Thứ bảy, 12 Tháng mười, 2024

Hạt Giống Chiêm Niệm số 32: Cầu Nguyện Đan Tu

CẦU NGUYỆN ĐAN TU

Số 32 – Tháng Giêng năm 2024

ĐÔI LỜI …

Kính thưa quý độc giả,
Như chúng ta đã biết, cầu nguyện là hành vi đối thần, vì đối tượng cầu nguyện là chính Thiên Chúa. Nói như cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận: “Cầu nguyện thì phải tin”. Nếu cầu nguyện vì yêu mến, thì cũng giả thiết đã tin và hy vọng. Nếu cầu nguyện vì hy vọng thì cũng hiểu là đã tin và có lòng yêu mến.
Chủ đề của Nội san Hạt giống Chiêm niệm số 32 là Cầu nguyện đan tu với ý nghĩa, một lần nữa, các đan sĩ nhìn lại đời sống cầu nguyện của mình để xác định lại vị thế đặc biệt của đan sĩ trong lòng Giáo hội, và tái khám phá nguồn mạch sức sống từ Lời Chúa trong đời sống cầu nguyện của mình.
Trong phần Kinh thánh, các tác giả nhấn mạnh đến lời cầu nguyện sám hối của Dân Chúa qua Thánh vịnh 50 và “vẻ đẹp của sa mạc” khi Đức Giêsu cầu nguyện trong nơi hoang vắng, rồi “Việc cầu nguyện của Giáo hội sơ khai”.
Cùng với đó, khi tìm đến các văn kiện của Giáo hội hướng dẫn Dân Chúa cầu nguyện, và đặc biệt, những giáo huấn dành cho các đan sĩ chiêm niệm. Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Đức Ái Hoàn Hảo, trong số 7 đã quả quyết: “Trong những Hội dòng hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm, các tu sĩ chỉ nhất tâm phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch và lặng lẽ, trong việc chuyên lo cầu nguyện và hân hoan hãm mình,…” qua bài viết: “Cầu nguyện – sứ vụ của đan sĩ.”
Về Linh đạo đan tu, thật là thích hợp khi giới thiệu nhà thần bí – thánh nữ Gertrude, thuộc đan viện Helfta, qua bài lược dịch từ tác giả Pierre Doyère trong cuốn Linh đạo Xitô (1998). Khi đạt đến cấp độ chiêm niệm thần bí, con người chỉ còn kết hiệp mật thiết với Chúa, đến nỗi dường như chỉ còn một mình Chúa và một mình thầy trên đời này (x. DN 135).
Một đề tài được coi là “rất đắt” đối với cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đó là nguyện gẫm: “Nguyện gẫm là cầu nguyện (…) Sự nguyện gẫm là chính việc chúng ta phải tập cho được kết hiệp với Chúa, ấy là chính việc nguyện gẫm” (DN 119). Tác giả bài viết: “Nguyện gẫm đan tu,” sau khi tái khẳng định giáo huấn của cha Tổ Phụ, trong các số 119-120 của Di Ngôn đã thừa nhận rằng: “Nhưng, cũng phải thực tế là hiện tại ở đây và lúc này – hic et nunc – là thời gian của vất vả hướng tới bến bờ hy vọng đó, như cha Tổ Phụ kết luận trong giáo huấn về nguyện gẫm: “Chúng ta hãy cố gắng mà chèo cho đến khi ra khơi, thì được gió, bớt mỏi mệt. Song, bao lâu thuyền còn trong cửa, cực nhọc hoài, vì ít khi gặp gió. Vậy, chúng ta hãy gắng mà chèo đã, chờ đến khi Chúa muốn thì sẽ được.”
Kinh nghiệm về đời sống cầu nguyện của Kitô hữu và đặc biệt của các đan sĩ là phải tiến tới lời chứng. “Lời cầu nguyện” phải là “lời chứng tuyệt hảo” như cuộc khổ nạn của thánh Stephanô đã minh chứng qua bài viết “Lời cầu nguyện – lời chứng tuyệt hảo.”
Cầu nguyện là một chủ đề vắng bóng hoàn toàn trong triết học. Thế nhưng tác giả bài viết “Cầu nguyện – một tiếp cận triết học” đã khám phá ra ba chiều kích mang tính triết lý trong cầu nguyện của Kitô giáo: “kinh nghiệm sống, tri thức và khát vọng làm thành ba chiều kích tạo nên một tác động cầu nguyện thật sự nơi người Kitô hữu.”
Đồng thời, các tác giả trong số này đã triển khai những đề tài phong phú khác như Cung cách khi hát Thánh vịnh theo Tu Luật thánh Biển Đức, Thinh lặng thánh, Tỉnh thức cầu nguyện, Những khó khăn khi cầu nguyện, thậm chí Stress và cầu nguyện, cho đến những tiếng Lạy trời! trong tín ngưỡng dân gian…
Trong khi biên tập số nội san này, chắc chắn không tránh khỏi những sai sót, kính mong quý độc giả thông cảm và thương chỉ ra cho những thiếu sót ấy, hầu số nội san tới được hoàn thiện hơn. Ban biên tập xin tri ân quý vị.
Kính chúc quý vị Mùa Giáng Sinh thánh thiện và Năm Mới tràn đầy sức sống của Chúa.

Ban Biên tập

CẦU NGUYỆN SÁM HỐI
TRONG THÁNH VỊNH 51 (50)

FM. Justino Nguyễn Vũ

Nét đặc trưng của đời sống của các đan sĩ là “ora et labora – cầu nguyện và lao động”. Đây là hai cách thức của một hoạt động. Cầu nguyện trong lao động, và lao động trong cầu nguyện. Cũng có thể hiểu, cầu nguyện là lao động, và lao động là cầu nguyện. Chúng không thể tách rời nhau. Trọn đời sống của người đan sĩ là chúc tụng, ngợi khen, tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa. Ưu tiên của lời ca tụng là cầu nguyện bằng việc hát Thánh vịnh.
Bộ sách Thánh vịnh gồm 150 bài ca vịnh, được chia thành năm cuốn. Thánh vịnh 51, còn được gọi “miserere – xin thương xót con”, thuộc cuốn thứ hai (Tv 42-72). Thánh vịnh này có thể văn van xin hay khẩn cầu cá nhân. Lời cầu nguyện “Miserere” là một trong những lời cầu nguyện sâu sắc và cảm động của Kinh thánh Cựu ước.
Câu hỏi quan trọng được đặt ra để tìm hiểu và suy tư: Tại sao lời cầu nguyện sám hối “miserere – xin thương xót con” sâu sắc và cảm động, và Thánh vịnh này có ý nghĩa gì?
Bài viết này sẽ giải thích những đoạn thơ hoặc câu thơ hay thuật ngữ quan trọng dựa vào bản văn Hipri, đồng thời trình bày những thành quả đạt được của khoa giải thích Kinh thánh hiện đại. Bài viết cầu nguyện sám hối trong Thánh vịnh 51 được trình bày qua bốn điểm: 1) Bản văn Việt ngữ; 2) Ngữ cảnh và cấu trúc; 3) Giải thích; 4) Kết luận.

1. Bản văn
Lời cầu nguyện sám hối “miserere – xin thương xót con” được xem như “một trong những viên ngọc quý” trong toàn bộ sách Thánh vịnh. Với cảm thức sâu xa của một hối nhân, Vịnh gia đã thực sự nhận biết được Thiên Chúa giàu lòng thương xót, đồng thời nhận ra được chính mình là tội nhân. Chúng ta hãy cùng đọc Thánh vịnh này với sự chú tâm từng câu và từng chữ như một lời cầu nguyện.
1 Phần nhạc trưởng. Thánh vịnh của vua Đa-vít.
2 Ngôn sứ Na-than đến gặp vua vì vua đã đến với bà Bát Se-va.
3 Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm.
4 Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.
5 Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.
6 Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,
dám làm điều dữ trái mắt Ngài.
Như vậy, Ngài thật công bằng khi tuyên án,
liêm chính khi xét xử.
7 Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi,
đã mang tội khi mẹ mới hoài thai.
8 Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật,
dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan.
9 Xin dùng cành hương thảo
rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền;
xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết.
10 Xin cho con được nghe
tiếng reo mừng hoan hỷ,
để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng.
11 Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi
và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm.
12 Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng,
đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ.
13 Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh,
đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài.
14 Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ,
và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con;
15 đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi,
ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài.
16 Lạy Thiên Chúa con thờ là Thiên Chúa cứu độ,
xin tha chết cho con, con sẽ tung hô Ngài công chính.
17 Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con,
cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.
18 Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm,
con có thượng tiến lễ toàn thiêu,
Ngài cũng không chấp nhận.
19 Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát,
một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê.
20 Xin rộng lòng tuôn đổ hồng phúc xuống Xi-on,
thành lũy Giê-ru-sa-lem, xin Ngài xây dựng lại.
21 Bấy giờ, Ngài vui nhận tế phẩm luật truyền,
lễ vật toàn thiêu, lễ vật hiến tế.
Bấy giờ, thiên hạ giết bò tơ dâng trên bàn thờ Chúa.

2. Ngữ cảnh và cấu trúc
Hai câu đầu của Thánh vịnh 51 được xem như một ghi chú mang tính lịch sử. Ca vịnh “miserere – xin thương xót con” được cho là của Đavít. Đây lời cầu nguyện sám hối của vua sau khi phạm tội. Vua đã đưa Urigia vào chỗ chết để chiếm đoạt Batseva làm vợ mình (x. 2 Sm 11-12). Nhiều nhà nghiên cứu Kinh thánh hiện đại lại cho rằng soạn giả có thể là một người vô danh. Ông sáng tác bài thơ này dựa trên câu chuyện của Đavít và Batseva. Có thể tác phẩm được sáng tác vào thời kỳ sau Lưu Đày Babylon (sau năm 537 tCN), và được gán cho Đavít. Những người hát Thánh vịnh thuộc thành phần kinh thành Đavít. Vì thế, các câu 1-2 như một ghi chú mang tính lịch sử.
Các câu 3-4, như khúc dạo đầu, là lời cầu xin thống thiết của tội nhân về “lòng thương xót” của Thiên Chúa. Chỉ có Ngài mới có thể tha thứ cho tội nhân. Các câu 5-7 diễn tả lời thú tội chân thành của hối nhân về những tội lỗi mà mình đã phạm. Tội nhân luôn ý thức rằng, lỗi phạm đến con người là “đắc tội với Thiên Chúa”. Các câu 8-14 trình bày lời cầu xin tín thác của tội nhân. Tội nhân cầu xin Thiên Chúa “tạo dựng” cho chính mình “một tấm lòng trong trắng”, để được hưởng niềm vui cứu độ của Ngài. Các câu 15-19 nói đến lời khấn hứa ngợi khen và tạ ơn mà tội nhân dâng lên Thiên Chúa. Các câu 20-21, như phần phụ lục được thêm vào sau, là lời cầu xin Thiên Chúa thương tuôn đổ hồng phúc xuống dân thành Sion và xây dựng lại thành Giêrusalem.
Thánh vịnh 51 có thể được cấu trúc như sau:
Ghi chú (cc. 1-2)
Khúc dạo đầu: lời kêu cầu lòng thương xót của Thiên Chúa (cc. 3-4)
Lời thú tội chân thành (cc. 5-7)
Lời cầu xin tín thác (cc. 8-14)
Lời hứa tạ ơn (cc. 15-19)
Phụ lục: cầu xin cho cộng đoàn (cc. 20-21)
Bây giờ chúng ta cùng tìm hiểu, giải thích và suy niệm để hiểu rõ hơn tâm tình cầu nguyện sám hối của vịnh gia.

3. Giải thích

3.1. Khúc dạo đầu: lời kêu cầu lòng thương xót của Thiên Chúa (cc. 3-4)
Ngay ở khúc dạo đầu, Vịnh gia cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa:
“Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm” (c. 3).
Động từ “thương xót” (tiếng Hipri חָנַן – chanan) có nghĩa “tỏ lòng ưu ái”, diễn tả việc đối xử tốt của người trên đối với người dưới như một ân huệ. “Xin thương xót con” (חָנֵּ֣נִי – ḥān·nê·nî; x. 2Sm 12,22), ở thể mệnh lệnh cách, có nghĩa “xin nhân từ với con” hoặc “xin đổ đầy ân sủng của Ngài trên con”.
Danh từ “lòng nhân hậu” (tiếng Hipri חֵסֵד – khesed) được quảng diễn như là “chân thật, trung thành, tốt lành, thương xót, âu yếm, nhẹ nhàng, kiên trì trong lưu tâm và yêu thương”. Bản văn Hipri được đọc: “Xin thương xót con theo lòng nhân hậu của Ngài”. Cụm từ này muốn nhấn mạnh lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Ngay ở câu thơ đầu tiên, Vịnh gia đã tuyên xưng Thiên Chúa thương xót.
Vì thế, Vịnh gia kêu xin sự tha thứ của Thiên Chúa. Danh từ “lượng hải hà” (tiếng Hipriרַחַם – racham) nghĩa là “lòng bao dung” hay “lòng nhân từ”. Từרַחַם – racham nguyên thủy bởi danh từ רֶחֶם – rechem. Ở số ít có nghĩa “dạ con, cung lòng mẹ”; ở số nhiều nghĩa là “lòng, trung tâm, trung tâm sinh sản và xúc động”. Lượng hải hà của Thiên Chúa được diễn tả như “cung lòng” của người mẹ, luôn sẵn sàng cưu mang con mình (x. Đnl 1,31).
Danh từ “tội” (tiếng Hipri פֶּשַׁע – pesha) nghĩa là “sự nổi loạn” chống lại người có quyền (x. 1V 12,19; 2V 1,1; Is 43,27; G 34,37). Như thế, “tội” trước tiên là nổi loạn chống lại Thiên Chúa, chống lại ý định của Người. Động từ “xóa” (tiếng Hipri מָחָה – machah) có nghĩa làm mất hay xóa dấu vết khỏi sổ sách (x. Is 43,25; 44,22; Tv 51,11). Người đương thời quan niệm rằng, những hành vi tốt hay xấu của con người được ghi vào sổ sách. Vào ngày “tòa bắt đầu xét xử, sổ sách được mở ra” (Nkm 13,14). Vịnh gia trình bày Thiên Chúa như một vị quan án đang xét xử. Đồng thời ông nài xin Thiên Chúa xóa hết đi những tội đã được viết ra (x. Xh 32,32). Như thế, Vịnh gia xin Thiên Chúa hãy lấy lòng bao dung mà xóa bỏ, quên hết tội chống lại Ngài mà ông đã phạm.
Tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa, Vịnh gia cầu xin:
“Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
tội lỗi con xin Ngài thanh tẩy” (c. 4).
Danh từ “lỗi lầm” (tiếng Hipri עָוֹן – awon) mang ý nghĩa lỗi lầm có chủ đích (x. Gr 11,10), một hành động quay về hướng lầm lạc. Đây là một hành vi có chủ ý, chứ không phải do tình cờ hay ngoài ý muốn. Động từ “rửa” (tiếng Hipri כָּבַס – kabas), nghĩa đen là “giẫm, đạp” để giặt quần áo (x. Xh 19,10.14; 2Sm 19,24); nghĩa bóng dùng cho con người “tẩy rửa” (x. Gr 2,22). Vịnh gia xin Thiên Chúa tẩy rửa những hành vi sai trái mà mình đã cố ý thực hiện (x. c. 9).
Danh từ “tội lỗi” (Hipri חַטָּאָה – chatta’ah) nghĩa là “mất đi dấu vết” hay “lạc hướng” (x. G 5,24; Cn 8,36; 19,2). Hàm ý một người đã cố ý làm mất đi dấu ấn riêng của mình hay lạc hướng. Người đó lựa chọn con đường khác so với đường lối của Thiên Chúa. Động từ “thanh tẩy” (tiếng Hipriטָּהֵר – taher) thường được dùng trong nghi thức thanh tẩy (x. Lv 14,11; 15,13.28; 16,19), loại bỏ hay chùi rửa rỉ sét khỏi vàng bạc đồng (x. Ml 3,3).
Như thế, Vịnh gia nhận biết Thiên Chúa nhân hậu, thương xót và bao dung. Người luôn tha thứ người tội lỗi và yếu đuối. Vịnh gia ca ngợi tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Như người mẹ, Người luôn sẵn sàng đón nhận tội nhân với tình yêu bao la. Vì thế mà Vịnh gia, dù là tội nhân, đã hoàn toàn tín thác vào lòng thương xót bao la của Thiên Chúa.
Vịnh gia cũng nhận ra “tội” như là hành vi có ý thức của con người. Tội cắt đứt tương quan giữa Thiên Chúa với con người.

3.2. Lời thú tội chân thành (cc. 5-7)
Vịnh gia thành tâm nhìn nhận tội lỗi của mình bằng những lời tự thú:
“Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm,
Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,
dám làm điều dữ trái mắt Ngài.

Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi,
đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (cc. 5 và 7)
Các động từ được sử dụng ở thể khẳng định và chủ từ luôn là Vịnh gia. Vịnh gia can đảm nhìn nhận và chịu trách nhiệm về tội lỗi của mình. Tương quan không tốt giữa ông và Thiên Chúa là do chính ông. Ông không chạy trốn cũng không đổ lỗi cho Thiên Chúa hay cho người khác.
Đồng thời Vịnh gia nhìn nhận “lỗi lầm” như là bản chất yếu đuối của con người. “Tội” như là tình trạng tự nhiên của con người từ khi mới được sinh ra (c. 7; x. Tv 58,4; Is 48,8). Đối với ông, tội ở ngay trong chính con người mình. “Tội” là phản loạn chống lại Thiên Chúa. Tội cắt đứt mối tương quan thân tình giữa Thiên Chúa với Vịnh gia. Tội đó cứ ám ảnh trên ông suốt cả ngày đêm. Tội làm cho ông không được bình an.
Sau khi phạm tội ngoại tình với Batseva, rồi gián tiếp giết chồng của bà là Urigia, Đavít đã nhận ra tội lỗi của mình. Vua đã xưng thú: “Tôi đắc tội với Đức Chúa” (2 Sm 12,13). Trong ca vịnh này, Vịnh gia không ngần ngại thú nhận: “Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa” (c. 6). Như thế tội xúc phạm đến người khác cũng có nghĩa chống lại Thiên Chúa.
Trên hết, Vịnh gia tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng công chính:
“Như vậy, Ngài thật công bằng khi tuyên án,
liêm chính khi xét xử” (c. 6).
Đức Chúa mặc khải cho Môsê biết: “ĐỨC CHÚA! ĐỨC CHÚA! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông” (Xh 34,6-7). Như thế, Thiên Chúa công bằng khi thương xót và thứ tha, đồng thời cũng sửa phạt tội nhân.

3.3. Lời cầu xin tín thác (cc. 8-14)
“Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật,
Dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan” (c. 8).
Thiên Chúa chỉ yêu thích một điều duy nhất nơi Vịnh gia, đó là “tâm hồn chân thật”. Danh từ “tâm hồn” (tiếng Hipri טּוּחָה – tuchah) có nghĩa “nội tâm, không gian tối tăm”. Cụm từ này có thể được hiểu “Ngài yêu thích sự thật trong bóng tối”. Sự thật chính là ánh sáng chiếu soi lương tâm tối tăm.
Vịnh gia xin ơn khôn ngoan để giúp phân định. Bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn: “Trong bí mật Người dạy tôi cho biết khôn ngoan.” Thuật ngữ “khôn ngoan” có nghĩa “một sự phân định, một trật tự, độ sáng, chương trình của Thiên Chúa cho sự cứu rỗi”. Tác giả sách Khôn Ngoan viết: “Kính sợ ĐỨC CHÚA là bước đầu của tri thức. Kẻ ngu si khinh thường khôn ngoan và lời nghiêm huấn” (Kn 1,7). Vịnh gia ý thức, tự sức mình không thể làm gì được. Chỉ có Thiên Chúa mới ban cho ông ánh sáng sự thật và sự khôn ngoan, để sống một cuộc đời ý nghĩa.
Trong câu 9, Vịnh gia lặp lại chủ đề xóa bỏ ở câu 4:
“Xin dùng cành hương thảo
rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền;
xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết” (c. 9).
Hương thảo, còn gọi là cây ngưu tất, mọc ở bờ tường, có mùi hương (x. 1V 5,13). Tại Ai Cập vào dịp lễ Vượt Qua, người Do Thái đã dùng một bó hương thảo nhúng máu chiên để bôi lên cửa nhà mình (x. Xh 12,22). Hương thảo thường được dùng trong nghi thức thanh tẩy người bị bệnh phong (x. Lv 14,6) hay người bị nhiễm uế (x. Ds 19,18).
Cụm từ “trắng hơn tuyết” có nghĩa là trong sạch. Cách diễn tả này cũng gặp thấy nơi Isaia: “ĐỨC CHÚA phán: ‘Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông’” (Is 1,18). Thiên Chúa có khả năng thanh tẩy trái tim con người, bất chấp cho tội lỗi đã làm hoen ố đến mức nào. Vịnh gia sẽ được trở nên tinh tuyền và trong sạch (x. c.12).
“Xin cho con được nghe tiếng reo mừng hoan hỷ,
để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng” (c. 10).
Từ “xương” (tiếng Hipri גִּיל – etsem) được trình bày như sức mạnh sự sống (x. Tv 31,11; 35,9-10), nhân cách của một người hay chính bản thân (x. St 2,3; Tv 6,3; 32,3; 53,6; 102,4…). Cụm từ “xương cốt bị Ngài nghiền nát” dường như ám chỉ đến nỗi lo lắng tinh thần hay bệnh thể lý của Vịnh gia, do ý thức về tội lỗi của mình đè nặng (x. c. 5). Ezekiel kể về thị kiến những bộ xương khô sống lại khác thường, hình ảnh dân tộc bị tiêu diệt được hồi sinh (37,1-14).
Cụm từ “tiếng reo mừng hoan hỷ”, được Giêrêmia dùng nhiều lần (7,34; 15,16; 16,9; 25,10; 33,11), diễn tả niềm vui của người chiến thắng hay được giải thoát khỏi bách hại (x. Is 22,13; 35,10; 51,3.11). Động từ “nhảy múa tưng bừng” (tiếng Hipri גִּיל – gil) diễn tả niềm vui được giải cứu (x. Tv 9,15; 13,6; 14,7; 21,2; 35,9; 53,7). Vịnh gia tin rằng chỉ có Thiên Chúa mới có khả năng hoàn thành việc tái tạo toàn thể con người bị tội lỗi hủy hoại. Vịnh gia, kẻ coi như bị Thiên Chúa đánh phạt, ước ao được reo vui lên.
“Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi
và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm” (c. 11).
Người ta vẫn quan niệm rằng Thiên Chúa dường như luôn nhìn thấy và không bỏ qua tội lỗi của con người (x. G 7,17-19; 10,6.13-14). Cụm từ “xin ngoảnh mặt” hay “xin ẩn mặt” là lời van nài khẩn thiết của Vịnh gia. Ông khẩn cầu Thiên Chúa ngừng làm cho ông phải đau khổ, giải thoát khỏi những hậu quả của tội lỗi. Cũng như Gióp, Vịnh gia ao ước được bình an thư thái (x. G 7,19; 14,6). Tương quan giữa ông với Thiên Chúa sẽ trở nên tốt đẹp.
Vì vậy, Vịnh gia nài xin Thiên Chúa một cuộc tạo dựng mới:
“Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng,
đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy” (c. 12).
Động từ “tạo dựng” (tiếng Hipri בָּרָא – bara’), một động từ đặc biệt trong Kinh thánh, luôn có chủ từ là Thiên Chúa. Mở đầu với động từ “tạo dựng”, ở thể mệnh lệnh cách, nhấn mạnh đến hành động chỉ một mình Thiên Chúa thực hiện. Chính Thiên Chúa “tạo dựng” vũ trụ (x. St 1,1). Cũng quyền năng đó, nay Thiên Chúa “tạo dựng” một trái tim mới. Thiên Chúa đã ký kết giao ước với những người lưu đày rằng, Người sẽ “ban cho một trái tim mới và một thần trí mới” (Ed 11,19; 36,26).
Thiên Chúa tạo dựng cho con người “một trái tim trong trắng”. Trái tim (לֵב – leb) là trung tâm của sinh hoạt con người, trung tâm tình cảm, tư tưởng và ý muốn. Trong ngôn ngữ Kinh thánh, “trái tim” được xem như cội nguồn của cuộc sống nội tâm của con người. “Một trái tim trong trắng” nghĩa là một con người mới. Con người mới này có khả năng sống một cuộc sống mới. Đó là thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.
Thuật ngữ “tinh thần” (tiếng Hipri רוַּח – ruach) nghĩa là nguyên lý thúc đẩy tình cảm, tư tưởng và ý muốn. Ở câu 12, Vịnh gia cầu xin cho mình có cơ hội bắt đầu lại để thực hiện những điều đẹp ý Thiên Chúa. “Thần khí”, trong hai câu thơ 13 và 14, là nguyên lý làm cho sống (x. Is 63,10-14). Xin Thiên Chúa “đổi mới tinh thần chung thủy” có nghĩa lòng kiên vững trước sự hay thay đổi của con người. Thần khí thánh là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa.
Vịnh gia âu sầu lo sợ:
“Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh,
đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài” (c. 13).
Cụm từ “thần khí thánh của Ngài” có nghĩa ân huệ trung tín Thiên Chúa dành cho con người. Thần khí Thiên Chúa thanh luyện và thôi thúc từ bên trong để con người vâng phục và thực hiện ý muốn của Thiên Chúa. Thần khí Thiên Chúa sẽ hướng dẫn con người làm những điều tốt (x. Tv 143,10). Điều này là bảo chứng cho sự thuộc về Thiên Chúa, hợp nhất với Người. Vịnh gia sợ Thiên Chúa loại trừ mình. Sợ Thiên Chúa không còn nghĩ đến mình nữa. Ông lo lắng ân huệ sự sống bị Thiên Chúa lấy mất đi. Vì thế, Vịnh gia van xin niềm vui đưa đến ơn cứu độ (x. c. 10):
“Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ,
và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con” (c. 14).
Thiên Chúa là Đấng cứu độ con người (c. 16; x. Tv 65,6). Chính Người sẽ cho người tốt được hưởng ơn cứu độ (x. Tv 50,23). Từ “cứu độ” (Hipri יֶשַׁע – yesha) trình bày niềm hy vọng của người công chính được Thiên Chúa giải thoát. Vịnh gia cầu xin niềm vui được giải thoát khỏi tội lỗi, tinh thần được bình an và luôn ao ước làm điều tốt. Ông tin rằng chỉ mình Thiên Chúa là Đấng cứu độ. Chính Người mới đem lại cho ông niềm vui đích thực.

3.4. Lời hứa tạ ơn (cc. 15-19)
Ơn tha thứ và đổi mới sẽ là động lực cho một dấn thân làm chứng tá, bao gồm việc chúc tụng dâng lên Thiên Chúa. Trước hết, Vịnh gia hứa rằng:
“đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi,
ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” (c. 15).
Vịnh gia dấn thân cho “sứ mạng truyền giáo”. Ông sẽ làm cho họ, những ai đang trong ngõ cụt của cuộc đời, tìm thấy được con đường giải thoát. Ông sẽ làm cho họ hiểu cần sám hối trước Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Vịnh gia làm thế, không như một thầy dạy, nhưng như một nhân chứng cho điều đã thực sự xảy đến với chính mình. Ân huệ cứu độ của Thiên Chúa cần được loan báo.
“Lạy Thiên Chúa con thờ là Thiên Chúa cứu độ,
xin tha chết cho con, con sẽ tung hô Ngài công chính” (c. 16).
Một lần nữa, Vịnh gia tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng cứu độ. Ngài sẽ tha thứ cho ông khỏi nợ máu mà ông đã phạm. Ông đã thực sự ăn năn thống hối. Chính kinh nghiệm cá nhân, từ một người tội lỗi nay được tha thứ, từ một kẻ đáng chết nay được cho sống. Vì thế Vịnh gia hân hoan tạ ơn Thiên Chúa, trước hết bằng việc tung hô Ngài là Đấng công chính.
“Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con,
cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” (c. 17).
Cụm từ “xin mở miệng con” hàm ý dẹp bỏ đi những ngăn trở làm cho không thể nói được (x. Ed 3,26-27). Ngăn trở ở đây có thể là tương quan đổ vỡ giữa Vịnh gia với Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới làm cho tương quan này tốt đẹp trở lại. Thiên Chúa ban ơn linh hứng để con người có thể ca tụng Ngài (x. Tv 40,4). Vịnh gia cho thấy ông hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Việc ngợi khen Thiên Chúa cũng là một ân huệ.
“Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm,
con có thượng tiến lễ toàn thiêu,
Ngài cũng không chấp nhận” (c. 18).
Thiên Chúa chán ghét những nghi lễ vụ hình thức (x. Tv 40,7: Am 5,21tt; Mk 6,6tt). Tế phẩm và lễ toàn thiêu nào có ích gì khi không có công bằng, bác ái và tha thứ. Phụng vụ có ý nghĩa gì khi không có niềm tin vào Thiên Chúa. Sách Samuen đã từng cảnh cáo: “ĐỨC CHÚA có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời ĐỨC CHÚA không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu” (1Sm 15,22). “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu” (Hs 6,6).
“Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát,
một tấm lòng tan nát dày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (c. 19).
Các cụm từ “tâm thần tan nát” và “tấm lòng tan nát dày vò” diễn tả sự hoán cải thật sự. Vịnh gia khiêm tốn trở về với Thiên Chúa. “CHÚA gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề” (Tv 34,19). Trong nỗi đau tột cùng và thất vọng ê chề, Vịnh gia vẫn trung thành dâng lên Thiên Chúa lời ca tạ ơn. Đây chính là của lễ mà Thiên Chúa yêu thích (x. Tv 69,30-32).

3.5. Phụ lục: cầu xin cho cộng đoàn (cc. 20-21)
“Xin rộng lòng tuôn đổ hồng phúc xuống Xi-on,
thành lũy Giê-ru-sa-lem, xin Ngài xây dựng lại.
Bấy giờ, Ngài vui nhận tế phẩm luật truyền,
lễ vật toàn thiêu, lễ vật hiến tế.
Bấy giờ, thiên hạ giết bò tơ dâng trên bàn thờ Chúa.”
Hầu hết các nhà nghiên cứu Kinh thánh cho rằng hai câu thơ cuối là một sự thêm vào sau này. Hai câu thơ này diễn tả lời cầu xin đến từ cộng đoàn. Việc thêm vào này hoặc là để sử dụng trong phụng vụ của cộng đoàn tại Đền thờ, hay là giải thích thêm về lễ phẩm trong nghi thức phụng tự.
Vịnh gia xin Thiên Chúa lấy lòng thương xót tuôn đổ hồng ân xuống Sion và tái thiết tường thành Giêrusalem. Chi tiết này gợi nhớ sự kiện lịch sử của dân Israel sau thời lưu đày Babylon trở về. Việc tái xây dựng lại những tường thành Giêrusalem dưới sự điều hành của Nơkhêmia vào khoảng giữa 587 và 440 tCN.
Lời cầu nguyện không còn là của cá nhân nhưng là của cộng đoàn Israel. Thiên Chúa ban ơn cứu rỗi cho cộng đoàn. Trong tình trạng mới những lễ vật dâng lên với tấm lòng chân thật được Thiên Chúa chấp nhận.

4. Kết luận
“Miserere – xin thương xót con” là một ca vịnh rất sâu sắc và thật cảm động. Đây là một tiến trình sám hối nội tâm của chính Vịnh gia. Tiến trình này bắt đầu bằng việc nhận biết bản tính của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thương xót, nhân hậu và bao dung. Thiên Chúa yêu thương con người, kể cả người tội lỗi, như người mẹ yêu thương và cưu mang con mình trong lòng. Ngài tế nhị và tôn trọng mỗi người như là chính họ. Ngài sáng kiến và luôn đi bước trước để biểu lộ tình yêu vô biên dành cho người tội lỗi.
Kế đến, Vịnh gia khiêm tốn nhận ra thân phận con người là tội lỗi: hoài thai trong tội, sinh ra trong tội, lớn lên làm điều tội. Tội là phản loạn chống lại thánh ý Thiên Chúa. Tội cắt đứt tương quan thân mật của Thiên Chúa dành cho con người. Tội xúc phạm đến con người là tội xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Vịnh gia cũng can đảm nhìn nhận và chịu trách nhiệm về những hành vi sai lầm của mình. Ông không đổ lỗi cho người khác. Ông không trốn tránh trách nhiệm.
Vịnh gia tin tưởng vào lòng bao dung của Thiên Chúa. Ông thật lòng sám hối và thú tội trong nước mắt. Ông quay trở về và để mình được chìm vào lòng thương xót bao la của Thiên Chúa. Vì thế, ông đã đón nhận được ơn tha thứ của Người. Thiên Chúa chữa lành và tác tạo Vịnh gia thành một con người mới. Con người mới này bắt đầu lại trong tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa, bằng cách yêu thương và bác ái với người khác. Nhờ vậy, Vịnh gia cảm nghiệm được niềm vui cứu độ của Thiên Chúa.
Chính niềm vui cứu độ thôi thúc Vịnh gia hành động. Ông trở thành một người loan báo niềm vui cứu độ của Thiên Chúa. Có thể nói Vịnh gia, từ một người tội lỗi trở thành “một nhà truyền giáo”. Ông không được phép giữ hồng ân của Thiên Chúa cho riêng mình. Ông là một chứng nhân về lòng thương xót bao la của Thiên Chúa. Nhờ đó mà những người lầm lạc và tuyệt vọng cũng được đón nhận niềm vui cứu độ của Người. Bởi vì Thiên Chúa yêu thích lễ phẩm là “tâm thần tan nát” và “một tấm lòng tan nát giày vò” của người tội lỗi.

Thư mục
– Nguyễn Thế Thuấn, Kinh thánh, Tp HCM: Dòng Chúa Cứu Thế, 1976.
– Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Kinh thánh, ấn bản 2011, Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2019.
Betz, O., (chủ biên), Calver Bibellexikon, tập 1-2, Stuttgart: Calver Verlag, ấn bản thứ 2, 2006.
– Hoàng Đắc Ánh và Trần Phúc Nhân, Như Hương Trầm. Học hỏi Thánh vịnh và Thánh ca Cựu ước Tân ước, Tp HCM: Tủ Sách Đại Kết, 1992.
– Lê Phú Hải, Nẻo vào Thành vịnh, tìm hiểu, đọc và cầu nguyện với Thành vịnh, Đồng Nai: Nxb Đồng Nai, 2021.
– Phạm Hữu Quang và Nguyễn Văn Bình, Sách Thánh vịnh. Tìm Hiểu, Giải Thích, Suy Niệm, Cầu Nguyện, Đồng Nai: Nxb Đồng Nai, 2018.
– Phạm Xuân Uyển, Chú giải 150 Thánh vịnh, thủ bản dành cho các học viên, 2015.
Gavigan James, McCarthy Brian, McGovern Thomas, The Navarre Bible: The Psalms: The Psalter and the Song of Solomon in the revised standard version and New Vulgate, Blackrock, Co. Dublin, New York: Four Courts Press, ấn bản thứ 2, 2005.
Tate Marvin E., Word Biblical commentary. Vol.20: Psalms 51-100, Grand Rapids, Michigan: Zondervan Pub House, 1991.

