sống của các đan sĩ Trappe là chuẩn bị cho cái chết và sự sống vĩnh cửu; chắc chắn đó cũng là lý do làm cho nhiều khách hành hương, một đàng kể lại ấn tượng của họ về đan viện Trappe thời viện phụ Rancé và sau đó, đàng khác nhấn mạnh đến bầu khí vui vẻ và hồn nhiên của các đan sĩ. Cái chết an lành của chính viện phụ Rancé, do kiệt sức vì cơn bệnh kéo dài nhưng minh mẫn cho đến phút cuối, là một ví dụ đáng khâm phục về giáo huấn của ngài.

Không nên tìm kiếm tính nguyên thủy trong tư tưởng của viện phụ Rancé; vốn là người chủ trương chính thống như những người đương thời đặt nền tảng trên Kinh Thánh, ngài cũng là người như thế trong đời sống đan tu. Nguồn tài liệu của ngài mang tính cổ điển: Kinh Thánh, Giáo phụ, nhất là các Linh phụ Sa mạc, Jean Cassien, thánh Biển Đức, thánh Bênađô, và các thánh thời hiện đại như Têrêxa Avila và thánh Phanxicô Salesio. Tư tưởng của ngài xoay quanh cách vững chắc trên trục là chính Đức Giêsu Kitô, danh từ được lặp nhiều lần trong các bản văn của ngài. Cũng hơi tò mò, hầu như ngài không nói gì về Đức Trinh Nữ Maria (trừ những châm ngôn Maxime và các Thuyết trình), nhưng sự xa cách này của truyền thống Xitô chỉ là vẻ bề ngoài. Trong ngôi nhà thờ được trùng tu của đan viện Trappe, Thánh Thể không được lưu giữ trong nhà tạm, mà trong một bình, treo trên cánh tay của tượng Đức Trinh Nữ Maria. Cánh tay còn lại bồng Chúa Giêsu Hài Đồng.

Tính nguyên thủy trong tư tưởng của viện phụ Rancé cũng như đóng góp của ngài vào linh đạo hệ tại không nhiều nơi các bài viết, cho bằng hệ tại công trình duy nhất này là đan viện Trappe. Chính trong đời sống của cộng đoàn này và các cộng đoàn cùng nguồn gốc sau cuộc Cách Mạng, mà viện phụ Rancé đã thông truyền sự nghiệp của mình. Sự hòa hợp đời sống tại Trappe, liên kết một số nguyên tắc rõ ràng và vững chắc cho nếp sống khổ tu giản dị và cẩn trọng, phản ánh đúng đặc tính của nhà cải tổ: chỉ có khổ chế của con tim mới năng động sự khổ chế nơi thân xác. Đương nhiên, nếu không có nhân cách lớn của viện phụ Rancé, kinh nghiệm của Trappe có lẽ sẽ thất bại, nhưng điều ngạc nhiên hơn chính là sự liên tục của công trình này sau cái chết của viện phụ Rancé, không gián đoạn, không suy yếu, qua nhiều đời bề trên. Chính trong khi kêu cầu thần trí của viện phụ Rancé mà viện phụ Augustin Lestrange đã dẫn anh em mình đi lưu đày năm 1792. Trở về năm 1815 tiếp quản sự đổ nát của đan viện Trappe. Đó là cộng đoàn duy nhất sống sót tại Pháp (sau Cách Mạng Pháp 1789), giữa hàng trăm các Dòng khác, sống sót nhưng không tìm được giải pháp để tiếp tục, và cũng từ đó dòng Trappe thành lập các cộng đoàn đây đó khắp nơi.

Nếu như viện phụ Rancé tỏ ra là con người đam mê, bất khoan nhượng, cứng nhắc, thì linh đạo của ngài đều mang dấu ấn của thời đại ngài. Dù sao, những phẩm chất bác ái, sự tín trung và độ bén nhạy của ngài, đã cho phép ngài xây dựng linh đạo trên nền đá trước thách đố và bão giông.

  1. Đặc điểm của hai đấng lập dòng

Qua những gì đã trình bày trên đây về viện phụ Rancé, đấng sáng lập dòng Xitô nhặt phép, và những gì chúng ta cảm nhận từ con người của Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận cho thấy sự tương hợp về tinh thần của các đấng sáng lập: đời sống đức tin kiên vững, ý chí bền bỉ và dấn thân trọn vẹn.

Một cách tổng quát, chúng ta thấy viện phụ Rancé đã cưu mang tinh thần cải tổ từ khi vào dòng Xitô; cưu mang và xây dựng nền tảng tu đức và linh đạo cho việc cải tổ với tinh thần cương quyết; nhất là nền tảng tu đức của ngài không nằm trên lý thuyết cho bằng trên cuộc sống thực trong đan viện. Trong khi đó cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận cũng xây dựng tu đức của ngài trên cuộc sống thực ngay từ khi còn làm giáo sư tiểu chủng viện An Ninh; và khi đã lập dòng, tu đức “sống thực” là một hiện thực của đan viện Đức Bà An nam, bởi lẽ ngài không hề để lại bút tích nào về giáo huấn tu đức hay linh đạo của ngài.

Rõ ràng cả hai đấng lập dòng đều đặt nền tảng đức tin, nền tảng tu đức của mình trên con người Đức Giêsu Kitô, như thánh phụ Biển Đức xác tín: không lấy gì làm hơn tình yêu Chúa Kitô. Đến nỗi nếu mỗi đan sĩ đều xác tín như vậy, người ta nhìn vào thì “thấy Giêsu, Giêsu thay thảy” (DN 136).

CHA BIỂN ĐỨC THUẬN
NGƯỜI ĐI GIEO HẠT

Án Khảm (Đức Tổng Giuse NQK)

Mc 4,1-9

Đức Giêsu lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ. Một đám người rất đông tụ họp chung quanh Người, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi dưới biển, còn toàn thể đám đông thì ở trên bờ. Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều. Trong lúc giảng dạy, Người nói với họ: “Các người nghe đây! Người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả. Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm.” Rồi Người nói: “Ai có tai nghe thì nghe!”

I. Thiên Chúa gieo hạt

Ta đã từng đọc dụ ngôn này rất nhiều lần, suy niệm rất nhiều góc cạnh, nhưng hầu như ta chưa hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa.

Tôi có một người bạn. Khi anh lập gia đình và có con. Một ngày kia đứa con đầu lòng bị bệnh nặng. Anh lo cho con đến mất ăn mất ngủ, phờ phạc và tiều tụy. Ghi lại cảm xúc trong những ngày chăm sóc cho đứa con bị bệnh, anh nói: “Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ.”

Cũng thế chúng ta không thể hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa yêu thương ta đến thế nào. Dụ ngôn “người đi gieo hạt” phần nào nói lên tấm lòng Thiên Chúa đối với chúng ta.

  1. Thiên Chúa kiên trì gieo hạt

Người đi gieo hạt đầu tư rất nhiều: biết bao tiền của, biết bao công sức. Mỗi lần gieo là mỗi lần vất vả. Nhưng xem ra người đi gieo không ngại vất vả. Cứ mỗi lần thất bại lại khởi đầu một lần gieo mới, cứ thức khuya dậy sớm, cứ cày sâu cuốc bẫm cho đến khi thành công mới thôi. Mỗi lần gieo là mỗi lần tốn kém. Nhưng người đi gieo xem ra không ngại tốn kém. Cứ mất mùa là gieo. Cứ gieo mãi cho đến khi đạt kết quả mới thôi, không tiếc công tiếc của, đầu tư tất cả sức lực tiền bạc vào vụ mùa.

Người đi gieo hạt đã dành biết bao tâm huyết: phải lên kế hoạch, phải chọn hạt giống, phải chuẩn bị đất, phải cày cuốc đất chai lì, phải nhặt sỏi đá lẫn trong ruộng, phải nhổ bụi gai và cỏ dại, phải bón phân cho đất màu mỡ. Khi một đợt gieo thất bại, phải bắt đầu lại từ đầu. Thật là mệt mỏi và chán nản! Thế mà người đi gieo vẫn không nản lòng bỏ cuộc. Không phải một lần mà thất bại nhiều lần, người đi gieo vẫn hăng hái quyết tâm bắt đầu lại, cho đến khi vụ mùa thành công.

Người đi gieo ấy chính là Thiên Chúa. Đọc dụ ngôn “Người đi gieo hạt” ta nhớ lại lời Chúa nói trong Isaia: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Is 55,10-11).

Dụ ngôn “người đi gieo hạt” chính là minh hoạ cho thái độ của Thiên Chúa gieo lời, đã được loan báo từ ngàn xưa qua tiên tri Isaia. Đây chính là tấm lòng của Thiên Chúa. Vì yêu thương nhân loại nên Thiên Chúa ban lời cho trần gian. Lời Thiên Chúa có mục đích sinh hoa kết quả, đem lại hạnh phúc cho con người. Vì thế mà Thiên Chúa kiên trì không biết mệt mỏi, đã kiên trì gieo từ đời nọ đến đời kia, đã sử dụng đủ mọi phương tiện, hết cách này đến cách khác. Thiên Chúa chỉ mong tạo hạnh phúc cho con người. Người nói bằng vũ trụ thiên nhiên, nói bằng âm thầm che chở, nói qua lịch sử, nói qua tạo dựng, và cuối cùng nói qua con người.

  1. Thiên Chúa nói qua các tổ phụ và tiên tri

Như thánh Phaolô dạy trong thư Do Thái: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri” (Dt 1,1).

Từ khi có loài người Thiên Chúa không ngừng ngỏ lời với loài người. Người nói với ông bà nguyên tổ, nói với Abraham để tuyển chọn dân riêng, đặc biệt nói với Môsê trong cuộc giải phóng dân khỏi ách nô lệ Ai cập, và trong suốt hành trình 40 năm tiến về Đất Hứa. Rồi trong cuộc lập quốc, Thiên Chúa đã nói với Samuel, với Đavít. Trong cuộc lưu đày, Thiên Chúa cũng không bỏ rơi Dân Chúa, và vẫn hứa giải phóng, phục hồi Dân Chúa. Ta không thể nào không cảm nhận được tấm lòng yêu thương của Thiên Chúa xuyên qua các lời vô cùng yêu thương Thiên Chúa ngỏ với con người qua suốt dòng lịch sử. Đặc biệt những lời yêu thương qua các tiên tri Isaia, Giêrêmia, Êdêkien và Hôsê.

  1. Thiên Chúa nói qua Chúa Giêsu

Nhưng cuối cùng, Thiên Chúa nói với chúng ta qua Chúa Giêsu. Như lời thư Do Thái: Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,2). Đó là tình yêu lên đến tuyệt đỉnh. Như Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Đó là Thiên Chúa dùng chính Ngôi Lời để nói với con người, để Lời Chúa sinh hoa kết quả phong phú, để đem đến phúc trường sinh cho con người.

II. Chúa Giêsu gieo hạt

  1. Chúa Giêsu kiên trì gieo hạt

Đến thời sau hết Thiên Chúa sai chính Con Một đến nói với loài người. Ngôi Hai chính là Ngôi Lời. Chính Ngôi Lời bằng xương bằng thịt giáng trần đề ngỏ lời với nhân loại. Để mọi người nghe thấy, nhìn thấy và chạm tới. Như thánh Gioan Tông đồ cảm nghiệm: Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống” (1Ga 1,1).

Tha thiết với sự sống của con người, nên Ngôi Lời nhập thể rong ruổi khắp nơi đem Tin mừng đến cho mọi người. Ngay từ khi còn trong lòng mẹ, Người đã đem ơn cứu độ đến cho thánh Gioan Baotixita. Khi đã đi rao giảng, Người không quản ngại, quên ăn quên nghỉ vì thao thức rao giảng, chỉ đường cho con người biết sự thật và tìm đến sự sống. Đến lúc chết, Người vẫn còn gieo Tin mừng cho anh trộm lành.

Người là Ngôi Lời nên không chỉ rao giảng bằng lời nói mà còn bằng việc làm. Người chữa lành người bệnh, cho người chết sống lại, an ủi người đau khổ, đến thăm hỏi và kêu gọi những người cùng khổ, bị loại trừ. Khi đi rao giảng, Người bị người đời chống đối. Ngay cả người dân Nadarét đồng hương cũng không đón nhận. Nhưng Người vẫn kiên trì đi hết làng nọ sang làng kia để rao giảng Tin mừng.

Người là Ngôi Lời nên trọn cả con người, cả cuộc đời, từ lúc sinh ra đến lúc lìa đời, tất cả là lời. Như thế, Người không chỉ gieo lời mà đã gieo chính mình, gieo trọn cuộc đời vào thế gian.

  1. Chúa Giêsu gieo chính mình

Quả thật, Chúa Giêsu chính là Lời Thiên Chúa ngỏ với thế gian. Chúa Giêsu chính là hạt lúa Chúa Cha gieo vào thửa ruộng thế gian. Chính Người vì vâng lời Chúa Cha đã tự nguyện gieo chính mình.

Người là hạt lúa chìm sâu trong lòng đất trần gian. Người chìm trong miền đất xa xôi, nên sinh ra tại làng Bêlem nhỏ bé, nên sống trong làng Nadarét vô danh. Chìm dưới đáy xã hội, nên Người làm thợ mộc tầm thường bị người đời khinh dể, nên Người đi lại ăn uống với những người thu thuế tội lỗi. Bị gạt ra ngoài lề xã hội, nên Người đến với những người bị cấm kỵ, bị ô uế, bị loại trừ.

Người miệt mài đi gieo, nhưng đất trần gian không đủ tốt để hạt giống của Người mọc lên. Đó là những con đường đi chai cứng không đón nhận hạt lúa. Đó là những mảnh đất đầy đá sỏi, hời hợt nên hạt lúa chỉ mọc rồi thoáng chốc khô héo. Đó là những tấm lòng đầy bụi gai dục vọng bóp nghẹt cây lúa. Vì thế, Người phải tự làm cho đất tốt bằng cách trở thành hạt lúa tự mục nát đi, như Người báo trước: Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Chính hạt lúa tự mục nát. Vỏ của nó trở thành phân bón làm cho đất phì nhiêu. Chúa đã chịu mục nát đi trong muôn ngàn nỗi đớn đau, bị chống đối, bị hiểu lầm, bị hắt hủ, bị phản bội, và cuối cùng bị đánh đập tan nát tấm thân, bị đóng đinh, chịu chết. Quả thật, hạt lúa đã mục nát đến tận cùng. Và hạt giống đã mọc lên tươi tốt, trổ sinh hoa trái trăm ngàn.

  1. Chúa Giêsu đem đến mùa gặt dồi dào

Chúa đã gieo mình vào miền đất sự chết, và đã gặt được sự sống dồi dào phong phú, sự sống cho ức triệu sinh linh. Sự sống đó là ơn cứu độ cho muôn người.

Chúa đã gieo mình vào miền đất tội lỗi, và đã gặt được ơn công chính hoá cho trần gian, đã rửa sạch tội lỗi cho nhân loại.

Chúa đã gieo mình vào miền đất trần gian, và đã gặt được một mùa gặt phong phú cho Nước Trời, đưa đoàn dân đông đảo vào Nước Trời, như lời thánh Gioan diễn tả trong sách Khải huyền: “Tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: “Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta” (Kh 7,9-10).

III. Cha Biển Đức Thuận gieo hạt

Có thể nói, cha Biển Đức Thuận đã thực hành Lời Chúa, đã cùng Chúa Giêsu gieo hạt trên cánh đồng Việt Nam.

  1. Cha Biển Đức Thuận kiên trì gieo hạt

Nếu Thiên Chúa phải trải qua nhiều mùa gieo hạt mới thành công, thì cha Biển Đức Thuận cũng đã có ba mùa gieo hạt lớn.

Thoạt tiên, ngài theo đuổi ơn gọi trong giáo phận Arras. Với ước muốn hiến thân cho Chúa và Giáo hội, phục vụ Chúa và Giáo hội trong bậc linh mục. Nhưng rồi thao thức hiến thân càng mãnh liệt hơn khi ngài thấy tiếng gọi truyền giáo cho đất nước Việt Nam xa xôi. Bao nhiêu người còn chưa biết Chúa. Bao gian nguy khó khăn đang đe doạ bước chân truyền giáo. Ngài quyết tâm hiến thân mãnh liệt hơn nữa nên đã xin gia nhập hội Thừa sai Paris để được sang truyền giáo ở Việt Nam. Sau 15 năm làm việc vất vả trên cánh đồng truyền giáo nhưng không mấy thành công, cha Biển Đức Thuận cảm thấy Chúa muốn mời gọi ngài hiến thân hơn nữa trong việc huỷ mình, quên mình trong đời sống chiêm niệm. Vì thế, ngài xin phép bề trên cho lập dòng chiêm niệm cho người Việt Nam.

Chính trong ước muốn hiến thân này mà ngài càng phải hi sinh đau khổ nhiều hơn. Thoạt tiên là sự nghi ngờ của bề trên và của anh em. Không ai nghĩ người Việt Nam có thể sống đời đan tu. Càng không ai tin cha Biển Đức Thuận có thể lập dòng thành công. Sau chín năm thử thách, Đức cha Allys Lý mới đồng ý cho ngài lập dòng. Từ khi lập dòng, ngài phải đương đầu với nhiều khó khăn: khó khăn vì thiếu thốn vật chất, khó khăn vì mọi người nghi ngờ, khó khăn nhất là vì chính anh em chưa hiểu đời sống chiêm niệm. Ngài đã kiên trì dạy dỗ, kiên trì đối phó với những khó khăn, kiên trì làm gương bằng đời sống của chính mình. Có thể nói, ngài đã gieo chính mình trong đời sống chiêm niệm.

  1. Cha Biển Đức Thuận gieo chính mình

Giống như Chúa Giêsu là hạt giống Chúa Cha gieo vào trần gian, cha Biển Đức Thuận là hạt giống Chúa gieo vào đất Việt.

Cũng như Chúa Giêsu, ngài hăng say rao giảng Lời Chúa. Để người Việt biết Chúa, ngài không ngần ngại làm bất cứ việc gì, và làm việc gì cũng nhiệt thành quên mình đến mức tối đa.

Khi dạy học ở chủng viện, ngài dạy hăng say đến quên mình. Sách Hạnh Tích thuật lại: Theo chứng thơ các cha gởi đến, cha giáo Thuận là một vị giáo sư biệt tài, một tay anh hùng đại đảm… Ngài chịu khó dọn bài, chấm bài, cắt nghĩa kỹ càng, chuyên bề thực hành hơn lý thuyết… Ngài hăng hái nóng nẩy như lửa thánh. Học ra học, chơi ra chơi… Đôi khi mệt nhọc đau yếu mà cha cũng gắng dạy học, có lần vừa đi vừa mửa, hễ nghe chuông là cắp sách chạy, không bỏ một giờ trả bài nào!.. Một ông Tây vừa dạy văn chương, tu từ, vừa kiêm cả đờn hát, vừa chuyên Việt ngữ, lại học chữ Hán có bốn năm mà dạy cả một trường danh tiếng như trường An Ninh, quả thật là sự hãn hữu! Hiếm có.[30]

Khi coi xứ Nước Mặn, ngài cũng nhiệt thành không kém. Sách Hạnh Tích thuật lại: “cha giáo Thuận thi hành phương pháp của thánh Tông đồ: Bởi nghe mà tin: “Fides ex auditu” nên tiên vàn ngài chịu khó dạy kinh bổn đạo lý, khi thì trẻ con lúc thì chầu nhưng. Thường ngài dạy từ 8 giờ sáng đến 6 giờ tối và từ 8 giờ tối đến 11 giờ khuya, tất cả chừng 11 hay 12 giờ. Ngài viết thơ kể truyện ấy: “Lạy cha mẹ rất yêu dấu, con đang dạy 62 người kẻ ngoại để chịu phép Thánh tẩy và dọn một lớp trẻ rước lễ vỡ lòng. Tuần trước con đã rửa tội một bà lão 85 tuổi. Bà đến xin trở lại mà rằng: Trời bắt tôi phải tòng giáo! Song rủi trời không cho bà thính tai, muốn nói chi với bà phải la lối hết sức. Mặc lòng nhờ ơn Chúa bà đã thuộc đủ điều cần cho được lãnh phép Thánh Tẩy. Con cũng dạy một bà lão khác 82 tuổi mê muội lắm, song may không điếc như bà trước. Việc dạy kinh bổn và đạo lý là việc không vui mấy, hoạ mới được một ngày vui. Con mới rửa tội được 6 người lớn và mấy đứa trẻ, đó là ít trận con thắng được với con cựu xà…”. “Công việc chiếm nhiều thời giờ nhất của con là dạy kinh bổn cho giáo hữu tân tòng, song than hỡi! Họ không sáng trí mấy! Nhất là có ba bà lão già quá 70 tuổi! Tội nghiệp các bà, phải chịu hết các sự khó thế gian này mới thuộc được mấy kinh! Khi con dạy kinh bổn cho họ hơn 10 tiếng đồng hồ rồi thì con chạy chung quanh bên tả bên hữu một chặp cho khuây. Thấy mình mệt muốn nghỉ thì con tự bảo: Hỡi Henri Denis, nếu mày không làm thầy cả thì mày phải làm anh hàng bánh, nên mày phải làm việc cho gắt, phải làm việc đi, nghỉ chi mà nghỉ! Vạn tuế các cha bổn sở, và cũng vạn tuế các ông hàng bánh nữa!”[31] Không những ngài dạy giáo lý mà còn đi thăm các họ và các gia đình. Rồi còn chữa bệnh cho mọi người. Và nhất là tu bổ nhà thờ. Vì không có tiền, nên ngài phải trực tiếp vào rừng đốn cây, xẻ gỗ. Như ngài kể trong thư cho gia đình: Đi rú về ngài viết “Con đã đi rú làm gỗ về đây, phải đi bộ 20 cây số, cả đi cả về 40 cây! Một dịp đi dạo cũng khá! Tuy thương hại cho cái chân của con bị thứ đỉa cắn nát cả. Nó bám đầy trên ngọn cỏ, lá cây, không thể bước một bước mà không bị nó bám vào, nên cứ đi chừng 15 phút là phải đứng lại gỡ nó ra. Người ta trị thứ đỉa này bằng một thứ thuốc riêng chế bằng vôi và muối bỏ trong cái ống tre, lấy cái tăm bôi một chút vào miệng nó, nó liền nhả ra ngay. Giống đỉa này có cái tài riêng chui vào các kẽ ngón chân mà cắn, no rồi mới nhả ra, thấy máu chảy mới biết. Nó cắn không đau song hay sinh mụt lâu khỏi lắm.[32]

Nhưng khó khăn vất vả và nhiều đau khổ nhất chính là công cuộc gieo hạt giống chiêm niệm vào miền đất Việt Nam.

Khó khăn lớn khiến ngài đau khổ rất nhiều có lẽ là thái độ nghi kỵ của Đức cha và anh em linh mục. Từ trước đến nay mọi người đã có thiên kiến rằng người Việt Nam không thể sống đời chiêm niệm. Chính vì thế mà các dòng đan tu không chịu đến mở nhà ở Việt Nam. Riêng đối với cha Biển Đức Thuận, các cha trong giáo phận Huế lại càng nghi ngờ. Các ngài cho rằng tính khí của cha Biển Đức Thuận hay thay đổi, không kiên trì, nên không thể lập dòng. Kể cả những vị trước kia thân thiết với ngài, nay cũng không giúp đỡ gì khi ngài ra đi lập dòng. Còn phần Đức cha Allys Lý, có lẽ vì nghe dư luận nói về cha Biển Đức Thuận và có lẽ cũng vì thái độ khôn ngoan nên đã bắt cha Biển Đức Thuận phải chờ đến 9 năm mới ban phép. Khi ban phép Đức cha còn nói: “Cho phép lập dòng, có được thì hay, nếu bất thành, thì phải để nơi ấy lại cho địa phận, rồi đi Lào hay đi mô thì đi”. Nghe Đức cha và nhiều đấng ban lời cay cực như thế, tự nhiên cha giáo Thuận phải buồn, sinh tủi phận.[33] Có thể nói, Đức cha và các cha là những bờ ruộng chai đá, hạt giống cha Biển Đức Thuận gieo vào chỉ có mất đi chứ không mọc lên được.

Khó khăn về vật chất cũng khiến cha Biển Đức Thuận phải vất vả. Nếu được đất Ba Trục có lẽ thuận lợi và mầu mỡ hơn. Nhưng vì nghi ngờ cố Thuận không thành công nên cố quản lý không cho lấy đất của giáo phận. Có cha còn nói: “Ai cho cố Thuận lập dòng một xu là uổng một xu”.[34] Được quận công Nguyễn Hữu Bài cho đất Phước Sơn, nhưng lại quá khô cằn sỏi đá và nhiều thú dữ. Làm vất vả trồng được ít hoa màu thì bị heo ri và hươu nai vào quấy phá. Cố gắng mãi làm được ngôi nhà lại bị cháy.

Khó khăn bên ngoài không thể bằng khó khăn bên trong. Kẻ vào dòng rồi nản lòng bỏ ra. Khiến anh em bị chao đảo. Số ra rất nhiều. Sách Hạnh Tích nói: Vì không phải mọi người vào Phước Sơn mà bền đỗ cả: về hơn phân nửa, nhất là mấy năm đầu về mất đến hai phần ba.[35] Câu chuyện ba cha con cha Chất là một điển hình. Chính anh em vì chưa quen với nếp sống lao động khắc khổ nên lúc vui lúc buồn. Như thư ngài kể cho bà mẹ: “Mấy ngày nay mưa to gió lớn, lạnh queo, vườn tược cây cối úa cả. Một thầy đau phải đi nhà thương, còn mấy thầy ở nhà thì ma quỷ nó khuấy phá quá: hết thầy này đến thầy nọ, coi bộ tịch họ buồn thiu, làm con cũng buồn! Vậy phải làm chi? Phải cầu nguyện, phải nhịn nhục, phú dâng mọi sự thuận theo ý Chúa, vì những buồn như vậy không lâu: buồn đó rồi hết đó. Song có điều khác thầy này vừa vui thầy kia lại buồn, thành ra con lại sinh ái ngại… Con nói như vậy, để xin mẹ cầu nguyện cho con và cho các thầy hết thảy, vì cả nhà dòng hèn mọn con đây chỉ nội một tuần cũng đủ tan nát hết.”[36]

Nhưng ngài đã vượt qua tất cả những khó khăn thử thách nhờ noi gương Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu, một đời rao giảng nhưng cứ gặp những thửa ruộng, đường đi đầy sỏi đá, gai góc. Cuối cùng, Chúa phải tự gieo đời mình, biến mình thành hạt lúa chịu mục nát đi và làm cho đất tốt tươi. Để có mùa gặt dồi dào phong phú, cha Biển Đức Thuận cũng tự gieo đời mình, biến mình thành hạt giống chiêm niệm gieo vào lòng đất Việt Nam. Ngay cả khi chưa được phép lập dòng, ngài đã bắt đầu sống đời sống đan tu.

Nếu đời đan tu là hoàn toàn vâng phục bề trên, thì cha Biển Đức Thuận đã gieo đời mình trong vâng phục Đức cha giáo phận. Dù tha thiết mong mỏi thành lập nhà dòng chiêm niệm, nhưng ngài vẫn khiêm nhường vâng phục bề trên. Dù phải chờ đợi 9 năm dài đằng đẵng nhưng khi đã lập nhà ở Phước Sơn, ý Đức cha muốn chuyển nhà lên Ngân Sơn, ngài cũng sẵn sàng vâng lời, dù rất đau khổ. Ta thấy ngài thật giống Chúa Giêsu, luôn vâng lời Chúa Cha, đến độ sẵn lòng chịu chết.

Nếu đời đan tu là cầu nguyện, thì cha Biển Đức Thuận đã gieo mình vào đời sống cầu nguyện rất thâm sâu và tha thiết. Như Chúa Giêsu hoàn toàn phó thác cuộc đời trong tay Chúa Cha, cha Biển Đức Thuận hoàn toàn phó thác cuộc đời trong tay Chúa, dám lên đường ra đi lập dòng dù tài sản chỉ có vài chiếc nồi, lọ muối và con gà để báo hiệu thức, vẫn tin tưởng dù có lúc trong nhà chẳng còn gì ăn, tạ ơn Chúa khi căn nhà đầu tiên bị cháy. Ngài thực sự cậy trông vào tình thương yêu quan phòng của Chúa. Và ngài cầu nguyện thì thật sâu xa. Các cha từng sống với ngài làm chứng: Chính tôi buổi sáng lên xin phép, gõ cửa vào thấy người cầm cuốn sách ngồi ở giường nguyện gẫm sau khi làm lễ hai mắt lù bù giọt lệ nhỏ sa… Kinh nhật tụng thì ngài đọc đúng giờ và đọc trong nhà thờ với dáng điệu trang nghiêm và cầm trí sốt sắng đến nỗi học sinh vào mà ngài không biết… Cơm trưa xong ngài lên nhà thờ cầu nguyện lâu, có khi hai giờ chiều mới ra dọn bài.[37]

Nếu đời đan tu là sống âm thầm trong bốn bức tường, thì cha Biển Đức Thuận đã gieo mình trong đời sống xa lánh thế gian. Tài cao học rộng và có biệt tài hùng biện, nhưng ngài không muốn đi giảng ở bên ngoài. Ngài nói: Việc đi giảng cha muốn để kính các dòng khác như Đaminh, Phanxicô, dòng Tên, dòng Chúa Cứu Thế…còn Phước Sơn chúng ta thì ở nhà âm thầm chuyên môn hãm mình cầu nguyện cho dân ngoại giáo.[38]

Nếu đời đan tu là lao động, thì cha Biển Đức Thuận gieo mình vào lao động rất tích cực. Ngài cùng lên rừng đốn củi với anh em. Ngài bổ củi gánh nước khi đến phiên làm bếp. Dù làm bề trên nhưng ngài tự nguyện làm việc với anh em và như anh em. Ngài còn nhận những việc hèn hạ nhất, như rửa nhà vệ sinh suốt đời.

Nếu đời đan tu là sống cộng đoàn, thì cha Biển Đức Thuận gieo mình trong yêu thương và phục vụ anh em tận tuỵ, đặc biệt, những anh em đau bệnh. Ngài tự tay chèo thuyền chở anh em ra Huế chữa bệnh, không khỏi lại chèo thuyền quay về mất hai ngày trời. Thầy Lêô Phòng, quê ở Búng, địa phận Phú Cường, đau nặng, cha đã hết sức lo lắng thuốc men cơm cháo, thế mà khi thầy qua đời rồi, ngài cứ phàn nàn: cha săn sóc cho anh Lêô chúng tôi chưa đủ, cha buồn lắm.[39]

Nếu đời đan tu là đề cao hãm mình đền tội, thì ngài gieo mình trong chay tịnh rất nhiệm nhặt. Tuy là người Âu nhưng ngài ăn cơm hẩm với quả cà muối mặn rất ngon lành. Thứ Bảy ngài ăn cơm không. Và khi ăn chay ngài tỏ ra vui thích đặc biệt. Chính vì thế mà ngài chỉ cân nặng không đến 50 cân. Không chỉ ăn chay hãm mình, cha Biển Đức Thuận còn chịu đựng mọi đau khổ phần xác. Không chỉ vết thương bên ngoài mà nội tạng của cha cũng bệnh tật hư hại. Chắc chắn phải đau đớn khó chịu lắm, nhưng ngài vui vẻ chịu đựng không ai hay biết. Đến khi bệnh quá nặng phải đi nhà thương thì bác sĩ lắc đầu nói: hỏng hết rồi. Đến lúc hấp hối, ngài mới nói cho thầy y tá biết để thông báo cho anh em: “Bác sĩ khám cha rồi nói: “C’est perdu”, vì các bộ phận trong mình cha đều hư cả, cha đau trái tim như con biết, mỗi phút nó đập hơn trăm lần; cái cật hư vì cha đi tiểu ra máu; cha đau phổi con cũng biết, ra máu nhiều lần, cha ho luôn; tỳ vị cũng đau, ăn không tiêu hay mửa, nhất là bệnh trĩ, cha đau đớn lắm, ba tháng nay sốt rét luôn vì có vi trùng sốt rét, bác sĩ nói: thế mà cha sống được là một sự lạ, nhưng cha nói là một ơn Chúa ban.”[40]

Ngài quả thật là hạt giống chiêm niệm. Chúa gieo ngài vào Việt Nam. Nhưng ngài còn tự gieo mình bằng cách chìm sâu vào lòng đất, để mục nát đi, mục nát thực sự theo nghĩa đen, vì hi vọng vào lời Chúa sẽ cho mùa gặt bội thu.

  1. Cha Biển Đức Thuận có mùa gặt bội thu

Trăm năm trôi qua, hạt giống chiêm niệm cha Biển Đức Thuận gieo vào Việt Nam đã trổ sinh hoa trái khắp cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Không chỉ ngành nam mà còn cả ngành nữ. Không chỉ tại Việt Nam mà còn lan sang cả các nước Âu, Mỹ. Lời Chúa hứa “hạt giống mục nát đi sẽ sinh bông hạt” hàng trăm, hàng ngàn, đã thực sự ứng nghiệm đối với cha Biển Đức Thuận và Hội dòng Xitô Thánh gia. Tạ ơn Chúa. Cám ơn cha Tổ Phụ.

Nhưng còn đó trách nhiệm của chúng ta, những thế hệ con cháu đang được hưởng nhờ công ơn đức độ của cha Tổ Phụ. Chúng ta đã gặt trên cánh đồng cha Tổ Phụ đã gieo. Chúng ta là những bông hạt trổ sinh từ hạt giống rất tốt lành là cha Tổ Phụ. Đến mùa gieo mới rồi. Đừng cất giữ hạt giống trong tủ. Hãy tiếp tục công việc của cha Tổ Phụ. Đến lượt chúng ta hãy gieo đời mình trên những thửa ruộng mà cha Tổ Phụ và các thế hệ cha anh đã đổ bao mồ hôi, kể cả xương máu làm cho mầu mỡ. Hãy noi gương cha Tổ Phụ. Gieo đời mình trong vâng phục. Gieo đời mình trong cầu nguyện. Gieo đời mình trong âm thầm. Gieo đời mình trong lao động. Gieo đời mình trong yêu thương phục vụ. Gieo đời mình trong hi sinh hãm mình đền tội. Chỉ có hạt lúa mục nát đi mới làm cho đất phì nhiêu, và mới sinh nhiều bông hạt.

CHA TỔ PHỤ BIỂN ĐỨC
VÀ CUỘC RA ĐI CUỐI CÙNG

Điểm kết hành trình của một cuộc đời mở ra chân trời mới

Duyên Thập Tự Lê Văn Đoàn

Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận ra đi khỏi trần gian để về Nhà Cha Trên Trời, các đan sĩ Hội dòng Xitô Thánh Gia cũng cần đọc lại những gì liên quan đến những ngày cuối đời của ngài. Một tài liệu rất quý giá cho công việc này là cuốn Hạnh Tích cha Benoit được Viện phụ Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến viết. Ngài là chứng nhân sống động vì đã sống với cha Tổ Phụ và những biến cố được tường thuật một cách chi tiết. Tác giả đã viết lại những chi tiết chung quanh cái chết của cha Tổ Phụ.

Bản thân tôi xin được viết lên một vài suy tư về cuộc ra đi của Cha Tổ Phụ như điểm kết của hành trình một cuộc đời, đồng thời biến cố đó như một nơi mở ra những điều mới mẻ cho những thế hệ kế thừa, mà chúng ta, những đan sĩ của thời nay, là một thành phần không thể thay thế.

  1. Những ngày cuối đời

Trong lá thư ngày 18 tháng 5 năm 1928, gửi Đức cha Allys Lý, cha Biển Đức Thuận đã cho Đức cha biết tình trạng sức khỏe của ngài như sau:

“Sau khi khỏi được chừng mười lăm tháng, con bắt đầu khạc ra máu lại, nhiều hơn bao giờ hết. E rằng con sẽ chẳng giảng tĩnh tâm được vào tháng Bảy tới đây. Tuy nhiên, trong việc này cũng như trong mọi việc khác, con chỉ xin vâng nghe Đức cha; nếu Đức cha bảo: “Cứ thử xem”, con sẽ thử, và trông cậy vào ơn Chúa.”

Sức khỏe của ngài càng ngày càng suy giảm. Vài hôm trước khi qua đời, ngài bảo thầy y tá ghi chép bệnh tình của ngài để đọc cho cộng đoàn biết:

“Bây giờ đến lượt con nghe cha rồi ghi chép không cần thứ tự: bác sĩ khám cha rồi nói: “vô phương cứu chữa”, bởi vì lục phủ ngũ tạng của cha đều hỏng cả rồi. Như con biết đấy, cha bị đau tim, mỗi phút nó đập hơn trăm lần; cha đau thận, nên nước tiểu đầy máu. Cha còn đau phổi, nên khạc ra máu và ho luôn. Bao tử cha cũng có nhiều vấn đề: rối loạn tiêu hóa và thường buồn nôn. Ấy là chưa nói tới hội chứng trĩ. Cha đau đớn lắm, hơn nữa, từ ba tháng nay, cha sốt rét luôn, vì có vi trùng sốt rét. Bác sĩ đã nói với cha rằng: “Ngài còn sống được, là cả một phép lạ”. Nhưng cha thì cho rằng đó là nhờ ơn Chúa. Nay cha cảm thấy cha gần về cùng Chúa; con hãy cho anh em biết bệnh tình của cha mà cầu nguyện cho cha được tuân theo ý Chúa cho tới cùng.”[41]

Bây giờ chúng ta hãy xem những ngày cuối cùng của cha Biển Đức Thuận.

Trong Tập san của Hội Truyền giáo Paris, có một bài mô tả về những ngày cuối đời của cha Biển Đức Thuận: “Từ nhiều năm nay, sức khỏe của cha Biển Đức Thuận không khả quan lắm, thế nhưng ngài vẫn tiếp tục sống cuộc đời cầu nguyện và hãm mình phạt xác, không hề muốn châm chước chút nào sự nghiêm ngặt theo tu luật; vì vậy tùy tình huống mà ngài vẫn đi giảng cấm phòng và đi thuyết trình, tuy nhiên cho dù có ý chí sắt thép đi nữa, sức người cũng có hạn”. Vào dịp Tam nhật mừng đệ nhị bách chu niên thành lập Dòng Chúa Cứu thế được tổ chức tại Huế, cha Biển Đức Thuận được mời đến giảng. Tập san của Hội Truyền giáo Paris đã có những lời tường thuật như sau: “Ngày cuối cùng của Tam nhật, thứ Tư 26 tháng Tư, …  cha Biển Đức, Bề trên Dòng Đức Bà Phước Sơn, giảng buổi sáng. Quả là thích thú khi nghe cha Bề trên ca ngợi đời sống đan tu, trước hết theo tính cách của chính đời sống ấy, sau đó theo như đời sống ấy được áp dụng trong Hội dòng Chúa Cứu Thế. Trong suốt một tiếng đồng hồ, chúng tôi vô cùng thích thú và không ai cảm thấy thời gian quá dài, bởi vì ngài giảng với tất cả tâm hồn của một người sống thực tại ấy hằng ngày. Tuy nhiên sức khỏe của cha Bề trên đáng kính ngày càng yếu đi: vì đã nhiệt tình cố gắng, nên ngài đã phải trả giá bằng tám ngày sốt li bì và buộc phải nghỉ dưỡng.”[42]

  1. Thử thách cuối cùng và ra đi bình an

Cha Biển Đức Thuận trở bệnh nặng, và sức khỏe cạn kiệt, tới mức hai tháng sau, tập san của Hội Truyền giáo đã viết: “Khoảng giữa tháng sáu, một cơn sốt ác tính đã quật ngã ngài và nhanh chóng đưa ngài đến trạng thái hoàn toàn suy nhược. Đến khi ngài đồng ý đi bệnh viện Huế, thì đã quá muộn: ngày 13 tháng Bảy ngài đã cận kề cái chết. Tuy nhiên, các bác sĩ có thể cắt cơn sốt rét và tạo điều kiện cho bệnh nhân có đủ sức trở về đan viện; ngài ao ước trở về đan viện để chết giữa anh em trong đời đan tu. Ngài còn sống thêm tám ngày nữa tại Phước Sơn, tâm trí vẫn sáng suốt và nói năng bình thường cho đến phút cuối cùng. Cơn hấp hối của ngài kéo dài, với nhiều giao động. Ngài đau đớn cả hồn lẫn xác: ngài đau đớn thảm thiết: “Thật khủng khiếp! Maria, Mẹ ơi, cứu con với! … Hãy cầu nguyện cho người hấp hối! Kinh khủng lắm!”.  Anh em trong Dòng giúp ngài bằng những lời khẩn cầu, nhưng hiệu quả nhất là những lời kinh phụng vụ, chẳng hạn như “lạy Chúa, xin tới giúp con” […] và các câu kinh cầu Đức Mẹ. Sự an bình trở lại ngay, nhưng liền sau đó lại xuất hiện một cơn khủng hoảng khác. Dường như kẻ hấp hối đang phải cật lực chiến đấu với ma quỷ vốn ra sức trả thù vì vô số các linh hồn đã được cha Bề trên đáng kính cứu vớt khỏi tay nó và vì ơn cứu độ mà nhà dòng Phước Sơn sẽ mang lại trong tương lai. Sau cùng vài phút trước khi ly trần, ngài bình an thanh thản và nói: “Thế là đã hoàn tất!” Ngài xin xá giải lần cuối, giục lòng ăn năn thống hối, rồi trút hơi thở sau cùng một cách bình an.”[43]

Từ việc mô tả như thế về những giờ phút cuối đời của cha Biển Đức Thuận, chúng ta cảm nhận cơn hấp hối của ngài tựa như là một sự thanh luyện cuối cùng. Chính trong những ngày hết sức đau đớn này mà ngài trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô chịu khổ nạn, với Đấng đã từng chịu một cơn hấp hối khổ não như thế. Thế nhưng, khi tắt thở, ngài trao phó linh hồn trong tay Chúa Cha, trong sự hoàn toàn tín thác. Vào những ngày tháng cuối đời, cha Biển Đức Thuận đã được Chúa Kitô hấp hối soi dẫn, nên ngài đã phó mình và trao phó cộng đoàn còn non trẻ của ngài trong tay Cha trên trời, trong một động tác yêu mến tràn đầy sự hoàn toàn tin tưởng phó thác. Chúng ta hãy đọc lời trăn trối sau cùng của ngài, như là một di chúc thiêng liêng:

“Cha gần về cùng Chúa, không biết chắc là ngày nào, song sự thường thì cha không còn ở thế gian này với chúng con lâu ngày nữa.

Cha khuyên chúng con hãy nhớ: Đàng nhân đức là tuân theo thánh ý Chúa, mà theo thánh ý Chúa là giữ luật dòng cho trọn. Cha còn nói một lần nữa: Chúng con muốn nên thánh thì hãy giữ luật dòng, muốn nên thánh thì hãy giữ luật dòng.

Còn phần cha thì đi bằng an lắm. Cha không áy náy lo lắng chi hết, vì cha biết rõ Chúa là Cha chung, Chúa thương cha và cũng thương chúng con, cho nên không sợ chi cho cha và cũng không sợ chi cho chúng con.

Vậy chúng con hãy ở bằng an như cha, vì Chúa là Cha thương chúng tôi quá lẽ.

Chúng con muốn xin phép lạ, thì mặc ý, còn phần cha thì không xin, cha xét: Phó mình trong tay Cha lành là điều tốt hơn cả.

Vậy trong chúng con chớ có ai buồn, chớ có áy náy lo sợ, một đi chung cùng nhau vui vẻ theo thánh ý Cha chúng tôi. Cám ơn Chúa, cám ơn Đức Mẹ.”[44]

Khi ấy là 8 giờ sáng ngày 25 tháng 7 năm1933, cha Biển Đức Thuận được gọi trở về Nhà Cha, sau năm mươi ba năm sống cuộc đời trần thế. Từ trời cao, ngài tiếp tục chăm sóc công trình của ngài cũng như giúp con cái của mình thực hiện ý định của Thiên Chúa.

  1. Như trước ngôi mộ trống

Đề cập đến cái chết của cha Biển Đức Thuận, tôi nhìn ngài như một người đã đi qua – người đã đến và đã đi. Tôi muốn suy tư về tương lai đang chờ đợi các đan sĩ của Hội dòng, sau khi vị sáng lập của họ ra đi.

Cha Biển Đức Thuận là một người, in đậm dấu ấn của thời gian và không gian. Ngài sống trong một bối cảnh khác biệt với hoàn cảnh của các thế hệ hậu bối, một bối cảnh về văn hóa, chính trị và tinh thần khác hẳn. Ngài vẫn luôn là đấng sáng lập, nhưng quả thật một số diễn tả bên ngoài của đời sống đan tu, một số cách nhìn về thế giới và Giáo hội … đã trở thành xa lạ. Tinh thần của ngài còn đó, nhưng đôi khi bị ẩn giấu dưới những hình thức không còn hiểu được.

Chấp nhận tang chế, hay để tang, đó là một khoảnh khắc vượt qua. Người ta không dừng lại mãi mãi bên một thi hài, cũng không ở mãi bên nấm mồ. Người ta không thể thu hồi một thi thể, một người đã chết. Người chết đã ra đi, sẽ không bao giờ trở lại trên trái đất này để sống một cuộc sinh tồn nữa.

Chấp nhận tang chế, đó là can đảm nhìn rõ quá khứ, một quá khứ để lại những dấu ấn trong cách nghĩ và cách sống của chúng ta. Chúng ta lệ thuộc vào quá khứ, nhưng sự lệ thuộc này không ngăn chúng ta sáng tạo. Như thế thật thích hợp khi ta kết dệt một mối liên hệ nền tảng giữa quá khứ và hiện tại. “Giữa hôm qua và hôm nay, giống như hai anh em biết mình khác nhau, nhưng người quan sát bên ngoài ban đầu chỉ khám phá ra nét giống nhau và hiểu rằng có sự liên tục.”[45]

Khám phá ra sự hỗ tương giữa quá khứ và hiện tại đã trở thành khẩn cấp đối với chúng ta, nếu chúng ta muốn vừa ở trong truyền thống vừa đáp ứng được những dấu chỉ của thời đại. Đó là một vấn đề hệ trọng, nhưng tế nhị, vì nó đặt ra biết bao vấn đề khác mà M. de Certeau cô đọng lại như sau:

“Biết bao lần chúng ta đã chẳng từng cắt xén, xếp đặt hoặc coi thường những chứng từ khó chịu đó sao? Nhưng từ đó, nếu những ý tưởng được chấp nhận hôm nay vừa trở thành nguyên lý vừa trở thành kết cục của những chuẩn mực của chúng ta, làm sao ta biết được điều gì sẽ lỗi thời trong các khái niệm hiện nay của ta và điều gì trong nguồn gốc vẫn còn cần thiết cho ta ? Làm cách nào ta phân định được những gì trong quá khứ, dù ta không ý thức, vẫn đang chi phối sự hiểu biết hiện tại, và những gì trong hiện tại đã biến đổi quá khứ nơi ta tự hào đã khám phá ra những dấu chỉ của một chân lý?”[46]

Tất cả những điều đó cho thấy rằng sau tang chế là lúc trở lại với hiện tại, với nguồn mạch của sự sống. Thật vậy, sau khi một người thân khuất bóng, người ta quay trở lại với cội rễ của sự sống và lại bắt đầu sống.

Một vài suy tư trên đặt chúng ta trước những thách đố nằm trên hai bình diện: Giáo hội và thế giới. Các đan sĩ hôm nay, đặc biệt các đan sĩ của Hội dòng Xitô Thánh Gia, cư xử thế nào đối với Giáo hội và thế giới? Quyết định của cha Biển Đức Thuận khi sáng lập đan viện gây âm hưởng thế nào nơi quyết định của các đan sĩ ngày nay khi họ đương đầu với những hoàn cảnh mới?

Về thái độ của cha Biển Đức Thuận, từ “KHÁC” – theo thiển ý cá nhân tôi – đã diễn tả ngài một cách độc đáo: “Khác” thế nào đối với Giáo hội mà ngài là thành phần và trong khi ngài hoàn thành công việc phục vụ Giáo hội. Cái “khác” ấy nói lên tính độc đáo chọn lựa của ngài trong việc phục vụ Giáo hội. Thật vậy, khi chọn lựa một nơi vắng vẻ để thiết lập đan viện, ngài giữ một khoảng cách đối với Giáo hội. Trong cô tịch, ngài muốn các đan sĩ của ngài hiệp thông với Giáo hội một cách khác, bằng một đời sống mãnh liệt nhờ cầu nguyện và nhờ mối liên hệ với Lời Chúa.

Trong thế giới hôm nay, những mối liên hệ được đan kết rộng rãi ở bình diện toàn cầu. Toàn cầu hoá là một hiện tượng quan trọng, đang tác động đến chúng ta. Các đan sĩ không phải là những sinh vật thuộc về một hành tinh khác. Một thái độ quá thoát tục không còn thích hợp với thời đại hôm nay, vì nhập thế là tất yếu. Tuy thế, từ thuở khai sinh, cuộc sống đan tu không bao giờ chấp nhận thoả hiệp. Triệt để sống Tin mừng vốn là hình thức biểu lộ sự sống ấy. Chắc chắn các đan sĩ cư xử vừa nhân bản vừa thiêng liêng đến độ người ta có thể nhận ra Đấng ẩn mặt phía sau họ và hành động trong họ. Điều đó đòi hỏi các đan sĩ phải từ bỏ một đời sống “thời thượng”, nhưng phải chiếm hữu “năng lực kết nối sự trung tín dưới đất với sự trung tín trên trời, tình liên đới với con người và lòng khát khao Thiên Chúa.”

Đối diện với thế giới ngày nay, các đan sĩ của Hội dòng Xitô Thánh Gia đặt bản thân trước một trách nhiệm lớn lao: trách nhiệm đảm trách sự hiện hữu trước Thiên Chúa và vì thế giới. Không ai có thể thay thế họ trong nhiệm vụ này, kể cả cha Biển Đức Thuận, đấng sáng lập của họ. Điều đó cho thấy rằng họ cần phải sống sự vắng mặt của đấng sáng lập và họ phải hành xử như những người trưởng thành tự do và trách nhiệm. Họ phải như hai tông đồ Phêrô và Gioan đứng trước ngôi mộ trống: các ngài không nhìn thấy một xác chết, nhưng một tinh thần sống động của Thầy mình hiện diện một cách mạnh mẽ: “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8).

Chính vì thế, Hội dòng Xitô Thánh Gia phải trở về với truyền thống để sáng tạo hiện tại, vì một khởi đầu mới cũng có thể là một khởi đầu trung tín, và việc đọc lại quá khứ là một hành động sáng suốt: chúng tôi rất hoan hỉ chấp nhận. Nhưng, trong công cuộc này, chúng tôi không thể từ quá khứ tiến đến hiện tại, vì chúng tôi đang từ hiện tại trở ngược lại quá khứ. Chính những nhu cầu cấp bách của chúng tôi hôm nay và ý nghĩa mà chúng tôi gán cho chúng sẽ tổ chức lại quá khứ và sắp xếp nó vào hệ thống tinh thần những trao đổi của chúng tôi.

Liệu mỗi thế hệ của Hội dòng Xitô Thánh Gia có dám tự hào làm toát lên được tinh thần đích thực của cha Biển Đức Thuận, là tinh thần nguồn cội của chúng ta không?

SURSUM CORDA – HÃY CẤT LÒNG LÊN

F.M Anselmo – Hồ Sỹ Chức

 

“Hãy cất lòng lên” là lời mời gọi của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, nằm trong khung cảnh của bài giáo huấn đã được lưu lại trong Di Ngôn số 130. Dựa vào chủ đề ấy, người viết xin chia sẻ một vài suy tư và cảm nghiệm trong hành trình sống ơn gọi đan tu. Trước tiên, chúng ta cùng nghe lại đoạn Di Ngôn này.

“Bởi đâu các thánh hay đặt ca vãn? vì sự đọc ca vãn hay hát kinh, có sức đem linh hồn người ta lên cao, còn xác thịt hèn hạ, thì ưa những sự trầm trệ thấp hèn ở đời.

Có một lần, các cha đang ngồi bàn ăn, một cha đứng dậy ca hát, cha ấy có ý nhắc lòng trí mọi người lên khỏi bàn ăn. Khi cha ấy đang hát, một cha khác nói rằng: “Xin cho một miếng thịt bò”. Các người ngồi ăn đó liền cười cả lên, mà thật đáng khóc hơn đáng cười.

Chúng ta khi nói chuyện cùng nhau, chớ nói về đồ ăn thức uống, chớ nói chuyện như loài vật. Nếu con trâu con bò nó nói được, nó nói chi? – Nó nói đám cỏ này ngon, đám kia dở. Vậy, chúng ta chớ nói chuyện về phước loài vật. Có nói thì nói việc lành thánh giúp nhau kính mến Chúa mà thôi. Nếu ai buồn vì đồ ăn thức uống không ngon, chi mà ba tàu môn, ba lát dưa, cứ dọn đi dọn lại hoài, ai ăn được, rồi buồn, kêu trách, kẻ ấy không khác chi trâu bò, những linh hồn ấy thấp kém, cả đời chỉ bò dưới đất, mà tìm những sự mau qua chóng hết.

Vậy, chúng ta hãy cất lòng lên quá khỏi thế này. Phước chúng ta cao trọng lắm, đó là được chính mình Chúa. Hãy ra sức tìm Chúa cho được.”

Câu chuyện được ghi lại trong Di Ngôn của cha Tổ Phụ xem ra hơi chua xót và đắng lòng. Tại sao vậy?

Có lẽ cha Biển Đức Thuận biết rõ con cái mình đang bước những bước đi còn rất thấp, còn rất chập chững trong hành trình ơn gọi; họ chưa cất mình lên khỏi những ham muốn thể xác… nên ngài kể câu chuyện này với chủ đích giáo huấn anh em. Cha Tổ Phụ là người luôn quan sát và biến những chi tiết xảy ra trong đời sống hằng ngày thành bài học và chuyển hóa thành phương pháp giáo dục.

Đối với cha Tổ Phụ, vào đan viện không phải để nghỉ ngơi, cũng không để lánh xa những phiền não khổ đau của trần thế. Nhưng vào đan viện là để chiến đấu, để mang những nỗi đau của nhân loại dâng lên Thiên Chúa mỗi ngày, để làm cho mình và người khác biết cất lòng lên Chúa, để tập tành các nhân đức, để học làm tôi Chúa, và để nên thánh mỗi ngày.[47] Ơn gọi đan tu là “một lối đi”, một sự chọn lựa hết sức độc đáo, đầy tính táo bạo và cũng đầy thử thách gian nan. Quả thực, một lối đi không dành cho “người yếu đuối”, cũng không dành cho người an phận thủ thường, nhưng cho những ai luôn biết “hướng lòng lên – nhấc cao bước chân” mình lên, cao hơn những con vật đang gặm cỏ ngoài kia. Đó là lý do để cha Tổ Phụ giáo huấn con cái ngài hãy cất lòng lên. Phải chăng cha Tổ Phụ đã nghe rất rõ lời mời gọi này từ Thiên Chúa?

  1. “Hãy cất lòng lên” – lời mời gọi từ Thiên Chúa

Trải qua dòng lịch sử Cứu Độ, Thiên Chúa luôn mời gọi con người hướng về Người.

Ápraham là một mẫu gương tuyệt vời cho sự hướng lòng lên Chúa và cất bước lên đường đi theo tiếng gọi và làm theo sự hướng dẫn của Chúa.

Môsê thấy mình nhỏ bé không dám cất bước lên đường để đem Dân Chúa vào Đất Hứa, nhưng có ơn Chúa trợ giúp ông đã can đảm dẫn dắt Dân Người vượt qua Biển Đỏ.

Lịch sử Dân Chúa trong Cựu Ước là một lịch sử đầy đau thương và nước mắt, cũng chỉ vì không chịu cất lòng lên khỏi vật chất, họ quyến luyến lệch lạc và tôn thờ đủ thứ ngẫu tượng. Thiên Chúa mời gọi họ cất bước lên đường tiến về Đất Hứa.

Trong Tin mừng, chúng ta thấy có mẫu gương tuyệt vời của Mẹ Maria và thánh Cả Giuse, lòng luôn hướng về Chúa, nghe tiếng Chúa và mau mắn làm theo lời Người.

Chúa Giêsu là mẫu mực nhất cho sự dứt khoát từ bỏ mọi sự: danh – lợi – thú để luôn hướng lòng về Chúa Cha, vì Ngôi Lời vẫn hướng về Chúa Cha(Ga 1,1). Ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu rất nhiều lần (x. Mt 4,1-11; Mc 1,12-15; Lc 4,1-13), nhưng chẳng làm gì được, bởi tâm hồn Người đã được nâng lên khỏi thế trần và đã đặt trọn trong trái tim đầy yêu thương của Cha Người. Tin mừng ghi lại mỗi lần Chúa Giêsu cầu nguyện, Người thường lui vào nơi thanh vắng hoặc đi lên núi cầu nguyện một mình. Động từ “lui vào” hay “lên núi”, mang một ý nghĩa đặc biệt thiêng liêng. Trong giây phút cầu nguyện, Chúa Giêsu muốn cất mình lên khỏi thế gian này, để đi vào cuộc trao đổi thiêng liêng nhiệm mầu với Cha Người.

Lịch sử cứu độ Cựu Ước và Tân Ước đều bàng bạc lời mời gọi bước theo Chúa. Bước theo Chúa có nghĩa chọn Chúa là lý tưởng cho đời mình và để Chúa làm chủ hành trình đời ta; tất nhiên con đường Chúa đi không phải là thảm nhung, nhưng đầy chông gai, thử thách, khổ đau và thập giá (x. Mt 16,21-27; Mc 8,34-9,1; Lc 9,23-27). Viên ngọc thiên đàng phải được trả giá bằng mồ hôi, nước mắt và có cả máu.

Thiên Chúa luôn mời gọi con người đến với Người: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Thế nhưng hành trình con người đến với Chúa lại không dễ dàng. Chúa ở ngay bên ta và cũng ở trong ta, nhưng sao bước hoài ta vẫn không đến được với Người, như thánh Augustinô than thở: “Ngài có đó, nhưng con tưởng mình đang cô đơn, Ngài trong con thế mà con vẫn tìm.” Lời than thở ấy của thánh nhân vẫn còn đó trong mọi tâm hồn bước theo Chúa. Phải chăng có cái gì đó cản trở ta đến với Chúa và nhận ra Người.

  1. Tại sao phải nâng tâm hồn lên?

Vì con người được Chúa dựng nên có hồn và xác. Linh hồn luôn chịu sự chi phối của thể xác. Thể xác thì nặng nề muốn kéo tâm hồn đi xuống, còn tâm hồn lại muốn vươn lên, đôi bên “giằng co” nhau, như kinh nghiệm rất thật mà thánh Phaolô đã chia sẻ cho chúng ta: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Thân xác thì ở bên Chúa, nhưng tâm hồn lại lạc xa Chúa vìtinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41). Đến như các Tông đồ được Chúa yêu thương chọn gọi, ngày đêm ở bên cạnh Chúa, cùng ăn cùng uống với Chúa, nhưng các ngài vẫn không sao cất lòng lên nổi, các ngài vẫn còn quyến luyến vật chất, hờn giận, hơn thua, thậm chí còn tranh dành chỗ cao thấp (x. Mt 20,20-24).

Đến với Chúa mà lòng ngổn ngang vướng bận trăm ngàn sự đời, thì hạt giống Lời Chúa khó nẩy mầm trên mảnh đất cằn cỗi ấy được (x. Lc 8,4-15). Bước vào tiệc cưới, không thể không mặc áo cưới, nếu không sẽ bị Chúa tra vấn: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới?” (Mt 22,12). Sự tương thích giữa Thiên Chúa và con người nơi Bàn Tiệc Thánh là điều cần thiết để đi vào cuộc trao đổi nhiệm mầu giữa Thiên Chúa và con người. Chúa Giêsu còn nói: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Con người vốn mỏng giòn yếu đuối, nên khó có thể tự nâng tâm hồn mình lên tới Chúa nếu như không có ơn Chúa trợ giúp, bởi vì “chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” (Ga 6,44); và “không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).

Mở đầu Kinh Nguyện Thánh Thể, Giáo hội qua vị linh mục mời gọi cộng đoàn Dân Chúa hãy nâng tâm hồn lên, và cộng đoàn phụng vụ đáp lại chúng con đang hướng về Chúa. Đây không chỉ là một công thức, nhưng hơn thế, đây còn là một lời nguyện của toàn thể cộng đoàn Dân Chúa, muốn hướng lòng về Chúa, muốn thuộc trọn về Chúa, cùng với Chúa Giêsu tinh tuyền hiến tế chính mình trên Bàn Thờ Thập Giá, để mong được Chúa Cha chấp nhận.

Khi đọc những lời hãy nâng tâm hồn lên, vị chủ tế còn nâng cao đôi tay mình lên, như muốn mời gọi cộng đoàn phụng vụ hãy nâng tâm hồn lên tới Chúa, hãy mở rộng tâm hồn cách thích hợp và gạt bỏ lại mọi thứ lo toan của thế gian, để chỉ chú tâm một cách trọn vẹn trong giờ phút tuyệt diệu này, là “khoảnh khắc thánh thiêng” của Chúa, như thánh Augustinô diễn tả: Chúng ta được nghỉ yên bên Chúa”.

Nâng tâm hồn lên, không phải chỉ là một cảm xúc dâng trào trong phút chốc đắm say của trái tim bị tác động bởi một yếu tố ngoại cảnh nào đó, nhưng từ sâu thẳm trong trái tim cùng với sự ý thức cách mạnh mẽ đầy tự do. Sự vĩ đại của một thụ tạo trước Đấng Tạo Hóa là khi thụ tạo ấy tự do chọn lựa yêu mến và thuộc về Chúa cách trọn vẹn cả tâm trí, linh hồn, và thể xác. Đó cũng là điều Thiên Chúa yêu thích và đòi hỏi mỗi người chúng ta, “ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi” (Lc 10,27).

Nâng tâm hồn lên là điều kiện để có được y phục rực sáng xứng hợp với Bàn Tiệc Nước Chúa, để đưa đến sự kết hợp mật thiết với Chúa, một sự “hội nhất” đời sống với Thiên Chúa, như lời nguyện ước của Đức Giêsu với Chúa Cha: “Xin cho tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha” (Ga 17,21). Vì muốn cùng được dự tiệc cưới của Chiên Con (x. Kh 19,9), đòi hỏi chúng ta phải “mặc y phục lễ cưới”, y phục lễ cưới ở đây chính là một đức tin vững vàng được điểm tô bởi các nhân đức, nhờ đã nghe Lời Người (x. Rm 10,17).

Nâng tâm hồn lên, chúng ta không nên thi vị quá câu nói ấy, nhưng phải làm cho câu nói ấy được chân thực nhất và thực tế nhất. Nếu chúng ta chỉ nâng mình lên với Chúa trong chốc lát, như một “trạng thái lâng lâng tâm hồn” bay bổng đầy cảm xúc khó tả, thì đấy chưa hẳn đã nâng tâm hồn lên tới Chúa.

Lời mời gọi hãy nâng tâm hồn lên, phải được đáp lại chúng con đang hướng về Chúa. Hướng về Chúa cả tâm hồn, lẫn thể xác, và cả lòng khao khát được thuộc trọn về Chúa luôn luôn mới là điều quan trọng mà chúng ta cần ước ao. Như vậy lời mời gọi của Giáo hội hãy nâng tâm hồn lên, là một lời mời gọi dành cho toàn thể cộng đoàn dân Chúa.

  1. “Cất lòng lên” theo gương Chúa Giêsu

Chúng ta phải “cất lòng lên” Chúa là Đấng dựng nên ta, vì Người luôn yêu thương và hiến mình vì ta; phải luôn quy hướng về Người “như cỏ cây hướng về mặt trời” để tìm được sự sống, vì “Ngài quả là nguồn sống, nhờ ánh sáng của Ngài, chúng con được nhìn thấy ánh sáng” (Tv 36); và ta hãy hướng lòng trí về Người, để muôn đời được sống trọn mối tình muôn thuở của Đấng mến yêu (x. Rm 8,37) đã kêu gọi chúng ta vào chung hưởng hạnh phúc trong Vương Quốc yêu thương của Người.[48]

Xét về bản chất thì mọi Kitô hữu qua Bí tích Rửa tội đều đã chết cho tội lỗi để hoàn toàn thuộc về Đức Kitô (x. Rm 6, 1-7; Gl 3,27). Mà Đức Kitô không thuộc về thế gian, thì mọi Kitô hữu cũng được mời gọi cất lên khỏi thế gian này.

Trong Tin mừng, Chúa Giêsu được ma quỷ đưa lên cao (x. Mt 4,5), nhưng là nơi cao của cạm bẫy. Các cạm bẫy mà ma quỷ bày ra thì thật hấp dẫn. Nhưng Chúa Giêsu đã không rơi vào cạm bẫy của ma quỷ, bởi vì Người chỉ luôn yêu mến Cha và luôn làm theo ý Người mà thôi. Chúa Giêsu ý thức rõ điều đó, nên trong vườn Cây Dầu, Người đã cầu nguyện rằng: “… xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36).

Con đường đi lên Giêrusalem là con đường thập giá, thế nhưng sao Người vẫn bước tới? Phải chăng tâm hồn Người đã được cất lên khỏi thế gian này, hay Người biết rõ ơn gọi của Người đến thế gian là để đi trên con đường đó? (x. Mt 20,28). Đúng thế, Chúa Giêsu không làm điều gì ngoài thánh ý Chúa Cha.

Mầu nhiệm chính yếu của Kitô giáo được xoay quanh mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Mt 16,21; Mc 8,31; Lc 9,22). Đây là mầu nhiệm thế gian không hiểu được; mầu nhiệm tự hủy – mầu nhiệm thập giá. Mọi Kitô hữu qua Bí tích Rửa tội đã được tháp nhập vào mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Đức Kitô. Vì thế, họ luôn được mời gọi sống gắn bó với mầu nhiệm ấy trong cuộc đời mình.

Ai sống trong mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô, người ấy đã được cất mình lên khỏi thế gian; họ không còn thuộc về thế gian, nhưng họ thuộc về con cái Thiên Chúa. Vậy để sống đúng nghĩa là một Kitô hữu, cách riêng là Đan sĩ – “người hướng vọng trời cao”, chúng ta không thể không nâng tâm hồn lên, hay cất lòng lên mỗi ngày. Nâng tâm hồn lên là thái độ sẵn sàng, chờ đợi, một thái độ khát khao mong chờ Chúa đến, một thái độ luôn mở lòng mình để đón chờ ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Thật vậy, lời mời gọi hãy cất lòng lên vốn khẩn thiết đối với mỗi Kitô hữu, thì đối với các Đan sĩ, lời mời gọi ấy lại càng khẩn thiết hơn biết mấy. Cha Tổ Phụ là một mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo. Ngài không những hướng lòng mình lên Chúa mỗi ngày, nhưng còn thao thức lo sao cho con cái ngài cũng ý thức luôn biết hướng lòng mình lên để sống cho xứng với ơn cao trọng Chúa ban.

  1. Thao thức của một người cha

Mỗi ngày cha Tổ Phụ dạy con cái ngài cất lòng lên như thế nào? Thật đơn sơ và dễ hiểu, ngài nói:

  • “Chúng ta hãy ra sức nên thầy dòng thật, chẳng những lúc khỏe mạnh mà lại lúc đau ốm nữa[49], nghĩa là phải tận dụng mọi khoảnh khắc trong đời ta để nên thánh. Việc nên thánh không phải chỉ có lúc mạnh khỏe, hay chỉ những hy sinh của người đau yếu bệnh tật, nhưng việc nên thánh là cả trọn một kiếp người. Từng giây từng phút chúng ta đều phải hướng lòng lên Chúa.
  • “Không nên than van kêu trách.”[50] Phàn nàn, than van kêu trách, là một yếu tố bản năng của con người mỗi khi gặp khó khăn. Nhưng nếu chúng ta không làm chủ được bản năng tự nhiên, thì cuộc đời ta cứ mãi hoài than van kêu trách.
  • “Chớ có mê làm việc quá.”[51] Tuy Ora et LaboraCầu Nguyện và Lao Động là tôn chỉ của Dòng chúng ta, nhưng nếu vào Dòng chỉ để lao động hay chỉ để đọc kinh thì không đúng. Cha Tổ Phụ nói “chớ có lấy điều chi làm trọng làm cần, vì là vô ích chóng qua hết thảy, trừ ra một sự kính mến Chúa đáng cho chúng ta chăm lo mà thôi.”
  • “Chúng tôi phải nên thầy dòng thật, bằng không chỉ là phỉnh dối người ta”[52]; “Ta phải nên thầy dòng thánh.”[53] Cha Tổ Phụ luôn ý thức một điều rất cao cả, đó là thờ phượng Chúa thay cho cả Giáo hội và toàn thế giới. Hình ảnh một đan sĩ dưới nhãn quan của cha Tổ Phụ là hết sức cao cả và vinh dự, đồng thời cũng là một bổn phận lớn lao trước mặt Chúa. Người đan sĩ thực sự phải là một chiến binh can trường và mạnh mẽ, nhiệt thành và hăng say, đạo đức và thánh thiện, ngài nói: “Giáo hội ước ao về chúng ta như vậy. Sự ấy rất phải, vì sẽ làm ích cả thể cho Hội thánh, và rạng danh cho dòng mình.”[54]

Thay lời kết

Qua những gì vừa trình bày trên, chúng ta thấy ngài là một người có một niềm tin vững vàng, xác quyết mạnh mẽ, bình an đến lạ thường và thanh thản ra đi không hề vương vấn bất cứ điều gì. Phải chăng đây là tâm hồn của những người tràn đầy tin yêu phó thác trong tình yêu Thiên Chúa và đã miệt mài trong khổ luyện. Quả thật mỗi ngày trong đời ngài, ngài hằng cất lòng lên với Chúa, và giây phút sắp về với Chúa, ngài còn cất lòng lên cao hơn nữa, bởi có Chúa là gia nghiệp.

Là con cái cha Tổ Phụ, chúng ta vào Đan viện, không ngoài một mục đích để nên thánh. Nhưng làm sao để nên thánh cách hữu hiệu nhất? Cha Tổ Phụ dạy: “Chúng ta muốn nên thánh phải giữ Luật Dòng thì đủ…”[55] Tất nhiên, việc giữ Luật Dòng không phải là dễ nhưng cũng không phải là không thực hiện được, nghĩa là không trở nên quá khó đối với chúng ta. Cha Tổ Phụ khuyên chúng ta hãy tập tành các nhân đức cũng như năng kết hợp mật thiết với Chúa, qua việc cất lòng lênsursum corda với Chúa mỗi ngày.

SỰ CHẾT VÀ TÍNH CHÍNH THẬT CỦA DASEIN THEO HEIDEGGER

Phanxicô Assisi Nguyễn Hoài Lâm

Cái chết không chỉ đơn giản là sự kết thúc của status viae, mà là bản lề giữa diễn ngôn về hy vọng cho hiện hữu của con người trên trần thế và về thế giới bên kia, câu hỏi nền tảng mà hiện sinh hy vọng không thể không đối đầu, không thể không va chạm. Phải chăng mọi nỗ lực nhằm mang lại ý nghĩa lịch sử-trần thế cho cuộc sống đều thất bại khi đối mặt với thực tế là cái chết?  Phải chăng cái chết là “sự thất bại” của niềm hy vọng, phản ứng chống lại niềm tin vào Đấng Sáng Tạo và Đấng Cứu Độ? Những suy tư triết-thần học của Heidegger về chiều kích cánh chung của hiện sinh giúp chúng ta đi vào huyền nhiệm của hiện sinh, của hữu thể quy tử để sống cách chính thật lịch sử đời mình. Bài viết xin giới hạn những suy tư về sự chết và tính chính thật của Dasein qua những điểm sau:

1. Chết và khả thể[56]

Giải thích của Heidegger về hiện sinh trong Hữu Thể và Thời gian mang tính chất ‘cánh chung’ bởi vì nó hình dung một khả thể hiện hữu đích thực phụ thuộc vào một mối tương quan (hiện sinh) nhất định với tương lai của một người.

Theo phân tích hiện tượng luận của Heidegger, bởi vì hiện hữu cấu thành yếu tính, nên “yếu tính” hay căn tính của mỗi người vẫn liên tục phụ thuộc vào tương lai mà con người không thể biết đầy đủ cũng như không thể kiểm soát hoàn toàn. Nếu hữu thể của Dasein được xác định bởi hiện hữu, và yếu tính của nó được cấu thành một phần bởi khả năng/khả thể của hữu thể của nó, thì Dasein bao lâu còn hiện hữu, chưa phải thực sự là (not yet be). Heidegger phát triển góc nhìn sâu sắc này trong hai vòng quay xoắn ốc trong Phần I và II của Hữu thể và Thời gian.

Cách thông diễn của Phần I về cấu tố ‘chưa phải là’ của Dasein bắt đầu từ việc hình thức hóa việc Dasein sẽ trở thành khoảnh khắc kế tiếp như thế nào, và liệu đó có phải là khoảnh khắc tiếp theo hay không, tất cả những điều này không bao giờ là những điều đơn giản dành cho Dasein. Trước tiên, Dasein luôn đối mặt với tương lai của mình qua một loạt các khả thể, chỉ một số trong những khả thể này nằm dưới sự kiểm soát của Dasein. Trong ‘phân tích hiện sinh’ của mình, Heidegger ít quan tâm đến những lựa chọn cụ thể mà Dasein sẽ thực hiện, những sự kiện sẽ được trải nghiệm, và những thay đổi sẽ phải kinh qua trong tương lai, hơn là quan tâm đến kiện tính của những khả thể này như một thành tố cấu trúc bất biến của hiện sinh người. Ông chỉ rõ Dasein không phải là một thực tại hiện hữu độc lập mà, ngoài hiện hữu, nó còn có những khả thể – “đây là khả thể đầu tiên và quan trọng nhất”.

Ở đây, “khả thể” phải được hiểu không phải là một hình thức thiếu sót của thực tại (“cái gì đó chưa có thực và không bao giờ cần thiết”), mà là một phương thức hiện hữu hoàn toàn khác của hữu thể: khả thể hiện hữu của Dasein không bao giờ nổi bật như một điều chưa hiện diện, nhưng đúng hơn là với hữu thể của Dasein, về cơ bản, vốn không bao giờ hiện diện. Hay nói cách khác: mỗi Dasein khả thể của nó và không chỉ đơn thuần là “có” khả thể, như thể khả thể này là một thuộc tính của một sự vật hiện hữu cách độc lập về mặt hữu thể. Khả thể, khi đó, là một hiện sinh – một sự xác định hữu thể học và thực tiễn, vừa nguyên sơ vừa chung cuộc của Dasein.

Nhưng cách hiểu về khả thể như một phương thức duy nhất của hữu thể chứ không phải là một hình thức thiếu sót của thực tại, bao trùm Phần I của Hữu thể và Thời gian, có thể bị phê bình theo thuật ngữ của Heidegger, như sự ‘không gian hóa’ chính hữu-thể-như-khả thể của Dasein. Bởi vì Dasein khả thể của nó (trong hiện tại) chứ không liên quan đến bất kỳ khả thể cụ thể nào (trong tương lai), nên không có sự lựa chọn hay sự kiện cụ thể nào thực sự quan trọng đối với yếu tính của nó: Dasein luôn là chính nó, ở dạng khả thể.

Mặc dù Dasein luôn ‘nhiều hơn’ so với thực tế, nếu người ta muốn và có thể lập “kho hữu thể học” của Dasein như một thứ gì đó có sẵn, thì nó không bao giờ nhiều hơn thực tế, bởi vì khả thể của hữu thể thuộc về tính thực tế của hữu thể. Tuy nhiên, Dasein cũng không phải là cái có thể ít hơn bất cứ điều gì, vì cái mà, trong khả thể của hữu thể, nó chưa phải là nó, nó hiện hữu một cách hiện sinh.

Trong khả thể được “không gian hóa” như vậy, Phần I, mặc dù cam kết rõ ràng với một phương pháp hiện tượng học, vẫn giữ lại các đặc điểm của triết học philosophia perennis: một triết học tự cho mình là có tầm nhìn “thiên nhãn”, từ kinh nghiệm thực tế bên ngoài. Như vậy, dường như, chỉ đơn thuần – là một sự an toàn khác (Sicherung) chống lại tính tạm thời một khuynh hướng mà Heidegger đã bác bỏ để ủng hộ một thái độ cánh chung đích thực trong Dẫn nhập vào Hiện tượng luận Tôn giáo.

Nhưng sự biến dạng này không phải là một thiếu sót, mà là một chiến lược. Trong Phần II, Heidegger lướt qua vòng tròn của Phần I một lần nữa ở mức độ sâu hơn, tiết lộ sự cần thiết của quan điểm cánh chung cho bất kỳ sự hiểu biết đúng đắn nào về hiện sinh người. Bằng cách đặt toàn bộ chủ đề của Phần I vào chân trời của cái chết, Phần II tiết lộ các điều kiện để hình thành nên phân tích của Phần I: hiện sinh thừa nhận rằng khả thể luôn là tương lai, và chân trời của tương lai đó là cái chết. Chỉ từ một vị trí như vậy, Dasein mới có thể hiểu một cách chính thực về ‘khả thể’, cụ thể là một cái gì đó (theo thuật ngữ của Stanley Cavell) phải được thừa nhận, chứ không phải được biết đến – mà chỉ có thể là ‘khả thể’ khi nó được nắm bắt hơn là được chiêm ngưỡng.

Trước đó, thay vì mô tả khả thể là cái ‘chưa phải thực là’, Heidegger đã mô tả khả thể là cái “ với hữu thể của Dasein như cái không bao giờ hiện diện cách yếu tính”. Bây giờ, ông thay thế đối tượng của định nghĩa này: ‘Cái chết không phải là một cái gì đó chưa-hiện-tại, cũng không phải là một cái gì đó nổi bật cho đến cuối cùng, mà là một điều nhất định sẽ xảy ra (Bevorstand). Cái chết là ‘khả thể không thể vượt qua’ cuối cùng của Dasein. Do đó, giống như mọi khả thể, nó phải được hiểu như là một hiện sinh. Chừng nào nó còn đó, Dasein luôn luôn , là cái chưa là, thì nó cũng luôn luôn kết thúc của nó. Sự kết thúc bằng cái chết không phải là hữu thể-tại-đích của Dasein, mà là hữu thể-hướng về-đích của hữu thể này. Cái chết là cách thức hiện hữu mà Dasein đảm nhận ngay khi nó hiện hữu.

Nhưng cái chết, vừa như chân trời của khả thể, vừa như tương lai, cũng như là sự phủ định của nó. Heidegger đã tóm tắt một cách rõ ràng chừng nào Dasein còn ‘một hữu thể’, nó không bao giờ đạt được “sự viên mãn” của nó. Và một khi nó đạt được rồi, thì tự thân sự thành đạt này trở thành việc đánh mất hữu thể-tại-thế. Khả thể cuối cùng và ‘không thể vượt qua’ của Dasein là khả thể ‘không-còn-có-thể-tồn-tại’, ‘bất khả thể của hiện hữu’.

Cái “bất khả thể-khả thể” (possible impossibililty) này đòi hỏi một sự thay đổi cách hiểu thông thường của một người về ‘khả thể’ – một sự thay đổi mà, đối với Heidegger, phải trở thành khuôn mẫu cho mọi khả thể. Theo kinh nghiệm thông thường, khả thể có xu hướng được hiểu theo phong cách “mục đích luận”, nghĩa là, bằng cách quy chiếu đến nội dung có thể được thành tựu. Dasein, như Heidegger diễn đạt, nhìn vào cái khả thể “không phải trong những giới hạn của khả thể của nó như khả thể, nhưng theo cách mà nó thận trọng nhìn từ cái có thể đến khả thể-của-cái gì đó”. Nhưng cái chết không thể được coi như thế. Cái chết như là khả thể không mang lại cho Dasein điều gì để nó có thể “thực hiện”, không có gì có thể, nếu nó có thật, chính mình. Bất kỳ nỗ lực nào nhằm “thực hiện” khả thể của cái chết (ví dụ: tự sát) sẽ chỉ làm tan biến khỏi mặt đất về sự hiện hữu của Dasein như hữu thể quy tử.

Thật vậy, cái chết phải được hiểu như là khả thể “thuần túy”: “hiện hữu hướng về sự chết”, nếu nó muốn tiết lộ khả thể được mô tả như vậy, thì nó phải hiểu rõ, phát triển và chấp nhận khả thể này như một khả thể. Nói cách khác, Dasein phải đối mặt với cái chết trong và thông qua sự tồn tại của nó nơi thế giới; Heidegger gọi thái độ thích hợp là “dự phóng” hay “chạy tới” khả thể của cái chết.

2. Hữu-tại-thế, hữu-cùng-với và nỗi sợ hãi

Thuyết cánh chung của Phần II trong Hữu thể và thời gian tuyên bố rằng: Dasein tham gia vào hữu thể của mình như là khả thể riêng rẽ nhất của chính nó, tức là “là khả thể của nó”, mà còn tuyên bố rằng hiện hữu Dasein luôn luôn là hữu-tại-thế (In-der-Welt-Sein).

Ngay từ đầu trong Hữu thể và Thời gian, Heidegger đã đưa ra tuyên bố chủ đạo rằng Dasein [hiện-hữu-ở-đó] về cơ bản bao gồm hiện hữu trong một thế giới. Do đó, sự hiểu biết của Dasein về Hữu ban đầu cũng là sự hiểu biết về một cái gì đó giống như “thế giới” và sự hiểu biết của hữu thể về chính mình như những hữu thể có thể tiếp cận được trong thế giới. Dasein luôn sẵn sàng là và biết về chính mình như cái được nhận chìm vào trong thế giới của Zuhandenem (những thứ có trong tay) và Mit-Dasein (những hữu thể ở cùng với). Dasein của Heidegger được định hình bởi và hướng tới việc biết mình như giữa những cái khác.

Thật vậy, trong hầu hết các khía cạnh, cấu trúc hiện sinh của hữu-tại-thế được phản ánh là cái chung có trước cái cụ thể. Như Stephen Mulhall đã nói, con người trước hết tìm và hiểu chính mình trong những vai trò được xác định về mặt xã hội và được thừa hưởng về mặt văn hóa, những điều này được xác định trước và độc lập với tính cá nhân của chính họ. Chúng ta tương quan với bản thân chúng ta như là những người làm nghề – như là những người tuân theo các quy tắc, phong tục và thói quen dứt khoát của việc thực hành đúng đắn trong bất kỳ lãnh vực nào với những nỗ lực nhất định. Những thực hành như vậy nhất thiết mang tính liên vị, và nhiều khi là phi cá vị. Khi con người vẫn đắm chìm trong cấu trúc ‘phi cá vị’ này, Heidegger lập luận, tính cá vị của họ bị nhấn chìm bởi đám đông. Ban đầu không có “tôi” không phải theo nghĩa của một bản thân thực sự, mà là những người khác ở dạng “đám đông”. Từ bên trong cái đám đông này, tôi – “bản thân tôi” bắt đầu được “trao” cho chính tôi.

Nhưng cái chết diễn giải lại một cách triệt để “chốn cư ngụ thiết yếu” này của Dasein trong thế giới. Thực sự, đối mặt với cái chết không gì khác hơn là sự tái tạo lại chốn cư ngụ này. Hữu thể quy tử không phải là một tiến trình lý thuyết nhưng nảy sinh trong và như một xu hướng cụ thể đối với thế giới. Hữu thể quy tử về bản chất là sự sợ hãi. Nỗi sợ hãi, như một “sự ác cảm đồng cảm”, là cách duy nhất để tồn tại trước (vor) cái chết: sợ hãi cái chết là khiếp sợ về/trước khả thể hiện hữu cao nhất, phi tương quan và bất khả vượt qua của hữu thể. Trong đó, Dasein được đặt trước (vor) tính hư vô của cái bất khả thể-khả thể của hiện hữu của nó.

Như cách chơi chữ của Heidegger với từ vor, nỗi khiếp sợ thể hiện nghịch lý của hữu thể quy tử. Như là một Befindlichkeit, theo định nghĩa, đó là một cách hiện hữu trong thế giới, một sự hòa hợp với thế giới. Nhưng vì sợ hãi thế giới như vậy, nó làm cho thế giới đó có vẻ kỳ lạ. Nhưng nếu cái chết ‘van nài’ hữu-thể-tại-thế của Dasein, thì hữu-thể-tại-thế của Dasein đồng thời là nền tảng cần thiết trong đó hữu-thể-tại-thế tiếp tục tăng trưởng.

Cái chết là khả thể chính thực nhất của Dasein. Hữu thể-hướng đến-khả thể đó mở ra cho Dasein khả thể chính thực nhất của hữu thể. Dasein trong khả năng nổi bật của mình, bị giành giật khỏi đám đông, tức là đã có thể giành giật mình khỏi đám đông trong sự dự đoán về cái chết.

Nhưng chính sự “giành mình” khỏi đám đông này mới tạo nên hiện hữu đích thực. Giống như “sa ngã” (Verfall) là một khái niệm hữu thể luận về chuyển động, thì “dự phóng” (Vorlaufen) cũng là một khái niệm về chuyển động, một chuyển động luôn đổi mới bên ngoài đám đông: Dasein, Heidegger đã nói trước đó, có thể sa ngã (bị hư hỏng) bởi vì nó liên quan đến hữu-thể-tại-thế có hiểu biết và sống hòa hợp. Ngược lại, hiện sinh chính thật không lơ lửng bên trên tính thông thường hư hỏng. Hiện sinh chính thực hướng về cái chết vẫn phải được che giấu khỏi những người khác.

Heidegger lặp lại lập luận này với tham chiếu cụ thể đến khái niệm hiện hữu-cùng với. Một mặt, cái chết tuyên bố một Dasein riêng lẻ. Đặc tính phi tương quan của cái chết, vốn được nắm bắt trong dự phóng, sẽ ném Dasein trở lại với chính mình như cá thể đơn độc. Nó tiết lộ rằng tất cả hữu thể của Dasein-xung quanh-cái-mà-nó-tương-quan và tất cả hữu-thể-của-nó-với-những-người-khác đều thất bại khi khả thể chính thực nhất của hữu thể đang bị đe dọa. Dasein chỉ có thể đích thực là chính nó khi nó tự cho phép nó hiện hữu từ bên ngoài nó. Mặt khác, việc cá nhân hóa này không phải là sự rời khỏi hữu-thể-với, mà là một phương thức của nó.

Như những cấu trúc thiết yếu của Dasein, sự quan tâm và lo lắng là một phần của điều kiện thuộc khả thể của hiện hữu tự thân (per se). Dasein thực sự là chính nó chỉ trong chừng mực nó tự phóng chiếu mình như là hiện hữu-quan tâm-đến-xung quanh (concerned being-around) và như là hữu thể-âu lo-với (solicitous being-with), chủ yếu dựa vào khả thể hiện hữu của hữu thể, hơn là vào những khả thể của bản thân đám đông.

Như Heidegger nói, hữu thể quy tử nhắc nhở Dasein tránh khỏi sự tha hóa và vén mở cho nó tính chính thực và không chính thực như những khả thể của hiện hữu của nó. Nhưng tính chính thực (Eigentlichkeit) như sự nắm bắt của Dasein về chính mình chỉ có thể như sự lựa chọn hay nhiệm vụ được đổi mới, và điều đó chỉ có thể xảy ra trên nền tảng bền vững của hữu-thể-tại-thế bình thường của Dasein.

3. Hữu thể quy tử và tội nguyên tổ

Giờ đây, rõ ràng là Hữu thể và Thời gian mang tính ‘cánh chung’ cả về tầm nhìn lẫn tính năng động của nó. Hiện sinh người chỉ có thể được hiểu dưới ánh sáng của “những sự sau”, những điều này vén mở cho thấy hiện sinh người như một nhiệm vụ, một cách sống trong thế giới. Đồng thời, chỉ từ quan điểm cánh chung của Phần II, Verfall được xem không đơn thuần là một chỉ báo hình học về cấu trúc khả thể của Dasein. Như trong tư tưởng Kitô giáo, tình trạng tha hoá, hư hỏng (status corruptionis) chỉ có thể nhận thấy từ bên kia hy tế cánh chung của Đức Kitô. Vì vậy, trong Hữu thể và Thời gian, việc Dasein ‘ngã vào’ thế giới chỉ có thể được hiểu là ‘hư hỏng’ theo quan điểm cánh chung của hữu thể quy tử.

Nhưng chân trời cánh chung của Hữu thể và Thời gian vừa giống, vừa khác hoàn toàn với Kitô giáo. Điều này được báo hiệu cách rõ ràng bởi thực tế là không chỉ thuật ngữ ‘sa ngã’ hay ‘hư hỏng’ (Verfall) của Heidegger mà cả thuật ngữ tích cực “hữu thể quy tử” đều được mô phỏng theo các mô tả thần học về tội nguyên tổ (corruptio).  Hữu thể quy tử (Sein zum Tode) được đặt ra song song với ‘bệnh quy tử’ của Kierkegaard (sickness-unto-death/ Die Krankheit zum Tode)[57]. Công thức thay thế “chạy về phía cái chết” (Vorlaufen zum Tode) là một bản dịch gần như trực tiếp thuật ngữ thần học của Luther: cursus ad mortem. Tuy nhiên, cả hai thuật ngữ thần học đều mô tả hậu quả của tội nguyên tổ. Nguồn gốc của “khoản vay mượn” này có thể là ngẫu nhiên chăng?

 “Mặc dù chúng tôi không muốn gọi cuộc sống mà chúng tôi đang sống ở đây là cái chết, nhưng chắc chắn nó không là gì khác hơn một hành trình liên tục hướng tới cái chết [perpetuus cursus ad mortem]. Giống như một người bị nhiễm bệnh dịch hạch đã bắt đầu chết khi sự lây nhiễm bắt đầu, vì vậy – do tội lỗi, và sự chết, hình phạt đối với tội lỗi – cuộc sống này không còn có thể được gọi cách chính đáng là cuộc sống, sau khi nó đã bị lây nhiễm bởi tội lỗi. Ngay từ trong bụng mẹ, chúng ta bắt đầu chết”[58].

Chủ nghĩa hoài nghi của Heidegger liên quan đến việc đóng khung giáo điều cho ‘hành trình hướng tới cái chết’ của Luther bằng các ý tưởng về tội lỗi và ân sủng. Nó được lặp lại một cách mạnh mẽ khi ông giới thiệu khái niệm Verfall trong Phần I của Hữu thể và Thời gian. Cái tên Verfall, không thể hiện một đánh giá tiêu cực, có nghĩa là: Dasein luôn luôn rời khỏi chính mình như là khả thể của hiện hữu cách chính thật, và bị ném vào “thế giới”. Điều này phải được hiểu như một thành phần cấu trúc vĩnh viễn của hiện sinh người, chứ không phải là ‘sự sa ngã’ từ một “trạng thái nguyên thủy” thuần khiết hơn và cao hơn. Ông giải thích rằng định đề về sự sa ngã như vậy là trống rỗng về mặt triết học, bởi vì Dasein, như đang hiện hữu, không bao giờ có thể lùi lại đàng sau việc nó đã là hữu thể bị ném-vào-thế giới. Nhưng triết học là một phân tích hiện sinh gắn liền đường hướng dẫn của câu hỏi triết học với nơi nó phát sinh và nơi nó trở về, cụ thể là chính hiện sinh. Do đó, nó không chỉ không có (về mặt hữu-luận) kinh nghiệm về một thứ như sự Sa ngã nguyên thủy; nó cũng không (về mặt hữu-thể-học) sở hữu bất kỳ khả thể hoặc hướng dẫn nào để thông diễn về điều đó.

Vì thế, Heidegger định vị phân tích của mình là về mặt hữu thể học trước cách hiểu của Ki-tô giáo về sự Sa ngã: cách giải thích hiện sinh-hữu thể học này được tạo ra không phải để tuyên bố hữu thể nào sa vào “sự hư hỏng của bản tính con người”. Sự sa ngã [hay hư hỏng] là một khái niệm thuộc trào lưu hữu thể học. Về mặt hữu luận, chúng ta không quyết định liệu con người có “đắm mình trong tội lỗi” (nghĩa là trong tình trạng tha hoá, hư hỏng status corruptionis), có bước vào tình trạng toàn vẹn (status integritatis), hay thấy mình ở trong tình trạng trung gian (status gratiae). Hoàn toàn ngược lại: đức tin và thế giới quan, khi nói về Dasein như hữu-thể-tại-thế, chúng muốn đưa ra bất kỳ tuyên bố nào đối với sự hiểu biết khái niệm sẽ phải viện đến các cấu trúc hiện hữu mà chúng ta đã khám phá.

Tuy nhiên, ở cấp độ sâu hơn của Phần II, chính hữu thể quy tử là một sự khẳng định về ‘tội lỗi’. Con đường dẫn đến điều này đã được chuẩn bị bởi việc Heidegger bàn về tội lỗi vào giữa những năm 1920, dẫn đến việc ông từ chối triệt để chân trời của ân sủng, ủng hộ một chân trời của hư vô. Suy nghĩ này chảy vào phân tích của Heidegger, trong Hữu thể và Thời gian, về các thuật ngữ Gewissen (lương tâm) và Schuld (tội lỗi).

Sau khi phân tích hiện sinh về hữu thể quy tử, Heidegger đặt ra câu hỏi về việc đạt được tính chính thực của hiện sinh – câu hỏi không phải là hữu thể quy tử là khả thể về mặt lý thuyết nhưng là khả thể trong thực tiễn. Đối với Heidegger cũng như đối với thánh Phaolô, bước ngoặt thực tiễn này phải được tạo ra bởi tiếng gọi của một giọng nói đã biết trước về sự kết thúc sắp xảy tới, nhắc nhở người nghe ra khỏi sự vướng víu của họ trong thế giới, để đạt tới trạng thái chờ đợi và tỉnh thức. Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Thexalônica, chương 5, văn bản nguồn của Heidegger trong việc hình thành cách hiểu của ông về dự đoán cánh chung vào năm 1921, chính thánh Phaolô đảm nhận vai trò của người kêu gọi đó:

“Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: “Bình an biết bao, yên ổn biết bao!”, thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được. Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ” (1Tx 5,1-5).

Đối với Heidegger, vấn đề phức tạp hơn. Bởi vì lạc lõng trong đám đông, Dasein phải được “phô bày” về chính mình trong tính chính thực tiềm tàng; nó “đòi hỏi” bằng chứng về khả thể của chính hữu thể, mà về mặt tiềm thể, nó đã là rồi. Nhưng bởi vì tính chính thực là khả thể riêng và phi tương quan nhất của Dasein trong cái chết, chứng từ này không thể được đưa ra từ bên ngoài, mà chỉ bởi một tiếng nói nội tâm: tiếng gọi không thể đến từ một người khác đang ở trên thế giới với tôi. Tiếng gọi đến từ tôi nhưng vẫn ở trên tôi. Giờ đây, triết gia tái thông diễn tiếng nói của lương tâm một cách rất hiện sinh như tiếng gọi cánh chung trong nội tâm của Dasein.

Trước đó, Heidegger đã gọi cái chết là điều sắp xảy ra [Bevorstand], “một cái gì đó đối diện với các hành động của Dasein”. Cái chết không phải là cái gì khác, mà là chính Dasein, Dasein đối mặt với chính nó như là khả năng của tính chính thực. Với cái chết, Dasein đứng trước chính mình với khả thể chính thật nhất của hữu thể. Dasein “luôn hướng về chính nó”.

Theo trực giác thông thường về lương tâm nhạy bén với tội lỗi (Schuld), Heidegger theo đuổi sự phân tích về lương tâm thông qua một phân tích hữu thể học về tội lỗi, tức là một phân tích tiết lộ nền tảng hiện sinh của những cảm giác và định đề thông thường về tội lỗi: ‘Tội lỗi- hữu thể’ (being-guilty) được giả định “trên cơ sở” một “tội-hữu thể” nguyên sơ/nguyên thuỷ.

Dasein bị ném vào, chứ không phải tự mình đi vào hiện hữu. Hữu thể được định nghĩa như là khả năng của hữu thể thuộc về chính mình nhưng chưa tự cho mình là chính mình. Hiện hữu không bao giờ có thể lùi lại đàng sau hữu-thể-bị-ném của nó, để nó có thể gạt bỏ ‘cái nó hiện hữu và được kêu gọi để hiện hữu’, đi từ hữu thể của chính mình (its being-itself) để trở thành cái Ở đó (There). Đó là ý nghĩa của Da-sein như being-there.

Khả thể hiện sinh của hữu thể quy tử được đặt nền tảng chính xác trong vấn đề mà Heidegger đã tuyên bố trước đó, cụ thể là Dasein được định hình và tự nhận biết chính nó từ bên trong một ‘thế giới’. Tiếng gọi của lương tâm là lời kêu gọi thừa nhận thực tế này như một nhiệm vụ chứ không phải là một câu đố có thể có câu trả lời. Nguồn gốc của Dasein trong thế giới không phải là một cái ‘ở đó’ được xác định, hay như là “lời giải thích” nhân quả về sự hiện hữu của nó để rồi Dasein có thể rũ bỏ trách nhiệm đối với sự hiện hữu này. Bản thân Dasein trong hiện hữu là “vô nền tảng’ (null ground) trong chính hữu thể của nó.

Nhưng gánh vác sự hiện hữu như thế không phải là để khắc phục tính hư vô này (nullity). Ngược lại, hiện hữu chính thật, trên thực tế, bao gồm trong vô hạn các lựa chọn, mỗi lựa chọn đều từ chối hoặc đưa ra những lựa chọn không thể khác: hiện sinh là dự phóng, như “bị ném ra”, luôn luôn được xác định bởi tính hư vô của nền tảng hữu thể của nó; và như là dự phóng, bản thân hiện sinh chỉ là hư vô xét về mặt yếu tính. Việc xác định sự sống bằng cái chết chỉ làm rõ điểm này: nền tảng và mục đích tối hậu, chiều sâu tột cùng của Dasein (tiếng Đức Grund mang cả ba nghĩa) là việc nó bị ném vào cái chết: cái hư vô mà nỗi sợ hãi mang đến cho chúng ta trước đó vén mở tính hư vô khả dĩ quyết định cuộc sống trong nền tảng của nó (độ sâu/yếu tính/mục đích), cụ thể là việc bị ném vào cái chết.

Do đó, toàn bộ hữu thể của Dasein như một “dự phóng bị ném ra” (geworfener Entwurf), là “vô nền tảng của hư vô tính” (the null ground of a nullity). Mặc dù tiếng gọi của lương tâm thúc giục ta tránh xa “sự hư hỏng” như là sự phân tán trong thế giới, do đó không chỉ tránh xa “tội-hữu thể”, mà hướng tới nó, nghĩa là: hướng tới lời kêu gọi chấp nhận “sức nặng” hay “khó khăn” (Schwere) của việc trở thành “vô nền tảng” của một hiện sinh ngập tràn hư vô tính. Tiếng nói của lương tâm là “tiếng gọi phải chịu tội”.

4. Tính chính thực và (phi) khả thể của toàn thể tính

Tuy nhiên, sự hiểu biết của Heidegger về cảm giác tội lỗi và lương tâm, với công thức gây sửng sốt: Dasein như là “vô nền tảng của hư vô tính”, được khẳng định trên giả định bất thành văn rằng ước muốn có một nền tảng và một mục đích vẫn là yếu tố cấu thành của Dasein. Thật vậy, để trở thành chính mình là chấp nhận rằng một người không được đặt nền tảng trong một nguồn gốc xác định (hoặc thậm chí không thể diễn đạt một cách mạch lạc nền tảng đó là gì), cũng như không thể thoát khỏi mong muốn về một nền tảng; không hướng tới sự thỏa mãn (hoặc thậm chí không thể diễn đạt một cách mạch lạc sự thỏa mãn đó là gì), cũng như không thể thoát khỏi mong muốn đó.

Nói cách khác, trong sự tái phân tích của Heidegger về Kierkegaard, mọi thứ xuất hiện như hữu hạn không phải đối lập với vô hạn, mà như được soi sáng từ chân trời của điểm kết thúc hoặc điểm cuối. Ý nghĩa của Dasein, là sự quan tâm, ý nghĩa của sự quan tâm là tính tạm thời, và ý nghĩa của tính tạm thời là tính hữu hạn. Đây không phải là một ý nghĩa thuần lý mà là một ‘ý nghĩa’ hiện sinh, một ý nghĩa không thể được biết đến, mà chỉ được sống—theo nghĩa đó, nó cũng mang tính cánh chung. Heidegger tổng kết một cách rõ ràng: chỉ có hữu thể nào về yếu tính và trong bản thể của nó, mang chiều kích tương lai, tức là, có thể sẵn sàng cho cái chết, để bản thân bị tan vỡ trước cái chết đó và bị ném trở lại ‘ở đó’ thực tế của nó – hay nói cách khác, chỉ hữu thể nào, vừa hướng về tương lai, đồng thời ban đầu cũng là quá khứ, mới có thể đảm nhận tính chất “bị ném” của nó bằng cách chuyển tải cho chính mình khả thể vốn có, và do đó, hiện hữu cho “thời của mình” trong lúc này. Chỉ vô thường tính chính thật, đồng thời là hữu hạn, làm cho vận mệnh, tức là tính lịch sử đích thực, trở nên khả hữu.

Kết: một cánh chung luận không cánh chung?

Nói ở mức độ tổng quát hơn, dự án của Heidegger trong Hữu thể và Thời gian có thể được xem như một khúc quanh đạo đức học đối với vấn đề siêu hình học của Kant, vốn tập trung vào mô tả “con người” cách luân lý như được xác định một cách sống động nhất bởi sự căng thẳng giữa tính hữu hạn không thể tránh khỏi và ước muốn kiên định để siêu vượt chính mình. Mục đích của cả triết học tư biện và đạo đức ở đây không còn là khao khát một lý tưởng siêu việt, mà là duy trì sự hiện hữu của con người chính thực bằng cách từ chối thu gọn căng thẳng cấu thành này thành một “siêu-truyện siêu hình” hoặc một sự từ chối (với dáng vẻ thờ ơ hoặc hoài nghi) sức hấp dẫn của nó.

Nhưng trong khi phân tích của Heidegger là lời biện hộ tài ba cho tính hữu hạn không thể tránh khỏi của hiện sinh, thì pathos của nó lại phụ thuộc vào giả định về một mong muốn vượt lên trên tính hữu hạn mà bản thân phân tích không thể và cũng không thể giải thích. Một điểm nhấn là phân tích về khả năng trải nghiệm cái chết trong Hữu thể và Thời gian, (§ 47), Heidegger tuyên bố rằng chỉ có thể đạt được trải nghiệm hiện sinh về cái chết bằng cách đoán trước cái chết của chính mình, chứ không bao giờ bằng cách chứng kiến cái chết của người khác.

Nhưng cả Edith Stein và gần đây hơn là Simon Critchley đã phản bác lại từ những nhãn quan khác nhau, không phải cái chết của chính mình mà là cái chết của những người khác – đặc biệt là cái chết của những người thân yêu – thực tại trực tiếp bộc lộ tính hữu hạn nhất. Trong một sự đảo ngược lại khẳng định của Heidegger, Hư vô chỉ có thể hiển thị đối lại với chân trời của Hữu thể. Nếu Hữu thể chỉ có thể xuất hiện ‘như’ bị Hư vô đe dọa, thì đồng thời, Hư vô chỉ có thể xuất hiện như một mối đe dọa. Nhưng chỉ những gì được đánh giá cao mới có thể bị đe dọa, và nếu mối đe dọa làm cho giá trị trở nên rõ ràng, thì bản thân nó không tạo ra giá trị đó. Tình yêu, như chính Heidegger đã thể hiện khi phân tích tình yêu của ông dành cho Hannah Arendt: “volo ut sis” (‘Tôi muốn bạn hiện hữu”).[59] Chỉ trong tình yêu của một người dành cho người khác, cái chết mới có thể xuất hiện như một sự phủ định khủng khiếp của nó.

Dù sao đi nữa, Heidegger đã từng đề cập đến “thần học về vinh quang” của Công giáo, vốn thần học thừa nhận một sự liên tục không phức tạp giữa hiện hữu trần thế và thiên đàng – một giả định phải được giải cấu trúc bằng cách nhắc nhở về tính chung cuộc của cái chết (phê bình hữu thể học).

Thật thế, với người Công giáo, cái chết như cửa ngõ của sự sống vĩnh cửu: “Thánh Ambrôsiô, một trong các Giáo phụ của Giáo hội, trong bài điếu văn cho người anh em quá cố của ngài là Satyrus: “Sự Chết không phải là một phần của tự nhiên, nhưng đã trở nên tự nhiên. Tự thuở ban đầu Thiên Chúa đã không truyền án phạt phải chết; Ngài phải đề ra nó như một phương dược. Cuộc sống con người, vì tội lỗi… đã bắt đầu cảm nhận gánh nặng của sự bơ phờ trong lao động không ngơi và trong buồn sầu không thể chịu nổi. Cần phải có giới hạn cho những đau khổ của cuộc sống; cái chết phải phục hồi lại điều sự sống đã tước mất. Không có sự trợ giúp của ơn sủng, bất tử trở thành một gánh nặng nhiều hơn là một ơn phúc”. Trước đó ít lâu, thánh Ambrose đã nói: “Cái chết, do đó, không phải là duyên cớ để khóc lóc, vì nó là căn cớ cho ơn cứu độ của nhân loại” (Thông điệp Spe Salvi, số 10).

Phải chăng đây mới là cách nhìn toàn triệt về mối tương quan giữa sự chết và tính chất thật của hiện sinh?

 

 

CHẾT

Théophane Vénard Phạm Hữu Ái

“Sinh, bệnh, lão, tử” nằm trong chân lý thứ nhất của “Tứ diệu đế”, là một quy luật tự nhiên không ai có thể vượt qua. Nói như thế chưa hẳn là chuẩn xác, vì có những con người chưa kịp mang bệnh mà đã chết; chưa bước qua tuổi trung niên đã về với tổ tiên. Thế nhưng một sự thực không thể phủ nhận: tất cả mọi người đều “hiện hữu cho sự chết”. Sự chết là dấu ấn của đời sống con người. Nó chi phối toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Nó là điều nhất thiết.

Mặt khác, sự chết thì không thể biết được, hiểu được, diễn tả được là gì. Vì ai đang nói về sự chết, nếu không phải người đang sống. Một người chưa chết làm sao có được trải nghiệm về sự chết để cho người khác biết: chết là gì? Sự chết trở thành một huyền nhiệm và nó khiến cho cuộc sống của chúng ta cũng trở thành huyền nhiệm. Huyền nhiệm vì nó như một con đường mà chúng ta không thể biết nó đi về đâu? Đúng hơn, chúng ta biết điều đó rất rõ khi chúng ta chết. Chẳng hạn kinh nghiệm của những người gặp hội chứng lazarus, hội chứng khiến ngưng thở tạm thời và sống lại sau đó.[60] Tuy nhiên, họ không biết được điều gì xảy ra sau cái chết, thậm chí nếu có một điều gì đó, thì cũng chẳng rõ.

Sự chết là một huyền nhiệm, nên viết về sự chết phải chăng là một điều gì đó rất liều lĩnh, nếu không muốn nói là điên rồ. Thật ra, vì nó là một huyền nhiệm nên đã khiến cho rất nhiều người thắc mắc, suy tư và không ngừng tìm kiếm lời giải đáp qua suốt dòng lịch sử tư tưởng của nhân loại. Tuy nhiên, sự chết cũng là một niềm hy vọng với các triết gia hiện sinh hữu thần, đặc biệt những người có niềm tin và sống niềm tin. Chính niềm hy vọng đó khiến cho nhân loại đủ động lực để cùng đi với nhau và cùng tiến với nhau.

  1. Chết?

Con vật được sinh ra và phải chết; con người cũng không thể thoát khỏi định mệnh này. Có thể nói hai cái chết rất giống nhau, vì đều là chấm dứt sự tồn tại. Nhưng cũng có thể nói ngược lại mà không hề sai: cái chết của con người và con vật hoàn toàn khác nhau, vì con vật không biết mình sẽ chết; còn con người biết rất rõ mình sắp chết, mặc dù không biết nó như thế nào khiến họ luôn khắc khoải lo âu và không ngừng suy tư. Chính vì thế, trong lịch sử tư tưởng con người, ít nhất tồn tại hai lập trường hoàn toàn khác biệt về chủ đề này:

Lập trường của các triết gia duy vật và của các nhà vô thần cho rằng chết theo nghĩa hẹp là một sự hư vô hay cùng lắm chẳng là gì cả. Chúng ta chẳng biết gì về sự chết cho dù là một chi tiết rất nhỏ. Nó chỉ là sự chấm dứt cuộc sống, là kết thúc của một tiến trình theo quy luật tự nhiên. Đối lại là lập trường của các triết gia duy linh và duy tâm quả quyết chết là bước qua một đời sống khác hay tiếp tục cuộc sống đó, nhưng thuần khiết và được giải thoát khỏi các vướng bận của cuộc sống trần tục này.

Tuy nhiên, xét cho cùng, hai chủ trương trên đều đi đến chỗ phủ nhận hiểu biết về sự chết. Lập trường vô thần xem sự chết là hư vô, mà hư vô cũng chỉ là hư không mà thôi, không là gì cả. Chúng ta suy tư gì đây? Trong khi lập trường ngược lại: “Chết là một sự sống khác” (Platon), chết không phải là hết mà là bước vào một cuộc sống mới, cuộc sống hoàn toàn khác. Lúc đó, đương nhiên chấp nhận sự chết ở trong sự sống, sự chết và sự sống là một, cùng một thực tại, nghĩa là không có sự chết nào cả, vì khi đề cập đến sự chết là nói đến một sự sống khác, chứ không có một sự chết nào hết. Nó chẳng khác nào như là một điểm tiếp nối của hai đoạn đường, vừa thuộc về đoạn trước và cũng là của đoạn đường sau, không thể tách biệt. Với các chủ trương này, khi chúng ta suy tư về cái chết, là suy tư không có đối tượng, vì nó là hư không, là một đời sống khác rồi. Do đó, nếu cố gắng suy tư thì chẳng khác nào, chúng ta đang tự nguyện đụng đầu vào một tảng đá vững chắc và bí nhiệm. Chúng ta sẽ đạt được gì, chẳng phải sẽ đối diện với một “dự phóng tự vãn hồi” mà theo J.P.Sartre là một điều hết sức phi lý. Theo Sartre, chết là hết đời rồi. Nó không thuộc về hiện sinh. Nó ngăn chúng ta lại và ở ngoài cuộc đời. Nó thật là phi lý và mù quáng, đột nhập vào cuộc đời bất cứ lúc nào. Một khi nó đột nhập, nó phá huỷ tất cả mọi dự phóng của chúng ta và biến chúng ta thành những đồ vật. Tại sao? Vì khi chết, chúng ta ở đó, rất thụ động, không còn nhìn tha nhân, mà bị tha nhân nhìn. Tha nhân toàn quyền đưa ra những phán đoán và phán xét về  chúng ta như với bất cứ một sự vật nào. Tha nhân tha hoá, chiến thắng chúng ta chỉ vì một lý do đơn giản là ta đã chết. Sự chết là dấu chấm hết khiến ta không hiện sinh, nên sự chết thật là phi lý, không thể giải thích, chẳng thể nào lý giải cho hợp lý.

Lý giải và nhận xét của Sartre thật hay và rất tài tình, vì xem sự chết như là đối kháng với cuộc sống: chết là hết đời, là hết sống. Thực ra, cái chết đó không hề tồn tại. Chết không bao giờ tách ra, đối đầu với cuộc sống; trái lại, chúng ta chỉ biết cái chết hiện hữu khi có sự sống, chỉ biết sự nghiệt ngã của nó khi thấy giá trị đích thực của cuộc sống (hiện tượng của sự sống). Ngược lại, người ta chỉ yêu quý cuộc sống và nhận ra sự cần thiết của nó khi đối diện với cái chết, suy gẫm về sự chết. Như thế, chết là cần thiết để cuộc sống có ý nghĩa hơn, cũng như giúp con người vươn lên trong những hoàn cảnh éo le, nghiệt ngã và khốn cùng.

  1. Chết là cần thiết

Trên hết, chết là cần thiết và như là tự do. Nó như là tự do khi được đặt trong tương quan với sự sống mà đi tới tận cùng sự sống chính là Thiên Chúa, sự sống thật, viên mãn, tròn đầy, chứ không thể đối đầu. Thật vậy, khi J.P.Sartre đặt con người vào vị trí của Thiên Chúa như một đối thủ cạnh tranh đến nỗi hoặc là có Chúa thì không có tôi; có tôi thì không có Chúa, vô hình trung, ông gán sự sống của Thiên Chúa cho con người. Thế nhưng con người, dù muốn dù không, không thể không chết, nên không là Thiên Chúa được. Nếu như thế, theo Sartre, chết triệt tiêu tự do tính tuyệt đối nơi con người, phá hoại hoàn toàn mộng tưởng trở thành Chúa, vì cái chết là thời khắc mà tự do tính trở thành vô dụng nhất, không có bất cứ chọn lựa nào. Trái lại, Heidegger gọi con người là Dasein, nghĩa là đang hình thành. Một khi đang hình thành thì Dasein luôn là dang dở. Điều tiên quyết nhất khắc đậm sự dang dở của Dasein là gì nếu không phải là sự chết, vì nó triệt tiêu tất cả mọi giá trị của con người sao? Thế nhưng thay vì đối đầu, ông chấp nhận sự chết, vì sự chết là dự phóng cuối cùng của con người. Đối với ông, chấp nhận cái chết là một quyết định chọn lựa khó khăn nhất của mỗi người. Quyết định đó cho thấy tôi là tự do, tự do đón nhận một dự phóng không thể chối bỏ được.

Bên cạnh chết như là tự do thì nó cũng rất cần thiết cho cuộc sống. Nếu quan niệm, chết là hư vô, hư không như các nhà duy vật, vô thần chủ trương, thì trong hành trình làm người, nhiều hay ít thì chết là một khoảng lặng, một giấc ngủ hay là khoảnh khắc giúp tan biến tất cả mệt mỏi, lo âu, thất vọng và là một sự giải thoát tối hảo nhất. Vì theo họ, con người đến từ vật chất, rất tự nhiên và hoà mình với nhiên giới, bị chi phối bởi những quy luật của thiên nhiên, nên đời người là khổ ải, là bệnh tật và bị lão hoá. Khoa học tiến bộ có thể giúp làm chậm sự lão hoá, giảm bớt bệnh tật, thoa dịu đau đớn thể xác và tinh thần, nhưng không thể nào chấm dứt được tiến trình này, vì nó là những thành phần thiết yếu gắn liền với cuộc sống con người. Nếu tuổi thọ người ta là 150 năm hay 250 năm, hãy tưởng tượng xem thế giới này sẽ ra sao và con người sẽ như thế nào?