VẺ ĐẸP CỦA SA MẠC

Sr. M. Pio X – Mến

Sa mạc được định nghĩa là những vùng hoang vu, cằn cỗi và hầu như không có sinh vật sinh sống. Tuy nhiên, ở chính những nơi tưởng chừng thiếu sức sống, khô cằn và khắc nghiệt ấy, lại ẩn chứa một vẻ đẹp tuyệt vời của những dải cát mênh mông và những ốc đảo xanh tươi màu mỡ. Trong Kinh thánh, sa mạc cũng gắn liền với những hình ảnh trái ngược. Nếu sa mạc là vùng đất khô cằn thì đó cũng sẽ trở thành vườn cây ăn trái (x. Is 32,15). Sa mạc biểu tượng nơi chết chóc nhưng đó cũng là chốn hồi sinh (x. Ds 16,13; Hs 2,5.16; 1V1,4-8). Sa mạc là nơi trút xả tội lỗi (x. Lv 16,21) nhưng đó cũng là chốn linh thiêng ghi dấu mặc khải, lề luật và giao ước (x. Xh 3,14; 20-24). Sa mạc nơi cô tịch hoang vắng nhưng cũng là chỗ gặp gỡ yêu thương “lòng kề lòng” giữa Thiên Chúa và con người (x. Hs 2,5.16). Trong vẻ đẹp nghịch lý và đa chiều của sa mạc, bài viết này chỉ giới thiệu khái quát về sa mạc qua một hướng nhìn đan tu như là một nơi chiến đấu, nơi “thổ lộ tâm tình” và là nơi kết ước.

1. Sa mạc – nơi chiến đấu
Sa mạc biệt lập hoang vắng, nhưng lại có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với các đan sĩ. Lịch sử Kitô giáo ghi nhận, vào thời Giáo hội không còn chịu bách hại, thì cũng là lúc đời sống đan tu phát triển mạnh mẽ nơi các vùng sa mạc. Nhiều người nhận thấy đời sống khắc khổ trong sa mạc có sự liên kết và thay thế cho việc tử đạo, nên đã tìm đến sa mạc để sống phúc tử đạo. Những người khác lại khao khát nên hoàn thiện, và như Chúa Giêsu được đầy Thần Khí dẫn vào sa mạc chịu ma quỷ cám dỗ (x. Lc 4,1-13), họ cũng tiến đến sa mạc chiến đấu để nên giống Chúa Giêsu. Nhưng họ chiến đấu điều gì?
Trong thinh lặng của 40 ngày sa mạc, Chúa Giêsu đã trải qua những cám dỗ, xuất phát từ những nhu cầu cơ bản, được khắc ghi ngay trong bản chất con người. Đó là những cái “đói” cốt lõi về lương thực, chức danh và quyền hành (x. Mt 4,1-11). Trong hành trình 40 năm kinh qua sa mạc, dân Israel cũng bị chính những cái đói làm chùn bước, mặc dù Thiên Chúa luôn nuôi dưỡng, đồng hành, bao bọc họ bằng manna, nước uống … (x. Tv 77), nhưng dân vẫn phản loạn và day dứt hoài nghi: Đức Chúa có làm được gì cho chúng ta không? Người có thực sự ở giữa chúng ta không? (x. Xh 17,7). Hành trình sa mạc là cả một hành trình chiến đấu, dân chiến đấu để sinh tồn, chiến đấu để nhận ra sự hiện diện của Chúa. Cuộc chiến của dân Israel trong sa mạc và của Chúa Giêsu cũng không miễn trừ đối với các đan sĩ.
Với trải nghiệm sa mạc, các linh phụ đan tu cho biết, các đan sĩ phải chiến đấu với nhiều thứ mà thứ kinh khủng nhất là “con quỷ ban trưa” – một thứ quỷ làm nản lòng các đan sĩ, xúi giục họ chán ngán nơi mình đang ở, đời sống mình đang theo, những việc mình đang làm… và buông bỏ luôn cả việc chiến đấu nên hoàn thiện. Song song với “quỷ ban trưa”, thánh Biển Đức còn xác nhận, họ “chiến đấu tay đôi với tính mê xác thịt và tư tưởng xấu” (TL1,5). Tính mê xác thịt được thánh Phaolô liệt kê bao gồm: “gian dâm, ô uế, phóng đãng, ngẫu tượng, thù oán, tranh đấu, ghen ghét, buồn giận, cãi lẫy, bất bình, bè phái, ganh gổ, say sưa, mê ăn uống, …” (Gl 5,19-20), theo thánh Phaolô, những kẻ sống theo tính xác thịt thì không sống theo Thần Khí, không thuộc về Đức Kitô và không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa (x. Gl 5,16-26). Việc đan sĩ chiến đấu với “quỷ ban trưa”, với tính mê xác thịt và tư tưởng xấu cũng đồng nghĩa với việc họ phấn đấu, thanh luyện các tính ươn lười, ưa dễ dãi để trở nên tạo vật mới, con người mới trong Đức Kitô (x. 2Cr 5,17). Việc trở nên “con người mới” không phải là tác phẩm ngoạn mục được nhào nặn thành công trong một khoảnh khắc nào đó, nhưng là một tiến trình chiến đấu bền bỉ trải dài trong suốt cuộc đời. Do đó, ta có thể nói, đan sĩ là con người chiến đấu, và nếu nói, sa mạc là một nơi chiến đấu thì hiển nhiên cuộc đời người đan sĩ cũng là một sa mạc. Hiểu theo nghĩa này thì sa mạc không còn là nơi cằn cỗi theo tính chất vật lý, nhưng là những không gian cô tịch hay những khoảng lặng sâu lắng trong tâm hồn mỗi người – nơi Thiên Chúa “thổ lộ tâm tình” (Hs 2,16).

2. Sa mạc – nơi “thổ lộ tâm tình”
Để “thổ lộ tâm tình” Thiên Chúa đã chọn một nơi, nơi đó không đâu khác lại là sa mạc. Nếu sa mạc của chiến đấu mang đậm chất những nỗ lực cố gắng khát khao nên hoàn thiện của con người, thì đây, sa mạc nơi Thiên Chúa chọn để “thổ lộ” lại mang nỗi thao thức, kiếm tìm khắc khoải của Thiên Chúa: “Này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình” (Hs 2,16). Tại sao Thiên Chúa cần “quyến rũ”?
“Quyến rũ” là một cách nói khác cho lời kêu gọi trở về. Câu chuyện hôn nhân gia đình của ngôn sứ Hôsê và Gômê vén mở nguyên do kinh ngạc mà Thiên Chúa cần quyến rũ. Hôsê cưới Gômê – người đàn bà làm điếm, sinh những đứa con đàng điếm và không chịu bỏ thói đàng điếm. Chính vì thói đàng điếm này mà Hôsê nhẫn nhục, tìm mọi cách để đưa Gômê trở về (x. Hs 1,2-8; 2,4-7; 3,1-3). Hình ảnh người chồng đáng thương, yêu vợ hết mực của Hôsê cho thấy một tình yêu tuyệt vời vô biên của Thiên Chúa dành cho dân. Giống Gômê, dân bất trung, dân phản bội biết bao lần, nhưng Thiên Chúa luôn yêu thương tìm cách “quyến rũ”, tìm cách kêu gọi, thuyết phục đưa dân vào sa mạc để thì thầm những lời yêu thương tâm tình. Lời tâm tình của Chúa có sức biển đổi, làm cho sự bất trung trở thành tín trung, tình yêu cằn cỗi nay nên nồng nàn. Sa mạc từ đây không còn cô vắng quạnh hiu, nhưng đã bừng sáng niềm vui hy vọng. Sa mạc thành một nơi trở về để được chữa lành, trở về để tìm lại tình yêu và sức sống.
Trong Tu luật viết cho các đan sĩ, thánh Biển Đức cũng mở đầu bằng lời kêu gọi trở về: “Con ơi, hãy lắng nghe lời thầy dạy, ghé tai lòng con mà thuận tình đón nhận lời cha hiền khuyên nhủ và thực hiện cho bằng được, để nhờ gắng công vâng phục, con trở về với Đấng con đã xa lìa vì ươn lười bất tuân” (TL. Lời Mở 1-2). Ơn gọi đan tu được khởi đầu bằng việc trở về (x. TL. Lời Mở 37-38), nói đúng hơn, bằng sự “quyến rũ” của Thiên Chúa: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con và Ngài đã thắng” (Gr 20,7). Việc Thiên Chúa quyến rũ ta chẳng phải vì ta xứng đáng, có chăng là vì ta bất tín, bất trung và ươn lười bất tuân? Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa yêu thương chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những tội nhân (Rm 5,8). Tình yêu có sức biến đổi lạ lùng, tội nhân cũng có thể trở thành thánh nhân, tội dù có đỏ như son cũng ra trắng như tuyết (x. Is 1,18). Tình yêu mang đến những điều kỳ diệu, tình yêu làm cho Thiên Chúa thao thức quyến rũ, đưa ta vào sa mạc để thổ lộ tâm tình (Hs 2,16). Chốn sa mạc tâm tình của người đan sĩ là một mình với Thiên Chúa duy nhất (Solus cum Deo solo) , là ora et labora – cầu nguyện và lao động, nơi chốn sa mạc này, người đan sĩ cũng bị thiêu đốt vì đói và vì khát, nhưng đói khát của đan sĩ là đói khát Chúa: “Con tìm kiếm Ngài, lạy Chúa…, con lục soát mọi góc, mọi ngõ ngách của lòng con …, khát vọng duy nhất của con, khát vọng cháy bỏng của con là được thấy Ngài.” “Quả vậy, với người Chúa ban cho sự hiểu biết, thì Chúa cũng trao luôn khổ đau (x. Gv 1,18). Vâng, đây là khát khao cháy bỏng còn thiêu đốt chúng con mạnh hơn nữa là biết Chúa là ai… Ôi! Nếu chúng con có thể biết Chúa là ai để ôm gọn Chúa vào lòng, Chúa ơi!” Dù cho khao khát của người đan sĩ có mạnh đến đâu, cũng chưa đủ lớn để ôm trọn cơn khát mãnh liệt, vĩ đại của Thiên Chúa trên thập giá (x. Ga 19,28). Do vậy, việc biểu lộ những khao khát của đan sĩ hay việc “thổ lộ tâm tình” nơi sa mạc của Chúa cũng chưa phải là cái kết viên mãn của một tình yêu đẹp. Bất chấp những bất toàn dang dở nơi ta, Thiên Chúa còn muốn tiến xa hơn nữa, Ngài muốn thiết lập một “hôn ước vĩnh cửu” với con người.

3. Sa mạc – nơi kết ước
Với “hôn ước vĩnh cửu”, sa mạc trở thành nơi kết ước, thành bối cảnh hân hoan của tiệc cưới, thành khung trời yêu thương giữa Thiên Chúa và dân Người: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò” (Is 35,1-2). Sa mạc hân hoan, sa mạc reo hò, sa mạc trổ hoa trong hôn ước: “Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu, Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương” (Hs 2,21-22).
Hôn ước cũng như giao ước, đó là đỉnh cao và là dấu chỉ của một tình yêu tuyệt mỹ, vô điều kiện của Thiên Chúa với con người, bởi nếu nói, hôn ước là cam kết đôi bên với nhau về những điều mà mỗi bên sẽ thực hiện , thì con người lấy gì để thực hiện hôn ước với Thiên Chúa? Thiên Chúa vĩnh cửu (x. Xh 3,14) nên hôn ước của Người là vĩnh cửu. Con người hữu hạn được kết ước với Đấng vô hạn; con người bất tín được kết ước với Đấng Tín Trung (x. 2Tm 2,13), điều đó chỉ có “ân tình và xót thương” của Thiên Chúa mới làm cho khả thể. Cảm nghiệm được tình yêu ngọt ngào trong hôn ước của Thiên Chúa với con người qua việc viếng thăm của Ngôi Lời, thánh Bênađô ngập tràn hạnh phúc reo vui: “Ôi suối ngọt ngào, ôi nguồn ân sủng, ôi sức mạnh của tình yêu, làm sao Đấng cao cả hơn vạn vật đã trở nên một trong chúng ta! Ai đã làm tất cả những sự ấy nếu không phải là Tình Yêu, một Tình Yêu quên cả địa vị cao quý của mình, một Tình Yêu giàu lòng trắc ẩn, một Tình Yêu đậm đà nhân ái […]. Ôi còn gì mạnh mẽ hơn Tình Yêu!”
Tình yêu kết hợp Thiên Chúa với con người và con người với Thiên Chúa, “ai kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người” (1Cr 6,17). Theo thánh Bênađô, đỉnh cao của việc linh hồn kết hợp nên một với Thiên Chúa là một cuộc kết giao huyền nhiệm với Ngôi Lời, đây là cuộc “hôn phối thiêng liêng, hôn phối thánh thiện”, một thứ “đồng hình đồng dạng của tình yêu – đồng nhất linh hồn với Ngôi Lời.” Con người được biến đổi nhờ sự đồng nhất với Thiên Chúa, họ được trở nên giống Thiên Chúa trong mọi sự mà vẫn không ngừng là chính mình. Đó là điều tuyệt diệu của “hôn ước vĩnh cửu” – hôn ước tình yêu được Thiên Chúa thực hiện cho con người.

Lời kết
Sa mạc là nơi thanh vắng đưa ta về tìm lại vẻ đẹp nguyên sơ của chính mình (x. St 1,27). Sa mạc cho ta những khoảng lặng để lắng nghe và thổ lộ tâm tình với Chúa (x. Hs 2,16). Sa mạc mang lại những không gian trầm lắng để ta gặp gỡ và cảm nghiệm tình Chúa yêu thương. Ngôn sứ Êlia đã gặp gỡ Chúa trong khung cảnh thanh vắng của núi Khôrép (x. 1V 19,8-15). Thánh Gioan Tẩy Giả, thánh Phaolô và chính Chúa Giêsu cũng đã bắt đầu sứ vụ công khai của mình từ những ngày tĩnh lặng nơi sa mạc (x. Mt 3,1-2; Gl 1,15-17; Mt 4,1-10). Sa mạc là nơi tốt đẹp, mang nhiều vẻ đẹp – nơi mà nhiều người mong muốn có thể tìm được sức mạnh, xác định được hướng đi và đón nhận được nhiều ân sủng của Chúa cho hành trình tiếp theo của cuộc đời mình.
Sống trong một thế giới mà tiếng ồn xâm chiếm hầu như mọi không gian của cuộc sống, con người bị lôi cuốn chìm ngập trong thế giới ảo của các phương tiện truyền thông, chúng ta có còn biết trân quý những không gian tĩnh lặng và khám phá ra vẻ đẹp của những khoảng lặng trong ngày sống của chúng ta?

 

VIỆC CẦU NGUYỆN CỦA HỘI THÁNH SƠ KHAI

FM. Giuse Phan Văn Phi

Từ buổi đầu của Hội thánh sơ khai, việc cầu nguyện đã trở thành điều quan trọng nhất. Quả thật, ngay sau khi Đức Giêsu Thăng Thiên, các Tông đồ trở lại phòng Tiệc ly ở Giêrusalem, và hoạt động đầu tiên của các ngài là “đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu” (Cv 1,14).
Sách Công vụ Tông đồ cung cấp một dữ kiện lịch sử về vai trò quan trọng của việc cầu nguyện trong đời sống của các môn đệ. Trước hầu hết mọi sự kiện quan trọng, Hội thánh sơ khai luôn dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện, như trước ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống và các dịp khác nữa (x. Cv 1,23-25).
Mặc dù sách Công vụ Tông đồ chỉ có 29 lần đề cập đến sự cầu nguyện, nhưng chính cuốn sách này lại nói về việc cầu nguyện nhiều hơn bất kỳ cuốn sách nào khác trong Tân ước. Một trong những đặc điểm nổi bật của các tín hữu thời sơ khai là họ chú ý đến việc cầu nguyện. Đó chính là gương mẫu cho chúng ta nếu chúng ta muốn cải thiện đời sống của mình.

1. Chuyên cần cầu nguyện
Ðức Maria và các Tông đồ đã cầu nguyện như thế nào? Các ngài đã “đồng tâm nhất trí (concorde; ὁμοθυμαδόν) và chuyên cần cầu nguyện”. Thánh Phaolô cũng khuyên các tín hữu hãy “đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện” với nhau, ngõ hầu họ “đồng tâm nhất trí” để tôn vinh Thiên Chúa (x. Cv 1,14) và “có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa” (Rm 15,5-6).
Ở nơi khác, sách Công vụ Tông đồ ghi lại việc chuyên cần cầu nguyện của Hội thánh: “Vậy những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo. Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,41-42).
Các Tông đồ cắt đặt bảy phó tế để phục vụ việc phân phát lương thực hằng ngày cho các bà góa trong nhóm họ bị bỏ quên. Điều quan trọng mà các Tông đồ phải giao phó công việc này, bởi vì các ngài không muốn bị phân tâm khỏi ơn gọi “chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6,4).
Lời cầu nguyện của Mẹ Maria và của các Tông đồ còn cho thấy một đặc tính khác: đó là sự kiên trì. Từ ngữ kiên trì gốc Hy Lạp (proskartereo; προσκαρτερέω) diễn tả khía cạnh này của kinh nghiệm Kitô giáo, nhấn mạnh đến tính bền bỉ của hành động. Người ta có thể dịch là “những người kiên trì” cầu nguyện, hay “những người chuyên cần” cầu nguyện. Cũng có thể dịch là “bền bỉ bám chắc” vào cầu nguyện. Ðây là một từ ngữ quan trọng vì chúng được lặp đi lặp lại rất thường xuyên trong Tân ước khi nói về cầu nguyện. Nền tảng của giáo huấn này bắt nguồn từ chính Ðức Giêsu, với dụ ngôn bà góa quấy rầy (x. Lc 18,1).
Ðôi khi, sự kiên trì cầu nguyện làm nên một sự đảo ngược lạ lùng, nhất là đối với người có một đời sống thiêng liêng sâu xa và nghiêm túc, chúng ta nên biết điều này để không bỏ lỡ một cơ hội quý giá. Các vai bị đảo lộn thứ tự: Thiên Chúa trở thành kẻ cầu xin và bạn trở thành kẻ được cầu xin. Bạn bắt đầu cầu nguyện để xin một điều gì với Thiên Chúa và khi đang cầu nguyện, bạn nhận thấy rằng chính Thiên Chúa đưa tay ra và xin bạn điều gì đó. Trường hợp đảo lộn các vai trò tuyệt vời nhất, đó là Ðức Giêsu. Tại Vườn Cây Dầu, Ðức Giêsu xin Chúa Cha cất chén đắng khỏi mình. Chúa Cha đã xin Ðức Giêsu hãy uống chén đó, vì đó là điều cần phải làm để Chúa Cha có thể tìm lại được mọi người con khác.

2. Hành động qua lời cầu nguyện
Sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết rằng, sau khi bị bắt vì đã chữa lành một người què từ khi lọt lòng mẹ ở đền thờ Giêrusalem (x. Cv 3,1-10), Phêrô và Gioan được trả tự do (x. Cv 4,3) và đã đến gặp gỡ các anh em mình, tường thuật những gì đã xảy ra, sau đó, họ đồng tâm nhất trí cầu nguyện (x. Cv 4,23-24). “Họ cầu nguyện xong, thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa” (Cv 4,31). Thánh Thần là sự hiệp thông; Đấng chính là mối dây hiệp nhất trong Ba Ngôi Thiên Chúa và trong Hội thánh. Ai ở ngoài sự hiệp nhất thì không thể lãnh nhận Thánh Thần. Thánh Augustinô viết: “Linh hồn đối với thân xác chúng ta thế nào thì Chúa Thánh Thần cũng như thế đối với Nhiệm Thể của Ðức Kitô là Hội thánh.” Khi kết thúc bài giảng ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, thánh nhân thật hữu lý với những lời như sau: “Vậy, nếu các bạn muốn đón nhận Thánh Thần, thì các bạn hãy bảo toàn đức ái, mến mộ sự thật và khát khao sự hiệp nhất.”
Thái độ của các Kitô hữu tiên khởi trước sự nguy hiểm, khó khăn, đe dọa, là không cố gắng phân tích hay phản ứng, nhưng họ luôn cầu nguyện, tiếp xúc mật thiết với Thiên Chúa. Lời cầu nguyện này thể hiện đặc tính đồng tâm nhất trí của toàn thể cộng đoàn, khi phải đối diện với một hoàn cảnh bị bách hại vì Danh Đức Giêsu. Sự đồng tâm nhất trí này là yếu tố quan trọng của cộng đoàn tiên khởi, và cũng luôn luôn là điều căn bản của Hội thánh. Khi ấy, nó không những chỉ là lời cầu nguyện của thánh Phêrô và thánh Gioan nữa, nhưng còn của cả cộng đoàn, vì kinh nghiệm của hai Tông đồ không còn là của riêng các ngài nữa, nhưng là kinh nghiệm của toàn thể Hội thánh. Trong bản Hy lạp nguyên thủy, thánh Luca đã sử dụng thuật ngữ “tất cả cùng nhau; đồng tâm nhất trí” (homothumadon; ὁμοθυμαδόν), một thuật ngữ cũng xuất hiện trong các phần khác của sách Công vụ Tông đồ, để nhấn mạnh về lời cầu nguyện kiên trì và hiệp nhất này (x. Cv 1,14; 2,46).
Đối diện với cuộc bách hại vì Danh Đức Giêsu, cộng đoàn không những không sợ hãi và không bị phân mảnh, nhưng hiệp nhất một cách sâu xa trong cầu nguyện, họ hành động như một người kêu cầu cùng Chúa. Đây chính là phép lạ đầu tiên xảy ra khi các tín hữu bị thử thách vì đức tin của mình: sự hiệp nhất được gia tăng vì được hỗ trợ bằng việc chuyên cần cầu nguyện. Hội thánh trải qua những cơn bách hại, nhưng luôn tín thác vào Chúa. Họ đã không xin Thiên Chúa một sự an toàn cho sự sống trước cơn bách hại, hoặc xin Thiên Chúa trả thù những kẻ đã bắt giữ các Tông đồ, nhưng chỉ xin Thiên Chúa cho phép họ được nói lời Chúa với tất cả sự mạnh dạn (x. Cv 4,29).
Xuyên suốt sách Công vụ Tông đồ, việc cầu nguyện là một phương thế để thực hiện thánh ý Chúa. Trong mọi hoàn cảnh xảy ra, Hội thánh đã đồng tâm dâng lời cầu nguyện (x. Cv 1,14; 2,3; 8,15). Điều đáng chú ý nhất là sự hoán cải của Saolô. Trong khi Stêphanô chịu tử đạo vì đức tin, ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ mình: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60). Lời cầu nguyện trên đây của Stêphanô có lẽ bao gồm cho cả Saolô nữa, một người đang có mặt tại cuộc hành quyết đó. Sau lời cầu nguyện này là sự hoán cải của Saolô trên đường đến Đamát.
Trong khi các Tông đồ gặp thử thách, Thiên Chúa đã đáp lại những lời cầu nguyện để giải cứu các ông. Điều này chứng tỏ sức mạnh tuyệt vời của lời cầu nguyện trong việc tác động đến hoàn cảnh của các anh chị em bị bách hại vì Chúa Kitô.

Phần kết
Chúng ta biết được tầm quan trọng của việc cầu nguyện trong đời sống của các tín hữu thời sơ khai. Trong thời đại hôm nay, chúng ta không thể xem nhẹ nhu cầu tiếp tục chuyên cần cầu nguyện. So với Hội thánh sơ khai, ngày nay Hội thánh đã có trọn bộ Kinh thánh, để qua đó các thánh đã sáng tác và lưu truyền cho chúng ta các truyền thống và cách thức cầu nguyện khác nhau, rất là phong phú.
Việc cầu nguyện luôn nâng đỡ các tín hữu. Họ luôn nhận ra rằng lời cầu nguyện quan trọng như không khí họ hít thở. Nếu không cầu nguyện, đời sống tâm linh sẽ bị khô héo và chết dần, cũng như không thể coi mối tương giao nào với Thiên Chúa là khả thi nếu không có sự kết hiệp cầu nguyện thường xuyên tích cực. Mục sư Martin Luther King đã viết rằng: “Mặc dù bản thân tôi tội lỗi và bất xứng, nhưng tôi vẫn nhận được lệnh truyền của Thiên Chúa, Đấng dạy tôi cầu nguyện, và lời hứa của Người, rằng Người luôn nhân từ lắng nghe tôi, không phải vì tôi xứng đáng, nhưng vì nhờ Đức Giêsu Kitô.”

 

CẦU NGUYỆN – SỨ VỤ CỦA ĐAN SĨ

M. Phaolô Thánh Giá Bùi Văn Dư

Cầu nguyện là bản năng của con người. Văn sĩ Tertulianô đã từng nói: “Cầu nguyện là bản năng của thụ tạo: ngay cả chim chóc cũng biết cầu nguyện nữa.” Dù có tôn giáo hay không, khi gặp khó khăn, bế tắc trong cuộc sống, con người vẫn mong có một thế lực siêu nhiên đến cứu giúp; khi sống an vui, con người muốn tạ ơn trời đất, đó là niềm tin của người bình dân. Khoa khảo cổ học ngày nay đã khám phá ra những bức tranh trên vách đá trong những hang động thời tiền sử có những hình ảnh con người quỳ gối, chắp tay biểu hiện sự cầu nguyện. Vì thế, người ta cho rằng cầu nguyện có thể xuất hiện trước khi có tôn giáo. Không có tôn giáo nào là không có cầu nguyện. Cầu nguyện là nhịp sống của mỗi tôn giáo, nên nói đến tôn giáo là nói đến cầu nguyện. Nói cách khác, cầu nguyện là bản chất và là yếu tố nòng cốt của mỗi tôn giáo, và Giáo hội Công giáo cũng thế, tất cả mọi Kitô hữu đều phải cầu nguyện.
Trong Giáo hội Công giáo vẫn có những tu sĩ dành trọn cuộc đời cho việc cầu nguyện. Đó chính là các đan sĩ. Họ là những nhà chiêm niệm, những người được Đức Giáo hoàng Phaolô VI đặt cho biệt danh là “chuyên viên cầu nguyện”. Vậy Huấn quyền của Giáo hội nói gì về vai trò cầu nguyện của đan sĩ trong lòng Giáo hội?
Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta cùng tìm hiểu các văn kiện Công đồng Vaticanô II, các giáo huấn của các Đức Giáo hoàng gần đây và Thánh Bộ Đời sống Thánh hiến.

1. Cầu nguyện, yếu tố tạo nên đời tu
Cầu nguyện chiêm niệm là yếu tố cốt lõi của đời sống tu trì. Tất cả các tu sĩ đều phải lấy cầu nguyện làm trọng và thực hành cầu nguyện như nghĩa vụ thiết yếu của đời tu. Tại sao vậy? Bởi mục đích của đời tu là sống kết hiệp với Thiên Chúa như Giáo luật thiết định: “Chiêm ngắm thực tại của Thiên Chúa và kết hợp liên lỉ với Ngài phải là bổn phận hàng đầu và chính yếu của mọi tu sĩ.” Từ đó Sắc lệnh Đức Ái Hoàn Hảo viết rằng: “Hoạt động của các tu sĩ phải được xuất phát từ đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, nhờ đó, chính đức mến Chúa yêu người được triển nở.” Con đường kết hiệp ấy không gì khác hơn là cầu nguyện và chiêm niệm. Vì thế Công đồng Vaticanô II khuyên: “Các tu sĩ của các Hội dòng phải cần mẫn luyện tập tinh thần cầu nguyện và cả sự cầu nguyện, múc ở nơi nguồn mạch đích thực của nền tu đức Kitô giáo.”
Để tái khẳng định điều này và phản ứng lại những khuynh hướng đánh giá thấp việc cầu nguyện và quá đề cao khía cạnh hoạt động của các tu sĩ, Bộ Tu sĩ đã công bố hai văn kiện quan trọng về đời tu vào năm 1980: Tu Sĩ Và Việc Thăng Tiến Con Người và Chiều Kích Chiêm Niệm Của Đời Tu. Hai văn kiện này đại diện cho hai khuynh hướng cầu nguyện và hoạt động của dòng tu trong Giáo hội. Chúng không tách biệt cũng như không đối chọi, trái lại cùng nêu bật sự hỗ tương của hai chiều kích cầu nguyện và hoạt động không thể thiếu trong đời sống dâng hiến. Về khía cạnh cầu nguyện và chiêm niệm, văn kiện Chiều Kích Chiêm Niệm Của Đời Tu đã khẳng định rõ: “Trong chính bản chất của đời thánh hiến, chiêm niệm chính là cội rễ thâm sâu nuôi dưỡng và hiệp nhất tất cả mọi biểu lộ hiện hữu của các tu sĩ nam nữ.” Không dừng lại ở đó, tài liệu nhấn mạnh tiếp: “Kinh nguyện là hơi thở không thể thiếu cho mọi chiều kích chiêm niệm “trong giai đoạn canh tân Tông đồ hiện tại, cũng như trong bất cứ dấn thân hoạt động truyền giáo nào; vị thế đặc biệt phải được dành cho sự chiêm ngắm Thiên Chúa, suy niệm về chương trình cứu độ của Người và suy tư về các dấu chỉ thời đại dưới ánh sáng Phúc âm, nhờ đó việc cầu nguyện được nuôi dưỡng và tăng trưởng về phẩm chất cũng như về nhịp độ” (LH 16).
Nắm bắt được tầm quan trọng của cầu nguyện trong đời tu qua dòng lịch sử cũng như qua kinh nghiệm tâm linh và suy tư thần học, thánh Gioan Phaolô II khẳng định: “Trong truyền thống Kitô giáo, chiêm niệm luôn luôn được dành cho một vị trí nổi bật như cách diễn tả cao nhất của đời sống tâm linh và là chóp đỉnh của tiến trình cầu nguyện. Việc chiêm niệm mang một ý nghĩa tròn đầy cho đời tu, dù dưới hình thức nào đi nữa, như là kết quả của sự thánh hiến đặc biệt do việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc âm. Do hiệu năng của việc thánh hiến này, đời tu là một đời sống cầu nguyện và chiêm niệm (và không thể khác đi được), kể cả khi chiều hướng linh đạo hoặc thời khoá biểu không dành trót thời gian vào việc cầu nguyện” . Kết hợp với giáo huấn của Công đồng Vaticanô II, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết tiếp: “Vì thế Công đồng khẳng định: “Tu sĩ của bất cứ Hội dòng nào, trong lúc chỉ tìm một Thiên Chúa trên hết mọi sự, đều phải liên kết việc chiêm niệm với nhiệt tâm Tông đồ: vì nhờ chiêm niệm, họ kết hợp lòng trí với Thiên Chúa, và nhờ nhiệt tâm Tông đồ, họ tham gia công cuộc cứu chuộc và mở rộng Nước Chúa” (DT 5). Như vậy, Công đồng nhấn mạnh rằng việc chiêm niệm không chỉ đặt ra cho các Hội dòng thuần tuý chiêm niệm, mà còn cho tất cả các Hội dòng, kể cả những dòng dấn thân cho những hoạt động Tông đồ. Nhiệm vụ cầu nguyện thật là cốt yếu cho Đời sống Thánh hiến.”
Mục đích của đan sĩ là “Quarere Deum” – tìm kiếm Thiên Chúa trong cô tịch nơi sa mạc hay trên rừng vắng. Trong sự cô tịch ấy, người đan sĩ không phải dành thời gian để ngủ, để né tránh sự đời hay tìm sự an nhàn cho bản thân mà là để cầu nguyện và chiêm niệm tìm kiếm Thiên Chúa. Có lẽ vì muốn cuộc đời đan sĩ được bao bọc bởi cầu nguyện nên thánh Biển Đức đã dành phần lớn Tu luật 12 chương trong 73 chương (8-20) để nói về cầu nguyện (thần vụ). Ngài đã hiện thực hoá mệnh lệnh của Tân ước “hãy cầu nguyện không ngừng”, hay “cầu nguyện liên lỉ” (1Tx 5,17; x. Lc 21,36) bằng việc thiết kế chương trình sống của đan sĩ dựa trên việc đọc Sách Thánh và tám giờ kinh phân bố đều theo từng khoảnh khắc của ngày sống (Kinh Đêm, Kinh Sáng, giờ I, giờ III, giờ VI, giờ IX, Kinh Chiều, Kinh Tối , vượt xa hơn đòi hỏi của Thánh vịnh: “Con ca tụng Chúa mỗi ngày bảy lượt” (Tv 118,164). Tám giờ kinh ấy là nguồn gốc phát triển Phụng vụ các giờ kinh mà ngày nay mọi người đang sử dụng.
Như thế, Đời sống Thánh hiến luôn gắn liền với cầu nguyện và chiêm niệm. Không có cầu nguyện sẽ không có đời tu. Nhưng khác với các dòng hoạt động, các dòng chiêm niệm vẫn được Công đồng Vaticanô II đánh giá là những Hội dòng “giữ một địa vị cao quý trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, trong đó, mỗi chi thể đều có một tác động khác nhau” (x. Rm 12,4). Vậy “địa vị” ấy là gì?