Ngược lại, chúng ta cũng đã từng đau xót khi đứng trước người thân, người mình yêu mến nhất đang quằn quại trong đau đớn của bệnh tật. Đau về thể xác, mệt mỏi về tinh thần. Họ dở sống, dở chết mà không chấm dứt cuộc đời được. Lúc đó họ mong muốn gì nếu không phải là được chữa lành hay chấm dứt nỗi bất hạnh. Chữa lành thì cho đến tận giây phút này, khả năng chữa trị chưa phải là toàn năng và có lẽ cho đến tương lai cũng thế, vì con người vốn hữu hạn; còn nếu mong ước chấm dứt nỗi bất hạnh thì cần phải có một kết thúc bằng cái chết. Nếu giả sử không có cái chết, nỗi đau đớn sẽ nhân lên gấp bội, không phải nơi họ, nhưng ngay cả nơi người thân. Vì theo Scheler, luôn có sự đồng cảm trước niềm vui hay nỗi bất hạnh với tha nhân. Sự đồng cảm này sâu nặng hay nông cạn tuỳ thuộc vào tình yêu mãnh liệt đến mức độ nào. Càng yêu nhau sẽ càng đau khổ khi chứng kiến sự đau đớn của người mình yêu. Bởi thế, theo Greffe, chết là một sự cần thiết và là một sự giải thoát khỏi đau đớn và khổ sở.

Chết là cần thiết cũng đúng khi được hiểu theo quan niệm của phái duy linh, duy tâm. Platon cho rằng chết là “một cuộc mạo hiểm tuyệt vời cần theo đuổi”. Chết được nhìn nhận như là sự cứu rỗi mà người ta đợi chờ. Đợi chờ không phải chỉ vì được giải thoát, mà là đạt được điều tốt đẹp nhất: hạnh phúc tối hậu, hạnh phúc tròn đầy, sự viên mãn trong một cuộc sống khác. Niềm mong đợi này là động lực rất cần cho tất cả mọi người để sống tốt và hưởng trọn niềm vui trong cuộc sống. Nó cũng là động lực để con người vươn lên khỏi những nghịch cảnh, nhất là giúp chúng ta can đảm đối diện với “chân trời” mà chúng ta “bị ném vào”. Ngoài ra, nó cũng là yếu tố tích cực để nuôi dưỡng sự kiên trì và trung thành với các chủ ý và ý hướng hướng thiện trong các mối tương quan liên vị.

  1. Học để biết cách chết

Chết như là tự do và là cần thiết, nhưng không phải tự nó tạo nên ý nghĩa, trái lại, cần phải học để biết chết như thế nào? Không ai được miễn khỏi phải chết, vì đó là định mệnh cho dầu người ta có chấp nhận hay lẩn tránh nó. Tuy nhiên, theo Ciceron thái độ khôn ngoan nhất là phải học biết cách để chết.[61] Montaigne nhận xét: học cách chết rất quan trọng với cuộc sống con người. Theo đó, lời khuyên trên được hiểu theo hai nghĩa:

  • Với Platon, sự chết được xem như là mục đích của cuộc sống. Chết là sự tách rời linh hồn khỏi thân xác, vốn như là nhà tù giam hãm, để chúng ta có sự sống viên mãn hơn, thuần khiết và hoàn toàn tự do bên kia thế giới này. Do đó, không gì phải sợ chết cả. Chính vì thế mà Socrates không trốn chạy, trái lại hiên ngang chấp nhận uống thuốc độc để bảo vệ cho chính nghĩa, cho niềm tin của mình với sự điềm tĩnh lạ thường.
  • Trái lại, Montaigne không xem sự chết như là mục đích của đời người mà là điểm kết thúc của cuộc sống. Với chủ trương này, tính hữu hạn là đặc tính căn bản nơi con người được thể hiện rõ nét nhất khi chúng ta đối diện với cái chết. Vì một khi chết là điểm kết thúc, nghĩa là con người không phải là Chúa, mà là một thụ tạo. Thế mà đặc tính căn bản nhất của thụ tạo là bất tất, hư hoại. Nếu tính hữu hạn là đặc tính căn bản của kiếp sống con người thì điều đầu tiên cần là phải chấp nhận cái chết.

Chấp nhận cái chết như là một điểm kết thúc. Điểm kết thúc này không là ngoại tại mà là nội tại, vì nó là cấu trúc căn bản trong sự hiện hữu của con người: con người “hiện hữu cho sự chết”. Vì thế, nếu có thái độ chạy trốn trước sự chết là chúng ta đang gây ra một tổn hại lớn cho cuộc sống và niềm vui sống của mình. Nhưng chấp nhận cái chết như thế nào?

Trước hết, phải đối diện với chính sự chết, không lẩn tránh. Cha ông chúng ta trước đây đón nhận sự chết rất bình thản đến nỗi đã trở thành một nét rất đẹp của văn hóa Việt. Trong các gia đình, sau khi con cái lớn khôn và nhận thấy mình đã có tuổi, ông bà hay cha mẹ thường chuẩn bị cho mình hai cỗ quan tài: một cho ông; một cho bà. Con cái có hiếu cũng chuẩn bị sẵn cho cha mẹ “hành trang” để một ngày nào đó về với tổ tiên. Các cỗ quan tài được đặt ngay trong gian chính của mỗi nhà mà không hề có cảm giác sợ hãi, nhưng như một sự nhắc nhở, sửa soạn, làm quen dần với một sự thật đôi khi có thể là phũ phàng, đau đớn và nghiệt ngã. Dầu có nghiệt ngã như thế nào chăng nữa, nó vẫn là một sự thật. Do đó, làm quen dần là tâm thế của người khôn ngoan, thấu hiểu lý hữu của cuộc sống và chắc chắn tận hưởng trọn vẹn niềm vui thực sự.

Kế đến, chân thành chấp nhận đối diện với cái chết chính là lúc chúng ta thực sự đang học cách sống với cuộc sống, vì sự chết, ý tưởng sự chết và sự tất yếu của nó là một phần của cuộc sống. Tuy nhiên, không phải sự chết mà chính cuộc sống và chỉ duy nhất cuộc sống mới có giá trị thực sự, nên người khôn ngoan thật chính là người biết học cách để yêu mến chính cuộc sống của mình, nghĩa là biết trân quý và mỗi ngày làm cho nó trở thành tốt đẹp hơn. Thế nhưng điều gì tạo cho cuộc sống có giá trị và tốt đẹp, nếu không phải chính là sự sống. Sự sống là nguồn nuôi dưỡng, là động lực để cuộc sống trở nên thiện toàn và mạnh mẽ. Theo nhận định của Michel Henry: con người ngày nay sống mà quên mất chính sự sống. Vì thế, xem ra càng ngày con người có một cuộc sống tiện nghi, thoải mái hơn, nhưng lại không đương nhiên hạnh phúc hơn và sung mãn hơn. Theo Spinoza, để đạt được vế sau: “Người tự do thì chỉ nghĩ đến sự chết và người khôn ngoan thì suy gẫm không phải về sự chết mà là sự sống.”

Suy gẫm sự sống nghĩa là suy tư về hữu thể hơn là hư vô, sự sống hơn là sự chết, một cuộc sống mới hơn là không có một cuộc sống nào cả ở bên kia thế giới. Vì một cuộc sống mới là giải pháp duy nhất cho phép có một câu trả lời tuyệt đối với vấn nạn liên quan đến sự chết. Tuy nhiên, mong ước này là một niềm hy vọng hơn là một luận cứ khoa học. Niềm hy vọng này sẽ lớn lên theo tỉ lệ thuận với xác tín: chúng ta là loài hay chết và người yêu của sự chết, nghĩa là đối diện và chấp nhận sự chết với châm ngôn: “Nếu tôi muốn yêu mến cuộc sống, đừng quên rằng: chết là một phần của nó và đó là điều khẩn thiết giúp chúng ta sống như người nam, người nữ thật sự.”

  1. Chết là cùng chiến đấu

Với các nhà vô thần, duy vật hay duy linh và duy tâm, chết là một cuộc chiến thực sự, vì người khôn ngoan, người hiểu được lẽ sống là người biết chấp nhận cái chết. Chấp nhận sẽ giúp cho họ có được một cuộc sống nhẹ nhàng và bình thản, biết hưởng thụ và trân trọng cuộc sống hiện tại. Chấp nhận cái chết cũng đồng nghĩa với việc sống là chiến đấu để cho sự chết thực sự có ý nghĩa. Chính vì thế,  trong “Khảo luận về phân tâm học”, Freud đã sử dụng câu ngạn ngữ của Ciceron: “Nếu muốn hoà bình, phải bắt đầu chiến tranh” và chuyển thành câu châm ngôn của mình: “Nếu muốn bảo vệ cuộc sống, phải sẵn sàng chấp nhận cái chết.”

Sẵn sàng chấp nhận cái chết cũng có thể hiểu theo nghĩa thứ ba (nghĩa 1: chết là hư vô; nghĩa 2: chết là một đời sống khác) mà theo cách gọi của Đức Bênêđictô XVI: chết như là điểm hẹn giữa hai người bạn: Thiên Chúa và con người. Do đó, chuẩn bị để đến với điểm hẹn là một hành trình để ngày càng trở nên bạn của Thiên Chúa hơn. Chính vì thế, khi đề cập đến mầu nhiệm cánh chung, sách giáo lý đề cập đến thiên đàng, hoả ngục và luyện ngục như là kết quả của cuộc hành trình đó. Kết quả này chỉ đến sau khi chết, đúng hơn sau khi vượt qua “cuộc phán xét” được gọi là phán xét riêng và phán xét chung (x. Mt 25,31-46). Theo sách giáo lý, mỗi người phải trải qua hai cuộc phán xét: riêng và chung. Phán xét riêng được thực hiện ngay khi con người chết; phán xét chung vào ngày tận thế. Theo nghĩa này, chết đồng nghĩa với phán xét. Điều đó cũng cùng một nghĩa: “Hiện hữu cho sự chết” cũng là “hiện hữu để hướng về phán xét”, “hướng về một cuộc thanh luyện”, thanh luyện để trở thành “người bạn” thực sự. Việc hướng về này là cả một cuộc chiến với thế gian, ma quỷ và xác thịt. Một cuộc chiến đầy tràn hy vọng, vì người chiến đấu đang nắm chắc phần chiến thắng. Theo Đức Bênêđictô XVI, phán xét chung không theo nghĩa của toà đời, mà trong cuộc phán xét này chúng ta nhận ra gương mặt vừa công bình, vừa giàu lòng thương xót của Chúa. Ở đây, công lý và tình yêu của Chúa hoà hợp một cách kỳ diệu đến nỗi chúng ta không thể hiểu được theo cách thuần nhân loại, nhưng chỉ nếm cảm được trong trái tim của người Cha: “Tha thứ bảy mươi lần bảy.”[62] Như thế, cuộc phán xét chung không phải là một nỗi sợ hãi, mà giúp chúng ta biết cùng nhau sống để cùng chiến đấu hướng về sự sống trong niềm hy vọng tràn trề.

Cùng sống, cùng chiến đấu, vì theo Đức Bênêđictô XVI diễn tả trong Thông điệp Spe Salvi: Ơn cứu độ như một thực tại “xã hội” mang đến sự sống thật. “Sự sống thật mà chúng ta hằng vươn tới được liên kết với một sự hiệp thông sống động với một “dân tộc,” và với mỗi cá nhân, sự sống ấy chỉ có thể đạt được trong cái “chúng tôi” này. Điều này giả định rằng chúng ta phải thoát ra được tù ngục là “cái tôi” của mình, vì chỉ trong sự cởi mở của chủ thể vũ trụ này, chúng ta mới có thể hướng nhìn đến nguồn mạch của niềm vui, đến chính tình yêu – nghĩa là đến Thiên Chúa.”[63] Vì sao? Theo các giáo phụ: “Tội lỗi là sự huỷ hoại sự hiệp nhất của nhân loại, là sự đổ vỡ và chia rẽ.” “Do đó, “ơn cứu chuộc” xuất hiện như sự phục hồi tình hiệp nhất, trong đó chúng ta lại cùng đến với nhau trong sự hiệp thông được bắt đầu hình thành nơi cộng đoàn các tín hữu.”[64]

Như vậy, chết trong cái nhìn của mầu nhiệm cánh chung gắn liền với sự phán xét. Kết quả của cuộc phán xét này là thiên đàng, hoả ngục hay luyện ngục, và nó tuỳ thuộc vào việc chúng ta cùng nhau chiến đấu, cùng nhau hướng về sự sống viên mãn, với ơn của Chúa và lòng thương xót của Người.

Thánh Gioan Vianney đã từng nói: “Nếu phải chết hai lần, chúng ta có thể chọn lựa cái chết tốt hơn, nhưng vì chỉ chết một lần, nên đời sống vĩnh cửu của chúng ta tuỳ thuộc vào cái chết này.” Như thế, cái chết không phải để chọn lựa mà để đối diện và hướng đến cái chết có ý nghĩa, dẫn chúng ta đến đời sống vĩnh cửu. Cái chết thực sự ý nghĩa là cái chết tốt lành, cái chết thánh, cái chết của đấng thánh. Cái chết như vậy là kết quả của một cuộc đời hướng đến sự trọn lành, và chắc chắn là điều đáng ước mơ cho tất cả chúng ta. Ước mơ đó nhất thiết phải được biến thành hiện thực, nếu không cuộc sống chúng ta mãi mãi vẫn dang dở và vô vọng. Để đạt được ước mơ này, cần phải đến với Thiên Chúa, niềm hy vọng tuyệt vời, vì “ đúng là những ai không biết đến Thiên Chúa, cho dù người ấy có tràn trề mọi loại hy vọng, thì tối hậu cũng chỉ là vô hy vọng, cũng không có một hy vọng cao cả nâng đỡ toàn bộ cuộc đời (x. Ep 2,12). Hy vọng cao cả, thật sự vững vàng của con người ngay cả trong mọi nỗi tuyệt vọng chỉ có thể là Thiên Chúa – một vị Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và tiếp tục yêu thương chúng ta “đến cùng”, đến khi mọi sự “đã hoàn tất” (x. Ga 13,1.19,30). Ai bị rung động bởi tình yêu sẽ bắt đầu cảm nhận được “sự sống” thực sự là gì. Người ấy bắt đầu cảm nhận ý nghĩa của lời hy vọng mà chúng ta đã gặp trong Nghi thức Rửa tội: ở nơi đức tin tôi trông đợi “sự sống đời đời” – sự sống thật trong đó, toàn thể và chắc chắn, trong trạng thái viên mãn nhất, thuần tuý là sự sống.”[65]

SINH KÝ TỬ QUY

Giuse Khang Nguyễn Long Tiên

Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, trong bài hát tựa đề Cát Bụi, có lời như sau:

“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi,
để một mai vươn hình hài lớn dậy.
Ôi cát bụi tuyệt vời,
mặt trời soi một kiếp rong chơi.


Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi,
để một mai tôi về làm cát bụi.
Ôi cát bụi mệt nhoài,
tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi.


Bao nhiêu năm làm kiếp con người
chợt một chiều tóc trắng như vôi.
Lá úa trên cao rụng đầy
cho trăm năm vào chết một ngày”.

Ý tưởng bài hát trên đây, cũng là quan điểm dân gian của người Việt Nam: “Lá rụng về cội, sinh ký tử quy, sống gởi thác về”. Những ý tưởng này rất gần với tư tưởng của Kitô giáo: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro thì một mai sẽ trở về bụi tro” (Kim Long). Con người sinh ra trên cõi đời này như một cuộc hành trình tiến về Thiên Quốc. Trong bài viết này, xin đưa ra một vài trích đoạn từ Kinh Thánh, sau đó là quan điểm thần học của Giáo hội, cuối cùng là ý tưởng của cha Tổ Phụ Henri Denis Biển Đức Thuận. Nhân dịp kỷ niệm 90 năm qua đời của cha Tổ Phụ, Ban biên tập “Hạt Giống Chiêm Niệm”, muốn nhìn lại hành trình của ngài, một hành trình không ngơi nghỉ “hướng về trời cao”, nên cần thiết gợi lên những ý tưởng mà cha Tổ Phụ đã nỗ lực sống vì lý tưởng Nước Trời.

I. Kinh Thánh về cội nguồn và đích điểm con người

Từ cổ chí kim, một vấn đề lớn luôn được đặt ra: Con người từ đâu mà đến? Sống trên đời này để làm gì? Khi chết sẽ đi về đâu? Đây cũng là vấn đề mà đề tài “Sinh ký tử quy” triển khai. Vậy, Kinh Thánh nói gì về vấn đề này? Bài viết này sẽ lược qua những đoạn Kinh Thánh về sự hiện diện con người ở trần gian thế nào và đích điểm mai hậu con người sẽ hướng tới.

  1. “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”

Câu chuyện sáng tạo thứ hai trong sách Sáng Thế khẳng định, con người được Thiên Chúa tạo dựng từ bụi đất: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. Rồi Đức Chúa là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Êđen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra” (St 2,7-8). Khi ông bà Nguyên Tổ phạm tội, Chúa nói: “Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19).

Trong nghi thức phụng vụ ngày thứ Tư lễ Tro, Giáo hội có lễ nghi xức tro để nhắc nhớ con người về nguồn gốc của mình: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, và sẽ trở về bụi tro”. Như vậy, đoạn Kinh Thánh nói trên trả lời vấn đề nguồn gốc con người, Thiên Chúa làm ra con người từ bụi đất theo thánh ý Người, và con người cũng trở về với bụi đất như nguồn cội của mình.

  1. “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về lòng đất cũng trần truồng”

Sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao, ông Gióp nhận ra sự vô thường của cuộc đời này. Của cải vật chất đời này rồi cũng qua đi, ngay cả con cái cũng như chính bản thân ông Gióp cũng ra đi với bàn tay trắng. Ông Gióp hiểu được sự mong manh của kiếp người: “Con người do phụ nữ sinh ra, tuổi đời ngắn ngủi, mà âu lo chồng chất. Tựa đóa hoa mới nở đã tàn, con người qua mau, khác nào bóng câu qua cửa sổ” (G 14,1-2). Thánh vịnh cũng nói lên sự mong manh của kiếp người, đời sống con người giống như loài hoa sớm nở chiều tàn: “Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình” (Tv 102,15-16).

Nhưng qua cuộc sống ngắn ngủi và lao nhọc đời này, con người sẽ đi về đâu? Vào thời kỳ đầu Cựu Ước, người ta chỉ biết cuộc sống đời này. Cho đến khi sách Macabê ra đời, người ta mới thoáng thấy ý tưởng về sự sống đời sau. Tác giả sách Macabê cho thấy: tất cả đều sẵn sàng chết chứ nhất quyết không vi phạm luật Chúa vì tin rằng Chúa sẽ cho họ sống lại để vui hưởng sự sống đời đời (x. 2Mcb 7,1- 41). Quả thật, niềm tin của con người không dừng lại bởi sự chết nhưng qua cái chết, con người vào cõi vĩnh hằng: “Ông Giuđa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng hy lễ tạ tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức. Đó là lý do khiến ông xin dâng hy lễ đền tội cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2Mcb 12,43-45). Đó cũng là thói quen tốt lành của người Công giáo, thường xin lễ cầu cho những người đã quá cố, để họ được hưởng vinh phúc trên Trời.

  1. “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”

Người ta nghĩ rằng, chết là hết nhưng lý trí con người không hoàn toàn chấp nhận điều đó. Phật giáo tin rằng sau khi chết con người lên Niết Bàn. Các tín ngưỡng dân gian tin rằng con người sẽ vào nơi cực lạc, hay về với ông và tổ tiên… Người Công giáo tin rằng những người được cứu rỗi sẽ vào Thiên Đàng. Niềm tin này, người Công giáo xác tín vào lời Chúa Giêsu: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi(Ga 10,28).

Nơi khác, Chúa Giêsu đã trả lời cho nhóm Xa đốc, khi họ hỏi về sự sống đời sau: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống(Lc 20,27-38). Qua bản văn này, Chúa Giêsu khẳng định, con người sau khi chết sẽ giống như các thiên thần, sống sự sống của Thiên Chúa, quy hướng về Thiên Chúa, chứ không còn lệ thuộc vào những cơ cấu và quy định của thế giới này.

  1. “Quê hương chúng ta ở trên trời”

Những kiểu nói “Sinh ký tử quy”, “sống gửi thác về” như một quy luật mà con người trải qua, nhưng không thấy nói rõ là về đâu, về nơi nào? Trái lại, đích điểm của con người là nơi mà thánh Phaolô gọi là: “Quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20). Quả thực, sống đời này là tạm trú, chết đi mới thật là về nhà mình ở trên trời.

Như vậy, người Kitô hữu có “quốc tịch” ở trên trời. Qua bí tích Rửa tội, chúng ta thuộc về Đức Kitô Giêsu. Theo thánh Phaolô thì ai thuộc về Đức Giêsu Kitô người đó không thuộc về thế giới này nữa cho dù họ đang sống ở trần gian. Chúng ta không chỉ là thành viên của một dân tộc hay quốc gia, mà còn thuộc về Thiên Chúa.[66]

Nhưng sự sống trên thiên đàng như thế nào? Thánh Phaolô trả lời đó là cuộc sống viên mãn: Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1Cr 2,9). Hay thánh Gioan Tông đồ khẳng định: “Sẽ không còn đêm tối nữa, họ sẽ không cần đèn đuốc hay ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thưở muôn đời” (Kh 22,5). Quả thật, cuộc sống trần gian này là cuộc hành trình, thiên đàng mới là nơi ở vĩnh viễn đời sau.

II. Tư tưởng thần học về đời sau

“Sinh ký tử quy”, một câu nói ngắn gọn và đơn giản nhưng chứa đựng triết lý sâu xa, sau khi chết sẽ còn sự sống khác tiếp tục. Sống trên đời là môi trường rèn luyện, tu thân và dấn thân phục vụ, và khi chết con người hưởng hạnh phúc vô biên trên thiên đàng. Giáo huấn của Giáo hội nói gì về hành trình con người ở đời này và sự sống lại ở đời sau?

  1. “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”

Khi nói đến kinh Tin Kính, Giáo hội ngày nay sử dụng hai bản kinh, một của các Tông đồ và một của Công đồng Nixê (năm 325). Kinh Tin Kính của các Tông đồ, có nguồn gốc từ Giáo hội sơ khai tại Rôma. Kinh nguyện ngắn gọn và tóm tắt những điều phải tin. Nhiều tác giả cho kinh này do các Tông đồ biên soạn trước khi chia tay nhau tại Giêrusalem ra đi rao giảng Tin mừng. Kinh Tin Kính thời các Tông đồ dùng từ: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”; trong khi kinh Tin Kính Công đồng Nixê dùng: Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Tuy nhiên cả hai đều bổ sung cho nhau: trước hết là xác định “tôi tin”, kế đến “có sự sống lại” và sau cùng “có đời sau”.

Sở dĩ các Tông đồ và các Nghị phụ Công đồng Nixê khẳng định có sự sống lại và có đời sau, là dựa vào Lời mặc khải trong Kinh Thánh, cụ thể là thư thánh Phaolô gởi tín hữu Thêxalônica: “Khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên” (1Tx 4,16). Nơi khác, cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và cô Mátta cũng cho thấy rõ điều này: “Đức Giêsu nói: ‘Em chị sẽ sống lại!’ Cô Mátta thưa: ‘Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết’” (Ga 11,23-24).

Đối với người Công giáo, sau khi chết chúng ta ra trình diện trước Tòa Chúa, và Thiên Chúa ban thưởng tùy công trạng và nhất là tùy lòng thương xót bao la của Người. Khi sống lại, tất cả sẽ được “hợp đoàn cùng muôn thần thánh, phúc miên trường vui hưởng ánh vinh quang” (Te Deum). Đó hẳn sẽ là một tình trạng hạnh phúc viên mãn mà không một lời lẽ nào có thể diễn tả được.

  1. “Giáo hội hiển vinh”

Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Lumen Gentium nói về Giáo hội lữ hành, thanh luyện và hiển vinh: “… Có những người đang tiếp tục cuộc lữ hành trên trần thế, có những người đã hoàn tất cuộc sống đời này và đang được thanh luyện, lại có những người đã được hiển vinh, đang chiêm ngưỡng cách tỏ tường chính Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi như Người hằng có.”[67] Ba Giáo hội này có một sự liên đới mật thiết với nhau. Giáo hội lữ hành không ngớt dâng lời cầu nguyện cho Giáo hội thanh luyện; Giáo hội hiển vinh cầu bầu trước tòa Chúa cho Giáo hội lữ hành và Giáo hội thanh luyện.

Công đồng Vaticanô II quả quyết về Giáo hội vinh hiển: “Tất cả chúng ta được mời gọi gia nhập Giáo hội trong Chúa Kitô, và nhờ ân sủng Thiên Chúa, chúng ta nên thánh trong Giáo hội. Và Giáo hội chỉ kết thúc trong vinh quang trên trời, khi thời cải tạo mọi sự đến (Cv 3,21) và khi toàn thể vũ trụ cùng với loài người được thiết lập toàn vẹn trong Chúa Kitô, vì vũ trụ liên kết mật thiết với con người và nhờ con người đạt được cùng đích của mình (x. Ep 1,10; Cl 1,20; 2Pr 3,10-13).”[68]

Về bổn phận của Giáo hội lữ hành, thánh Augustinô (thế kỷ IV) đã nói: Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ. Các dòng tu đặc biệt quan tâm đến việc này. Thánh Odilon, Viện phụ Dòng Cluny, vào giữa thế kỷ XI (1048) đã có sáng kiến cho dòng của ngài cầu nguyện cho những người đã qua đời vào ngày 2 tháng 11, ngay sau lễ Các Thánh.

Làm thế nào để có thể lãnh nhận hồng phúc thiên đàng? Linh mục Henri Nouwen đặt câu hỏi: “Tôi phải sống làm sao để cái chết của tôi mang lại hoa trái cho người khác?” Tác giả rút ra kết luận: “Cuộc sống ngắn ngủi này là cơ hội cho tôi đón nhận tình yêu và mở rộng tình yêu, lớn lên trong tình yêu và trao ban cho tình yêu.”[69] Quả thật, chúng ta đã đón nhận tình yêu từ Chúa, thì phải trao ban cho nhau. Chính trong sự trao ban, chúng ta nhận được “gấp trăm ở đời này và hưởng hạnh phúc ở đời sau”.

  1. “Thiên đàng là được ở với Đức Kitô”

Theo đức tin Kitô giáo, chúng ta biết rằng chết không phải là hết, nó chỉ là khởi đầu của một hành trình đi vào cõi thiên thu. Sau cái chết, chúng ta sẽ đi gặp gỡ Đấng Tạo Hóa. Nếu chúng ta đã sống trong ân nghĩa của Người, thì chuyến đi cũng giống như trở về nhà của mình. “Sinh ký tử quy”, chúng ta trở về nhà để sống với Thiên Chúa, Đấng dựng nên chúng ta. Người Công giáo gọi đây là nước Thiên đàng, nơi không còn nước mắt, chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn.

Sách GL số 1025 viết: “Lên Thiên đàng là ‘được ở với Đức Kitô’. Những người được tuyển chọn ‘sống trong Người’, nhưng vẫn giữ, hay nói đúng hơn là tìm được căn tính đích thực của mình, danh xưng riêng của mình.” Nơi khác, sách GL thêm: “Thiên đàng là cuộc sống viên mãn vì được hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Đức Trinh Nữ Maria, với các thiên thần và các thánh. Thiên đàng là mục đích tối hậu và là sự hiện thực các nguyện vọng sâu xa nhất của con người, là tình trạng hạnh phúc tuyệt hảo và chung cuộc (số 1024).

Những ai được hưởng hạnh phúc Thiên đàng? Sách GL viết: “Những kẻ chết trong ơn nghĩa Chúa và kẻ được thanh luyện trọn vẹn, sẽ sống mãi với Đức Kitô. Muôn đời họ sẽ nên giống Thiên Chúa, vì Người thế nào họ sẽ được ‘nhìn thấy Người như vậy’ diện đối diện (x. 1Ga 3,2).”[70]

Điều mà hai số Giáo lý trên đây đề cập đến “những người được tuyển chọn sống trong Người”, và “những kẻ sống trong ơn nghĩa Chúa và kẻ được thanh luyện trọn vẹn”, nói đến hai Giáo hội lữ hành và Giáo hội thanh luyện. Là những người đang sống trên trần gian này, chúng ta phải sống thế nào để xứng đáng đạt tới Thiên đàng? Công đồng Triđentinô (1545-1563) nhấn mạnh rằng, lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết. Công đồng Vaticanô II cũng dạy: “Giáo hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…” (LG 50). Về sự bầu cử của các thánh, Công đồng Vaticanô II dạy: “Khi được về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa… các thánh lại không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên tòa Chúa Cha…” (LG 49). Như vậy, sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu phải đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.

III. Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận và ước vọng “hướng về trời cao”

Là một thừa sai hăng hái rao giảng Tin mừng, là một đấng sáng lập với bao chương trình, dự định tương lai nhưng Thiên đàng vẫn là đích điểm mà lòng cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận hướng tới. Ngài đã nói gì về Thiên đàng và sống thế nào để đạt được mục đích ấy?

  1. So sánh đời này và Thiên đàng

Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận là người lạc quan, nhất là luôn vui trong mọi hoàn cảnh. Ngài thường nhắc: “Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn.” Thế nhưng, khi thấy hoàn cảnh của những người vất vả, khó nghèo, ngài đã chạnh lòng như thư ngài viết cho bà kế mẫu: “Con còn dọn hai ba quyển nữa bằng tiếng Việt Nam hoặc chữ Hán và dịch sử ký nhà Nguyễn, song dài lắm, con mới dịch xong một phần về thế kỷ XVII thôi. Làm các việc ấy chẳng vui đâu, cực chẳng đã con mới phải làm để kiếm tiền giúp kẻ bần hàn kẻo nó chết đói. Ôi cuộc đời con nó buồn dường nào! Bao giờ con được về Thiên Đàng cho vui chút!”[71] Vậy đối với cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, đời này lao đao vất vả bao nhiều thì thiên đàng hạnh phúc bấy nhiêu. Thiên đàng là ước mong của những người lữ hành vất vả ở trần gian này.

Nhưng đối với ngài, để đạt được hạnh phúc Thiên đàng cũng phải trả giá, nếu không lập công ở đời này thì luyện ngục cũng sẽ thanh tẩy, như thư ngài viết cho bà kế mẫu: “Thăm mẹ rất yêu dấu, con luôn chậm trễ viết thư cho mẹ. Song con đã trên 42 tuổi, tóc đã bạc hết rồi, không sửa mình được nữa, có sửa mình thì cũng không được bao lâu. Vậy những lỗi con không có gan mà sửa, thì luyện ngục sẽ tẩy luyện cho con.”[72] Cuộc sống ở trần gian là cơ hội lập công cho đời sau. Nhưng con người yếu đuối và tội lỗi, nếu chẳng may chưa sám hối đủ, thì nói như cha Tổ Phụ, luyện ngục sẽ thanh tẩy cho. Nói cho cùng, người Công giáo luôn tin tưởng vào tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa.

  1. Sự khao khát Thiên Đàng

Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận có nhiều bài giáo huấn cho con cái, được để lại qua cuốn Di Ngôn (DN) và Hạnh Tích cha Benoit. Trong đó, chúng ta nhận ra ngài là bậc thầy lỗi lạc về đàng thiêng liêng. Những huấn từ của ngài rất cụ thể và dễ hiểu. Khi nói về lòng khao khát Thiên đàng, ngài đặt câu hỏi cho các môn sinh: “Chúng ta hãy xét mình xem, lòng chúng ta có mong mỏi khát khao Thiên đàng chăng? Khi chúng ta suy một ít nữa được về Thiên đàng, một ít nữa chúng ta được nhìn thấy Chúa và Đức Mẹ yêu dấu chúng ta. Khi chúng ta suy như vậy, trong lòng có lấy làm vui, có mong mỏi mau về cùng Chúa không? Nếu thấy trong mình vui sướng, và mong mỏi về với Chúa, ấy là dấu tốt, là dấu linh hồn khỏe mạnh. Nếu suy về Thiên đàng, mà trong lòng cũng thế đó, không lấy làm chi, ấy là dấu chỉ linh hồn không khỏe mạnh, vì không lấy Thiên đàng làm chi, không lấy phước của Chúa làm chi, vì thiếu đức cậy. Thiếu đức cậy, thì cũng thiếu đức tin và đức mến nữa. Nghĩa là, hãy còn yêu thế gian. Cha thánh Biển Đức hằng suy xét về sự đời sau luôn. Và các thánh cũng đều thế cả.”[73]

Lời giáo huấn trên đây thuyết phục được con cái. Không ai đạt được mục tiêu nếu không khởi đầu từ ước muốn. Ngài đặt vấn đề: “Lòng chúng ta có mong mỏi khát khao Thiên đàng chăng?” Đối tượng của lòng khát mong là “Chúa và Mẹ Maria yêu dấu”, một dẫn chứng đầy sức thuyết phục. Lời giáo huấn của ngài còn là một kinh nghiệm hết sức quý báu: “Nếu thấy trong mình vui sướng, và mong mỏi về với Chúa, ấy là dấu tốt, là dấu linh hồn khỏe mạnh. Nếu suy về Thiên đàng, mà trong lòng cũng thế đó, không lấy làm chi, ấy là dấu chỉ linh hồn không khỏe mạnh…”. Quả thật đó là một huấn giáo vàng ngọc và thuyết phục mọi người.

  1. Một người khôn ngoan thật, chỉ lo về đời sau

Đọc những lời giáo huấn của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, người ta không thấy ngài “treo giải” về vật chất cũng như vinh dự cho anh em. Nếu như Phêrô hỏi Chúa Giêsu: Chúng con đã bỏ mọi sự theo Thầy, chúng con sẽ được gì? Chúa Giêsu trả lời, được gấp trăm đời này và hưởng hạnh phúc đời sau (x. Mc 10,28-31). Ta không thấy cha Tổ Phụ nói “phần thưởng” đời này, có lẽ điều đó Chúa Giêsu đã hứa rồi, mà chỉ xác quyết hạnh phúc đời sau, và cho đó là khôn ngoan: “Một người khôn ngoan thật, chỉ lo về đời sau mà thôi, là biết mình sống ở đời là lo sửa soạn về nhà Thiên Đàng đời sau. Tin thật chắc không hồ nghi chi hết, lại ra sức nên thánh mà thôi.”[74]

Nếu một người chỉ nghĩ và mong đời sau thì không sợ chết, như trong thư ngài nói về “cỗ hậu sự”: “Nhưng bên Tây ta thì khác hẳn mẹ nhỉ! Họ không hay nói đến chuyện chết mà lại ra sức tránh những sự làm cho họ nhớ đến sự chết nữa. Như vậy có tốt hơn không? Con tưởng không. Không cần chi phải làm cách tỏ ra mình muốn cho sự chết đến, hay là không muốn thì nó cũng đến, miễn là có lòng mến Chúa, và hết lòng làm tôi Người, thì khi giáp mặt sự chết, sẽ nói được cùng nó rằng: “Tao khinh dể mày!”. Hoặc nói cách khác hơn nữa, như các thánh rằng: “Hỡi sự chết hãy đến mau, cho ta được về Thiên đàng mến Chúa, biết Chúa và làm tôi Người đời đời”. Hơn nữa đến lượt con, con sẽ kêu rằng: “Vạn tuế cho sự chết! Thế có lẽ mẹ nói nay con đã ra người Việt Nam quá rồi chăng? – Dạ! Vậy thì con xin nói lại: “Vạn tuế cho sự sống! […] Sự sống càng trường thọ thì mẹ con ta càng lập nhiều công: Ta hãy kiếm thêm vốn cho nhiều, để đời sau hưởng lời lãi…”[75]

Dịp kỷ niệm 90 năm ngày cha Biển Đức Thuận qua đời, qua sự gợi ý của Ban biên tập Nội san “Hạt Giống Chiêm Niệm”, chúng ta có cơ hội để học hỏi giáo huấn của ngài. Niềm tin vững vàng và khát vọng chính đáng, cho thấy ngài luôn “hướng về trời cao”. Dù gắn bó và tha thiết với công việc đời này nhưng đó chỉ là cơ hội “lập công” cho đời sau. Quê trời mới thực là nhà chúng ta ở muôn đời muôn kiếp.

Lời Kết

Bài viết đã lướt qua những trang Kinh Thánh, những tư tưởng thần học và ý tưởng của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận về “sinh ký tử quy”, hay nói cách khác hướng về đích điểm là Thiên đàng. Điều này thúc đẩy chúng ta sống tốt lành thánh thiện và hiệp thông với anh chị em để cùng đạt được hạnh phúc Thiên đàng.

Nhưng sống mầu nhiệm hiệp thông trong Hội thánh là gì? Chúng ta được mời gọi để cầu nguyện cho anh chị em đã qua đời, để họ thoát khỏi mọi tội lỗi, đạt đến Thiên đàng. Việc cầu nguyện cho các linh hồn là bổn phận và trách nhiệm của mỗi Kitô hữu, đó cũng là việc đền ơn đáp nghĩa với những người thân yêu của chúng ta.

Cuối cùng, xin mượn lời của thánh Augustinô. Ngài là người thông thái và hiểu biết, ngài đã biết quá nhiều về hưởng thụ đời này, ngài cũng biết quá nhiều về tư tưởng triết học và văn chương… nhưng dường như vẫn còn thiếu. Chỉ có một điều làm ngài thỏa mãn ước mong đó là biết Chúa, như lời của thánh nhân: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa muôn đời. Amen” (thánh Augustinô).

TE DEUM: LỜI KINH TRƯỚC HUYỆT MỘ

Grégoire Phan

Thánh thi Te Deum (Lạy Thiên Chúa) là lời kinh cổ xưa của Giáo hội, là lời kinh tạ ơn trọng thể vang lên trong phụng vụ và các dịp đặc biệt.

Ý nghĩa của lời kinh Te Deum trước huyệt mộ làm chúng ta suy nghĩ. Tại sao chúng ta lại cử hành lời kinh Te Deum trước huyệt mộ? Đâu là ý nghĩa mà chúng ta cử hành lời kinh này trong hành trình cuộc sống người đan sĩ?

Lời Kinh Te Deum trước huyệt mộ hướng tâm hồn chúng ta về Thiên Chúa, hướng người đan sĩ tới niềm hy vọng lớn lao là được thành toàn trong ơn gọi đan tu chiêm niệm, nơi mà người đan sĩ được tôi luyện.

“Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi hát mừng,
Tuyên xưng ngài là Đức Chúa,
Chúa là Cha Đấng trường tồn vạn đại,
Hoàn vũ này kính cẩn suy tôn.” (…)

I. Nguồn gốc thánh thi Te Deum

Có nhiều giả thiết về tác giả của thánh thi Te Deum, theo đại từ điển Encyclopedia: Te Deum là một bài thánh thi cổ. Theo truyền thống bài thánh thi này được cho là của thánh Ambrosio, nhưng gần như chắc chắn là không phải do ngài sáng tác. Thực tế là các học giả đã không nhất quán về nguồn gốc của thánh thi này.  Một số học giả cho rằng, thánh thi Te Deum được trước tác bởi thánh Nicetas miền Remesina. Một số học giả khác lại cho rằng bài thánh thi này là phần chính yếu của phụng vụ canh thức Lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, ứng viên sáng giá hơn cả là thánh Nicetas (khoảng 335-414), Giám mục giáo phận Remesiana, tức là giáo phận Bela Palanka ở Serbia ngày nay. Tài năng thơ ca của vị giám mục truyền giáo nhiệt thành này đã được công nhận bởi các người đương thời, như thánh Giêrônimô và thánh Paulinus thành Nola, cũng như Gennadius khoảng 75 năm sau đó. Tác giả Nicetas được chứng thực bởi khoảng 10 bản thảo, bản sớm nhất vào thế kỷ thứ 10 và hầu hết có nguồn gốc Ireland. Dường như sự cô lập của Ireland có thể duy trì danh tính các tác giá cổ xưa, trong khi ở lục địa châu Âu, bài thánh thi này lại được gán cho các người nổi tiếng hơn, chẳng hạn thánh Hilaryô và thánh Ambrôsiô.[76]

Dầu vậy, trong tu luật của thánh Biển Đức (khoảng năm 540),  kinh Te Deum đã được xác định phải được hát khi kết thúc giờ kinh đêm vào các ngày Chúa Nhật. Theo tu luật và truyền thống: “Sau đáp ca bốn, viện phụ sẽ cất kinh Te Deum. Hát xong, viện phụ đọc Phúc Âm; mọi người cung kính đứng nghe. Sau Phúc Âm, anh em thưa Amen, rồi viện phụ cất tán tụng ca Te Decet, và khi đã ban phép lành xong, liền bắt đầu giờ Kinh Sáng (TL ch. 11,8-10).”[77]

Bài thánh ca Te Deum là giai điệu thánh ca truyền thống là một sáng tạo tổng hợp, hiếm có trong nhạc bình ca của thánh Gregorio. Bài thánh thi này được sử dụng trong những dịp đặc biệt để bày tỏ niềm vui cảm tạ Thiên Chúa.[78] Khi tìm hiểu về quy luật phụng vụ cổ, chúng ta thấy dấu vết gắn liền với nhau của kinh Te Deum với kinh Gloria (kinh Vinh Danh Thiên Chúa). Nghĩa là khi nào trong thánh Lễ có hát kinh Gloria thì trong thần vụ cũng có hát kinh Te Deum.[79] Trong thực  tế, ngày nay, việc sử dụng kinh Te Deum trong phụng vụ giờ kinh được áp dụng như kinh Vinh Danh trong Thánh lễ. Nghĩa là được sử dụng trong các Chúa Nhật ngoài mùa Chay, những ngày lễ trọng, lễ kính, sau hai bài đọc và câu xướng đáp, đọc thánh thi Te Deum, trừ Giờ kinh Sách được tiếp nối với buổi Canh thức” (QCGK 68; 73; 212; 228;235).[80]

Theo cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô, giáo sư phụng vụ tại đại học Regina Apostolorum (Nữ vương các thánh Tông đồ), Rôma. Ngài cho rằng, thánh thi Te Deum, một bài thánh thi Latinh cổ xưa bằng văn xuôi có nhịp điệu, có lẽ là một sự kết hợp từ ba nguồn. Thực vậy, có các nhịp điệu ba khổ, và ba giai điệu khác biệt trong một bài. Phần thứ hai, hoàn toàn hướng về Chúa Kitô, là rõ ràng muộn hơn, và phản ánh các cuộc tranh luận xung quanh lạc giáo Arius trong thế kỷ IV. Nó cũng là phần hoàn hảo hơn trong việc tôn trọng các quy tắc hùng biện văn chương Latinh.  Phần thứ ba được hình thành từ một loạt các câu Thánh vịnh. Có thể rằng các câu này được đưa thêm vào như là một kinh cầu vào cuối bài thánh thi. Một điều gì tương tự xảy ra ngày hôm nay khi người ta thêm câu “Ngài đã cho họ bánh bởi trời …” sau thánh ca Tantum Ergo. Kinh cầu cũng đã trở thành một phần của bài thánh thi. Thật vậy, trong nghi lễ Ambrosiana ở Milan, thánh thi Te Deum kết thúc với câu “Aeterna fac cum sanctis tuis gloria [Munerari]” (Xin được hợp đoàn cùng muôn thần thánh, phúc miên trường vui hưởng ánh vinh quang). Chữ đỏ hiện nay cũng cho phép xoá bỏ phần này trong nghi lễ Roma.[81]

Lời kinh Te Deum được vang lên để tỏ lòng biết ơn trước ân huệ Thiên Chúa ban, đặc biệt dịp rửa tội, bầu chọn giáo hoàng, tấn phong giám mục, tuyên phong các thánh. Lời kinh này còn được vang lên trong sự kiện công bố hiệp ước hòa bình, lễ đăng quang, một chiến thắng về quân sự. Chẳng hạn, khi lực lượng Đồng minh giải phóng Paris năm 1945, Tướng Charles de Gaule đã đến Nhà thờ Đức Bà để tham dự  bài cảm tạ Te Deum.[82]

Trong giờ kinh Chiều ngày 31.12.2011, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã nói: “Giáo hội gợi ý rằng chúng ta không nên kết thúc năm cũ mà không bày tỏ lời cám tạ Chúa, vì những ơn lành của Người cho chúng ta”. Và buổi đọc Kinh Chiều này, Đức Giáo hoàng đã cất lên lời thánh thi Te Deum (Lạy Thiên Chúa).

II. Thánh thi Te Deum – ca ngợi Đấng là nguồn mạch sự sống

  1. Lời tiễn đưa hướng về nguồn sống

Lễ an táng của người Kitô hữu tạo cho chúng ta một hình ảnh cũng như một niềm hy vọng lớn lao là hướng về nguồn sống vô biên. Khung cảnh của lễ an táng, cảm xúc ảm đạm buồn phiền được thay bằng một niềm hy vọng phục sinh. Niềm hy vọng này hướng người Kitô hữu tới niềm vui được diễn tả bằng tiệc cưới Con Chiên.

Trong bài giảng của Đức giáo hoàng Phanxicô trong ngày Lễ an táng của Đức Nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI,  mọi thứ khác đều tập trung vào Chúa Giêsu. Danh xưng Bênêđictô XVI chỉ được nhắc đến trong câu cuối cùng: “Thưa Đức Bênêđictô, người bạn trung thành của Chàng Rể, ước gì niềm vui của ngài được trọn vẹn khi nghe tiếng của Chàng Rể, bây giờ và mãi mãi!”[83]

Những lời trên đây của Đức giáo hoàng Phanxicô làm cho chúng ta suy nghĩ. Gẫm suy về cuộc đời của Vị nguyên Giáo Hoàng đẹp đẽ, đầy công đức và khiêm nhường. Một sự khiêm nhường thực thụ khi ngài rút lui khỏi vai trò chủ chăn Giáo hội, đã sống âm thầm cầu nguyện trong đan viện. Trong suốt bài giảng lễ, Đức Phanxicô không gợi lên hình ảnh của một nhà thần học hay nhà  trí thức, nhưng hình ảnh về một vị mục tử với đoàn chiên. Bài giảng không phải là bài điếu văn ca khen hay một sự luyến tiếc nhưng là diễn giải lời Chúa, trọng tâm là Lời Chúa, không tán thưởng một con người, nhưng tán dương Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời người tôi tớ Chúa.

Trong nếp sống đan tu, “Suốt đời phụng sự Chúa trong đan viện, đan sĩ hoàn tất ơn tận hiến trong cái chết và liên kết với Chúa Kitô, Đấng đã chết và sống lại, để cùng với Người đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu” (HP. số 162). Hát Te Deum là một tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì một người anh chị em hoàn tất cuộc đời thánh hiến. Tập trung vào Chúa Kitô, Đấng đã làm những điều kỳ diệu trong cuộc sống người đan sĩ.

Khung cảnh hát lời tạ ơn Te Deum có phần làm chúng ta băn khoăn.[84] Te Deum không được hát trong Tuần Thánh hoặc trong phụng vụ Lễ cầu cho tín hữu đã qua đời. Tại sao khi vang lên bài ca này, chúng ta vẫn còn sống trong cảnh u buồn của tang tóc? Trong khi chúng ta đang kêu gọi, lời tạ ơn chứa chan niềm vui. Việc chúng ta hát Te Deum trong lễ an táng của một anh em là ý của Đấng sáng lập Dòng. Vậy khung cảnh chúng ta hát có phù hợp với lời ca hay không? Có chăng, chúng ta đã đến lúc thay đổi bối cảnh của nghi thức phụng vụ trong Dòng Xitô chúng ta?

Dẫu biết rằng, áo lễ phụng vụ màu tím mang lại cho chúng ta chiều kích hy vọng chứa chan, nhưng sắc tím vẫn diễn tả cảnh u buồn tang tóc. Hơn thế nữa, khăn tang trong bầu khí chịu tang của người Á châu lại là màu trắng. Phải chăng khi có màu trắng, màu của người chiến binh dừng lại cuộc chiến, sẽ không chiến đấu nữa, hết thời phải chiến đấu, kẻ thù chẳng được phép tấn công. Bước sang một giai đoạn mới? Vậy, liệu phụng vụ dòng chúng ta, để tiếp nối tinh thần của Đấng sáng lập, làm cho tinh thần này được rõ nét hơn, thánh lễ an táng là dịp chúng ta bày tỏ niềm vui. Phẩm phục linh mục trong thánh lễ an táng có chăng nên được đổi thành màu trắng?

Có lẽ đây là một gợi ý để chúng ta suy nghĩ về nếp sống của mình, vừa thay đổi hình thức bề ngoài của bối cảnh, vừa nhắc nhớ nhau về ơn gọi sống chiêm niệm. Với hy vọng ngày ấy, đan sĩ được hợp đoàn với các thánh: “Mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế” (Kh 7,9), ra đón Chúa Kitô. Như vậy, lời kinh Te Deum hướng đan sĩ đến niềm vui, niềm vui vĩnh cửu được ở bên Chúa.

  1. Ca ngợi Đấng đã chiến thắng sự chết

Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa” (Ep 6,16-17).

Trước những thách đố của cuộc sống nhân sinh, chúng ta phải đối diện với thử thách do hoàn cảnh sống, do cám dỗ của ma quỷ, tội lỗi và thế gian. Đó là cuộc chiến chống lại Ba Thù. Ba thù được định nghĩa là ba kẻ đối nghịch, ba thế lực đối nghịch với Thiên Chúa và làm hại linh hồn con người gồm ma quỷ, thế gian và xác thịt.

Cuộc chiến này, Chúa Giêsu đã chiến thắng trong sa mạc. Cám dỗ có được một cuộc sống sung túc, vật chất dư tràn. Cám dỗ về khả năng, địa vị, của cải, sắc đẹp và về sức khỏe. Tiếp đến là cám dỗ xa rời việc thờ phượng Thiên Chúa. Chúa đã chiến thắng tên tấn công. Sau khi tìm đủ cách, Satan bỏ đi (x. Mt 4,1-11).

Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn (Tv 61,2). Lời thánh vịnh này trong bối cảnh của một cuộc chiến, làm cho chúng ta như tìm được một phao cứu sinh. Giáo hội nhắc chúng ta nhớ đến ba kẻ thù luôn rình rập và tấn công chúng ta cách mãnh liệt.  Đời sống đan tu không làm chúng ta miễn nhiễm với khả năng của tội, nhưng là phương thế giúp chúng ta thoát khỏi sự kiềm tỏa của tội. Có thể, đã có lúc đan sĩ đầu hàng trong cuộc chiến, đã quỵ ngã, nhưng với khí giới của Chúa Kitô và sức mạnh của lời cầu nguyện trong cộng đoàn, đã làm cho đan sĩ trỗi dậy. Cuộc chiến ấy, cần phải tỉnh thức và nắm giữ thời khắc để chiến đấu: “Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp” (Lc 13,24), vì “cửa hẹp dẫn đến sự sống đời đời” (Mt 7,14).

Vậy chúng ta không nên mệt mỏi khi cất lên lời kinh Te Deum này, vì ý nghĩa sâu xa và vì tính duy nhất của lời Kinh như một bài ca chiến thắng. Vì chỉ có Chúa là chủ tể muôn loài, Đấng đã giúp chúng ta vượt qua, Đấng đã giúp chúng ta chiến thắng với ác thần.

  1. Bài ca chiến thắng của Đấng là nguồn sống!

Thời khắc của thực tại tạm thời đã qua, một thực tại mới trong vĩnh cửu mở ra cho người đan sĩ bước vào. Thời khắc ấy đẹp đủ để chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân của thực tại tạm thời đóng lại. Thời khắc trình bày với Đấng là niềm vui vĩnh cửu về thân phận phàm nhân, về nỗi khắc khoải của niềm hy vọng của người đan sĩ đã hoàn thành trong niềm vui tạ ơn.

Thánh Phaolô gọi thời khắc lịch sử khi ngỏ lời với các tín hữu Galat về “thời viên mãn” (Gal 4,4), nghĩa là thời điểm tột đỉnh trong lịch sử vũ trụ và nhân loại. Thời khắc của Đấng đã sinh ra trong trần gian, thời khắc của thanh luyện, thời khắc của thành toàn. Thiên Chúa không lấp đầy thời gian bằng cách phá bỏ tự nhiên. Từ những bản chất của tự nhiên, nghĩa là “từ bên trong”.  Như một hạt giống nhỏ bé được phát triển, bản chất nội tại dần dần được lộ diện khi thời khắc được gieo và chờ đợi để tiến tới mức trưởng thành. Khi Con Thiên Chúa sinh ra trong lòng thế giới, thời gian của những lời hứa đã được thực hiện.

Trong bối cảnh nào đó, câu hỏi được gợi lên trong thâm tâm chúng ta: Có chăng, nếu đan sĩ đã không chiến thắng, đã quỵ ngã, đã buông xuôi, đã đầu hàng trước ba thù, liệu lời kinh tạ ơn có dám vang lên hay cần phải im lặng? Lời kinh chúng ta có thể hát lên mang âm hưởng nào? Tạ ơn, nuối tiếc hay gượng gạo? Thật ra, lời kinh tạ ơn làm cho người đan sĩ ý thức hơn về môi trường sống đời tu.

Nếp sống chung của người đan sĩ nâng đỡ những điểm yếu của nhau. Đan sĩ được mời gọi sống trong cùng một cộng đoàn, cùng chung nếp sống, cùng nhau ngợi khen Thiên Chúa trong suốt hành trình. Đã cùng nhau đi trọn đường đan tu, đã cùng nhau chiến đấu cho Vua Kitô. Những ngày tháng cuối đời dành cho nhau những lời cầu nguyện để được thành toàn. Lời của thánh Phaolô nhắn gửi Timôthê trước khi ngài chịu tử đạo như nhắn nhủ đan sĩ đã chiến đấu để chiến thắng: “Tôi đã chiến đấu trong trận đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2Tm 4,7).

Đan sĩ được sinh vào thời gian, để cho hạt giống đức tin được nảy nở, phát triển tới mức trưởng thành. Hạt giống đức tin ấy một lần nữa được sinh ra nơi môi trường chiêm niệm. Thời gian này, đan sĩ chiến đấu cho Vua Kitô. Với khí giới là thập giá. Áo giáp là lòng trung tín: “Vậy hãy đứng vững: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo Tin mừng bình an” (Ep 6,14-15).

III. Te Deum : Lời ngợi ca trọn vẹn khi sứ mệnh được thành toàn

  1. Tại sao lại hát Te Deum trước huyệt mộ?

Trong nghi thức Toàn Dòng Xitô, không tìm thấy dấu vết của nghi thức này. Tại sao Hội Dòng Xitô Thánh Gia chúng ta lại vang lên lời kinh Te Deum trong nghi thức an táng?

Đây là một điểm nhấn thật sự đặc biệt cho lối sống đan tu Xitô Thánh Gia. Vì cả đời đan sĩ là lời tạ ơn, cả đời chiến đấu với ba thù để đi đến ngày được hoàn tất. Đời sống đan tu phải chết đi cho con người cũ và phải mặc lấy con người mới là Đức Ki-tô nơi cô tịch và thinh lặng.

Cha Biển Đức Thuận, đấng sáng lập Hội Dòng Xitô Thánh Gia đã sống đặc sủng đan tu, ngài nhận thấy ơn gọi cao cả khi chia sẻ nếp sống này và kiên trì cho đến ngày hoàn tất là một ơn riêng Chúa ban cho người đan sĩ. Hát kinh Te Deum sau nghi thức hạ huyệt là điểm đặc biệt mà thiết tưởng chỉ có nơi Hội Dòng chúng ta: “Do Đấng lập chi dòng đã sáng kiến ra, để sau cảnh u buồn của ngày tang thương, thì anh em được hưởng ngay sự vui mầng long trọng của ngày đại lễ, là khi an táng một anh em rồi, cộng đồng trở vào nhà thờ, đọc cho xong các kinh theo phụng vụ cho linh hồn kẻ mới qua đời, đoạn bàn thờ được trang hoàng trọng thể như ngày lễ hạng nhất, ca toà hát kinh Te Deum: tạ ơn Chúa, vì đã ban cho một linh hồn được trọn phước trong ơn kêu gọi.”[85]

Hát vang lời ca Te Deum trong dịp lễ an táng cho người anh em trong Dòng là chúng ta làm theo lời cha Tổ Phụ dạy: “Tạ ơn Chúa cho được trọn phước trong Dòng.”[86] Nghi thức hát kinh Te Deum của Hội Dòng Xitô Thánh Gia là lời kêu gọi và nhắc nhớ hồng ân chiêm niệm cao quý, một việc làm xác tín khi anh em đã hoàn thành sứ mạng của mình: “Khi một Đan sĩ qua đời, thánh lễ An táng trở thành thánh lễ Tạ ơn, vì hồng ân thánh hiến trong ơn gọi đan tu của người anh em đã được hoàn tất trong sự chết.”[87]

Cha Tổ Phụ truyền hát bài ca Tạ ơn (Te Deum), và ngày an táng được kể như ngày lễ trọng. Ý nghĩa biết bao![88] Hát vang lời kinh này là một lời tạ ơn cho người đan sĩ đã đi hết hành trình, đã chiến đấu vì trận chiến thiêng liêng, đã hy sinh cả cuộc đời vì Danh Chúa và đã hoàn thành sứ mạng để xin hợp đoàn cùng các thánh ca ngợi Chúa.

  1. Đã hoàn tất

Cuộc đời này là một hành trình, một khoảng thời gian để chúng ta sửa soạn cho một nơi ở vĩnh viễn. Người đan sĩ hoàn tất nhiệm vụ của mình cũng hoàn tất cuộc chiến thiêng liêng.

Tình thương yêu của anh em trong cộng đoàn là vang lên lời tạ ơn, vang lên lời ca ngợi lòng thương xót Chúa vì một người anh em được nên thành toàn. Những gì còn thiếu sót, cộng đoàn là phần thân thể sẽ bù đắp: “Cộng đoàn đan viện thực là một gia đình, tất cả đan sĩ là con của một Cha trên trời, và là anh em với nhau, cùng một ơn gọi, cùng chia sẻ một cuộc sống trong sự hợp nhất tinh thần. Sự hiện diện và tình yêu Chúa Kitô là đảm bảo sự hợp nhất đó.”[89]

Giành lại cho bằng được sự sống phần rỗi linh hồn cho người anh em. Đó là sứ vụ làm cho muôn dân thành môn đệ. Đó là công việc của hồi sinh. Nếu chúng ta đánh mất giá trị đích thực, bền vững và trường tồn, chúng ta đánh mất kho tàng thiêng liêng Chúa đã dành sẵn cho chúng ta.

Là lữ khách hành hương tiến về quê trời, về đời sống vĩnh cửu, chúng ta được mời gọi sống những thực tại thượng giới. Thánh Thomas nói: “Nước Trời được trải rộng trên toàn trái đất và loài người, dù không nhìn thấy”.

  1. Về trời với Chúa là hoàn tất sứ mạng

Thánh Bênađô thường tự hỏi mình đến đan viện để làm gì: “Bernarde, ad quid venisti? – Hỡi Bênađô, bạn đến đây để làm gì?”

Khi hoàn thành đời mình, chúng ta cũng hoàn thành sứ vụ Chúa trao. Nhưng chúng ta sống trong môi trường nào để hoàn thành đời mình? Một giống lúa nước được gieo trên mảnh đất khô cằn sỏi đá, liệu sinh hoa kết hạt dồi dào?

Đời đan tu, nơi chốn phụng thờ Thiên Chúa, không phải chốn đô thị, phố xá đông người. Nhận ra điều này, chúng ta hiểu được câu nói của nhà thần học André Beauchamp: tiến về quê trời trước là mối phúc lành, giống như một thượng tế trong Thánh Điện, và sau là cử chỉ tôn thờ.

Đời tu hiện diện như là chứng tá cho Chúa. Sống trọn vẹn cuộc đời mình, chúng ta đã khởi sự ngay ở đời này để được bước vào cõi hằng sống. Sống triệt để cuộc đời mình trong môi trường tu trì, là khởi sự rõ nhất của đan sĩ.

Bầu khí an táng nơi đan viện không diễn tả sự tang tóc, nhưng diễn tả một cuộc trở về với Chúa. Cuộc trở về này mang chiều kích hân hoan vì một người anh chị em trong cộng đoàn đã hoàn tất đời thánh hiến đan tu. Cuộc trở về này mang chiều kích hân hoan, vì “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,13-14). Hơn ai hết, họ là những người hát trọn vẹn nhất bài ca Te Deum. Ước gì đời đan tu trở thành mối phúc, thành lời xác tín sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, như lời kinh của đan sĩ đã từng hát vang lên:

Trước nhan Chúa các tổng thần phủ phục,
Mọi thiên thần và đạo binh thiên quốc
Đều cảm tạ và cung chúc tôn thờ,
Chẳng khi ngừng vang dậy tiếng tung hô:
Thánh! Thánh! Chí Thánh!
Chúa Tể càn khôn là Đấng Thánh!
Trời đất rạng ngời vinh quang Chúa uy linh.

 

THẾ GIAN KHÔNG PHẢI LÀ THIÊN ĐÀNG

Vincent Ferrie Vũ Mạnh Xuân

Ngày hôm nay, nhờ vào những phát minh về khoa học và sự phát triển kinh tế, con người đang tạo ra một thế giới đầy đủ tiện nghi và sự quyến rũ, đến nỗi người ta có thể ví nó như thiên đàng tại thế. Sự hấp dẫn này lôi kéo con người hướng về nó như một đối tượng duy nhất để hưởng thụ, để thủ đắc. Tuy nhiên, sự phát triển và hấp dẫn này của thế giới đang đưa đến một hệ lụy là sự mất cân bằng giữa đời sống tâm linh và đời sống vật chất. Điều đó, làm cho con người trong thế giới ngày hôm nay, đặc biệt là nơi những quốc gia giàu có và hiện đại, đang bị khủng hoảng rất nhiều về niềm tin tôn giáo, đến nỗi họ không còn coi đời sống tôn giáo như một nhu cầu thiết yếu của đời sống nữa, bởi vì họ đã có thể tìm thấy tất cả nơi thế giới vật chất.

Trong khi đó, kinh nghiệm tôn giáo của các Kitô hữu hệ tại ở sự liên kết với Thiên Chúa và hạnh phúc đời sau chứ không đặt nặng giá trị dựa trên những tài sản vật chất hay những sự hoàn hảo của cuộc sống trần thế. Hành trình tại thế của một Kitô hữu được ví như một tiến trình tiến về Nước Trời. Hành trình ấy không chỉ đơn giản là một hành trình đi từ điểm xuất phát tới điểm kết thúc, mà còn là cả một tiến trình trong đó mỗi người phải dấn thân để sống và bước đi. Trên cuộc hành trình này, người Kitô hữu có khi gặp phải nhiều sóng gió, nhưng cũng có khi bình yên như mặt hồ phẳng lặng.

Mỗi Kitô hữu, tùy theo hoàn cảnh và thái độ sống của mình, diễn tả quan niệm về thế gian hoặc về thiên đàng ngay trong cuộc sống hiện tại. Ngay từ thời kỳ sơ khai của Giáo hội, xuyên qua kinh nghiệm đức tin của mình, các Kitô hữu tiên khởi đã nhận thấy có những cản trở lớn trong hành trình đức tin khi người Kitô hữu quá bám víu vào thế gian cũng như đuổi theo những sự hấp dẫn của nó. Kinh nghiệm đức tin này không gì khác hơn là kinh nghiệm chiến đấu để chống lại sức hấp dẫn của thế gian và để trung thành với mục đích tối hậu của mình là sự sống viên mãn trong Đức Kitô (x. Rm 6,11).

Kinh nghiệm đức tin này đã bén rễ sâu và tăng trưởng từng ngày nơi cuộc sống của cha Henri Denis Biển Đức Thuận, ngay từ thời kỳ niên thiếu tới khi trở thành linh mục thừa sai tại Việt Nam và về sau trở nên Tổ Phụ dòng Đức Bà An-nam[90]. Cuộc sống cũng như lý tưởng của ngài thực sự là một hành trình từ thế gian hướng về thiên đàng. Nhưng thực tế, thế gian và thiên đàng luôn là những giằng co trong chính con người của ngài. Từ cuộc giằng co, hay cuộc chiến nội tâm này ngài tích lũy được những kinh nghiệm quý báu về giá trị của Nước Trời ngay trong chính đời sống hằng ngày, nhưng nó không phải là hoàn hảo. Trong cuộc hành trình ấy, cha Biển Đức Thuận luôn khao khát những phương thế tốt nhất để đạt tới sự kết hợp mật thiết với Chúa. Phải chăng thế gian luôn đem lại cho cha Biển Đức Thuận những cảm nhận về giá trị của thiên đàng? Hay thế gian chỉ là những thứ ràng buộc con người với thế giới vật chất trong kinh nghiệm của ngài?

Trong bài viết này, chúng ta cùng tìm hiểu quan niệm về thế gian của cha Tổ Phụ: “Thế gian không phải là thiên đàng”, với 2 phần chính: khái quát về từ ngữ “thế gian” trong Kinh Thánh và trong kinh nghiệm đức tin của các Kitô hữu tiên khởi; kinh nghiệm của cha Biển Đức Thuận về “thế gian”.

Trong đề tài này, người viết sử dụng cuốn Hạnh tích cha Benoit và cuốn Di Ngôn để làm tài liệu chính.

  1. Khái quát quan niệm về “thế gian” trong truyền thống Kinh Thánh và Giáo hội

Ngay từ đầu cuốn Kinh Thánh, trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa hạn từ “thế gian” xuất hiện theo một cái nhìn tổng thể của cả công trình tạo dựng. “Khởi thủy Thiên Chúa đã dựng nên trời và đất” (St 1,1).

Các sách thuộc thời kỳ Hy Lạp sử dụng từ kosmos có một đặc thù Kinh Thánh (Kn 11,17; 2Mcb 7,9.23).

“Đối với tư tưởng Hy lạp, kosmos, với các luật lệ, vẻ đẹp, tính lâu dài, sự trở lại vĩnh cửu của các sự vật của nó, diễn tả thực tế lý tưởng của một luật lệ đóng kín trên chính nó kể cả con người và bao gồm các thần thánh: những chủ thể này khó nhận thấy những yếu tố trong thế giới đa thần tiềm tàng và được công nhận này. Một quan niệm hoàn toàn khác là quan niệm của Kinh Thánh, trong đó các biểu tượng vũ trụ học và nguồn gốc vũ trụ chỉ tạo thành chất liệu thứ yếu, được đặt để phục vụ cho một khẳng định tôn giáo thiết yếu: là thụ tạo của Thiên Chúa, thế giới mang một ý nghĩa theo kế hoạch cứu rỗi của Người, và trong khuôn khổ của kế hoạch này, thế giới cũng sẽ tìm thấy định mệnh cuối cùng của mình.”[91]

Song song với khái niệm về một thế giới tốt đẹp được Thiên Chúa dựng nên, Kinh Thánh trình bày một hình ảnh bi quan hơn về một thế giới được gắn kết với một sự hỗn độn giữa sự thiện và sự ác, một thế giới mà trong đó con người đánh mất đi sự tốt lành và vẻ đẹp ban đầu của mình. Thế giới này đóng vai trò như một nơi Thiên Chúa dùng để sửa trị những con người tội lỗi dấn thân vào bi kịch của mình (x. St 3,17). Trong viễn tượng cánh chung, “tất cả các yếu tố của thế giới sẽ được liên kết với nhau, như thể trật tự của vạn vật được tạo ra lúc ban đầu…”[92]

Bước sang giai đoạn Tân Ước, thế gian được diễn tả dưới nhiều khía cạnh khác nhau, không chỉ còn là vũ trụ hay thế giới vật chất nữa. Trong ngôn ngữ của thánh Gioan, thế gian (le monde) vừa được hiểu là thế giới nơi con người sinh sống (x. Ga 1,9-10), vừa được hiểu là một thế lực xấu chống lại Thiên Chúa (x. Ga 15,18-19), hay còn được gọi là thế lực của bóng tối (x. Ga 1,5), của sự dữ và đau khổ (x. Ga 16,33). Chính vì thế Đức Giêsu được giới thiệu như Đấng khử trừ tội lỗi của thế gian (x. Ga 1,29).

Từ quan niệm này của Tin mừng Gioan mà các Kitô hữu tiên khởi luôn coi thế gian như một thế lực chống lại vương quốc của Thiên Chúa, như một nơi chốn của tội lỗi và sự nhơ nhớp (x. Gc 1,27). Các Kitô hữu không được yêu thế gian, vì đó là đam mê của xác thịt, là dục vọng của con mắt (x. 1 Ga 2,16). Cách diễn đạt này đưa chúng ta tới một cái nhìn rộng mở hơn về thế gian trong quan niệm của các thánh Giáo phụ. Origène, trong bản chú giải về sách Xuất Hành và sách Lêvi, đã gọi vua Pharaô là người “muốn sống với những gì liên quan tới xác thịt và kết thân với cơ thể vật chất; và không chỉ sống mà còn lớn lên và tăng trưởng trong nó. Ông muốn rằng tất cả đều có mùi vị của thân xác và ước muốn những sự vật thế tục, và rằng tất cả tìm kiếm những sự vật dưới đất, và không ai ngước mắt lên trời, không tìm kiếm nơi mà từ đó mình đến trong thế giới này, không ai có kỷ niệm về nước trời.”[93] Trong tư tưởng này, Origène muốn nhấn mạnh tới những nguy hiểm do việc ham mê vật chất thế tục gây ra trong đời sống Kitô hữu. Ngài nói tiếp: Khi các bạn thấy các nam nhân trải qua cuộc sống của họ trong các thú vui và trong sự bạc nhược, đắm chìm trong sự sang trọng, dùng thời gian cho các bữa tiệc, trong rược chè, trong các cuộc trác táng và sự trơ trẽn, hãy biết rằng vua Ai Cập giết những nam nhân và để phụ nữ sống. Nhưng nếu các bạn thấy một người đàn ông, giữa ngàn người, họ hướng về Thiên Chúa, về nơi cao, tìm kiếm sự vững bền và vĩnh cửu, gắn bó với sự chiêm ngắm, ‘không phải sự vật hữu hình, nhưng vô hình’, chạy trốn tính bạc nhược và yêu mến sự tiết chế, tránh sự xa hoa và thực hành đức hạnh, vua Pharaô muốn sự sống của người này, bởi vì họ là nam giới, một người đàn ông.[94]

Sự nguy hiểm của việc đắm chìm trong thế gian luôn cản trở con người trong việc tìm kiếm Thiên Chúa và trong việc thực hành đức hạnh. Đây chính là kinh nghiệm của các Kitô hữu tiên khởi trong đời sống thiêng liêng. Việc từ bỏ thế gian và những quyến rũ của nó làm cho người Kitô hữu lớn lên trong đời sống thiêng liêng. Có lẽ chính vì thế mà thánh Biển Đức đã kêu gọi con cái của ngài không lấy gì hơn tình yêu Đức Kitô, không mê uống, không mê ăn, không mê ngủ, không lười biếng (x. TL 4,21.35-38). Để lớn lên trong đời sống thiêng liêng, con người cần thiết phải chiến thắng những ham mê thế gian và xác thịt.

II. Thế gian theo kinh nghiệm của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận

Được giáo dục trong một truyền thống đức tin vững mạnh, cha Henri Denis Biển Đức Thuận luôn tìm kiếm những phương thế để thi hành ý muốn của Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày. Ngài luôn ý thức rằng: thế gian không phải là thiên đàng nhưng là nơi tạm thời con người sinh sống và qua đó mà bước vào thiên đàng.

  1. Hai dạng thức thế gian

Với kinh nghiệm của mình, cha Biển Đức Thuận chỉ ra hai dạng thức thế gian: vật chất và tinh thần thế tục. Hai dạng thức này dường như trải dài trong suốt cuộc đời của ngài. Thế gian thuộc về vật chất là những khó khăn trong cuộc sống mưu sinh; thế gian thuộc về tinh thần là một tình trạng thiếu ơn Chúa và thiếu liên kết với Người. Cả hai dạng thức này đều làm cho ngài cảm thấy bị cản trở trong việc làm vinh danh Chúa và tìm kiếm Người.

a. Thế gian vật chất

Trong tiểu sử và các thư tín của ngài, chúng ta nhận thấy những khó khăn mà cha Biển Đức Thuận gặp phải trong cuộc sống, đặc biệt trong thời gian bắt đầu sứ vụ truyền giáo tại Việt Nam. Ngài sinh ra trong một gia đình nghèo khó, và khi lên 8 tuổi thì phải mồ côi mẹ.[95] Ngay cả khi ngài đã vào tiểu chủng viện rồi, ngài vẫn tranh thủ làm việc giúp cha mẹ mỗi dịp hè.[96] Tới thời gian làm cha xứ tại Nước Mặn, ngài thực sự rơi vào tình trạng khó khăn và thiếu thốn về kinh tế.[97] Trong thời gian thành lập dòng Đức Bà An-nam, cha Biển Đức Thuận phải vất vả, vừa để có của ăn cho các thầy, vừa phải lo xây dựng cơ sở vật chất cho nhà dòng.[98]

Để ổn định hơn về cuộc sống vật chất, ngay cả trong đời sống mục vụ giáo xứ và đời sống cộng đoàn, cha Tổ Phụ đôi khi dành thời gian khá nhiều cho công việc. Tuy nhiên, ngài luôn dành những thời gian nhất định trong ngày để cầu nguyện.[99] Từ những kinh nghiệm này, ngài khuyên nhủ các đan sĩ đừng có dại dột làm việc một cách quá đáng: “Đó là việc thiệt hại cả thể, đáng cho chúng ta lấy làm buồn hơn cả.”[100] Điều quan trọng nhất đối với cha Tổ Phụ ở đây là lòng mến Chúa. Nếu công việc hằng ngày làm cho các đan sĩ đánh mất lòng mến này thì thật là một điều đáng tiếc, bởi vì nó cản trở sự tăng trưởng mục đích ban đầu của nhà dòng.[101]

b. Thế gian và tinh thần thế tục

Các kiểu nói của cha Biển Đức Thuận như: thế gian, vượt quá khỏi thế gian này,[102] mọi sự thế gian,[103] người thế gian[104]… không chỉ diễn tả một lối sống hay một dạng hoạt động mang tính vật chất, mà còn mang sắc thái của một tình trạng sống thuộc về tinh thần. Thế gian ở đây, theo ngôn ngữ của cha Tổ Phụ là một tình trạng sống theo lề thói của những người không sống đời tu. Trong một bài giáo huấn, ngài chất vấn anh em như sau: “Một người xin vào đây (nhà dòng), thì phải biết chấp nhận, nào có ai ép buộc chi? Tự ý xin vào đây, mà tỏ mặt không bằng lòng, nếu muốn sướng thì ở lại thế gian với cha mẹ, không sướng hơn và thong thả hơn sao?”[105] Như vậy, thế gian chính là một tình trạng sống thoải mái và ngược với sự nhiệm nhặt của đời tu.

Bên cạnh đó, cha Biển Đức Thuận cũng nêu lên sự khác biệt giữa những người ở thế gian và những người sống trong đời tu. Người thế gian thì nói những việc làm ăn, không nhớ đến nước Thiên Đàng, chỉ lo việc đời. Họ là những người “mê ngủ” trong cuộc sống hằng ngày “Thế gian thường lo tìm bạc tìm tiền, lo vui chơi ngủ nghỉ, chúng ta như lính phải canh thức luôn mà cầu nguyện thay mặt Hội thánh.”[106] Những người đi tu thì trái lại, họ là những người tỉnh thức để tìm gặp Chúa, để ra sức đi đàng nhân đức.[107] Như vậy, có một sự khác biệt rõ rệt giữa những người sống ngoài “thế gian” và những người sống trong nhà dòng. Người tu sĩ không thể nào sống theo lề thói của những người ngoài đời.

Như vậy, thế gian, theo cha Tổ Phụ, vừa diễn tả một thế giới vật chất, vừa diễn tả một tình trạng mà con người gắn bó vào vật chất một cách quá đáng, hoặc dành tất cả thời gian để lo toan tìm kiếm nó. Người đan sĩ cũng là những con người sống trong thế gian, và cũng phải lo toan cho cuộc sống hằng ngày. Điều quan trọng đối với các đan sĩ không hệ tại ở việc có của cải hay không, mà là mức độ gắn bó với của cải thế gian, là những “sự mau qua chóng hết.”[108] Chính vì thế cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận cũng đưa ra một vài phương thế để giúp các đan sĩ học cách để từ bỏ thế gian. Nhờ đó, các đan sĩ thực sự trở thành những người sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian.

  1. Các cách thế để từ bỏ thế gian

Cách thế thứ nhất và quan trọng nhất là luôn có lòng kính mến Chúa thực sự. Cha Tổ Phụ luôn lấy lòng kính mến Chúa làm nền tảng cho đời sống đan sĩ[109]. Một khi lấy Chúa làm gia nghiệp của mình, các đan sĩ không còn gắn bó đời mình với của cải thế gian. Cách thế này đã được các Kitô hữu tiên khởi áp dụng ngay từ đầu khi họ bán hết của cải để giao lại tài sản cho các Tông đồ (x. Cv 5,43). Sự từ bỏ là một hành vi tôn thờ Thiên Chúa nơi tâm hồn các đan sĩ. Chúng ta càng yêu mến Chúa nhiều thì càng dễ dàng sống tinh thần từ bỏ, bởi vì chính “Chúa là gia nghiệp của chúng ta” (Tv 15,5).

Cách thế thứ hai là luôn khao khát thiên đàng. Cha Tổ Phụ đã lấy gương các thánh để khuyến khích các đan sĩ sống tinh thần từ bỏ những gì thuộc về thế gian:  “Bà thánh Têrêxa cả, khi Chúa cho thấy sự vui mừng thiên đàng, bà xem lại các sự đời này, bà ghê tởm quá, thấy chi cũng chán ngán.”[110] Theo ngài thì hạnh phúc thiên đàng lớn hơn rất nhiều lần những giá trị của sự vật trần thế. Hơn nữa, khao khát thiên đàng là dấu hiệu của một linh hồn khỏe mạnh và là dấu chỉ của một người có đức tin, đức cậy và đức mến.[111] Chính vì vậy, khi có lòng khao khát sự sống đời sau, chúng ta dễ dàng từ bỏ những giá trị vật chất, là những thứ chóng qua, không đem lại hạnh phúc thực sự cho người đan sĩ.

Cách thế thứ ba đó là tuân giữ luật dòng. Cha Tổ Phụ luôn khuyến khích các đan sĩ trở nên thầy dòng thật, đặc biệt trong việc tuân giữ luật dòng: “Hãy giữ luật dòng vì lòng mến Chúa mình, muốn cho Cha mình vui thấy con cái có lòng mến thật. Như vậy mới gọi là giữ luật dòng cho được nên thánh.”[112] Trong luật dòng bao gồm các lời khấn: vâng lời, khó nghèo, khiết tịnh, canh tân và bền đỗ. Những lời khấn dòng là dụng cụ giúp chúng ta gắn bó đời mình với lý tưởng của đời sống đan tu và dấn thân cho cộng đoàn. Trong bản Hiến Pháp do cha Tổ Phụ soạn thảo có ghi rõ về lời khấn khó nghèo: “Khấn trọng thể giữ nghèo khó, tu sĩ từ bỏ quyền sở hữu mọi của cải giá trị ra tiền được, cũng như quyền sử dụng và tự ý định đoạt. Họ không có của cải gì riêng, cũng không có quyền chiếm hữu” (HP II, 116).[113] Chính những ràng buộc của luật lệ giúp các đan sĩ ý thức sự gắn kết của mình với đời sống cộng đoàn, và nhờ đó họ thực hành tinh thần từ bỏ của mình.

Ba cách thế trên được cha Tổ Phụ đưa ra như những khí cụ giúp chính bản thân ngài và các đan sĩ sống tinh thần từ bỏ thế gian ngay trong cuộc sống trần thế. Có lòng yêu mến Chúa thật, khao khát thiên đàng và tuân giữ luật dòng, không gì khác hơn là dấu chỉ của một người có lòng phó thác cho tình yêu Chúa và sự quan phòng của Người. Theo ngôn ngữ của cha Tổ Phụ thì đó là những biểu hiện của một thầy dòng thật, một thầy dòng thánh. Tuy nhiên, để thực hiện ba phương thế này không phải là một việc dễ dàng đối với chúng ta trong thế giới hôm nay. Thế nhưng những cách thế của cha Tổ Phụ mời gọi các đan sĩ tiến bước trong ơn gọi đan tu chiêm niệm.

Kết luận

Theo cha Tổ Phụ, thế gian vừa mang nghĩa là vật chất, vừa mang nghĩa tinh thần thế tục. Cả hai nghĩa này đều diễn tả thế gian như một sự ràng buộc con người vào trong thế giới vật chất và cản trở con người tiến về nước trời. Theo kinh nghiệm cá nhân, thế giới vật chất không làm nên tất cả ý nghĩa cuộc sống của con người, nó chỉ là phương tiện chứ không phải cứu cánh. Cuộc sống này không mang tính vững bền, và những gì thuộc về nó cũng chỉ mang tính giới hạn. Tuy nhiên, cuộc sống con người vẫn luôn gắn kết một cách khăng khít với thế gian, đến nỗi con người không thể tiến tới Thiên Đàng nếu không đi qua thế gian. Các Kitô hữu một mặt tích cực đóng góp phần của mình để xây dựng một xã hội trần thế tốt đẹp, một mặt hướng cuộc sống của mình về sự sống đời sau. Hai ý nghĩa này tạo cho cuộc sống người Kitô hữu ở thế giằng co giữa việc chon lựa thế gian hoặc Thiên Đàng.

Lý tưởng của người đan sĩ cũng không khác với đời sống Kitô hữu nói chung. Các cộng đoàn đan sĩ cũng được xây dựng bởi những con người và trong một thế giới cụ thể. Các đan sĩ vừa hướng vọng về Thiên Đàng, vừa xây dựng đời sống vật chất. Kinh nghiệm của cha Tổ Phụ giúp chúng ta tìm lại thế cân bằng giữa hai yếu tố trên. Tất cả những công việc xây dựng cộng đoàn trần thế sẽ mất hết ý nghĩa, thậm chí làm cản trở ta hướng về Thiên Đàng, nếu chúng ta không thi hành với một lòng mến Chúa và yêu cộng đoàn thực sự.

Là con cái cha Tổ Phụ, chúng ta luôn hăng say chu toàn những công tác được trao phó. Tuy nhiên, những công việc này chỉ là phương tiện để giúp chúng ta sống đời đan tu một cách kiện toàn hơn, chứ không phải là mục đích. Kinh nghiệm của cha Tổ Phụ về thế gian giúp đan sĩ nhìn lại thân phận làm người, đồng thời giúp tái khám phá ra mục đích tối hậu của mình. Hành trình từ thế gian tiến về Thiên Đàng cũng diễn tả một synodos, một sự hiệp hành mà Giáo hội đang thực hiện trong năm nay. Cùng với Giáo hội, chúng ta tiến bước với anh em trên một con đường duy nhất là chính Đức Giêsu Kitô tiến về Nước Trời như mục đích tối hậu của chúng ta.

CUỘC VƯỢT QUA CỦA
CHA TỔ PHỤ BIỂN ĐỨC THUẬN

Giờ đây xin để tôi tớ Chúa được an bình ra đi

Dominicus Nguyễn Văn Kỳ

 

Khát vọng lớn nhất của con người là luôn tìm kiếm và mong muốn mình được bình an, hạnh phúc. Nhưng đâu là thứ bình an đích thực mà con người tìm kiếm? Thưa! chỉ nơi Thiên Chúa, nơi Đức Kitô, con người mới thoả mãn và tìm được nguồn sống, bình an, hạnh phúc đích thực, như Vịnh gia từng thổ lộ: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Cụ già Simeon cảm được điều này nên khi gặp được Chúa rồi thì ông sung sướng mãn nguyện đến nỗi không còn tha thiết với cuộc sống trần gian này nữa, nên đã cất lời ca tạ ơn Thiên Chúa: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi” (Lc 2,29).

Mỗi người ai cũng phải đối diện với sự chết, đối diện với cuộc vượt qua cuối cùng của mình, thế nhưng phải làm sao để có thể an bình ra đi? Với thân phận con người, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận cũng phải đối diện với cuộc vượt qua của mình. Vậy ngài đã đối diện với giờ phút cuối cùng của cuộc đời ra sao? Đó là một vài câu hỏi cũng như những tâm tình mà người viết muốn nêu lên để suy tư về cuộc vượt qua của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận nhân dịp 90 năm ngài về với Chúa.

I. Đức Kitô – Nguồn mạch bình an

  1. Khát vọng của con người hướng đến đời sống thần linh

Theo triết gia hiện sinh Gabriel Marcel: “Con người là hữu thể tôn giáo”. Quả thế, dù cuộc sống trần gian có hạnh phúc, tươi đẹp hay giàu sang đến đâu thì vẫn chưa phải là chốn an nghỉ cuối cùng vì tự bản chất, con người luôn khát khao quy hướng về Đấng Siêu Việt. Chính Thiên Chúa đã đặt vào trong tâm khảm con người nỗi khát khao mãnh liệt ấy.

Nhờ lý trí và ân sủng Thiên Chúa ban, con người hoàn toàn có khả năng khước từ những thụ tạo hư vô để trở về với lòng mình, và tự thâm tâm, con người khám phá ra Đấng là Chân Lý mà mình ước mong tìm kiếm. Bởi vậy, chỉ khi ta thoát khỏi những yếu tố trần tục của thế gian này thì mới mong có thể tìm gặp Thiên Chúa cách trọn vẹn. Tuy nhiên hành trình tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Chúa quả thật không phải dễ dàng.

Hầu hết các thánh đã chọn lối sống từ bỏ mọi quyến luyến của thế gian để chỉ lo tìm kiếm một mình Thiên Chúa, Đấng là Chân Lý, Đấng mà mọi người luôn khát khao hướng về. Nói về điều này chắc hẳn ít ai có kinh nghiệm sâu sắc bằng thánh Augustinô. Thánh nhân đã dành cả tuổi thanh xuân để tìm kiếm hạnh phúc nơi những vui thú trần gian. Thế nhưng những thú vui trần gian chỉ cho ngài cảm nhận được sự vui khoái nơi thân xác và đem lại sự chán ngán và đau khổ chứ không làm thỏa mãn nỗi khát khao trong tâm hồn. Từ sâu thẳm tâm hồn, thánh nhân luôn khát khao tìm về sự thiện nhưng thân xác lại muốn níu kéo những đam mê lạc thú, như kinh nghiệm của thánh Phaolô: “Tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Bởi vậy, thánh Augustinô đã thốt lên rằng: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng nên con cho Chúa và lòng con luôn khắc khoải cho đến khi nào được an nghỉ trong Chúa”.

  1. Khát vọng “an bình ra đi” nơi cụ già Simêon

Thế sự phù hoa đều qua đi hết thảy, chỉ có Thiên Chúa là trường tồn mãi mãi. Đó là chân lý bất biến của cuộc đời mà không phải ai cũng có thể nhận ra. Trong số những người Do Thái cùng thời với cụ già Simêon thì chỉ có ông là một trong số ít người được diễm phúc gặp gỡ Đấng Cứu Thế, là Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân Người. Quả thế, không phải tự nhiên mà ông có được vinh dự cao quý ấy, nhưng bởi vì ông đã dành cả cuộc đời để sống cho một mình Thiên Chúa.

Trình thuật Tin mừng theo thánh Luca 2,22-38 cho thấy rõ nét sự thánh thiện tuyệt vời, cùng với sự kiên tâm mong đợi Đấng Cứu Thế sẽ đến của cụ già Simeon: “Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel và Thánh Thần hằng ngự trên ông” (Lc 2,25). Suốt cuộc đời, cụ già Simêon chỉ khát khao một điều duy nhất là được tận mắt nhìn thấy Đấng Mesia mà Thiên Chúa đã hứa ban. Ông đã kiên nhẫn chờ đợi, tuân giữ lề luật cách trọn hảo, sớm hôm phục vụ trong đền thờ và luôn sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Khát vọng lớn nhất đối với ông là được gặp Đấng Kitô, và khi gặp được rồi, ông không còn tha thiết gì với cuộc sống trần thế nữa. Trong sự mãn nguyện, ông thốt lên rằng: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại là vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 2,29-32). Giây phút được gặp Đức Kitô mang lại cho cụ già Simêon niềm vui sướng và sự bình an bất tận. Ông không xin gì và cũng không muốn thêm gì nữa bởi vì đã có Chúa là tất cả.

Hình ảnh cụ già Simêon gợi lên trong ta một chân lý quan trọng: Ơn cứu độ của Chúa chỉ được trao ban cho những ai bền chí và khao khát đợi chờ. Đợi chờ có khi mang lại cho con người cảm giác khó chịu và bất mãn. Tuy nhiên, với cụ già Simêon đã không như thế, ông vẫn luôn kiên nhẫn chờ đợi Đấng Mêsia như lời hứa của Thiên Chúa; mặc cho những mệt mỏi trong tuổi xế chiều thì cũng không làm ý chí của ông lung lay hay mất tỉnh thức. Theo gương cụ già Simêon, mỗi người không nên để lòng mình dính bén điều gì khác ngoài Chúa, cũng đừng bao giờ đánh mất niềm hy vọng bởi chính Chúa là nguồn hy vọng lớn nhất của con người. Chính trong Đức Kitô mà ta tìm thấy ý nghĩa tối hậu của cuộc đời mình, và không ai ngoài Đức Kitô có thể mang lại cho con người bình an tuyệt đối.

  1. Đức Kitô – nguồn bình an đích thực

Cùng đích của cuộc đời mỗi người là được gặp gỡ Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa là suối nguồn bình an, là Đấng có thể lấp đầy mọi nỗi cô đơn, trống vắng trong tâm hồn con người. Mỗi người sống ở trần thế này đều khát khao mong muốn được bình an. Nhưng bình an mà họ đang theo đuổi là thứ bình an nào? Bình an của thế gian hay bình an của Đức Kitô? Nếu con người tìm kiếm bình an hạnh phúc theo kiểu thế gian thì ắt sẽ phải sớm thất vọng, bởi vì bình an của thế gian cũng chỉ là thứ bình an tạm bợ, mong manh, nay còn mai mất. Chính Chúa đã cảnh báo người phú hộ giàu có luôn thu tích của cải cho mình: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (x. Lc 12,13-21).

Chúa Giêsu khẳng định trong Tin mừng: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14, 27a). Những lúc hiện ra với các môn đệ sau phục sinh, lời đầu tiên Chúa Giêsu thường nói với các môn đệ: “Bình an cho anh em” (x. Ga 14,27; 20,19; 20,21,26; Lc 24,36). Bình an ở đây không hẳn là hoà bình, là tình trạng không có chiến tranh, cũng không phải là tâm trạng của con người không còn bị căng thẳng về mặt tâm lý, hoặc tâm trạng khoan khoái, thoải mái, sung sướng. Nhưng theo ngôn ngữ của Gioan, bình an ở đây diễn tả nhiều khía cạnh khác nhau của ân huệ lớn lao mà Chúa Giêsu mang đến cho loài người từ Chúa Cha. Ân huệ này là chính ơn giải thoát, ơn cứu độ.

Như vậy, khi Chúa Giêsu xác quyết “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em” thì Lời này không phải là Lời bình thường nhưng là Lời sự sống, Lời mang lại niềm vui, Lời có sức mạnh dẹp yên biển động, chữa lành kẻ ốm đau bệnh tật và làm cho kẻ chết sống lại. Chúa Giêsu là Hoàng Tử hòa bình, là cội nguồn của sự bình an, nhưng bình an của Đức Kitô lại được xây dựng trên con đường thập giá. Chính qua cái chết, Đức Kitô đã chiến thắng tử thần, đập tan xiềng xích tội lỗi, tiêu hủy án phạt đè nặng trên con người và đem lại cho con người sự sống đời đời. Bình an của Đức Kitô được khơi nguồn từ cạnh sườn bị đâm thủng là kết tinh của một tình yêu cao đẹp, đúng như lời khẳng định của thánh Gioan: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Tác giả sách Gương Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không con đường nào đưa đến sự sống và bình an thật cho tâm hồn, ngoài con đường Thánh giá và hãm mình liên lỉ. Dầu đi đâu, dầu tìm được mọi thỏa thích trên đời, bạn vẫn không gặp được đường nào cao trọng và vững chắc hơn đường Thánh giá.”[114] Đường thập giá dù là đường chông gai nhưng lại là con đường duy nhất đưa ta đến sự bình an đích thực và hạnh phúc Nước Trời. Chính Đức Kitô đã bước đi trên con đường đó, và mời gọi mỗi người cũng bước đi theo Người.

II. Cuộc vượt qua của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận

Trong phần trên, chúng ta đã tìm hiểu Đức Kitô là nguồn mạch bình an, là Đấng muôn dân trông đợi, là đối tượng con người tìm kiếm. Qua phần 2 này, dõi theo hành trình ơn gọi và sứ vụ của cha Biển Đức Thuận, ta cũng sẽ thấy rõ suốt cuộc đời cha Tổ Phụ chỉ nhất tâm tìm kiếm một mình Thiên Chúa mà thôi. Khát vọng và trăn trở lớn nhất của ngài là nên thánh, nên thầy dòng thật. Vì thế, dù đang sống trong đời, nhưng ngài luôn hướng vọng về trời cao, khinh chê cõi đời tạm, năng nhớ về đời sau.

Cũng giống như cụ già Simêon, về cuối đời cha Biển Đức Thuận cũng đã an bình ra đi, trong niềm tín thác vào Thiên Chúa tình yêu.

  1. Khát vọng nên thánh, nên thầy dòng thật – thầy dòng thánh

Đối với cha Tổ Phụ, nếu như Thiên Chúa là khát vọng duy nhất, và cuộc đời của ngài chỉ tập trung vào một mình Thiên Chúa, thì ý tưởng sống đời đan tu để nên thầy dòng thật, thầy dòng thánh là phương thế tốt nhất giúp ngài thực hiện ước vọng đó. Bởi vì ngài khám phá ra điều quan trọng không phải là hoàn thành những công việc của Chúa, mà là chính Thiên Chúa… Lịch sử cuộc đời cha Tổ Phụ qua các giai đoạn ơn gọi cho chúng ta thấy rõ điều đó. Vậy, cha Tổ Phụ khao khát nên thánh, nên thầy dòng thật, thầy dòng thánh như thế nào và bằng cách nào?

Về sự khao khát nên thánh, cha Tổ Phụ nhiều lần nhắc nhở và khuyên các đan sĩ cũng như thân sinh của ngài phải ra sức cố gắng nên thánh mỗi ngày. Nên thánh trong công việc bổn phận hằng ngày, sống với Chúa, kính mến Chúa, kết hiệp với Chúa, chi cũng làm cho Chúa; nên thánh lúc mạnh khoẻ cũng như lúc ốm đau bệnh tật;[115] “bao lâu còn được chút thời giờ đang sống, thì hãy lo nên thánh cho mau kẻo hết giờ”; hay ngài cũng luôn xin cầu cho mình được nên thánh: “… Con cầu nguyện thế cho mẹ và cho con. Phần mẹ cũng xin cầu cùng Chúa cho con nên thánh mà thôi.”[116] “Nên thánh mà thôi”, đó là một ân huệ, một lời mời gọi, một thúc bách, một ý lực trong tâm hồn cha Tổ Phụ.  Tuy nhiên “chớ có ai ước ao cho được phong thánh, chớ ước ao cho mình có truyện thánh đọc trong nhà cơm.”[117]

Đối với cha Tổ Phụ, việc nên thánh không gì khác hơn là giữ luật dòng[118]. Nhưng “hãy giữ Luật vì lòng mến Chúa, vì muốn đẹp lòng Chúa mình, muốn cho Cha mình vui thấy con cái có lòng mến thật. Như vậy mới gọi là giữ Luật dòng cho được nên thánh”[119]. Đó là một điều rất khó, tuy nhiên, nếu ra sức tập tành, từ bỏ ý riêng, chăm chỉ cầu nguyện, chỉ tìm làm đẹp lòng Chúa, hằng kết hiệp với Chúa, an ủi Chúa và lo đến phần rỗi kẻ khác… thì thế nào cũng được.[120]

Như vậy, khát vọng nên thánh, nên thầy dòng thật, nên thầy dòng thánh không gì khác hơn là sống hết mình với Chúa, kính mến Chúa, kết hiệp với Chúa, mọi sự đều làm cho Chúa… ngang qua việc cố gắng tuân giữ luật dòng cho trọn vẹn, đồng thời luôn suy xét lại đời sống của mình để làm đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn.

  1. Suy tư về cõi đời tạm và đời sau

Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận thường suy đến cuộc đời, đến thân phận con người ở đời này cũng như đời sau. Ngài nói: “Hằng ngày và hầu như trót ngày, con những suy đến quãng đường sau hết đời tạm con.”[121] Đối với ngài, đời này chỉ là cõi tạm, mọi sự thế gian đều vô ích chóng qua, nay còn mai mất… trừ sự kính mến Chúa và làm tôi Người mà thôi.

Cha Tổ Phụ tuy coi trọng của cải vật chất như hồng ân Chúa ban cho, và khuyên cố gắng sử dụng tốt như ý Chúa, nhưng cha cũng biết coi khinh của cải vật chất, không để lòng dính bén vấn vương, vì tất cả đều giả trá, chóng qua[122]… Khi viết thư cho bà kế mẫu nói về các công việc của nhà dòng, ngài quả quyết: “Thôi nói chi về vật chất phẩn thổ đời này, chẳng bao lâu nó sẽ tiêu tan hết. Ta hãy chú tâm làm sáng danh Chúa, Chúa tác tạo nên ta nguyên vì lý do ấy. Muốn được phước đời này và đời sau thì phải lo làm tôi Người.”[123]

Cha Tổ Phụ cũng đặt câu hỏi: người thế gian đang cần tìm điều chi? Họ đang lo làm gì? Ngài đưa ra câu trả lời: “Thấy phần nhiều trong thiên hạ, những chạy ngược chạy xuôi, lo ăn lo làm, lo cho thân xác vui sướng… Phải chi mà Chúa cho chúng ta một cái máy chi mà bay khắp thế gian bây giờ, mọi nơi mọi chỗ, lại xem thấy trong lòng người ta nữa, thì thấy người ta đang lo chi và đang làm gì: Người ta đang lo lắng nhiều chuyện: người thì làm Giáo hoàng, làm Giám mục, làm vua chúa; kẻ thì làm thợ mộc, thợ rèn; kẻ thì tự hào là thầy lang thầy thuốc… Khắp nơi, bao nhiêu người lo lắng các việc vô ích chóng qua…. Vậy, chúng ta chớ khá lầm. Các việc ấy, trong vòng năm mươi sáu mươi năm là xong hết.”[124] Người ta lo lắng tìm kiếm những sự thế gian, chịu nhiều đau khổ hết sức mà không suy đến quê hương thật của mình là nước Thiên Đàng. Chính những sự lo lắng thế gian này làm trở ngại cho sự cầu nguyện, bóp nghẹt hạt giống Lời Chúa (x. Lc 21,34; Mc 4,19).

Riêng cha Tổ Phụ, dù đã tìm được niềm vui bình an, hạnh phúc trong nhà dòng, nhưng mỗi ngày hằng suy đến sự cực thế gian này và cũng suy đến quê hương thật của mình là nước Thiên Đàng. Ngài nói: “Phần con, con không muốn bị cái án giam cầm sống mãi ở trần gian này, dầu được ở một nơi rất tốt như nhà dòng Đức Bà Việt Nam, con cũng không muốn ăn đời ở kiếp mãi ở đây.”[125] Nơi khác, ngài thổ lộ: “Bao giờ con được về Thiên đàng cho vui chút”, hay “Thiên Đàng là của ta.”[126] Thiên Đàng là của ta – đó là một lời khẳng định nói lên lòng vững vàng tin cậy của một tâm hồn đã cảm nghiệm được Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người đến cùng. Bởi vậy, nhiều lần cha Tổ Phụ khuyên bao lâu đang khi trông đợi thì hằng ra sức kính mến Chúa hết lòng hết sức, lo lập công cho nhiều, hằng luôn khao khát phúc Thiên Đàng… để sau khi chết được bay thẳng về Thiên Đàng.[127]

Về sự khao khát thiêng đàng cha Tổ Phụ nói như sau: “Chúng ta hãy xét mình xem, lòng chúng ta có mong mỏi khát khao Thiên Đàng chăng? Khi chúng ta suy một ít nữa được về Thiên Đàng, một ít nữa chúng ta được nhìn thấy Chúa và Đức Mẹ yêu dấu chúng ta. Khi chúng ta suy như vậy, trong lòng có lấy làm vui, có mong mỏi mau về cùng Chúa không? Nếu thấy trong mình vui sướng, và mong mỏi về với Chúa, ấy là dấu tốt, là dấu linh hồn khỏe mạnh. Nếu suy về Thiên Đàng, mà trong lòng cũng thế đó, không lấy làm chi, ấy là dấu chỉ linh hồn không khỏe mạnh.”[128]

Người luôn suy về đời sau, về thiên đàng là người khôn ngoan thật. Khôn ngoan thật là sự khôn ngoan thánh thiện, là chỉ lo cho mình kính mến Chúa mà thôi.[129] Trái lại, người không tỉnh thức gặp Chúa, không nói khó với Chúa, không kết hiệp với Chúa… là người ngủ mê. Ngủ mê là không mấy khi nhớ đến nước Thiên Đàng, không nhớ đến đời sau. Xin Chúa cho chúng ta mau ra khỏi chốn tù đày thế gian này, mà về cùng Chúa và Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng.[130]

Chính khi suy đến những sự chóng qua đời này và suy đến hạnh phúc đời sau, sẽ dẫn đưa cha Tổ Phụ đến một cuộc vượt qua để đến với Chúa cách bình an.

  1. Cuộc vượt qua của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận

Khi nói đến cái chết, nhiều người thường tránh né và tỏ ra sợ hãi, lo lắng, xao xuyến, mất bình an. Tuy nhiên, cũng có những người lìa bỏ thế gian này cách thanh thản và bình an trong Chúa. Vậy, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận khi đứng trước cuộc vượt qua của mình đã đối diện với nó như thế nào?

  • Cha Tổ Phụ hằng suy đến sự chết, suy đến đời sống vĩnh cửu.

Ngài nói về sự chết trong ánh sáng của sự sống đời đời, và trong sự qui hướng về phúc thiên đàng, nhưng điều quan trọng vẫn là yêu mến. Vì mến Chúa nên ngài coi thường cái chết.[131]

Ngài nhận thấy có sự khác biệt giữa văn hóa Tây phương và văn hóa Việt Nam khi nhìn về sự chết, văn hóa Tây phương thường ít nghĩ đến sự chết hơn văn hóa Việt Nam như trong thư ngài viết cho bà kế mẫu: “…bên Tây ta thì khác hẳn mẹ nhỉ! Họ không hay nói đến chuyện chết mà lại ra sức tránh những sự làm cho họ nhớ đến sự chết nữa. Như vậy có tốt hơn không? Con tưởng không. Không cần chi phải làm cách tỏ ra mình muốn cho sự chết đến, hay là không muốn thì nó cũng đến, miễn là có lòng mến Chúa, và hết lòng làm tôi Người, thì khi giáp mặt sự chết sẽ nói được cùng nó rằng: ‘Tao khinh dể mày!’ Hoặc nói cách khác như các thánh rằng: “Hỡi sự chết hãy đến mau, cho ta được về Thiên Đàng mến Chúa, biết Chúa và làm tôi Người đời đời”. Hơn nữa đến lượt con, con sẽ kêu rằng: “Vạn tuế cho sự chết! Thế có lẽ mẹ nói nay con đã ra người Việt Nam quá rồi chăng? – Dạ! Vậy thì con xin nói lại: “Vạn tuế cho sự sống!… Sự sống càng trường thọ thì mẹ con ta càng lập nhiều công: Ta hãy kiếm thêm vốn cho nhiều, để đời sau hưởng lời lãi…”[132] Dường như ngài cũng mang một tâm tình của thánh Phanxicô khi nói về sự chết: “Chúc tụng Chúa, Chúa ôi, về Chị Chết cái chết thể xác của chúng con, mà mọi người sống không ai thoát khỏi. Khốn cho người sẽ chết trong trọng tội. Phúc cho những ai Chị Chết bắt gặp đang ở trong Thánh ý của Chúa, bởi vì cái chết thứ hai chẳng làm hại họ đựợc!”

  • Đối diện với giờ phút cuối cùng của cuộc đời

Sau khi biết bệnh tình đã vô phương cứu chữa và sắp đối diện với giờ phút cuối cùng của cuộc đời, cha Tổ Phụ bảo thầy y tá ghi chép lại bệnh tình và thông báo cho cộng đoàn biết để cầu nguyện cho ngài được tuân theo ý Chúa. Như Chúa Giêsu trước giờ khổ nạn, trong vườn Giêthsêmani, đã xao xuyến đến mồ hôi máu đổ ra để cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nhưng đừng theo ý mình, mà luôn theo ý Chúa Cha (x. Mt 26, 36-46; Mc 14, 32-42; Lc 22, 39-46); thì cha Tổ Phụ cũng trải qua giờ khổ nạn thật đau đớn và đầy dao động. Ngài đau đớn cả hồn lẫn xác đến nỗi phải kêu lên thảm thiết: “Thật khủng khiếp! Mẹ ơi, Mẹ ơi, cứu con với!… Hãy cầu nguyện cho người hấp hối! Kinh khủng lắm!”[133] Sau khi được anh em trong dòng cầu nguyện bằng những lời kinh khẩn cầu thì tâm hồn ngài được an bình trở lại ngay, nhưng liền sau đó lại xuất hiện cơn khủng hoảng khác. Tại sao cha Tổ Phụ trải qua những giờ hấp hối kéo dài với nhiều dao động như thế? Phải chăng có điều gì còn vướng mắc trong tâm hồn ngài chưa được giải quyết thoả đáng? Liệu có phải vì ngài còn thao thức cộng đoàn non trẻ mới thành lập chưa hoàn thành trọn vẹn? v.v… Trong quyển tiểu sử cha Biển Đức Thuận, tác giả đưa ra một câu trả lời thật thoả đáng: “Dường như kẻ hấp hối đang phải cật lực chiến đấu với ma quỷ vốn ra sức trả thù vì vô số linh hồn đã được cha Bề trên đáng kính (cha Tổ Phụ) cứu vớt khỏi tay nó và vì ơn cứu độ mà nhà dòng Phước Sơn sẽ mang lại trong tương lai.” Từ những giờ phút cuối đời của cha Tổ Phụ cho thấy cơn hấp hối của ngài tựa như một cuộc thanh luyện cuối cùng. Chính trong những ngày cuối đời đầy đau đớn này mà ngài trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô chịu khổ nạn, với Đấng đã từng chịu một cơn hấp hối khổ não như thế.

  • Từ giã cõi đời tạm này và ra đi bình an

Sau những cơn hấp hối, vài phút trước khi ly trần, ngài bình an thanh thản và nói: “Thế là đã hoàn tất!” Ngài xin xá giải lần cuối, giục lòng ăn năn thống hối, rồi trút hơi thở cuối cùng một cách bình an. Hình ảnh này tựa như bức chân dung của Đức Giêsu trên thập giá trước khi tắt hơi thở cuối cùng, đã nói: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19,30), và kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Cha Tổ Phụ hoàn tất cuộc đời trần thế và ra đi bình an với Chúa. Trước đó, ngài đã để lại lời trăn trối cuối cùng cho các đan sĩ của ngài như một di sản thiêng liêng: “Cha gần về cùng Chúa, không biết chắc là ngày nào. Song theo sự thường, thì cha không còn ở thế gian này với chúng con lâu ngày nữa. Cha khuyên chúng con hãy nhớ: Đàng nhân đức là tuân theo Thánh ý Chúa, mà theo Thánh ý Chúa là giữ Luật Dòng cho trọn. Cha còn nói một lần nữa: chúng con muốn nên thánh thì hãy giữ Luật Dòng; muốn nên thánh, thì hãy giữ Luật Dòng. Còn phần cha, thì đi bình an lắm. Cha không áy náy lo lắng chi hết. Vì cha biết rõ Chúa là Cha chung, Chúa thương cha và cũng thương chúng con; cho nên không sợ chi cho cha, và cũng không sợ chi cho chúng con. Vậy, xin chúng con hãy ở bình an như cha, vì Chúa là Cha thương chúng tôi quá lẽ. Chúng con muốn xin phép lạ, (Ý nói: xin cho ngài lành bệnh) thì mặc ý. Còn phần cha thì không xin. Cha xét: phó mình trong tay Cha lành là điều tốt hơn cả. Vậy, trong chúng con chớ có ai buồn, chớ có áy náy lo sợ. Một đi chung cùng nhau, vui vẻ theo Thánh ý Cha chúng ta. Cảm ơn Chúa. Cám ơn Đức Mẹ.”[134]

Như vậy, cuộc vượt qua của cha Tổ Phụ là cả một sự chuẩn bị từ xa tới gần trong quá trình ơn gọi của ngài. Từ sự ước ao dâng mình cho Chúa, ước ao nên thánh, nên thầy dòng thánh, thầy dòng thật; luôn suy đến sự mỏng manh mau qua chóng tàn của đời tạm này để hướng đến hạnh phúc viên mãn ở đời sau là Nước Trời. Bằng sự nỗ lực yêu mến Chúa, tin – cậy –mến, kết hiệp với Chúa, luôn tín thác vào Chúa trong mọi sự, chi cũng làm cho Chúa… để đến giờ sau hết được an bình thanh thảnh ra đi, chết trong ân nghĩa của Chúa. Đó là mẫu gương đáng để con cháu mai hậu noi theo.

  1. Sống theo tinh thần cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận

Con người có khả năng nhận biết và yêu mến Thiên Chúa. Hơn nữa, tự bản chất con người luôn khao khát tìm kiếm và quy hướng về Đấng đã tác tạo nên mình. Vậy nên khi rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Hay nơi khác, thánh Phaolô cũng khuyên dạy: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3,2). Quả thật, từ xưa tới nay, các thánh đã sống những lời dạy đó trong hoàn cảnh của mình với tất cả lòng tin – cậy – mến để làm chứng cho Tin mừng Nước Trời, và đã chết cùng với Đức Kitô để nên đồng hình đồng dạng với Người.

Cũng vậy, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã sống những lời dạy đó. Ngài là một nhà truyền giáo hăng hái, đầy nhiệt huyết, nhưng đã được ơn Chúa thúc đẩy để lập dòng sống ơn gọi chiêm niệm. Ngài cảm nghiệm rằng chỉ khi sống trong thinh lặng cô tịch mới dễ dàng tìm được bình an thực sự. Vì thế, ngài yêu thích sống đời âm thầm thinh lặng trong nhà dòng hơn, mặc dù hoàn cảnh sống lúc bấy giờ gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn đủ thứ, nhưng phải chăng vì thế mà lòng tin cậy, phó thác vào Chúa càng được xác tín mạnh mẽ hơn. Ngài luôn suy xét về đời sống mình, cùng với lòng khao khát nên thánh, nên thầy dòng thật, thầy dòng thánh… nên đã cố gắng mỗi ngày hoàn thiện hơn và sống ơn gọi đan tu ngày càng triệt để hơn, hầu mai sau được hưởng hạnh phúc viên mãn với Chúa. Cha Tổ Phụ thường khuyên dạy các đan sĩ của mình rằng: “Chúng ta hãy cầm trí lại mà suy xét, hoặc bấy lâu nay đã không lo, hay là không lo cho đủ, thì nay, hết lòng ăn năn xin Chúa tha thứ, và hãy gắng công ra sức lo làm bây giờ, ngày hôm nay, giờ này, kẻo giờ chết đến, lo không kịp chăng?”[135] Nơi khác, ngài nói: “Vậy, chúng ta ai nấy lo xét mình lại, và có điều chi không hợp Phúc âm, thì lo ra sức xa lánh. Ai nấy lo dọn mình, hầu được vui mừng trong ngày lễ Phục sinh sau này. Vì chúng ta chẳng sống được mấy ngày nữa, là lìa bỏ đời này, mà về cùng Chúa.”[136] Cũng thế, thánh Phaolô nói rằng thời gian chẳng còn bao lâu nữa… vì bộ mặt thế gian này đang biến đi (x. 1Cr 7,29-31).

Nếu ngày xưa cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận cũng như các thánh ưa chọn sống trong môi trường thinh lặng cô tịch. Thì ngày nay, những người sống đời thánh hiến đang phải sống trong bối cảnh toàn cầu hoá, phải tiếp xúc với đủ thứ ồn ào náo động. Vấn đề đặt ra: những người thánh hiến sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian liệu có tìm được bình an hạnh phúc đích thực…? Đan sĩ dù sống trong bốn bức tường của đan viện nhưng liệu có sống bầu khí tĩnh lặng nội tâm thật sự, có kiểm soát được nội vi tâm hồn khi tiếp xúc với thế giới công nghệ và lượng lớn thông tin như thế không?

Một vài câu hỏi nêu lên như thế để mỗi người suy tư về cuộc đời mình, về thân phận mỏng giòn của con người, cũng như suy tư về ngày tận cùng của đời mình khi đối diện với Thiên Chúa.

Lời kết

Cuộc sống nhân sinh ai cũng mong muốn có được bình an hạnh phúc, bình an lúc sống cũng như bình an lúc từ giã cõi đời. Nhưng làm sao để kiến tạo bình an thực nếu không tin vào Đức Kitô, không tìm kiếm Ngài, không sống với Ngài, bởi Ngài là nguồn bình an đích thực. Bình an mà Đức Kitô ban tặng không theo kiểu thế gian, nhưng là bình an của sự giải thoát, bình an của ơn Cứu Độ. Cụ già Simêon và cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận suốt cuộc đời chỉ sống cho một mình Thiên Chúa, luôn yêu mến, cậy trông, tin tưởng, chờ đợi có ngày gặp được Đấng Cứu Độ. Và Thiên Chúa đã không để các ngài thất vọng về “tay không” khi đã dành cả cuộc đời theo đuổi niềm hy vọng đó. Các ngài đã nhận được cái kết có hậu là gặp được Đức Kitô và an bình ra đi đến với Chúa. Noi gương các ngài, mỗi người chúng ta hôm nay cũng đang tiến bước trên con đường tìm kiếm bình an của Đức Kitô. Vậy nên ta hãy cố gắng yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực… (x. Mt 22,37; Mc 12,30; Lc 10,27) và luôn thao thức sống trong niềm khát khao tìm kiếm Nước Trời.