2. Đan sĩ, hình ảnh Chúa Giêsu cầu nguyện
Tiền thân của Kitô giáo là Do thái giáo, một tôn giáo đề cao về cầu nguyện. Các tín đồ Do thái giáo dành rất nhiều thời gian cho cầu nguyện, đặc biệt trong ngày Sabat. Chúa Giêsu được sinh ra trong bối cảnh văn hoá và tôn giáo này, nên Người cũng thừa hưởng gia sản cầu nguyện từ nền giáo dục của Do thái giáo, một nền giáo dục tôn giáo coi cầu nguyện như là nhịp thở của đời sống. Tin mừng đã ghi nhận nhiều lần Chúa Giêsu cầu nguyện. Người đã cầu nguyện trong từng biến cố và mọi phút giây của cuộc sống. Khi tràn đầy Thánh Thần thì Người cầu nguyện: “Lạy Cha, con tạ ơn Cha”; khi cần gặp Chúa Cha, Người lui vào nơi hoang vắng để cầu nguyện; khi chọn các Tông đồ, Người cầu nguyện suốt đêm; khi lo sợ, Người lặng lẽ một mình cầu nguyện trong vườn Cây Dầu.
Đời sống của tu sĩ nói chung và của đan sĩ nói riêng được mời gọi là trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế Ánh sáng Muôn dân đã khẳng định: “Bậc sống tu trì bắt chước chính xác hơn và thực hiện liên tục trong Giáo hội nếp sống mà Con Thiên Chúa đã chấp nhận khi Người xuống thế để thi hành thánh ý Chúa Cha và cũng là nếp sống mà Người đã đề ra cho các môn đệ theo Người”. Tiếp nối tư tưởng “đồng hình đồng dạnh với Đức Kitô” của Công đồng Vaticanô II, Tông huấn Đời sống Thánh hiến đã khai triển và làm nổi bật mục đích của tu sĩ là trở nên hình ảnh sống động của Đức Kitô. Tông huấn trình bày tiếp: “Quả thế, qua việc tuân giữ các lời khuyên Phúc âm, người được thánh hiến không chỉ bằng lòng với việc đã chọn Đức Kitô làm ý nghĩa đời mình, nhưng còn tìm cách diễn lại nơi chính mình, trong mức độ có thể, “nếp sống Con Thiên Chúa đã sống khi xuống thế làm người.” Nếp sống ấy không phải tự tu sĩ phát kiến mà là nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy và lời mời gọi thiết tha của Chúa Giêsu, như Tông huấn trình bày: “Nhờ Thánh Thần thúc đẩy, đời thánh hiến “họa lại cách chính xác và thực hiện liên tục trong Giáo hội” lối sống mà Đức Giêsu, Đấng đầu tiên được Chúa Cha thánh hiến và sai đi phục vụ Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu mời các môn đệ đi theo Người cũng sống như Người đã sống (x. Mt 4,18-22; Mc 1,16-20; Lc 5,10-11; Ga 15,16).
Điều này đã được thánh Phaolô sống và cảm nghiệm trong chính con người của Ngài: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Hoặc: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2Cr 4,10).
Việc trở nên giống Đức Kitô không dựa trên cảm tính hay những yếu tố bên ngoài mà là sự thay đổi tận căn của con người tu sĩ. Do đó, Tông huấn Đời sống Thánh hiến nêu rõ: “Trong Đời sống Thánh hiến, vấn đề không phải chỉ là theo Chúa Kitô với con tim, bằng cách yêu mến Người hơn cha mẹ mình, hơn con trai hay con gái mình (x. Mt 10,37), như mỗi môn đệ đều phải làm, nhưng còn là sống và diễn tả điều đó bằng việc biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô.” Như thế, đời sống tu sĩ hoạ lại hình ảnh Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, không ai có thể trở nên trọn vẹn hình ảnh của Đức Giêsu, có chăng chỉ có thể làm nổi bật được một khía cạnh nào về Người. Nói cách khác, mỗi ơn gọi tu trì là một bông hoa trong khu vườn Giáo hội – thân thể của Đức Kitô. Mỗi bông hoa ấy biểu lộ một khía cạnh nào đó về con người của Chúa Giêsu. Điều này được Hiến chế Tín lý về Giáo hội xác định: “Các tu sĩ … qua chính con người của họ, ngày càng thực sự giới thiệu Đức Kitô cách hoàn hảo hơn cho các tín hữu cũng như cho lương dân, hoặc là Đức Ki-tô đang chiêm niệm trên núi, hoặc đang loan báo Nước Thiên Chúa cho dân chúng, đang chữa lành những kẻ đau yếu tàn tật, hay hoán cải các tội nhân trở lại với cuộc sống thiện hảo, hoặc đang chúc phúc cho trẻ em, thi ân cho mọi người, và trong mọi sự luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Người đến.”
Giáo hội đã chân nhận đời sống đan sĩ trong khía cạnh “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô” khi Người cầu nguyện trên núi. Tông huấn Đời sống Thánh hiến xác định: “Các dòng hoàn toàn sống đời chiêm niệm, gồm những người nữ hoặc nam, là một lý do hãnh diện cho Giáo hội và một nguồn mạch đưa lại những ân sủng thiên quốc. Nhờ nếp sống và sứ mạng của họ, những phần tử thuộc các dòng ấy bắt chước Đức Ki-tô cầu nguyện trên núi” . Trong số 14 của Tông huấn cũng viết: “Có cả một truyền thống thiêng liêng cổ xưa… truyền thống nối kết đời sống chiêm niệm với việc Đức Giêsu cầu nguyện ở trên núi” . Đặc biệt, Tông huấn xác quyết rằng: “Các tu sĩ nam nữ hoàn toàn hiến mình cho đời sống chiêm niệm là hình ảnh đặc biệt của Đức Kitô cầu nguyện trên núi.”
Về khía cạnh lịch sử, ý tưởng trở nên giống Chúa Giêsu cầu nguyện trên núi đã xuất hiện và lưu truyền từ xa xưa nơi các linh phụ sa mạc, chẳng hạn như Gioan Cassianô viết: “Người một mình tới chỗ thanh vắng trên núi để cầu nguyện, Người làm gương đi tới chỗ thanh vắng cho chúng ta để chúng ta cũng đi tới chỗ thanh vắng.” Thánh Giêrônimô khuyên các môn đệ của mình: “Hãy tìm Đức Giêsu nơi thanh vắng và hãy một mình với Người trên núi.”
Như thế, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu cầu nguyện trên núi là khuôn mẫu mà đan sĩ cần đạt đến. Càng cầu nguyện, đan sĩ càng kín múc nguồn mạch sự sống và càng làm sáng lên gương mặt của Đức Giêsu đang cầu nguyện ở mọi nơi mọi lúc: trên đường rao giảng, trên núi Tabor, trong nhà Tiệc ly hay ở vườn Cây Dầu. Ơn gọi làm đan sĩ là cầu nguyện và cầu nguyện mới làm nên đan sĩ.

3. Cầu nguyện, sứ vụ của đan sĩ
Như đã trình bày ở trên, ơn gọi đan sĩ là trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Điều này gợi cho chúng ta nhớ đến một nhân vật rất đặc biệt trong Cựu ước, đó là Môsê, ông đã cầu nguyện trên núi trong khi dân Israel giao tranh với quân Amaléc. Chính nhờ sự cầu nguyện của ông mà dân Israel chiến thắng quân thù. Kinh thánh ghi lại: “Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế. Bấy giờ tay ông Môsê mỏi mệt, người ta liền khiêng tảng đá kê cho ông ngồi, còn ông Aaron và ông Hur thì nâng đỡ hai tay ông” (Xh 17,12).
Hình ảnh này thật phù hợp để diễn tả sứ vụ của đan sĩ trong tiến trình trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Môsê tượng trưng cho đan sĩ; quân Israel đang giao chiến tượng trưng cho nhân loại đang lữ hành trên dương thế. Môsê giơ tay cầu nguyện thì dân Israel chiến thắng; đan sĩ cầu nguyện sẽ mang lại những nguồn mạch ơn phúc vô biên cho Giáo hội và toàn thế giới. Đó là điều mà Công đồng Vaticanô II đã tuyên dương: “Định chế của đời đan tu qua bao thế kỷ đã tạo được nhiều công nghiệp hiển hách cho Giáo hội và cộng đồng nhân loại.” Như thế, cầu nguyện là sứ vụ cao quý mà đan sĩ góp phần vào gia tài của Giáo hội: “Những người được kêu gọi để chuyên về đời sống chiêm niệm được nhìn nhận như một trong những kho tàng quý báu nhất của Giáo hội.”
Đời sống cầu nguyện thật tuyệt vời, một đời sống ở gần bên Chúa, ngồi bên chân Chúa để lắng nghe như cô Maria đã từng làm, để dâng lên Chúa lời ca tụng và tôn thờ Ngài với cả thân xác lẫn con tim không chia sẻ. Đó là lí do đời sống đan tu được đánh giá cao vì đan sĩ mang trong mình những “nén bạc” cầu nguyện, dành trọn cuộc đời để thờ phượng Thiên Chúa trong từng giây phút của cuộc sống, tất cả cho Thiên Chúa, trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa. Khía cạnh này được thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II diễn tả: “Nhờ một đoàn sủng đặc biệt, họ (các đan sĩ) “đã chọn phần tốt hơn” (x. Lc 10,42), phần cầu nguyện, thinh lặng chiêm niệm, tình yêu dành hẳn cho Thiên Chúa và hoàn toàn hiến thân phụng sự Người… Giáo hội rất mong đợi nơi họ sự đóng góp thiêng liêng này.” Nơi khác Ngài khẳng định: “Chúng ta biết rằng ngày nay cũng như trong quá khứ, có những Hội dòng “hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm” (DT 7). Họ giữ một chỗ đứng riêng trong đời sống Giáo hội, dù ý thức “sự khẩn thiết của hoạt động Tông đồ” trong thế giới hôm nay. Đó là sự nhìn nhận cách cụ thể lời của Chúa Kitô nói đến điều “cần thiết duy nhất”… mà Maria đã chọn.” Hình ảnh Maria trở nên biểu tượng cho người đan sĩ ngồi bên chân Chúa.
Từ những trình bày trên giúp chúng ta hiểu rằng, cầu nguyện giữ một vai trò quan trọng của đan sĩ. Đó là lí do Công đồng Vaticanô II đã quyết định giữ nguyên sứ vụ cầu nguyện đặc biệt này của đan sĩ và coi đó là địa vị cao quý trong nhiệm thể của Chúa Kitô mà các đan sĩ nắm giữ và phải duy trì. Trong số 7 của Sắc lệnh Đức Ái Hoàn Hảo, Công đồng Vaticanô II quả quyết: “Trong những Hội dòng hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm, các tu sĩ chỉ nhất tâm phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch và lặng lẽ, trong việc chuyên lo cầu nguyện và hân hoan hãm mình, thì cho dù nhu cầu hoạt động Tông đồ có khẩn thiết đi nữa, những Hội dòng ấy vẫn luôn giữ một địa vị cao quí trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, trong đó, “mỗi chi thể đều có một tác động khác nhau” (Rm 12,4). Thực vậy, họ dâng lên Thiên Chúa hy lễ chúc tụng tuyệt hảo, làm vẻ vang dân Thiên Chúa bằng những hoa trái thánh thiện dồi dào, lấy gương lành lôi cuốn và làm cho dân ấy thêm lớn mạnh bằng việc Tông đồ tuy âm thầm nhưng phong phú. Như thế, họ là vinh dự của Giáo hội và là mạch tuôn trào các ơn thiêng.”
Không còn lời nào đẹp hơn và có thể tóm kết trọn vẹn về đời sống của đan sĩ như những lời này của Công đồng. Giáo hội đã gọi các đan sĩ là vinh dự của mình và là mạch tuôn trào các ơn thiêng. Các đan sĩ sống đời cầu nguyện âm thầm, lặng lẽ chìm sâu vào cuộc gặp gỡ với Chúa trong từng giây phút của cuộc đời. Gặp gỡ Thiên Chúa, gắn kết với Người, tôn thờ Người, chuyển cầu cho toàn nhân thế và dâng hiến trọn vẹn xác hồn cho Thiên Chúa như của lễ tinh tuyền, đó là những hoạt động để đan sĩ trở thành mạch tuôn trào các ơn thiêng. Trong số 9 của Sắc lệnh này, Công đồng Vaticanô II tái khẳng định rõ hơn: “Nhiệm vụ của các đan sĩ là dâng lên Thiên Chúa uy nghi việc phục vụ khiêm tốn nhưng cao quý trong phạm vi đan viện, hoặc hoàn toàn hiến thân phụng thờ Thiên Chúa trong đời sống ẩn dật.” Đây là quan điểm của huấn quyền về đời sống đan tu, sau này, tất cả các tài liệu đều dựa vào đó để trích dẫn cho những suy tư về ơn gọi chiêm niệm.
Không phải vì sự nhiệm nhặt hay vì tuổi đời của nếp sống đan tu đã có từ thế kỷ thứ IV mà Giáo hội xem trọng ơn gọi chiêm niệm, nhưng là bởi đời sống cầu nguyện của đan sĩ. Đời sống này đã tham gia vào một trong hai đặc tính của Giáo hội, đó là đặc tính chiêm niệm. “Thực vậy, do tự bản chất, Giáo hội mang đặc tính “vừa nhiệt thành trong hoạt động, lại vừa hiến mình cho chiêm niệm đến độ trong đó yếu tố nhân loại quy hướng và lệ thuộc vào yếu tố thần linh, thực tại hữu hình quy hướng về thực tại vô hình, hoạt động hướng về chiêm niệm” . Vì tầm quan trọng và sự thiết yếu của khía cạnh cầu nguyện trong ơn gọi làm đan sĩ, nên thánh Gioan Phaolô II đã không tiếc lời ca ngợi: “Giáo hội cần sự cầu nguyện của những nhà chiêm niệm để được lớn lên trong sự kết hiệp với Đức Kitô và lãnh nhận những ân sủng cần thiết cho việc bành trướng trong thế giới. Vì thế những nhà chiêm niệm, những đan sĩ và các đan viện kín cũng là những chứng nhân cho sự ưu tiên mà Giáo hội dành cho cầu nguyện, và là những chứng nhân về sự trung thành mà Giáo hội muốn gìn giữ câu trả lời của Đức Giêsu dành cho Marta về “phần tốt nhất” mà Maria đã chọn.” Như thế, cầu nguyện không chỉ là con đường kết hiệp với Thiên Chúa mà còn là một chứng tá có sức mạnh truyền giáo lớn lao.

4. Cầu nguyện, con đường truyền giáo của đan sĩ
Khi nói về truyền giáo nhiều người thường nghĩ đến các tu sĩ dòng hoạt động hay những linh mục quản xứ nhiều hơn là các đan sĩ sống trong nội vi đan viện. Tuy nhiên, ít ai biết rằng sức mạnh của việc truyền giáo lại bắt nguồn từ đời sống cầu nguyện, một hoạt động chiếm vị trí số một của đời đan sĩ. Thực vậy, Công đồng Vaticanô II nhìn nhận: “Các đan sĩ dâng lên Thiên Chúa hy lễ chúc tụng tuyệt hảo, làm vẻ vang dân Thiên Chúa bằng những hoa trái thánh thiện dồi dào, lấy gương lành lôi cuốn và làm cho dân ấy thêm lớn mạnh bằng việc Tông đồ tuy âm thầm nhưng phong phú.” Giáo hội đã thiết định yếu tố này bằng khoản Giáo luật số 673: “Việc Tông đồ của mọi tu sĩ trước hết hệ tại ở chứng tá Đời sống Thánh hiến của họ mà họ có bổn phận phải gìn giữ bằng lời cầu nguyện và bằng việc sám hối.”
Trong ý hướng đó, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã giải thích: “Nên lưu ý rằng những Hội dòng chiêm niệm trong Giáo hội có một chức năng Tông đồ. Thật vậy, cầu nguyện là một việc phục vụ Giáo hội và các linh hồn. Cầu nguyện phát sinh “những hoa trái thánh thiện dồi dào” (DT 7) và mang lại cho Dân Chúa “một thứ phong phú Tông đồ huyền diệu” (DT 7). Trên thực tế, chúng ta biết rằng những nhà chiêm niệm cầu nguyện và sống cho Giáo hội, và nhờ họ mà Giáo hội nhận được những ân huệ và giúp đỡ cần thiết để đứng vững và bành trướng, còn hơn là kết quả đạt được nhờ hoạt động.”
Cha Tổ phụ Henri Denis Biển Đức Thuận đã cảm thấu được sự hữu hiệu và giá trị cao quý của việc truyền giáo bằng đời sống âm thầm cầu nguyện. Mặc dù, ngài được đào tạo trong ơn gọi truyền giáo thuộc Hội Thừa Sai Paris (Missions étrangères de Paris – MEP), đã có nhiều kinh nghiệm trong những năm làm mục vụ, và đạt được nhiều kết quả nhưng ngài nhận thấy cầu nguyện mới là việc truyền giáo đích thực và hữu hiệu hơn. Đó là lý do ngài xin Đức cha Allys cho phép lập một dòng nam chiêm niệm để cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, cho những người chưa nhận biết Chúa. Dòng đã ra đời với tên Đức Bà An Nam. Đây là tiền thân của Hội dòng Xitô Thánh Gia ngày nay.
Cha Tổ phụ muốn đan sĩ rao giảng lời Chúa bằng hành động chứ không bằng lời nói, bằng cuộc sống chứ không phải bằng lý thuyết, bằng gương lành chứ không bằng những lời sáo rỗng, như câu ngạn ngữ La tinh có câu: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Thật vậy, càng trở nên giống Chúa Giêsu, sức lôi cuốn và việc truyền giáo của đan sĩ càng trở nên mạnh mẽ. Tông huấn Đời sống Thánh hiến minh định như sau: “Trong cô tịch và thinh lặng, bằng việc lắng nghe Lời Thiên Chúa, cử hành phụng vụ, khổ chế cá nhân, kinh nguyện, hãm mình và hiệp thông vào tình yêu huynh đệ, họ hướng toàn thể đời sống và toàn thể sinh hoạt vào việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Như thế họ cống hiến cho cộng đồng Giáo hội một chứng tá độc đáo về tình yêu của Giáo hội dành cho Chúa, và góp phần với sức phong nhiêu Tông đồ huyền diệu vào sự tăng trưởng của Dân Thiên Chúa.”
Trong Tông huấn Chứng Tá Phúc âm (Evangelica testificatio), thánh Phaolô VI đã khuyến khích và đề cao nếp sống đan tu. Ngài chỉ cho đan sĩ thấy con đường kết hiệp với Thiên Chúa bằng cách trung thành với đoàn sủng cầu nguyện, Ngài kết luận: “Như thế các con sẽ cộng tác vào việc mở rộng Nước Thiên Chúa nhờ chứng tá của đời sống chúng con và nhờ việc Tông đồ tuy âm thầm nhưng phong phú.”
Sứ vụ truyền giáo của người đan sĩ bằng cầu nguyện được Bộ tu sĩ gọi là Mầu nhiệm Tông đồ của các Hội dòng chiêm niệm. Mầu nhiệm Tông đồ này được diễn tả bằng đời sống chứng nhân của người đan sĩ, thật giống với lời của thánh Phaolô VI: “Con người ngày này tin vào chứng nhân hơn là thầy dạy, nếu họ tin vào thấy dạy thì thầy dạy chính là chứng nhân.” Tài liệu của Bộ tu sĩ viết: “Đời sống của các Hội dòng này, một cách thức chuyên biệt để sống và diễn tả mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô, là chết để được sống” (Venite seorsum I), chính là một mầu nhiệm đặc biệt của ơn thánh, diễn tả diện mạo thánh thiện nhất của Giáo hội, “cộng đoàn cầu nguyện” đã cùng với Đấng Lang Quân mình là Đức Giêsu Kitô chịu sát tế vì tình yêu, vì vinh quang Chúa Cha và vì ơn cứu độ của thế giới. Do đó, đời sống chiêm niệm của họ trước hết và căn bản là một việc Tông đồ, bởi vì đó là lối sống thuộc về Giáo hội điển hình và đặc sắc nhất, để sống trong Giáo hội, để thể hiện sự hiệp thông với Giáo hội, và để chu toàn sứ mạng của Giáo hội.”
Trong Tông huấn Giáo hội Tại Á châu (Ecclesia in Asia), thánh Gioan Phaolô II đã đánh giá cao đời sống đan tu trong bối cảnh của Giáo hội tại Á châu. Ngài thấy sứ mạng truyền giáo bằng đời sống cầu nguyện nơi các đan sĩ rất am hợp với tâm thức người Á châu, vốn trân quý sự thinh lặng, khát vọng đời sống tâm linh: “Trong nhiều truyền thống tôn giáo tại Á châu, những người nam nữ hiến mình trong đời sống chiêm niệm và khổ tu, rất được kính trọng, và chứng tá của họ có một khả năng thuyết phục đặc biệt. Cuộc đời của họ sống trong cộng đoàn, qua một chứng tá thầm lặng và an bình, có thể gợi hứng cho con người tạo nên một cuộc sống hòa hợp hơn trong xã hội… Gương âm thầm của họ về sự nghèo khó và bỏ mình, về sự khiết tịnh và chân thành, về sự từ bỏ mình trong vâng phục, có thể trở nên một chứng tá hùng hồn có khả năng đánh động mọi người thiện chí và đưa tới một đối thoại mang lại kết quả với các nền văn hóa và tôn giáo xung quanh, và với người nghèo cùng với kẻ không thể tự vệ. Điều đó làm cho Đời sống Thánh hiến trở nên một phương tiện đặc biệt để rao giảng Tin mừng cho hữu hiệu.”
Chứng tá hùng hồn trong hành trình truyền giáo bằng đời sống cầu nguyện của Giáo hội không xuất phát từ những tính toán trên bàn giấy, mà là sự đúc kết từ thực tế qua kinh nghiệm ngàn năm của các dòng chiêm niệm. Điển hình là thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, một mẫu gương về truyền giáo bằng đời sống cầu nguyện mà Giáo hội không ngừng nhắc đến trong những thập kỉ gần đây và được phong là bổn mạng các xứ truyền giáo. Thánh Gioan Phaolô II đã lấy thánh nữ làm bằng chứng cho đời sống truyền giáo bằng đời sống cầu nguyện chiêm niệm: “Chúng ta có thể kết thúc bài giáo lý cách đẹp đẽ với việc nhớ đến thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Bằng cầu nguyện và hy sinh, thánh nữ đã phục vụ cho công cuộc rao giảng Tin mừng, tương đương và có lẽ còn hơn là nếu như người dấn thân cho hoạt động truyền giáo. Thánh nữ đã được tuyên phong là bổn mạng của các vùng Truyền giáo. Điều này cho thấy rõ tầm quan trọng cơ yếu của các Hội dòng sống đời chiêm niệm, và nhắc nhở tất cả các Dòng tận hiến, kể cả những dòng đang hăng say với việc Tông đồ dưới mọi hình thức, rằng những công tác – dù lành thánh nhất và đem lại phúc lộc cho tha nhân đến đâu đi nữa – cũng không bao giờ được miễn cầu nguyện, là món quà của con tim, tâm trí và trót cuộc đời cho Thiên Chúa.”

Kết luận
Qua những gì trình bày trên đây, chúng ta có thể phần nào hiểu được sứ vụ cầu nguyện của đan sĩ trong lòng Giáo hội và lời khẳng định của Tông huấn về Đời sống Thánh hiến: “Đời đan tu là một nét chính yếu của Giáo hội.” Cả cuộc đời đan sĩ thánh hiến cho Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện và hoan hỷ hy sinh. Cầu nguyện là yếu tố sống còn của đan sĩ như lời Công đồng Vaticanô II: “Kinh nguyện là hơi thở không thể thiếu cho mọi chiều kích chiêm niệm.” Giáo luật cũng đã thiết định trách nhiệm của người tu sĩ nói chung và đan sĩ nói riêng về việc cầu nguyện: “Các giáo sĩ buộc phải cử hành phụng vụ các giờ kinh, chiếu theo quy tắc của điều 276 §2,3°, còn thành viên của các tu Hội thánh hiến cũng như của các tu đoàn Tông đồ buộc phải cử hành phụng vụ các giờ kinh chiếu theo quy tắc của hiến pháp.” Để kết thúc bài viết, chúng ta cùng đọc lại lời khuyên nhủ của thánh Gioan Phaolô II nói vào ngày 24.11.1978: “Nhà của chúng con trước hết phải là những trung tâm cầu nguyện, hồi tâm và đối thoại – cá nhân và nhất là cộng đoàn – với Đấng luôn phải là người đàm thoại chính yếu và trên hết trong mọi diễn tiến của một ngày sống rất bận rộn của chúng con. Nếu chúng con biết nuôi dưỡng bầu khí kết hiệp mật thiết và yêu thương với Thiên Chúa, chúng con có thể tiếp tục công cuộc canh tân đời sống và kỷ luật mà Công đồng Vaticanô II mong muốn chúng con nỗ lực thực hiện, mà không sợ rơi vào tình trạng căng thẳng, kiệt sức hay những phân tán nguy hiểm.”

KÝ HIỆU VIẾT TẮT

DT: Sắc lệnh về canh tân thích nghi Dòng tu (Perfectae caritatis)
PV: Hiến chế về phụng vụ (Sacrosanctum concilium)
GH: Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium)
CN: Chiều kích chiêm niệm của đời tu
CT: Tông huấn Chứng tá Phúc âm (Evangelica testificatio)
GL: Bộ Giáo Luật
HL: Những chỉ dẫn về việc huấn luyện trong các Dòng tu (Potissimum institutioni)
LH: Các liên hệ hỗ tương giữa Giám mục và các tu sĩ trong Giáo hội (Mutuae relationes)
TH: Tông huấn hậu thượng hội đồng Giám mục về đời thánh hiến (Vita Consecrata)
YT: Những yếu tố cốt yếu của đời tu
EA: Tông huấn Giáo hội tại Á châu (Ecclesia in Asia)

 

NGUYỆN GẪM ĐAN TU

Ánh nhìn của cha Tổ Phụ qua lời giáo huấn, số 119 và 120

Duyên Thập Tự

Đan viện Phước Sơn – Dòng Đức Bà An nam – được cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận thành lập vào ngày 15 tháng 8 năm 1918 với một định hướng rõ ràng, đó là một cộng đoàn đan tu “chuyên về chiêm niệm”. Điều này khẳng định cuộc sống của các đan sĩ xoay quanh việc “sống kết hiệp với Chúa” và “chiêm ngắm Thiên Chúa”. Đó cũng là tuyên ngôn trang trọng của Hội dòng Xitô Thánh Gia.
Để có thể kết hiệp với Chúa, những phương thế được các đan sĩ trong Giáo hội, từ những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo cho đến ngày nay sử dụng, đó là việc suy niệm hay nguyện gẫm. Đây là một phương tiện “tối cần” để vừa làm phong nhiêu đời sống nội tâm, vừa có một cuộc đời ý nghĩa và nhất là để sống kết hiệp với Chúa.
Để dẫn đưa các đan sĩ đi vào kho tàng phong phú của đời sống nội tâm, phần đông các môn sinh thời ngài thành lập cộng đoàn là những người “nhà quê” rất ít kiến thức về đời sống thiêng liêng, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã chỉ dạy họ – và chúng ta – qua những lời giáo huấn của ngài. Trong lời giáo huấn 119 và 120, vấn đề nguyện gẫm, được đề cập tới một cách vắn gọn, nhưng cũng lột tả được những điểm chính yếu và những thực hành cụ thể.
Nhân dịp nội san Hạt Giống Chiêm Niệm số 32 chuyên đề về “Cầu nguyện đan tu”, chúng ta cùng đọc lại và suy nghĩ về hai giáo huấn trên của cha Tổ Phụ về nguyện gẫm, với hy vọng chúng ta thêm ý thức về hoạt động thiêng liêng này và làm sống động thực hành để mang lại nhiều lợi ích cho đời đan tu chiêm niệm của chúng ta.

1. Một thắc mắc và cũng là một phê bình
Sau Công đồng Vaticanô II cho đến nay, việc tiếp cận với Lời Chúa được đề cao trong Giáo hội. Và trong thời gian gần đây, “lectio divina” được thực hiện rộng rãi hơn tại Việt Nam. Có một nhận định rằng lectio divina quan trọng hơn việc nguyện gẫm. Đúng thôi! Và từ nhận định đó, có “đấng bậc” nào đó đã đưa ra một nhận xét phê bình rằng cha Biển Đức Thuận đã coi trọng việc suy niệm hơn là lectio divina.
Ở đây, tôi không muốn biện hộ cha Tổ Phụ hoặc phản biện nhận xét trên, vì không phải mục đích của bài viết này. Nhưng tôi muốn làm rõ một chút sự việc khi quay lại thời điểm mà cha Biển Đức Thuận lập dòng và thời gian sau đó.
Như chúng ta biết, Lời Chúa thật quan trọng trong đời sống Kitô hữu, trong sinh hoạt Giáo hội cũng như trong các cử hành phụng vụ. Nên chúng ta cũng phải nhận định rằng, Lời Chúa và việc đọc, suy niệm Lời Chúa như bị quên lãng một thời gian dài ngay trong lòng Giáo hội Công giáo. Chỉ trong các tu viện, đặc biệt đan viện và hàng giáo sĩ mới tiếp cận Lời Chúa. Đại đa số giáo dân và ngay cả một số bộ phận các tu sĩ chỉ thực hành những việc đạo đức như kinh nguyện và việc suy niệm (nguyện gẫm). Nhưng việc nguyện gẫm này không dựa trên Lời Chúa mà nhấn mạnh đến tâm tình, cảm xúc và trải nghiệm thiêng liêng. Trong khi đó, Lời Chúa đối với anh em Tin Lành lại là nguồn duy nhất “sola Scriptura” (chỉ Kinh thánh mà thôi). Việc trở về nguồn Lời Chúa được nhấn mạnh trong Công đồng Vaticanô II, và từ đó Lời Chúa hiện diện một cách “hữu hình” trong mọi sinh hoạt của Giáo hội, ngay cả trong những nghiên cứu các bộ môn thần học.
Trong bối cảnh như thế, cha Tổ Phụ không thể trao cho các môn sinh của mình điều mà không có hay chưa có trong sinh hoạt thiêng liêng. Vả lại, thời đó, chưa có bản dịch Lời Chúa, có chăng một vài trích đoạn được sử dụng trong các dịp cần thiết. Còn lại, tất cả đều bằng tiếng Latinh, một ngôn ngữ “đọc lên mà chẳng hiểu.” Chính vì thế, việc suy niệm hay nguyện gẫm là một sinh hoạt thiêng liêng cần thiết, quan trọng và bổ ích cho đời sống nội tâm, mà đời sống nội tâm là nền tảng của đời chiêm niệm.
Một vài nhận định trên giúp chúng ta nhận ra rằng việc suy niệm (nguyện gẫm) luôn cần thiết. Và ngày nay chúng ta được cơ may là thực hiện việc suy niệm với chính Lời Chúa. Dù thực hành Lectio divina, việc nguyện gẫm cũng không vì thế mà bị xoá bỏ, nhưng được phong phú hoá bởi chính Lời Chúa như chất liệu “đệ nhất” cho việc thực hành thiêng liêng này.
Bây giờ chúng ta trở lại với lời giáo huấn của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận.

2. Một sự đồng hóa: nguyện gẫm là cầu nguyện
Trong lời giáo huấn số 119, cha Tổ Phụ nói: “Nguyện gẫm là cầu nguyện. Khi nguyện gẫm chúng ta nói khó với Chúa, và xin ơn này ơn khác. Cho nên, sự nguyện gẫm là một cách cầu nguyện để chịu lấy ơn Chúa.”
Khẳng định trên rất quan trọng, vì đặt việc cầu nguyện trong bầu khí của sự gặp gỡ: GẶP GỠ CHÚA. Trong bầu khí gặp gỡ này, chúng ta “nói khó” với Chúa, nghĩa là thưa chuyện với Chúa, đối thoại thân tình với Thiên Chúa yêu thương của chúng ta. Đồng thời, chính trong sự tiếp xúc thân ái này mà chúng ta nhận được những ơn phúc của Thiên Chúa cho cuộc hành trình của mình.
Như vậy, nguyện gẫm không phải là một thứ “suy tư triết lý” khô khan hay một loại “thần học bàn giấy,” chẻ vấn đề như chẻ sợi tóc làm tư. Đây là không gian và thời gian của gặp gỡ và đối thoại, của “lòng kề lòng,” lắng nghe tiếng nói của nhau, những suy nghĩ và những ước muốn của nhau: của Thiên Chúa và của chúng ta. Lại nữa, trong thời khắc nguyện gẫm, tất cả con người chúng ta đều nhập cuộc để việc gặp gỡ thật sự mang tính chất vừa linh thiêng vừa hiện sinh. Và việc nguyện gẫm phải đưa đến một cuộc sống triển nở về nhiều phương diện, mà cha Tổ Phụ đề cập đến trong ba hoạt động và ba cấp độ của việc nguyện gẫm.