 

 

NHẸ TỰA LÔNG HỒNG

                                                         Sr. M. Têrêsa Tin

Cuộc sống nhân sinh với bao buồn vui lẫn lộn, có những ngày như ở chín tầng mây, lại không thiếu nhiều ngày ở dưới đáy của nỗi buồn và thất vọng. Có những khi cuộc sống đưa ta lên như diều gặp gió, có khi lại hà khắc như nấm mồ chôn sâu. Và trong mọi thứ khổ đau, có lẽ cái chết là thứ nghiệt ngã nhất. Bởi giàu chết, nghèo chết, già chết, trẻ chết, vui chết, buồn chết…. chết bất ngờ, chết đau thương! Chết có phải chấm hết, có phải là nỗi ám ảnh suốt hành trình sống? Bởi càng sống ta càng tiến tới cái chết, tiến gần tới một nơi hay một tình trạng chưa ai bước qua – vì không ai từ cõi chết trở về nói cho chúng ta chết là thế nào.

Chết là sự chấm dứt vĩnh viễn của mọi hoạt động sống, các bộ phận còn lại của con người trở thành một phần trong chu trình sinh địa hóa, quá trình thối rữa và một mắt xích trong chuỗi thức ăn.[137] Chết là sự thay đổi tình trạng hạn định của con người, khiến con người rơi vào một trạng thái lưng chừng, bất định. Đơn giản: Chúng ta không biết cái gì đến đằng sau cái chết. Cái chết không nên được hiểu như sự kết thúc, vì chúng ta chẳng biết liệu nó có kết thúc được không. Cái chết nên được hiểu như là “sự đi vào bất định” bởi chúng ta không dò đoán được cái gì diễn ra đằng sau nó.[138]

Cái chết là lẽ tất yếu của sự vô thường. Đứng trước sự lựa chọn bước vào cái chết, tự đánh giá, phán đoán giá trị, để mà quyết định “dùng cái chết vào chỗ nào”, làm sao để cái chết có ý nghĩa, xứng đáng. Chết nhẹ tựa lông hồng – Một điển ngữ, những tấm gương và sự chuẩn bị. Như vậy, chết dù có đáng khiếp sợ nhưng tùy vào thái độ của ta.

  1. Một điển ngữ

Người quân tử coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, uy vũ không thể khuất phục được. Lông hồng là lông con chim hồng, nhẹ, rất nhẹ.[139]

Thái sử công Tư Mã Thiên lấy lại câu nói của tiền nhân và đã từng viết: “Con người cố nhiên sẽ một lần chết, có cái chết nặng hơn Thái Sơn, có cái chết nhẹ hơn lông hồng, là do cách sử dụng cái chết khác nhau mà ra”. Lúc đó Tư Mã Thiên sống trong nhục nhã, sống không bằng chết. Nhưng ông thấy, nếu chết vì không chịu nổi cái nhục là cái chết vô nghĩa, không thể khinh suất mà coi thường vứt bỏ tính mạng trân quý nặng hơn cả Thái Sơn của mình được. Sinh mạng của ông còn cần phải thực hiện sứ mệnh cao cả[140]. Sinh mệnh rất trân quý, rất đáng giá, nó còn nặng hơn núi Thái Sơn, do đó cần suy nghĩ xem xét dùng sinh mệnh vào việc gì, nơi nào thật ý nghĩa. Khi đã tìm được ý nghĩa để sử dụng sinh mệnh rồi, đáng sử dụng rồi thì khảng khái thực hiện sứ mệnh, đánh đổi sinh mệnh mình cho nghĩa cử trân quý, lúc đó sẽ coi cái chết thật nhẹ nhàng, nhẹ hơn cả lông hồng.[141]

  1. Những người coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”

Mỗi cá nhân khi đối diện với sự sinh tử chính là đối diện với những sự lựa chọn trong cuộc sống. Và trong rất nhiều trường hợp, cái chết đã trở nên không còn quan trọng, bởi có những điều lớn lao cần phải đặt lên hàng đầu. Nói về cái chết, thực ra, cũng chính là để yêu thương cuộc sống này nhiều hơn mà thôi…[142] Chúng ta có thể nêu lên cái chết của một số người tiêu biểu “coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.”

Trước tiên là những người đi tìm chân lý cuộc sống

Cuộc sống con người là một hành trình tìm kiếm và suy tư để khám phá ra ý nghĩa của đời người. Một số triết gia tiêu biểu tìm thấy ý nghĩa của đời người, nên cái chết đối với họ trở nên nhẹ nhàng hơn những người khác. Chúng ta có thể lấy hai ví dụ để minh hoạ.

Chuyện kể rằng, lúc Trang Tử sắp lâm chung, các đệ tử vây quanh ông khóc lóc. Có người nói rằng phải làm tang cho thầy thật hậu để tỏ rõ uy đức của Trang Tử. Ông nghe được, bèn gạt đi, nói:

– Chớ làm vậy! Ta chết đi đã có trời đất làm quan quách, mặt trời mặt trăng làm ngọc bích, các tinh tú làm ngọc châu, vạn vật sẽ đưa ma ta, như vậy đồ táng ta chẳng đủ rồi sao? Còn phải thêm gì nữa?

Các học trò lại thưa:

– Chúng con sợ diều quạ sẽ rỉa xác thầy.

Trang Tử thản nhiên đáp:

– Ta trên mặt đất thì bị quạ và diều hâu rỉa, ở dưới đất thì bị kiến và sâu đục, đằng nào cũng vậy. Tại sao các con lại thiên vị, cướp của các loài trên mà cho các loài dưới?[143]

Còn triết gia Socrates lấy cái chết ra để bảo vệ chân lý. Trong bức tranh nổi tiếng “Cái chết của Socrates” của danh hoạ người Pháp thuộc trường phái Tân Cổ điển Jacques-Louis David vẽ năm 1787, Socrates hiện lên như một vị Thần, xung quanh là những môn đệ đau đớn, gục ngã khi phải chứng kiến bi kịch của thầy. Trong bức tranh, Socrates vừa nói vừa giơ tay trái lên trời, phong thái hùng hồn, tự tin. Tay phải ông dửng dưng với lấy chén thuốc độc không hề run sợ. Trước cái chết, Socrates vẫn điềm tĩnh lạ thường! Bức tranh của David đâu chỉ là một tác phẩm hội hoạ kiệt xuất, ấy là sự ca tụng dành cho những người kiên trì chân lý, thậm chí có thể lấy cái chết ra để bảo vệ đức tin của mình.[144]

Thứ đến là những con người chết vì đại cuộc

Nhóm người thứ hai coi cái chết nhẹ tựa lông hồng là những người dám hy sinh mạng sống mình vị đại cuộc dân tộc. Họ dám xông pha vào chiến trường, chiến đấu để bảo vệ đồng bào, giữ gìn giang sơn dân tộc. Vượt trên mọi thứ ý thức hệ và cơ cấu chính trị, những anh hùng liệt sĩ là những tấm gương đã tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, nên cái chết vì đại cuộc đã mang lại giá trị cho chính đời sống của họ. Chúng ta có thể nêu tên những con người, trải dài qua dòng lịch sử dân tộc, đã dương cao ngọn cờ đại cuộc. Nhưng danh sách quá dài, chúng ta cần ghi công và biết ơn họ.

Và có những con người vượt qua ranh giới của quốc gia để lo đại cuộc cho thế giới. Họ không chỉ là những “chiến binh” trong lãnh vực quân sự, mà còn là những người chăm sóc tha nhân trên thế giới trong lãnh vực văn hóa, nhân bản, tôn giáo; nghĩa là trong mọi lãnh vực cuộc sống con người. Họ bênh vực nhân quyền. Biết bao nhiêu đe doạ và đã có những người đã hy sinh tính mạng vì đại cuộc này. Họ mang lại giá trị đích thực cho cuộc sống con người, và qua đó, cuộc sống của họ cũng có giá trị và ý nghĩa. Cái chết trở thành dấu chỉ của hy sinh vì đại cuộc.

Tiếp theo là những bậc cha mẹ

Những tấm gương cụ thể và gần gũi nhất của mỗi chúng ta là những người cha người mẹ hy sinh cho gia đình, cho con cái. Cái chết của các ngài không đến một nhưng trải dài trong đời sống. Các ngài chịu hao tổn sức khoẻ, tự nguyện dành phần thiệt thòi về mình, để cho con cái được ấm no, hạnh phúc. Công lao của cha mẹ đối với con cái thật vô bờ bến:

“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”

Việc cưu mang và sinh hạ vừa mang đến hạnh phúc, nhưng đồng thời vẫn ẩn chứa nguy cơ đe doạ tính mạng cho người mẹ. Bởi đó, dân gian ta có câu “cửa sinh là cửa tử.” Thời điểm sinh hạ một người con luôn là một thời điểm ‘căng thẳng’ cho người mẹ vì không biết chuyện gì sẽ xảy ra, ngay cả đến tính mạng của chính mình. Mỗi lần mang lại sự sống, là mỗi lần cái chết đe doạ. Nhưng khi can đảm sinh con, người mẹ đã “coi cái chết” của mình “nhẹ tựa lông hồng”, chính vì sự sống của người con. Điều này được diễn đạt thật thấm trong Tin mừng: “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian” (Ga 16,21).

Sau cùng là những người chết vì tình yêu lớn nhất

Những người trên, hy sinh sự sống bản thân, đã mang lại cho họ và người khác, ý nghĩa cuộc sống. Và như vậy, cái chết là một minh chứng hùng hồn cho một thứ tình yêu mang dấu ấn ‘vô vị lợi’. Và còn đó những người, mà cái chết của họ, diễn tả “một tình yêu lớn nhất”. Một tình yêu lớn nhất là vì họ dành tất cả tình yêu cho Ai Đó, sẵn sàng chết cho Người Đó, vì chính Người Đó là Người Lớn Nhất trong cuộc đời của họ. Chúng ta không thể quên tấm gương của các thánh tử đạo hy sinh mạng sống vì Ai Đó là chính Chúa Kitô và Tin mừng, để từ những giọt máu ấy nẩy sinh các Kitô hữu.

Chính những trang sử hào hùng ấy, những tấm gương sống còn đẫm chất hùng anh vẻ vang ấy, những nhiệt huyết trung nghĩa để đi theo Chúa đến cùng, những trái tim rực lửa sục sôi lòng mến ấy, những câu nói bất hủ ấy góp phần làm giàu cho đời sống thiêng liêng của mỗi chúng ta. Chúng ta có thể nêu lên một vài ví dụ nơi các vị tử đạo Việt Nam.

Thánh Augustinô Phan Viết Huy đã xác quyết: “Các người dùng võ lực lôi thân xác ta, các người cố dùng sức lực lôi chân ta, nhưng các người có dùng sức mạnh để lung lay ý chí ta được không? Bao lâu ta không chịu, thì dù có đánh đập các người cũng không đạt được mục đích đâu!” Hoặc như thánh Đaminh Ninh mạnh mẽ tuyên xưng: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu.” Hay đơn giản chỉ là: “Tôi đi để quê tôi có người làm Thánh” (thánh Valentinô Vinh). Và thật nhẹ nhàng nhưng đầy chất thi ca qua lời nói của thánh Phêrô Ðoàn Công Quý:

Dù trăng trói, gông cùm tù rạc
Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề
Miễn vui lòng cam chịu một bề
Cho trọn đạo trung thần hiếu tử.[145]

Đây là những con người, suốt cuộc đời phụng sự Chúa Kitô, và khi cần minh chứng cho lòng trung tín đến cùng của mình, các ngài đã sẵn sàng chết vì Chúa, vui lòng “tử vì đạo”. Các ngài tiến ra pháp trường lòng hân hoan như “đi vào tiệc cưới”, vì đã thâm tín rằng không gì tách các ngài khỏi tình yêu Thiên Chúa trong Chúa Kitô Giêsu, dù đó là cái chết (x. Rm 8,35-39). Cái chết, đối với các ngài, “nhẹ tựa lông hồng”, vì tình yêu Chúa Kitô có sức mạnh tuyệt đối.

Suy nghĩ về cái chết của những vị trên, chúng ta suy nghĩ gì về cái chết đang chờ đợi chúng ta? Kẻ trước người sau sẽ tiến đến giờ phút lâm chung và ra đi khỏi cuộc đời. Cái chết không chừa một ai. Phải chăng có một sự chuẩn bị tốt cho cái chết, một “cái chết nhẹ tựa lông hồng”?

  1. Chuẩn bị cho cái chết

 Sống ở đời có nhiều thứ để lo, để bận rộn, để tranh đua, để hơn thua, để rồi ta lại tức giận và bức bối, rồi lại chán nản và thất vọng, rồi lại tiếp tục làm việc, làm việc nặng nề và khi đêm về lại thấy lòng mình trống vắng. Cuộc sống cơm áo gạo tiền, kế sinh nhai, khúc mắc trong công việc, bất mãn với những điều không như ý xảy ra, đôi khi là sự thỏa hiệp trái với lương tâm. Rồi ta tự hỏi: cuộc sống nhẹ nhàng ở đâu? Mua đâu, tìm đâu và ai cho?

Ta cứ tìm, cứ mua, cứ vất vả ngược xuôi, nhưng ta không biết rằng chính trong tâm ta đang ẩn chứa sự thanh thản. Tất cả là do cách suy nghĩ và thái độ của ta đối với cuộc sống và đối với từng vấn đề truân chuyên. Ta cần phải tập chết mỗi ngày bằng nhẹ gánh lo lắng những sự đời, thế gian. Nhẹ lòng những chuyện bon chen. Sống nhẹ để chết nhẹ, bằng coi nhẹ những thứ thật sự là nhẹ. Chúng ta cần có thái độ đúng đắn, tinh thần sống tích cực, chúng ta sẽ đạt được ước mơ của mình, vượt nhẹ tựa lông hồng.

Bất cứ ai cũng phải trải qua gian truân thử thách, khổ đau, với nhiều hình thức khác nhau. Ngay cả khi chứng kiến cái chết của người thân hay nhiều cái chết bi đát của kiếp người, ta không cầm được nước mắt, có khi là khó lòng vượt qua nổi. Trách sao tử thần quá tàn nhẫn, quá bất công. Sống ở đời ta luôn phải như một chiến sĩ, chiến đấu với cuộc chiến khốc liệt giữa sự sống và cái chết, sự giằng co giữa thiện và ác.

Mỗi ngày, vào lúc sắp đi vào giấc ngủ, chúng ta như đi vào một thế giới mà tất cả những gì của hiện tại không thể đi theo và mang theo. Khi đi vào giấc ngủ là lúc chúng ta ‘buông bỏ’ hết. Người ta không thể vừa ngủ vừa ‘ôm’ tất cả thế giới với những hoạt động của nó. Người ta chìm vào một thế giới ‘yên tĩnh’. Nếu không thể ngủ, chỉ là thao thức và bất an. Hình ảnh đó gợi cho chúng ta rằng, để có một giấc ngủ sâu, bình an, cần buông bỏ tất cả. Nhẹ lòng, nhẹ gánh, sẽ an lòng, sẽ ngủ ngon. Trái lại, nặng lòng, nặng gánh lo âu, sẽ không ngủ yên giấc và ác mộng sẽ đến.

Vì thế, cái chết không nên bị sợ hãi, cũng không nên bị tối giản về cái chết sinh học. Cái chết không thể chỉ là ‘cái chết’, một loại dấu hiệu, không có ý nghĩa. Cái chết tự nó luôn là cái gì khác, luôn phải là cái gì đó của người sống và của người chết, là một mối liên hệ giữa sự hạn định và sự bất định. Cái chết phải có nhiều ý nghĩa như chính sự sống của chúng ta vậy.

Ai cũng chỉ duy một lần để sống và một lần để chết. Cái chết cao quý lắm, giúp ta học sống thế nào để khi chết ta không ân hận. Như tác giả Hoài Ân đã nhắc nhở ta qua lời bài hát: “Nếu chỉ còn một ngày để sống, làm sao ta đền đáp ân tình…”

THAY LỜI KẾT

Giờ phút ra đi sẽ đưa ta lên cao, vì cả cuộc đời ta đã được định hướng bởi trên cao, vì tâm hồn ta luôn “ngưỡng vọng trời cao”. Định hướng này đưa đến những hệ quả tích cực cho chính cái chết.

Cái chết sẽ đến với mỗi chúng ta như một chân lý vĩnh cửu. Tuy nhiên, chính cái chết sẽ là nơi cô đọng tất cả hành trình cuộc sống. Sống sao sẽ chết vậy. Cái chết sẽ là đáp án cho những gì bản thân chúng ta mang trong cuộc sống. Cái chết sẽ giải mã những bí ẩn chất chứa trong cuộc nhân sinh. Nếu sống vì Tình Yêu, ta sẽ chết vì Tình Yêu. Nếu sống cho Tình Yêu, ta sẽ chết cho Tình Yêu. Nếu Tình Yêu nâng cao đời sống, thì cái chết sẽ “nhẹ tựa lông hồng” vì Tình Yêu sẽ đưa ta lên cao vào chính giờ phút ta ra đi khỏi đời này.

Thường ngày ta phải đối diện với nhiều cám dỗ, mệt mỏi vì những ham muốn và danh lợi, để gỡ bỏ mọi ràng buộc chết chóc, e rằng rất khó. Bầu trời có khi nắng khi mưa, sống ở đời cũng có người ưa người ghét. Đường đời có khi bằng phẳng, có lúc lại gập ghềnh sỏi đá… Chúng ta luôn tìm sự công nhận của thế giới bên ngoài, nhưng ta nào biết sự đẹp đẽ nhất là Tình Yêu và sự Bình An trong trái tim mình.

Tình yêu và bình an của chính Đức Giêsu Kitô: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em; Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 13,34;14,27). Tình yêu và bình an của Chúa là hành trang chúng ta mang theo vào ngay cả giờ phút cuối cùng của cuộc sống: ra đi bình an. Sống hết mình cho Tình Yêu, để rồi trên mộ chúng ta, dòng chữ đẹp được ghi “R.I.P” (Requiescat in Pace) – “Hãy an nghỉ”; “Hãy nghỉ ngơi trong bình an”. Phải chăng đó cũng là điều chúng ta nghĩ tới khi kỷ niệm 90 năm ngày cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận “yên nghỉ trong Chúa”? Và phải chăng đó cũng là “tâm thái” cần thiết để tiến đến ‘giờ’ của mỗi chúng ta, nhẹ tựa lông hồng?

 

 

“TÔI TIN XÁC LOÀI NGƯỜI NGÀY SAU SỐNG LẠI”

  1. Salesio Đỗ Duy Đông

Con người trong “tư tưởng” và trong ca từ của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn khởi đi từ một “hạt bụi” hư vô nhưng không tầm thường. “Hạt bụi” ấy không im lặng nhưng lại biết trăn trở về cuộc đời, về phận người, để chợt nhận ra: Tôi là ai? Tôi đến từ đâu và tôi sẽ đi về đâu? Trong cuộc đời mỗi người, có lẽ thỉnh thoảng chúng ta cũng có những dịp dừng lại để trầm ngâm về phận mình. Khởi đi từ đây, con người đã nhận ra và chạm đến giới hạn của mình: tôi chỉ là một “hạt bụi” từ hư vô, tôi “không là gì” với sự vô biên của vũ trụ. Thế nhưng, con người phải thốt lên vui sướng khi nhận ra rằng, từ cái “hư vô” ấy, tôi đã được tác tạo, được “hóa kiếp” thành con người với sức sống mãnh liệt. Trong ca khúc “Cát Bụi”, ông đã cảm nhận được sức sống ấy, khi viết: “Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy. Ôi! Cát bụi tuyệt vời…”

Từ hư vô, tôi được sinh ra trong dòng thời gian của vũ trụ này, tôi quả thật là “cát bụi tuyệt vời”. Ngay khi chợt nhận ra được nguồn gốc và sự hiện hữu của mình, con người không khỏi băn khoăn khi suy nghĩ về hành trình làm người: Tôi sẽ đi về đâu? Tôi thật hạnh phúc khi được sinh ra trong cuộc đời này! Thế nhưng, tôi lại bị giới hạn trong thời gian và giới hạn của kiếp người: Sinh – Lão – Bệnh – Tử. Và đó cũng là điều mà cố nhạc sĩ họ Trịnh hằng tâm niệm: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi” (ca khúc Cát bụi). Phải chăng cuộc sống chỉ vậy thôi, phải chăng tôi được sinh ra để rồi tan biến vĩnh viễn trong hư vô? Hành trình con người được khởi đi từ sự “kỳ diệu” của Đấng Tạo Hoá, lẽ nào lại kết thúc một cách “vô duyên” với cái chết?

Vậy đâu là ý nghĩa của đời sống này? Con người rồi sẽ chết hay bất tử? Con người sẽ tan biến vĩnh viễn trong hư vô, hay sống lại trong ngày sau hết? Có sự sống đời sau hay không? Đó vẫn mãi là một ẩn số không bao giờ giải đáp được đối với một số người. Và đây cũng là vấn đề mà người Kitô hữu luôn quan tâm và đi tìm cho mình một giải đáp xứng với điều mà họ tin và tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy. Amen”.

I. Cái chết với thân phận con người

  1. Cái chết hiện hữu trong chính cuộc đời con người

Cái chết hiện diện giữa cuộc đời, đó là một điều hiển nhiên mà ngày ngày con người phải đối diện và đón nhận nó như là một thực tại không thể thiếu trong kiếp nhân sinh. Chính thánh Augustinô cũng đã nói: tất cả mọi sự đều không chắc, chỉ duy có cái chết là chắc chắn. Con người không phải là một hữu thể sinh ra để một ngày kia sẽ chết, nhưng nó đang chết ở trong cuộc đời. Con người biết rõ điều đó! Con người ý thức rằng cái chết là chấm dứt cuộc đời dương thế, kết thúc một kiếp người, cắt đứt các mối tương quan với tha nhân, với bản thân, và với các dự án của mình.

Trong bài giảng Chúa nhật cuối của năm phụng vụ 2018,[146] Đức thánh cha Phanxicô đã mời gọi các linh mục, tu sĩ nam nữ, mọi tín hữu trên toàn thế giới và chính bản thân ngài hãy tự chất vấn mình: “Tôi muốn Thiên Chúa nhìn thấy tôi như thế nào khi Người gọi tôi”. Sống trong thế giới đầy biến động này, con người luôn phải đối mặt với nhiều nỗi sợ hãi. Con người sợ hãi là vì con người bất tri, bất toàn và hữu hạn. Trong tất cả những nỗi sợ hãi của mình, nỗi sợ lớn nhất chắc chắn là “sợ chết”. Công đồng Vaticanô II đã minh định: “Trước cái chết, bí ẩn về thân phận con người lên cao đến tột độ.”[147]

Quả vậy, các triết gia, các nhà tư tưởng, từ xưa đến nay, luôn trăn trở đi tìm giải đáp cho ba câu hỏi về thân phận con người: Tôi là ai? Tôi từ đâu đến và đi về đâu? Tôi sống để làm gì? Các câu hỏi ấy có một nguồn gốc chung: là sự kiếm tìm ý nghĩa luôn luôn hối thúc trong tâm hồn chúng ta, bởi hướng đi của kiếp nhân sinh hệ tại ở lời giải đáp cho những câu hỏi ấy. Công đồng Vaticanô II đã mô tả nỗi lo âu và nghèo nàn của con người trước mầu nhiệm sự chết, nhưng mỗi người lại luôn được mời gọi tiếp cận mầu nhiệm này.

Cái chết là một thực tại không thể tránh được và cái chết là một điều gây nên mọi đổ vỡ đau thương trong bản chất con người, trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Ngay cả những vị đại thánh cũng phải trải qua những giờ phút đau thương trước cái chết của những người thân yêu. Thánh Augustinô đã mô tả sự đau thương đó khi ngài phải chứng kiến cái chết của mẹ ngài: “Khi vuốt mắt cho mẹ tôi, một nỗi buồn thảm siết chặt con tim tôi và nỗi buồn đó trào ra thành một dòng suối lệ. Đó là một sự kiện gây tổn thương khủng khiếp cho tôi. Vết thương đau buốt bởi sự kiện xảy ra bất ngờ làm tan vỡ cuộc sống êm đềm quá quen thuộc của chúng tôi.”[148]

Người Kitô hữu chúng ta được mặc khải đầy đủ về thân phận con người: con người do Thiên Chúa tạo dựng để được sống, ngợi khen, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa. Ngang qua cái chết, con người trở về với Thiên Chúa để được hưởng cuộc sống vĩnh hằng viên mãn với Người. Bởi vì “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là Thiên Chúa của kẻ sống” (Lc 20, 37). Cái chết không phải là kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa, sách Khôn Ngoan cũng khẳng định điều đó: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo ra muôn loài cho chúng hiện hữu” (Kn 1,13-14). Khi Chúa tác tạo con người bởi bùn đất, Người đã thổi vào nó một luồng sinh khí, đó là lúc con người được ban sự sống vĩnh cửu. Sự chết xuất hiện là do tội lỗi, thánh Phaolô cũng quả quyết: “Tử thần có độc là vì tội lỗi” (1Cr 15,56). Tội lỗi sinh ra cái chết, cắt đứt mọi mối liên hệ với Đấng Hằng Sống, Đấng ban sự sống.

Cái chết vẫn tồn tại cùng với con người nhưng không ai biết được lúc nào ngày ấy đến. Ngày đó, mọi người đều phải trình diện Thiên Chúa với đầy đủ những dấu chứng của cuộc sống nhân thế để quyết định xem có phải là người xứng đáng hưởng “Thiên Phúc” hay không. Vì lẽ đó, mọi người ngay từ bây giờ phải chuẩn bị trả lời cho câu hỏi: “Tôi muốn Chúa nhìn thấy tôi như thế nào khi Người gọi tôi?”

  1. Phải chăng cái chết như là một nghịch lý của cuộc sống

Hầu hết các triết gia đều có một cái nhìn lạc quan và thanh thản trước cái chết. Socrates (469-399) đã từng nói: “Chúng ta chiến đấu cho cái gì trong cuộc đời? Đó là để thoát ra khỏi thân xác và những xấu xa do đời sống thân xác mang lại. Vậy thì tại sao ta lại không hân hoan khi cái chết tới gần?” Còn đối với Platon (427-347): “Triết học là môn học dạy cho người ta biết sống và biết chết cho hợp đạo làm người”. Martin Heidegger (1889-1976) một triết gia người Đức lại định nghĩa “con người là một hữu thể hướng đến cái chết.”

Ở đây chúng ta thấy tư tưởng của Martin Heidegger rất gần với tư duy của Gabriel Marcel (1889-1973) một triết gia người Pháp, ông nói: “Con người là một huyền nhiệm.” Sự huyền nhiệm trong hiện hữu và đang trên hành trình đi đến hiện hữu. Vì thế con người một mặt vừa khẳng định chính mình, xây dựng cuộc sống cho mình nhưng mặt khác cũng cảm thấy âu lo xao xuyến và bất ổn. Hơn nữa, ở một góc nhìn khác của Martin Heidegger về cái chết thì quan điểm này rất gần với lời dạy của Đức Phật: Tất cả chúng sanh đều đã dành cả cuộc đời mình để chuẩn bị cho cái chết; và cái chết chỉ là sự khởi đầu của một vòn luân hồi. Mặt khác, nó như một tấm gương phản chiếu toàn vẹn ý nghĩa của kiếp nhân sinh. Hơn nữa, sự huyền nhiệm đó làm cho con người biết rất rõ về mình nhưng rồi lại không biết gì cả.

Tuy nhiên, dưới khía cạnh hiện tượng luận, chúng ta phải nhìn nhận rằng: cái chết là một bí ẩn, nên ta không thể đưa ra những lời giải đáp trừu tượng dựa trên “bản tính” con người là phải chết, hoặc những luận điệu đạo đức để cố hiểu về nó. Và vì thế, vẫn còn rất nhiều người xem cái chết như là một nghịch lý của cuộc sống. Tại sao tôi phải chết? Tôi hiện hữu làm gì để rồi phải chứng kiến cái chết? Cái chết có hiện hũu trong tôi hay không? Và đôi khi họ không muốn nhắc đến hoặc loại trừ cái chết ra khỏi cuộc đời mình, cái chết lúc này đối với con người như là một sự dữ độc ác nhất.

Vì nhận thấy rằng sự chết là một điều trái nghịch với cuộc đời, cho nên triết gia Jean-Paul Sartre (1905-1980) đã kết luận rằng cuộc đời phi lý bởi lẽ nó kết liễu với cái chết. Jean Paul Sartre đã phê phán quan điểm của Martin Heidegger, vì ông xem cái chết là tận cùng của đời người, là cái đích của hữu thể. Theo Jean Paul Sartre thì cái chết nằm ngoài cuộc hiện sinh của con người, ông nói: chết là hết sống, như vậy còn đâu “cái tôi” để nói “tôi chết” được. Sự chết là thất bại lớn nhất của con người! Jean Paul Sartre lập luận rằng: Cái chết là một hiện tượng xảy ra trong vũ trụ để những “người khác tôi” chứng kiến. Tôi thấy người khác chết và những người khác sau này thấy tôi chết. Còn tôi, tôi không thấy tôi chết, nên cái chết không thuộc cơ cấu hiện sinh của tôi. Đây là một biện minh phi lý cho quan điểm hiện sinh của ông.

Thật ra, cái chết không phải là một nghịch lý trong cuộc đời. Dưới cái nhìn của Kitô giáo thì cái chết là điều đáng ước mong! Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Philipphe rằng: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21). Và chính tác giả sách Khải huyền cũng đã tuyên bố: “Phúc cho những ai chết trong Chúa” (Kh 14,13). Bởi vậy, chỉ trong Thiên Chúa, con người mới tìm thấy ý nghĩa đích thật của đời mình cách trọn vẹn nhất.

  1. Phải chăng bất tử là một giấc mơ đem lại gánh nặng cho cái chết?

Theo truyền thống văn hóa Việt Nam, người xưa coi cái chết là “mãn kiếp”, thế nên, cha ông ta thường ung dung thư thái đón đợi cái chết, sửa soạn cho lúc chết ngay từ những năm hãy còn khỏe mạnh.[149] Cha ông ta ngày xưa không phải là những người vô thần, các ngài vẫn có một niềm tin vào Ông Trời, vẫn tin vào một kiếp sau tuy còn mơ hồ: “Sinh ký tử quy.” Đứng trước thực tế của cái chết, trước cuộc đời vắn vỏi như bóng câu, nhiều người từ xưa đến nay đã nỗ lực đi tìm phương thế để kéo dài cuộc sống, thậm chí còn mơ ước đạt tới trường sinh bất tử. Nhưng cho đến nay mọi nỗ lực đã thất bại và đó chỉ là một giấc mơ. Giấc mơ này đôi khi còn là một gánh nặng cho cuộc sống, vì đây là án lệnh của Thiên Chúa đã ra cho loài người sau khi nguyên tổ Ađam – Evà phạm tội: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về bụi đất” (St 4,19). Tuy nhiên, chính Đức Giêsu Kitô Phục sinh đã biến giấc mơ bất tử của con người thành hiện thực, biến cái chết thành ngưỡng cửa đưa con người từ cuộc sống đời này sang cuộc sống bên kia, khi Ngài hứa: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

II. “Tôi tuyên xưng xác loài người ngày sau sống lại”

  1. Nguồn sống và sự sống lại – ân ban của Thiên Chúa Cha

“Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình.” Lời khẳng định đầu tiên của bản tuyên xưng đức tin cũng là lời căn bản nhất. Tất cả các tín điều trong Kinh Tin Kính đều tùy thuộc vào tín điều thứ nhất (x. GLHTCG, số 199).[150] Vì thế: “Huấn giáo về sáng tạo có một tầm quan trọng cơ bản, liên quan đến chính nền tảng của đời sống nhân bản và đời sống Kitô hữu, vì nêu rõ câu trả lời của đức tin Kitô giáo cho câu hỏi căn bản mà con người của mọi thời đại thường đặt ra cho chính mình, như đã trình bày ở phần dẫn nhập và đây xin nhắc lại: Chúng ta từ đâu tới? Chúng ta đi đâu? Nguồn gốc của chúng ta là gì? Cùng đích của chúng ta là gì? Hai câu hỏi về nguồn gốc và cùng đích không tách rời nhau (x. GL số 282).

Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, “con người là thụ tạo duy nhất trên trái đất được Thiên Chúa dựng nên cho chính họ” (GL số 356). Con người đã ý thức được phẩm giá của mình: “quý hơn chim sẻ” rất nhiều lần (x. Mt 6,26) và cảm nghiệm tình thương mà Thiên Chúa dành cho họ như tình thương của một người cha đối với con cái mình (x. Hs 11,1). Vì thế, trước những khát vọng, nhất là khát vọng sống của con người, Thiên Chúa là Cha hiểu rõ nhu cầu của họ (x. Mt 6,36). Trước cái chết, con người vẫn không ngừng xao xuyến trong tâm hồn, và được vịnh gia cất lời:

“Chúa được lợi gì khi con phải chết, được ích chi nếu con phải xuống mồ? Nắm tro tàn làm sao ca tụng Chúa và tuyên dương lòng thành tín của Ngài” (Tv 29,10).

Chẳng lẽ: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người sống động” lại bị “tắt ngủm” trước nấm mồ, trước cái chết? “Vậy ra điều tốt lành đã nên cái chết cho con người? Đừng nói gở” (Rm 7,13). “Thiên Chúa toàn năng là Đấng yêu thương, Người là Cha chúng ta” (GL số 268) và đã “yêu ta bằng mối tình muôn thuở” (Gr 31,3) cho dù “Núi có dời, có đổi, đồi có chuyển có lay, tình thương của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi”, đó là điều mà tiên tri Isaia đã cảm nhận (Is 54,10). Như vậy, Niềm tin vào Thiên Chúa là Cha toàn năng phục sinh thân xác con người càng rõ ràng và chắc chắn hơn khi chính Con Một Ngài là Đức Giêsu Kitô xác quyết: Ngài là “Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết” (Dt 5,7), “Sẽ đến giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng Người con, và sẽ đi ra khỏi đó (Ga 5,28-29) vì như “Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý” (Ga 5,21).

Từ niềm tin vào Đấng Phục Sinh, thánh Phaolô quả quyết: “thần khí của Đấng đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng thần khí của người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8,11). Như vậy, “Sự chết được đưa vào chương trình tạo dựng và cứu độ, và không hề là định mệnh đối với những người được tạo dựng trong Đức Kitô – Đấng từ cõi chết sống lại. Được tạo dựng như thế nào, họ là những người con bất tử cho dù trong cái chết. Sự sống lại sẽ mãi mãi là căn bản, sự chết là để phục vụ cho sự sống lại, bởi vì việc phục sinh Chúa Con là khởi nguyên phổ quát.”[151]

  1. Đức Giêsu Kitô – Đấng Phục Sinh

Cuộc đời dương thế của Đức Giêsu, có thể nói là được “điểm” bằng một chuỗi những phép lạ đã được các Thánh Sử ghi lại trong bốn cuốn Phúc âm. Khởi đầu bằng biến cố Nhập Thể và đỉnh điểm là “phép lạ vĩ đại” Phục Sinh của Người. Giữa hai biến cố quan trọng đó, là những phép lạ mà Đức Giêsu đã thực hiện trong cuộc đời công khai. Cho dù vẫn còn những tranh luận về tầm quan trọng của phép lạ trong việc loan báo Tin mừng, thì đối với thánh Gioan, các phép lạ đó được coi là “dấu chỉ” để hướng đến một cái gì đó, một thực tại hay một Ai đó. Bởi vậy, các phép lạ như: Nước biến thành rượu, hoá bánh ra nhiều, chữa lành bệnh tật, trừ quỷ, dẹp bão táp, biến hình, đi trên biển và cho kẻ chết sống lại,… đã nói lên quyền năng của Đức Giêsu – Con Thiên Chúa, đồng thời như dấu chứng báo trước sự phục sinh của Ngài.

Bên cạnh đó, chính Đức Giêsu Kitô cũng biết: như hạt lúa gieo vào lòng đất mà nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác (x. Ga 12,24). Người luôn ý thức rằng: “Chính Người là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25). Do vậy, ba lần loan báo về cuộc tử nạn thì cả ba lần Người cũng loan báo về sự phục sinh: “…ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Đối với các Tông đồ: Lời loan báo tử nạn đã là một vấn đề khó chấp nhận. Tuy nhiên, điều đó hình như chỉ tạo nên sự phản ứng nơi một mình Phêrô: “Ông Phêrô kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người” (Mt 16,22), song “sống lại từ cõi chết” quả là khó hiểu với tất cả các Tông đồ, các ông vẫn bàn hỏi nhau xem câu, ‘sống lại từ cõi chết’ nghĩa là gì? (Mc 9,10).

Sứ điệp phục sinh mà Thiên Thần loan báo: “Người đã sống lại” vẫn chỉ là “chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin” (Lc 24,11). Nhưng tất cả thực sự đã xảy ra sau “ngày thứ ba” đó: ngôi mộ trống! Người đã đứng giữa các Tông đồ và bảo các ông: “Bình an cho anh em!” (Lc 24,36). Tuy có chút kinh hoàng và khiếp sợ, nhưng các Tông đồ vẫn phải đón nhận thực tế: “Chúa đã trỗi dậy thật rồi và đã hiện ra với Simôn” (Lc 24,34). Ngay cả kẻ cứng lòng tin như Tôma cũng đã tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28).

Như vậy, Đức Giêsu Kitô quả thật là Đấng Phục Sinh. Các chứng nhân của Đấng Phục Sinh đầu tiên của Giáo hội sơ khai đã tuyên tín rằng: “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,32). Chính thánh Phaolô vị tông đồ dân ngoại, sau biến cố ngã ngựa ở Đamát đã viết: “Tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh” (1Cr 15,3-4).

  1. Phục sinh trong Đấng Phục Sinh – “xác loài người ngày sau sống lại”

Khi viết thư gửi cho các Kitô hữu thành Côrintô, thánh Phaolô dạy rằng: “Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1Cr 15,22). Vì thế, sự sống lại của Người là khởi điểm và là nguyên nhân thể hiện sự sống lại chung của mọi người. Người đã chỗi dậy mở đường vào cuộc sống mới, mở đường cho những ai đã yên giấc ngàn thu (x. GL số 654-655). Ngay từ buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần ấy, một cuộc tái tạo, sáng tạo mới, và một sự sống mới đã được ban cho con người. Thánh Gioan đã đặt lần hiện ra đầu tiên của Đấng Phục Sinh với con người ở trong “vườn” và những giọt lệ khóc thương của người phụ nữ chứa đựng biểu tượng sự sám hối mà “con người đầu tiên” đã không có cũng đã được “đặt” vào trong khung cảnh này.

Sự đàm thoại thay vì lời kết án ở khu vườn xưa giữa Thiên Chúa với con người đã được thiết lập lại; Đấng Phục Sinh đã thay đổi trạng huống của con người: từ buồn đau đến vui mừng vì đã thấy Ngài (x. Ga 18,20). Như vậy, cái chết của con người từ vườn Eđen đã được thay thế bằng sự sống ở ngôi mộ trống và khu vườn của Đấng Phục Sinh. Bên cạnh đó, trong Tin mừng nhất lãm, Tin mừng Đấng Phục Sinh được nói lên lần đầu tiên bởi những Thiên Thần (x. Lc 24,4-6; Mc 15,5-6; Mt 28,27). Những Kêrubim canh giữ lối cây sự sống (St 3,24) nhằm ngăn cản con người tìm về sự sống, sự có mặt của họ như dấu chỉ của sự chết, thì lần này họ có mặt ở bên trong ngôi mộ của Đấng Phục Sinh với lời loan báo về Đấng đã sống lại từ cõi chết mà thánh Luca đưa ra câu hỏi mang nhiều ý nghĩa: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết?” (Lc 24,5).

Như vậy, “phận vụ” của các Kêrubim như đã được chấm dứt với biến cố phục sinh. Từ đây, giữa con người và cây sự sống không còn có sự ngăn cản, sự sống mới đã được trao ban cho con người. Bởi lẽ, cây thập giá đã trở nên cây Sự Sống – Đức Giêsu Kitô –  Đấng Phục Sinh. Rõ ràng, “ngay từ buổi đầu, Thiên Chúa đã nhắm tới vinh quang của sáng tạo mới trong Đức Kitô” rồi (x. GL số 280). Hơn nữa, “trong Người, tất cả những cái hữu hạn đều chết đi, để qua đó Người phục sinh tất cả để hướng về Người và trong Người.”[152] Thế nên, tất cả sự sống và cái chết, đều hoạt động cho cuộc phục sinh của Người, Người chết cho chúng ta và phục sinh cho chúng ta (x. 2Cr 5,15).

Chính qua biến cố Khổ nạn và Phục sinh, Đức Kitô sẽ sáng tạo mới – phục sinh con người. Cũng vì sự “sáng tạo mới” này, thánh Phaolô đã kêu gọi các tín hữu Êphêsô: hãy “tỉnh giấc đi hỡi người còn đang ngủ, từ chốn tử vong trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5,14). “Vì sự sống lại tương lai của chúng ta là “trương độ sự phục sinh của Chúa Kitô” trên tất cả mọi người, nên sự Phục sinh của Chúa Kitô cũng là nguyên nhân sự sống lại của chúng ta, “vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết đuợc sống lại” (1Cr 15,20-21).[153]

Bên cạnh đó, “thân xác con người là chi thể của Đức Kitô” (1Cr 6,15) nên Đầu phục sinh thì các chi thể cũng phục sinh. Vì Đấng Phục Sinh sẽ không quên bất kỳ ai, chính Thiên Chúa sẽ đưa chúng ta về với Người (x. 1Tx 4,13-18), và “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21). Vì thế, sự sống của Đức Giêsu được biểu lộ nơi thân mình con người chúng ta (x. 2Cr 4,10) và chính Người là “Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh” (Kh 7,17).

Như vậy, “chúng ta sẽ sống lại như Người với Người và nhờ Người” (GL số 995). Giáo huấn của các Tông đồ cũng đã nhắc tới điều ấy bằng nhiều cách khác nhau. Như thánh Phaolô đã viết: “Quả thật Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người” (1Cr 15,20-23). Như thế, Đức Kitô là “trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại” (Cl 1,18). Sự sống lại chung cho hết mọi người đã khởi đầu qua sự phục sinh của Người, “Đấng khơi nguồn sự sống” (Cv 3,15). Sự sống lại này sẽ được thể hiện công khai và trọn hảo trong ngày Người quang lâm.

 Thật vậy, “trong phụng vụ dành cho người qua đời, Đức Kitô luôn là thực tại tối thượng cho sự sống lại của con người, và là hy vọng cuối cùng nằm trong việc loài người sẽ sống lại: “Đức Kitô, Người đầu tiên giữa các kẻ sống lại sẽ biến đổi thân xác phải chết của chúng ta giống hình ảnh thân xác vinh quang của Người… Xin Người phục sinh thân xác họ trong ngày sau hết. Kinh nguyện Thánh Thể III cũng nhấn mạnh đến sự sống lại của kẻ đã chết liên hệ đến cuộc Phục sinh của Chúa Kitô: “Xin cho họ được chia sẻ vào sự Phục sinh của Người, ngày Đức Kitô cho kẻ chết sống lại, sẽ làm cho thân xác tội nghiệp của chúng con nên giống như thân xác vinh quang của Người.”[154] Và đó cũng là điều mà các Kitô hữu phải tuyên tín mỗi ngày: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại…”

  1. Nhận định thay lời kết

Có một thực tế mà ai cũng phải công nhận, đó là hiện hữu trong kiếp nhân sinh này, không ai biết chắc chuyện gì sẽ xảy ra vào ngày sau hết, vào ngày tận thế hay ngày cánh chung, ngày mà con người phải từ giã cõi đời này. Tất cả những gì chúng ta bàn đều dựa trên những suy luận và niềm tin. Tin vì chính Kinh Thánh nói đến xác loài người ngày sau sẽ sống lại; mặt khác, có những nhà thần học giải thích về tín điều này, nhưng phải thừa nhận rằng suy luận về điều này quả là vượt quá sức tưởng tượng và trí hiểu của chúng ta. Chúng ta chỉ hiểu được trong đức tin, một suy luận thuộc về con tim.

Không ít người cho rằng làm gì có chuyện người chết sống lại. Nhưng chân thành mà nói, sự sống đời sau và sự sống lại luôn là câu hỏi hiện sinh của mỗi người, của mọi thời và mọi tôn giáo. Thật ra, không chỉ con người ngày nay ngạc nhiên về điều này, thời các Tông đồ, thánh Phaolô cũng đã từng trách các môn đệ của ngài: “Sao trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại? (…) Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu.” (x. 1Cr 15,12-14.19-20). Đó là hy vọng của những ai tin vào Thiên Chúa. Ngược lại, những ai phủ nhận kẻ chết sống lại, họ cũng không tin có một Thiên Chúa với đầy đủ uy quyền làm điều ấy. Hoặc cực đoan hơn, họ không tin vào Thiên Chúa, và cái chết là điểm chấm hết cho hiện sinh của một con người.

Trước những tranh luận, nghi vấn liên quan đến chủ đề này, Công đồng Nixê đã tuyên xưng rằng: “kẻ chết sống lại” hay “xác loài người ngày sau sẽ sống lại” (kinh Tin Kính các Tông đồ). Khi tuyên xưng những lời ấy, không ít người thắc mắc và đặt vấn đề về “thân xác” và “sự sống lại của thân xác” xảy ra như thế nào? Chết là chấm dứt mọi thứ, như quan điểm của những người vô thần; hoặc sau cái chết linh hồn con người sang thế giới bên kia, người Công giáo vẫn tin như thế.

Ngày xưa, một số nhà tư tưởng Hy Lạp cho rằng con người gồm “thể xác, linh hồn và tinh thần”. Trong Cựu ước, thân xác, linh hồn và thần khí là một tổng thể trọn vẹn của con ngươi. Cũng vậy, Tân Ước cho rằng con người có xác thịt, tâm linh và thần khí, nhưng không phân tách từng phần rời rạc như kiểu nói của triết thuyết Platon: thân xác là mồ chôn của linh hồn. Nói như thế để cho thấy “xác” ở đây không những đưa về thực tại sinh lý mà còn nói lên một con người toàn vẹn: thể xác, linh hồn và tinh thần.[155]

Mặt khác, Kinh Thánh khi nói về thân xác là muốn nói rằng thân phận con người thật mỏng dòn, vì phải mang thân phận của một thụ tạo phải chết. Đó là hậu quả của tội lỗi. Điều ấy chỉ xảy ra ngoài Vườn Địa Đàng. Tuy nhiên, vì là thụ tạo giống hình ảnh Thiên Chúa, nên thân xác chúng ta không thấp hèn như một số người nghĩ. Chính Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm qua mầu nhiệm nhập thể, để cứu chuộc loài người. Khi đó Giáo hội tin rằng, Đức Giêsu không chỉ cứu lấy linh hồn ta mà cả thân xác của ta nữa. Niềm tin ấy có cơ sở vì chính Chúa Giêsu đã chết và đã phục sinh từ trong kẻ chết. Giờ đây Người hằng sống đời đời. “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết.” (x. Ga 11,1-45). Đó là một cuộc cách mạng do Thiên Chúa thực hiện để đưa nhân loại đến cuộc sống vĩnh hằng.

Ai cũng biết khi ta chết, thân xác ta trở về cát bụi, tựa như “hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi”. Còn tình trạng linh hồn tùy thuộc vào niềm tin của mỗi người. Vô thần cho rằng chết là hết, Phật giáo tin linh hồn sẽ được đầu thai (luân hồi chuyển kiếp), chỉ riêng Kitô giáo tin rằng linh hồn đến gặp Thiên Chúa và chờ hợp nhất lại với xác vào ngày tận thế. Thánh Phaolô đã có cái nhìn tích cực về cái chết, khi nói: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi” (Pl 1,21). Còn thân xác ta sẽ sống lại thế nào, lại là một mầu nhiệm khiến ta không tài nào hiểu hết. Một điều khiến chúng ta để tâm suy nghĩ là mọi người đã chết đều sẽ sống lại. Đó là thời gian phán xét chung của Thiên Chúa: “Ai đã làm điều lành thì sẽ sống lại để được sống, ai đã làm điều dữ thì sẽ sống lại để bị xét xử” (Ga 5,29).

Ước gì khi chúng ta tin và tuyên xưng rằng: “xác loài người ngày sau sống lại”, thì chúng ta cũng sống trong hy vọng vào Chúa Phục Sinh. Và hơn nữa, mỗi người Kitô hữu nhận thấy cái chết không đáng sợ, vì nó mang trọn vẹn ý nghĩa của nó trong Đấng Phục Sinh.

 

TÌNH YÊU VÀ THÁI ĐỘ TRƯỚC CÁI CHẾT

Sr M. Margarita Alacoque Nguyễn Thị Huệ

 

Vịnh gia có câu:

“Sống làm người ai không phải chết?
Ai cứu nổi mình thoát quyền lực âm ty?” (Tv 89,49).

Quả vậy, mỗi ngày trôi qua là mỗi ngày con người ta tiến gần đến nấm mồ hơn. Mỗi ngày, ta chứng kiến bao cái chết xung quanh mình. Theo lẽ thường, không ai thực sự có kinh nghiệm về cái chết, vì chính lúc ta trải qua nó cũng là lúc ta hiện hữu ở “một cảnh giới khác”. Cái chết đáng sợ đối với hầu hết mọi người. Làm thế nào để ta bớt sợ, thậm chí hết sợ trước cái chết? Đó là những câu hỏi và nỗi khắc khoải mà người viết muốn đi tìm câu trả lời. Vì thế, bài viết xin bàn về bốn điểm: đôi nét về tình yêu; thái độ của con người đối với cái chết; vượt qua nỗi sợ chết; chứng tá tình yêu cùng quan niệm về thái độ trước cái chết của cha Biển Đức Thuận, đấng sáng lập Hội dòng Xitô Thánh Gia.

  1. Đôi nét về tình yêu

Nói đến con người là nói đến tình yêu. Con người sinh ra cần yêu và cần được yêu. Nói đúng hơn tự trong bản chất con người đã chứa đựng tình yêu. Nhưng trong đời sống, tình yêu rất đa dạng và có nhiều cấp độ khác nhau.

Khởi đầu là tình yêu nam nữ, tình yêu hôn nhân, gia đình. Mỗi người được sinh ra trên đời là kết quả tình yêu của cha và mẹ. Từ khi còn trong lòng mẹ, mỗi thai nhi đã được mẹ yêu thương, săn sóc và nâng niu. Sinh con ra, cha mẹ dành tình yêu cho con qua sự dưỡng dục. Để ca ngợi tình yêu bao la của cha mẹ, ca dao có câu:

“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”

Trong gia đình mỗi người còn được hưởng tình yêu của ông bà, anh chị em họ hàng đôi bên. Theo năm tháng, mỗi người không chỉ sống trong mối tương quan gia đình, mà còn mở rộng ra với thế giới bên ngoài, đó là tình bạn.

Tình bạn vô cùng quan trọng trong cuộc đời mỗi người vì “tình bạn là mối duyên thừa trời cho” (Ca dao), một người bạn trung thành là nơi nương tựa vững chắc, là phương thuốc xoa dịu cuộc đời (x. Hc 6,14.16); lại nữa, “sắt bén nhờ sắt, con người nên sắc bén nhờ bạn bè” (Cn 27,17). Con người còn có tình yêu quê hương, được thể hiện qua nỗi nhớ những gì là bình dị, gắn bó với cuộc sống.

Tình yêu là điều kì diệu nhất trên cuộc đời này. Tình yêu cứu sống con người. Có vô vàn câu chuyện cảm động trên đời về tình thương, hy sinh cả mạng sống cho người khác. Trong số đó có câu chuyện về một người mẹ lấy thân mình làm lá chắn để cứu con trong trận động đất tại Tứ Xuyên, năm 2008. Truyện kể rằng: khi nhóm cứu nạn phát hiện trong một đống đổ nát có một người mẹ đã chết trong tư thế khom mình che chắn cho người con mới ba tháng tuổi bọc trong một chiếc chăn, trong chăn có chiếc điện thoại với tin nhắn: “Nếu con còn sống, hãy nhớ rằng, mẹ rất yêu con.” Điều kì diệu là người con đó còn sống sót.[156]

Theo sự thường, người ta cho rằng yêu là cứu sống, là muốn cho người khác được sống, nhưng có thứ tình yêu vượt trên những quan niệm thông thường, mà sách Macabê đã tường thuật lại, đó là cuộc tử đạo của bảy anh em và bà mẹ. Lời người mẹ xin các con thương bà mà chấp nhận cái chết để trung thành với Lề luật Thiên Chúa, cho ta thấy cái “nghịch lý” của tình yêu. Bởi vậy, thay vì khuyên cho con thay đổi thái độ để vua không giết và được vua ban cho nhiều lợi lộc trần gian, bà đã nói với con: “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, người sẽ trả con và các anh con cho mẹ” (2Mcb 7,27-29). Chính vì yêu mến Lề luật Chúa và ao ước hưởng sự sống muôn đời, mà người mẹ và bảy người con coi khinh cái chết, sẵn sàng chấp nhận chịu tử hình. Như thế, tình yêu của họ đã mạnh hơn sự chết và đã chiến thắng sự chết.

Tình yêu là một chủ đề khó nắm bắt bởi nó đa diện, đa sắc màu, đa khía cạnh. Cùng bàn về tình yêu, nhưng nhà tâm lý học, nhà xã hội học, nhà thần kinh học, nhà triết học… sẽ diễn đạt trên những phương diện khác nhau.

Tiếng Hy lạp phân biệt bốn dạng tình yêu: “eros: tình yêu nhục dục, storge: tình gia đình, philia: tình bằng hữu, agape: tình yêu vị tha.”[157] Bài viết này hướng đến tình yêu agape, đó là loại tình yêu được thánh Phaolô đề cập đến trong thư gửi cho giáo đoàn Côrintô: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật… tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7).

Tình yêu agape đòi ta phải yêu thương tất cả mọi người, kể cả người đối nghịch với ta. Đó cũng là kiểu tình yêu Thiên Chúa dành cho con người và muốn con người thể hiện tình yêu đó đối với Thiên Chúa và tha nhân. Có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu cách thể hiện tình yêu. Tuy nhiên, những phẩm chất chung của tình yêu chân chính là: sự tin cậy, sự gần gũi, sự đồng hành, sự đồng cảm, muốn người khác được hạnh phúc…

Đối với Kitô hữu chỉ có nhờ Chúa, trong Chúa, với Chúa và vì Chúa con người ta mới sống, mới mến Chúa và yêu người cho trọn tình được, bởi lẽ “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).

  1. Thái độ đối với sự chết

Mọi cơ thể sống đều sẽ có một sự kết thúc. Đó là lúc tất cả các cơ quan trong cơ thể đó ngưng hoạt động. Ta gọi sự kết thúc đó là chết. Đứng trước cái chết, mỗi người sẽ có một quan niệm và thái độ khác nhau.

Có những người xem chết như điểm gở cần né tránh. Có những người lại xem chết là điều sẽ xảy đến tự nhiên, chẳng cần phải lo nghĩ. Có những người thản nhiên đón nhận cái chết. Có những người ước ao được chết. Như vậy, đứng trước cái chết có thể có một trong hai thái độ: hoặc là trốn tránh, chối từ nó; hoặc là chấp nhận cách tự do và thanh thản.

Sự sống và cái chết luôn song hành với nhau. Vì vậy, khi người ta quan niệm về sự sống theo hướng nào thì cũng quan niệm về sự chết như vậy. Người có thái độ trốn tránh hoặc chối từ sự chết, sẽ coi sự sống đời này là tất cả, nên họ muốn được trường sinh bất tử bằng những phương cách khác nhau: Tần Thuỷ Hoàng tìm linh dược, người khác thì qua dòng giống, người khác nữa thì qua danh tiếng và quyền lực….

Sống mà không hướng đến một mục đích tối hậu nào thì con người sẽ ra gây những hậu quả khốc hại vượt ngoài phạm vi cá nhân và toàn thể nhân loại. Qua dòng lịch sử chúng ta đã chứng kiến một Tần Thuỷ Hoàng tàn bạo đến mức nào trong lịch sử Trung Hoa, còn con người thời nay đang phá huỷ trái đất với những mục tiêu tức thời, phát triển không bền vững, khai thác nguồn tài nguyên quá mức, gây tai họa cho tương lai[158].

Người có thái độ chấp nhận cái chết trong tự do sẽ ý thức được tính mong manh của phận người, sự hữu hạn của cuộc sống. Khi ý thức được như vậy, họ sẽ nhận ra sự sống mới quý báu làm sao! Từ đó, họ sẽ có “một lối sống nặng tình cảm mến vì đã được tặng ban sự sống, đầy nghiêm túc trong trách nhiệm tác thành số phận của mình trong tự do, thuận lòng với những giới hạn và yếu đuối của mình, can đảm mà từ tốn đối mặt với bệnh tật, tuổi già và cuối cùng, cái chết.”[159]

Đời người ta chỉ có một lần để sống và cũng chỉ có một lần để chết. Sống sao cho ý nghĩa và kết thúc cuộc đời sao cho đẹp mới là quan trọng. Ta có thể soi vào tấm gương của các thánh hiền để gia tăng niềm tin của mình.

Người thản nhiên đón nhận cái chết là các bậc thức giả tâm linh. Lịch sử triết học ghi nhận cái chết của Socrates. Ông vì niềm tin chân chính của mình mà lựa chọn cái chết. Ông thà “chết vinh còn hơn sống nhục”. Socrates uống cạn chén thuốc độc với thái độ bình thản của một nhà hiền triết đang khi tỉnh táo luận về linh hồn bất tử. Người Tây Tạng có câu: “Ngày mai hay đời sau, cái gì tới trước? Ta không thể biết”. Cho nên, những bậc thầy Tây Tạng sẵn sàng chuẩn bị cho cái chết của mình bằng cách: ban đêm trước khi đi ngủ, họ rửa chén tách, úp cạnh giường và tắt lửa bếp, không lưu lại đóm mồi cho sáng hôm sau vì họ không chắc ngày mai mình có cần dùng đến chúng nữa không.[160] Quả vậy, người thản nhiên đón nhận cái chết thì họ sống an nhiên tự tại, không màng danh lợi, không mê lạc thú, chẳng tranh giành với ai và coi mỗi ngày sống như là ngày cuối cùng trong đời mình. Tư tưởng này là một trong những khí cụ làm việc lành mà thánh Biển Đức đưa ra cho các môn sinh: “Ngày ngày đinh ninh mình sẽ chết”[161]

Hỏi làm sao Rabindranath Tagore -một đại thi hào- có thể cài chìa khoá lên cửa, cúi chào từ biệt hàng xóm và hân hoan về nơi hạnh ngộ xiết bao mong chờ? Ta thấy bí quyết được thể hiện trong những vần thơ đẹp của ông.

“Tôi đã được mời dự đại hội trần gian;
đời tôi thật có ân phúc diệm kiều.
Đến đây tôi đã được nhìn và được nghe.
Tại hội vui này, phần tôi là mang đàn dạo khúc;
và tôi đã làm hết sức mình.
Bây giờ, xin thưa, đã đến giờ chưa nhỉ
để tôi được phép bước vào nhìn mặt người và dâng lời kính lạy lặng thầm?”
(Lời dâng 16 – Đỗ Khánh Hoan dịch)

Trong những cái chết đẹp, ta thấy cái chết của các thánh tử đạo, theo mẫu gương Đức Kitô, là cao quý hơn cả vì “không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13), và các thánh tựa như hạt lúa gieo vào lòng đất, chịu chết đi để trổ sinh nhiều bông hạt khác. Ta không thể quên thánh Maximilianô Kolbe: ngài nhận chết thay cho một người tù khác phải chịu tử hình vì sự bất công bạo tàn. Khi cái chết thể lý đang từ từ đến với mình, ngài khiến cho những kẻ tàn bạo nhất cũng phải kinh ngạc bởi tình yêu và niềm trông cậy lạ lùng mà ngài có, và đã chiếu sáng cho cả những người đang chịu cùng cảnh ngộ với mình trong phòng giam. Ngài đã noi gương thầy Giêsu sống tình yêu cao cả nhất – tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu. Thật vậy, “thánh nhân đã dành được một cuộc chiến thắng khó khăn nhất: ấy là cuộc chiến của tình yêu biết xá tội, biết thứ tha. Ngài đã đi vào trong cái vòng luẩn quẩn hiểm ác của hận thù với một cõi lòng nóng bỏng tình yêu và lập tức cái ‘ngón trù ếm’ quỷ quái của nó bị giải độc. Tình yêu đã mạnh hơn sự chết.”[162]

Người Kitô hữu phải chết đi cho thế gian, xác thịt, ma quỷ, chết đi cho tội lỗi. Họ hướng lòng trí về những sự trên trời, ước ao đắm mình hơn nữa vào mầu nhiệm Thiên Chúa, ước ao hưởng kiến tôn nhan Chúa muôn đời, vì thế họ có lý do để ước mong cái chết. Niềm ước mong đó không phải là để tránh những khổ luỵ của kiếp nhân sinh, nhưng đó là con đường phải đi qua để được kết hợp với Đức Kitô phục sinh như thánh Phaolô đã từng mong ước khi ngài viết “ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô” (Pl 1,23). Tuy vậy, cái nhìn huyền nhiệm về sự chết này không miễn cho họ khỏi bổn phận phải chăm sóc thân thể mình và không cho họ được quyền tự tử hay sử dụng những phương pháp làm cho cái chết đến sớm hơn. Tấm gương tiêu biểu cho cái nhìn ấy không ai khác là thánh Phanxicô thành Asssisi. Ngài không những cảm tạ Thiên Chúa về hồng ân sự sống mà còn vì số phận phải chết nữa.

“Lạy Chúa, xin ngợi khen Ngài đã cho chúng con người chị là cái Chết Phần Xác mà không một sinh linh nào thoát khỏi. Khốn thay kẻ nào chết trong tội trọng đưa đến cái Chết Phần Hồn! Phúc thay những ai bền vững trong thánh ý Ngài, vì cái chết thứ hai này sẽ không hại chi được họ.”[163]

Và đối với thánh nhân “chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.”

  1. Vượt qua nỗi sợ chết

Với tiến bộ của y khoa, người ta có thể biết chính xác ngày giờ một em bé chào đời, nhưng theo lẽ thường tình người ta vẫn còn “bó tay” với ngày giờ chính xác một người vĩnh biệt cõi đời.

Người xưa đã có niềm tin rằng “sống gửi thác về”, hiểu là sinh ra sống tạm, chết là về nơi vĩnh viễn. Vậy nên, người xưa sống với phương châm “tích thiện phùng thiện” (làm lành gặp lành). Còn thế giới ngày nay thì sao? Thế giới ngày nay có quá nhiều chết chóc, chết dưới nhiều hình thức: khủng bố, chiến tranh, nạo phá thai, tự tử, nghiện ngập các loại… Các chuyên gia đã chỉ ra: “Xã hội phát triển thì các quan hệ sẽ càng phức tạp hơn, mâu thuẫn trong các cộng đồng dân cư sẽ là đa phương thức, đa chiều. Việc làm ăn ngày càng lớn hơn, các trận cá cược cũng tinh vi hơn, mâu thuẫn gia đình sẽ ngày càng căng thẳng hơn. Đó là những áp lực bùng nổ của cuộc sống hiện đại mà rất dễ dẫn đến hành vi tự hủy hoại bản thân.”[164] Xã hội hiện đại hơn, cuộc sống phức tạp hơn nhưng con người không bình an, hạnh phúc hơn. Trước những khó khăn phải đối diện trong cuộc sống của con người thời nay, ta có cách nào để cải thiện? Không có cách nào hơn là con người phải thức tỉnh nhận ra các vấn nạn và muốn thay đổi.

Các bậc thức giả tâm linh chỉ ra bí quyết cho các vấn nạn là con người phải quân bình lại cuộc sống. Mà chìa khoá của sự quân bình là tính giản dị. Khi sống giản dị “ta có được sự an bình nội tâm. Ta có nhiều thì giờ hơn để theo đuổi sự nghiệp tâm linh và những hiểu biết có thể giúp chúng ta giáp mặt cái chết.”[165] Dù nhiều khi đã có tâm thế đón nhận cái chết nhưng ít ai mà không sợ chết vì cái chết đến là thời điểm quyết liệt cuối cùng của con người. Cha Biển Đức Thuận trong cơn hấp hối đã kêu lên với các môn sinh: “Cha đau đớn lắm chúng con ơi! Hãy cầu nguyện cho người hấp hối, vì kẻ đã bị rồi thì không trở về được mà nói lại, đau đớn lắm chúng con ơi.”[166] Có lẽ, đó là tâm trạng ngổn ngang mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa cách ly và thân cận với Thiên Chúa, giữa ngờ vực và tin tưởng, giữa tuyệt vọng và hy vọng, giữa ngang ngạnh chống báng và yêu thương phục tùng của con người. Kitô hữu là những người “đã chết trong Đức Kitô” (1Tx 4,16). Cái chết vốn là hậu quả của tội lỗi nhưng lại hoá thành hồng ân cứu độ, nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô.[167] Và rồi “cũng như cái chết của Ðức Kitô, cái chết của chúng ta có thể là hành động cuối cùng trong tin, cậy, mến, dù hoàn toàn thực hiện trong đen tối, để trao nộp chính mình cho ‘vực thẳm nhiệm mầu’ mà chúng ta hằng tin tưởng suốt cả một đời và tuyên xưng là Thiên Chúa của tình yêu, tha thứ và khoan dung. Cái chết là phần kết của cuộc tình mà chúng ta đã mạo hiểm đi suốt trong cuộc đời dương thế.”[168] Tuy không phải là Kitô hữu nhưng phải chăng đại thi hào Tagore đã dự cảm được ‘vực thẳm mầu nhiệm’ nên mới nói:

“Lúc lâm chung cũng vậy,
người lạ mặt ấy lại hiện ra như đã từng quen thuộc với tôi từ lâu.
Bởi yêu cuộc đời nên tôi hiểu tôi cũng yêu cả sự chết.
Khi mẹ giằng con khỏi bầu vú bên này, con òa khóc,
nhưng liền đó lại thấy nguồn an ủi ở bầu vú bên kia.”
(Lời dâng 95 – Đỗ Khánh Hoan dịch)

Thực ra, trong Tin mừng, Chúa Giêsu đã chỉ cho ta phải thực sự sợ cái chết, đó là cái chết về phần linh hồn, chứ không phải cái chết phần xác: “Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không còn làm gì hưn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục” (Lc 12,4-5).

  1. Chứng tá tình yêu và thái độ trước cái chết của cha Biển Đức Thuận

Cái nhìn của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận về sự chết được chất chứa trong một số lá thư ngài viết cho kế mẫu. Trước tục lệ sắm sẵn hay tặng quan tài cho cha mẹ và những bậc vị vọng để bày tỏ lòng hiếu thảo của người Việt thời ấy, và sự không hay nói đến chuyện chết, thậm chí ra sức tránh của người phương tây, cha tâm tình với kế mẫu: “Không cần chi phải làm cách tỏ ra mình muốn cho sự chết đến, hay là không muốn thì nó cũng đến miễn là có lòng mến Chúa và hết lòng làm tôi Người, thì khi giáp mặt sự chết, sẽ nói được cùng nó rằng: ‘Tao khinh dể mày!’ hoặc nói cách khác hơn nữa, như các thánh rằng: “Ớ sự chết hãy đến mau, cho ta được về thiên đàng mến Chúa, biết Chúa, và làm tôi Người đời đời!…”[169]; và cha còn năng suy đến việc hệ trọng nhất đời là ơn thiện tử.[170]

Đối với cha Biển Đức Thuận thì sống hay chết cũng là “làm tôi Chúa”, phụng sự Chúa. Phụng sự Chúa và yêu mến Chúa không phải chỉ trên ‘đầu môi chót lưỡi’, mà cha đã dùng cả cuộc đời mình để diễn tả điều đó. Vì thế không thể kể hết những sự kiện chứng tỏ tình yêu của cha dành cho Chúa, cho Giáo hội và các linh hồn.

Đọc Hạnh tích cha Benoit, ta thấy, cha đã trải qua nhiều cuộc chiến đấu thiêng liêng. Cuộc chiến đầu tiên là việc cha quyết định gia nhập Hội thừa sai Paris – đồng nghĩa với việc “bỏ quê cha đất tổ, liều thân thí mệnh nơi đất lạ phương xa để cứu vãn sinh linh cho Chúa.”[171] Chưa biết hoàn cảnh gia đình của cha, ta dễ nghĩ đó là điều bình thường. Nhưng khi biết cha là con một, bố mẹ cũng có những kỳ vọng nơi cha vì cha là một người tài năng, ta mới thấy đó là một hiến tế thực sự. Đúng là: “Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy, một ngọn lửa thần thiêng. Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu, sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp” (Dc 8, 6b-7a).

Khi cha sang Việt Nam, có biết bao khó khăn: bỏ nơi văn minh, tiến bộ mà đến một nơi còn lạc hậu và ngôn ngữ bất đồng; quá trình xin phép lập dòng không hề dễ dàng mà phải trải qua một thời gian chờ đợi quá dài, chịu nhiều lời bình cay đắng, và để dòng được thành hình cha cũng phải trải qua nhiều thách đố.

Việc xây dựng cơ sở vật chất gặp nhiều khó khăn vì những lý do khác nhau nhưng cha hoàn toàn phó thác việc của Chúa cho Chúa. Đáng kể hơn là việc ngài xây dựng đền thờ thiêng liêng là chính con người mình: “Ngài hãm mình nhiệm nhặt song không mất sự bằng an vui vẻ, trái lại cha rất lịch sự, nhã nhặn với mọi người.”[172] Sự thánh thiện của cha toát ra bên ngoài nên ai tiếp xúc với ngài cũng cảm nhận được. Có linh mục đã từng nói: cha Biển Đức Thuận là người kính mến Chúa hết lòng và phi thường, yêu mến phần rỗi người ta; ngài thay đổi tính nết cách lạ lùng và tiến bộ trên đường trọn lành mau chóng: từ một người hay thay đổi ra người đằm thắm khôn ngoan, từ một người nóng tính thành người hiền lành dịu dàng khác thường.[173]

Muốn biết một người nhân đức vững vàng cỡ nào hãy xem lúc họ đau ốm, cha Biển Đức Thuận cũng đã trải qua những ngày tháng đau đớn vô cùng, bởi “các bộ phận trong mình cha đều hư cả”[174]. Song cha không mất sự bình an. Ngài vẫn vui vẻ tiếp ai đến thăm, gắng sức để hoàn tất những tài liệu cần thiết cho việc lập dòng và an ủi các con, để lại cho hậu thế những lời vàng ngọc[175] Ngài luôn xin anh em cầu nguyện cho mình được thuận theo ý Chúa, chứ không xin cho mình được lành bệnh.

Cha Biển Đức Thuận “không ngại sống cũng chẳng sợ chết”. Sở dĩ ngài có được tâm thế đó là vì ngài có tình yêu Chúa nồng nàn. Ngài chủ động chết đi cho con người cũ là những gì không hợp với sự thánh thiện của Chúa. Ngài chịu đau đớn nhiều trong thân xác, cơn hấp hối kéo dài nhưng không mất sự bình an và niềm trông cậy về tình thương của Cha trên trời.

Kết

Nhìn lại đời sống của các thánh nhân, thánh hiền và cha Biển Đức Thuân, ta thấy rõ các ngài đã dùng chính tình yêu, yêu Đấng Tạo Thành, yêu cuộc đời, yêu người mà lướt thắng nỗi sợ chết của mình trong phận làm người. Nếu ta luôn suy niệm lời thánh vịnh này:

“Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
Ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90,12).

và không quên rằng: “Khi chết, mỗi người sẽ bị xét xử về tình yêu” (thánh Gioan Thánh Giá), ta sẽ nhận ra: trên đời này chỉ có một việc quan trọng là mến Chúa – yêu người. Khi đã sống trọn tình yêu, thì cái chết chẳng thể khuất phục được ta, vì “tình yêu mạnh hơn sự chết.”

 

CHIỀU KÍCH CÁNH CHUNG CỦA ĐỜI THÁNH HIẾN

Sr. M. Phanxicô Salesio Bảo Trân

 

Trải qua bao thăng trầm lịch sử, có lúc tưởng chừng như đời sống thánh hiến đã bị xoá sổ. Thế nhưng, cho đến nay mặc dù còn biết bao khó khăn và cấm cách, cũng như không tránh khỏi những khủng hoảng về căn tính, đời thánh hiến vẫn tồn tại và phát triển. Bởi lẽ đời sống thánh hiến là sáng kiến của Thiên Chúa và được Chúa đảm bảo cũng như giao cho một sứ mạng, đó là gieo mầm một thực tại mới, là dấu chỉ của đời sống mai hậu; đời sống ấy là lợi khí Chúa dùng để cho thế gian nhận biết thực tại cánh chung của mình, nên nó sẽ tồn tại mãi mãi cùng với Giáo hội.

Cánh chung nằm trong chương trình và sự quan phòng của Thiên Chúa. Đó là một thực tại về sự phục sinh trong tương lai và vinh quang của Nước trời, nói cách khác, “đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất, dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1,10). Chúng ta có thể cảm nghiệm được thực tại ấy ngay ở đời này cách rõ hơn qua đời sống thánh hiến. Bởi mục đích tối hậu của đời sống thánh hiến không gì khác hơn là đi tìm Chúa và sống với Chúa, như các Tông đồ: “…để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,14).

  1. Thực tại cánh chung trong đời sống thánh hiến

Dấu chỉ nước trời

Đời sống thánh hiến phác họa cho nhân loại thấy trước một cuộc sống viên mãn trong Chúa, một thế giới mà ai cũng mong muốn và chắc chắn sẽ được diện kiến và nếm hưởng Chúa trong ngày cánh chung. Các tu sĩ ngay tại trần gian này đang sống cho lý tưởng chỉ hướng về Thiên Chúa. Họ từ bỏ thế gian cùng với những thú vui và những ràng buộc của nó để được tự do hiến trọn cuộc đời cho lý tưởng theo Chúa. Vì họ hiểu rằng, ở trần gian này không có thành đô vững chắc (Dt 13,14) và vì “quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20). Họ là công dân của trời mới đất mới (Kh 21,1-5). Nơi đó, “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1Cr 2,9). Nỗi niềm chờ mong và ước vọng ấy được nâng đỡ bởi những ân huệ mà Chúa ban dồi dào cho những ai đi tìm những gì thuộc thượng giới (x. Cl 3,1).

Người sống đời thánh hiến được Chúa mời gọi hưởng trước niềm vui thiên đàng ngay từ đời này. Nhìn vào gương mặt, nụ cười của người thánh hiến, đặc biệt là những người cao niên, bạn sẽ thấy sự thánh thiện, vẻ đẹp không sao diễn tả và một nụ cười trong sáng đến lạ. Họ có niềm vui của thiên đàng ngay hiện tại và niềm vui này không ai có thể lấy đi. Vì đó là sự hoan hỉ được viên mãn trong ngày cánh chung. Nhìn vào đó, mọi người có thể cảm nghiệm được niềm vui thiên đàng. Theo Đức thánh cha Phanxicô, họ là những người luôn đi tìm, xây dựng và vun đắp cho “sự hoan hỉ hoàn hảo” ngay trong thế gian.[176] Ngài còn nhấn mạnh: “Ở đâu có tu sĩ thì có niềm vui.[177]

Đời sống thiên thần

Lối sống của những người sống đời thánh hiến là một minh họa cho đời sống nơi thiên quốc. Lối sống của họ là đời sống của các thiên thần, như lời Đức Giêsu miêu tả: “… họ không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” (Mc 12,25). Họ không sống đời hôn nhân gia đình vì Nước trời, vì những gì mà Chúa Giêsu đã mặc khải trong Tin mừng, cũng như vì “tiếng gọi” trong tâm hồn của mình. Họ làm quen với cuộc sống mai sau ngay từ đời này. Thiên Chúa muốn họ được giải phóng khỏi mọi vướng bận thế gian chỉ để chăm lo phụng sự Chúa (1Cr 7,32-35) trọn cả xác hồn với một trái tim không chia sẻ.[178] Họ yêu Chúa với một con tim nồng nàn và họ chứng minh cho sự tồn tại trường tồn của “quyền lực tình yêu” trên con tim họ. Họ sống khiết tịnh như là “dấu chỉ đặc biệt về những phúc lộc trên trời.[179]

 Men trong bột

Đời sống thánh hiến có một sức sống thần linh, âm thầm nhưng vô cùng mạnh mẽ. Thiên Chúa mời gọi họ trở nên hạt cải nhỏ bé, là nắm men trong bột tuy nhỏ bé, âm thầm nhưng đầy sức sống và không bao giờ bị tiêu diệt (Xc. Lc 13,18-21; Mt 13). Hơn thế nữa, họ có khả năng thu nhận và phát tỏa muôn vàn ơn thiêng, làm cho cuộc sống này mang một ý nghĩa cánh chung, tràn đầy hy vọng và viên mãn. Họ sống đời này thật tốt đẹp để chăm lo cho đời sau. Họ được thánh hiến cho Thiên Chúa để phục vụ anh chị em. Họ luôn là những người đi tìm và có thể đọc các dấu chỉ thời đại với cặp mắt đức tin, “tìm những con đường của Chúa trong các dấu chỉ thời đại.”

Tóm lại, đời sống thánh hiến không khỏi khiến cho người khác phải thắc mắc, nó là một dấu hỏi lớn cho người đời. Họ nhận thấy nơi đời sống ấy một giá trị thiêng liêng cho chính mình; hay những lúc cuộc đời họ gặp bế tắc, họ tìm được giá trị, ý nghĩa cho đời mình.

  1. Thực tại cánh chung trong đời sống đan tu

Đan sĩ phải luôn là người đi đầu đoàn dân của Thiên Chúa băng qua sa mạc để tiến về đất hứa. Peter Brown[180] đã từng nói: “the monk saw the new society” (đan sĩ nhìn ra được một xã hội mới) thì họ cũng có thể nhìn thấy được thế giới mới dẫn đầu trong bước đường tiến về “trời mới đất mới”. Bổn phận của họ là thúc đẩy việc hoàn thiện Nước Chúa, bằng kinh nguyện và lòng sốt mến như Myriam, em của Aharon. Bà vừa hát vừa nhảy múa khi cùng dân xuất hành: nhiệm vụ của bà là ca hát và nhảy múa, bà là người bắt giọng hát cho tất cả mọi người: “Hãy hát mừng Đức Chúa, Đấng cao cả uy hùng” (Xh 15,20-21). Sẽ rất có thể, trong ngày cánh chung mọi người sẽ như các đan sĩ, cùng với các thiên thần cùng nhau ca hát ngợi khen Chúa.

Sau khi Chúa Giêsu khuất dần sau đám mây, các Tông Đồ vẫn đứng trên đỉnh núi mà ngước nhìn trời. Hình ảnh đó gợi lên cuộc sống của các đan sĩ trong đan viện, họ như các Tông Đồ đứng trên đỉnh núi luôn hướng về trời cao, họ nhìn thấy Chúa bằng con mắt đức tin sống động không hề nao núng, vì có thể có lúc nào đó trong cuộc đời, Chúa thương mặc khải cho họ thấy một thoáng vinh quang của Ngài. Cho dù không thấy họ vẫn luôn ngước nhìn Thiên Chúa chăm chú không ngơi, nhìn Đấng hiện hữu nhưng vô hình. Các nhà thần bí khẳng định rằng chiêm ngắm là một thực tại cánh chung.

Thánh Bênađô là một nhà chiêm niệm nhưng ngài cũng là một nhà hoạt động. Ngài dấn thân mạnh mẽ cho Giáo hội nhưng vẫn không quên nhiệm vụ của một người đan sĩ khi ý thức đoàn sủng của đan sĩ là hướng về cánh chung: chết cho thế gian và sống cho Thiên Chúa.

Sự từ bỏ thế gian cũng là một điều kiện tiên quyết để được vào Nước trời. Mọi người đều phải từ bỏ nó trong ngày sau hết của mình, còn các đan sĩ từ bỏ nó ngay khi họ đang còn sống. Đan sĩ từ bỏ thế gian và chọn Chúa một cách quyết liệt và mạnh mẽ trong từng giây phút, một sự từ bỏ triệt để. Họ chết đi cho những ý riêng, chết đi cho những thói đời, chết đi cho con người xác thịt… và chọn làm theo ý Chúa. Họ chết một lần cho thế gian, từ bỏ dứt khoát để vào đan viện – “Thiên Đàng” của họ – như tâm tình của Thánh Gierađo “Mẹ ở nhà con đi làm thánh”, mà các thánh thì chỉ ở nơi Thiên Đàng thôi. Điều này gây ý thức cho thế gian nhận thấy được một sự đòi hỏi của Nước Trời.

Sự tự do của đan sĩ ít nhiều không bị ràng buộc với những lo lắng thường nhật. Điều đó cho phép đan sĩ có một tương quan vui vẻ với tất cả mọi sự. Họ từ bỏ thế gian không phải là để mặc thế gian nhưng để hiệp thông sâu xa hơn trong một tương quan mật thiết. Họ có khả năng sống trong một tương quan mới mẻ và sâu đậm hơn với tất cả. Sự từ bỏ ấy làm cho người đan sĩ tự do thật sự. Các đan sĩ sinh ra trong thế gian, sống giữa thế gian nhưng không để cho thế gian kiểm soát mình. Họ xa lánh thế gian nhưng ôm trọn cả thế gian vào lòng với một con tim rộng mở, cùng với một tình yêu bao la, lúc nào cũng trăn trở, hòa cùng nhịp đập yêu thương với niềm cảm thông sâu xa. Họ dâng lên Thiên Chúa mọi đau khổ của thế gian cùng với hy lễ hiến dâng và lánh ra khỏi thế gian để quan sát thế gian một cách rõ ràng hơn. Với sự hướng dẫn của Chúa, họ tìm ra ý Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống, nhờ đó biết cách giúp đỡ những người đang gặp khó khăn và hướng dẫn mọi người cùng tiến bước vững vàng tới mục đích cánh chung.

Đan sĩ làm cho tất cả mọi sự ở thế gian được thăng hoa, được khoác lên mình một ý nghĩa mới, một giá trị mới. Sự thăng hoa thực tại nhấn mạnh tính nội tại của Thiên Chúa, tức là sự hiện diện của Ngài trong mỗi sự vật. Sự thăng hoa trong các mối tương quan làm cho tính siêu việt của Chúa được tỏ hiện trong chính đời sống của người đan sĩ.

Thiên Chúa tạo dựng nên con người là để họ chia sẻ hạnh phúc với Ngài, nhưng vì tội lỗi xen vào nên ý định của Ngài chỉ được nên trọn vào ngày cánh chung. Tuy nhiên, ngay trên trần gian này, Ngài vẫn mời gọi mọi người hưởng hạnh phúc với Ngài và những người thánh hiến là một trong những người nhận ra lời mời gọi ấy nên đã trở nên dấu chứng cho đời sống cánh chung. Họ giống như những trinh nữ tay cầm đèn sáng luôn tỉnh thức chờ đón Tân Lang nên trong lòng, họ luôn nung nấu một niềm vui khôn tả, niềm vui của Thiên Đàng ngay trong đời tạm này. Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ví von người thánh hiến là những trinh nữ dành riêng cho Chúa, ngài nói: “… hãy đi đón Người như những trinh nữ khôn ngoan đi đón Lang quân… trở nên dấu chỉ báo trước thế giới sắp đến, trong đó Thiên Chúa được siêu tôn, sẽ trở thành niềm hoan lạc sung mãn và trường tồn cho chúng ta, cho anh chị em chúng ta, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. [181]

Cộng đoàn tu trì là môi trường để quyền năng và vinh quang Chúa được tỏ hiện, là nơi Chúa thích ngự trị và cũng là nơi Ngài được tôn vinh.

 

 

TÌM KIẾM NHỮNG SỰ TRÊN CAO
(Cl 3,1-2)

Mai Lệ Thi

 

 “Trái đất này nơi con người náu thân,
thế gian này con đường dẫn lên trời,
kiếp sống này ta xây dựng thế giới,
để dọn đường cho Nước Trời mai sau”.

Qua ca từ bài hát “Cho Nước Trời Mai Sau”, nhạc sĩ Nguyễn Duy diễn tả sự tạm bợ của cuộc sống trần gian và Nước Trời là mục đích nhắm tới của niềm tin Kitô giáo. Nhưng cách sống “yêu cuồng sống vội, chạy theo các chủ nghĩa hưởng thụ – thực dụng – cá nhân…” phần nào đó đã làm cho con người ngày nay không còn tin vào sự sống đời sau, nếu có thì cũng rất mơ hồ nên đã để mình cuốn vào vòng xoáy tìm kiếm những thực tại như tiền tài – danh vọng – quyền lực… Điều này cũng không xa lạ gì với các tín hữu giáo đoàn Côlôsê thời thánh Phaolô. Họ rơi vào tình trạng khủng hoảng đức tin, không còn coi Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất, nhưng tìm kiếm những thần khác để tôn thờ. Biết được tình trạng đó, thánh Phaolô đã viết thư khuyên nhủ và nhất là dùng nguyên lý Đời Sống Mới trong Chúa Kitô để đề phòng họ quay lại đời sống cũ, ngài nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3,1-2). Với tinh thần hướng thượng, người viết muốn đi tìm một hướng sống có ý nghĩa. Dựa vào tư tưởng của thánh Phaolô trong thư gửi cho giáo đoàn Côlôsê, với tựa đề “tìm kiếm những gì trên cao” bài viết sẽ trình bày những điểm chính sau:

Thứ nhất: thực tại của cộng đoàn Côlôsê.

Thứ hai: tìm kiếm những sự trên cao, nơi thực tại trần thế theo thánh Phaolô.

Thứ ba: Đan sĩ tìm kiếm những gì trên cao.

  1. Thực tại (hiện trạng) của cộng đoàn Côlôsê

Cộng đoàn tín hữu Côlôsê đã có một giai đoạn khủng hoảng về đức tin khi đánh giá thấp Chúa Kitô: “Họ không cảm thấy yên tâm khi chỉ tin vào một mình Chúa Kitô, muốn có thêm những kiểu cách hành đạo của Cựu Ước, hoặc tìm cách xếp Chúa vào số những nhân vật thiên giới, những “thiên thần”, vì theo họ, những vị này nắm trong tay vận mệnh của họ… bị mê hoặc bởi những giáo thuyết ngộ đạo như: tin tưởng sùng kính các vong hồn, hoặc tin vào khoa thông linh học, khoa chiêm tinh và thuật xem số tử vi. Họ không còn coi Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất nữa, bởi lẽ họ tin tưởng vào những cứu tinh khác hay vào những kiểu cách hành đạo không phải là của Hội thánh.”[182] Trước hiện trạng đó, thánh Phaolô dù đang bị tù, ngài cầu nguyện cùng Thiên Chúa và dùng chính kinh nghiệm của mình để viết thư khuyên nhủ các tín hữu Côlôsê qua việc khẳng định quyền tối cao tuyệt đối của Chúa Kitô. Ngài nói: “Nơi Người tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể, và trong Người, anh em được sung mãn: Người vốn là đầu mọi quyền lực thần thiêng” (Cl 2,9-10). Để đề phòng tín hữu nơi đây quay lại lối sống cũ làm nô lệ cho tội lỗi, cho ma quỷ, ngài nhắc nhở họ nguyên lý về Đời Sống Mới trong Chúa Kitô: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3,1-2).

  1. Chúng ta tìm kiếm những sự trên cao nơi thực tại trần gian theo thánh Phaolô

Theo thánh Phaolô, đời sống mới của Kitô hữu bắt đầu bằng việc tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu Kitô và được cụ thể qua việc chúng ta lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy (x. Gl 2,16.20; Rm 3,22.26). Vì khi lãnh bí tích Thanh tẩy, chúng ta đã được chịu phép cắt bì của Đức Kitô có sức lột bỏ con người tội lỗi của chúng ta. Chúng ta đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cũng được trỗi dậy với Người. Qua cái chết và sống lại của mình, Người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã truất phế các quyền lực thần thiêng (x. Cl 2,11-15).

Đối với ngài: “Bí tích Thanh tẩy kết hợp chúng ta với Chúa Kitô và cho chúng ta được chia sẻ tất cả những kho tàng phong phú của Người. Vậy chúng ta phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát, vì bị những ham muốn lừa dối, chúng ta phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24). Nên khi được kết hợp với Thiên Chúa, người Kitô hữu hãy để Thần Khí đổi mới tâm trí bằng cách chấm dứt con người cũ; giận dữ, nóng nảy, độc ác, thóa mạ, ăn nói thô tục (x. Cl 3,7), và khước từ làm nô lệ cho các đam mê của mình: “gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam – mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng” (Cl 3,5); để mặc lấy con người mới có đặc điểm hướng về lợi ích chung, luôn bận tâm lo cho người khác (x. Cl 3,5-13).

Xuyên suốt các bức thư, thánh Phaolô cũng nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng tình bác ái, nhất là trong bức thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô, ngài đã nhìn nhận đức mến là con đường trổi vượt hơn cả (x. 1Cr 12,31). Theo ngài, sống kết hợp với Đức Giêsu còn có nghĩa là để đức tin chi phối toàn bộ cuộc sống, đến nỗi ý thức mình làm bất cứ điều gì cũng như thể đang làm cho Chúa (x. Cl 3,23-24), luôn sống đúng cương vị của mình trong gia đình và ngoài xã hội (x. Cl 3,18 – 4,1). Như vậy, khởi đi từ kinh nghiệm gặp gỡ và sống kết hợp với Đức Giêsu Phục sinh, thánh Phaolô đã rao giảng một nền luân lý nhằm khuyên mọi người phải sống công bằng, lương thiện và tôn trọng kẻ khác, dù họ có lỗi lầm.[183]

Con người ngày nay đón nhận giáo huấn của thánh Phaolô ra sao? Có thể nói họ cũng đang đi trên vết xe đổ của cộng đoàn Côlôsê thời bấy giờ, khi tôn thờ vật chất chạy theo tư lợi mà không lưu tâm đến tự do, nhân phẩm và công bằng dẫn đến đời sống luân lý và đạo đức ngày càng xuống dốc.Vậy để đáp lại lời mời gọi của thánh Phaolô, phải chăng chúng ta cần sống cuộc sống khác? Thưa không! “Không phải sống cuộc sống khác, nhưng sống khác hơn cuộc sống thường nhật. Chính thế gian này được Chúa hứa vào Nước Trời, vì thế không phải khinh miệt nó nhưng phải sống trong đó như cái mầm của Nước Trời.”[184] Nghĩa là chúng ta cứ đón nhận thế giới với những đổi thay hiện tại, sống đúng cương vị của mình trong gia đình, cộng đoàn, xã hội và Giáo hội; lao động không chỉ vì mục đích thương mại nhưng vì mưu sinh và cộng tác vào công trình sáng tạo của Chúa; không vì chút lợi nhuận trước mắt mà gây thiệt hại cho người khác về vật chất, tinh thần và nhân phẩm. Tóm lại, khi phát triển xã hội phải nhắm đến việc thăng tiến và phục vụ quyền lợi con người.

Với kinh nghiệm Đức Kitô là Đấng Cứu Thế giàu lòng yêu thương không chỉ bao dung cho sự ngạo mạn và ngông cuồng của mình mà còn ưu ái chọn gọi làm Tông đồ cho dân ngoại, Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa hiến thánh và yêu thương. Vì thế anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,12-14). Khi sống như thế, chúng ta đang tìm kiếm những sự trên cao nơi thực tại trần gian. Vậy với châm ngôn “Ora et Labora” (cầu nguyện và lao động), đâu là cách thế đan sĩ tìm kiếm những sự trên cao?

  1. Đan sĩ tìm kiếm những sự trên cao

Như đã trình bày ở trên, yếu tố xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến việc đan sĩ tìm kiếm Nước Trời. Những yếu tố của môi trường đan tu gồm: tách biệt thế gian, đời sống cộng đoàn, đời sống chuyên về phụng vụ và lao tác, khổ chế, thinh lặng, các lời khuyên Phúc âm…là cơ hội để các đan sĩ tìm kiếm những sự trên cao thuận lợi hơn. Thực tế cho thấy, tinh thần thế tục đang len lỏi vào đời sống đan sĩ, khi chức quyền vẫn là tham vọng của nhiều người. Thay vì họ dùng quyền bính để phục vụ thì lại dùng quyền bính làm khổ người khác, thay vì hiến thân phục vụ thì lại tìm cách tiến thân vụ lợi. Một vài trường hợp quá chú trọng đến việc phát triển cơ sở vật chất, kinh tế, khiến đan sĩ không còn trung thành với các giờ thần vụ cũng như các sinh hoạt chung của cộng đoàn. Óc thành kiến và thói nói hành nói xấu, có nguy cơ đánh mất tương quan huynh đệ cộng đoàn. Một số đan sĩ lạm dụng các phương tiện truyền thông, khiến cho ngày càng phai nhạt đời sống thiêng liêng.

Phải chăng tình trạng vừa nêu trên là hệ quả của đời sống thiếu sự kết hợp với Chúa? Vậy chúng ta hãy sống kết hợp với Chúa để Thần Khí hướng dẫn chúng ta trong suy nghĩ, lời nói và hành động. Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã đưa ra lý do và cách thức giúp chúng ta sống kết hợp với Chúa: “Chúng ta hãy xem ơn chịu phép rửa tội, được làm con Chúa được nên giống Chúa, đó là ơn trọng lắm, chớ khá quên, hãy năng nhớ mà cảm ơn Chúa, vì mọi sự đều vô ích chóng qua, trừ ra sự kính mến Chúa mà thôi”[185]. Đối với cha Tổ Phụ, đời này người ta lo lắng nhiều chuyện: “Người thì làm giáo hoàng, làm giám mục, làm vua chúa; kẻ thì làm thợ mộc, thợ rèn; kẻ thì tự hào mình là thầy lang, thầy thuốc… khắp nơi, bao nhiêu người lo lắng các việc vô ích chóng qua.”[186] Các việc ấy dù vẻ vang tới đâu, “năm mươi sáu mươi năm là xong hết.”[187] “Chúng ta hãy ăn ở cho khôn ngoan, biết dùng các việc ấy để giúp chúng ta trong sự kính mến Chúa, là hiệp một lòng một ý với Chúa.”[188] Cha Biển Đức Thuận đã sống những gì ngài khuyên dạy như dù làm bề trên nhưng ngài đã chọn công tác lau chùi nhà vệ sinh cho đến khi ngài đau yếu không làm được nữa.

Theo quan điểm của thánh Phaolô, đời sống kết hợp với Chúa sẽ giúp nảy sinh hoa trái nơi đời sống huynh đệ cộng đoàn: đó là sự hiếu hòa để giữ gìn tương quan, cẩn trọng trong việc xét đoán hay phê phán anh chị em. Đặc biệt chính khiêm nhu và hiếu hòa sẽ giúp đan sĩ đón nhận mọi sự từ viện phụ, đón nhận nếp sống khổ chế và thiếu thốn của đời sống đan tu. Chính sự khiêm nhu cũng giúp đan sĩ ý thức sự giới hạn nơi bản thân để dễ cảm thông và nhẫn nại với người khác. Theo giáo huấn của thánh Phaolô, đan sĩ cần có tấm lòng nhân hậu, luôn mong muốn và thực hiện điều tốt vì lợi ích của người khác. Vì “đời sống tu trì làm chứng cho xã hội thấy cách rõ ràng hơn những thực tại của đức ái, của sự hiệp thông vào thân thể Chúa Kitô, Đấng đã thiết lập nên đời sống Giáo hội.”[189] Như vậy, cách thế kết hợp với Chúa bằng việc năng nhớ tới Chúa, theo gương cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận và nỗ lực xây dựng tình huynh đệ cộng đoàn theo lời khuyên của thánh Phaolô giúp đan sĩ tìm kiếm những sự trên cao ngay chính môi trường đan tu qua cuộc sống thường nhật với tâm tình hướng về trời cao.

Tóm Kết

Thật vậy, tìm kiếm những sự trên cao nghĩa là tìm kiếm sự vĩnh cửu nơi những gì tạm thời. Hiến Chương Nước Trời chứng thực cho những gì chúng ta tìm kiếm: khi chúng ta sống tinh thần nghèo khó để sẻ chia cho người khác thì Nước Trời là của chúng ta… (x. Mt 5,1-12). Suốt hành trình tìm kiếm, đã không ít lần chúng ta mất phương hướng, tìm kiếm những sự tạm bợ, chóng qua, do quyến rũ thế gian; đam mê, dục vọng và lòng tham. Theo Đức thánh cha Phanxicô, những lúc như vậy, chúng ta cần nhớ lại hồng ân ngày lãnh bí tích Rửa Tội. “Đó là ngày chúng ta được cứu độ, là ngày chúng ta trở thành con Thiên Chúa. Ngài mời gọi mọi người tìm hiểu ngày này và mỗi năm nhớ đến ngày này, ngày chúng ta được trở nên con Thiên Chúa.” Đức thánh cha giải thích rằng: “Bằng sự Nhập Thể, cái Chết và sự Phục Sinh của mình, Con Thiên Chúa đã hòa giải chúng ta với Chúa Cha, ban cho chúng ta sự sống mới và ban cho chúng ta được dự phần vào quyền làm con Thiên Chúa của Người. Nhờ đức tin và phép Rửa Tội, chúng ta đã được biến đổi nội tâm; bây giờ, khi “mặc lấy Đức Kitô”, chúng ta đã trở thành một thụ tạo mới.[190] Tuy nơi bí tích Rửa Tội, người Kitô hữu được mặc lấy con người mới, được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa, nhưng vẫn chưa được tròn đầy. Vì thế, ngày ngày cần phải được cởi bỏ vô số những điều không xứng hợp vốn làm cho con người khác biệt với dung mạo của Thiên Chúa bằng cách sống đúng mực của người Kitô hữu,[191] hướng lòng để tìm kiếm những sự “TRÊN CAO”.

 

 

MỘT SỐ CHỨNG TỪ VỀ CHA TỔ PHỤ

Ân Thiên

 

Hội dòng Xitô Thánh Gia đang hướng đến kỷ niệm lần thứ 90 ngày cha Tổ Phụ Henri Denis Biển Đức Thuận về với Chúa. Cha Tổ Phụ đã ra đi nhưng hình ảnh, tính cách và gia sản thiêng liêng mà cha để lại cho con cái vẫn còn đó, vẫn sống động trong những trang hạnh tích về cuộc đời ngài, trong những lời giáo huấn đã được con cái ngài thuật lại. Nhưng sẽ là chủ quan nếu những chứng từ về ngài chỉ được nhìn trong mối tương quan cha con bởi những bậc cha anh thuộc thế hệ đầu tiên lúc ngài khởi sự lập dòng, và nói như tác giả của cuốn Hạnh Tích cha Benoit thì chẳng khác nào ‘mẹ hát con khen hay’. Do đó, cần đến những chứng từ của những người bên ngoài để những chứng từ về đời sống và giáo huấn của cha Tổ Phụ mang tính khách quan và thuyết phục hơn. Chính vì thế, trong cuốn Hạnh Tích, tác giả đã thu thập và ghi lại một số chứng từ của các cha hoặc những người sống đồng thời với cha Tổ Phụ từng có dịp quen biết hay tiếp xúc với ngài hoặc đã từng là môn sinh của ngài để những gì viết về cuộc đời cha Tổ Phụ được chính xác và mang tính khách quan hơn. Bài viết này xin trích lại một số chứng từ ấy cùng với một vài suy tư của bản thân, như một vài nét phác họa chân dung của cha Tổ Phụ với những nhân đức và gương lành của ngài; qua đó, người đan sĩ Xitô Thánh Gia có thể noi theo và áp dụng phần nào những nhân đức và ý hướng của đấng sáng lập vào đời sống đan tu hôm nay.

  1. Con người cầu nguyện 

Cha Tổ Phụ đã có một đời sống cầu nguyện sâu xa như lời chứng của cha Thuận: “Lúc làm lễ thường thấy mặt ngài đỏ. Làm lễ xong ngài quỳ một bề, mặt ngó xuống. Chính tôi buổi sáng lên xin phép, gõ cửa thấy người cầm cuốn sách ngồi ở giường nguyện gẫm sau khi làm lễ hai mắt lù bù giọt lệ nhỏ sa.” Ngài đọc kinh nhật tụng, dọn mình làm lễ và cám ơn sốt sắng lắm. Kinh nhật tụng thì ngài đọc đúng giờ và đọc trong nhà thờ với dáng điệu trang nghiêm và cầm trí sốt sắng đến nỗi học sinh vào mà ngài không biết. Nhiều người ban sáng không thấy ngài xuống lót lòng. Có khi lên phòng thấy ngài đứng sững, gõ cửa đôi ba lần mới biết. Cơm trưa xong ngài lên nhà thờ cầu nguyện lâu, có khi hai giờ chiều mới ra dọn bài. Cha Kính nói: “Trưa nào tôi lên nhà thờ tập đàn cũng thấy ngài quỳ đó luôn.[192] Ngài còn làm chứng thêm:Hễ cố Thuận vào nhà thờ thì quỳ gối hai tay chấp hoặc vòng lại, đầu cúi xuống, chăm chỉ một bề không máy động. Lòng trí cha đầy đức tin, cậy, khiêm nhường, kính mến Chúa tha thiết, tắt rằng đầy sự sống bề trong” [193]

Theo chứng từ của các cha giáo sư tiểu chủng viện, cha Tổ Phụ đã có một đời sống cầu nguyện sâu xa, sốt sắng. Chính vì thế khi thiết lập dòng đan tu chiêm niệm, ngài còn nhấn mạnh hơn đến đời sống cầu nguyện; vì cầu nguyện có một vị trí rất quan trọng và cần thiết trong đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu, nhất là đối với người đan sĩ. Chính vì thế, các nhà tu đức không ngần ngại sánh ví cầu nguyện như là hơi thở của linh hồn. Trong Di Ngôn, số 118, cha Tổ Phụ dạy anh em: ‘Cầu nguyện là chính việc chúng ta. Thầy dòng phải là con người cầu nguyện’. Lời giáo huấn và gương lành của đấng sáng lập là một lời nhắc nhở và mời gọi chúng ta ý thức hơn về ơn gọi và đời sống cầu nguyện của mình, nhất là trong thời đại hôm nay, khi mà có quá nhiều điều lôi kéo người đan sĩ ra khỏi việc cầu nguyện.

  1. Tinh thần phó thác

Trong Tin mừng, Chúa Giêsu dạy các môn đệ hãy tín thác vào sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa như trẻ nhỏ phó thác mọi sự trong tay cha mẹ, bởi không sự gì xảy ra với họ lại nằm ngoài thánh ý của Thiên Chúa. Cha Tổ Phụ đã sống tâm tình này suốt đời ngài như tác giả cuốn Hạnh Tích ghi lại qua nhiều biến cố cũng như qua một số chứng từ:

Theo cố Phú, cha phó cựu của ngài làm chứng thì ngài luôn luôn trông cậy Chúa, phú dâng mọi sự trong tay Chúa và Đức Mẹ. Thư rằng: “Tôi nói với ngài nhiều lần: cha nên đi thăm một nhà dòng Trappe nào mà coi cho biết cách thức thế nào đã, rồi mới nên khởi sự. Song có lẽ Đức cha không cho. Mặc lòng ngài hằng trông cậy vào Chúa, muốn cho sáng danh Chúa, như lời ngài năng nói với tôi: “Việc con toan làm, nếu đẹp lòng Chúa, thì chắc sẽ thành công, bằng không thì con chịu hỏng việc, trong mọi sự con hằng phú dâng trong tay Chúa và Đức Mẹ.”[194]

Còn theo chứng thư của ông Huỳnh Văn Sỹ, cựu môn đệ của cha: “Mấy tháng đầu ngài chỉ lo làm nhà, còn tiền bạc thì ngài cứ nói: “Chúa sẽ liệu”. Thật vậy, khi cha lên Phước Sơn còn mắc nhà chung 300 đồng mà Chúa trang trải xong xuôi như lòng ngài sở cậy. Song ngài phải ngậm đắng nuốt cay giữa trăm ngàn tiếng mỉa mai. Có kẻ khinh chê việc ngài đến nỗi dám nói: “Ai cho cố Thuận lập dòng một xu là uổng một xu”. Đứng trước chén tân toan, cha phó dâng mọi sự trong tay Cha chí ái với đức tin cậy như đứa con thơ”[195].

Cha Gilbert Barnabé (bí thư cha Bề Trên Cả Xitô ở Rôma) khi chưa vào Dòng, còn làm quản lý địa phận Thanh Hoá, có vào Phước Sơn cấm phòng đã lưu bút tích như sau: “Hồi tháng 6-1932 tôi đến cấm phòng ở Phước Sơn nhiều ngày, cha Benoît dầu bận nhiều công việc song ngày nào cũng gặp tôi lâu giờ hoặc nói chuyện trong phòng, hoặc đi bách bộ ngoài đường, với các cha khác cũng vậy. Ngài nói nhiều câu rất cảm kích: “Luôn luôn thấy ngón tay Chúa trong hết mọi sự, bất luận xuôi thuận hay trắc trở, khi gặp điều trái ý chớ hành động ngược lại, phải phục tùng thánh ý Chúa. Đó là lời ngài hằng nói với những người bị chuyện rủi ro đến xin an ủi. Cha kể chuyện một đấng kia được nhiều tiền bên Tây gửi cho muốn xây nhà trường, nhà thương, song Đức cha không cho thì buồn, cha Benoît trấn tĩnh ngài vui lòng theo ý Chúa. Cái bí quyết: “Mọi sự đều do thánh ý Chúa” xem ra hằng ở luôn trong trí não cha Benoît. Bất luận việc gì ngài hằng nhìn nhận quyền phép Chúa tham dự vào trước…”[196]

Tâm tình phó thác mọi sự trong tay Thiên Chúa là phương châm sống, và có lẽ là nhân đức sáng ngời nơi cha Tổ Phụ. Hầu như suốt cả cuộc đời, trong mọi việc ngài luôn phó thác trong tay Thiên Chúa: được – mất; vinh – nhục; sướng – khổ; sống – chết, ngài đều để cho Thiên Chúa định liệu và thuận theo thánh ý Chúa. Những gì xảy đến với cha và cộng đoàn đều không quan trọng cho bằng thánh ý Chúa được thể hiện. Điều ấy được diễn tả qua việc luôn tuân phục các vị bề trên, hay trong những trường hợp như ốm đau, bệnh tật, mất mùa, cháy nhà… ngài đều tạ ơn và vâng theo thánh ý Chúa. Nhưng có lẽ đỉnh điểm của một đời sống luôn quy phục thánh ý Chúa nơi cha Tổ Phụ được thể hiện trong những lời trối của ngài: “Đàng nhân đức là tuân theo thánh ý Chúa, mà theo thánh ý Chúa là giữ luật Dòng cho trọn… Cha không áy náy lo lắng chi hết, vì cha biết rõ Chúa là Cha chung, Chúa thương Cha và cũng thương chúng con… cha xét: phó mình trong tay Cha lành là điều tốt hơn cả”[197]  Để sống tâm tình phó thác cậy trông vững vàng này đòi hỏi một đức tin mạnh mẽ vào tình thương của Chúa và một lòng yêu mến Chúa nồng nàn. Do đó, tinh thần phó thác nơi cha Tổ Phụ cũng gián tiếp nói lên lòng tin và lòng mến Chúa của ngài.

  1. Cải quá tự tân

Cải quá tự tân là một đòi hỏi của tất cả mọi người, mọi Kitô hữu và đặc biệt được nhấn mạnh trong đời đan tu, vì đó là khởi điểm và là điều kiện cần để mỗi người trở nên tốt hơn, hoàn thiện hơn. Điều quan trọng là cần nhận ra khuyết điểm của mình để sửa chữa. Một trong những cách để có thể nhận ra khuyết điểm của mình là qua những góp ý của người khác. Điều này đòi hỏi sự khiêm nhường và chân thành đón nhận. Cha Tổ Phụ cũng có những khuyết điểm trong cuộc đời mình và khuyết điểm lớn nhất nơi cha Tổ Phụ mà nhiều người nhận thấy là tính khí nóng nảy, bộc trực. Tuy nhiên, chính ngài cũng ý thức được khuyết điểm này và khi được người khác góp ý thì ngài khiêm tốn đón nhận và ra sức sửa chữa để trở nên dịu dàng và hòa nhã như lời cha Thuận làm chứng: “Cha Benoît kiêu ngạo và nóng nẩy quá lẽ, song bởi ngài quyết chí sửa mình và ổn định hai tính ấy cho được, nên Chúa thương cho ngài nên thánh, sau ra khiêm nhường hiền lành cách lạ, đến nỗi nhiều khi có chú cự lại, nói nhiều câu sóc óc mà ngài cứ làm thinh chỉ bắt vào nhà thờ chầu Mình Thánh, lại tha hết các hình phạt. Nghe các chú nói: ngài đã quyết đi lập Dòng nên mới hãm dẹp tính nóng như vậy. Nhiều khi ngài kìm hãm tính nóng đến nỗi đỏ mặt tía tai, chân tay run rẩy. Chúng tôi học với ngài một năm mà sợ thất kinh, có chú sợ quá mắc bệnh. Thế mà 10 phần nóng đã bớt chín rồi đó! Song có điều là người quở phạt rồi thôi không in trí, hết nóng lại tử tế với mọi chú như thường. Hễ ai nói ngài kiêu ngạo thì dầu xung giận khó chịu mấy ngài cũng cầm mình lập tức vì nhớ lời cha mình dặn: “Đi đâu thì đi mà đừng kiêu ngạo.”[198]

Cha Chất nói mạnh mẽ hơn: “Cha Benoît là đấng thật sốt sắng kính mến Chúa hết lòng và phi thường, lại rất ái mộ phần rỗi người ta. Câu thánh vịnh rằng: Ascentiones in corde suo disposuit (Ps 83,5-6). Người xếp đặt các bậc nhân đức trong lòng để xúc tiến.” Tôi thiết tưởng thấy nhiều điều như vậy nơi mình cha Benoît ngài đổi tính nết cách lạ lùng và nên trọn lành mau chóng; đầu hết có tính hay thay đổi ít nhiều, sau ra đằm thắm khôn ngoan trước có hơi nóng nẩy, sau ra hiền lành dịu dàng khác thường.”[199]

Cố Phú (cha Rey), được Đức cha sai đến giúp, đồng thời học tiếng Việt với cố Thuận cũng làm chứng như sau: “Tôi thú thật tôi không làm cho cố Thuận được hài lòng mấy. Tôi mới học tiếng Việt Nam được mấy tháng mà ngài muốn tôi nói xuôi sao được? Tôi nhớ sao nói vậy mà ngài cũng vui lòng luôn. Tính ngài nóng như lửa cháy, song cũng mau tắt. Ngài sắc trí lắm, nên mau hiểu sự lỗi của mình khi đã biết thì tự hạ cách đơn sơ khiêm nhường lắm”[200]

Để làm chủ tính nóng nảy và trở nên dịu dàng hòa nhã hơn, có lẽ cha Tổ Phụ đã tập luyện rất nhiều, nhất là khi khởi sự lập dòng như lời chứng của Cha Philipphê Lê Thiện Bá : “Ngài có đức tin mạnh, cậy Chúa, mến Chúa: ai biết tính ngài cang cường hăng hái, mà nay ra nhu mì êm dịu, thì biết ngài thắng mình chừng nào! Việc ngài làm đều là “Actes héroiques” cả.”[201]

Một cha khác lại không coi sự thẳng nhặt nơi cha Tổ Phụ là một khuyết điểm nhưng là một sự nhiệt thành cao độ: “Tôi xin theo trí khôn một linh mục biết đàng nhân đức ít nhiều mà nói: Cố Thuận là một đấng thánh, vì thấy ngài có sự sống bề trong rõ ràng lắm, các ý chỉ của ngài khi làm việc rất siêu nhiên, các việc ngài làm không ai bắt được lỗi gì, lời ngài nói cả đời không ai nghe thấy tiếng gì không xứng miệng đấng làm thầy. Còn khi ngài dậy dỗ có nói một hai lời khiến học sinh lấy làm cay đắng, song đó là bản tánh tự nhiên, lại mục đích là sửa dậy, nên cũng là những lời tốt.”[202]

  1. Khổ chế

Khổ chế là điều cần thiết cho đời sống tu trì, cách riêng những dòng tu được mệnh danh là ‘khổ tu’ thì càng được nhấn mạnh hơn. Khổ chế nhằm giúp người tu sĩ đi vào khuôn khổ, hãm dẹp nết xấu, luyện tập nhân đức, thanh thoát với mọi sự và dễ dàng đạt tới Thiên Chúa. Cha Henri Denis là Tổ Phụ của một dòng cũng được coi là dòng khổ tu nên ngài rất nhấn mạnh đến việc khổ chế. Tuy nhiên, ngài có một đời sống khổ chế khi còn là giáo sư ở tiểu chủng viện như lời chứng của các cha giáo sư quen biết.