3. Ba hoạt động và ba cấp độ
Trong giáo huấn số 119, cha Tổ Phụ nêu lên ba hoạt động chủ yếu của các quan năng con người.
– Hoạt động thứ nhất: “Nguyện gẫm cũng là cách chúng ta được thông hiểu hơn. Đang khi chúng ta nguyện gẫm, cũng có suy xét, sau rồi mới nguyện gẫm. Cho nên chúng ta học thêm lẽ mới, và hiểu cách thế đi đàng nhân đức rõ ràng hơn.”
Đây là hoạt động của tư duy bao gồm những hành động của trí năng. Nguyện gẫm cần thiết phải có trí năng nhập cuộc. Nơi đây, những “mầu nhiệm về Thiên Chúa” hay “huyền nhiệm cuộc sống con người” cũng như “kỳ diệu thiên nhiên” như là đối tượng của nguyện gẫm. Thời gian và không gian nguyện gẫm như bao trùm tất cả những “điều huyền nhiệm” mà trí khôn nhân loại của chúng ta, cùng với ơn mặc khải của Thiên Chúa, nhập cuộc để khám phá. Chắc chắn, ký ức, sự chú tâm, hồi tưởng, cũng có chỗ đứng trong hành trình nguyện gẫm. Những “nhận thức” này mang đến những điều mới mà cha Tổ Phụ dùng từ ngữ “mới lạ” để diễn đạt. Những cái mới lạ này có mối liên kết với những gì trong quá khứ, những cái cũ, để làm thành một tổng thể những “chân lý.” Nhưng những chân lý này phải được nhập thể trong cuộc sống, mà cha Tổ Phụ diễn đạt bằng cụm từ “hiểu cách thế đi đàng nhân đức rõ ràng hơn”. Biết để sống. Đó là hoạt động thứ nhất, “hoạt động nhận thức” và cũng là lợi ích thứ nhất là “hiểu rõ hơn.”
– Hoạt động thứ hai: Cha Tổ Phụ đề cập đến hoạt động thứ hai bằng diễn tả ngắn gọn: “Khi nguyện gẫm chúng ta nói khó với Chúa, và xin ơn này ơn khác. Cho nên sự nguyện gẫm là một cách cầu nguyện để chịu lấy ơn Chúa.” Hoạt động thứ hai được đánh dấu bằng “tình yêu”, “tình cảm.” Việc đối thoại với Chúa – cuộc đối thoại thân tình – luôn mời gọi tình yêu dấn thân vào, và cùng với tình yêu là những tình cảm, ngay cả những cảm xúc, rung động. Việc nguyện gẫm là hành động gặp gỡ. Những hiểu biết trên kia đưa đến yêu. “Tri” để “mộ”. Cho nên, chúng ta cần phải huy động tất cả tâm trí mình vào cuộc nguyện gẫm, nghĩa là cuộc gặp gỡ yêu thương với Đấng Yêu Thương. Dù rằng có những giới hạn, nhưng những rung động của con tim cũng cần thiết và có giá trị. Nơi đây, thái độ “nhận lãnh” từ Thiên Chúa những phúc lộc của Người là một diễn tả tình yêu tri ân thật đẹp.
– Còn hoạt động thứ ba: hoạt động cao nhất – mà cha Tổ Phụ quả quyết là các thánh đang làm trên thiên đàng, đó là “Chiêm Ngắm”, “Chiêm Niệm” Thiên Chúa. “Sự nguyện gẫm chính là việc chúng ta phải tập cho được kết hiệp với Chúa, ấy là chính việc nguyện gẫm. Chúng ta hãy tập cho được sự ấy, vì cũng là việc các thánh đang làm trên thiên đàng, là hằng kết hiệp với Chúa luôn, hầu được kính mến Chúa không khi nào nhàm chán.”
Trong giai đoạn này, “thần trí” chúng ta vào cuộc. Thần trí là “trung tâm điểm”, là “điểm sâu thẳm”, nơi mà không thụ tạo nào có thể bước vào và ngay cả ma quỉ cũng phải dừng lại bên ngoài. Nơi kết hiệp sâu thẳm với Chúa, “cùng một thần trí” với Thiên Chúa. Việc các thánh đang làm trên thiên đàng là “hằng chiêm ngắm Thiên Chúa” “diện đối diện”, như cha Tổ Phụ đã nói ở một nơi khác. Đây là hoạt động cao nhất, thu hút, qui tụ và hiệp nhất mọi quan năng của con người. Hoạt động thứ ba của nguyện gẫm này mang lại chính là “sự kết hiệp không ngừng với Thiên Chúa” và “yêu không bao giờ nhàm chán”. Đây là trải nghiệm “không thể diễn tả được” mà những “thầy dạy đàng thiêng liêng” đề cập đến.
Như vậy, việc nguyện gẫm đưa từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, từ thấp đến cao, từ bên con người đến phía Thiên Chúa, từ việc “chúng ta đi tìm Chúa” đến việc “Chúa đi tìm chúng ta”. Ba giai đoạn, ba hoạt động trên đây dẫn đưa đến ba cấp độ mà cha Tổ Phụ đề cập trong giáo huấn số 120, mà ngài đặt tên tên là “SUY”, “NÓI” và “LẶNG.”
* Cấp độ thứ nhất: “Bậc thứ nhất là kẻ biết suy gẫm mà thôi. Bậc này suy nhiều, còn nói chuyện với Chúa thì ít lắm.” Chúng ta đã nói đến trên kia hoạt động thứ nhất của nguyện gẫm. Nơi cấp độ này, người nguyện gẫm dừng lại nơi mình, với những “kiến thức thủ đắc.” SUY mang lại hứng thú vì đạt đến “những điều mới mẻ.” Dầu vậy, nơi đây, cũng ẩn chứa nguy cơ “tự thoả mãn” về những gì mình có, đạt được. Sự kiện “nói với Chúa thì ít lắm” diễn tả tình trạng “sơ khởi” của việc nguyện gẫm. Để tránh nguy cơ đó, việc “nối mạng” với Thiên Chúa là cần thiết, nghĩa là nối tương giao qua và trong đối thoại với Thiên Chúa. Lúc này, các quan năng của con người hoạt động mạnh mẽ, và theo ngôn từ của thánh Gioan Thánh Giá, chúng chưa “đi vào đêm tối.” Dầu sao, cấp độ này đã là một thành quả, một tiến bộ, và nhờ đó, đà tiến của đời sống nội tâm, của việc nguyện gẫm được tiếp diễn.
* Cấp độ thứ hai: “Bậc thứ hai, là ưng nói chuyện với Chúa nhiều, còn suy lẽ thì ít.” Nơi cấp độ thứ hai này, trật tự đảo lộn, “Nói nhiều suy ít”. NÓI ở đây là nói chuyện với Chúa, thưa chuyện với Chúa, đối thoại với Chúa. Đó là cầu nguyện. Những kiến thức thủ đắc đã trở thành bàn đạp dẫn đến việc gặp gỡ Thiên Chúa. Trong cấp độ này, người nguyện gẫm ít dừng lại nơi mình, nhưng sống tương giao với Thiên Chúa. Nơi đây, “Ngôn Ngữ Tình Yêu” được sử dụng. Đó có thể là ngôn ngữ bên ngoài. Đó có thể là ngôn ngữ âm thanh. Nhưng đó cũng và hơn thế nữa, là nơi xuất hiện ngôn ngữ bên trong, ngôn ngữ vô thanh. Trong cấp độ này, các quan năng bước vào “đêm tối chủ động” như diễn tả của thánh Gioan Thánh Giá. Và từ cấp độ này, một giai đoạn mới mở ra mà không phải bất cứ ai cũng đạt tới hay can đảm bước vào.
* Cấp độ thứ ba: “Bậc thứ ba, là hằng ở bình an trước mặt Chúa, ít nói, một hai khi cũng nói một hai lời. Tuy không nói chi, nhưng hơn nói nhiều lắm, hằng ở bình an với Chúa lâu giờ mà không ngủ gục lo ra. Khi phải ra nhà thờ vì hết giờ, lấy làm tiếc vì phải bỏ đi.” Từ ngữ diễn tả cấp độ này là “ở bình an.” Trong cấp độ này, người nguyện gẫm – linh hồn – bị “Hớp Hồn” bởi chính Thiên Chúa. Đây là không gian và thời gian đậm thấm tính chất “LẶNG.” Tất cả các quan năng con người như bị “treo,” và tất cả đi vào “đêm dày” như diễn ngữ của thánh Gioan Thánh Giá. Trong đêm dày của giác quan, của trí năng, chỉ còn lại “đức tin mang lại bình an.” Đây là không gian và thời gian của chiêm niệm, của sự kết hiệp thân tình với Thiên Chúa. Nơi đây, không lời, không âm thanh, không tư duy, mà chỉ còn “ánh nhìn yêu thương của Thiên Chúa” và “cái liếc tình của linh hồn,” như các linh phụ Xitô diễn tả.
Như vậy, nguyện gẫm mang đến rất nhiều lợi ích cho đời sống con người, về nhiều phương diện, nhất là đời sống nội tâm và cuộc hiện sinh. Nguyện gẫm dẫn chúng ta tới đích điểm của nó, chính là sự nên thánh.

4. “Nên thánh”: điểm tới của nguyện gẫm
Những điều cha Tổ Phụ diễn tả về nguyện gẫm cho chúng ta nhận ra tầm quan trọng của hoạt động thiêng liêng “tối cần” này. Nhưng, khi đề cập đến nguyện gẫm, cha Tổ Phụ đề cập nhiều lần đến “các thánh” như một lời nhắc bảo về việc “nên thánh”: “Vậy, chúng ta phải ước ao nên thánh… Còn ước ao cho mình được nên thánh lớn trước mặt các thánh ở trên trời, thì được… Ước ao cho mình được nên thánh, thì nên lắm.”
Như vậy, việc nguyện gẫm không chỉ là một hoạt động thiêng liêng nuôi sống đời nội tâm, mà còn đóng góp rất lớn cho việc nên thánh, đến nỗi chúng ta dám quả quyết rằng đích điểm của việc nguyện gẫm là nên thánh. Thật vậy, mục đích của đan sĩ là nên thánh và mọi sinh hoạt đan tu đều nhắm đến và quy hướng về việc nên thánh. Khi nguyện gẫm, mọi quan năng được huy động để chúng ta đạt được điều mong ước. Mà điều mong ước lớn nhất và bao trùm tất cả, đó chính là nên thánh. Những giai đoạn và những cấp độ của nguyện gẫm là để giúp chúng ta uốn nắn nên “giống Chúa Giêsu,” mà nên thánh không gì khác hơn là “trở nên đồng hình đồng dạng với Đấng Tình Quân,” Đấng mình hằng yêu mến.
Hiểu như vậy, nguyện gẫm không còn là điều phải bắt buộc, một qui định ngay cả quy định của Hiến pháp; mà là một “ân phúc” Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Kết: làm sống lại ân phúc
“Cầu nguyện đan tu” là chủ đề của nội san “Hạt Giống Chiêm Niệm” cho dịp phát hành lần này. Đây là dịp tốt đẹp để mỗi chúng ta với tư cách là đan sĩ Xitô Thánh Gia và rộng hơn là mỗi Kitô hữu, ý thức hơn nữa và làm sống lại ân phúc nguyện gẫm mà truyền thống tốt lành trong Giáo hội vẫn được thực hiện. Chúng ta đã có kinh nghiệm về một cuộc sống đan tu và một đời nội tâm phong phú thế nào khi được nuôi dưỡng bởi nguyện gẫm. Và ngược lại, cũng đã trải nghiệm thế nào là một cuộc sống khô héo, không ý nghĩa về ơn gọi thánh hiến cũng như ơn gọi Kitô hữu khi mà việc nguyện gẫm – nguyện gẫm dựa trên Lời Chúa – vắng bóng trong sinh hoạt hằng ngày, hoặc làm một cách chiếu lệ, không chú tâm và thiếu tình yêu.
Nguyện gẫm như bất cứ thao tác thiêng liêng nào cũng đòi hỏi sự quyết tâm và cố gắng. Chính thái độ này giúp chúng ta đạt đến những bến bờ “không ngờ” với những “điều kỳ diệu” mà “không sao diễn đạt được.” Nhưng, cũng phải thực tế là hiện tại ở đây và lúc này – hic et nunc – là thời gian của vất vả hướng tới bến bờ hy vọng đó, như cha Tổ Phụ kết luận trong giáo huấn về nguyện gẫm: “Chúng ta hãy cố gắng mà chèo cho đến khi ra khơi, thì được gió, bớt mỏi mệt. Song, bao lâu thuyền còn trong cửa, cực nhọc hoài, vì ít khi gặp gió. Vậy, chúng ta hãy gắng mà chèo đã, chờ đến khi Chúa muốn thì sẽ được.”

 

THÁNH NỮ GERTRUDE (1256-1301)

M. Martino Phạm Thanh Toàn

Tại Hội nghị về Đấng Đáng Kính nữ đan sĩ Maria de Agreda do Học viện giáo hoàng về thánh mẫu tại Rôma tổ chức ngày 16.11.2023 , Đức Thánh cha Phanxicô nói rằng, đời sống đan tu có ba chứng tá: thinh lặng, thần bí và truyền giáo. Thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa; thần bí là tương quan mật thiết với Thiên Chúa do lắng nghe Lời Chúa; hệ quả là truyền giáo với sức mạnh của lời cầu nguyện chuyển cầu.
Bản tin trên đây trùng hợp ngẫu nhiên hay có sự quan phòng của Chúa? Đang khi Nội san HGCN số 32 với chủ đề Cầu nguyện đan tu, một trong các “cấp độ” của đời sống cầu nguyện chính là thần bí – kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, Đức Thánh cha Phanxicô như là “tiếp sức cho gió” khi nhắc đến đặc tính thần bí trong cầu nguyện đan tu. Vậy để tìm được một tác giả phù hợp cho chủ đề, không ai khác hơn chính là thánh nữ đan sĩ Gertrude, một tác giả thần bí của dòng Xitô chúng ta, mừng kính ngày 16.11 hằng năm.
Dưới đây xin lược dịch bài viết của tác giả Pierre Doyère về thánh nữ Gertrude.

1. Đời sống thánh nữ Gertrude
Thánh nữ sinh ngày 6 tháng giêng năm 1256. Ngài được gia nhập nữ đan viện Helfta lúc mới 5 tuổi, nhưng chúng ta không biết gì về gia đình, nơi sinh cũng như hoàn cảnh vào dòng của thánh nữ. Những người đương thời dường như cũng không biết gì hơn. Biên niên sử của đan viện có ghi đầy đủ họ tên của các nữ đan sĩ khi nhập dòng, bởi lẽ đan viện được thành lập năm 1229 dường như cũng thuộc hàng “danh giá”, theo nghĩa thuộc về số những “đan viện sang trọng” thuộc tầng lớp quý tộc theo chế độ cổ xưa, và vì thế đan viện được một số gia đình khá giả trong vùng bảo trợ. Trái lại, với thánh nữ Gertrude, không một minh họa nào về gia đình của ngài được ghi chép, tuy nhiên có nhiều chỗ trong các bản văn chống lại sự im lặng này, chắc hẳn với ý định tâm linh, nhưng những người đương thời không biết gì về ngài.
Một vấn đề lịch sử khác cũng được đặt ra đối với thánh nữ Gertrude: đó là thánh nữ thuộc dòng Biển Đức hay Xitô? Ở đây không nên tìm xem thánh nữ thuộc dòng nào. Việc thành lập nhà trong đan tu, nhất là đối với ngành nữ, tự bản chất không có tính tập trung. Trong tư tưởng các người thủ cựu như xã hội tại Đức ở thế kỷ XIII, đan viện của miền Mansfeld, trong đó các nữ đan sĩ xuất thân từ các Sơ áo xám Halberstadt, lại giữ Tu Luật thánh Biển Đức cách độc lập, mà vẫn theo tinh thần mới của Xitô thời đó, nhưng lại không cam kết pháp lý với dòng Xitô.
Vào dòng lúc 5 tuổi, thánh nữ Gertrude cùng với các bạn cùng lớp đã nhận được một nền giáo dục rất chu đáo từ nữ đan sĩ Mechtilde de Heckeborn, là em của viện mẫu. Ngài có trí thông minh rất sắc sảo, nói năng lợi khẩu và được mọi người thương mến. Đặc biệt thánh nữ rất say mê học hành.
Khi được 25 tuổi, thánh nữ khám phá ra đời sống thần bí, ngang qua một thị kiến dẫn đường, vào ngày 27.01.1281 sau Giờ Kinh Tối. Cuộc sống của thánh nữ không có gì nổi bật ngoài những diễn tiến của đời sống nội tâm. Thánh nữ làm công việc sao chép các thủ bản trong phòng học của đan viện. Sức khỏe không được tốt đã ngăn trở ngài phần nào, nhất là vào cuối đời, đã phải rời phụng vụ trong ca tòa, dù ngài là ca phó bên cạnh thánh nữ Mechtilde de Heckborn. Vị thánh nữ này cũng được ơn thần bí và các khải thị. Hai vị này trao đổi cho nhau những bí nhiệm và tên tuổi của họ không thể tách rời trong lịch sử linh đạo. Mechtilde qua đời năm 1298 khi 57 tuổi và thánh nữ Gertrude qua đời ngày 17.11.1302 (1301) hưởng dương 45 tuổi.

2. Các tác phẩm
Các tác phẩm của thánh nữ Gertrude đều được soạn thảo bằng tiếng La tinh. Khi nói về tên tác giả, những ký lục biết đến các ngôn ngữ thiểu số của nước Đức, như Drudis, Druda, Trutha, v.v. Gồm những tài liệu sau đây:

a. Les Revelationes (Những khải thị) gồm năm quyển. Quyển chính yếu là quyển 2 trong đó chính thánh nữ đã xác nhận vào năm 1289 kỷ niệm về ơn thần bí. Trong những năm tiếp theo, có lẽ thánh nữ đã soạn thảo một số tài liệu và ghi lại những “khải thị” khác nữa, hoặc đơn giản là một số linh ứng gợi hứng thầm kín. Khi ngài qua đời, tất cả các thủ bản của ngài đã được một nữ đan sĩ của đan viện thu thập, làm thành một bản tóm lược tiểu sử và chân dung linh đạo của thánh nữ, đó là cuốn 1.
Hiện nay chúng ta chỉ còn biết đến 4 thủ bản của tác phẩm, 2 trong số đó không còn trọn vẹn. Xuất bản lần đầu bằng tiếng La tinh là của các cha Chartreux tại Cologne, gọi là phiên bản Lanspergius (Insinuationes…, 1536). Vào thế kỷ 16 và 17 những phiên bản La tinh khác chỉ in lại của phiên bản Lanspergius trước đó và cuối cùng chỉ tính có phiên bản Lanspergius. Có 5 phiên bản: Cologne, 1579 (Bredenbech); Madrid, 1599 (Castaniza); Salzbourg, 1662 (Clément); Paris, 1662 (N. Canteleu) và 1664 (J. Mège). Năm 1875, các cha dòng Biển Đức tại Solem (L. Paquelin), Legatus…) đã cho ra phiên bản mới nhờ kết hợp 2 thủ bản. Một phiên bản cuối cùng gồm bốn thủ bản đang được các cha dòng Biển Đức Wisques chuẩn bị (bản Latinh và bản dịch Pháp ngữ, trong hợp tuyển Sources Chrétiennes).

b. Những bài Exercitia spiritualia (Linh thao). – Tên nguyên thủy của tác phẩm có lẽ không phải như thế. Tác phẩm gồm bảy bài suy niệm đạo đức có hướng dẫn. Việc chọn con số này biểu tượng sự hoàn hảo, là một chỉ dẫn quý giá về ý định của tác giả. Những bài linh thao này được trình bày như một nghiên cứu nhỏ về sự hoàn thiện thiêng liêng. Chúng thức tỉnh tâm hồn ý thức về tiến trình thánh hóa; chủ đề được tiếp tục của chuỗi này là sự kết hiệp với Thiên Chúa ngày càng hoàn hảo hơn. Sự kết hiệp này giả thiết sự huy động nguồn lực của Bí tích Rửa tội và đời sống tu trì (tu phục), thánh hiến và khấn dòng, nguồn lực vốn là hành động dẫn tới sự hòa hợp giữa tình yêu xót thương và niềm vui của tiệc cưới huyền nhiệm; cái chết được thực hiện như một lễ toàn thiêu vĩnh cửu và tuyệt đỉnh.

c. Les Preces gertrudianae (Những lời cầu nguyện của thánh nữ Gertrude). – Được một tu sĩ dòng Tên tại Cologne soạn thảo (1670), tuyển tập này không thể được xem là của thánh nữ soạn thảo theo đúng nghĩa. Nhưng cần phải kể đến vì được phổ biến rộng rãi và tái bản nhiều lần; nhiều tâm hồn đã biết đến nhà thần bí lớn của Helfta ngang qua tác phẩm thấm đẫm tư tưởng và văn phong rất đặc thù của thánh nữ.

d. Như đã nói, những tên gọi và những bản văn của thánh nữ Mechtilde và Gertrude không thể tách rời nhau và làm nên đặc tính linh đạo của đan viện Helfta. Dường như tác phẩm Revelationes của thánh nữ Mechtilde (de Heckeborn), dưới cái tên là Liber specialis graciae, được quảng bá nhiều hơn tác phẩm của thánh Gertrude. Tác phẩm này đã không được thánh nữ Mechtilde soạn thảo, mà do một nữ đan sĩ khác đã nhận mật nhiệm của ngài, người đó không ai khác chính là thánh nữ Gertrude.

e. Thánh nữ Gertrude đã kín múc từ Kinh thánh, Phụng Vụ, Tu Luật thánh Biển Đức và các bản văn của thánh Bernard; ngài cũng biết đến các nguồn linh đạo dòng Phanxicô và Rhénans (vùng sông Rhin). Và các cha dòng Đaminh đảm nhận linh hướng cho các nữ đan sĩ Helfta. Một nhà thần bí dòng ba, tên là Mechtilde de Magdebourg sống tại đan viện Helfta khoảng từ 1270 cho đến khi qua đời năm 1292.

3. Học thuyết
Linh đạo thần bí của đan viện Helfta chính yếu là “quy Kitô” (christocentrique), và không cần nêu lên quá nhiều lý lẽ của các lý thuyết gia về tầm quan trọng của sự phân biệt, chúng ta cũng thấy linh đạo thần bí ấy thiên về tình yêu (tình cảm) – (Brauptmystik) hơn là lý tính hệ thống (Wesenmystik). Vào thế kỷ XIII, tại Đức, một vài nữ đan viện Xitô, có hướng đi thiên về hệ thống đã làm mồi cho khuynh hướng trừu tượng nơi các trào lưu linh đạo của vùng sông Rhin và Hòa Lan. Thánh nữ Gertrude ở Helfta có vẻ hơi xa lạ với trào lưu này. Trong công cuộc tìm kiếm sự hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa của thánh nữ dường như được điều khiển bởi đời sống kết hiệp hoàn toàn và sâu xa với Ngôi Lời nhập thể. Khởi đi từ cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô vào ngày 27 tháng Giêng năm 1281, những “mặc khải” tiếp theo đó chỉ là phát triển ân huệ tuyệt đối của cuộc “hoán cải” này mà thôi.
Về đặc điểm kinh nghiệm này, trước tiên đã mang âm hưởng tình cảm của sự kín nhiệm thiêng liêng. Chắc hẳn, những dữ kiện về sự chừng mực và những điều kiện của một “thể loại văn chương” trở nên dễ dàng cho điểm nhấn này. Nhưng cái tệ là có sự trái chiều khi chỉ thấy chứng tá của thánh nữ như một tình cảm cực đoan, hoặc là chối bỏ “tính trẻ con” này những giá trị vững mạnh trong đó, hoặc là dễ dàng quảng bá sự tôn sùng quá tầm thường lại khó diễn tả được.
Càng dấn sâu vào mầu nhiệm của thông điệp này, càng khám phá ra phẩm chất đời sống nội tâm của thánh nữ Gertrude, một nền thần học vững chắc, nhiệt huyết thật sáng ngời trong giáo huấn của ngài, và kết quả là những yêu sách sâu xa lòng đạo đức của ngài không tước đi động năng cảm tính cũng như xác tín của một đức tin được tôi luyện và một học thuyết tâm linh chắc chắn. Và nhất là lối diễn tả rất tình cảm có mục đích chuyển tải thực tại khách quan của tình yêu vốn gắn kết tâm hồn thánh nữ với Chúa hằng sống của mình.
Như vậy, thánh nữ sống sự kết hiệp này trong ánh sáng của mầu nhiệm Nhập Thể, trong viễn cảnh rất cởi mở với sự viên mãn của bản tính nhân loại nhờ Ngôi Lời, mà trong nhiều lần, những khải thị của sự kết hiệp có thể đồng thời tương tác với Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Con Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Giáo hội, cũng như tiệc cưới với linh hồn. Hạn từ “quy Kitô” được áp dụng cho linh đạo này nhất định không thể được hiểu sai. Quy Kitô ở đây là định hướng và dẫn tới chiêm ngưỡng cũng như vui hưởng sự sống thần linh trong sự “rạng ngời và hoàn toàn bình lặng của Ba Ngôi.” Mặt khác, chỉ từ trung tâm mầu nhiệm Ngôi Lời làm người mà tuôn chảy tất cả các chủ đề thần học đã gây âm hưởng cực kỳ phong phú nơi các ân huệ của thánh nữ. Đương nhiên, những chủ đề này đã không được trình bày trong tác phẩm Révélations (những mặc khải) như thể được soạn thảo, đúng hơn, chúng linh hứng cách hữu hình những trực giác trong cầu nguyện của thánh nữ như thể phát triển suy niệm hoặc những thực hành khổ chế và lòng sùng kính của ngài, cũng dễ dàng giống như hoàn thành một giờ kinh phụng vụ vậy.
Thật là không đủ khi nhận định rằng những quy định và những bản văn phụng vụ nâng đỡ kinh nguyện của ngài và đồng thời cung cấp cho ngài những hình ảnh hay nhất ngang qua vần thơ và câu văn. Chính phụng vụ có ý nghĩa sâu xa đã làm nên kinh nghiệm thần bí của thánh nữ. Chính Sacramentum fidei, là dấu chỉ hữu hình và sống động sự hiện diện của Chúa, là con đường đích thực của sự kết hiệp ngôi vị với Ngôi Lời nhập thể, là Trung Gian và là Đấng thánh hóa. Những mầu nhiệm phụng vụ ý nghĩa nhất của sự kết hiệp này, và lôi kéo sự chú ý nhất của thánh nữ Gertrude chính là Giáng Sinh, nơi đó Giáo hội tưởng nhớ Bê lem và giáng sinh thiêng liêng trong tâm hồn chúng ta: “Dominus in intimis nostris quasi spiritualiter natus” (Revelationes, lib. 4, c. 3, in fine), và Thăng Thiên, nơi đó, “in substantia nostra”, Đức Kitô, Đấng mặc lấy bản tính của chúng ta trình diện trước Tôn Nhan Chúa Cha. Vả lại, tất cả phụng vụ đều có chóp đỉnh là bí tích Thánh Thể; chính nhờ Chúa Kitô Thánh Thể đã khai mở trong tâm hồn thánh nữ Gertrude sự kết hiệp thực thụ với Lang Quân (cf. DS, t. 4, col. 1616).
Từ việc tôn sùng Thánh Thể chuyển sang lòng sùng kính cuộc Khổ Nạn, đến các Thương Tích và Thánh Tâm Chúa Giêsu (cf. DS, t. 2, col. 345, 1027; t. 3, col. 1693). Vai trò các nhà thần bí của đan viện Helfta đối với lịch sử sự tôn thờ này là rất quan trọng. Lòng sùng kính Thánh Tâm của họ không chỉ đơn thuần “thiên về thương khó” đối với các vết thương trong cuộc Khổ Nạn; cũng không nhấn mạnh đến chủ đề này trong việc sửa mình vốn sẽ khuếch trương sau đó. Theo linh đạo của những đan sĩ chiêm niệm thời trung cổ, trái tim không chỉ là biểu tượng cũng như trung tâm đời sống tình cảm, nhưng chính là toàn thể con người. Do vậy, chính trong con người của Ngôi Lời nhập thể mà ước muốn kết hiệp có thể đạt được trong Thánh Tâm Người, “nơi đó gói trọn tất cả phẩm cách thần linh”; thật sâu thẳm và cử chỉ đầy đủ của tình yêu Chúa Giêsu khi Người ước rằng, lưỡi đòng đã khai mở lối vào cho tình yêu chúng ta đến với Người.
Còn về lòng sùng kính Đức Maria của thánh nữ Gertrude, cũng được định vị trong cùng sự thuộc về mầu nhiệm Chúa Kitô. Từ Đức Maria, thánh nữ nhận được những ân huệ chính yếu khi kết hiệp với Ngôi Lời nhập thể; Hài Nhi mới sinh như thể được giao cho thánh nữ bởi Mẹ Người, đồng thuận cho thánh nữ được tháp nhập vào sự ưu tiên của Người. Cho dù ơn cao trọng thế nào đi nữa vốn được dành riêng cho Mẹ Thiên Chúa, thì mầu nhiệm kết hiệp cũng như thế mà thông truyền cho các linh hồn trong cương vị “Trung Gian của Trung Gian” (Revelationes, lib. 2, c. 7). Và vì sự kết hiệp này mà Đức Maria là Mẹ của các tín hữu. Mẹ nói: “Chúa Giêsu là con đầu lòng của Mẹ, vì sau Ngài và nhờ Ngài, các con được chọn để trở nên anh em với Ngài và là con của Mẹ, từ trong cung lòng mẫu tử của Mẹ, Mẹ đã sinh ra tất cả các con” (lib. 4, c. 3). Trương độ lòng sùng kính Đức Maria của thánh nữ Gertrude không bao giờ dẫn đến lạm dụng, cho dù một ngày kia có một vị giảng thuyết cực đoan nào đó (lib. 3, c. 20), bởi lẽ thánh nữ không thể chịu được khi lời chúc tụng Đức Maria, cho dù thế nào, bị tách khỏi Chúa Con, là tác giả ơn cứu độ và sự sống của chúng ta.

4. “Libertas cordis” (sự tự do của trái tim)
Những mặc khải rất dồi dào nhưng khá phức tạp liên hệ đến những tình huống rất khác nhau, với cái nhìn ban đầu dường như không luôn luôn dễ dàng phân định tư tưởng và ứng xử của thánh nữ. Đôi khi ta cũng ngạc nhiên và ngay cả những người đương thời của ngài cũng thế về sự đa dạng và uyển chuyển thái độ của thánh nữ. Ngài có được khả năng trực giác rất lớn, trí phán đoán và cảm thức siêu nhiên sinh động cho việc lắng nghe những sự đa dạng kín nhiệm thần linh, ngài cho thấy khi thì rất nghiêm túc, chu đáo và sốt sắng, khi thì chừng mực, cảm thông, bàng quan với chủ nghĩa chi tiết hình thức, ngày nay chúng ta nói đó là người không thống nhất. Tiểu sử cuốn 1, Héraut tìm cách thu thập về một mối nhân đức nền tảng tất cả cá tính của người bạn đồng môn của mình, tiếp nhận từ Chúa Giêsu việc giải nghĩa này, theo đó, nếu tâm hồn thần bí của thánh nữ Gertrude đạt đến đỉnh cao nhất của ơn chiêm niệm và đức ái, thì ngài phải đạt đến tự do của con tim (liberté de coeur), nghĩa là với phẩm cách ấy, không một vật nào có thể làm ngăn trở nguồn lực hướng về thông hiệp với Chúa (Revelationes, lib. 1, c. 11). Chìa khóa vàng cho định nghĩa đích thực về tự do, được xác định trong tương quan cốt yếu với một cứu cánh. Nơi thánh nữ Gertrude, sự kết hiệp với Chúa giải phóng tất cả bí mật: chỉ có một đòi buộc đích thực là sự kết hiệp, và sự kết hiệp này điều hướng tất cả những đòi buộc khác. Sự thuần khiết của cầu nguyện hệ tại tính triệt để của cứu cánh duy nhất, và do đó kéo theo sự mềm dẻo mà thuận theo thánh ý Chúa. Với cảm thức về sự cô độc trong tình yêu, nhờ tính chừng mực nhân bản và nhờ ơn gọi siêu nhiên, thánh nữ Gertrude có được lợi khí giáo huấn và tham vấn. Chính nhờ buông mình cho sự hướng dẫn của Chúa mà thánh nữ hóa giải được vấn đề bề ngoài có vẻ mâu thuẫn giữa ơn thần bí siêu vời khôn tả với nhu cầu diễn tả nó cho người khác sự phong phú của tình yêu Thiên Chúa (lib. 4, c. 2).
Một trong những hệ quả tâm đắc nhất của thánh nữ về sự kết hiệp này là sự liên kết giữa tình cảm và sự xứng hợp, vốn làm cho thánh nữ niềm xác tín này là tất cả những yếu đuối, những khiếm khuyết và những chểnh mảng của ngài đều được Chúa bù đắp (supplée), khi làm cho thánh nữ nên người thừa hưởng kho tàng hoàn thiện vô biên của Ngài. Với niềm tin vào sự bù đắp ấy, tất cả được hòa điệu, từ cảm thức khiêm tốn nhất về sự bất xứng của mình đến khả năng phát ngôn với uy quyền nhân danh Chúa.
Kinh nghiệm của thánh nữ Gertrude minh họa cách tuyệt hảo đặc tính nhất quán về linh đạo thực hành trong nội vi đan viện, nhờ thấu nhập cách bền bỉ vào các sinh hoạt đan tu, từ nguyện gẫm, lectio divina cho đến những trách vụ khiêm hạ nhất của công việc tay chân, những công việc mà bề ngoài có vẻ rập khuôn và đơn điệu nhàm chán. Như thế sự tương thích giữa việc giữ luật dòng hoặc ngay cả kinh nguyện tại ca tòa và việc hồi tâm suy niệm cũng không đặt ra vấn đề lớn, dù đôi khi sự căng thẳng vẫn có, nhưng sớm được giải quyết (Revelationes, lib. 3, c. 44, 85).

5. Ơn linh hứng
Những ân huệ lớn lao của sự kết hiệp, thường được kèm theo một vài hiện tượng rất ý nghĩa cách ngoại thường. Cùng với nhiều nhà thần bí khác, thánh nữ Gertrude cũng biết đến những vết thương tình yêu, việc trao gửi con tim và những dấu đinh trong nội tâm,… Chúng ta cũng có thể nhận ra nơi một số đoạn nhất định trong tác phẩm của ngài, dấu vết của sự ngất ngây khi xuất thần, nhưng sự ám chỉ này rất ý nhị kín đáo và không bao giờ thánh nữ vội vàng mô tả “tình trạng” này. Trái lại, để xác quyết và thông truyền sứ điệp tâm linh của mình, thánh nữ kiên trì theo đuổi tìm cách thể hiện và nơi những hội thảo.
Các nhà thần học có thể bị cám dỗ tự hỏi về bản chất nào của những trao đổi này. Một số nhà xuất bản thậm chí đi đến chỗ dựa vào những xác minh thần học gây nên sự chú ý đối với những “mặc khải tư” như thế. Rất nhiều scholiae (phê bình) của nhà xuất bản Tây Ban Nha năm 1599 trả lời cho những toan tính này, và trong xuất bản đầu tiên bằng Pháp ngữ (Paris, 1619), việc thêm vào một “vấn đề thần học về mặc khải thần linh, những thị kiến, cuộc trao đổi và những ân huệ khác tương tự” của thầy Denys thuộc dòng Mẹ Thiên Chúa, nói chung là những nốt thần học ấy được lấy lại trong các bản dịch sau này. Vả lại, người ta có thể nói rằng người viết bản thảo đầu tiên đã giữ lại chúng bất chấp phản ứng của các nhà thần học và đã cố gắng chứng minh một số ân huệ do “thẩm quyền Kinh thánh hoặc các Giáo phụ” được trích dẫn bên lề, cũng đồng thời được các tiến sĩ đương thời xác nhận.
Thực ra, vấn đề mặc khải nơi thánh nữ Gertrude không giúp gì nhiều cho những thần học gia có tính tỉ mỉ. Chắc chắn không dễ dàng xếp những mặc khải đó vào loại nghiêm ngặt, có chăng xếp chúng vào loại văn chương thiên về những hiện tượng ngoại thường đặc biệt nhất. Nhà xuất bản đầu tiên là Lanspergius năm 1536 tuyên bố rằng việc xếp loại như thế là hoàn toàn vô ích đối với việc ý thức về sứ điệp và lợi dụng sứ điệp đó. Ý cốt yếu ở đây là diễn tả thực tại khách quan ơn linh hứng của Thiên Chúa, hoặc là ơn linh hứng này dưới dạng chính xác và ngay cả dạng xuất thần, hoặc là được rút tỉa từ ơn kết hiệp liên lỉ. Hai nhận định của nữ đan sĩ chịu trách nhiệm soạn thảo cuốn Héraut về việc này thật rõ ràng minh bạch. Một đàng, việc “đạo diễn” nếu có thể nói như vậy, về các hoạt động của Thiên Chúa trên các suy niệm và phán đoán của thánh nữ nhắm đến thiện ích của độc giả hơn là bản thân thánh nữ vì chính ngài cũng ý thức về sự lệ thuộc của mình (Revelationes, prologue). Đàng khác, khi thánh nữ càng tiến sâu vào con đường thần bí trút bỏ hoàn toàn này, càng không cần đến những xác nhận tích cực từ phía Thiên Chúa; chính sự thân mật càng sâu xa của đời sống kết hiệp đã dạy cho tân nương biết những kín nhiệm của Tân Lang (lib. 1, c. 17).