Theo thư của các cha Lê Thiện Bá, Lê Hữu Luyến làm chứng: “Cố Thuận làm việc nhiều mà lại dùng vật thực rất ít và rất thanh đạm. Buổi mai chỉ vài ba củ khoai là xong. Món chi dọn trước mặt thì ngài dùng món ấy, thường là rau, măng. Ngài không dùng thịt, cá, trứng trừ những hoàn cảnh đặc biệt khi ấy ngài cũng dùng ít hết sức, còn các thứ rượu và hút thuốc thì không bao giờ. Các chú biết ngài thích rau, măng, thì hay đặt những món đó gần ngài. Mười phút xong bữa cơm cố Thuận, một bát nước trà xuông kết liễu: thế là rồi! Đoạn cha vòng tay nghe sách hoặc suy gẫm, nếu là ngày nói chuyện thì ngài đem sách riêng mà xem. Mỗi đêm cha chỉ nghỉ 5 giờ, không có giờ nghỉ trưa; lúc đó cha vào nhà thờ viếng Mình Thánh. Các ngày thứ Sáu quanh năm và trót Mùa Chay Cả, ngài giữ chay rất ngặt. Bởi cha hãm mình quá nên ốm o, gầy gò song không bao giờ sao nhãng việc nhiệm vụ. Học trò thấy cha hãm mình thì cũng bắt chước, sau cố Bề trên biết thì cấm hẳn.”[203]

Thời gian đầu làm giáo sư chủng viện, cha Tổ Phụ đã hãm mình khổ chế nhiệm nhặt. Tuy nhiên, sau thời gian coi xứ Nước Mặn và trở về làm giáo sư chủng viện lần thứ hai, trước khi lập dòng, ngài còn hãm mình nhiệm nhặt hơn nữa. Thư của các cha Bá, cha Tịch, cha Luyến ghi nhận: “Một năm trước khi lập dòng, nhiều bữa buổi mai buổi tối ngài chỉ dùng một chén càfê, một trái chuối hay một vài lát mứt, có khi ngài giả bộ lấy vịm cơm rớt vào chén, làm chi qua quýt cho bề trên biết là ăn, rồi ra dấu cho các chú cất đi. Đến sau cha Bề trên biết song làm thinh thì buổi mai, buổi tối ngài không dùng chi, nhưng cũng xuống nhà cơm hoặc xem sách hay nghe sách và nói chuyện vui vẻ với các cha. Bữa trưa ngài dùng ít và mau lắm. Mùa Chay thì ngài giữ trọn 40 ngày rất nhặt song cứ làm việc hăng hái in thường. Ngài chỉ dùng rau, măng, nhiều bữa chỉ dùng cơm không, nhất là một năm trước lập dòng. Về phòng ở thì rất đơn sơ như đã nói trước. Ngài không có mùng muỗi, cha Bề trên thấy muỗi cắn ngài đầy mặt mũi chân tay thì bảo may mùng cho ngài, song không biết ban đêm ngài có dùng không. Học sinh thấy ngài hãm mình thì cười cho vui, dần dần thi nhau bắt chước. Có chú trong 4 năm chỉ ăn cơm nể hoặc cơm muối mắm dưa cải, sau cha Bề trên biết thì cấm nhặt. Cách cha giáo Thuận ăn ở khổ hạnh đã đổi chủng viện ra tu viện. Nếu ngài cổ động các chú theo ngài tu rú kể năm bảy chục!”[204]

Cố Mẫn, là cha linh hướng của cha Tổ Phụ có những lời chứng: “Tôi tưởng các thánh đời xưa cũng không hãm mình chịu khó hơn cố Thuận.”[205]

Lần khác, trên xe lửa, cha Tổ Phụ gặp ông Chánh án tỉnh Quảng Trị, ông biết ngài, mà ngài không biết ông. Khi ngài qua đời rồi, ông mới viết ít lời thuật lại như sau: “Hồi năm 1931, tôi hân hạnh được gặp đức cha Bề trên, trên xe lửa, cả buổi mai xe chạy, ngài cứ ngồi hai mắt lim dim, miệng lẩm bẩm tụng kinh, tôi muốn mà không dám lại gần hỏi chuyện, mãi đến trưa thấy ngài mở mo cơm nắm ra “thời” (ăn). Than ôi! Nắm cơm đã đỏ lại khô ngài bẻ ra từng miếng với đôi đũa tre gắp chấm chút muối mè mà “thời” coi bộ ngon lắm. Ngài “thời” xong, tôi lại gần, kính chào và vô phép hỏi: thưa ngài. Ngài “thời” cơm rứa có ngon không? “Ngon lắm chứ, ngài trả lời, nhất là khi đói thì càng ngon.” -Than ôi! Phần tôi phải thuê người bếp, mỗi tháng trả 20 đồng mà nấu tôi ăn không được, ngài có phước quá! Thế rồi tôi tự giới thiệu tôi là Án Sát Quảng Trị, tức thì Ngài niềm nở truyện vãn rôm rả vì Phủ Vĩnh Linh và tỉnh Quảng Trị là bà con với chắc.”[206]

Mo cơm nắm mà cha Tổ Phụ dùng khi đi tàu đã làm cho vị án sát tỉnh Quảng Trị ngạc nhiên và thán phục khi so với lương thực mà ông thường dùng. Tuy nhiên, xét về tình cảnh thời ấy, ăn uống như thế là điều rất bình thường đối với hầu hết người dân lao động. Nhưng có lẽ điều làm cho ông quan án sát Quảng Trị và cả chính chúng ta là con cái ngài hôm nay cũng phải ngạc nhiên về sự khắc khổ của cha Tổ Phụ, vốn là một người Tây nhưng ngài lại có thể dùng lương thực như thế mà cảm thấy rất ngon lành. Và với vị thế của một vị bề trên của một cộng đoàn, ngài có thể có quyền đem theo lương thực tốt hơn cho bữa ăn khi ra ngoài nhưng ngài đã không làm thế.

Lời chứng của quan án sát Quảng Trị về cha Tổ Phụ còn cho thấy rõ hơn con người của cha Tổ Phụ như mẫu gương cho con cái ngài noi theo từ nhân đức như khó nghèo, khiêm tốn bên trong cho đến cung cách, thái độ bên ngoài khi xuất hành.

  1. Ước muốn nên thánh

Theo tác giả cuốn Hạnh Tích: “Cha giáo Thuận còn có một đức tính rất là quý là ý mạnh mẽ. Ngài năng thúc dục học trò: ‘Sau này làm cha rồi phải làm ba điều: Lập hai họ đạo; xây hai nhà thờ; chép hai quyển sách, sau cùng liệu sao ít là vào trong câu tóm chung Lịch Tử Đạo: “Et alibi aliorum plurimorum, sanctorum, martyrum et confessirum, atque sanctarum virginum: Lại nơi khác còn nhiều thánh tử đạo, ẩn tu và đồng trinh nữa’. Thế đã rõ ý ngài muốn nên thánh, nếu không đích danh thì ít là vào hàng thánh chung. Khi xem lịch thấy ngày nào không có lễ thánh thì phải nói: ‘Ngày này, bữa sau Hội thánh sẽ đặt lễ tôi  đây.’ Bởi vậy đã rõ ngài không chịu được, cái chi lôi thôi, hễ đã quyết nên thánh thì chịu khó hết sức cho được, như lời cố Mẫn là cha linh hướng ngài rằng: “Tôi tưởng các thánh đời xưa cũng không hãm mình chịu khó hơn cố Thuận.”[207]

Cha Dominicô Trần Phát (nguyên là cha Tổng đại diện địa phận Huế thời ấy) làm chứng rằng : “Ngài là bậc đại nhân, người thượng trí, người cực điểm, không chịu việc nhỏ việc tầm thường. Tôi dám tưởng: tính hùng dũng ấy đã làm cho người làm việc vĩ đại, là lập dòng này, và làm cho hoàn toàn đến nỗi hy sinh tính mạng”[208]

Nên thánh là một bổn phận và là ơn gọi của người Kitô hữu. Lời mời gọi ấy có nền tảng từ Kinh Thánh, Cựu Ước cũng như Tân Ước. Công đồng Vaticanô II đã nhắc lại điều ấy trong chương 5 của Hiến chế Lumen Gentium, và mới nhất, Đức thánh cha Phanxicô đã nhắc lại trong Tông huấn Gaudete et Exultate. Tuy nhiên, lý tưởng nên thánh dường như quá xa vời với người Kitô hữu trong thời đại hôm nay. Đối với người Kitô hữu giáo dân thì việc nên thánh là một điều khó nếu không muốn nói là không thể thực hiện được. Và họ coi đó là điều dành cho các linh mục, tu sĩ, những người đang bước đi trên nẻo đường thánh thiện. Tuy nhiên, ngay cả các tu sĩ có lẽ không dám nghĩ mình phải nên thánh và cũng không tin rằng mình có thể nên thánh. Với tư tưởng như thế, dù sống ở bậc nào, người tín hữu cũng không thấy mình cần phải nỗ lực sống thánh thiện nhưng chỉ cần giữ những đòi hỏi tối thiểu mà thôi. Ước muốn nên thánh và nỗ lực nên thánh của cha Tổ Phụ là một lời mời gọi và một lời chất vấn cho khát vọng nên thánh đối với con cái cha Tổ Phụ trong thời đại hôm nay.

  1. Thầy dạy đường thiêng liêng

Khả năng đưa ra những chỉ dẫn thiêng liêng của cha Tổ Phụ được cố Hòa (R.P. Lebourdait), chủ bút báo Trung Hoà làm chứng “…Xét về phương diện chỉ giáo đàng thiêng liêng, thì cha Benoît nhất hạng. Hai lần tôi đến Phước sơn cấm phòng, thì nói được ngài chỉ chăm lo riêng về tôi để tuần cấm phòng đem lại cho tôi nhiều mỹ quả; ngài thấu hiểu tình cảnh linh hồn tôi rất mau chóng; một sự tôi cảm kích nhất nơi ngài là ngài hằng nhớ mình ở trước mặt Chúa luôn, hằng sẵn sàng tiếp ứng với Chúa mọi giờ mọi khắc, hằng nhắc lòng hằng kết hợp với Chúa Giêsu vượt mọi sự trần thế, ngài bảo tôi: “Phải ở nhà lầu (nghĩa là phải nâng tâm hồn lên luôn). Cho được nhớ mình ở trước mặt Chúa thì ngài vẽ một phương thế rất giản dị là dùng lời nguyện tắt. Tôi nhớ có lần ngài nói: “Con biết có linh hồn không quá 5 phút mà không nhớ Chúa, không than thở với Người, có linh hồn mỗi ngày bay lên cùng Chúa đến một ngàn, một ngàn rưỡi, hai ngàn lần.” Ngài nói bay lên theo nghĩa bóng là kết hợp cùng Chúa. Thiết tưởng linh hồn ấy là chính Ngài. Cha Benoît có tài đặc biệt thích ứng với mọi linh hồn, đấng bậc nào ngài dẫn dắt cũng xuôi, như tôi đây lười biếng khô khan mà cũng hạp với ngài. Nguyên sự được tiếp xúc với ngài cũng đủ bắt mình phải ước ao nên trọn lành.’[209]

Cha Đôminicô Trần Phát làm chứng: “… Lối đầu năm 1919, tôi vào thăm dòng mới, thấy có hai, ba cái nhà tranh lúp xúp, cha Benoît, thầy Tadeo, và ít thầy khác vui vẻ tiếp khách hẳn hòi. … Sau tôi còn đến thăm nhiều lần nữa, và nhờ ơn cấm phòng, đã được ngài tiếp cách yêu thương, cùng ban nhiều lời qúy hoá…”[210]

Không ai cho cái mình không có. Cha Tổ Phụ không thể đưa ra những lời khuyên hay những lời mang tính cách hướng dẫn thiêng liêng nếu như ngài không có một đời sống nội tâm sâu sắc, đường thiêng liêng vững chắc và khả năng đọc biết phần nào những vấn đề nơi tâm hồn người khác và một trí khôn sắc sảo. Điều này chúng ta có thể biết được phần nào qua những lời giáo huấn của ngài trong giờ hội chung là những lời nhắc nhở nhưng cũng là những lời hướng dẫn thiêng liêng cho con cái mình. Khi đọc lại những lời giáo huấn ấy, với những từ ngữ đơn sơ, mộc mạc nhưng chúng ta cũng cảm thấy được khơi lên những tâm tình sốt sắng, nhiệt thành và những hướng dẫn cho đời sống thiêng liêng của mình.

Kết luận

Qua một số chứng từ của các cha giáo sư hay những người đồng thời với cha Tổ Phụ khi còn ở tiểu chủng viện, hay khi đã lập dòng, cho chúng ta có một cái nhìn khách quan hơn về đấng sáng lập. Ngài đã để lại những ấn tượng tốt đẹp nơi những người có dịp tiếp xúc với ngài về một đời sống tốt lành thánh thiện. Nhưng trước khi có một đời sống thánh thiện, ngài đã sống nghiêm túc với cuộc sống và ơn gọi của mình, một đời sống trưởng thành về nhân bản vì không ai có thể là thánh nếu trước đó không sống trọn vẹn một con người. Nhưng cũng bởi là một con người nên nơi ngài cũng có những khuyết điểm. Những khuyết điểm có thể không làm giảm đi sự thánh thiện nhưng qua đó diễn tả chân thật về cuộc đời và con người của ngài. Vì ngài đã không dừng lại ở những khuyết điểm đó kèm theo lời biện hộ, nhưng đã khiêm tốn đón nhận và cố gắng sửa chữa khuyết điểm ấy để sống một đời sống thánh thiện hơn.

Gương lành của cha Tổ Phụ đã đem lại nhiều khích lệ cho những người tiếp xúc với ngài cũng như cho con cái ngài trong đời sống chiêm niệm Xitô Thánh Gia. Chắc chắn gương lành ấy cũng sẽ có sức lôi cuốn cho con người ngày hôm nay nếu có dịp tiếp xúc với cuộc đời cha Tổ Phụ qua những tài liệu về ngài. Điều này sẽ đễ dàng hơn nếu đời sống thánh thiện của cha được Giáo hội nhìn nhận và tuyên bố, nhất là khi tiến trình xin phong thánh cho cha đã có những bước tiến đáng kể. Là con cái của cha Tổ Phụ, chúng ta cũng ước mong sao cho tiến trình này được sớm hoàn thành để Thiên Chúa được vinh danh và các linh hồn được mưu ích.

 

 

ĐỜI ĐAN TU LÀ MỘT CUỘC TỬ ĐẠO LIÊN LỈ

Tập Viện Phước Hiệp

 

 “Bernade ad quid veniste? – Hỡi Bênađô, ngươi vào đây để làm gì? Đây là câu hỏi mà thánh Bênađô luôn chất vấn bản thân về mục đích khi bước vào đan viện, để nhắc nhở mình sống đúng với lý tưởng đan tu mà thánh nhân đã chọn. Câu hỏi này cũng chính là lời nhắc nhở mỗi người chúng ta về mục đích khi bước vào đời sống đan tu. Nó không chỉ dành cho những người mới bước vào đan viện, nhưng còn cho tất cả những ai đang dấn thân trong ơn gọi đan tu, vì đời sống của mỗi người có thể thay đổi qua năm tháng. Điều này đã khơi lên nơi người đan sĩ những câu hỏi: Tôi vào đan viện này để làm gì? Đâu là đối tượng chính mà tôi đang theo đuổi? Việc xác định lại mục đích có thể giúp người đan sĩ có một hướng đi đúng đắn hơn trong hành trình bước theo Chúa.

Trải qua dòng lịch sử hình thành và phát triển đời sống đan tu, chúng ta thấy có rất nhiều hình ảnh diễn tả lý tưởng này như: đi theo Chúa Kitô, Rửa tội lần thứ hai, đời sống thiên thần, nếp sống cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, trở về sự tinh tuyền nguyên thuỷ, vào sa mạc… Nhiều giáo phụ còn liên kết đời sống đan tu với lý tưởng tử đạo. Theo các ngài, đời đan tu được ví như “một cuộc tử đạo liên lỉ” qua việc từ bỏ mình, vác thập giá và theo Chúa Kitô. Trong bài này, người viết muốn gợi lên một vài suy nghĩ từ ý tưởng xem đời đan tu là “một cuộc tử đạo liên lỉ”. Trước khi tìm hiểu vấn đề, thiết tưởng chúng ta cũng cần sơ lược qua các hạn từ “tử đạo” và “đan tu”.

I. Mối tương quan giữa đời sống đan tu và lý tưởng tử đạo

  1. Nguồn gốc và ý nghĩa của các hạn từ

1.1. Hạn từ “tử đạo”

Khi nghe đến hai từ “tử đạo”, chắc hẳn, mỗi người chúng ta sẽ nghĩ ngay đến việc những Kitô hữu đã dũng cảm dùng chính mạng sống để làm chứng cho niềm tin vào Chúa Kitô, như các cuộc tử đạo của thánh Stêphanô, thánh Gioan Tẩy Giả hay các vị thánh Tử Đạo Việt Nam. Tuy nhiên, hạn từ “tử đạo” theo nguyên gốc trong tiếng Hy Lạp (martus) có nghĩa là người đã thấy, nghe hay biết một điều gì đó, và được mời ra trước pháp luật để làm chứng. Theo dòng thời gian, từ “martus” dùng để ám chỉ hành vi hiến dâng cuộc đời và mạng sống, để trung thành theo Chúa Kitô. Các vị tử đạo không chỉ là một nhân chứng theo nghĩa pháp lý, nhưng hơn thế, các ngài đã làm chứng cho đức tin của mình bằng cái chết.[211]

Bên cạnh việc tử đạo thể lý, nhiều giáo phụ đã nêu ra nhiều hình thức tử đạo khác, gọi chung là tử đạo tinh thần. Hình thức tử đạo này được thực hiện trong cuộc sống hằng ngày, khi người tín hữu dám từ bỏ những lợi lộc thế gian như tiền tài, quyền lực, địa vị; chấp nhận hy sinh cả tình cảm gia đình và các mối tương quan khác, để trở nên người môn đệ theo Chúa. Điển hình như đời sống của những trinh nữ và các đan sĩ, họ được coi như những người tiếp bước ơn gọi tử đạo[212].

1.2. Hạn từ “đan tu”

Còn hạn từ “đan tu” được dịch từ tiếng La tinh (monacus), gốc bởi Hy lạp (monachos), bởi tính từ monos: một, duy nhất, độc nhất, một mình. Ngay từ thế kỷ IV, giám mục Eusebio Cesare đã giải thích danh từ monacus theo nhiều nghĩa[213]: người sống một thân một mình nơi cô tịch; người sống độc thân, khước từ hôn nhân, gia đình, tài sản; người chọn một lẽ sống duy nhất, đó là chỉ sống cho một mình Chúa mà thôi, muốn trở nên một với Chúa. Như thế, chúng ta thấy có một điểm chung giữa “tử đạo” và “đan tu”, là sự khước từ những vinh hoa trần thế này để hiến dâng cuộc đời cho Thiên Chúa.

  1. Mối tương quan giữa đời sống đan tu và lý tưởng tử đạo

Khi tìm hiểu về đời sống đan tu, có một câu hỏi được đặt ra: lý do nào phát sinh đời sống đan tu? Có nhiều câu trả lời được đưa ra[214], nhưng chúng ta có thể đưa ra hai lập trường[215]: lập trường thứ nhất cho rằng, đời đan tu bắt nguồn từ thời hoàng đế Decius (năm 250). Lập trường thứ hai cho rằng phong trào đan tu chỉ thực sự phát triển sau chiếu chỉ Milanô. Chúng ta cùng tìm hiểu về hai lập trường này.

2.1. Đời đan tu là một sự chuẩn bị cho việc tử đạo

Theo lập trường thứ nhất, đời đan tu bắt nguồn từ việc các Kitô hữu bước vào sa mạc để tránh cuộc bách hại đạo dưới thời hoàng đế Decius (năm 250).[216] Trước sự bắt bớ của quân lính, nhiều Kitô hữu vẫn muốn trung thành với đức tin, nhưng lại nhận ra sự yếu đuối của mình trước sự đau đớn bởi những đòn tra tấn dã man của quân đội Roma, nên họ đã rút lui vào sa mạc, thực hành khổ chế, hãm mình ép xác, diệt trừ những đam mê xấu như một điều thay thế việc tử đạo thể lý. Hơn nữa, những Kitô hữu này ý thức rằng, việc tử đạo không phải do sức riêng của mình mà cần đến sức mạnh từ Thiên Chúa, nên họ luôn chuyên chăm cầu nguyện, thực hành một cuộc chiến đấu thiêng liêng, để mong một ngày nào đó có được ơn Chúa trợ giúp để bước ra chịu chết cho Chúa. Như trường hợp được nói đến trong tiểu sử của thánh Antôn, khi các Kitô hữu bị dẫn độ đến Alexandria để hành quyết, thánh Antôn, đã bỏ nơi mình đang sống để đồng hành với họ và nói rằng: “Chúng ta cũng hãy đi để chiêm ngưỡng những người đang chiến đấu và để chiến đấu với họ nếu chúng ta được kêu gọi làm chuyện đó.”[217]

Hơn nữa, việc tử đạo là bằng chứng nói lên niềm tin tuyệt đối của các Kitô hữu vào Chúa Kitô. Tuy nhiên, các tín hữu chỉ có thể làm chứng cho Chúa sau khi đã có một niềm tin mạnh mẽ vào Ngài. Nói cách khác, việc tử đạo là một hình thức diễn đạt lòng yêu mến đối với Chúa Kitô, “Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20). Một khi đã cảm nhận được tình yêu thương của Chúa Kitô thì các vị tử đạo muốn đáp lại bằng tình yêu, qua việc gắn bó và hoạ lại cuộc đời của Người. Sự tử đạo là một hình thức biểu lộ hùng hồn việc đi theo Chúa Kitô.[218]

Do đó, trước khi được diễm phúc đón nhận hồng phúc tử đạo, các Kitô hữu cũng đã có một “cuộc tử đạo” trong cuộc sống, được diễn ra trong suốt hành trình thiêng liêng. Trong hành trình này, người tín hữu không ngừng luyện tập các nhân đức, xây dựng một tình yêu nồng nàn, với khí giới là đức tin và niềm trông cậy vào tình Chúa xót thương. Tuy phải gặp nhiều vất vả, gian nan và đau khổ, nhưng để đạt được lý tưởng cao đẹp ấy, người tín hữu chấp nhận chiến đấu với ba thù và tham dự vào một cuộc đua. Cuộc đua mà thánh Phaolô đã viết trong thư gửi tín hữu Philipphê: “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3,13-14).

2.2. Đời đan tu là một hành trình tiếp bước lý tưởng tử đạo

Theo lập trường thứ hai, đời sống đan tu chỉ thực sự bắt đầu sau chiếu chỉ Milanô. Thật vậy, sau chiếu chỉ Milanô, năm 313, các cơn bách hại đạo đã chấm dứt, Giáo hội được tự do hoạt động và phát triển nhanh chóng. Nhưng cùng với sự phát triển ấy, nhiều hệ lụy tiêu cực cũng xảy ra, lòng đạo đức và nhiệt thành cũng dần giảm đi. Vì muốn tiếp tục sống lý tưởng cao đẹp của các anh hùng tử đạo, một số tâm hồn thiện chí được Thiên Chúa đánh động, đã sẵn sàng dấn thân vào con đường tu trì. Qua việc thực hành khổ chế, họ chính thức bước vào một cuộc tử đạo mới, “cuộc tử đạo trắng.”[219]

Như vậy, chính tấm gương sáng của các vị tử đạo làm nên động lực và thúc đẩy những người nhiệt tâm dấn thân vào đời sống đan tu. Điều này cũng đã được nói tới trong tiểu sử của thánh Pacômiô: “Bởi vì họ trông thấy cuộc chiến và lòng kiên nhẫn của các vị tử đạo, nên họ đã trở thành đan sĩ, bắt đầu canh tân đời sống của mình.”[220] Sống trong thời bình, không còn những cảnh bắt bớ đạo như trước, nhưng tình yêu Chúa Kitô vẫn còn đốt cháy nơi tâm hồn các đan sĩ. Tinh thần hăng say đó đã khiến các đan sĩ muốn hiến thân hoàn toàn cho Chúa. Chính vì vậy, thánh Athanasio đã chỉ cho các môn đệ của ngài một con đường dấn thân mới: “Các bạn thường nói với nhau: Tìm ở đâu sự bắt bớ để trở thành tử đạo? Bạn hãy tử đạo bằng ý thức, hãy chết cho tội lỗi, hãy khổ chế các chi thể trần gian, và bạn sẽ là tử đạo trong ý định.”[221] Như thế, sự ra đời của đời sống đan tu như một sự tiếp nối lý tưởng tử đạo của các tín hữu trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo.

II. Đời đan tu là một cuộc tử đạo liên lỉ

  1. Chứng nhân của Chúa Kitô qua sự từ bỏ

Khi tìm hiểu về nguồn gốc hạn từ “tử đạo”, chúng ta thấy rằng, một nét đặc trưng của việc tử đạo là làm chứng cho Chúa Kitô. Thật ra, mỗi Kitô hữu đều có nhiệm vụ là chứng nhân của Chúa theo từng hoàn cảnh sống của mình. Để làm chứng cho Chúa Kitô, các chứng nhân đã từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống mình. Đọc lại tiểu sử của các thánh tử đạo, chúng ta thấy rằng, trước khi được diễm phúc đón nhận cái chết, các ngài đã phải chịu nhiều mất mát, nhiều hy sinh trong cuộc sống. Vì mang danh là Kitô hữu, các ngài đã bị người đời ghét bỏ, bị tịch thu tài sản, bị mất quyền, mất chức và tính mạng bị đe doạ. Dù chịu nhiều hy sinh, nhưng vì tình yêu Chúa Kitô, các vị tử đạo đành chấp nhận từ bỏ tất cả. Những chứng nhân anh hùng này đã sống theo tinh thần mà thánh Phaolô đã nói: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô” (Pl 3,8).

Trong hành trình trở nên chứng nhân của Chúa Kitô, có một điểm chung giữa các vị tử đạo và đời sống đan tu là sự từ bỏ. Thật vậy, từ bỏ là một trong những nét đặc trưng của đời sống đan tu vào thời kỳ đầu. Vì trước khi vào sa mạc để thực hiện một cuộc chiến đấu thiêng liêng và tìm Chúa, các đan sĩ đã từ bỏ tất cả. Sự từ bỏ đó có thể là một gia tài giàu có; như trường hợp của thánh Antôn viện phụ (251-356), được cha mẹ để lại một gia tài lớn, nhưng nhờ Lời Chúa đánh động, thánh nhân đã bán hết mọi của cải, bố thí cho người nghèo, bước vào sa mạc sống đời khổ hạnh. Chúng ta cũng cần nhắc đến linh phụ Arsenio[222] (360- 449), là một viên chức cao cấp trong triều đình, nhưng ngài sẵn sàng từ bỏ mọi địa vị cao quý ở trần gian này, bước vào sa mạc, sống kết hợp với Thiên Chúa trong thinh lặng. Nhiều nhà trí thức khác cũng dám từ bỏ một tương lai tươi sáng để vào sa mạc sống đời ẩn dật như: linh phụ Evagre thành Pont[223], hay linh phụ Gioan Cassiano…

Sự từ bỏ bao gồm nhiều cấp độ. Khởi đầu của cuộc hành trình bước theo Chúa là sự từ bỏ những thứ bên ngoài bản thân mình: tiền tài, danh vọng, địa vị, các mối tương quan… Sau khi bước vào sa mạc, người đan sĩ thực hiện một cuộc chiến đấu thiêng liêng để từ bỏ những thứ bên trong mình: đó là những tính hư, nết xấu, những đam mê trần tục và con người tội lỗi của mình. Cuối cùng, các đan sĩ thực hiện một cuộc hiến dâng, một sự hiến thân hoàn toàn cho Chúa.

Câu hỏi được đặt ra, sự từ bỏ của người đan sĩ làm chứng được gì cho Chúa? Vì nói đến chứng nhân, người ta thường nghĩ đến những nhà truyền giáo hay những tu sĩ trong các dòng hoạt động, chứ những đan sĩ sống ẩn dật trong sa mạc, hay trong những đan viện thì có thể làm chứng thế nào được? Chính sự từ bỏ của người đan sĩ là một lời chứng về sự mong chờ Nước Trời, như lời Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Tín lý Về Giáo hội đã nói: “Dân Thiên Chúa không đặt thành trì vĩnh viễn ở đời này nhưng đi tìm một thành trì mai sau, nên bậc tu trì giải thoát người tu sĩ khỏi những lo lắng trần tục, tỏ lộ cách hoàn hảo hơn cho mọi tín hữu thấy của cải trên trời đã có ngay dưới trần gian này, và làm chứng rằng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đã đem lại một đời sống mới và vĩnh cửu, đồng thời tiên báo sự phục sinh tương lai và vinh quang của Nước Trời.”[224] Khi dám từ bỏ tất cả để theo Chúa, các đan sĩ cho thấy “Nước Thiên Chúa vượt trên mọi sự trần thế và những đòi hỏi của nước ấy cao cả biết bao; nó cũng cho mọi người thấy quyền lực cao trọng tuyệt vời của Chúa Kitô Vua và quyền năng vô cùng của Chúa Thánh Thần đang hoạt động cách kỳ diệu trong Giáo hội.”[225] Hơn nữa, lời chứng của các đan sĩ còn được thể hiện qua một nếp sống ẩn mình khiêm tốn, qua việc chấp nhận những đau khổ, qua hy sinh thầm lặng, qua sự ký thác cho thánh ý của Thiên Chúa.[226]

  1. Hiến tế cho Thiên Chúa

Chiều kích thứ hai của tử đạo chính là “hiến tế cho Thiên Chúa.” Đức Kitô là của lễ toàn vẹn nhất dâng lên Thiên Chúa. Vì yêu thương nhân loại, Người đã vâng phục Chúa Cha một cách tuyệt đối để hy sinh chính mình làm lễ vật toàn thiêu, trở thành Chiên Vượt Qua trên bàn thờ thập giá, hầu xin ơn cứu độ cho loài người. Người Kitô hữu có thể kết hợp với hy tế của Chúa Kitô qua những hy sinh trong cuộc sống hằng ngày. Ta thấy các vị tử đạo cũng như các đan sĩ luôn ao ước hy sinh chính mình để trở nên lễ vật toàn thiêu như Chúa Kitô, để dâng cho Chúa Cha. Với niềm tin và sự phó thác, họ không ngừng lặp lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).

Chính thánh Inhaxio Antiokia cũng đã cho thấy một sự tương quan giữa cái chết của các vị tử đạo và đời sống đan tu với hy tế Chúa Kitô. Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Inhaxio Antiokia xem cuộc tử đạo là một sự kết hợp với hy tế của Chúa Kitô: “Tôi là hạt lúa mì của Thiên Chúa và sẽ được nanh thú dữ nghiền tán để thành tấm bánh tinh tuyền của Đức Kitô. Xin khẩn cầu cùng Đức Kitô cho tôi, để nhờ đám thú dữ này, tôi được nên của lễ tiến dâng Thiên Chúa.”[227] Ở nơi khác, thánh nhân còn nói tiếp: “Con người tìm lại tính bất tử của mình qua đời độc thân thánh hiến. Nếu trung thành với ơn thánh hiến, Kitô hữu được sánh ví với người hy sinh mạng sống vì đạo, vì đã hiến dâng bản thân làm của lễ thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa (Rm 12,1).”[228]

Thật vậy, những hình thức khổ chế trong đời sống đan tu nhằm diễn tả việc thông dự vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô, chết cho bản thân để sống cho Người. Nơi đời sống đan tu, người đan sĩ cũng không thể từ khước thập giá, được thể hiện cụ thể trong đời sống chung, hay trong khi thực hành khổ chế. Nơi đời sống cộng đoàn, người đan sĩ phải chấp nhận người anh em chị với tất cả những ưu khuyết điểm của họ. Đồng thời người môn đệ của Chúa cũng phải chấp nhận những trái ý vì ích chung hay những hiểu lầm của người khác về mình… Việc thực hành khổ chế cũng chính là vác thập giá trong đời đan tu. Các đan sĩ không thực hiện việc chay tịnh, canh thức, cầu nguyện liên lỉ, lao động chân tay như một thói quen hay như một việc hành xác; nhưng chính qua những hành vi đó, họ ao ước được kết hiệp một cách mật thiết hơn với Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn. Họ sống theo lời thánh Phaolô đã nói: “Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,24). “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2Cr 4,10). Noi gương Đức Kitô, người đan sĩ cũng mang thao thức cứu độ nhân loại, vì thế họ muốn góp phần vào kế hoạch cứu độ nhờ việc tham dự vào những khổ nạn thập giá.

Hơn nữa, chiều kích hy tế trong đời sống đan tu được thể hiện rõ nét nhất qua việc tuân giữ các lời khuyên Phúc âm. Vì khi dám can đảm tuyên hứa sống các lời khuyên Phúc âm, các đan sĩ hiến dâng tất cả cuộc sống mình để phụng sự Thiên Chúa và chỉ tìm kiếm một mình Thiên Chúa trên hết mọi sự. Về điều này, Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội cũng đã đề cập đến khi cho rằng: “Người tín hữu tự buộc mình tuân giữ ba lời khuyên Phúc âm qua lời khấn hay qua những ràng buộc thánh khác như lời khấn dòng; như thế họ hiến thân hoàn toàn cho Thiên Chúa chí ái để phụng sự và làm vinh danh Người”[229]. Công đồng cũng khuyên các tu sĩ “chẳng những phải chết đi cho tội lỗi (x. Rm 6,11), nhưng còn phải từ bỏ thế gian để sống cho một mình Thiên Chúa.” Đối với những Hội dòng hoàn toàn lo chiêm niệm, “các tu sĩ chỉ nhất tâm phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch và lặng lẽ, trong việc chuyên lo cầu nguyện và hân hoan hãm mình.”[230] Bên cạnh đó, nhiệm vụ chính của các đan sĩ là “dâng lên Thiên Chúa uy nghi việc phục vụ khiêm tốn nhưng cao quý trong phạm vi đan viện, hoặc hoàn toàn hiến thân phụng thờ Thiên Chúa trong đời sống ẩn dật.”[231]

Trong Tông thư Hồng ân cứu chuộc (ban hành ngày 25-3-1984), thánh Gioan Phaolô II đã so sánh đời sống thánh hiến như là việc thông dự vào hiến tế của Đức Kitô. Theo Tông thư: “Sự khấn dòng ‘ăn rễ sâu trong sự tận hiến của phép rửa tội và biểu lộ sự tận hiến này cách sung mãn hơn.”[232] Việc giữ các lời khuyên Phúc âm “phản ánh cách sâu xa tính cách lưỡng diện của cuộc Vượt qua:  sự huỷ diệt triệt để những gì nơi chúng ta thuộc về tội lỗi và những hậu quả của nó, và khả năng được tái sinh mỗi ngày vào một sự thiện sâu xa hơn, ẩn kín trong linh hồn con người”[233]. Thật vậy, khi khấn giữ những lời khuyên Phúc âm, thể hiện trong nghi thức khấn dòng, đan sĩ “cởi bỏ con người cũ” và “mặc lấy con người mới.” Hơn nữa, trước khi đọc lời tuyên khấn trọng thể, khấn sinh nằm phủ phục dưới đất như một biểu tượng nói lên sự chết con người cũ, con người tội lỗi, yếu đuối với nhiều đam mê xấu để khởi đầu một cuộc sống mới trong Đức Kitô.

  1. Bước theo Chúa Kitô (sequela Christi)

Khi tìm hiểu đời sống tâm linh Kitô giáo, chúng ta thấy một nét nổi bật của linh đạo Kitô giáo trong những thế kỷ đầu là một nền linh đạo quy Kitô, nghĩa là đặt Chúa Kitô làm trung tâm và mục đích của hành trình tâm linh. Chúa Kitô là kiểu mẫu cho người Kitô hữu noi theo. Hành trình tâm linh của người Kitô hữu không gì khác hơn là muốn được trở nên “đồng hình, đồng dạng với Đức Kitô.” Cũng trong chiều hướng đó, lý tưởng tử đạo của đan sĩ được thể hiện cụ thể qua việc bỏ mình và vác thập giá theo chân Chúa Kitô trong cuộc sống hàng ngày. Do đó, việc tử đạo không những bộc lộ lòng gắn bó yêu mến Chúa Kitô, mà còn ước muốn hoạ lại thái độ của Người khi đối diện với cái chết. Vì “qua việc tử đạo, người môn đệ đồng hoá với Thầy mình, Đấng đã tình nguyện chấp nhận cái chết để cứu độ thế giới và người môn đệ nên giống Người trong việc đổ máu.”[234]

Cũng vậy, khi hy sinh từ bỏ, bước vào sa mạc để thực hiện cuộc chiến đấu thiêng liêng, các đan sĩ cũng muốn hoạ lại con đường thập giá mà Đức Kitô đã trải qua. Thật ra, khổ chế đối với các đan sĩ không chỉ để nhằm diệt trừ những đam mê, mà còn muốn bước theo Chúa Kitô trên con đường thập giá. Hơn nữa, khi chấp nhận sống khó nghèo hay vâng phục, các đan sĩ muốn noi gương Đức Kitô, Đấng đã vâng phục Chúa Cha cho đến chết (x. Pl 2,7-8) và “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em” (2Cr 8,9).

Tìm Chúa và bước theo Người là trọng tâm và cũng là mục đích của Tu luật cha thánh Biển Đức. Trong đó, cha thánh khuyên nếu có ai đến xin tu thì không nên nhận ngay, mà cần có những thử thách để xem họ có “thực tâm tìm Chúa” không. Đó cũng là lý do, cha thánh Biển Đức muốn thiết lập đan viện là “Trường học Phụng sự Thiên Chúa”. Trong chiều hướng đó, Tuyên ngôn, số 39 của Tổng công nghị Dòng Xitô, năm 2000 cũng đã khẳng định: “Đời sống của chúng ta không có cùng đích nào khác ngoài Thiên Chúa.” Còn Hiến pháp Hội dòng Xitô Thánh Gia cũng đã đề cập đến điểm này khi cho rằng: “Đời đan tu là thông hiệp với mầu nhiệm thập giá Đức Kitô, nhờ đó đan sĩ dâng hiến lễ tạ ơn để tôn vinh Thiên Chúa. Vì thế, đan sĩ không lấy gì làm hơn việc Chúa.”[235] Chính vì vậy, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận căn dặn các đan sĩ của Hội dòng: “Phải xét mình lại, xem bấy lâu nay, chúng ta có ăn ở giống Chúa Kitô không?[236] Huấn quyền của Giáo hội cũng đề cao một lối sống theo Đức Kitô, điều mà thánh Gioan Phaolô II đã nói trong Tông huấn Đời sống Thánh hiến: “Nhờ Thánh Thần thúc đẩy, đời thánh hiến “hoạ lại cách chính xác và thực hiện liên tục trong Giáo hội” lối sống mà Đức Giêsu, Đấng đầu tiên được Chúa Cha thánh hiến và sai đi phục vụ Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu mời các môn đệ đi theo Người cũng sống như Người đã sống.”[237] Như vậy, các vị tử đạo hay những người sống đời đan tu đều có chung một mục đích là muốn nên một với Đức Kitô.

Kết luận

Qua những gì đã trình bày, chúng ta có thể nói rằng, cũng như các thánh tử đạo, đời sống đan tu là một cuộc hành trình dấn thân bước theo Chúa Kitô và trở nên “đồng hình, đồng dạng” với Người. Đó là mục đích chính của người đan sĩ. Nếu các thánh tử đạo dùng cái chết của mình để chứng tỏ tình yêu và lòng trung thành với Chúa Kitô, thì người đan sĩ đã thể hiện tình yêu đó qua sự từ bỏ, thực hành khổ chế và diệt trừ những tính hư, nết xấu nơi con người mình. Đương nhiên, con đường thập giá thì không hề dễ dàng. Nó đòi hỏi đan sĩ phải chịu nhiều từ bỏ và hy sinh. Hành trình vác thập giá còn là bước vào một cuộc chiến đấu thiêng liêng, cuộc chiến nội tâm, là sự lựa chọn giữa thiện và ác, giữa Chúa Kitô và ma quỷ, giữa sống theo Thần Khí hay sống theo xác thịt. Khi dám dấn thân vào cuộc chiến đấu trường kỳ đó, người đan sĩ muốn sống vì Chúa, và hiến thân hoàn toàn cho Chúa. Nói như lời của cha thánh Biển Đức trong Tu luật: “Không lấy gì hơn tình yêu Chúa Kitô.”[238]

Một khi người ta dùng vật chất làm thước đo cho sự thành công và đồng hoá việc hưởng thụ với hạnh phúc, thì việc sống triệt để các lời khuyên Phúc âm nơi người đan sĩ là một điều hết sức cần thiết. Qua việc bước theo Chúa Kitô, người đan sĩ làm chứng cho người thời nay thấy rằng, có một điều gì đó còn quý hơn vật chất và danh vọng ở đời này, có một hạnh phúc khác vượt trên hạnh phúc đời này, hạnh phúc đó chỉ có ở nơi Chúa Kitô.

SALVE RIGINA

LỜI KINH CỦA NIỀM HY VỌNG

Sr. M. Anphong

Nơi trần gian, trong thung lũng đầy nước mắt, con người phải kinh qua biết bao gian nan, thử thách, đau khổ, bệnh tật và chết chóc. Bởi đó, để có thể vượt qua được những thử thách gian nan của kiếp người và để cuộc sống trở nên có ý nghĩa và tốt đẹp hơn, con người cần có niềm tin và hy vọng. Thật vậy, lần bước trong đêm tối cuộc đời khổ ải, chúng ta không thể tự mình bước đi, nhưng cần có niềm hy vọng như ánh sao dẫn lối đưa đường. Niềm hy vọng sẽ mang đến cho chúng ta sức mạnh, sự can đảm để tiến lên phía trước khi cuộc sống gặp nhiều sóng gió hiểm nguy. Nhưng tin vào ai và cậy nhờ ai giữa biển đời đầy sóng gió?

Cùng Hướng vọng trời cao, trong bài này người viết kính mời độc giả suy niệm lời kinh Salve Regina hầu củng cố niềm tin yêu và hy vọng của người Kitô hữu.

Kính chào Đức Nữ Vương,
Bà là Mẹ xót thương,
Ngọt ngào cho cuộc sống,
Kính chào Lẽ Cậy Trông!
Này con cháu Eva,
Thân phận người lưu lạc,
Chúng con ngửa trông Bà,
Kêu Bà mà khóc lóc,
Than thở với rên la,
Trong lũng đẫy nước mắt.
Bà là Nữ Trạng Sư,
Nguyện đưa mắt nhân từ,
Phía đoàn con đoái lại.
Và sau đời khổ ải,
Xin Bà khứng tỏ ra,
Cho đoàn con được thấy,
Quả phúc bởi lòng Bà,
Đức Giêsu khả ái.
Ôi lượng cả khoan hồng,
Ôi tấm lòng xót thương,
Ôi dịu hiền nhân hậu,
Trinh Nữ Maria.

I. Salve Regina, lời kinh của niềm hy vọng

  1. Nguồn gốc kinh Salve Regina

Truyền thống Giáo hội từ lâu vẫn cho rằng, lời kinh “Salve Regina” là do Thầy Hermann der Lahme (1013-1054), dòng Bênêđictô, viết ra bằng tiếng Latinh, ở tu viện Reichenau vùng Bodensee miền Nam nước Đức.[239] Tuy nhiên, cũng có giả thuyết khác cho rằng, bản Tiền Ca Salve đã được sáng tác sớm hơn và tác giả là Đức giám mục Petrus von Compostela (952-1002).[240] Thật khó để xác định ai mới là tác giả đích thực của lời kinh này. Nhưng có lẽ đó không phải là điều quan trọng. Điều đáng được quan tâm thực sự chính là ý nghĩa của lời kinh ấy và những tâm tình được chứa đựng trong đó khiến cho các tín hữu, đặc biệt các tu sĩ đón nhận và sử dụng một cách rộng rãi trong nhiều thế kỷ qua.

Thật vậy, ngay từ thế kỷ XII, ở tu viện Biển Đức Cluny (Pháp), bài Tiền ca Salve Regina được các Tu sĩ hát trong khi rước kiệu, còn ở tu viện St. Gallen (Thụy Sĩ), bài Tiền Ca được dùng làm Tiền Ca cho ca vịnh Magnificat trong ngày lễ Truyền Tin, trước khi được chính thức đưa vào trong Kinh Nhật Tụng. Đến thế kỷ XV và XVI, ở Đức và ở Pháp, các hội đoàn tông đồ giáo dân thường hát kinh Salve Regina vào các Giờ Chầu Đền Tạ. Sau đó, trong các tu viện, Tiền ca Salve Regina thường được hát cách long trọng vào sau giờ Kinh Tối (Komplet) để kết thúc một ngày sống, trước khi đi nghỉ đêm.[241]

Sau này, bản kinh Salve Regina được dịch ra nhiều thứ tiếng, được phổ nhạc và được sử dụng một cách rộng rãi trên khắp thế giới. Kinh Salve Regina không còn chỉ là lời cầu nguyện trong khuôn viên của tu viện nữa, nhưng đã trở thành lời kinh trong “kho tàng” kinh nguyện của Giáo hội, được phổ biến cho mọi tín hữu khắp mọi nơi.[242] Salve Regina đã trở thành một trong những lời kinh về Đức Mẹ được yêu chuộng nhất.

  1. Ý nghĩa kinh Salve Regina

Kinh Salve Regina là một bản kinh có lối văn rất hàm xúc và mãnh liệt, nhưng đồng thời cũng rất gợi hình và cụ thể. Bản kinh chứa đựng những lời cầu xin tha thiết và lòng tin tưởng phó thác vào sự cầu thay nguyện giúp của Đức Mẹ, vị Nữ Vương[243] của lòng nhân từ, khoan dung và hảo tâm, luôn sẵn sàng tràn đổ muôn ơn lành cho những ai trong cơn túng quẫn đang tha thiết nài van và cậy trông vào lòng lân tuất của Mẹ. Vì thế, Giáo hội đã không kêu cầu Mẹ như là Nữ Vương quyền uy, nhưng là Nữ Vương của lòng thương xót và nguồn cậy trông của mọi tâm hồn đau khổ: “Kính chào Đức Nữ Vương, Mẹ là Mẹ xót thương, ngọt ngào cho cuộc sống, kính chào lẽ cậy trông.”

Là Nữ Vương của lòng thương xót, Mẹ luôn sẵn sàng lắng nghe lời cầu khẩn của mọi tâm hồn đau khổ, của con cháu Evà nơi “thung lũng đầy nước mắt”. Hình ảnh “thung lũng nước mắt” là hình ảnh diễn tả đầy đủ nhất tính chất bi ai của kiếp người nơi xứ lạ, đang khóc lóc, rên la với mong ước trở về quê thật, tương tự như hình ảnh được diễn tả trong Thánh vịnh 136: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion.” Nỗi khát mong tìm về ấy đã diễn tả hết tất cả những bi đát của phận người đang sống trên trần gian khổ ải này. Thật vậy, chính vì sự bất tuân của Eva xưa mà con cháu phải lâm vào cảnh khổ ải trong thung lũng nước mắt, cảnh lưu đày, xa rời quê thật, thì nay nhờ sự vâng phục Thiên Chúa, Mẹ Maria được mệnh danh là Eva Mới, là “nguồn hy vọng, là nguồn sống” và là “ánh sao” bừng lên, soi sáng cho con cháu Eva đang lần mò trong đêm tối của cuộc đời biết đường tìm về quê thật là hạnh phúc nước trời.

Tôn vinh Mẹ là nguồn hy vọng, nhưng Mẹ không phải là Đấng cứu thoát ta, Đấng giải phóng ta khỏi cảnh khốn cùng, nhưng là ánh sao dẫn lối. Giống như xưa kia ánh sao lạ đã dẫn lối ba vua đến gặp Chúa Hài Nhi thế nào, thì nay Mẹ cũng là ánh sao dẫn lối cho chúng ta đến với Chúa Giêsu, Con của Mẹ như vậy. Dẫu Mẹ không phải là cùng đích chúng ta tìm đến, nhưng Mẹ là người duy nhất luôn “đưa mắt nhân từ” nhìn đến cảnh khốn cùng của chúng ta và là người duy nhất có thể dẫn chúng ta tới nguồn ơn cứu độ là Đức Giêsu, quả phúc của lòng Mẹ. Vì thế, lời khẩn cầu tha thiết từ thung lũng đầy nước mắt không gì khác hơn là “Ostende nobis Jesum, benedictum fructum ventris tuis”: xin Mẹ chỉ cho chúng con Chúa Giêsu, quả phúc của lòng Mẹ. “Được nhìn thấy Chúa Giêsu, đó chính là mục đích cuối cùng, đó chính là điều giải thoát ta khỏi cảnh lưu đày, cứu ta khỏi cảnh phiền muộn khóc than và chính điều đó giúp ta biến đổi ‘thung lũng đầy nước mắt’ thành địa đàng hạ giới, nơi đáng sống.”[244]

Như vậy, tôn danh Mẹ là nguồn hy vọng, nguồn sống, là ngôi sao sáng dẫn đường chỉ lối quả là chí lý, bởi chẳng có ai biết rõ Chúa Giêsu hơn Mẹ Maria, người đã cưu mang và sinh hạ Chúa Giêsu; chẳng có ai gần Chúa Giêsu hơn Mẹ, người đã từng ôm ấp, nâng niu Chúa Giêsu trên cánh tay dịu hiền của mình. Vì thế, có Mẹ là ngôi sao chỉ đường, chúng ta sẽ vững tâm tiến bước giữa cuộc đời đầy sóng gió mà không bao giờ phải thất vọng.

II. Đức Maria, Mẹ của niềm hy vọng

  1. Vai trò trung gian của Đức Maria

Đức Maria đóng vai trò như ngón tay chỉ măt trời, như ngôi sao dẫn lối, là trung gian. Đối với mọi tín hữu Kitô, vai trò trung gian phản ánh trung thực nhất kinh nghiệm của họ về Đức Maria: người tín hữu chấp nhận Đức Maria như là chiếc cầu mang họ tiến đến gần Chúa Giêsu hơn, hay như một nhân vật đem những ước vọng, những khổ đau của họ đến trước Nhan thánh Chúa, hoặc lôi kéo họ tới gần Thiên Chúa và Giáo hội hơn.[245] Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy vai trò trung gian của Mẹ qua một số biến cố đặc biệt trong cuộc đời của Mẹ, liên hệ trực tiếp đến Chúa Giêsu và mọi người.

  • Biến cố Truyền tin

Trong biến cố Truyền tin, Thiên sứ Gabriel đã cho Mẹ biết, Mẹ sẽ cưu mang Con Thiên Chúa, Đấng Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.[246] Trước một sứ mệnh trọng đại và quá bất ngờ như thế, Mẹ vẫn khiêm nhường thưa tiếng “xin vâng” trong sự tín thác tuyệt đối cho quyền năng của Thiên Chúa. Với lời xin vâng ấy, Mẹ cũng gián tiếp chấp nhận vai trò trung gian giữa Con Thiên Chúa với loài người; Với lời xin vâng ấy, một thông lộ chạy từ Con Thiên Chúa, qua Mẹ, đến với toàn thể nhân loại được mở ra. Bởi vì, kể từ khi Mẹ thưa tiếng xin vâng để Con Thiên Chúa đến trong lòng Mẹ thì cũng là lúc mọi ân sủng được tràn đổ xuống cho nhân loại qua bàn tay từ mẫu của Mẹ. Nên Mẹ được tôn xưng là máng thông ơn của Chúa.

Từ nay, mọi ân sủng Chúa cũng sẽ tuỳ thuộc vào Mẹ mà tràn đổ xuống cho nhân loại: Mẹ được tràn đầy ân phúc, thì con cái Mẹ cũng nhờ đó mà đón nhận mọi phúc lành; Mẹ rộng tay ban phát thì con cái Mẹ cũng nhờ đó mà được đầy dư; Vì thế, trong vai trò trung gian, Mẹ trở nên nguồn hy vọng chắc chắn cho tất cả những ai đang tựa nương vào lòng từ mẫu của Mẹ.

  • Tại tiệc cưới Cana

Ở tiệc cưới Cana, trong tư cách là Mẹ của Chúa Giêsu, Mẹ đã tạo điều kiện để Chúa Giêsu thực hiện dấu lạ đầu tiên của Ngài, chứng tỏ mối quan tâm của Mẹ trước những nhu cầu của nhân loại. Sự bén nhạy của Mẹ đối với những nhu cầu của người khác diễn tả rõ ràng vai trò trung gian của Mẹ như Đức Gioan Phaolô II diễn tả trong Thông điệp Mẹ Đấng Cứu Thế (số 21) rằng: “Biến cố tiệc cưới Cana, Đức Maria đã đóng vai trò trung gian, đặt mình giữa Con của Người và nhân loại và hành động như một người trung gian, chứ không phải như một người đứng bên ngoài.” Như thế, trong biến cố Cana, một hình thức trung gian đặc biệt của Đức Maria đã được biểu lộ: Mẹ là Đấng trung gian giữa nhân loại và Thiên Chúa, và là Đấng cầu bầu cho những nhu cầu của con người trước Thiên Chúa.[247]

  • Dưới chân Thập giá

Vai trò trung gian của Mẹ Maria đạt tới tột đỉnh và biểu lộ rõ ràng nhất khi Mẹ đứng dưới chân thập giá. Công đồng Vaticanô II đã tuyên bố trong Hiến chế Ánh sáng muôn dân số 60, và được trích lại trong Thông điệp Mẹ Đấng Cứu Thế số 22 rằng: “Vai trò làm Mẹ tinh thần của Đức Maria đối với môn đệ của Chúa Giêsu xuất phát từ vai trò làm Mẹ của Con Thiên Chúa, bởi lẽ theo ý định quan phòng của Thiên Chúa, Đức Maria là người mẹ đã nuôi dưỡng Đấng Cứu Thế, qua đó Người trở nên một nhân vật liên kết mật thiết với Chúa Giêsu, đồng thời cũng là một nữ tỳ khiêm nhu của Thiên Chúa. Vì những lý do đó, Đức Maria không phải là người thay thế Chúa Giêsu vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, nhưng theo ý muốn của Thiên Chúa, sự trung gian của Chúa Giêsu đạt đến chúng ta qua Đức Maria. Như thế, qua Đức Maria, Chúa Giêsu lôi kéo chúng ta đến gần Người, qua Người, chúng ta cùng thưa xin vâng để dõi theo chân Chúa Giêsu và trở nên người đầy tớ hay nữ tỳ trung tín của Thiên Chúa”.

  • Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống

Qua lời trăng trối của Chúa Giêsu trên thập giá, mối liên hệ của Mẹ với các môn đệ càng khăng khít hơn. Giờ đây Mẹ không chỉ đóng vai trò trung gian, vai trò dẫn lối, nhưng trong tư cách là mẹ đối với tất cả các môn đệ. Mẹ hiện diện, Mẹ đồng hành cùng các môn đệ trong tư tưởng, trong tâm tình và cả trong hành động. Từ đó, một mối giây liên hệ mật thiết và đặc biệt đã bắt đầu thể hiện giữa người mẹ này với toàn thể Giáo hội. Mẹ Maria hiện diện giữa các môn đệ, để như trước kia thưa xin vâng với Thiên Chúa, qua đó chấp nhận vai trò làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ cũng thưa xin vâng để làm Mẹ Giáo hội cũng là Thân Thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Ý tưởng này được Hiến chế Ánh sáng muôn dân số 62 diễn tả một cách rõ ràng rằng: “Sau khi về trời, vai trò của Đức Maria trong việc cứu rỗi không chấm dứt, Người vẫn luôn tiếp tục cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời. Với tình từ mẫu, Người chăm sóc những anh em của con Người đang lữ hành trên dương thế và đang gặp bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời.”

Như thế, mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và Mẹ Maria mật thiết đến độ sự cộng tác của Đức Maria trong công cuộc cứu rỗi cũng mang đặc tính phổ quát như Đức Gioan Phaolô II diễn tả trong Thông điệp Mẹ Đấng Cứu Thế (số 40): “Với cái chết sinh ơn cứu rỗi của con Người, sự trung gian hiền mẫu của người nữ tỳ Thiên Chúa đạt được chiều kích hoàn vũ.”[248] Bởi vậy, trong Giáo hội, Mẹ được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng trung gian. Nhờ Mẹ, niềm hy vọng của chúng ta được vững chắc; nhờ Mẹ, chúng ta mới đạt đến được nguồn ơn cứu độ là Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất.

  1. Cùng Đức Maria, Đan sĩ sống niềm hy vọng

Những biến cố xảy đến trong cuộc đời trần thế của Mẹ Maria đã chứng minh niềm tin tưởng và phó thác một cách tuyệt đối của Mẹ. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào Mẹ vẫn không ngừng trông cậy và hy vọng nơi Chúa. Thật vậy, trong Biến cố Truyền tin, dù biết rằng, mọi khó khăn gian khổ đang chực chờ và sẽ xảy đến bất cứ lúc nào, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng chấp nhận thưa tiếng “Xin vâng” để đón nhận vào lòng mình Đấng là hy vọng của Israel và của muôn dân tộc. Ở tiệc cưới Cana, dù ý thức rằng, việc thực hiện dấu lạ khi giờ của Chúa chưa đến là một đòi hỏi quá đáng, nhưng Mẹ vẫn nhắn nhủ cùng Con Mẹ: Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Lời nhắn nhủ ấy là một thông tin, nhưng cũng là lời cầu xin tha thiết và sự trông cậy vững vàng rằng, sự quan tâm của Mẹ đối với tha nhân sẽ được Chúa đoái nhận. Vì thế Mẹ đã nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Khi đứng dưới chân Thập giá, dù phải chứng kiến quân dữ trút mọi căm phẫn lên tấm thân gầy yếu của Con Mẹ, dù phải chứng kiến cảnh lưỡi đòng đâm thấu tim Con, nhưng Mẹ vẫn  không thất vọng, vì tâm hồn Mẹ vẫn âm vang lời thần sứ đã nói với Mẹ trong ngày truyền tin: “Maria, đừng sợ!” (Lc 1,30). Dù khi Chúa đã chết, tưởng như mây đen cuộc đời đã ập xuống trên Mẹ và các môn đệ, niềm hy vọng gần như tiêu tan, thì Mẹ vẫn ở đó với các môn đệ, vẫn gần bên để an ủi, đỡ nâng và đồng hành cùng các môn đệ, can đảm vượt trên bóng tối của sự chết với niềm hy vọng phục sinh, chờ mong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Điểm lại những biến cố này không chỉ để ca ngợi niềm tin sắt đá của Mẹ nơi Thiên Chúa, nhưng như một phác họa về hành trình trong đời sống đức tin của mọi đan sĩ. Thật vậy, đời đan tu được định nghĩa là “một cuộc tử đạo liên lỉ qua việc bỏ mình và vác thập giá theo Chúa Kitô”. Như Mẹ Maria, người môn đệ đầu tiên đã đi trọn con đường thập giá, đã kinh qua những đau khổ, thử thách và chông gai, thì đan sĩ cũng được mời gọi bước đi trên con đường ấy, dù biết rằng, trên hành hình ấy không thiếu những hy sinh, gian khổ, chông gai và cả sự chết. Noi gương Mẹ, mọi đan sĩ phải luôn ý thức rằng: Nếu có những lúc phải nhận một mệnh lệnh tưởng chừng như vượt quá sức mình, thì cũng đừng từ chối, nhưng hãy can đảm thưa tiếng “xin vâng” như Mẹ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được (x. Lc 1,37). Nếu có những lúc, vì lợi ích chung của cộng đoàn và của anh chị em mình, cần hy sinh một điều gì lớn lao tưởng chừng như không thể, đan sĩ cũng đừng vội thoái thác, nhưng hãy noi gương Mẹ Maria, cầu khẩn Chúa để xem “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Nếu phải đối diện với những khó khăn, gian khổ và thậm chí là chết chóc, đan sĩ cũng đừng quá sợ hãi, hãy noi gương Mẹ Maria, luôn vững tin, đứng thẳng, không ngục ngã, và hãy “can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Và nếu khi cuộc đời tưởng chừng như tuyệt vọng, đan sĩ cũng đừng buông xuôi, hãy vững tâm, vì có Mẹ luôn kề bên.

Cuộc sống nơi trần thế trong thung lũng đầy nước mắt, người đan sĩ phải luôn can đảm và đừng bao giờ ngưng kêu cầu Mẹ là Mẹ xót thương, nguồn an ủi và nguồn cậy trông. Theo truyền thống đan tu Xitô, các đan sĩ luôn kêu cầu Mẹ mỗi tối trước khi đi ngủ với kinh Salve Regina để thể hiện niềm tín thác nơi Mẹ. Đặc biệt với thánh Bênađô, mọi đan sĩ cùng xác tín rằng: “Bước theo Mẹ, con không lạc hướng; kêu cầu Mẹ, con không thất vọng; lĩnh ý Mẹ, con không sai lầm.”

Và trong Thông điệp Spe Salvi, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã trả lời thay cho chúng ta khi nói rằng, để tìm một “ngôi sao” dẫn đường thì chẳng “còn ai hơn được Mẹ Maria, là ngôi sao hy vọng cho chúng ta.”[249]

Tóm lại, bài Tiền ca Salve Regina là một bản kinh kính Đức Mẹ thật cao vời tuyệt diệu. Lời kinh ca ngợi Mẹ là mẹ của lòng xót thương, sự dịu ngọt, nguồn sống và niềm hy vọng của chúng ta. Lời kinh Salve Regina cũng là lời xác tín rằng, với tình từ mẫu và với quyền uy cao cả của Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria luôn dõi mắt trên con cái Mẹ đang sống nơi trần thế; và vì đã kinh qua những nỗi đau khổ nơi trần thế, Mẹ cũng thấu hiểu nỗi đau khổ của con cái Mẹ, nên Mẹ luôn sẵn sàng nâng đỡ ủi an chúng ta. Tin tưởng như thế, chúng ta không ngừng ngước trông lên Mẹ, kêu cầu Mẹ nâng đỡ chở che chúng ta trên cuộc đời đầy sóng gió này. Chúng ta cũng trông lên Mẹ như ngôi sao hy vọng, dẫn đường chỉ lối cho chúng ta về tới bến quê bình an, nơi Đức Giêsu Kitô, Con Chí Ái của Mẹ đang hiển trị.

Chúng ta ca ngợi Mẹ, cậy trông Mẹ như ngôi sao dẫn đường, như nguồn hy vọng, bởi chỉ duy Mẹ là đấng đã cưu mang Con Thiên Chúa, chỉ duy Mẹ là đấng đã đồng hành cùng Chúa Giêsu trên mọi nẻo đường cuộc sống, chỉ duy Mẹ là đấng thấu hiểu tâm tư của Chúa Giêsu và hiểu rõ nỗi thống khổ của con cháu Evà, mới có thể chỉ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu Con Mẹ, và dẫn chúng ta con đường đến với Chúa Giêsu Kitô, nguồn ơn cứu độ của chúng ta. Danh Giêsu trở thành trọng tâm của bản kinh đầy tha thiết và huyền diệu Salve Regina dâng kính Đức Mẹ. Bởi vì, mọi lời khẩn cầu Mẹ, hay việc tôn sùng Mẹ đều được quy hướng và nhắm tới mục đích tối hậu là tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi.[250]

 

 

Sự Chết

Justino Nguyễn Xuân Sỹ

Trong từng khoảnh khắc thời gian,
Một làn mây nhẹ biến tan không hình.
Nụ hoa khoe sắc tỏ tình,
Chiều về rũ xuống một mình cô liêu.

                   *

Ần trong hơi thở người yêu,
Một phần đứt đoạn sợ điều chia ly.
Vì tình dù có cuồng si,
Sẽ là đổ vỡ, hoặc thì phôi phai.
Bấy nhiêu cũng thấy hình hài,
Bóng hình sự chết kề vai từng ngày.
Ai nào sự chết có hay?
Cho tôi biết với, sống nay nhẹ nhàng.
Nhưng như áp đặt phũ phàng,
“Chết” làm hữu thể bàng hoàng không yên.
Bao niềm ray rứt triền miên,
Dù cho dư giả bạc tiền cũng lo.
Chết là giới hạn tự do,
Hay là phi lý gán cho cuộc đời.
Buồn nôn thay một phận người,
Sinh ra để chết, để rồi hư vô.
Thế gian sợ những nấm mồ,
Nơi chôn ước vọng, cơ đồ ngàn năm.

                      *

Thế nhưng sự chết dạy rằng,
Hãy vui, hãy sống công bằng yêu thương.
Hãy thôi giọt lệ vấn vương,
Ăn năn sửa chữa con đường đã qua.
Không còn dục vọng lân la,
Bao nhiêu cái đẹp thuận đà phát huy.
Bậc thang giá trị vong suy,
Đưa về chân lý, không quy tục trần.
Dối gian lừa gạt bao lần,
Nhằm duy cái lợi, phải cần thăng hoa.
Qùy trong hương khói nhạt nhòa,
Nghĩ về sự chết thoáng qua mây hồng.
Chết đi không phải là xong,
Chết đi là ngủ giấc trong đợi chờ.

                    *

Thiên Thần lay tỉnh cơn mơ,
Nắm tay đưa tới bến bờ Thiên an.
Hiệp cùng các thánh hân hoan,
Tụng ca Thiên Chúa muôn ngàn thiên thu.

 

 

“ANH EM HÃY Ở LẠI TRONG TÌNH THƯƠNG CỦA THẦY”
(Ga 15,9)

Thư dịp Lễ Hiện Xuống 2023
của Tổng phụ Dòng Xitô

 

Anh chị em thân mến, với lá thư dịp Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống này, tôi muốn kết thúc loạt bài suy niệm của chúng ta qua bài huấn từ của Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói với các thành viên Tổng Công nghị nhân dịp tiếp kiến ngày 17 tháng 10 năm 2022, giờ đây chúng ta sẽ khám phá sâu hơn lời mời gọi của ngài để sống ơn gọi của chúng ta trong bản giao hưởng vĩ đại của Giáo hội.

Trái tim của Đấng Phục Sinh

Trong chương 15 của Tin mừng theo Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói với chúng ta một điều tuyệt vời cần phải thường xuyên suy gẫm: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9). Chúa Giêsu ban cho chúng ta tất cả những gì Người có. Không có món quà nào cao cả và tuyệt vời hơn là được Chúa Con yêu thương chúng ta như như chính Người đã yêu mến Chúa Cha. Quà tặng của Chúa Thánh Thần, món quà Hiện Xuống, đó chính là sự thông truyền Tình Yêu Ba Ngôi, được Chúa Cha thực hiện cho chúng ta qua Chúa Con, Đấng làm cho Giáo hội được sinh động.

Khi hiện ra ở Nhà Tiệc Ly, Chúa Giêsu phục sinh đã diễn tả món quà này: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,19-23).

Thời gian vừa qua, tôi đã tổ chức một ngày tĩnh tâm để suy tư về đời sống thánh hiến ở thành phố Vilnius, thủ đô nước Lithuania. Có một nhà thờ được mở cửa suốt ngày đêm để chầu Mình Thánh Chúa, cũng như để tôn kính ảnh tượng Lòng thương xót Chúa khi hiện ra lần đầu tiên với chị thánh Faustina Kowalska. Đó là một i-côn, ảnh Chúa Kitô Phục Sinh đã hiện ra vào ngày Phục Sinh như Tin mừng Gioan đã mô tả về Người. Các nhà thần bí Xitô của chúng ta rất thích chiêm ngắm Thiên Chúa, khi Người còn từ trên Thập giá và sau khi Phục sinh, Đấng luôn đón nhận chúng ta trong những vết thương còn rớm máu của Người, đó chính dấu chỉ không thể xóa nhòa và nguồn mạch vô tận của tình yêu khôn cùng của Người đối với chúng ta là những kẻ tội lỗi. Trong nhà thờ ở Vilnius đó, người ta nhận thấy rằng, cảnh Chúa hiện ra vào ngày Phục Sinh vẫn hiện diện với chúng ta, như nguồn yêu thương, niềm vui và bình an, thổi hồng ân của Đấng An Ủi xuống trên chúng ta và trên thế giới. Chúa Giêsu luôn chờ đợi chúng ta, luôn lôi kéo chúng ta đến dòng suối này, để biến chúng ta thành khí cụ thông truyền tình yêu xót thương của Người dành cho nhân loại này.

Đôi mắt của cô dâu

Nhưng trong khung cảnh Nhà Tiệc Ly vào chiều ngày Phục Sinh, rõ ràng là tất cả mầu nhiệm này có một mối liên kết không thể tách rời với cộng đoàn các môn đệ và sự hiệp nhất của họ. Chúng ta hiểu điều này nhờ sự vắng mặt và cứng tin của thánh Tôma. Chúa Giêsu không muốn hiện ra riêng với Tôma vì các tông đồ phải là những chứng nhân đầu tiên rằng, hình thức hiện diện chắc chắn của Đấng Phục Sinh chính là sự hiệp thông của Giáo hội. Bí quyết để nhìn thấy Chúa Giêsu và tin vào Người không phải là do khả năng hay hay sự thánh thiện của một ai đó, nhưng là sự sẵn sàng chia sẻ đức tin với người khác. Con mắt đức tin cùng chiêm ngắm Chúa Kitô với người khác, như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta. Nếu muốn được nhìn thấy Chúa, mỗi người chúng ta được mời gọi kết hợp với cái nhìn của Giáo hội, bởi Giáo hội có đôi mắt như là cô dâu tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy Chàng Rể. Như đã xảy ra vào ngày Phục Sinh: “Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,20). Chỉ bằng cách kết hợp trong sự khiêm nhường và tạ ơn trong ánh mắt chia sẻ này, chúng ta mới sống đức tin với niềm vui, nghĩa là với tình yêu hân hoan vì Đấng Yêu mến. Một người thực sự gắn bó với đức tin của Giáo hội khi nó cho phép chúng ta tìm thấy Chúa Giêsu nơi con tim hân hoan được chia sẻ với người khác.

Tôi luôn suy nghĩ về điều này khi chứng kiến anh em đan sĩ của chúng ta ở Êthiôpia khi họ cử hành phụng vụ như là một lễ hội: ca hát và nhảy múa với đầy niềm vui, thường là cùng với các Kitô hữu. Như tôi mới đây đã có kinh nghiệm ở Mendida nhân kỷ niệm một trăm năm thành lập đan viện Lazarist, sau đó nó được giao lại cho Dòng Xitô. Thánh lễ kéo dài gần năm tiếng đồng hồ: một tiệc cưới đích thực của Con Chiên. Niềm vui cho chú rể là toàn bộ con người của cô dâu. Thông thường trong các cử hành phụng vụ, chúng ta hạn chế chú ý đến bề ngoài và ngoại cảnh, hoặc than khóc nếu chúng ta không thể diễn tả được nữa, mà quên rằng vẻ đẹp thực sự của con người là niềm vui, nụ cười, chứ không phải hình thức bề ngoài. Tôi sẽ không bao giờ quên khuôn mặt của một cậu bé vô cùng dị dạng mà tôi đã gặp nhiều năm trước. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một khuôn mặt đẹp như vậy, bởi vì cậu ấy tràn đầy niềm vui khi gặp gỡ mọi người. Thực ra, vẻ đẹp sâu thẳm của con người là ở trong lòng. Thật vậy: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, nhưng Thiên Chúa thấy tận đáy lòng” (1Sm 16,7).

Niềm vui hòa điệu

Vì thế, niềm vui Kitô giáo luôn như là một bản giao hưởng. Đó là niềm vui mà mỗi người chúng ta cảm nhận được nếu họ chấp nhận trở thành nhạc cụ của bản giao hưởng vĩ đại mà Chúa Thánh Thần luôn cất lên trong Giáo hội.

Trong buổi triều yết, Đức Giáo hoàng nói với chúng ta việc cùng đi theo Chúa Kitô “liên quan đến một nỗ lực hoán cải liên tục […] một sự hoán cải, từ một cái tôi khép kín sang một cái tôi rộng mở, từ một trái tim tập trung vào chính mình sang một trái tim vượt ra khỏi chính mình và hướng tới tha nhân. Và bằng cách loại suy, điều này cũng áp dụng cho các cộng đoàn: từ một cộng đoàn tự quy chiếu về mình đến một cộng đoàn vươn ra hướng tới tha nhân, theo nghĩa tốt đẹp nhất của hạn từ này, đó là tiếp đón và truyền giáo. Đó là chuyển động mà Chúa Thánh Thần luôn cố gắng thúc đẩy trên Giáo hội, hoạt động trong từng thành viên và trong mỗi cộng đoàn và mỗi hiệp hội. Một phong trào có từ ngày Lễ Ngũ Tuần, như một “phép rửa” của Giáo hội. Sau đó, chính Chúa Thánh Thần đã linh hứng và khơi dậy rất nhiều đặc sủng và nhiều hình thức sống, như một “bản giao hưởng” tuyệt vời. Các hình thức rất nhiều, rất khác nhau, nhưng để trở thành một phần của bản giao hưởng của Giáo hội, thì họ phải tuân theo sự chuyển động này của Chúa Thánh Thần. Không phải là một cuộc hành trình trong sự hỗn loạn, không theo một trật tự cụ thể nào: nhưng là một đi chung cùng nhau, tất cả đều hướng về một trái tim duy nhất của Giáo hội, đó là tình yêu.”

Trái tim duy nhất của Giáo hội chính là tình yêu Chúa Kitô, Đấng liên kết các môn đệ và đồng thời sai họ ra đi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,21-22). Sự cấp bách mà Đức Giáo hoàng truyền đạt cho chúng ta cũng giống như điều mà Chúa Kitô đã truyền đạt cho các Tông đồ và cũng như cho toàn thể Giáo hội: sự cấp bách để sống ơn gọi của chúng ta tập trung vào tình yêu duy nhất là ôm lấy toàn thể nhân loại.

Lối nói ví về bản giao hưởng âm nhạc giúp chúng ta hiểu điều này phải xảy ra như thế nào, bởi vì “bản giao hưởng” có nghĩa là những nhạc cụ cùng nhau phát ra âm thanh to nhỏ một cách hòa điệu. Điều này ngụ ý sự hiệp nhất, nhưng một sự hiệp nhất lan tỏa, vang vọng, tự lan tỏa. Trong một bản giao hưởng, các nhạc cụ kết hợp với nhau để vang xa hơn, để truyền tải tốt hơn vẻ đẹp của âm nhạc. Chúa Giêsu cũng yêu cầu các môn đệ tập trung tại nhà Tiệc Ly để có thể đón nhận Thần Khí, Đấng lập tức sai các ông đi khắp thế gian.

Chúng ta chỉ có thể hiểu điều này phải diễn ra như thế nào đối với các cộng đoàn và toàn Dòng của chúng ta nếu chúng ta tìm kiếm sự hiệp nhất trên hết, sự hiệp thông trong cầu nguyện và trong đời sống huynh đệ, điều mà Chúa Giêsu đã yêu cầu các môn đệ trước khi về trời: “Xin cho tất cả nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21). Khi chúng ta vâng lời Đức Kitô khi Người cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa chúng ta, Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta có khả năng truyền đạt cho thế giới vẻ đẹp của Tin mừng. Ai đón nhận sự hiệp nhất trong Chúa Kitô thì nhận được từ Chúa Thánh Thần ân sủng của tình yêu phổ quát, ân sủng thông truyền Chúa Kitô cho thế giới.

Chúng ta phải biết ơn lòng quảng đại của các anh em Xitô Nhặt Phép (Trappist) ở đan viện Thánh Mẫu Neiges đã trao lại cho các chị em ở Boulaur của chúng ta đan viện của họ, nơi mà thánh Charles de Foucauld, vị thánh của “tình huynh đệ đại đồng,” đã vào tu ở đó và mãi ở đó để kết nối con người lại với nhau! Chúng ta hãy để mình được tưới mát bởi sự nuôi dưỡng quý báu này từ người cha chung kính yêu, Đức Giáo hoàng Phanxicô!

Ân huệ của sự đa dạng

Với lý do này, Đức Giáo hoàng mời gọi chúng ta hãy sống sự đa dạng đặc trưng của chúng ta như một lời mời gọi tìm kiếm sự hiệp nhất trong Chúa Kitô chứ không phải trong những gì chúng ta là. Sống bản giao hưởng của Giáo hội có nghĩa là hòa hợp mọi sự đa dạng trong sự hiệp thông của một Nhiệm thể Chúa Kitô mà Thần Khí sự sống ban cho.

Chúng ta đáng trích dẫn lại bài huấn từ của Đức Phanxicô, nhấn mạnh đến sự hiệp thông đa dạng này một cách tích cực: “Giống như Nhóm Mười Hai, những người luôn ở với Đức Giêsu và bước đi với Chúa, các ngài đã không tự chọn nhau, nhưng chính Chúa đã chọn các ngài. Không phải lúc nào cũng dễ dàng sống hòa hợp với nhau: bởi họ rất khác nhau, mỗi người đều có những “khía cạnh” và niềm kiêu hãnh riêng của mình. Chúng ta cũng vậy, và để cùng nhau tiến bước trong sự hiệp thông thì không phải là điều dễ dàng. Tuy nhiên, hồng ân thánh hiến mà chúng ta đã đón nhận không bao giờ hết kinh ngạc, và mang lại cho chúng ta niềm hân hoan: chúng ta được quy tụ trở thành cộng đoàn của Chúa, như chúng ta đang thể hiện, dù không hoàn hảo, không đồng nhất, không, không phải như thế, nhưng chúng ta được Chúa quy tụ, được tham gia, được kêu gọi hiện hữu và cùng nhau bước theo Đức Giêsu, là vị Tôn Sư và là Đức Chúa của chúng ta…

“Quay trở lại hình ảnh – hay đúng hơn là âm thanh – của bản giao hưởng, tôi đề nghị anh chị em hãy ôm ấp hơi thở truyền giáo cao cả của Giáo hội bằng cách tăng cường tính bổ sung giữa các cộng đoàn nam và các cộng đoàn nữ, cũng như sự đa dạng văn hóa giữa Á châu, Phi châu, Mỹ châu Latinh, bắc Mỹ, và Âu châu. Tôi khuyến khích anh chị em trên hành trình đa diện này, dù không hề dễ dàng, nhưng chắc chắn có thể là một kho báu cho các cộng đoàn và cho toàn Dòng của anh chị em.

Tôi cám ơn về sự dấn thân của anh chị em, đã nỗ lực cộng tác, điều mà toàn thể Giáo hội đang thực hiện theo nghĩa này trong tất cả mọi cộng đồng Giáo hội địa phương: kinh nghiệm gặp gỡ với sự đa dạng văn hóa hiện đang là một dấu chỉ của thời đại hôm nay. Dòng Xitô của anh chị em chính là một sự đóng góp thật quý giá, đặc biệt phong phú, bởi vì xuất phát ơn gọi chiêm niệm của anh chị em, anh chị em không chỉ bằng lòng với việc quy tụ sự đa dạng lại với nhau ở mức độ bề ngoài, nhưng anh chị em còn cảm nghiệm sự đa dạng đó ở mức độ nội tâm, cầu nguyện, đối thoại tâm linh. Và điều này làm phong phú thêm “bản giao hưởng” với những cộng hưởng sâu sắc hơn và mang tính tổng thể hơn.”

Đức Giáo hoàng nhắc nhở chúng ta rằng không được hủy bỏ sự đa dạng về bản chất, giới tính, văn hóa, chủng tộc, tính cách, thị hiếu, cũng như đặc sủng. Vì trong những điều này, Chúa Giêsu, Đấng đã chọn chúng ta và kêu gọi chúng ta sống chung với nhau, Người muốn chúng ta nghe tiếng của Người, mời gọi chúng ta hiệp thông trong tình yêu chịu đóng đinh của Người. Sự đa dạng khiến cho một người cảm thấy anh chị em mình thật xa cách, thực ra đó là tiếng gọi của Chúa Kitô, mời gọi chúng ta tham dự sâu xa hơn vào tình yêu của Thánh Tâm Người.

Chúng ta phải thừa nhận rằng thường thì chúng ta có xu hướng san bằng những khác biệt để không làm phiền nhau. Cuối cùng, chúng ta muốn mọi người thích ứng với những gì chúng ta cho là tốt và vừa ý cho chính mình, ở mọi cấp độ: tư tưởng, cảm thức tôn giáo, quan niệm sống và ơn gọi, v.v… Chúng ta quên rằng ẩn sau những khác biệt giữa các môn đệ Chúa Kitô là những con đường và những cây cầu mà Chúa Kitô mời gọi chúng ta đi và xây dựng để được kết hợp chặt chẽ hơn với Người, theo sát Người hơn, cùng nhau bước theo Người. Đức Giáo hoàng mời gọi chúng ta sống điều này một cách sâu sắc, nhắc nhở chúng ta rằng chiêm niệm không có nghĩa là chạy trốn khỏi tha nhân, mà là sống các mối tương quan với chiều sâu của trái tim và tình yêu mà Chúa Kitô thổi vào chúng ta khi Người ban Thánh Thần cho chúng ta. Biết bao cộng đoàn bị chia rẽ hay tệ hơn nữa là sống những tương quan dửng dưng, vì sợ đi con đường hướng về trái tim Chúa Kitô! Thật là mầu nhiệm khi nghĩ rằng Chúa là người bạn riêng của mỗi người anh chị em mình, rằng đối với Người mỗi môn đệ là một “môn đệ Chúa yêu,” rằng Chúa Kitô đã đổ hết máu mình ra cho mỗi người! Có lẽ trước hết chúng ta nên xin Chúa Thánh Thần mặc khải cho chúng ta biết tình yêu của Chúa Kitô đối với mỗi anh chị em mà chúng ta sống chung, đặc biệt những người không đáng mến đối với chúng ta.

Những nốt nhạc đầu tiên của hy vọng

Nhiều người trong chúng ta có thể tự hỏi rằng: “Vâng, thật tuyệt vời khi nói về một bản giao hưởng của sự hiệp thông. Nhưng trong những cộng đồng và những hoàn cảnh mà chúng ta dường như bị thu nhỏ đến cùng cực, thì hỏi làm sao chúng ta có thể chơi một bản giao hưởng tỏa ra niềm vui và vẻ đẹp của Chúa Kitô được chứ?”

Có lẽ chính vì tôi quá thường xuyên tự chất vấn mình bằng những câu hỏi này, liên quan đến bản thân hoặc các cộng đoàn mà tôi thăm viếng và đồng hành, mà tôi đặc biệt bị ấn tượng trong phụng vụ khi đọc Sách Công vụ Tông đồ thuật lại việc Phaolô và Sila bị cầm tù ở Côrintô (x. Cv 16,22-34). “Đám đông nổi lên chống hai ông. Các quan tòa, sau khi đã cho lột áo hai ông, thì ra lệnh đánh đòn. Khi đã đánh nhừ tử, họ tống hai ông vào ngục, và truyền cho viên cai ngục phải canh giữ cẩn thận” (Cv 16,22-24). Thật khó để tưởng tượng một tình huống về thể chất hoặc tinh thần tồi tệ hơn thế. Ai hiểu được nỗi đau nào hơn nỗi đau mà da thịt bị đánh bầm dập, vì những vết trầy xước và vết rách nát trên thân thể trần trụi! Ai biết tình trạng đối xử trong nhà tù đó như thế nào! Ai biết được những tù nhân khác trong nhà tù đó khó ưa ra sao!

Nhưng lạ thay, từ những khó khăn thiếu thốn trong cảnh lao tù, Phaolô và Sila bắt đầu hát những bài thánh ca ngợi khen Thiên Chúa, các vị đó bắt đầu một bản giao hưởng thiêng liêng. Họ không dừng lại ở việc than thở về hoàn cảnh và tình trạng ngặt nghèo của mình, về những vết thương và sự bất công mà họ phải gánh chịu. Các ngài thậm chí còn không nghĩ đến việc được nghỉ ngơi xứng đáng. Các ngài bắt đầu ca hát và cầu nguyện cùng nhau trong đêm tối. Tôi đoán rằng chất lượng của bài thánh ca đó không có gì đặc biệt. Chưa hết, những người bạn tù của các ngài, chắc chắn là những người ít hiểu biết về âm nhạc hoặc tôn giáo, đã không bắt đầu la hét nguyền rủa họ để ngừng làm phiền giấc ngủ của họ. “Vào quãng nửa đêm, ông Phaolô và ông Sila hát thánh ca cầu nguyện với Thiên Chúa; các người tù nghe hai ông hát” (Cv 16,25). Bài thánh ca của hai người môn đệ đã thu hút những người bạn tù, đã thu hút tâm hồn bị xơ cứng và khô cằn bởi thói hư tật xấu và bị băng hoại bởi không biết đến sự hối hận là gì cả. Giờ đây, trong họ, trái tim con người được tạo ra cho Chúa, được tạo ra cho tình yêu thương, sự thuần khiết, hòa bình, lòng thiện hảo, tình bằng hữu lại được bừng cháy. Ngay cả khi không ca hát, thì trái tim của họ cũng hòa vào bản giao hưởng của hai anh em tín hữu bị đòn rất dữ dội để chia sẻ cảnh ngộ đau buồn của họ. Tình tiết tiếp theo – trận động đất đã giải thoát tất cả các tù nhân, mở toang tất cả các cửa ngục, việc hoán cải và rửa tội cho người lính canh cùng cả gia đình trở thành Kitô hữu, bữa tiệc linh đình và có lẽ cả Bí tích Thánh Thể – không gì khác hơn là sự vang dội hơn nữa của bản giao hưởng được bắt đầu bởi hai vị Tông đồ khi họ quyết định chỉ đơn giản khi họ bắt đầu cùng nhau hát thánh ca trong bóng tối của cái đêm tồi tệ đó. Nhưng trong trái tim của những người bạn tù, được chinh phục bởi bài thánh ca Kitô giáo, bao gồm cả thế giới loài người mà chính Chúa Kitô đã mang Tin mừng đến cho họ. Ngay khi những tù nhân bắt đầu lắng nghe Phaolô và Sila, thì sứ vụ của hai vị tông đồ đã đạt đến tận cùng của thế giới và của lịch sử, chính bởi mối dây ràng buộc này nằm ngay trong tâm hồn chúng ta là những tội nhân, mà Đức Kitô đã đến để trao yêu thương và cứu rỗi, để dẫn đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha.

Vì thế, chỉ cần bắt đầu chia sẻ lời cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa một cách huynh đệ giữa chúng ta với nhau, như Phaolô và Sila, là đủ để tạo nên một bản giao hưởng vang tới tận cùng thế giới. Đó chính là thành quả đích thực và vĩnh cửu của ơn gọi đời sống chúng ta. Điều này, như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói với chúng ta rằng, chính điều này đã “làm phong phú ‘bản giao hưởng’ với những âm vang sâu sắc hơn và sinh nhiều hoa trái hơn.”

Cùng với Mẹ Maria và các môn đệ tụ họp trong Nhà Tiệc ly, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn này, để tái khám phá một thành quả mới mẻ, đầy hy vọng, khi sống ơn gọi và sứ vụ của chúng ta trong lòng Giáo hội và cho toàn thể nhân loại!

Mauro-Giuseppe Lepori

Tổng phụ Dòng Xitô

 

MỤC LỤC

 

ÔNG MÔSÊ VÀ CÁI CHẾT GÂY SỐC …………………………….5

Duyên Thập Tự Lê Văn Đoàn

CÁI CHẾT CỦA CHỨNG NHÂN TRONG CỰU ƯỚC………25

Mai Thương

NGÀY SABÁT TRƯỜNG CỬU ……………………………………..34

Sr. M. Pio Mến

NGÀY NGÀY ĐINH NINH MÌNH SẼ CHẾT – Tu Luật thánh Biển Đức, chương 4,47 ……………………………………………………44

  1. Quốc Vũ

ARMAND-JEAN BOUTHILLIER DE RANCÉ – Đan sĩ Xitô, Viện phụ (1626-1700) …………………………………………………….58

  1. Martino Toàn

CHA BIỂN ĐỨC THUẬN NGƯỜI ĐI GIEO HẠT …… ……….77

 Án Khảm

CHA TỔ PHỤ BIỂN ĐỨC VÀ CUỘC RA ĐI CUỐI CÙNG……95

Duyên Thập Tự Lê Văn Đoàn

SURSUM CORDA – HÃY CẤT LÒNG LÊN ………………… 106

F.M Anselmo Hồ Sỹ Chức

SỰ CHẾT VÀ TÍNH CHÍNH THẬT CỦA DASEIN THEO HEIDEGGER……………………………………………………………… 118

  1. Phanxicô Assisi Nguyễn Hoài Lâm

CHẾT………………………………………………………………………..  138

  1. Théophane Vénard Phạm Hữu Ái

 SINH KÝ TỬ QUY……………………………………………………….151  

  1. Giuse Khang Nguyễn Long Tiên

TE DEUM: LỜI KINH TRƯỚC HUYỆT MỘ …………………167

  1. Grégoire Phan

THẾ GIAN KHÔNG PHẢI LÀ THIÊN ĐÀNG ………………..182

  1. Vincent Ferrie Vũ Mạnh Xuân

CUỘC VƯỢT QUA CỦA CHA TỔ PHỤ BIỂN ĐỨC THUẬN….. 196

  1. Dominicus Nguyễn Văn Kỳ

NHẸ TỰA LÔNG HỒNG………………………………………………215

  1. Têrêsa Tin

“TÔI TIN XÁC LOÀI NGƯỜI NGÀY SAU SỐNG LẠI” ….227

  1. FM. Salesio Đỗ Duy Đông

TÌNH YÊU VÀ THÁI ĐỘ TRƯỚC CÁI CHẾT………………..246

 Sr. M. Margarita Alacoque Nguyễn Thị Huệ

CHIỀU KÍCH CÁNH CHUNG CỦA ĐỜI THÁNH HIẾN …….262

 Sr. Phanxicô Salesio Bảo Trân

TÌM KIẾM NHỮNG SỰ TRÊN CAO (Cl 3,1-2) …………….. 270

Sr. Mai Lệ Thi

MỘT SỐ CHỨNG TỪ VỀ CHA TỔ PHỤ ……………………….280

Ân Thiên

ĐỜI ĐAN TU LÀ MỘT CUỘC TỬ ĐẠO LIÊN LỈ………….296

Tập Viện Phước Hiệp

SALVE RIGINA LỜI KINH CỦA NIỀM HY VỌNG……………313

Sr. M. Anphong

SỰ CHẾT……………………………………………………………………. 327

  1. Justino Nguyễn Xuân Sỹ

“ANH EM HÃY Ở LẠI TRONG TÌNH THƯƠNG CỦA THẦY” (Ga 15,9) ……………………………………………………….. 329

Thư dịp Lễ Hiện Xuống 2023 của Tổng phụ Dòng Xitô

CÁC CHỦ ĐỀ NỘI SAN HGCN ĐÃ PHÁT HÀNH

 

  1. SUỐI NGUỒN CHIÊM NIỆM
  2. HƯƠNG VỊ LỜI CHÚA
  3. THAO THỨC
  4. NẺO ĐƯỜNG SỐNG ĐẠO
  5. CỘI NGUỒN HY VỌNG I
  6. CỘI NGUỒN HY VỌNG II
  7. THỬ THÁCH
  8. TRONG LÒNG GIÁO HỘI
  9. DÁM ĐỐI DIỆN
  10. TRÊN NỀN TẢNG ĐỨC KITÔ
  11. BÉN RỄ SÂU TRONG CHÚA KITÔ
  12. HIỆP THÔNG
  13. CÁM DỖ
  14. CANH TÂN
  15. NIỀM VUI PHÚC ÂM
  16. BÌNH AN
  17. HIẾN DÂNG
  18. SAY MÊ THIÊN CHÚA I
  19. SAY MÊ THIÊN CHÚA II
  20. HUYỀN NHIỆM HIỆP THÔNG I
  21. HUYỀN NHIỆM HIỆP THÔNG II
  22. ‘TỪ CỘI NGUỒN PHƯỚC SƠN – QUẢNG TRỊ…’
  23. …HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI
  24. NHIỆT TÂM SỐNG THÁNH
  25. THINH LẶNG
  26. CHỮ TÌNH
  27. LẮNG NGHE
  28. MÔI SINH
  29. TỨ HẢI GIAI HUYNH ĐỆ
  30. MỘT ĐI CHUNG CÙNG NHAU
  31. HƯỚNG VỌNG TRỜI CAO

[1] Tôi mượn kiểu nói này của Đức Hồng y Carlo Maria MARTINI trong cuốn sách Vita di Mose, Vita di Gèsu, Esistenza Pasquale, do Lm. Monfort Phạm Quốc Huyên, O.Cist., chuyển ngữ từ bản tiếng Anh, với tựa đề Qua Môsê đến với Chúa Giêsu, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2011. Và tôi cũng dựa vào những suy niệm của Đức Hồng y để trình bày đề tài này.

[2] Carlo Maria MARTINI, Vita di Mose, Vita di Gèsu, Esistenza Pasquale, Montfort Phạm Quốc Huyên chuyển ngữ, Qua Môsê đến với Chúa Giêsu, tr. 126-127.

[3] Carlo Maria Martini, Sđd, tr. 132-133.

[4] Viktor E. Frankl, Đi tìm lẽ sống, tr. 5.

[5] The New Interpreter’s Bible, Vol IV, 1,2 Maccabees, 7,1-42 Reflexions.

[6] x. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Từ điển Công giáo 500 mục từ, Nxb. Tôn giáo, 2011, tr. 305.

[7] (TL. Lời mở, 45)

[8] (TL 58,7).

[9] DN 118.

[10] DN 118.

[11] DN 118.

[12] DN 118.

[13] Link: vaticannews.va/vi/pope/news/2023-04/tiep-kien-chung-26-04-2023.html. Truy cập ngày 27-04-2023.

[14] Thánh Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita consecrata (25.03.1996), số 8; Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Perfectae Caritatis (28.10.1965), số 7.

[15] DN 118.

[16] TL 1, 13.

[17] TL 1, 2.

[18] TL. Lời mở, 3: 72, 7.

[19] TL 72, 5.

[20] x. DN 75, 138.

[21] x. TL 72, 11; DN 1.

[22] TL 4, 46.

[23] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), số 87.

[24] Francois KITNOT, Philosophie de l’existence, France Loisirs, Paris, 2002, p. 512.

[25] ĐGH Phanxicô, Tông thư gửi những người Thánh hiến nhân dịp cử hành Năm của Đời sống Thánh hiến (21.11.2014), II, 2.

[26] ĐGH Phanxicô, Tông hiến Vultum Dei Quarere (22.7.2016), số 6.

[27] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita consecrata (25- 3-1996), số 110.

[28] Thánh Augustinô, Trích trong sách Bài đọc Kinh Sách, Chúa nhật V Mùa Chay.

[29] Sách đã dẫn.

[30] Hạnh tích cha Benoit, tr.42-44.

[31] Sđd, tr. 53-55.

[32] Sđd, tr. 63.

[33] Sđd, tr.108.

[34] Sđd, tr. 124.

[35] Sđd, tr. 152.

[36] Sđd, tr. 193-194.

[37] Sđd, tr. 86.

[38] Sđd, tr. 221.

[39] Sđd, tr. 205.

[40] Sđd, tr. 231-232.

[41] Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, Hạnh Tích Cha Benoit, tái bản năm 2008, tr.231-232.

[42] BULMEP, 1933, tr.467.

[43] BULMEP, 1933, tr.707.

[44] Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, Sđd, tr. 231.

[45] M. de Certeau, “Văn hóa và linh đạo” trong Yếu lòng tin, bản văn do Luce Girard biên tập và trình bày, Seuil, Paris, 1987, tr. 76.

[46] M.de Certeau, sđd, tr. 69.

[47] x. DN số 134. 130. 135. 137. 138.

[48] x. TL Lời Mở, 21.

[49] DN số 127.

[50] DN số 128; x. TL 4,39.

[51] DN số 129.

[52] DN số 134.

[53] DN số 135.

[54] DN số 135.

[55] DN số 137.

[56] Những suy tư dựa vào tác phẩm J. Wolfe, Heidegger’s Eschatology. Theological Horizons in Martin Heidegger’s Early Work, Oxford 2013.

[57] Kierkegaard, Die Krankheit zum Tode, Jena, Diederichs, 1911.

[58] Luther, In Genesin Enarrationum (1535-8), WA 42, 146.

[59] Letters to Hannah Arendt, 13 may 1925 and 7 December 1927. In Ludz (ed.), Hannah Arendt/ Martin Heidegger, 31 and 59.

[60] Richard Barron Delog, Hành trình tới các cõi bên kia, Liên Hoa soạn dịch, Nxb Tôn giáo, 2016.

[61] Tư tưởng này là của Platon, Ciceron sử dụng lại và dịch ra tiếng Latin. Sau này được Montaigne diễn tả qua Pháp ngữ.

[62] Bênêđictô XVI, Thông điệp Spe Salvi, số 42.

[63] Sđd., số 14.

[64] Sđd., số 14.

[65] Sđd., số 27.

  1. Lm. Phêrô Nguyễn Đức Vinh, SVD, Web Tỉnh Dòng Ngôi Lời VN. https://ngoiloivn.net/ (Truy cập ngày 28.4.2023).

[67] Hiến chế Tín lý về Giáo hội, LG 49.

[68] Hiến chế Tín lý về Giáo hội, LG 48.

[69] Henri Nouwen, Tôi tìm đường về nhà, con đường sự sống và Thần Khí, chuyển ngữ Nt Nguyễn Thị Quỳnh Tâm (HD MTG Tân Lập), NXB. Phương Đông, năm 2000.

[70] Giáo lý Hội thánh Công giáo, GL số 1023.

[71] DN số 10.

[72] DN số 65.

[73] DN số 148.

[74] DN số 147.

[75] DN số 29.

[76] x. Edward McNamara, Khi nào hát thánh thi Te Deum, bản dịch của Nguyễn Trọng Đa, https://giaophanvinhlong.net/khi-nao-hat-thanh-thi-te-deum.html (truy cập ngày 30.4.2023).

[77] x. Catholic Encyclopedia, editor by Rev., Peter M.J. Stravinskas, Ph.d., S.T.L.; Introduction by Card. Anthony J. Bevilacqua, Arch. Theodore E. McCarrick. Our Sunday Visitor’s, 1991, p. 920.

[78] x. Encyclopedic – Dictionary of Regligion, Edited by Paul Keven Meagher, Op,S.T.M, Thomas C.O’Brien, Sister Consuelo Maria Aherne, SSJ,  colone II, Washington, 1979, p. 3462.

[79] x. Phan Tấn Thành, Hiểu để sống Đức Tin, Tập II, trang 154.

[80] Giuse Phạm Đình Ái, Phụng vụ giờ kinh, Cho con cất tiếng ngợi khen Ngài, Tôn giáo, 2018, tr. 291; x. A.M. Roguet, Op, The Liturgiy of the Hours: The General Instruction with Commentary, tr. 106.

[81] Edward McNamara, Khi nào hát thánh thi Te Deum, bản dịch của Nguyễn Trọng Đa, http://daminhrosalima.net/phung-vu/khi-nao-hat-thanh-thi-te-deum-34068.html, truy cập 23/10/2021.

[82] Catholic Encyclopedia, editor by Rev., Peter M.J.Stravinskas, Ph.d., S.T.L.; Introduction by Card. Anthony J.Bevilacqua, Arch. Theodore E.McCarrick. Our Sunday Visitor’s, 1991, tr. 920.

[83] ĐGH Phanxicô, Bài giảng Lễ An Táng Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/bai-giang-duc-thanh-cha-phanxico-trong-thanh-le-an-tang-duc-benedicto-xvi-49101, (truy cập ngày 30.4.2023).

[84] Đây là ý kiến cá nhân của riêng tác giả. Không nhất thiết phản ánh quan điểm của Ban biên tập. (Chú thích của BBT).

[85] Hạnh tích Cha Benoit, Henri Denis Cố Thuận, Tổ phụ Hội Dòng Xitô Việt Nam, tr. 226.

[86] Di Ngôn số 98 và Hạnh Tích tr. 226.

[87] Nghi Thức Đan Tu, Hội dòng Xi-tô Thánh Gia, phần Lễ An táng, tr. 75.

[88] x. HP III, 161; DN tr. 124.

[89] Tuyên ngôn HDXT TG, số 16.

[90] Tên đầu tiên được cha Biển Đức Thuận dùng để đặt tên cho dòng mới tại An-nam, nay là Hội dòng Xitô Thánh Gia.

[91] Vocabulaire de théologie biblique, publié sous la direction de Xavier LÉON-DUFOUR, Cerf, Paris, 1964, tr. 643-644. Trong bài viết này, các tài liệu bằng tiếng Pháp được người viết chuyển ngữ trực tiếp từ bản văn gốc sang tiếng Việt.

[92] Sđd., tr. 645.

[93] Origène, Exégèse spirituelle II, Exode et Lévitique, Paris, Cerf, 2000, tr. 38.

[94] x. Sđd, tr. 39.

[95] Hạnh tích cha Benoit Henri Denis Cố Thuận, 1968, tr. 30.

[96] Sđd, tr. 35.

[97] Sđd, tr. 54.

[98] DN số 39, thư ngày 29-7-1919.

[99] Sđd, số 35, thư ngày 10-9-1918.

[100] Sđd, số 129, lời giáo huấn số 19.

[101] Sđd, số 78, thư ngày 01-8-1924.

[102] Sđd, số 130, lời giáo huấn số 37.

[103] Sđd, số 129, lời giáo huấn số 19.

[104] Sđd, số 131, lời giáo huấn số 41.

[105] Sđd, số 128, lời giáo huấn số 21.

[106] Sđd, số 139, lời giáo huấn số 10.

[107] x. Sđd, số 131, lời giáo huấn số 41.

[108] Sđd, số 130, lời giáo huấn số 37.

[109] Sđd, số 113, lời giáo huấn số 36.

[110] Sđd, số 144, lời giáo huấn số 38.

[111] x. Sđd, số 148, lời giáo huấn số 34.

[112] Sđd, số 137, lời giáo huấn số 17.

[113] Sđd, tr. 109.

[114] Sách Gương Chúa Giêsu, tr. 233.

[115] x. DN 127.

[116] DN 27.

[117] DN 120.

[118] x. DN 137.

[119] DN 137.

[120] x. DN 138.

[121] DN 65.

[122] x. DN 61, phần chú thích 110.  Phước Sơn 2018, tr. 92.

[123] DN 61.

[124] DN 113.

[125] DN 46.

[126] DN 10; 23.

[127] x. DN 148.

[128] DN 148.

[129] x. DN 147.

[130] x. DN 131.

[131] x. HT 88, 145, 180.

[132] DN 29.

[133] HT tr. 235.

[134] DN 150.

[135] DN 115.

[136] DN 143.

[137] https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%BFt.

[138] x. https://spiderum.com/bai-dang/Ban-lai-ve-cai-chet-uld.

[139] https://tudienso.com/tu-dien/tu-dien-tieng-viet.php?q=l%C3%B4ng+h%E1%BB%93ng.

[140] https://tamthuc.com/index.php?/giai-thoai/d/10751/gieo-thai-son-nhe-tua-hong-mao-cau-noi-tham-tram-sau-sac-it-nguoi-thau-hieu.html.

[141] https://tamthuc.com/index.php?/giai-thoai/d/10751/gieo-thai-son-nhe-tua-hong-mao-cau-noi-tham-tram-sau-sac-it-nguoi-thau-hieu.html.

[142] https://truyenhinhcapsongthu.net/top/nghi-ve-cai-chet-bao-cong-an-nhan-dan-dien-tu/XGaEu9c0IJMJB2.

[143] https://www.dkn.tv/van-hoa/vi-sao-nguoi-quan-tu-coi-cai-chet-nhe-tua-long-hong.html.

[144] https://www.dkn.tv/van-hoa/vi-sao-nguoi-quan-tu-coi-cai-chet-nhe-tua-long-hong.html.

[145] https://giaophanvinhlong.net/nhung-cau-noi-bat-hu-cua-cac-thanh-tu-dao-viet-nam.html.

[146] x. Vatican News, 27.11.2018.

[147] Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, số 18.

[148] Carlo Martini, Đồng hành với Chúa. Tuyển tập các bài giảng của Đức Hồng y Carlo Martini, Tổng Giám mục Milan.

[149] Được cụ Nhất Thanh diễn tả trong quyển “Đất lề quê thói.

[150] GLHTCG sau đây viết tắt là GL số 199.

[151] Fx. Durrwell, Mầu nhiệm Thiên Chúa Cha, tr. 189.

[152] x. J. Ratzinger, Tài liệu ủy ban thần học quốc tế, số 1.2.3.

[153] x. J. Ratzinger, Tài liệu ủy ban thần học quốc tế, số 1.1.

[154] J. Ratzinger, Tài liệu của ủy ban thần học quốc tế, số 11.2 và 11.3.

[155] Lm. Phêrô Phan Ðình Cho, 101 Giải đáp về cái chết và sự vĩnh hằng.

[156] x. https://vietgiaitri.com/4-cau-chuyen-rung-dong-tam-can-ve-su-hy-sinh-cua-cha-me-20170314i2781277/, truy cập ngày 2.5.2023.

[157] x. https://giaophannhatrang.org/vi/news/dcv-sao-bien/nhung-loai-tinh-yeu-duoc-de-cap-trong-kinh-thanh-22391.html, truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.

[158] x. Sogyal Rinpche, Tạng thư sinh tử, Trí Hải dịch, tr. 26.

[159] Phan Đình Cho, Giải đáp 101 câu hỏi về cái chết và sự sống vĩnh hằng, University Press, 2000, tr. 100-101.

[160] Sđd, tr.46-47.

[161] TL 4,46.

[162] https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-14-08-thanh-maximiliano-maria-kolbelinh-muctu-dao-31284.

[163] Phan Đình Cho, Giải đáp 101 câu hỏi về cái chết và sự sống vĩnh hằng, University Press, 2000, tr. 100.

[164] https://vov2.vov.vn/suc-khoe/14-nghin-nguoi-tu-sat-trong-mot-nam-chuyen-gia-tam-than-canh-bao-39419.vov2.

[165] Sogyal Rinpche, Tạng thư sinh tử, Trí Hải dịch, tr.49.

[166] Sđd, tr.234.

[167] x. Phan Đình Cho, Giái đáp 101 câu hỏi về cái chết và sự sống vĩnh hằng, University Press, 2000, tr. 104.

[168] Sđd, tr.104.

[169] Hạnh tích cha Benoit, tr. 94.

[170] x. Sđd, tr. 95.

[171] Sđd, tr.35.

[172] Sđd, tr.84.

[173] Sđd, tr.86.

[174] Sđd, tr.231.

[175] x. DN số 150.

[176] Đức thánh cha Phanxicô, Tông thư đời sống thánh hiến, số 2.

[177] Đức thánh cha Phanxicô, Tông thư đời sống thánh hiến, số 1.

[178] Thánh Phaolô VI, Tông huấn Evangelica Testificatio (Chứng tá Phúc âm) 1971; 1Cr 7,34.

[179] x. Sắc Lệnh “Perfectae Caritatis – Đức ái hoàn hảo” số 36.

[180] https://history.princeton.edu/people/peter-brown.

[181] http://www.gioitre-tnttgptb.org/chieu-kich-canh-chung-trong-doi-tu.

[182] Nhóm GKPV, Lời Chúa cho mọi người, Dẫn Nhập Thư Gởi Tín Hữu Côlôsê, Nxb Tôn Giáo, 2010, tr. 2060.

[183] GKPV, Lời Chúa cho mọi người, Dẫn Nhập Thư Gởi Tín Hữu Côlôsê, Nxb Tôn giáo, Năm 2010, tr. 2067.

[184]MARIE-NOELLETHABUT, Anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự, Nguồn: http://www.eglise.catholique.fr/, dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương.

https://www.cursillosaigon.org/sung-dao/loi-chua-cn/2192-bai-doc-2-cn-phuc-sinh-nam-a-cl-3-1-4-16-04-2017.

[185] DN số 113.

[186] Sđd. số 113.

[187] Sđd.  số 113.

[188] Sđd.  số 113.

[189] lm. Phanxicô Salêsio Lê Văn La Vinh Op, “Khấn Là Gì? Suy Niệm Về Các Lời Khấn Dòng,”

http://gpphanthiet.com/vi/news/doan-the/loi-khan-la-gi-suy-niem-ve-cac-loi-khan-dong-10365.html, truy cập 12.3.2023.

[190] Đức thánh cha Phanxicô, “Sự bình đẳng trong Chúa Kitô Vượt Qua – Những khác biệt giữa chúng ta”, http://www.giaophanbaria.org/?p=93052, truy cập 1/4/2023.

[191] Ban mục vụ Phụng tự, “Của Cải Phù Vân – Thiên Chúa Vĩnh Hằng”, Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa nhật 18 Thường niên năm C. https://tgpsaigon.net/bai-viet/phung-vu-loi-chua-chua-nhat-18-thuong-nien-nam-c-55983, truy cập 1/4/2023.

[192] HT tr. 86.

[193] HT tr.78.

[194] HT tr.109.

[195] HT tr. 124.

[196] HT tr. 223.

[197] HT tr. 231.

[198] HT tr. 76.

[199] HT tr. 86.

[200] HT tr. 67.

[201] HT Tr. 134-135.

[202] HT tr. 86.

[203] HT tr. 44-45.

[204] HT tr. 84.

[205] HT tr. 85.

[206] HT tr. 222.

[207] HT tr. 85.

[208] HT tr. 134.

[209] HT tr. 228.

[210] HT tr. 134.

[211] x. Lm. Lê Phú Hải, OMI, Lịch sử và linh đạo đời sống tu trì, Nxb. Tôn Giáo, tr. 73.

[212] x. Lm. Phan Tấn Thành, Đời sống tâm linh II, Nxb. Phương Đông, tr. 93.

[213] x. Lm. Phan Tấn Thành, Sđd., tr. 127.

[214] Có ý kiến cho rằng, nguồn gốc đan tu bắt nguồn từ thời các môn đệ theo Đức Giêsu, và được tiếp nối nơi các nhà khổ hạnh và các trinh nữ. Tuy nhiên, những nhà khổ hạnh và các trinh nữ vào thời kỳ đầu chưa sống tách biệt khỏi các Kitô hữu, mà sống tại gia.

[215] Có thể hai lập trường này đều đúng, nếu mỗi lập trường chỉ giới hạn vào một nhóm hay một địa phương nào đó.

[216] x. Lm. Phan Tấn Thành, Sđd., tr. 126.

[217] Gioan Thánh Giá Lê Văn Đoàn, Giáo trình linh đạo đan tu, tập I, tr. 22.

[218] x. Lm. Phan Tấn Thành, Sđd., tr. 89.

[219] x. Lm. Phan Tấn Thành, Sđd., tr. 126.

[220] Gioan Thánh Giá Lê Văn Đoàn, Sđd., tr. 23.

[221] Sđd., tr. 23.

[222] Linh phụ Arsenio sinh tại Rôma, khoảng năm 360, thuộc hàng ngũ nghị viện của đế quốc Roma, nhưng sau đó đã từ bỏ tất cả để vào sa mạc Ai Cập vào năm 394. Ngài nổi tiếng về nếp sống khổ hạnh và thinh lặng.

[223] Linh phụ Evagre sinh năm 347, tại Tiểu Á (nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay). Linh phụ nổi tiếng với thuyết 8 tà kiến và hành trình tâm linh đi từ praxis đến theoria, với 2 bộ: khảo luận về khổ chế và khảo luận về cầu nguyện.

[224] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội, số 44.

[225] Sđd., số 44.

[226] x. Thánh Gioan Phaolô II, Tông huấn Đời sống thánh hiến, số 24.

[227] Trích thư của thánh Inhaxito Antiokia, giám mục, tử đạo, gửi tín hữu Roma, thư gửi Rôma IV,1, giờ Kinh Sách, ngày 18 tháng 10.

[228] Lm. Lê Phú Hải, Lịch sử và linh đạo đời sống tu trì, Nxb. Tôn Giáo, tr. 65.

[229] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội, số 44.

[230] PC, số 7.

[231] PC, số 9.

[232] PC, số 5.

[233] Thánh Gioan Phaolô II, Tông thư Hồng ân cứu chuộc, số 10.

[234] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội, số 43.

[235] HP, số 117.

[236] Di Ngôn, số 146.

[237] Thánh Gioan Phaolô II, Tông huấn Đời sống Thánh hiến, số 22.

[238] Tu luật thánh phụ Biển Đức, ch. 4,21.

[239]  Lm. Đa Minh Nguyễn Ngọc Long, Lời kinh “Salve Regina – Lạy Nữ Vương”, https://tgpsaigon.net/bai-viet/loi-kinh-salve-regina-lay-nu-vuong-50428

[240] x. Lm. Nguyễn Hữu Thy, Đức Maria trong kinh nguyện Giáo hội, tr. 135.

[241] Sđd, Tr. 135

[242] Nguồn internet: https://huyha.net/loi-kinh-salve-regina-lay-nu-vuong/

[243]Thánh Albertô Cả nhận xét: danh từ Nữ Vương (regina) vừa có nghĩa là thương cảm, vừa có nghĩa là săn sóc lớp người đau khổ trên đời, khác với danh từ Nữ hoàng (imperatrix) có nghĩa là nghiêm nghị, khắc nghiệt. x. Nguyễn Hữu Thy, Đức Maria trong kinh nguyện Giáo hội, tr. 137.

[244] x. Lm Nguyễn Hữu Thy, Đức Maria trong kinh nguyện Giáo hội,  tr. 139.

[245] x. R. Verritas, Vinh quang Mẹ Thiên Chúa, tr. 223.

[246] Sđd, tr. 228.

[247] x. R. Verritas, Vinh quang Mẹ Thiên Chúa, tr. 231.

[248] R. Verritas, Vinh quang Mẹ Thiên Chúa, tr. 233.

[249] Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, Thông điệp Spe Salvi, 2007, số 49.

[250] Lm. Nguyễn Hữu Thy, Đức Maria trong kinh nguyện Giáo hội, tr. 136.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Hạt Giống Chiêm Niệm số 29: Tứ Hải Giai Huynh Đệ

Số 29 – tháng 07 năm 2022 Cùng Độc giả, Các...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 30: Một Đi Chung Cùng Nhau

LỜI NGỎ   Kính thưa Quí Độc Giả! Nội san Hạt Giống...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 32: Cầu Nguyện Đan Tu

CẦU NGUYỆN ĐAN TU Số 32 – Tháng Giêng năm...

BÀI VIẾT MỚI

spot_imgspot_img

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Hạt Giống Chiêm Niệm số 32: Cầu Nguyện Đan Tu

CẦU NGUYỆN ĐAN TU Số 32 – Tháng Giêng năm 2024 ĐÔI LỜI ... Kính thưa quý độc giả, Như chúng ta đã biết, cầu nguyện là hành...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 29: Tứ Hải Giai Huynh Đệ

Số 29 – tháng 07 năm 2022 Cùng Độc giả, Các sinh hoạt của Ban Biên Tập Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm (HGCN) của Hội...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 30: Một Đi Chung Cùng Nhau

LỜI NGỎ   Kính thưa Quí Độc Giả! Nội san Hạt Giống Chiêm Niệm số 30 phát hành vào tháng Giêng năm 2023 này mang chủ đích...

Giới Thiêu nội san “HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM” (Viện phụ Dominico Phạm Văn Hiền)

  NỘI SAN   HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     LỜI GIỚI THIỆU      ...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 1: NGUỒN SUỐI CHIÊM NIỆM

    HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM       Nội...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 2: HƯƠNG VỊ LỜI CHÚA

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 3: THAO THỨC

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 4: Những Nẻo Đường Sống Đạo

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     Nội san linh đạo đan tu   NHỮNG NẺO ĐƯỜNG SỐNG ĐẠO   Số 4 tháng 7 năm 2007 LỜI NÓI ĐẦU     Một người nọ hỏi...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số đặc biệt: Cội nguồn hy vọng

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 7: Thử Thách

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 8: Trong Lòng Giáo Hội

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...