6. Việc tôn kính và sự ảnh hưởng
Hiếm có thủ bản nào được biết cho đến hôm nay là buộc chúng ta nói rằng các bản văn đã không được quảng bá, ngay cả tại Đức, trước đợt xuất bản năm 1536 do các đan sĩ Chartreux ở Cologne. Vả lại những người này cũng ý thức rất rõ việc không để lãng quên chứng tá thần bí này. Viện phụ đan viện Liessies – Louis de Blois (+1566) đã vay mượn các bản văn của đan viện Helfta trong tác phẩm Monile spirituale của mình đã quảng bá thánh nữ Gertrude trong môi trường đan tu từ thế kỷ 16. Các giai đoạn tôn kính thánh nữ cho thấy các chuyển biến sự nổi danh của thánh nữ.
Có người tin rằng trong một tài liệu vào năm 1360 đã nói đến ngày lễ thánh nữ Gertrude. Nhưng chắc không phải thánh nữ Gertrude Cả, mà có lẽ thánh nữ Gertrude vùng Nivelles qua đời năm 659.
Các nam nữ đan sĩ của Hội dòng Mont-Cassin chọn cử hành lễ thánh nữ vào năm 1654, Hội dòng Olivet năm 1663 và tại Bồ Đào Nha năm 1670, Tây Ban Nha năm 1673, và trong toàn dòng Biển Đức vào năm 1674. Được ghi tên vào Sổ Bộ Các Thánh ngày 22 tháng Giêng năm 1678. Lễ kính ngài tại vùng Saxe chỉ vào năm 1738 và được tôn kính trong Giáo hội hoàn vũ vào năm 1739.

 

LỜI CẦU NGUYỆN
LỜI CHỨNG TUYỆT HẢO

 

Án Khảm (Đức Tổng Giuse NQK)

I. LỜI CHÚA
Cv 7,55-60
Ông Tê-pha-nô bị ném đá
“Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giê-su đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.” Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô. Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con.” Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi, ông an nghỉ”.

II. SUY NIỆM
Cảnh tượng thánh Stêphanô cầu nguyện khi bị hành hình thật bi thương nhưng rất hùng tráng. Việc ngài cầu nguyện trong bối cảnh đang bị hành hình làm nổi bật những điều cốt lõi trong đời sống đức tin và làm chứng của người môn đệ. Trước hết, cầu nguyện là điều cốt lõi của đời sống đức tin.

1. Cầu nguyện vấn đề cốt lõi của đời sống đức tin
“Tin sao cầu vậy” [Lex orandi, lex credendi]. Cầu nguyện là sự sống của người kitô hữu và đặc biệt của người môn đệ. Là sự sống, nghĩa là không cầu nguyện sẽ không sống được. Ta sống nhờ sự sống của Chúa. Cầu nguyện chính là trở ngược lên đến thượng nguồn sự sống, là múc lấy nguồn mạch sự sống, nhất là trong những biến cố trọng đại có liên hệ đến vấn đề sống chết. Cầu nguyện không chỉ kín múc sự sống nhưng còn là chính sự sống. Khi cầu nguyện ta sống và sống dồi dào nhờ sự sống của Chúa.
Chiêm ngắm thánh Stêphanô cầu nguyện trong lúc bị hành hình, ta hiểu rằng thánh nhân đã đạt tới cao điểm của đời sống đức tin. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo định nghĩa: “Tin là thưa “Amen” đối với lời Chúa, lời hứa, giới răn của Thiên Chúa, và là phó thác bản thân một cách tuyệt đối cho Đấng là “Amen” của tình yêu vô tận và của sự trung tín trọn vẹn. Vậy đời sống Kitô hữu mỗi ngày sẽ là “Amen” cho lời “Tôi tin” trong bản Tuyên xưng đức tin khi chúng ta lãnh nhận Phép Rửa.” Thánh Stêphanô đã có đời sống phó thác tuyệt đối như vậy.
Phó thác tuyệt đối, nên thánh Stêphanô cầu nguyện không ngừng. Cầu nguyện đã trở thành đời sống, trở thành một phản xạ tự nhiên. Điều này đặc biệt dễ thấy trong lúc nguy cấp. Lúc ấy không còn suy nghĩ gì được nữa, chỉ là phản xạ tự nhiên, là những gì đã tập thành. Và phản xạ tự nhiên của thánh Stêphanô trong lúc nguy cấp là quỳ xuống cầu nguyện. Đó thật là sự sống.
Phó thác tuyệt đối, nên thánh nhân dành trọn cuộc đời cho Chúa, để Chúa quyết định. Trong lúc nguy cấp, thánh nhân không tìm nương tựa hay trợ giúp nơi thế lực trần gian. Cũng không phản ứng theo thói thế gian. Theo lẽ thường khi bị hành hình, người bình thường sẽ tìm cách làm sao tránh được đau đớn, hoặc là sợ hãi rên la đau đớn, hoặc van nài kẻ hành hình nhẹ tay, hoặc nữa tìm cách che chắn bảo vệ những nơi trọng yếu. Nhưng thánh Stêphanô đã tuyệt đối phó thác bản thân cho Chúa Kitô nên phản ứng của ngài là cầu nguyện. Giải pháp cho vấn đề là ở nơi Chúa. Giải pháp đầu tiên là tìm nương tựa nơi Chúa. Giải pháp duy nhất là cậy dựa vào Chúa. Giải pháp cuối cùng là phó thác cho Chúa.
Phó thác tuyệt đối, nên thánh nhân hoàn toàn kết hợp với Chúa. Việc kết hợp hiển hiện rõ ràng khi ngài thấy Chúa Giêsu đứng bên hữu Chúa Cha đến đón nhận ngài. Việc kết hợp thật hoàn hảo khi ngài không còn sống cho mình hay chết cho bản thân nữa, nhưng sống cho Chúa và chết cho Chúa. Vì thế, ngài trở nên giống Chúa mọi đàng. Khi bị ném đá đến chết, thánh nhân đã có phản ứng và lời lẽ như Chúa Giêsu trên thánh giá. Ngài đã phó linh hồn trong tay Chúa và cầu xin Chúa tha thứ cho những kẻ bách hại mình. Chắc chắn ngài đã chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu đến độ nhập tâm, đến độ mọi suy nghĩ, lời nói, thái độ của ngài đều rập khuôn theo Chúa Cứu Thế. Thế nên trong giờ chết, thánh nhân cũng cư xử hành động và nói năng y hệt như Chúa. Chính khi cầu nguyện như thế, ngài đã làm chứng cho Chúa.

2. Cầu nguyện là lời chứng tuyệt hảo
Chiêm ngắm cảnh tượng thánh Stêphanô cầu nguyện đang lúc bị hành hình ta phân biệt được rõ ràng những điều hệ trọng cho cuộc sống.
Trước hết ta thấy có hai thế giới vô cùng khác biệt: Trời và Đất. Trời và đất không phải là hai không gian địa lý nhưng là hai cảnh giới ngàn trùng cách biệt. Đó là thiên đàng và hạ giới. Người thường chỉ thấy hạ giới hữu hình. Chỉ những ai cầu nguyện sâu xa mới thấy thiên đàng vô hình. Trong số những người có mặt tại hiện trường hôm nay, chỉ có một mình thánh Stêphanô nhìn thấy thiên đàng.
Vì thế có hai tầm nhìn khác nhau: Nhìn lên và nhìn xuống. Người nhìn xuống chỉ thấy hạ giới. Còn người cầu nguyện nhìn lên, vươn tâm hồn lên nên sẽ thấy thiên đàng. Nhìn xuống chỉ biết cư xử theo dục vọng của xác thịt; nhìn lên sẽ biết cư xử theo Thần Khí. Những người hành hình thánh Stêphanô chỉ nhìn xuống. Họ bị dục vọng khống chế, nên chỉ thấy độc ác, oán thù, giận dữ và chỉ biết hành động thô bạo để thoả mãn cơn giận dữ. Còn thánh Stêphanô nhìn lên trời. Ngài thoát mọi ràng buộc của xác thịt, tâm hồn thênh thang tự do bay lên, nên thấy Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha.
Hai tầm nhìn dẫn đến hai thái độ khác nhau. Những người hành hình thánh Stêphanô để cho xác thịt điều khiển nên họ lên cơn giận dữ. Họ đỏ mặt tía tai, phùng mang trợn mắt, nghiến răng nghiến lợi, hung hãn ném đá thánh Stêphanô cho đến chết. Họ coi đó là điều quan trọng nhất. Trái lại, thánh Stêphanô đã vươn lên theo Thần Khí. Ngài đã vượt qua tầm nhìn hạn hẹp hạ giới, đã vượt qua hết những cám dỗ tranh giành hơn thua ở đời, đã có tầm nhìn Nước Trời. Đã nhìn thấy thiên đàng, đã gặp gỡ Thiên Chúa, nên ngài cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Ngài chẳng còn khao khát gì hơn là được về với Chúa nên ngài tha thiết cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin đón nhận linh hồn con.” Ngài thấy những người đang hành hình mình thật là tội nghiệp. Họ tranh giành những điều chóng qua. Họ bị giam hãm trong những nhỏ mọn tầm thường ti tiện. Họ phí công tốn sức vào những điều chẳng có chút giá trị nào. Thánh Stêphanô thật tình thương họ. Có thiên đàng hạnh phúc sao họ không thấy. Có Thiên Chúa vô cùng nhân từ yêu thương sao họ không biết. Có cảnh giới siêu việt tự do thanh thoát sao họ không hưởng. Chỉ vì họ nhầm lẫn không biết. Vì thế, thánh nhân cầu nguyện cho họ: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.”
Lời cầu nguyện của thánh Stêphanô là bằng chứng tuyệt hảo về Thiên đàng. Chính ngài làm chứng khi thốt lên: “Kìa, tôi thấy trời mở ra.” Thật là một bằng chứng cụ thể vô cùng sinh động và thuyết phục! Nếu ngài nói ra trong lúc vui tươi thoải mái thì chưa đáng tin lắm. Nhưng lời này ngài nói ra lúc đang gặp nguy nan. Vừa đau đớn vì bị ném đá. Vừa nguy kịch khi cái chết đã cận kề. Bầu khí chung quanh thật là hỗn loạn, đe doạ và hừng hực sát khí. Thế mà ngài an nhiên cầu nguyện, mắt hướng lên trời, mặt vô cùng hân hoan hạnh phúc. Chẳng màng đến những đau khổ, đe doạ nơi trần gian. Chắc chắn ngài phải thấy một điều gì rất cao siêu, rất đẹp đẽ rất hạnh phúc khiến ngài quên đi những đau đớn, những đe doạ, những độc ác. Đó là bằng chứng ngài đã thực sự thấy thiên đàng.
Lời cầu nguyện của thánh Stêphanô là bằng chứng tuyệt hảo về Thiên Chúa. Thực ra thiên đàng chỉ hạnh phúc vì có Thiên Chúa. Và nơi nào có Thiên Chúa thì nơi ấy là thiên đàng. Thánh nhân đã nhìn thấy thiên đàng vì đã nhìn thấy Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha. Đó là điều không thể nào chân thực hơn. Thiên Chúa là hạnh phúc. Nên khi nhìn ngắm Thiên Chúa thánh nhân chẳng còn nhớ gì đến thế gian. Hạnh phúc được chiêm ngưỡng Thiên Chúa lớn lao quá đến nỗi ngài quên hết trần gian. Chân thực nhất đó là thánh nhân chẳng còn sợ hãi, đau đớn và nhất là chẳng còn sợ chết khi người ta hành hạ và muốn giết chết mình. Trái lại, thánh nhân càng mong được chết đi để mau được về với Chúa, kết hợp với Chúa. Đó là hạnh phúc không gì so sánh được. Thật là hai cảnh tượng trái ngược nhưng lại là bằng chứng rất hùng hồn. Hạ giới là những người đằng đằng sát khí đang hành hình thánh nhân. Thượng giới là Thiên Chúa vô cùng yêu thương, vô cùng hạnh phúc. Thánh Stêphanô là chứng nhân của hai cảnh giới đó. Và ngài đã say mê chiêm ngưỡng Thiên Chúa đến siêu thoát mọi hình khổ và con người trần gian. Đó là bằng chứng không thể nào chân thực và sống động hơn về Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện của thánh Stêphanô là bằng chứng tuyệt hảo về đạo Chúa. Hai lời cầu nguyện của thánh Stêphanô tóm tắt về đạo Chúa. Đó là thực hành vô cùng sâu xa và đạt tới đỉnh cao của hai giới răn quan trọng nhất trong đạo. Đó là mến Chúa hết lòng, hết sức lực, hết linh hồn, hết trí khôn. Còn có lòng mến nào trọn vẹn và cao cả hơn là yêu mến cho đến chết. Và ước ao chết để được kết hợp với Chúa. Lời cầu nguyện “Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con” đã nói lên khát khao được về bên Chúa và kết hợp trọn vẹn với Chúa. Đó là đạt tới đỉnh cao của giới răn thứ nhất. Giới răn thứ hai là: hãy yêu người thân cận như chính mình. Và lời cầu nguyện “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” chính là thực hành giới răn thứ hai. Thực hành trong một hoàn cảnh thật khó khăn đầy đau đớn. Đó chính là tình yêu tha nhân đến mức tuyệt hảo. Yêu đến nỗi không một chút oán hờn. Yêu đến nỗi tha thứ tất cả mọi hành vi xúc phạm mà ở mức cao nhất là bị cướp mất sự sống của mình. Không những tha thứ mà còn tha thiết cầu nguyện cho những kẻ làm hại mình. Thực hành giới răn của Chúa trong một hoàn cảnh vô cùng đau đớn nghiệt ngã chính là bằng chứng thuyết phục tuyệt hảo về đạo Chúa, là đạo mến Chúa yêu người.
III. THỰC HÀNH
Khi người ta hành hình thánh Stêphanô thì Phaolô cũng hiện diện. Ông không tham gia vào việc hành hình. Ông chỉ đứng bên ngoài và giữ áo cho những người ném đá. Tấm gương của Stêphanô có ảnh hưởng tới Phaolô không? Khó mà chứng minh được là có ảnh hưởng. Nhưng cũng khó để hoàn toàn phủ định.

1. Gương cầu nguyện
Có những hạt giống vùi chôn lâu ngày mới mọc lên. Tôi đã được chứng kiến hai trường hợp dưới đây:
Trường hợp thứ nhất là cụ Phạm Ngọc Thung ở Thái Bình. Một lần tôi gặp lương y Phạm Ngọc Sơn. Ông nói với tôi: Cha mẹ của ông rất muốn theo đạo, nhưng chưa có ai quan tâm đến dạy đạo cho các ngài. Biết hai cụ Phạm Ngọc Thung và Phạm Thị Mậu đã hơn 90 tuổi, tôi vội đến thăm các cụ. Quả nhiên, mọi người con cháu, và chính các cụ đều khẳng định các cụ muốn theo đạo. Tại sao hai cụ muốn theo đạo. Thì ra cụ Thung đã gia nhập quân đội từ khi còn trẻ. Một lần đơn vị của cụ được điều động giữ an ninh trật tự trong buổi đấu tố một linh mục. Rồi thời gian trôi đi, cụ không nhớ đến việc ấy nữa. Sau nhiều năm tháng, trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, cụ thấy tất cả vừa giả dối, vừa chóng qua. Lúc ấy hình ảnh vị linh mục cầu nguyện trước khi bị hành hình trở lại. Tự nhiên cụ được ơn soi sáng và xác tín: Đây mới là người thật. Đây mới là đạo thật. Và cụ quyết tâm tìm đạo thật để sống con người thật. Cụ đem tâm sự của mình nói với con cháu. Thật may sau khi tôi đến thăm, cha xứ gần nhà cụ đã lo liệu cho cụ được học đạo. Tháng 7, cha còn mời Đức cha Phanxicô Nguyễn Văn Sang đến rửa tội. Thật đúng lúc, vì tháng 12 năm đó cụ qua đời. Ngẫm lại cuộc đời của cụ, tôi nhận ra rằng cầu nguyện chính là lời chứng tuyệt hảo. Hạt giống vị linh mục bị hành hình gieo từ hơn nửa thế kỷ trước, nay mới nảy mầm sinh hạt.
Trường hợp thứ hai là sơ Nirmala, nguyên Bề trên Tổng quyền dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Têrêxa. Tôi không có duyên được gặp Mẹ Têrêxa. Nhưng tôi được gặp sơ Nirmala hai lần khi sơ đến thăm Hà Nội. Sơ là con gái một vị chức sắc cao cấp của Ấn Độ giáo. Khi còn đi học, sơ đã một lần được thấy Mẹ Têrêxa cầu nguyện. Chiêm ngưỡng cảnh tượng ấy, sơ như bị một luồng điện chạy vào trúng tim. Ánh sáng bừng lên và sơ nhận ra đây mới là người thật và là đạo thật. Sơ liền theo đạo và vào tu trong dòng Mẹ Têrêxa. Chính Mẹ Têrêxa, trước khi qua đời, đã chỉ định sơ làm người kế vị. Sơ làm Bề trên Tổng quyền hai khoá. Sau đó sơ xin nghỉ để dọn mình chết lành. Hiển nhiên cầu nguyện là lời chứng vô cùng thuyết phục về Thiên Chúa, về đạo Chúa và về Nước Trời.

2. Đan sĩ cầu nguyện
Tấm gương của thánh Stêphanô, của vị linh mục bị đấu tố, và của Mẹ Têrêxa, là lời khích lệ các đan sĩ sống ơn gọi của mình. Ơn gọi của đan sĩ là cầu nguyện. Tất cả tôn chỉ, đường hướng và căn tính của đan sĩ đều nói lên điều này.
Tôn chỉ của đan sĩ là Ora et Labora, nghĩa là cầu nguyện phải là việc quan trọng, là ưu tiên và là ý nghĩa của đời sống một đan sĩ. Cha Biển Đức Thuận cũng dạy chúng ta: “Cầu nguyện là chính việc của chúng ta. Thầy Dòng phải là con người cầu nguyện.” Đan sĩ là con người cầu nguyện có nghĩa là việc cầu nguyện định nghĩa đan sĩ. Cầu nguyện là con người đan sĩ, là sự sống, là máu thịt, là hơi thở, là suy tư, là cả cuộc đời. Như thế, người đan sĩ không chỉ cầu nguyện khi ở trong nhà thờ. Nhưng cầu nguyện cả khi ăn, khi làm việc, khi nghỉ ngơi; khi vui, khi buồn, khi thành công, khi thất bại. Tóm lại, trong mọi biến cố suốt cả cuộc đời, ta hãy noi gương thánh Stêphanô, biến cầu nguyện thành phản xạ tự nhiên. Gặp biến cố thì quì xuống cầu nguyện. Ta không ngạc nhiên khi căn nhà đầu tiên của nhà dòng bị thiêu rụi, cha Biển Đức Thuận đã mời gọi mọi người “hát bài Magnificat trọng thể tạ ơn Chúa.”
Đường hướng của đan sĩ là Không lấy gì làm hơn Chúa Kitô. Trong mọi sự và trong mọi nơi mọi lúc Chúa Kitô là đích điểm của cuộc đời đan sĩ. Đó là noi gương thánh Phaolô: “Coi tất cả mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi” (Pl 3,8-9). Cho nên dù vui, dù buồn không chút băn khoăn, miễn là được Chúa Kitô. Đó là noi gương thánh Stêphanô, bị hành hình cũng không nao núng, vì chính trong lúc bị hành hình ngài được thấy Chúa. Vì thế, đan sĩ phải luôn cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh để được Chúa Kitô, dù vui, buồn, sướng, khổ hay nguy nan. Tất cả mọi giải pháp đều ở nơi Chúa Kitô. Phó thác tuyệt đối cho Chúa Kitô. Đó cũng là điều cha Biển Đức Thuận dạy chúng ta làm. Sách Hạnh Tích thuật lại: Cứ mỗi tuần thuyền nhà dòng chở củi ra chợ bán rồi chở gạo lên. Nhưng xảy ra: lần kia nước sông to, chảy mạnh, đò lên trễ quá gần trưa rồi, mà đò chưa lên, gạo thì hết, ông Giáp Phẩm thưa ngài: “Thưa cha, đò chưa lên, mà gạo nhà hết rồi, trưa ni lấy chi ăn?” Ngài liền la ông Giáp Phẩm: “Thì Chúa sẽ liệu mà, con lo chi vô lối rứa.” Hay đâu chờ mãi quá trưa, cũng chả thấy đò lên, ngài bảo đào sắn luộc. Ôi chao ăn sắn vào, cha con say, nằm đoạ cả ra, mãi gần chiều, đò gạo mới lên, ngài cười và bảo lấy gạo nấu cơm cho các thầy ăn.”
Căn tính của đan sĩ là Nên một với Chúa Kitô. Đan sĩ là người nên một với Thiên Chúa. Là người kết hợp với Chúa Kitô. Như thánh tổ Thêôdôrê dạy: “Đan sĩ là con người chỉ nhìn Chúa, chỉ khao khát Chúa, chỉ hướng lòng về Chúa, chỉ muốn phụng sự một mình Chúa mà thôi.” Cha Biển đức Thuận dạy: Vậy trong mọi việc chúng ta làm hằng ngày, hãy chăm chỉ coi Chúa Giêsu làm thế nào, thì ra sức noi gương… Hãy xét từng việc từ mai tới tối như vậy, ai theo phận nấy. Hãy làm như Chúa Giêsu ở kế bên, và làm một cách rất tử tế, trọn hảo… Nếu cả nhà dòng chúng ta ai nấy cứ chăm lo làm như vậy thật là tốt lành biết mấy! Người ta trông vào thì thấy Giêsu, Giêsu thay thảy. Như thế chúng ta phải lo sống kết hợp với Chúa. Mọi việc chúng ta làm là vì Chúa, làm cho Chúa, chi cũng làm cho Chúa hết. Như vậy chúng ta mới nếm được sự bình an của Chúa. Như thế, cuộc đời đan sĩ là một lời cầu nguyện liên lỉ không bao giờ dứt. Đó chính là noi gương thánh Stêphanô, đến chết vẫn còn làm như Chúa, nói như Chúa, cầu nguyện như Chúa.

3. Đan sĩ làm chứng
Thế giới đang chứng kiến sự suy thoái trầm trọng về tôn giáo. Ngoài tôn giáo số người không tin gia tăng. Trong đạo, số người công khai bỏ đạo ngày càng nhiều. Số người còn có đạo nhưng không đi lễ, không lãnh nhận các bí tích ngày càng đông. Trong khi đó người ta lại lui tới với những chuyên gia tâm lý, những thầy bói, thầy tướng số và nhất là những buổi cầu cơ, hầu đồng. Như thế cho thấy nhu cầu muốn tiếp xúc với thế giới thần linh còn rất lớn. Nhưng người ta không thấy tôn giáo đáp ứng được nhu cầu ấy nên phải tìm những địa chỉ khác. Trong tình hình ấy, đan sĩ cần cầu nguyện nhiều hơn nữa. Trong một thế giới muốn loại bỏ Thiên Chúa, việc cầu nguyện sẽ đưa Thiên Chúa trở lại với thế giới. Trong một thế giới vật chất thống trị, việc cầu nguyện sẽ làm chứng về những giá trị tâm linh. Trong một thế giới chỉ tin vào những giải pháp của loài người, việc cầu nguyện giúp có những giải pháp tốt đẹp cho thế giới. Đó chính là công việc của đan sĩ. Vì khi cầu nguyện đan sĩ sống đúng tôn chỉ, đường hướng và căn tính của mình.
Khi tuân thủ tôn chỉ Ora et Labora, coi việc cầu nguyện là ưu tiên số một, đan sĩ có thể là điểm tựa giúp mọi người vững bước trên đường tìm về với Thiên Chúa.
Khi đi theo đường hướng Không lấy gì làm hơn Chúa Kitô, đan sĩ có thể là niềm tin cho mọi người vào Thiên Chúa.
Khi sống đúng căn tính Nên một với Chúa Kitô, đan sĩ thực sự là bằng chứng thuyết phục mọi người về hạnh phúc chân thật ở nơi Thiên Chúa.

 

CẦU NGUYỆN – MỘT TIẾP CẬN TRIẾT HỌC

FM. Théophane Ven Phạm Hữu Ái

Từ điển bách khoa triết học cũ có trình bày một bài viết về từ “cầu nguyện,” chủ đề này lại vắng bóng trong các tự điển bách khoa triết học ngày nay. Điều đó cho thấy dường như có một cái nhìn tiêu cực về việc cầu nguyện. Một số lớn các triết gia cho rằng cầu nguyện chẳng khác nào là một phép thuật hay cầu nguyện sẽ làm suy giảm tính siêu việt của Thiên Chúa. Dầu vậy, chưa có một lời phê bình nào của các triết gia đạt được mức thành công là loại bỏ việc cầu nguyện. Tương tự như thế, chưa có một lý tưởng cầu nguyện triết học nào có thể thay thế việc cầu nguyện trong tôn giáo. Có chăng chỉ là phương tiện giúp cho việc cầu nguyện trong tôn giáo được hoàn bị hơn. Bởi vì cầu nguyện là chức năng thiết yếu của tinh thần con người.
Vì lý do đó mà có nhiều cách cầu nguyện khác nhau: cầu xin, tạ ơn, chuyển cầu, thờ phượng… Và cũng có nhiều định nghĩa và các sắc thái, hình hài khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một điểm là: cần có niềm tin. Người ta chỉ cầu nguyện khi người ta tin tưởng và càng có niềm tin, con người càng có một đời sống cầu nguyện thâm sâu hơn.
Tuy nhiên, niềm tin không chỉ hiện diện trong lãnh vực tâm linh mà là một thành tố căn bản trong cấu trúc bản thể học và ngay cả trong kinh nghiệm sống của con người. Con người chỉ có thể tồn tại viên mãn, có ý chí vươn lên và sinh tồn khi có niềm hy vọng và sống cho một lý tưởng. Hy vọng, lý tưởng là điều con người phải hướng đến. Nó chưa hiện hữu trong hiện tại. Nếu đã hướng đến thì niềm tin chính là động lực. Do đó, với ánh nhìn này, “cầu nguyện” theo nghĩa rộng là một yếu tố thiết thực trong hành trình làm người.
Yếu tố này theo cách tiếp cận hiện sinh là một tổng hợp của lý trí, ý chí, tình cảm và tâm linh trong cơ cấu của bản thể học. Nó bao gồm và phát sinh từ kinh nghiệm sống; từ một cuộc tìm kiếm chân lý và cả một lòng khao khát vươn lên cho một “nỗi khát khao” của con người. Nó rất thiết thực nhưng thường bị lãng quên.

1. Kinh nghiệm sống
Auguste Comte phân chia lịch sử nhân loại thành ba thời kỳ: Thời kỳ siêu hình học, tôn giáo và cuối cùng là thời kỳ khoa học. Trong hai thời kỳ đầu con người hướng về “Thượng Đế.” Nhưng theo ông, khi con người sống và sinh hoạt với những thành tựu của khoa học, thượng đế không còn lý do để tồn tại. Con người không còn sợ hãi trước sự hùng vĩ của thiên nhiên nữa, vì họ biết rằng đó chỉ là những hiện tượng rất tự nhiên có thể giải thích và kiểm soát được nó. Trong khi đó, với Feuerbach, tôn giáo là một phóng chiếu của ước vọng con người lên một Thiên Chúa không hề hiện hữu. Henry Bergson nhìn nhận tôn giáo như là một phương tiện rất hữu ích giúp cho cuộc sống con người vui hơn, tốt hơn và đáng sống hơn. Tất cả những ý kiến này đều chấp nhận một thực tế mang tính lịch sử: niềm tin vào một “Thượng Đế” được hình thành trong và nơi cuộc sống thường nhật. Một cuộc sống, một lịch sử do chính sự hiện hữu của con người (Dasein) tạo nên, khi họ “tiếp thông” và “khai mở” với thế giới. Thế mà con người có giới hạn, con người không thể có một tiếp thông vô hạn, nên mở ra với thế giới trong một không gian và thời gian nhất định. Điều ấy có nghĩa rằng con người tiếp nhận thế giới trong một chân trời mà mình đang sống và việc tiếp nhận này mở ra cho họ một chân trời mới hơn. Cứ như thế, tầm nhìn con người càng mở rộng, kinh nghiệm thêm phong phú. Tầm nhìn giúp cho chiều sâu của kinh nghiệm càng phong phú hơn. Ngược lại, bề dày của kinh nghiệm củng cố thêm tầm nhìn và tạo ra một tiếp cận thật mới mẻ trong cuộc sống con người. Tương tự thế, kinh nghiệm về con người như là một “hữu thể nhân học,” “hữu thể cầu xin” được in sâu trong cuộc sống tại thế của con người.
Kinh nghiệm đầu tiên chính là kinh nghiệm về xã hội. Tôi được sinh ra trong một gia đình. Vừa mở mắt chào đời, tôi đã có người nâng niu, âu yếm và hỗ trợ cho tôi, tôi cần họ. Lớn lên, tôi cần đến những người bạn đến nỗi khi vào tuổi thiếu niên, tôi tin bạn hơn tin cha mẹ tôi. Khi trưởng thành, tôi cần sự giúp đỡ của các đồng nghiệp để chắp cánh cho tôi thăng tiến sự nghiệp. Một cách tự nhiên, tôi cần người bạn thân thiết hơn để đồng hành với tôi suốt đời. Đó có thể là người bạn đời, cũng có thể là người bạn cùng chí hướng, cùng lý tưởng hay cùng một sứ vụ. Cần bạn đương nhiên phải tin bạn. Tin bạn là bước vào một hành trình hy vọng. Thế mà tất cả niềm hy vọng đều bấp bênh và dở dang vì tự tôi, tôi không thể làm chủ nó được. Nó lệ thuộc vào đối tượng, nhưng đối tượng cũng bấp bênh và dở dang như tôi. Thực tế này đã biến tôi trở thành một “lời cầu khẩn” mặc nhiên với Thiên Chúa vô hình, mà trong thực tại tôi cứ lầm tưởng mình hoàn toàn tự chủ, tự quyết cuộc đời mình.
Từ kinh nghiệm này, tôi nhận ra xã hội không phải là một cỗ máy, được vận hành theo một nguyên lý và tiếp xúc với nhau dưới vai trò như một chức năng. Bởi vì tôi cần người khác, tôi có niềm tin vào người khác. Niềm tin và lời cầu khẩn mặc nhiên này cho tôi một cảm nghiệm và một kinh nghiệm: Tôi hiện hữu trong tương quan với tha nhân. Tha nhân mà tôi đối diện, mặt đối mặt được dựng nên theo và giống hình ảnh Thiên Chúa (x. St 1,26). Những người đó hiện diện trong cuộc đời, trong sự nghiệp và ngay cả trong sự sống của tôi. Theo Lévinas, họ là người tạo nên tôi, vì nhờ qua tương giao với họ mà người khác nhận biết tôi là một chủ thể mang tính xã hội. Chúa Giêsu nhắc cho tôi: tha nhân là chính Chúa, vì khi các con làm cho những người bé mọn này là làm cho chính Ta (x. Mt 25,31-46).
Mặt khác, Lévinas đã triển khai sự thật này rất hay qua việc phân tích “gương mặt” của tha nhân và khám phá được “Siêu Việt Thể,” khám phá ra Thiên Chúa mà tôi hướng về trong sự tôn kính. Như vậy, chính trong tương quan đạo đức này tôi có một kinh nghiệm mới trong tương quan với Thiên Chúa, Đấng siêu việt.
Ngoài ra, Lévinas cảm hứng từ Tin mừng khi nhấn mạnh đến cách thức nhận ra tha nhân không phải bằng lý trí, tư tưởng mà là qua thân xác, với thân xác: “mỗi lần các con cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống… là các con làm cho chính Thầy”. Chính với thân xác tôi nhận ra tha nhân và cũng nhận ra tôi. Kinh nghiệm này khiến cho tôi nhận ra mình mãi mãi là con người dang dở như cảm nghiệm của thánh Augustinô: “Lạy Chúa linh hồn con mãi khắc khoải khôn vơi cho đến khi nào được nghỉ an trong Chúa” (Tự thuật 1,1). Từ đây, tôi càng thêm xác tín: trải nghiệm cuộc sống làm người là trải nghiệm của một lời “cầu khẩn mặc nhiên” và tôi chỉ thực sự hiện hữu khi gắn bó với Thiên Chúa, nguồn sự sống và sung mãn.

2. Khao khát chân lý
Aristote định nghĩa “con người là con vật có lý trí”. Đông phương khẳng định: “Nhân linh ư vạn vật”. Cả Đông và Tây đều nhìn nhận lý trí như là đặc tính của con người so với các loài thụ tạo khác. Với lý trí, con người khao khát muốn đi tìm chân lý, tìm về căn nguyên của vũ trụ, nguồn suối của nhân loại. Lịch sử triết học từ Cổ đại cho đến thời Trung cổ, ngay cả Cận đại và Đương đại hình như là một sự cố gắng tìm kiếm “động cơ đệ nhất” hay cái “nền tảng nhất” theo nhiều cách thức và cách gọi khác nhau. Khi đi tìm như vậy, rất nhiều triết gia chấp nhận “Động cơ đệ nhất” ấy là đỉnh điểm tuyệt đối. Vì là tuyệt đối nên đương nhiên phải là tuyệt hảo, là sự thiện tối hậu, nguồn hạnh phúc mà con người, vũ trụ hướng tới để đạt được sự sung mãn tròn đầy. Xem ra triết học mang tính duy lý nhất thì vấn đề của nó cũng không chỉ nhằm vào một kết luận thuần lý, phục vụ cho khía cạnh tri thức, nhưng song song với nó là cả một ước vọng mong muốn tìm kiếm “sự thiện tối hậu” nằm trong nỗi khao khát hướng thiện của con người.
Hiểu như thế nhưng không thể đồng hoá Thiên Chúa của lý trí và Thiên Chúa của đức tin được, vì một bên thuần lý, bên kia là một ngôi vị. Phải chăng cầu nguyện vừa hướng về Thiên Chúa của lý trí và Thiên Chúa của mặc khải?
Chỉ có Thiên Chúa ngôi vị là Đấng mà chúng ta có thể cầu nguyện, vì Ngài thông suốt và biết được ý muốn của con người. Sách Xuất Hành đã tường thuật lại câu chuyện “Bụi gai bốc cháy” (x. Xh 3,1-22), qua đó Thiên Chúa mặc khải tên mình cho Môsê: “Ta là Yahve” (x. Xh 3,14). Đức Bênêdictô XVI đã chuyển dịch tên Thiên Chúa bằng những hạn từ rất hiện sinh: “Ta là Hiện hữu”. Người hiện diện nên Người ở bên, kề cận chúng ta và sẵn sàng lắng nghe, cũng như đáp ứng lời kêu cầu của dân chúng. Người đã nghe tiếng kêu than của dân Người và mời gọi Môsê như cánh tay nối dài tỏ bày tình yêu và lòng thương xót của Người.
Khi cầu nguyện, chúng ta cần một Thiên Chúa ngôi vị để lắng nghe, để đáp lại chúng ta, nhưng lý trí không dừng ở đó, nó buộc con người phải chấp nhận Thiên Chúa phải là Đấng bất biến. Tính bất biến này không theo nghĩa tĩnh tại, trái lại sống động tuyệt đối và không bị chi phối bởi bất cứ tác động ngoại tại nào (xem tư tưởng của Aristote về động cơ đệ nhất, nguyên nhân đệ nhất). Trong lịch sử thần học, hai yếu tố này được diễn tả qua hai con đường thần học: Augustinô và Kinh viện. Một bên nhấn mạnh đến tính duy nhất; bên kia là tính bất biến tích cực, gắn liền với sự trở thành và thay đổi. Như vậy, Thiên Chúa của lý trí và mặc khải có những chủ ý khác nhau, nhưng cũng chỉ nói về một Thiên Chúa. Ngài là “Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Jacob”, nghĩa là một ngôi vị; Thiên Chúa đó cũng đồng thời là Đấng tuyệt đối, bất biến và là nguyên nhân đệ nhất. Ngài vừa gần gũi, vừa siêu việt.
Thật vậy, cầu nguyện với Thiên Chúa là đối thoại, là yêu. Nếu là đối thoại, là yêu thì Thiên Chúa sẽ như là một người bạn. Ngài là bạn mà lại siêu việt và bất biến. Hai yếu tố bạn và bất biến không hề đối lập nhau. Vì khi đối thoại Thiên Chúa phải là Đấng đang hiện diện, cụ thể, gần gũi, lắng nghe như một người bạn, nó thuộc về khía cạnh hiện sinh. Nhưng Ngài cũng là bất biến, siêu việt thì mới thực sự hợp lý khi đề cập đến một Thiên Chúa sẵn sàng lắng nghe và đáp ứng lời kêu cầu của con người. Ở đây, rõ ràng tri thức và hiện sinh song hành, đồng thời bổ túc cho nhau khi con người cầu nguyện. Tri thức (lý trí) soi sáng cho cầu nguyện (đức tin), và ngược lại, cầu nguyện củng cố tri thức (lý trí). Trong thực tế, nếu chúng ta không quan tâm khía cạnh hiện sinh (cụ thể) khi cầu nguyện, thì trước mặt chúng ta chỉ là thần tượng của một siêu việt thể trống rỗng. Nếu chỉ dừng lại khía cạnh hiện sinh, thì tính siêu việt của Thiên Chúa có nguy cơ hạ thấp và trở thành tầm thường. Nếu thiếu một trong hai thì con người không đủ động lực để kiên trì với đời sống cầu nguyện. Lúc đó, cầu nguyện trở thành như một trò ma thuật, áp đặt ý muốn của mình trên Thiên Chúa và “ép” Ngài thực hiện những gì chúng ta muốn. Như vậy, kinh nghiệm sống, tri thức và khát vọng là ba chiều kích tạo nên một tác động cầu nguyện thật sự nơi người Kitô hữu.

3. Khát vọng
Qua cuộc sống, chúng ta có những kinh nghiệm về sự linh thánh khác nhau. Theo Rudolph Otto , con người tiến lên theo ba cấp độ mỗi ngày một cao siêu hơn.
Trước hết, kinh nghiệm linh thánh như là một sự gặp gỡ với “nỗi sợ hãi”. Nó cũng giống như tư tưởng của Auguste Comte khi đề cập đến giai đoạn siêu hình học trong tiến trình phát triển của con người. Con người đứng trước một Thiên Chúa, một Thượng Đế quyền năng, oai nghiêm. Nên gặp gỡ với Thiên Chúa này như là gặp gỡ một điều gì đó cao cả hơn chúng ta. Đứng trước “Đấng này” chúng ta cảm thấy mình quá nhỏ bé, yếu đuối và chẳng là gì cả. “Đấng ấy” giống như một ông vua mà chúng ta được biết qua lịch sử, qua những thước phim… rất oai phong và quyền uy mà tất cả thần dân phải cúi mình, không dám diện kiến. Cựu ước một phần nào đã từng phác hoạ một Thiên Chúa như thế mà không ai có thể nhìn thấy “nhan thánh” Ngài. Ngay cả Môsê đã được diện kiến, nhưng chỉ thấy ở phía sau, vì Ngài là Đấng chí thánh, ai nhìn thấy sẽ phải chết (x. Xh 33,18-33).
Thứ đến, sự linh thánh như là cuộc gặp gỡ với huyền nhiệm. Jaspers đã diễn tả kinh nghiệm này trong quyển sách với tựa đề “Philosophie”, gồm ba quyển, mà quyển thứ 3 đề cập đến Siêu Việt Thể. Theo ông, Siêu Việt Thể là đối tượng của hiện sinh, của kinh nghiệm sống, chứ không phải là đối tượng của tri thức. Đây là kinh nghiệm tinh thần. Thế nhưng, chúng ta chỉ có thể chứng nghiệm có Siêu Việt Thể và biết mình đang tiếp cận, nhưng không bao giờ bao quát được. Đây cũng là kinh nghiệm của Pascal “nếu có một Thiên Chúa thì Ngài vô cùng khôn dò, chúng ta không thể biết Ngài như Ngài có”. Thiên Chúa đó hoàn toàn khác biệt, con người hướng đến gặp Ngài trong sự tôn kính và bối rối, hoàn toàn xa lạ với chúng ta.
Cuối cùng, thực tại linh thánh thì “hấp dẫn”, lôi kéo chúng ta đến với nó, làm cho con người khát khao. Nó không làm cho chúng ta khiếp sợ, trái lại hấp dẫn lôi kéo tới và đồng thời đẩy chúng ta ra xa. Kinh nghiệm này là kinh nghiệm của Môsê khi đối diện với bụi gai bốc cháy (x. Xh 3,1-22). Ông bị hấp dẫn bởi “Bụi Gai” kỳ lạ, với lời mời gọi của Chúa nhưng đồng thời ông phải tháo dép ra “vì nơi đây là nơi thánh.”
Trong khi đó, Tân ước trình bày một kinh nghiệm rất hiện sinh về linh thánh: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18), để “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9b). Như vậy, Chúa Giêsu là “nhan thánh” của Chúa Cha mà con người có thể chiêm ngưỡng, tiếp cận, đối thoại và sống cùng. Ngài trở nên bạn, rất gần gũi, trở nên của ăn và hiệp thông trọn vẹn qua việc trao ban chính mình qua bí tích Thánh Thể. Kinh nghiệm linh thánh cho con người giải được “cơn khát” nằm sâu trong cấu trúc căn bản của bản thể, luôn hướng về sự thiện hảo tối thượng. Sự Thiện Hảo mà con người đạt đến qua con đường hiện sinh và ân huệ đến từ Thiên Chúa.
Các kinh nghiệm này tuy được phân chia rạch ròi, nhưng trong thực tế, nó pha trộn vào nhau. Việc pha trộn này tuỳ thuộc vào hai yếu tố: Thiên Chúa mà họ khao khát hướng đến theo kinh nghiệm nào và tình yêu nuôi dưỡng lòng khao khát này là eros, philia hay agape. Thực tế cuộc sống cho thấy Thiên Chúa mà ta hướng về cũng có thể thay đổi: thay đổi từ một ông vua qua huyền nhiệm hay ngược lại; hoặc trở thành “Đấng hấp dẫn” chúng ta hay một Thiên Chúa tình yêu. Trong chiều hướng khác, tình yêu mà chúng ta dành cho Thiên Chúa cũng thay đổi, vì trần gian đang dang dở, nên eros, philia và agape không bao giờ là một đường thẳng, trái lại là một sự pha trộn, thay đổi liên tục tuỳ theo chủ hướng và hoàn cảnh của con người. Bởi thế mà cấu trúc bộ ba của cầu nguyện: kinh nghiệm sống, lý trí và khát vọng luôn tương tác lẫn nhau. Trong cấu trúc này luôn bao hàm tính nội tại và ngoại tại. Tính nội tại nhấn mạnh đến thái độ tự do, thúc đẩy để ngoại tại đạt đến trạng thái tròn đầy của hành vi cầu nguyện: nâng mình lên với Thiên Chúa, trong cuộc đối thoại thân tình, với một tình yêu thực sự.
Trong niềm tin Kitô giáo, tự do phải là tự do của con cái Chúa, là ân huệ nhưng không, luôn hướng về sự thiện. Với triết học hiện sinh hữu thần, trong đó, G. Marcel quan niệm tự do hiện sinh là một cam kết cụ thể trong mỗi hành vi của một tinh thần nhập thể, nghĩa là không phải tinh thần suông hay thân xác suông. Theo ông, tự do mời gọi chúng ta phải hiện diện với thế giới trong từng giây phút hiện tại với cả tinh thần và thể xác. Jaspers thì chủ trương tự do là một trách nhiệm và một lo âu của một nhân vị đã tự giác và dám tự quyết. Quan niệm của G. Marcel và Jaspers, mỗi người có một dáng vẻ khác nhau, nhưng nhấn mạnh đến trách nhiệm của nhân vị tự do, đảm nhận những hoàn cảnh cụ thể. Theo đó, tính nội tại của cầu nguyện là một thái độ tự do trách nhiệm với mình, với tha nhân và với thế giới. Một thái độ như thế rất gần với tự do Kitô giáo.
Nếu việc cầu nguyện của chúng ta có được động lực của tự do này, lòng khao khát hướng về Thiên Chúa ngôi vị sẽ lần lượt tiến lên từ “yêu mình vì mình”, một tình yêu vị kỷ, để tiến tới “yêu Chúa vì mình”, vì Chúa là Đấng tốt lành và vươn xa hơn là “yêu Chúa vì Chúa”, để cuối cùng đạt tới mức thần hoá: “yêu mình vì Chúa.” Đây là đích đến của việc cầu nguyện và là tiếng Amen tròn đầy của một cuộc đối thoại tình yêu giữa Thiên Chúa và con người.
Cầu nguyện không phải là chủ đề của triết học, ít là theo trào lưu của triết học cận đại và hiện đại, nhưng hành vi cầu nguyện là hành vi của một “tinh thần nhập thể”. Nó cần có đức tin như là ân huệ của Thiên Chúa; nó cũng cần đến những gì thuộc về thân xác, vì cầu nguyện luôn luôn là cầu nguyện trong thân xác. Theo Merleau Ponty: tôi là thân xác tôi; thân xác tôi là tôi. Vì thế, đề cập đến cầu nguyện theo góc độ triết học là một nỗ lực giúp mỗi người khám phá ra tầm quan trọng của kinh nghiệm sống, tri thức và khát vọng.
Kinh nghiệm sống được hình thành qua cuộc sống của mỗi người. Kinh nghiệm ấy có trở thành trợ lực cho hành vi cầu nguyện đích thực hay không tuỳ thuộc vào ý hướng của mỗi người. Nếu cuộc đời chúng ta “chỉ tìm kiếm một mình Thiên Chúa” và “mến mộ việc phụng vụ”, đương nhiên tâm hồn sẽ mãi hướng về Chúa và ước mong được “nên một” như lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong “Lời Nguyện Hiến Tế” (x. Ga 17). Song song với việc đào luyện chủ ý của mình, thiết nghĩ phải toàn tâm, toàn ý thanh luyện lý trí để có một sự hiểu biết Thiên Chúa đích thực, là nền tảng vững chắc cho một tình yêu agape trọn hảo, vì “chúng ta không thể không yêu Chúa nếu chúng ta biết rõ Chúa”.

LẠY TRỜI!
Cầu nguyện trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam

FM. Lasan Ngô Văn Vỹ

Việt Nam là một quốc gia đa văn hóa, đa tín ngưỡng, đa tôn giáo. Các tôn giáo du nhập vào lãnh thổ Việt Nam cũng đa dạng: Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Kitô giáo, Hồi giáo… Các tôn giáo này, theo những cách thức riêng, khi hiện diện trên đất nước Việt Nam, đều ít nhiều chịu ảnh hưởng sâu đậm của tín ngưỡng dân gian. Tín ngưỡng ấy được biểu lộ rõ nét qua lễ nghi tế tự, truyền thuyết, chuyện cổ tích, hay tục ngữ, ca dao, văn thơ… Nổi bật trong các tín ngưỡng dân gian Việt Nam là tín ngưỡng thờ Trời. Cho nên dân gian Việt Nam từ bao đời kêu Trời một cách thân thương “Ông Trời”. Người Việt thành kính, kêu van, cầu khấn Trời với nhiều cung bậc tha thiết: Lạy Trời! Ôi Trời! Trời ơi!…
Trong bài viết này, người viết sẽ trưng dẫn một số tục ngữ, ca dao nhằm cho thấy tâm tình cầu nguyện được thể hiện sâu rộng trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Trước hết, ta có thể hiểu: “Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng. Niềm tin này gắn với siêu nhiên…”
Đối với dân gian Việt Nam, tín ngưỡng “Trời” đã có sẵn trong huyết mạch, “Trời” được gọi bằng “Ông”; “Ông Trời” nghĩa là một Đấng linh thiêng siêu việt làm chủ cả vòm trời xanh “Trời có mắt”, Trời hữu vị, quyền năng chăm sóc mọi loài “không có Trời ai ở với ai!”; “Trời sinh, Trời dưỡng”; “Sống nhờ ơn trời, chết về chầu trời”. Niềm tin vào “Ông Trời” thôi thúc dân gian ta đến thái độ thành kính, nguyện cầu trong mọi hoàn cảnh.

1. Cầu Trời khi gặp khó khăn hoạn nạn
Mỗi khi gặp điều chưa ưng ý hay gặp cơn gian nan hoạn nạn, dân gian ta đặt trọn niềm tin tưởng cầu khấn, cậy nhờ Trời thương:

Nghiêng vai ngửa vái ông Trời,
Đương cơn hoạn nạn, độ người trần gian.

Nửa ngày mưa bụi gió bay,
Anh bưng thau nước chắp tay vái Trời.

Trông Trời cho chóng đến mai
Ra đường gặp bạn trao vài ba câu.

Phải chi lên đặng ông Trời,
Hỏi xem duyên nợ đổi dời về đâu.

Trời mưa thì mặc trời mưa.
Tôi không tơi nón, Trời đưa tôi về.

2. Cầu Trời cho công việc làm ăn:
Đất nước Việt Nam ta vốn thuần nông, việc canh tác đất đai hoa màu chủ yếu phụ thuộc vào thời tiết, cho nên dân gian thường xuyên nguyện xin Trời giúp cho thời tiết ôn hòa, mùa màng tươi tốt để có cuộc sống ấm no:

Lạy Trời, trăm lạy Trời ơi,
Trông cho trong ruộng ngoài khơi được mùa.

Trông Trời một trận mưa sa,
Để cho ngoài ruộng trong nhà được vui.

Lạy Trời mưa thuận gió đều
Cho đồng lúa tốt cho chiều lòng em.

Cầu nguyện trong tín ngưỡng dân gian còn được nối dài và âm vang qua lòng biết ơn đối với Trời:

Nhờ Trời Hạ kế sang Đông
Lúa khoai no đủ, thong dong con người.

Nhờ Trời mưa gió thuận hòa
Nào cày nào cấy trẻ già đua nhau.

Trời cho cày cấy đầy đồng
Xứ nào xứ ấy trong lòng vui ghê.

Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp
Lấy nếp nấu xôi
Lấy vôi ăn trầu
Lấy bậu về ôm
Lấy nơm đơm cá
Lấy rá vo gạo
Lấy dao thái thịt
Lấy liếp làm nhà
Lấy hoa về cúng
Lấy thúng đựng tiền
Lấy tiên làm vợ
Lấy chợ bán đồ
Lấy ngô nuôi lợn
Lấy bợm làm bè
Lấy ghe đánh cá
Lấy vá múc canh
Lấy hành xào thịt
Lấy vịt tiết canh
Lấy manh áo mới
Lấy trời chở che
Lấy mè rang muối
Lấy chuỗi trân châu
Lấy trâu đi cày
Lấy bầy trẻ con
Lấy hòn đá cuội
Lấy bụi chuối cau
Lấy màu nhuộm áo
Lấy đạo để theo
Lấy cheo đóng làng
Lấy hàng rau muống.

Trong công việc làm ăn, tâm tình cầu nguyện của dân gian Việt Nam ta là phó dâng, nhờ cậy Trời phù trợ trong những hoàn cảnh đặc biệt nhất là khi “ra khơi vào lộng”:

Ra đi sóng biển mịt mù,
Trời cho lưới nặng dô hò ta kéo lên.

Tới đây lạ bến đậu nhờ,
Vái Trời lớn gió cho sóng trong bờ đừng chao.

Ra khơi bữa có bữa không,
Lạy Trời đừng để tố giông cho mình.

Lạy Trời thổi ngọn gió Đông
Xuôi buồm thuận gió cho chồng tôi vô.

3. Cầu Trời cho hôn nhân thành sự
Như đã nói, Trời là Đấng linh thiêng siêu việt, “Đấng ấy” còn được dân gian Việt Nam tuyên xưng bằng nhiều danh khác nữa: Tạo Hóa, Hóa Công, Con Tạo, Thượng Đế, Thiên Chúa, Chúa Trời… Theo nhận xét của tiến sĩ Nguyễn Huy Thông: ”Cả một kho tàng ca dao, tục ngữ Công giáo cũng đã được lưu hành để phản ánh về phong tục, tập quán của cộng đoàn này.” Cho nên, dân gian ta có những lời khấn nguyện tha thiết:

Lạy Trời cho đặng vuông tròn
Trăm năm cho trọn lòng son với chàng.
Amen, lạy Đức Chúa Trời
Xin cho bên Đạo, bên Đời lấy nhau.

Dù thế, ca dao Công giáo cũng nhắc khéo những chàng trai ngoài Công giáo theo đạo, cầu nguyện chỉ với mục đích cưới vợ:

Em lạy Đức Chúa Ba Ngôi
Em lấy được vợ em thôi nhà thờ.

Đồng thời, ca dao cũng nhắc nhở người cầu nguyện hãy biểu lộ lòng tin bằng hành động trong cuộc sống thường ngày:

Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ
Đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau.

4. Cầu Trời cho hạnh phúc gia đình
Lời cầu nguyện của dân gian Việt Nam với Trời rất đơn sơ thành kính, cầu Trời phù hộ cho người thân, cho con trẻ ăn – ngoan, vui khỏe, cho vợ chồng được bình yên, cha mẹ được trường thọ:

Lạy Trời phù hộ ấu nhi
Ăn no chóng lớn, biết đi biết đùa.

Chàng về để thiếp xin đưa
Xin Trời lại nắng khoan mưa trơn đường.

Nhà anh ước Phật, nhờ Trời
Bố mẹ sinh đã được mười anh em.

Đêm đêm ra thắp đèn Trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

5. Cầu Trời cho đất nước thoát cảnh chiến tranh
Trong hoàn cảnh đất nước nội chiến triền miên, các vua chúa “xưng hùng xưng bá”, người dân dù có ở hai chiến tuyến khác nhau nhưng họ một lòng kêu van Trời cho cuộc chinh chiến mau thành công:

Lạy Trời cho cả gió nồm,
Cho thuyền chúa Nguyễn căng buồm tiến ra.
(phương Bắc đánh chúa Trịnh?)

Lạy Trời cho cả gió lên,
Cho cờ vua Bình Định bay trên kinh thành (Phú Xuân).

Trời ôi! Sinh giặc làm chi,
Cho chồng tôi phải ra đi chiến trường.

6. Cầu Trời cho cuộc sống được bình an
Có khi lời cầu nguyện của dân gian với Ông Trời thốt thành tiếng kêu than ai oán trước nghịch cảnh cuộc đời:

Trời ơi! có thấu tình chăng?
Một ngày đằng đẵng xem bằng ba thu!

Trời sao Trời ở chẳng cân,
Kẻ ăn không hết, người lần không ra.

Lá vàng còn ở trên cây
Lá xanh rụng xuống Trời hay chăng Trời!

Lạy Trời cho miễn sống lâu
Ai kêu bằng chó bằng trâu cũng ừ.

Trời ơi! Có thấu tình chăng,
Con người nhân nghĩa lai căng mất rồi.

Vì thế mà dân gian ta dám nài van:

Trăm lạy ông Trời chớ điếc, đừng đui
Để hai con mắt coi người thế gian.

Có khi những lời cầu nguyện trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam kêu khấn tới Trời, nhờ Trời xét xử công minh, trừng phạt cái ác, cái xấu trong xã hội:

Những người nói láo nói không
Xin Trời quăng xuống giữa sông Bồ Đề.

Hẳn là còn rất nhiều tục ngữ, ca dao diễn tả tâm tình cầu nguyện trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam mà người viết không thể nào truy tầm hết được. Nhưng qua một số câu tục ngữ ca dao trên đây cũng đủ cho thấy tâm tình cầu nguyện trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam rất phong phú, rất tha thiết trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Điểm đặc biệt trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam là thờ Trời. Dĩ nhiên, Trời ở đây không phải là bầu trời xanh mà là “Ông Trời” – Đấng Tạo Hóa quan phòng mọi sự, chăm sóc hết mọi loài. Nên trong tâm thức dân gian Việt Nam: Trời tuy xa mà gần, uy linh siêu việt mà thấu cảm từng nỗi niềm của con người để ra tay giáng phúc, cho mưa thuận gió hòa, cứu giúp người hoạn nạn… và trừng phạt kẻ ác. Bởi vậy, “Ông Trời” trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam cũng thực là Đức Chúa Trời, là chính Thiên Chúa mà tín hữu Kitô tin tưởng khẩn cầu, như thế tín ngưỡng dân gian Việt Nam và niềm tin Kitô giáo chẳng những không mâu thuẫn mà còn làm phong phú cho nhau. Niềm tin “Ông Trời” thôi thúc người ta cầu nguyện, càng cầu nguyện thành kính người ta càng nhận biết Ông Trời đúng là Đức Chúa Trời, là Cha toàn năng luôn yêu thương săn sóc mọi loài:

Xưa kia chỉ biết kêu Trời,
mà nay đã biết gọi Trời là Cha,
trần gian chẳng phải là nhà,
đi về vĩnh cửu gặp Cha trên trời.

 

MARIA ĐÃ CHỌN PHẦN TỐT NHẤT

FM. Phanxicô Salêsiô Phạm Kim Ngân

Sống ở đời, ai cũng muốn sống tốt và sống đúng với ơn gọi của mình. Tuy nhiên, con người thường bị chi phối, lôi cuốn vào những điều tùy phụ mà quên đi điều chính yếu; làm điều mình thích mà bỏ lỡ mục đích sống. Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, tâm hồn ta dễ bị phân mảnh, suy yếu bởi việc gắn bó, phân tâm vào những điều vụn vặt, tầm thường của cuộc sống.
Để nhận thấy tầm quan trong của sự chọn lựa, chúng ta cùng đọc lại câu chuyện Mácta và Maria trong Tin mừng Luca (Lc 10,38-42). Đây là một trong những giáo huấn nổi bật về quy luật sống của người môn đệ. Bởi vì đối với Chúa Giêsu, đời sống của người môn đệ nhất thiết phải có một nấc thang giá trị làm quy luật sống cho mình. Sẽ là đáng khen nếu ta biết nắm bắt cơ hội để lắng nghe Lời, và sẽ là “đáng thương” nếu ta băn khoăn, lo lắng nhiều chuyện bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ, chuyện trò với Chúa.

1. Maria đáng khen
Maria đáng khen không phải cô đã làm gì hay nói gì nhưng ở thái độ im lặng lắng nghe. Có lẽ Maria ý thức được rằng: vị khách mà cô đang tiếp đón chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Tiếp đón Lời thì lắng nghe là điều phù hợp. Bởi có lời Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7).
Với cử chỉ lắng nghe, Chúa Giêsu đã khen và công nhận “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bao giờ bị lấy mất”. ‘Phần tốt nhất’ hiểu theo nghĩa Kinh thánh có nghĩa là “số phận” hay “phần gia nghiệp”. ‘Không bao giờ bị lấy mất’ nghĩa là một sự bảo đảm chắc chắn, trường tồn, không bị mối mọt gặm nhấm hay kẻ trộm đục khoét (x. Mt 6,19-20).
Maria lặng lẽ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Một hình ảnh thật đẹp! Còn gì bằng khi khách được người nhà tiếp đón với cả tấm lòng. Maria đã mở lòng, quy phục đón nhận Lời. Thật là xứng hợp khi vị khách là Ngôi Lời được tiếp đón bằng sự lắng nghe. Theo Robert P. Maloney: “Là một người môn đệ, việc phục vụ đầu tiên mà bạn sở hữu Thiên Chúa là lắng nghe lời Người.”
Như vậy, Maria đã làm đúng vai trò của người môn đệ là chăm chú lắng nghe lời Thầy dạy. Hơn nữa, với việc chăm chú lắng nghe, tương quan thầy-trò đã trở thành tương quan bạn hữu, người nhà của Chúa: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15).
Trái ngược với với hình ảnh trầm lặng và lắng nghe của Maria là sự năng động, hoạt bát của người chị Mácta.

2. Mácta “đáng thương”
Nếu như Chúa Giêsu nhận từ Lazarô một tình bạn chân thành, từ Maria sự đơn sơ trầm lặng, biết lắng nghe thì Người cũng nhận từ Mácta, một người đảm đang nhanh nhẹn và tinh tế, sự tiếp đón nồng hậu và tinh thần hiếu khách. Cùng một lúc chị phải đảm nhận nhiều vai trò trong một gia đình khuất bóng cha, vắng bóng mẹ. Cô luôn muốn mọi sự trong gia đình phải được diễn ra một cách chỉn chu và tốt đẹp nhất.
Chính trong bối cảnh ấy ta có thể hiểu thái độ và tâm tình của Chúa Giêsu khi nói: “Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!”. Đây là lời “trách yêu” của Chúa Giêsu với cô Mácta. Qua đó, Người muốn mời gọi cô đi vào sự hiệp thông với Người cách trọn vẹn hơn. Trong Kinh thánh, khi gọi tên ai đến hai lần là nhấn mạnh, đề cao vai trò và phẩm giá của người đó lên. Có lẽ, Chúa Giêsu muốn nói: ‘Mácta! Mácta! Con đừng quá bận tâm đến đồ ăn thức uống, hãy đơn giản thôi, để còn có thời gian ngồi lại với Thầy. Thầy đến là để gặp gỡ nói chuyện với con và muốn nghe con tâm sự.’ Trong chiều hướng đó, Chúa Giêsu không có ý chê trách hoặc xem thường việc phục vụ của Mácta. Nhưng Người nhận sự tiếp đón của cô với lòng biết ơn.
Chứng kiến cảnh Mácta tất bật với công việc, Chúa Giêsu dường như cảm thương cho Mácta, vì nhiệt tâm phục vụ mà bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ chuyện trò, tâm sự với Người. Vì thế, sự lo lắng của cô cần được nhắc nhở là vì điều đó có thể làm quên đi điều “cần thiết nhất”. Nói cách khác, Mácta đáng thương hơn là đáng trách. Hơn nữa, ngang qua lời ‘trách yêu’ của Chúa Giêsu, ta cảm thấy vang vọng giáo huấn của Người về sự quan phòng (x. Lc 12,22-32; Lc 8,11-15; Lc 21,34-36).
Mọi việc phục vụ cần được làm cách tốt nhất có thể. Nhưng chính Chúa và việc lắng nghe Lời phải là trọng tâm của đời sống. Hay nói cách khác, đời sống của người môn đệ phải những bậc thang giá trị.

3. Giá trị ưu tiên của việc phục vụ Lời
Thật rõ ràng, qua sự sắp xếp và cách trình bày câu chuyện, thánh Luca muốn nói lên rằng: hành trình sống của người môn đệ phải có một nấc thang giá trị; trước hết và trên hết là chính Chúa sau đó mới là công việc của Chúa.
Nếu chúng ta đối chiếu câu chuyện Mácta và Maria với câu chuyện thiết lập bảy phó tế trong sách Công vụ Tông đồ (Cv 6,1-6) sẽ thấy một sự tương đồng có dụng ý.
Câu chuyện trong sách Công vụ, thánh sử Luca cho ta biết: lúc bấy giờ, trước những lời than phiền của các bà goá, các Tông đồ tự thấy họ phải chọn lựa giữa việc rao giảng Lời của Thiên Chúa và việc phục vụ bàn ăn. Bấy giờ họ quyết định uỷ thác việc phục vụ này cho bảy người có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan. Còn họ chỉ chuyên tâm lo cầu nguyện và phục vụ Lời: “Chúng tôi bỏ việc rao giảng lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Thiên Chúa” (Cv 6,2-4).
Có một mối liên hệ giữa hai câu chuyện mà chúng ta có thể rút ra: Việc lắng nghe Lời có giá trị ưu tiên hơn việc phục vụ khách; việc phục vụ Lời phải được đặt lên trước việc phục vụ bàn ăn. Ở đây, Luca nhìn nhận cả hai việc phục vụ đều có giá trị, nhưng Lời được lắng nghe hay được rao giảng xuất hiện như giá trị ưu tiên hơn.
Có thể nói rằng, hai hình ảnh: Maria ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe, Mácta tất bật, tận tâm với việc phục vụ, tượng trưng cho hai khuynh hướng không thể tách rời của một môn đệ: Họ vừa là con người hoạt động vừa là con người chiêm niệm. Hình ảnh này thật gần gũi, thiết thực làm nên đời sống của đan sĩ cách trọn vẹn, đó là cầu nguyện và lao động.

4. Mácta và Maria, bài học cho đan sĩ
Nhịp sống của đan sĩ khi thì lặng lẽ ngồi bên chân Chúa để lắng nghe như cô Maria, lúc thì tất bật với công việc chân tay như cô Mácta. Hai chiều kích đó bổ túc và hoà quyện vào nhau thành một nhịp điệu đều đặn, bình lặng trong âm thầm và cô tịnh. Trong cầu nguyện có lao động và trong lao động có cầu nguyện. Theo thánh Biển Đức, nếu chỉ có cầu nguyện mà không lao động thì không phải là đan sĩ: “Chỉ khi nào ta sống bằng thành quả của mình mới thực là đan sĩ” (CR 48,8). Còn cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã dạy: Nếu đan sĩ lao động mà không cầu nguyện thì đan viện trở thành nhà nông phu (x. DN 118). Lao động và cầu nguyện là nhịp sống của đời đan tu. Tuy nhiên, với thời gian, đan sĩ dễ rơi vào xu hướng của Mácta: băn khoăn, lo lắng, bị công việc lôi cuốn mà quên dành thời gian ngồi lại bên Chúa.
Quả thật, trong những năm đầu đời tu, với lòng nhiệt thành hăng say ban đầu, chúng ta dễ “sống với” Chúa. Nhưng theo dòng thời gian, với những trách nhiệm được giao, chúng ta dễ bị cuốn vào công việc, dần dà chỉ còn biết “làm cho” Chúa mà quên đi điều chính yếu vẫn là “ở với” Chúa.

Kết luận
Qua những gì đã suy tư, chúng ta nhận thấy rằng: Câu chuyện Mácta và Maria đón tiếp Chúa, nếu chỉ dừng lại ở câu chữ sẽ dẫn đến sự ngộ nhận là Chúa Giêsu bênh vực, đứng về phía Maria; lên án, coi nhẹ việc phục vụ của Mácta. Trọng tâm của câu chuyện là chính Chúa Giêsu. Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Người đến thế gian là để ban phát Lời Hằng Sống, Lời có sức biến đổi đem lại sự sống vĩnh cửu. Vì thế, nhiệm vụ của người môn đệ là lắng nghe Lời. Mọi việc phục vụ là cần thiết, nhưng tất cả chỉ có ý nghĩa và mang lại kết quả khi được làm trong tâm thế của một tâm hồn đang hướng “tai lòng” để lắng nghe tiếng Chúa.
Ước gì qua câu chuyện Maria và Mácta đón tiếp Chúa, mỗi người sẽ có câu trả lời cho những chất vấn câu hỏi này: Trong hành trình sống đức tin và ơn gọi, Chúa có là đối tượng duy nhất của lòng trí tôi không? Điều gì đang cản trở tôi ngồi lại bên Chúa?

 

CUNG CÁCH KHI HÁT THÁNH VỊNH
THEO TU LUẬT THÁNH BIỂN ĐỨC

 

FM. Tôma Aquinô Thái Văn Dũng

Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn mọi Kitô hữu. Đan sĩ sẽ không còn là đan sĩ nếu không cầu nguyện. Đó là lý do tại sao cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã đưa ra một định nghĩa tuy rất ngắn nhưng đầy đủ về đan sĩ như sau: Đan sĩ là con người cầu nguyện. Nhưng cầu nguyện ra sao và bằng cách nào? Có nhiều cách để diễn tả sự cầu nguyện. Theo thánh Têrêxa Avila: “Cầu nguyện là một sự trao đổi thân tình, chuyện vãn với Chúa, Đấng chúng ta biết là Ngài yêu chúng ta,” “là một tương quan giao ước giữa Thiên Chúa và con người trong Đức Kitô.” Hay theo cách nói của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận thì cầu nguyện là “sự gặp Chúa cách thân tình, như giữa cha và con.” Nhưng làm sao để giúp các đan sĩ chuyện vãn luôn với Chúa? Truyền thống xa xưa trong đời sống Giáo hội, đặc biệt là trong đời sống đan tu đã cho đan sĩ một phương thế tuyệt hảo để tâm sự và cầu nguyện luôn với Chúa và nó vẫn còn tồn tại mãi tới nay. Đó là dùng các Thánh vịnh mà cầu nguyện, cũng được gọi là cầu nguyện với các giờ thần vụ hay Phụng vụ Giờ kinh . Đề tài của bài viết này: Cung cách khi hát Thánh vịnh theo Tu Luật thánh Biển Đức (chương 19), gợi lên cho ta một vài suy tưởng cần tìm hiểu và phân tích về việc cầu nguyện với Thánh vịnh, và cung cách khi cầu nguyện với các Thánh vịnh những mục sau: 1) Thánh vịnh là gì? 2) Tầm quan trọng của cầu nguyện với Thánh vịnh trong đời sống Giáo hội nói chung và trong đời sống đan tu nói riêng? 3) Cung cách khi hát Thánh vịnh theo Tu luật thánh Biển Đức.

1. Thánh vịnh là gì?
Các Thánh vịnh được kết lại với nhau thành bộ sách Thánh vịnh, là “một cuốn Kinh thánh thu gọn trong đó bao gồm những gì đẹp nhất và ngắn gọn nhất của Kinh thánh.” Nó bao gồm hầu như toàn vẹn những yếu tố thần học. Nơi đó diễn tả tất cả những tâm tư, tình cảm, cả những nỗi khắc khoải, và tất cả mọi cảnh huống mà dân Israel đã từng cảm nhận và sống. Chính họ dâng lên Thiên Chúa tất cả những tâm tư ấy trong cuộc sống lữ hành. Nếu cầu nguyện là cuộc chuyện vãn giữa con người với Thiên Chúa, thì sách Thánh vịnh của người Do thái là cuốn sách tuyệt hảo để diễn đạt cuộc sống cũng như tâm tư của những cuộc chuyện trò ấy. “Thiên Chúa cũng như con người, mà đại diện là vịnh gia, đã ký thác vào trong từng Thánh vịnh, từng câu, từng chữ những tâm tình, ưu tư hay ước nguyện của mình dưới sự hướng dẫn của Thần Khí.” Vì thế, nếu đi xa hơn một chút ta nhận ra một điều, nếu Kinh thánh là lời của Thiên Chúa nói với con người, thì ở đây “các Thánh vịnh – không chỉ là Kinh thánh – mà nó còn chứa đựng cả lời cầu nguyện của con người.”
Bộ sưu tập Thánh vịnh của người Do thái chứa đựng tâm tình chúc tụng, bao gồm 150 Thánh vịnh và được chia thành 5 cuốn. Cuốn thứ nhất khởi từ Thánh vịnh 1- 41, cuốn thứ hai từ Thánh vịnh 42-72, cuốn thứ ba từ Thánh vịnh 73-89, cuốn thứ tư từ Thánh vịnh 90-106, và cuốn thứ năm từ Thánh vịnh 107-150. Theo ngôn ngữ của bản văn Kinh thánh Hipri, các Thánh vịnh được gọi là “Tehillim”, có nghĩa là những bài ca chúc tụng, theo nghĩa tiếng Việt “là lời tán tụng thần linh (vì “thánh”: thuộc về thần linh; và “vịnh”: là tán tụng).” Vì thế, cuốn sách Thánh vịnh được gọi là sách Ca ngợi, mà theo thánh Giêrônimô đó là cuốn sách ca ngợi thánh thiêng hay nhất.
Vì mang nhiều sắc thái khác nhau, các Thánh vịnh cũng được chia theo nhiều chủ đề: Thánh vịnh tạ ơn, chúc tụng, cầu xin, giáo huấn, và vương đế. Thánh vịnh tạ ơn là những lời ca mừng về những can thiệp của Đức Chúa trong lịch sử xa xưa, cũng như hiện tại. Trong đó Israel nhắc lại về những lần Đức Chúa đã can thiệp để giải thoát họ, đặc biệt là sự can thiệp của Người để giải thoát những con người nghèo hèn và yếu thế. Để từ đó hướng họ về tương lai với niềm tin tưởng và phó thác vào Đức Chúa. Còn Thánh vịnh chúc tụng “thường mang dấu ấn của phụng vụ và cộng đoàn, qua đó, cá nhân hay cộng đoàn tôn vinh Thiên Chúa.” Các Thánh vịnh này mang màu sắc sự sống và niềm vui dâng tràn, vì Thiên Chúa ban cho Israel sự sống, sự sống ấy không chỉ đơn thuần nhưng là với trọn cả nhân phẩm, nhân phẩm của những người được Thiên Chúa chọn. Thế nên những lời ca tụng này không sáo rỗng, nhưng nó đến từ chính cảm nhận của Israel, nên họ sung sướng mà cất lời chúc tụng về những gì mà Đức Chúa đã, đang, và sẽ thực hiện cho họ.
Nếu sắc thái của Thánh vịnh chúc tụng là hoan lạc và niềm vui, thì Thánh vịnh cầu xin lại mang âm hưởng u buồn. U buồn bởi thiên tai, chiến tranh, thành Giêrusalem bị phá đổ, hay từng cá nhân đang trong tình trạng khốn quẫn của tật nguyền, bị vu khống, bách hại, lưu đày…Những Thánh vịnh này là những lời da diết, than vãn, được kêu gào lên Chúa, để tế nhị nhắc khéo Thiên Chúa về những việc uy quyền của Người đã làm trong quá khứ, nhằm được trợ giúp và xót thương trong hoàn cảnh hiện tại. Tâm tình ấy là sự tin tưởng phó thác vào quyền năng của Chúa. Kế tiếp là các Thánh vịnh mang tính giáo huấn. Chúng thường mang đặc tính của những bài giáo huấn về sự khôn ngoan, đời sống luân lý, lề luật, và cả vấn đề thưởng phạt. Những giáo huấn ấy nhằm giúp Israel ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày, giúp họ suy tư, và cảm nhận được qua chính kinh nghiệm mà họ kinh qua hằng ngày. Sau cùng là các Thánh vịnh mang thể văn vương đế. Là những Thánh vịnh vương đế vì chúng sử dụng khá nhiều hình ảnh và nghi lễ bên Babylon. Chúng miêu tả quang cảnh đăng quang của các bậc đế vương. Thiên Chúa là vua, Đấng có chủ quyền tối cao và được xưng tụng là vua oai hùng, Chúa các chúa, Vua các vua. Đồng thời “vị Vua ở đây chính là vị thủ lãnh lý tưởng tương lai mà các vua trong Thánh vịnh là hình ảnh tiên báo: vừa là Vua Israel vừa là Vua mọi dân nước, Người chính là Đức Kitô: là Vua các vua, Đấng thống trị đến muôn đời (Kh 11,15; 19,16).
Dù mang các sắc thái khác nhau như thế, nhưng chúng ta nhìn ra được chủ đích thâm thuý ở điểm kết thúc trong năm cuốn của bộ sưu tập Thánh vịnh. Các chủ đề của các Thánh vịnh trong từng cuốn có thể khác nhau, nhưng Thánh vịnh kết thúc của mỗi cuốn lại quay lại với tên gọi của sách Thánh vịnh là “chúc tụng”, với những lời tung hô như: “Hãy chúc tụng Đức Chúa!” Hoặc các kiểu diễn đạt khác như “hãy ca ngợi Thiên Chúa!” hay Alleluia. Điều ấy như muốn minh định rằng mọi sự đều dưới sự cai quản của Thiên Chúa, dù cuộc sống này có ra sao, quá khứ, hiện tại, hay tương lai, sau cùng Thiên Chúa vẫn là Đấng chiến thắng. Người sẽ đứng lên đúng lúc và đúng thời mà Người muốn để cứu thoát những ai hằng cầu xin Người, để rồi muôn nơi, muôn người sẽ vang lời chúc tụng và tạ ơn Chúa không bao giờ cùng.

2. Tầm quan trọng của cầu nguyện với Thánh vịnh trong đời sống Giáo hội nói chung và trong đời sống đan tu nói riêng

a. Trong đời sống Giáo hội
Qua bao đời, dân Israel đã cầu nguyện với Thánh vịnh. Chúng ta biết, các Thánh vịnh được sưu tầm và ghi lại từ nhiều thời điểm khác nhau trong lịch sử của dân Chúa. Dù thật khó để xác định niên biểu của chúng, nhưng phần lớn các học giả đều đồng thuận rằng đại đa số các Thánh vịnh được soạn thảo dưới thời các vua (Tk X-VI tCN), một số khác lại được biên soạn trong thời lưu đày (Tk VI tCN) và phần còn lại là vào thời đền thờ được tái thiết (khoảng năm 538 tCN), tức sau thời lưu đày. Chúng hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của đời sống phụng vụ của Israel. Và vua Đavít được coi là tác giả của các Thánh vịnh. Như thế, lịch sử của Israel luôn gắn liền với các Thánh vịnh. Đó là cách thức họ cầu nguyện trong mọi biến cố của cuộc sống. Họ dùng chính các Thánh vịnh để bộc bạch hết tâm tình với Thiên Chúa, Đấng đã chọn họ làm dân riêng, và hằng luôn đồng hành với họ trong suốt hành trình. Đúng như lời Katheleen đã nói: “Các Thánh vịnh mặc khải nhật ký hành trình đức tin của Israel và nhờ cầu nguyện với Thánh vịnh mà họ vượt qua được hành trình này.” Lời sau đây của André Chouraqui, một thi sĩ người Do Thái, cho ta thấy mức độ của sách Thánh vịnh trong đời sống cầu nguyện của dân tộc ông thế nào, ông viết: “Chúng tôi sinh ra với tập sách này trong bụng. Một tập sách nhỏ một trăm năm mươi bài thơ, một trăm năm mươi bậc cấp đặt giữa sự sống và sự chết, một trăm năm mươi bức gương phản chiếu những sự nổi loạn cũng như sự thành tín của chúng tôi, những cơn hấp hối cũng như những cuộc hồi sinh của chúng tôi. Còn hơn là một cuốn sách, đây như là một sinh vật đang sống – đang ngỏ lời với bạn – đang đau khổ, đang rên siết và chết, đang phục sinh và ca hát trước ngưỡng cửa của vĩnh hằng.”
Chúa Giêsu và các Tông đồ là những người Do thái, nên cầu nguyện với các Thánh vịnh là việc làm rất quen thuộc. Trong các trang Tin mừng, ta không khó để bắt gặp thấy hình ảnh Chúa Giêsu cầu nguyện. Người dùng Thánh vịnh mà cầu nguyện. Các thánh sử Tin mừng đã ghi lại khoảnh khắc linh thánh trước lúc bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đã hát Thánh vịnh với các môn đệ của Người (Mt 26,30; Mc 14,26). Và trên thập giá, Chúa Giêsu cũng dùng lời của Thánh vịnh mà thân thưa với Chúa Cha: “Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con” (Tv 31,6; Lc 23,46). Thế rồi, tiếp bước Chúa Kitô, các cộng đoàn tiên khởi cũng dùng Thánh vịnh mà cầu nguyện (Cv 16,25; Ep 5,19; Cl 3,16). Như thế, “Giáo hội trong suốt lịch sử của mình, không ngừng đọc và hát Thánh vịnh trong phụng vụ, một phụng vụ chắc chắn đã in đậm dấu ấn của dân Do thái.” Đến hôm nay, Giáo hội vẫn khát mong con cái mình được nuôi dưỡng bằng đời sống cầu nguyện qua cử hành Giờ kinh Phụng vụ, mà trong đó các Thánh vịnh chiếm phần lớn nội dung. Lời của Giáo hội trong hiến chế Phụng vụ thánh là một minh chứng điển hình: Giờ kinh phụng vụ là lời cầu nguyện chung của Giáo hội, là nguồn phát khởi lòng đạo đức và lương thực cho những ai tham dự. Nhưng điều họ cần để việc cử hành này mang lại hiệu quả tốt nhất là kiến thức phong phú về phụng vụ và Thánh Kinh, nhất là về các Thánh vịnh. Thế nên, Thánh vịnh vẫn thể hiện được tầm quan trọng của nó trong đời sống cầu nguyện của Giáo hội xưa và nay.

b. Trong đời sống đan tu
Trong đời sống đan tu, vai trò của Thánh vịnh trong đời sống phụng vụ càng được nhấn mạnh rõ nét hơn. Trước thời thánh Biển Đức, các đan sĩ, nhất là ở Ai Cập, thực hiện châm ngôn “cầu nguyện không ngừng”. Thế nên, 150 Thánh vịnh được họ đọc trong một ngày. Họ thuộc nằm lòng các Thánh vịnh vì thời ấy điều kiện chưa cho phép họ có sách như chúng ta bây giờ. Điều ấy nói lên rằng lời Thánh vịnh hằng luôn trên môi miệng, trong tâm trí, và lời ấy trở nên hơi thở của các đan sĩ. Nếu ta phải nói về họ, thiết tưởng phải nói là họ sống thần vụ, hay thần vụ chính là sự sống của các đan sĩ. Chính thánh Biển Đức, với sự nể phục, mà nói về họ, “bởi vì khi đọc truyện các thánh tiền bối, chúng ta thấy các ngài đã hăng hái chu toàn nhiệm vụ đó trong một ngày” (TL. 19,25). Noi gương các bậc tiền bối, thánh Biển Đức luôn đặt các Thánh vịnh ở một tầm mức quan trọng nhất định.
Đối với thánh Biển Đức, cầu nguyện là hát các Thánh vịnh. Ngài dường như đồng hoá thần vụ là hát các Thánh vịnh. Chương 19 có tựa đề “cung cách khi hát Thánh vịnh”, nhưng trong đó ngài lại ưa dùng những cụm từ như “tham dự thần vụ”, “hát thần vụ”. Thế nên, ngài dùng tới 13 chương, từ chương 8 tới 20, trong Tu luật của mình để chỉ dẫn cách chia các Thánh vịnh trong mỗi giờ kinh, thời điểm và cung cách để cử hành. Chắc hẳn ngài cũng muốn noi gương các vị tiền bối mà nghiền ngẫm hết 150 Thánh vịnh trong một ngày, nhưng hiểu được giới hạn, yếu đuối của con cái và để quân bình trong đời sống cầu nguyện và lao động, ngài sắp xếp đọc hết 150 Thánh vịnh, thay vì trong một ngày, thì nới ra trong một tuần. Theo đó, các đan sĩ sẽ đọc liên tiếp từ Thánh vịnh 1 tới 150, bắt đầu từ kinh Đêm Chúa nhật đến kinh Chiều ngày thứ bảy. Cách sắp xếp này của ngài có sức ảnh hưởng rất mạnh trong đời sống đan tu những thập kỷ kế tiếp.
Ngày xưa, các đan sĩ của thánh Biển Đức cầu nguyện với Thánh vịnh, ngày nay các đan sĩ chúng ta là con cái của ngài vẫn cử hành thần vụ mỗi ngày, thì hẳn nhiên, chúng ta vẫn cầu nguyện với các Thánh vịnh. Tuy cách phân chia Thánh vịnh trong hai tuần thay vì một tuần và thời gian để cử hành trong đời sống chúng ta có thể khác, nhưng tầm quan trọng của Thánh vịnh thì không thay đổi. Câu hỏi được đặt ra cho các đan sĩ chúng ta hôm nay: Tại sao chúng ta vẫn cầu nguyện với các Thánh vịnh, là những bản văn được sáng tác cách đây mấy ngàn năm, trong bối cảnh của truyền thống đức tin lâu đời khác? Câu trả lời: “dĩ nhiên, câu chuyện của Israel xưa cũng chính là câu chuyện Giáo hội hôm nay. Mỗi khi chúng ta kể, nghe, hay cất cao giọng hát các Thánh vịnh, chúng ta như được đưa trở lại toàn cảnh câu chuyện và rồi ta nhận ra rằng đây chính là câu chuyện của mỗi chúng ta.”
Qua dòng thời gian, giá trị của Thánh vịnh vẫn thế, chỉ có điều cách thức nào giúp cầu nguyện với các Thánh vịnh hay cử hành giờ Kinh thần vụ hiệu quả nhất?

3. Cung cách khi hát Thánh vịnh theo Tu luật thánh Biển Đức
Có rất nhiều yếu tố quyết định tới thành công của một hành động, một trong những yếu tố quan trọng nhất là thái độ làm việc. Cũng vậy, để có một buổi cử hành thần vụ thật sốt sắng, thái độ người tham dự đóng một vai trò rất quan trọng. Đó là lý do tại sao thánh Biển Đức lại dùng cả chương 19 trong Tu luật của ngài để diễn giải về vấn đề này: Cung cách khi hát các Thánh vịnh. Vậy theo ngài, đâu là thái độ hay cung cách đan sĩ cần có khi hát các Thánh vịnh?

a. Cử hành thần vụ với đức tin.
“Chúng ta tin Thiên Chúa hiện diện khắp nơi và mắt Người hằng nhìn xem người lành kẻ dữ khắp chốn” (TL. 19,1). Theo tác giả Kardong, cụm từ “chúng ta tin” ở đây là sự thể hiện đức tin Công giáo chứ không phải là phép lịch sự đơn thuần như cụm từ “chúng ta nghĩ”. Toàn bộ lập luận của chương 19 này dựa trên đức tin vào Thiên Chúa, vì ngoài lý do này chẳng còn lý do nào khác để cầu nguyện các giờ thần vụ. Hẳn thật nếu cầu nguyện với Thánh vịnh mà không được soi sáng dưới ánh sáng của đức tin, thì chẳng khác gì đan sĩ đang hát những bài ca xa lạ và khó hiểu. Việc cử hành thần vụ sẽ trở nên niềm vui và hạnh phúc khi cử hành trong đức tin, còn nếu không sẽ trở thành một gánh nặng và nhàm chán biết bao! Vậy nên, đức tin là điều không thể thiếu đối với thái độ của người hát ca vịnh. Mà đức tin lại là một ân ban, nên chỉ những ai được Chúa ban cho thì mới có khả năng nhận ra Thiên Chúa hiện diện trong cử hành thần vụ.
Cụm từ “đôi mắt của Chúa” được thánh Biển Đức trích lại từ sách Châm Ngôn chương 15 câu 3 làm ta có nhiều cảm xúc. Có thể nó làm ta bối rối nếu cách ta sống phụng vụ chưa được chu đáo, nó cũng có thể làm ta an tâm vì biết Chúa hằng luôn hiện diện. Kardong giải thích hình ảnh của “đôi mắt Chúa” như sau: Tất nhiên, cái nhìn của Thiên Chúa, Vị Thẩm Phán, có thể gây bối rối, nhưng đó cũng là một sự hiện diện đầy trấn an, cảm giác cho thấy rằng Thiên Chúa không hề chết mà ngài hiện diện trọn vẹn với chúng ta khi chúng ta kêu cầu Người. Như thế, ta tin Thiên Chúa hiện diện trọn vẹn với ta khi cử hành thần vụ, thái độ này diễn tả rất chuẩn mực về một cử hành thần vụ phải có. Trong cử hành thần vụ chúng ta trở nên “tiếng của chính Hiền Thê nói với Đấng Phu Quân mình và hơn thế nữa, còn là lời cầu nguyện của Chúa Kitô và thân thể Người dâng lên Thiên Chúa Cha. Bởi vậy, tất cả những người thực thi các việc đó, thì vừa chu toàn trách vụ của Giáo hội, vừa thông phần vinh dự tối cao của Hiền Thê Chúa Kitô, bởi vì họ đứng trước ngai Thiên Chúa, để nhân danh Giáo hội là Mẹ mà chu toàn việc ca khen Người.” Với đức tin, chính khi cử hành thần vụ, Đan sĩ nhận ra họ đứng trước ngai Thiên Chúa mà ca ngợi, chúc tụng và tạ ơn. Chính lúc ấy ca toà thiên triều và trần thế được hợp ca. Có lẽ giờ đây chúng ta đã hiểu được tại sao thánh Biển Đức khẳng định: “Đừng lấy gì làm hơn việc Chúa” (TL. 43,3). Nhưng điều này giả thiết sự khiêm nhường, vì thánh Biển Đức sắp đặt bậc đầu tiên trong các bậc khiêm nhường là luôn cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính cảm thức ấy dẫn đến thái độ kế tiếp trong khi cử hành thần vụ, đó là cử hành với lòng kính sợ Chúa.

b. Cử hành thần vụ với lòng kính sợ Chúa
“Anh em hãy phụng thờ Chúa với lòng kính sợ” (TL. 19,3). Thái độ này đi ngay sau cử hành thần vụ với đức tin, vì sẽ chẳng thể có lòng kính sợ Chúa nếu ta không tin nhận Chúa đang hiện diện. “Kính sợ Chúa” không được hiểu theo nghĩa tiêu cực trong cử hành thần vụ. Nghĩa là ta sợ Chúa phạt nếu ta không làm tốt. Sợ Chúa khiển trách vì chểnh mảng, lười biếng. Cha thánh Biển Đức nói: “Mỗi người hãy nhớ rằng từ trời cao Chúa luôn nhìn xem mình, và dù ở đâu, lúc nào và làm gì, Chúa đều nhìn thấy hết, lại có các thiên thần không ngừng tường trình lên Chúa” (TL. 17,3). Chúng ta có cảm tưởng như việc Chúa hằng nhìn thấy việc ta làm, canh chừng để bắt lỗi ta. Lại nữa việc làm của các thiên thần trở thành hành động dòm ngó để báo cáo lỗi ta phạm. Không phải thế. Tất cả những gì Thiên Chúa làm cũng chỉ vì yêu chúng ta, và vì yêu nên muốn chúng ta luôn làm đẹp lòng Người, vì làm đẹp lòng Chúa chỉ thêm lợi cho ta mà thôi. Vịnh gia đã cảm nếm được nên diễn tả: “Phần Ngài, muôn lạy Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhân hậu từ bi, Ngài chậm giận, lại giàu tình thương và lòng thành tín” (Tv 86,15). Chính thánh Biển Đức cũng diễn tả Thiên Chúa là một Người cha “hằng lắng nghe các con khẩn nguyện, và ngay khi các con chưa kịp kêu lên thì Cha đã bảo: ‘Có Cha đây’” (TL. Lời mở, 18). Thế nên, sự kính sợ ở đây là sợ làm mất lòng Chúa. Đó là thứ sợ của một người con hiếu thảo. Bởi đó khi ta cử hành thần vụ, ta làm tất cả cũng chỉ để làm hài lòng Cha, chứ không vì hình phạt hay phần thưởng.

c. Ca vịnh cho thật khéo
“Hãy ca vịnh cho thật khéo”. Khi cử hành với đầy lòng kính mến Chúa, đan sĩ phải hát ca vịnh thật khéo. Đơn giản là vì họ ý thức mình đang đứng trước Đấng họ mến yêu và hằng muốn làm đẹp lòng Người. Thánh Augustinô đã diễn tả về điều này, khi nói: “Trước mặt một người sành âm nhạc, nếu người ta bảo bạn: ‘Hãy hát cho ông ấy thưởng thức’, mà bạn không được huấn luyện về âm nhạc, thì bạn sợ không dám hát kẻo làm mất lòng người nghệ sĩ. Thật thế, những lỗi người không thông thạo nhạc chẳng nhận ra, thì người nghệ sĩ sẽ thấy rõ. Vậy ai dám cho mình là hát hay để hát mừng Thiên Chúa, Đấng đánh giá người hát, Đấng xem xét mọi sự, Đấng nghe thấy tất cả?” Thiên Chúa là người Nghệ Sĩ tài ba, Người thấu triệt tất cả mọi chiều kích của âm nhạc, thế nên các đan sĩ là những ca viên, chuyên viên hát phụng vụ, phải hát làm sao để không làm chói đôi tai của Người. Phận con người mỏng dòn, yếu đuối và đầy giới hạn, chúng ta sẽ chẳng thể nào tránh được việc làm chói tai người Nghệ Sĩ, nhưng với sự nỗ lực hết mình hát cho khéo, chúng ta sẽ làm Người vui lòng. Vì Chúa yêu thích sự cố gắng của chúng ta. Nhưng làm sao có thể hát hay nếu không được đào luyện. Công đồng Vaticanô II đã nói lên tầm quan trọng của việc hát ca cho thật khéo: “Thánh nhạc sẽ mang tính linh thiêng hơn nếu liên kết chặt chẽ với hoạt động phụng vụ, hoặc dễ diễn đạt lời cầu nguyện cách dịu dàng hơn hay để cổ vũ sự đồng tâm, làm tăng thêm tính long trọng cho các nghi lễ,” thế nên, việc học hỏi và thực hành thánh nhạc phải được chú trọng trong toàn thể Giáo hội.
Nghệ thuật trong phụng vụ còn đòi hỏi đan sĩ phải am tường những gì đang được cử hành. Đức Thánh cha Phanxicô đã khẳng định trong Tông thư Desiderio Desideravi rằng nghệ thuật cử hành phụng vụ bao gồm việc am hiểu tất cả những biểu tượng, ngôn từ, và tất cả những gì liên hệ đến từng cử chỉ trong cử hành phụng vụ. Lại nữa, “Những cử chỉ và lời nói đó không phải là lời giải thích về một lý tưởng mà chúng ta đang kiếm tìm để gợi lên cho chúng ta những tâm tình cảm nghĩ, nhưng thay vào đó, là một hành động của thân xác trong trạng thái toàn vẹn, nghĩa là trong con người toàn diện với cả thân xác và linh hồn.” Nghệ thuật ấy giúp toàn thể con đan sĩ hoà mình vào trong cử hành, cũng là “hoà mình” vào trong chính Thiên Chúa.
Tác nhân quan trọng ta không thể không nhắc tới trong nghệ thuật ca vịnh, đó chính là Chúa Thánh Thần. Đức Thánh cha Phanxicô khẳng định trong Tông thư Desiderio Desideravi, “Nghệ thuật cử hành phải hoà hợp với hành động của Chúa Thánh Thần.” Nỗ lực của con người sẽ là vô hiệu nếu không nhịp bước với tác động của Thần Khí, nhất là trong cử hành thần vụ thánh. Thần Khí là người linh hứng để các Thánh vịnh được viết ra, thì chẳng ai thích hợp hơn để làm cho lời ấy được vang lên cách tuyệt hảo nhất. Khi dành cả đời để hát ca vinh danh Chúa, trong tác động của Thần Khí, đan sĩ không chỉ diễn tả lòng yêu mến của họ đối với vị Nghệ Sĩ tài ba, mà còn là cách thế mang Chúa đến với những người khác. Vì lời Thánh vịnh thì đầy quyền năng, âm nhạc lại dễ đi vào lòng người, lại có tác động của Thần Khí hẳn việc hát thần vụ sẽ làm cho lòng người náo nức và tạo nên nhân cách của đan sĩ. Đức Thánh cha Phanxicô còn nói: “Từng cử chỉ và lời nói của cử hành phụng vụ, khi được thể hiện cách “nghệ thuật”, sẽ hình thành nhân cách Kitô hữu của mỗi cá nhân và của cả cộng đoàn.”
Một yếu tố khác nữa giúp ta hát ca vịnh thật khéo, theo thánh Augustinô là phải hát với “tiếng hát của tâm hồn,” hay “tâm trí hoà hợp lời ca” theo thánh Biển Đức.

d. Tâm trí hoà hợp với lời ca
“Chúng ta hãy hát Thần Vụ thế nào cho tâm trí hoà hợp với lời ca.” Một bài ca sẽ chẳng thể nào hay và đi vào lòng người nếu người hát không hát lời ca với hết cả tâm tình. Điều mà đan sĩ phải có khi hát các Thánh vịnh là “tâm trí hoà hợp với lời ca.” Kardong đã diễn giải ý này như sau: Khi các đan sĩ hát các Thánh vịnh, là những bản văn được linh hứng trích từ trong Kinh thánh, “tiếng nói” của Chúa trong các Thánh vịnh và tâm trí người hát là phải hoà cùng nhau. Chính khi cả hai hòa điệu, Thiên Chúa tái tạo lại con người và đưa họ trở về với thuở ban đầu. Thuở ban đầu, ‘chiều chiều gió hiu hiu, Thiên Chúa cùng đi dạo với hai ông bà trong vườn địa đàng’ (x. St). Khi tâm trí hoà hợp với lời ca trong cử hành thần vụ, đó chính là lúc định nghĩa về cầu nguyện được trở nên hiện sinh hơn bao giờ hết, là một cuộc trò chuyện tinh tuyền giữa Thiên Chúa và con người. Nhưng để làm được điều ấy hẳn không dễ chút nào.
Kardong giải thích rằng làm được điều ấy không hề dễ dàng vì các bản văn Thánh vịnh không phải là những bản văn dễ hiểu cho mọi người và nó chuyển tâm trạng luôn. Có khi người cầu nguyện đang trong tâm trạng vui, lại hát Thánh vịnh buồn, và ngược lại. Điều ấy nhiều khi tạo nên sự khó tiếp nhận. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta phải biết trong phụng vụ luôn có hai chiều: chiều đi lên, con người hướng lên Thiên Chúa và Thiên Chúa đáp lại, chiều ngang, con người trong tương quan với nhau. Nên trong cử hành thần vụ, không ai cử hành lẻ loi, dù người ấy cử hành một mình, ở đó ta thấy chiều kích hiệp thông trong Hội thánh được tỏ lộ cách rõ ràng nhất. Vì thế, các Thánh vịnh chuyển tâm trạng luôn, ví như tâm trạng khác nhau của mỗi người trong cùng một Giáo hội, nhưng cũng chỉ là một hành động tôn vinh Thiên Chúa và mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Bên cạnh đó, để tâm trí có thể hoà hợp với lời ca trong các Thánh vịnh, các đan sĩ phải được học hỏi và nghiên cứu thêm về ý nghĩa của các Thánh vịnh. Đó là lý do tại sao Giáo hội đòi hỏi người cử hành thần vụ “phải có một kiến thức phong phú hơn về phụng vụ và Thánh Kinh nhất là về các Thánh vịnh.”

Kết luận
Cầu nguyện là hơi thở của đan sĩ. Sẽ chẳng có chuyện đan sĩ thở nửa vời, thở theo thời, nhưng là phải thở luôn, thì cầu nguyện cũng vậy, đan sĩ phải cầu nguyện luôn. Phụng vụ Giờ kinh, trong đó các Thánh vịnh chiếm nội dung chủ yếu, giúp đan sĩ thở đều và thở luôn trong từng thời khắc trong ngày. Thế nên thái độ cần có khi cử hành thần vụ đóng vị thế rất quan trọng, và nó là điều mấu chốt mang lại hoa trái cho đời sống các đan sĩ và tái tạo họ trở nên chính “bài ca của Thiên Chúa và cho Thiên Chúa.” Thánh Biển Đức muốn các đan sĩ chìm đắm vào trong tình yêu Thiên Chúa cách trọn vẹn trong mỗi cử hành thần vụ, với đức tin tinh tuyền, với lòng kính sợ, sự hiệp nhất với Thiên Chúa qua chính nghệ thuật trong từng cử chỉ của việc cử hành. Viện phụ Dom Guillaume Jedrzejczak đã giải thích khá hay về chương 19 này, ngài nói: “Phụng vụ là ngôi trường đích thực dạy thống nhất nội tâm, tái tạo hữu thể. Khi dần đi sâu vào ý nghĩa các Thánh vịnh, ta sẽ nhận ra vết thương nội tâm, sự rạn nứt trong linh hồn mình, do bởi sự dối trá, độc dữ, dục tính, ghen tương. Nhưng cũng nhờ các Thánh vịnh mà ta có thể nhận ra giữa những tội lỗi của mình và vết tích của Thiên Chúa, dấu hiệu về sự hiện diện của Người.” Chính khi khám phá ra sự hiện diện ấy, con người được đưa trở lại thuở ban đầu: hiệp thông, cảm thông và hoà hợp với Thiên Chúa.
Vậy, liệu rằng ngày nay, các đan viện đã đặt vị trí của cử hành thần vụ đúng mực chưa? Có khi nào cộng đoàn các đan sĩ vẫn chỉ cử hành với thái độ là một bổn phận bắt buộc phải tuân theo mà chẳng dành thời gian cho việc học hỏi, nghiên cứu, tập luyện, và sống thần vụ trong bầu khí thánh thiêng để cộng đoàn được thấm đẫm lời ca tiếng hát mà chúc tụng ngợi khen Chúa? Nếu đời đan sĩ chưa chìm đắm trong cầu nguyện, thì bầu khí đan viện chưa thực sự đạt đến sự thánh thiêng, mà có thể chỉ là một nhà nông phu. Khi viết chương 19 này, cha thánh Biển Đức không mong muốn gì hơn là các đan sĩ được thở trong bầu khí cầu nguyện và họ dành trọn con người để sống phụng vụ với cách thức xứng hợp nhất, để qua đó họ phục vụ Thiên Chúa và mang ơn cứu độ đến cho con người.

THINH LẶNG THÁNH

 

Lm. Quốc Vũ

“Thinh lặng thánh” được hiểu là một sự thinh lặng nội tâm, là để tâm trí chúng ta gặp gỡ Chúa, tâm hồn chúng ta hướng về Chúa trong cử hành phụng vụ và trong đời sống hằng ngày. Trong thực tế, “thinh lặng thánh” là cụm từ quá quen thuộc với chúng ta. Bởi lẽ, thuộc từ “thánh”, thường thích hợp hơn khi được ghép với danh từ chỉ người, chẳng hạn như: thánh nhân, bậc thánh hiền…; hay với danh từ chỉ vật, như: đất thánh, đền thánh, phòng thánh, bàn thánh…; còn khi ghép thuộc từ này với ‘thinh lặng’, cho dù là ở dạng động từ hay danh từ, thiết tưởng đó chỉ là sự dùng từ cách khiên cưỡng, vì nó đều tạo ra một cụm từ mang nghĩa rất hàm hồ. Quả thật, cụm từ “thinh lặng thánh” chỉ có nghĩa khi nó được dùng để diễn tả một mục đích cụ thể, hoặc được đặt vào trong một bối cảnh thích hợp nào đó mà thôi. Vì thế, để tìm hiểu sâu hơn vấn đề, người viết xin được khai triển đề tài này trong hai mục chính: Thinh lặng thánh trong cử hành phụng vụ, và thinh lặng thánh trong đời sống đan tu chiêm niệm.

1. Thinh lặng thánh trong cử hành phụng vụ
Trước Công đồng Vaticanô II, phụng vụ thánh lễ gần như là cử hành riêng của vị tư tế, bởi những người tham dự thường thụ động và chỉ lo làm việc đạo đức bình dân, mỗi người tham dự vào phụng vụ một cách độc lập. Đó là lý do tại sao một trong những chủ đề hàng đầu của công cuộc canh tân phụng vụ được trình bày trong Hiến chế về “Phụng vụ thánh – Sacrosanctum Concilium” của Công đồng Vaticanô II là mời gọi các tín hữu tham gia tích cực vào các cử hành phụng vụ. Các nghị phụ của Công đồng nhất trí rằng, trong việc canh tân và cổ võ phụng vụ thánh, cần phải hết sức lưu tâm đến việc tham dự trọn vẹn và linh động của toàn thể cộng đoàn dân Chúa: vì “phụng vụ là nguồn mạch trước tiên và thiết yếu, từ đó các tín hữu múc lấy tinh thần Kitô giáo đích thực”. Tuy nhiên, trong thực tế, việc cử hành phụng vụ nhiều khi lại diễn ra cách quảng, các phần được cử hành nối tiếp nhau không ngưng nghỉ và thiếu khoảng lặng.
Trong bối cảnh đó, Giáo hội qua nhiều văn kiện, đã nêu bật ý nghĩa thần học cũng như sự hướng dẫn việc cử hành phụng vụ thánh, như Hiến Chế Phụng Vụ Thánh và Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, đã nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của thinh lặng thánh, đến nỗi có thể nói rằng một trong những thành quả của cuộc cải cách phụng vụ từ Công đồng Vaticanô II là tái khám phá các truyền thống cổ xưa về sự thinh lặng phụng vụ. Thừa hưởng tinh thần đó, Đức Thánh cha Phanxicô, trong Tông thư Desiderio Desideravi , số 52, đã nhấn mạnh đến vị trí quan trọng tuyệt đối của thinh lặng thánh trong phụng vụ như sau: “Trong số các động tác nghi lễ dành cho toàn thể cộng đoàn, thinh lặng thánh chiếm một vị trí quan trọng tuyệt đối”.

1.1. Thinh lặng thánh chiếm vị trí quan trọng tuyệt đối
Chúng ta nên hiểu rằng: “Thinh lặng không phải là một thái độ thụ động, là thời khắc không ngôn từ và không có bất cứ hành động nào diễn ra. Trái lại, thinh lặng thánh đúng nghĩa là vượt trên mọi lời, để từ cảm nghiệm ý nghĩa cũng như cảm nghiệm chiều sâu mà chúng ta có cảm nghiệm tôn giáo, nghĩa là chúng ta có thể chạm đến mầu nhiệm cao cả mà không ngôn từ nào có thể diễn tả được: đó là thực tại hiện diện của Thiên Chúa siêu việt và thánh thiện nhưng cũng thật gần gũi chúng ta.” Bởi lẽ, phụng vụ là cầu nối giữa con người và siêu việt. Trong không gian thánh, những khoảnh khắc thinh lặng hết sức quan trọng, vì nhờ đó chúng ta mới có thể tìm được “cảm thức linh thánh” như lòng ước mong và hướng đến, nghĩa là cảm nhận về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Tiếp nối tinh thần của Công đồng Vaticanô II, Đức Thánh cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta rằng: “Thinh lặng thánh trong phụng vụ được quy định rõ trong luật chữ đỏ. Toàn bộ cử hành Thánh Thể chìm đắm trong thinh lặng trước khi bắt đầu và đánh dấu mọi khoảnh khắc của nghi lễ đang diễn ra” . Những khoảnh khắc thinh lặng đó được Ngài nói tiếp như sau: “Mọi người thinh lặng trong nghi thức sám hối, sau lời mời gọi ‘chúng ta dâng lời cầu nguyện’, trong phần phụng vụ Lời Chúa (trước các bài đọc, giữa các bài đọc và sau bài giảng), trong Kinh nguyện Thánh Thể, và sau hiệp lễ.”

a. Thinh lặng thánh trong Nghi thức sám hối
Quy chế Sách lễ Rôma hướng dẫn rằng: “Tiếp theo, vị tư tế mời mọi người sám hối. Sau một chút thinh lặng, tất cả cộng đoàn đọc công thức thú tội chung và vị tư tế đọc lời xá giải để kết thúc. Lời xá giải này không có hiệu quả của Bí tích Thống hối”.
Như thế, “thinh lặng trong nghi thức này không những để hồi tâm suy niệm về thân phận bất toàn và tội lỗi của chúng ta, nhưng hơn hết là để hướng chúng ta đến tình thương của Chúa, ngợi khen lòng từ bi lân tuất của Người, hầu có thể chuẩn bị tâm hồn mình lãnh nhận và cảm nhận ơn tha thứ của Chúa qua Bí tích Thánh Thể.”

b. Thinh lặng thánh trước khi đọc Lời nguyện Nhập lễ
“Tiếp đến, linh mục mời cộng đoàn cầu nguyện; và mọi người cùng linh mục thinh lặng trong giây lát, để ý thức mình đang ở trước thánh nhan Thiên Chúa và có thể nói lên trong lòng những nguyện ước của mình. Rồi linh mục đọc lời nguyện, quen gọi là “Lời nguyện Nhập lễ”, lời nguyện này nói lên đặc tính của việc cử hành”.
Lời nguyện Nhập lễ còn có tên gọi là Lời tổng nguyện của Thánh Lễ. Lời nguyện này vừa là lời nguyện để tập hợp cộng đoàn, vừa để dẫn vào phần Phụng vụ Lời Chúa, nên cần có khoảng thời gian thinh lặng cho mọi người trước khi vị chủ tế đọc lời nguyện. Một số tác giả cho rằng Lời Tổng nguyện là vết tích lâu đời của những lời nguyện đọc tại Nhà thờ quy tụ (ecclesia collecta) trong các lễ Chặng viếng.
Trong cuộc cải cách phụng vụ sau Công đồng Vaticanô II, Giáo hội đã nỗ lực phục hồi một vài yếu tố thuộc về chức năng độc nhất của Lời Tổng nguyện xa xưa, như dành một thời gian ngắn cho mọi người thinh lặng nêu lên ý nguyện của mình, trước khi vị chủ tế đọc Lời Tổng nguyện.

c. Thinh lặng thánh trong phần phụng vụ Lời Chúa
Quy chế Tổng Quát Sách lễ Rôma đề cập đến “thinh lặng thánh” trước khi cử hành phần phụng vụ Lời Chúa như sau: “Phụng vụ lời Chúa phải được cử hành thế nào để giúp cho cộng đoàn suy niệm, nên phải tránh mọi hình thức vội vã khiến người ta khó hồi tâm. Trong phụng vụ Lời Chúa, nên có những lúc thinh lặng ngắn, phù hợp với cộng đoàn đang hiện diện, nhờ đó, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, lời Chúa thấm nhập lòng người và chuẩn bị họ đáp lại bằng lời cầu nguyện. Tùy hoàn cảnh, có thể giữ thinh lặng sau bài đọc thứ nhất và thứ hai, cũng như sau bài giảng” .
Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và tiên tri Êlia trên núi Hôrép được Sách các Vua quyển thứ I ghi lại rằng ngôn sứ nhận ra tiếng Thiên Chúa không ở trong cơn gió lốc, động đất hay sấm chớp và lửa, nhưng ngôn sứ chỉ nhận ra tiếng Người trong sự lặng thinh của cơn gió mát nhẹ (x. 1V 19,11-13). Bước sang Tân ước, thánh Luca thuật lại: “Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa “ (Lc 3,2); còn Chúa Giêsu thì dạy: “Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo” (Mt 6,6). Không những dạy bằng lời, Chúa Giêsu còn làm gương bằng cách thường xuyên cầu nguyện nơi hoang vắng và trong thinh lặng, lúc sáng sớm, lúc trời còn tối mịt… (x. Mc 1,35).
Như vậy, để có thể lắng nghe được tiếng Chúa cách hiệu quả, chúng ta cũng cần có một khoảng lặng thích hợp; nghĩa là, phải cử hành Phụng vụ Lời Chúa thế nào để tạo thuận lợi cho việc suy gẫm. Chúng ta cần lắng nghe tiếng Chúa trong bầu khí thinh lặng, như lời huấn dụ của Đức Thánh cha Biển Đức XVI: “Cần có thinh lặng bên trong và bên ngoài để có thể lắng nghe được lời đó. Đây là điểm đặc biệt khó đối với con người thời đại chúng ta. Thật thế, thời đại chúng ta là một thời đại mà trong đó người ta không tạo thuận tiện cho việc cầm trí; trái lại, nhiều khi người ta có cảm tưởng con người sợ hãi tách rời mình, dù chỉ trong giây lát, khỏi dòng sông lời nói và hình ảnh ghi dấu làm đầy các ngày sống. Vì thế, cần phải giáo dục sống thinh lặng. Tái khám phá ra Lời Chúa trong cuộc sống Giáo hội cũng có nghĩa là tái khám phá ra ý nghĩa sự cầm trí và thinh lặng nội tâm” . Chính trong sự thinh lặng của nội tâm và nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, mà chúng ta ý thức được sự cao cả của Lời Chúa, khám phá ra ý nghĩa cùng sức mạnh của Lời Chúa và để cho Lời Chúa biến đổi đời sống mình. Nhờ vậy, Lời Chúa và lời diễn giảng được dễ dàng tiếp nhận và đọng lại trong lòng chúng ta, cũng như lời đáp trả của chúng ta qua kinh nguyện được chuẩn bị.

d. Thinh lặng thánh sau khi hiệp lễ
“Thinh lặng thánh là một thành phần của việc cử hành; vì thế phải được giữ vào đúng lúc của nó. Tính chất của sự thinh lặng tùy thuộc vào lúc phải giữ trong mỗi cử hành. Thật vậy, trong hành động thống hối và sau lời mời cầu nguyện, là để mọi người hồi tâm lại; sau bài đọc hoặc bài giảng là để mọi người suy gẫm vắn tắt về những gì đã nghe; còn sau khi rước lễ thì để ca ngợi và cầu xin Thiên Chúa trong lòng.”
Quy chế Tổng Quát Sách lễ Rôma đề cập đến việc phải tuân giữ “thinh lặng thánh” sau khi mọi người đã hiệp lễ xong. Có lẽ đây là thời điểm thinh lặng quan trọng nhất và sâu nhất trong Thánh lễ, vì nó cho phép những người đã rước Chúa tập trung vào sự hiện diện của Người và lắng nghe tiếng Người. Lúc này, vị tư tế và giáo dân tùy nghi cầu nguyện trong lòng một khoảng thời gian.
Mặc dù sau khi rước lễ, thay vì thinh lặng, ca đoàn hoặc toàn thể cộng đoàn cũng có thể hát một Thánh thi, một Thánh vịnh hay một bài Thánh ca ngợi khen nào khác. Thế nhưng, chọn lựa tốt hơn là thinh lặng sau khi mọi người rước lễ, hoặc dành một khoảng lặng ngắn rồi mới hát bài ca sau hiệp lễ, nhằm kết thúc thời gian thinh lặng. Thực hành này chắc chắn sẽ tạo ra hiệu ứng tốt hơn đối với những người tham dự. Bởi vì đây là giây phút Chúa Thánh Thần cư ngụ trong hồn chúng ta và nói với tâm trí chúng ta trong thinh lặng. Thời khắc này, thinh lặng là một cách thế và cơ hội giúp chúng ta suy gẫm trong tâm tình biết ơn về món quà sự sống tuyệt vời Thiên Chúa trao ban cho chúng ta phát xuất từ tình yêu vô biên của Ngài. Chỉ trong sự thinh lặng như thế, chúng ta mới nếm cảm được trọn vẹn hương vị của tình yêu nồng thắm lan tỏa từ chính Chúa Kitô. Từ đó, chúng ta có thể ngụp lặn trong mối tình ấm áp và thẳm sâu của Thiên Chúa.

1.2. Thinh lặng thánh là biểu tượng của Chúa Thánh Thần.
Thinh lặng thánh là một thành phần của việc cử hành và là cao điểm của trình tự phụng vụ. Đây là động tác dành cho toàn thể cộng đoàn, qua đó, Chúa Thánh Thần hiện diện làm sinh động toàn bộ việc cử hành và uốn nắn người tham dự. Đức Thánh cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta rằng: “Thinh lặng thánh là cao điểm của trình tự phụng vụ. Chính là biểu tượng của Chúa Thánh Thần, nên thinh lặng thánh có sức thể hiện hành động đa dạng của Chúa Thánh Thần. Theo cách này, thinh lặng thánh đưa đến tâm tình đau buồn vì tội lỗi và ước muốn được hoán cải, đánh thức tâm trí sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện. Chúng ta thinh lặng để tôn thờ Mình và Máu Chúa Kitô. Nơi mỗi người, khi kết hợp mật thiết với Chúa, thinh lặng gợi lên điều Thánh Thần muốn tác động trong cuộc sống để làm cho chúng ta trở nên tấm bánh được bẻ ra”.

a. Thinh lặng thánh dẫn đến ước muốn hoán cải
Khoảng thời gian thinh lặng trước nghi thức sám hối gợi lên trong mỗi tín hữu tâm tình thống hối ăn năn, đồng thời nài xin ơn tha thứ của Thiên Chúa giàu lòng thương xót và được canh tân bởi Nước và Thánh Thần trong bí tích thánh tẩy đã lãnh nhận. Đó chính là tiến trình của sự hoán cải.
Hoán cải là để trở về với con người thật của mình; hoán cải để quyết tâm thay đổi đời sống; hoán cải để thay đổi hướng đi, là khởi đầu cho việc canh tân đời sống. Hai tác động quan trọng của việc hoán cải chính là gặp gỡ Thiên Chúa và biến đổi chính mình. Quả thật, để có được sự thay đổi và hoán cải tận căn, con người cần có những khoảng lặng mà ở đó chỉ có mình với mình và chỉ có mình với Chúa (solus cum solo). Khoảng lặng đó là thời gian của Chúa Thánh Thần. Chính Người tác động và biến đổi chúng ta, như Chúa Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô về việc “sinh lại” bởi nước và Thần Khí khi ông đến gặp Chúa vào ban đêm (x. Ga 3,1-15).

b. Thinh lặng thánh đánh thức tâm trí sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa
“Thiên Chúa nói trong thinh lặng, vì thế chúng ta cần sự thinh lặng để có thể lắng nghe tiếng Chúa”. Đức Thánh cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên trong buổi tiếp kiến 2.000 tín hữu và du khách hành hương trong sân nhà nghỉ mát Castel Gandolfo vào sáng thứ Tư, ngày10 tháng 8 năm 2011.
Đối với Mẹ Têrêsa Calcutta thì trong khi cử hành phần Phụng vụ Lời Chúa, điều cốt yếu không phải là những lời chúng ta nói, nhưng là những lời Chúa nói nói với chúng ta, và những lời Ngài nói qua chúng ta. Trong sự thinh lặng như thế, Ngài nói với linh hồn ta, và chúng ta nghe được tiếng Ngài. Hãy lắng nghe trong thinh lặng và tâm trí ta sẽ trở nên sẵn sàng để đón nhận Lời Chúa; bởi vì theo thánh Ignatio Antiokia thì Lời Chúa bao giờ cũng vang lên từ trong tĩnh lặng, và điều này đã được Đức Hồng Y Robert Sarah cảm nhận và làm thêm rõ nghĩa khi xác tín rằng: “Chúng ta biết rằng Lời của Chúa xuất phát từ sự thường hằng trong thinh lặng và duy chỉ trong thinh lặng mà Lời ấy mới có thể trổ sinh hoa trái. Vì thế, rõ ràng là Lời của Người chỉ có thể hiểu được một cách đúng đắn nếu ta chìm vào trong chính sự thinh lặng; ta cũng chỉ có thể hiểu Lời Người khi ở lại trong sự thinh lặng này”.

c. Thinh lặng thánh để tôn thờ Mình và Máu Chúa Kitô
Cử hành Hy tế Thánh Thể và tôn thờ Thánh Thể là hai khía cạnh, “động và tĩnh”, hai nhịp điệu bất khả phân ly của một thực tại cội nguồn là Hy Lễ Tạ Ơn, là bản hoà âm chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa của toàn thể Giáo hội. Vì thế, trong khi cử hành Hy tế Thánh Thể luôn bao trùm chiều kích thinh lặng để tôn thờ và cảm tạ. Theo truyền thống, Giáo hội diễn tả niềm tin vào sự hiện diện của Mình và Máu Đức Kitô trong Thánh Thể và không ngừng thể hiện một lòng tôn thờ chỉ dành riêng cho Chúa. Giáo hội đã và tiếp tục tổ chức nền phụng tự tôn thờ đối với bí tích Thánh Thể, không những trong Thánh lễ mà còn ngoài giờ cử hành Thánh lễ nữa, qua việc cẩn thận lưu giữ những bánh lễ đã được hiến thánh, qua việc trưng bày cho các tín hữu long trọng chầu kính… Cầu nguyện trước Thánh Thể, những giờ tôn thờ Thánh Thể cách ngắn ngủi, lâu giờ hay hằng năm, chầu Phép lành, kiệu Thánh Thể, các Đại Hội thánh Thể…
Theo những lời huấn dụ và những thao thức đó của Đức Thánh cha, chúng ta cảm nhận được lý do sâu xa cũng như ý nghĩa thiêng liêng của việc tôn thờ Thánh Thể, để có thể “nếm thử và nghiệm xem cho biết Chúa thiện hảo dường bao” (Tv 33,9). Bên cạnh đó, tôn thờ Thánh Thể cũng chính là thinh lặng cầu nguyện trước Thánh Thể.

d. Thinh lặng thánh để cầu nguyện và tạ ơn
Theo nguyên ngữ Latinh, danh từ “Adoratio”: sự tôn thờ, là sự kết hợp bởi chữ “Ad”: hướng đến hay đến gần và chữ “Ora”: cầu nguyện. Như vậy, tôn thờ thánh Thể là một cuộc xuất hành thiêng liêng, nghĩa là ra khỏi chính mình, vượt qua cõi riêng mình, mà đến gặp gỡ Chúa, trong nhiệm tích Thánh Thể, để trọn vẹn sống cho và chạm được Đấng đang chờ đợi và ngự giữa chúng ta, trong tấm bánh rất đơn sơ, tầm thường. Bên cạnh đó, với nguyên ngữ “Adoratio”, tôn thờ còn mang ý nghĩa chiêm ngắm, chiêm nghiệm và tạ ơn. Vì thế, cầu nguyện không nhất thiết là nói nhiều, mà là yêu mến nhiều, cũng như kinh nghiệm của thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu: “Đối với tôi, cầu nguyện là sự hướng lòng lên, là cái nhìn đơn sơ, là tiếng kêu tri ân và yêu mến, trong cơn thử thách, cũng như lúc vui mừng”.
Trong ý nghĩa đó, cầu nguyện trước hết là thinh lặng. Nhưng thinh lặng không phải chỉ là im lặng, mà thực ra là thái độ lắng nghe Đấng là Lời và Bánh hằng sống của Thiên Chúa, Đấng luôn hiện diện và ở giữa chúng ta, Đấng ấy đã làm tràn đầy mọi khoảng không gian của cuộc sống chúng ta.
Tóm lại, thinh lặng thánh là một thái độ rất quan trọng và cần thiết phải giữ để tạo bầu khí phụng vụ: thinh lặng để lắng nghe và thinh lặng để suy niệm và cầu nguyện. Như thế, nếu những khoảnh khắc thinh lặng thánh trong phụng vụ quan trọng đối với các tín hữu tham dự thế nào thì đối với các thừa tác viên cử hành lại càng quan hơn. Bởi vì, thinh lặng thánh là thành phần không thể thiếu của phụng vụ và thuộc về nghệ thuật cử hành. Vì vậy, chúng ta không nên làm cho Thánh lễ thành một buổi cử hành ồn ào, vội vã như một dịch vụ hay làm mất đi cảm thức linh thánh, ý nghĩa huyền nhiệm. Thay vào đó, chúng ta nên tôn trọng những giây phút thinh lặng cần thiết và giữ sự thinh lặng linh thiêng đúng lúc.

2. Thinh lặng thánh trong đời sống đan tu chiêm niệm
Giáo hội nhìn nhận đời sống chiêm niệm là một đặc sủng, là hồng phúc của Thiên Chúa ban cho Giáo hội, một hồng phúc sinh tồn qua nhiều thời kỳ thoái trào và thăng hoa. Nói về đời sống chiêm niệm, Đức Giáo hoàng Phanxicô không định nghĩa chiêm niệm như một kinh nghiệm cầu nguyện phú bẩm vượt quá giai đoạn chiêm niệm suy lý mà ta có thể tìm thấy trong các trước tác của thánh Têrêxa Avila, hay của thánh Gioan Thánh Giá, hoặc các nhà huyền bí khác. Ngài cũng không định nghĩa đời sống chiêm niệm như một lối sống nội cấm, mặc dù ngài thừa nhận đời sống cầu nguyện và chiêm niệm cần được sống “trong thinh lặng và nội cấm” và trong “thâm cung lòng mình”. Nhưng, ngài định nghĩa đời sống chiêm niệm là việc đi tìm dung nhan Thiên Chúa và duy trì một tình yêu vô điều kiện với Chúa Giêsu Kitô. Một cách cụ thể, trong Tông hiến Tìm Nhan Thiên Chúa, ngài coi thinh lặng là điều cần thiết đối với các đan sĩ , một yếu tố không thể thiếu trong đời sống cầu nguyện; vì qua thinh lặng, con người lắng nghe và chuyện vãn với Thiên Chúa. Vậy sự thinh lặng ở đây được hiểu như một sự lắng nghe và nghiền ngẫm Lời Chúa như thánh Biển Đức, ngay từ lời mở đầu của cuốn Tu luật, ngài mời gọi các môn sinh hãy biết lắng nghe: “Con ơi, hãy lắng nghe lời thầy dạy, ghé tai lòng con mà thuận tình đón nhận lời cha hiền khuyên nhủ và thực hành cho bằng được”. Cụm từ ‘ghé tai lòng’ diễn tả rằng thinh lặng đan tu là thinh lặng bề trong, nghĩa là sẵn sàng lắng nghe để ca tụng Lời, trở nên đồng hình đồng dạng với Lời và rao truyền Lời. Vì thế, ở đây xin chia sẻ ba chiều kích của thinh lặng đan tu: Thinh lặng để ca tụng Lời; thinh lặng để nên đồng hình đồng dạng với Lời; và thinh lặng để rao truyền Lời.

2.1. Thinh lặng để ca tụng Lời – Cho con cất tiếng ngợi khen Ngài
Thinh lặng, một trong những yếu tố căn bản làm nên nếp sống đan tu chiêm niệm. Thinh lặng không đồng nghĩa với im lặng, thinh lặng đan tu không phải là không nói, bởi đời đan tu là một đời cất tiếng ca tụng Thiên Chúa, như lời Vịnh gia: “Con ca tụng Chúa mỗi ngày bảy lượt” (Tv 118,164). Vì thế, có thể nói, thinh lặng đan tu là để suy niệm Lời và cất tiếng ca tụng Thiên Chúa. Bên cạnh đó, trong cuốn sách Với Thiên Chúa, bạn không bao giờ cô đơn, Đức Thánh cha Biển Đức XVI đã viết như sau: “Đối với thánh phụ Biển Đức, những lời trong Thánh vịnh: ‘Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa – Coram angelis psallam Tibi, Domine’ (Tv 138,1), chính là quy tắc quyết định chi phối toàn bộ việc cầu nguyện và Thần vụ của các đan sĩ”. Điều này thể hiện một sự nhận thức rằng, Thần vụ đan tu là được hát trước sự hiện diện của toàn thể thiên quốc, và do đó được tiếp xúc với những tiêu chuẩn tối cao, được hòa hợp với âm nhạc của các tầng trời , nên nó trở thành một việc cao trọng nhất của đời đan tu, đến nỗi thánh phụ Bênađô phải khẳng định rằng: “Văn hóa ca hát phụng vụ cũng là một nền văn hóa hiện hữu, và các đan sĩ phải cầu nguyện và hát Thần vụ sao cho ‘tâm trí hòa hợp với lời ca – ut mens concordet voci’, tương ứng với sự cao cả của Lời Chúa được truyền lại cho họ, với nhu cầu vẻ đẹp đích thực của Lời Chúa”.
Thật thế, trong truyền thống đan tu Biển Đức và Xitô, Kinh Thần vụ được xem là phận vụ trên hết của đan sĩ theo tinh thần của Thánh Biển Đức: “Không được coi gì quý hơn việc Chúa (Opus Dei)” . Đan sĩ hát kinh nhân danh Giáo hội và toàn thể nhân loại, để ngợi khen vinh danh Chúa vì muôn ơn huệ Người ban, đồng thời nài xin ơn trợ lực của Người ban xuống trên nhân loại và cầu nguyện mưu ích cho phần rỗi các linh hồn.
Thần vụ đan tu là mượn lời của Vịnh gia để ca tụng Thiên Chúa bảy lần trong ngày, bao gồm Giờ Kinh Sách, Kinh Sáng, Kinh giờ III, Kinh giờ VI, Kinh giờ IX, Kinh Chiều và Kinh Tối. Truyền thống đan tu theo cuốn Luật Thầy cũng như Tu luật Biển Đức, thường khai mạc giờ kinh đầu tiên trong ngày bằng một dẫn nhập gọi là giáo đầu (invitatorium): “Lạy Chúa Trời xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” , để phá vỡ sự im lặng lâu dài phải giữ trong đêm. Hơn nữa, lời dẫn giáo đầu này còn diễn tả một tâm tình và ý thức của người đan sĩ về thân phận thấp hèn và tội lỗi của mình, nên phải cần ơn Chúa trợ giúp mới có thể xứng đáng cất tiếng ca tụng Người. Bên cạnh đó, Thần vụ (Officium Divinum) còn được gọi là Giáo vụ (Officium ecclesiasticum) vì được thiết lập bởi Giáo hội và là tiếng của chính Hiền Thê ngỏ cùng Đức Lang Quân; hơn nữa, đó còn là lời nguyện của Chúa Kitô cùng toàn Nhiệm Thể dâng lên để chúc tụng Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần.
Bên cạnh đặc tính ca tụng Thiên Chúa của các giờ Kinh Thần vụ, từ xa xưa, theo tinh thần của cuốn Luật Thầy (Regula magistri), các đan sĩ đã có thói quen dành khoảng thời gian thinh lặng ngắn giữa các Thánh vịnh, mỗi Thánh vịnh đều kết thúc bằng sự thinh lặng và phủ phục . Phụng vụ đan tu ngày nay đã được thích nghi theo tinh thần canh tân của Công đồng Vaticanô II. Trong hầu hết các đan viện không còn cử hành giờ thần vụ vào ban đêm, 150 Thánh vịnh trước kia được cử hành theo chu kỳ một tuần, nay được cử hành theo chu kỳ hai tuần. Cấu trúc, cách thức cử hành và nhịp điệu các giờ Kinh Thần vụ đều được cử hành theo sự hướng dẫn của Giáo hội như Quy chế Tổng quát Phụng vụ các Giờ kinh đề nghị: “phải có một thời gian thinh lặng thánh sau mỗi Thánh vịnh của Giờ kinh, để cho tiếng của Chúa Thánh Thần vang dội mãnh liệt hơn trong tâm hồn và để lời cầu nguyện riêng của mỗi người được kết hợp chặt chẽ hơn với Lời Chúa và lời cầu nguyện chính thức của Giáo hội”.
Như vậy, thinh lặng thánh trong các giờ Kinh Thần vụ không chỉ đơn thuần là tạm dừng theo nghi thức, mà còn là hành vi phụng vụ thực sự chuyển tải một cách mạnh mẽ ý nghĩa của mầu nhiệm, Thần khí và Giáo hội. Thật thế, thinh lặng ở đây mang chiều kích Thánh Linh, nhấn mạnh đến sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần, bởi không có Ngài kể như không có kinh nguyện Kitô giáo. Vì vậy, ‘Văn kiện Trình bày và quy định Các Giờ kinh Phụng vụ’ hiện nay mong ước khi cử hành Phụng vụ Giờ Kinh thường phải liệu sao cho “có những khoảng thời gian thinh lặng thánh vào những lúc thích hợp” . Văn kiện đề nghị một số chỗ thinh lặng như sau: Sau mỗi Thánh vịnh, sau Điệp ca, sau các Bài đọc dài hay ngắn, sau câu Xướng đáp , sau mỗi Lời cầu , và trong giờ Kinh tối, nên dành một khoảng thinh lặng để xét mình sám hối theo công thức trong sách lễ Rôma.
Từ sự hướng dẫn của Giáo hội, Hội dòng Xitô Thánh Gia đã có những quy định áp dụng luật giữ thinh lặng thánh trong khi hát Kinh Phụng vụ như sau: “Để gia tăng sự sốt sắng chiêm niệm, sau mỗi Thánh vịnh hay Thánh ca, Đoản huấn, các Bài đọc trong giờ kinh Sách và sau các Lời cầu, anh em giữ thinh lặng trong giây lát (khoảng 10 giây)”.
Tóm lại, đời đan tu là đời chiêm ngưỡng, một đời sống luôn kết hợp sâu xa với Thiên Chúa, một sự cảm nghiệm về sự hiện diện thân mật của Thiên Chúa, nhằm khai triển sự hiệp nhất thẳm sâu với Thiên Chúa. Sự hiệp nhất này gói trọn cuộc sống đan sĩ trong bầu khí thinh lặng và cầu nguyện. Người đan sĩ ra sức biến đổi những sinh hoạt trong ngày thành kinh nguyện, bằng cách hướng tâm hồn về một mình Thiên Chúa. Có thể nói, trong suốt ngày sống, đan sĩ vẫn âm thầm hâm nóng tình yêu bằng những lời cầu nguyện và kết hợp với Thiên Chúa trong sự thinh lặng; còn trong các Giờ Thần vụ, đan sĩ bày tỏ tất cả tâm hồn qua lời kinh tiếng hát để ca tụng Thiên Chúa; chính vì thế mà Thánh Biển Đức đã dạy các đan sĩ phải hết sức trân trọng khi thi hành phận vụ này: “Hãy luôn sẵn sàng để khi vừa nghe hiệu là đua nhau nhanh chân đi cử hành Thần vụ”.

2.2. Thinh lặng để nên đồng hình đồng dạng với Lời – sống chiều kích Vượt Qua
“Truyền thống giáo phụ dạy chúng ta rằng các mầu nhiệm của Chúa Kitô gắn liền với sự thinh lặng, và chỉ trong thinh lặng Ngôi Lời mới có thể tìm ra chỗ ở trong chúng ta, như đã xảy ra với Đức Mẹ Maria, người phụ nữ của Ngôi Lời và sự thinh lặng không thể tách rời nhau” . Tiếp nối truyền thống giáo phụ, thánh Biển Đức xem thinh lặng là điều hệ trọng giúp đan sĩ xây dựng đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, qua những lời ngài viết trong Tu luật sau đây: “Lúc nào đan sĩ cũng phải chuyên tâm giữ thinh lặng, nhất là vào ban đêm. Sau giờ Kinh Kết, không ai được nói gì nữa. Nếu lỗi luật thinh lặng này sẽ bị nghiêm phạt”.
Theo thánh Biển Đức, thinh lặng gắn liền với việc lắng nghe Lời. Trước hết là lời bên ngoài, nhưng cũng lắng nghe Lời bên trong, Lời nội tâm. Chắc hẳn ban đêm là thời gian thuận tiện hơn cả để lời bên ngoài có thể gợi lên bên tai lòng một Lời khác, tức là Lời nội tâm. Đối với Ngài, sự thinh lặng ban đêm được xem là “thinh lặng thánh”, bởi vì thinh lặng không phải chỉ để im lặng, nhưng là để mở lòng ra cho Đấng đã đi vào cõi thinh lặng thâm sâu nhất của nhân loại đó là cái chết. Nói cách khác, với thánh Biển Đức, thời khắc ban đêm còn mang ý nghĩa sâu xa hơn, đó là thời gian mà việc giữ thinh lặng của các đan sĩ đồng nghĩa với việc họ đi vào thời điểm quan trọng nhất, thời gian đỉnh điểm, thời gian trung tâm diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Đó là thời gian mà chính Chúa Giêsu đã trải qua trong mầu nhiệm Vượt Qua.
Quả thật, trước cái chết, Đức Giêsu cảm nhận được sự thinh lặng nhiệm mầu của Thiên Chúa; và với cái chết, Đức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm thinh lặng rùng rợn nhất của thân phận con người. Đức Giêsu đã đảm nhận sự thinh lặng đau thương của tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Người thông phần với sự thinh lặng này để ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Như vậy, sự thinh lặng kỳ diệu nhất của Đức Giêsu trong hành trình nhân thế là sự thinh lặng trong nấm mộ, và sự thinh lặng của người đan sĩ trong thời khắc cuối ngày để đi vào ban đêm cũng mang cùng một ý nghĩa đó:
+ Trước tiên, thinh lặng để đi vào giấc ngủ ban đêm, biểu tượng cho một cái “chết tạm thời”, nghĩa là người đan sĩ giữ thinh lặng tuyệt đối sau giờ kinh tối không phải chỉ đơn thuần là vấn đề giữ thinh lặng, mà là sống cái thinh lặng; nghĩa là làm cho cái tôi hoàn toàn trống rỗng, là chết đi chính mình để dành riêng một cõi riêng tư cho Lời được lên tiếng trong cuộc sống của mình, như thánh Phaolô đã nói về chính Ngài: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
+ Kế đến, thinh lặng để đi vào giấc ngủ ban đêm, cũng là biểu tượng cho một sự kết hiệp với Đức Giêsu trong sự thinh lặng của ngày thứ bảy thánh, đồng thời hy vọng cùng được trỗi dậy với Người trong ánh sáng của sự sống lại, bởi vì chính Người đã đi vào nấm mộ để tiêu diệt sự chết, và đã sống lại trong vinh quang. Như thế, dẫu sự chết mạnh, nhưng sự thinh lặng của Đức Giêsu trong sự chết còn mạnh hơn; dẫu sự chết mạnh, nhưng tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nơi Người còn mạnh hơn; và dẫu sự chết mạnh, nhưng sự sống lại của Người còn mạnh hơn.
+ Và cuối cùng, thinh lặng để đi vào giấc ngủ ban đêm, còn là khởi đầu hành trình hoán cải, đi vào hành trình đức tin và bước đi trên hành trình đức ái. Khởi đầu hành trình hoán cải để nhìn nhận và tránh xa tội lỗi, quyền lực của sự dữ: “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tử thần có độc là vì tội lỗi” (1Cr 15,55-56). Đi vào hành trình đức tin để trở về với chính bản ngã của mình mà nhận biết Thiên Chúa quyền năng và gần gũi, như trong tác phẩm Tự Thuật, thánh Augustinô viết: ”Deus est intimior intimo meo, Deus est interior intimo meo et superior summo meo – Thiên Chúa thân mật với tôi hơn tôi với chính mình’, Thiên Chúa sâu thẳm trong tôi hơn tôi với chính mình và cao cả trong tôi hơn tôi với chính mình”. Và bước đi trên hành trình đức ái để sống trọn vẹn ơn gọi tình yêu với tha nhân trong mọi lúc, mọi nơi, và mọi việc làm, để: “Nếu có phải lên tiếng, thì hãy nói vì tình yêu; và nếu có thinh lặng, thì hãy thinh lặng vì tình yêu,… hãy làm mọi sự vì tình yêu” (Thánh Augustinô).

2.3. Thinh lặng để rao truyền Lời – sống ơn gọi ngôn sứ
Không ai có thể tự gán cho mình tước hiệu “ngôn sứ”. Người ta cũng không thể trở thành ngôn sứ bằng sáng kiến của mình, nhưng bởi Thiên Chúa. Ngôn sứ là một ơn gọi. Chính Thiên Chúa kêu gọi và tuyển chọn con người làm ngôn sứ cho Người và được sai đi.
Thánh Giáo hoàng Phaolô VI, trong buổi tiếp kiến chung ngày 29 tháng 3 năm 1969, đã khuyến dụ các đan sĩ dòng Xitô Nhặt Phép như sau: “Parlez au monde par votre silence”. Có thể giả thiết rằng, khi khuyến dụ các đan sĩ “hãy nói với thế giới bằng sự thinh lặng của các con”, phải chăng thánh Giáo hoàng đã đồng hóa sự thinh lặng của các đan sĩ với chính đời sống chiêm niệm của họ; nói cách khác, đối với ngài, chính đời sống trung thành trong chốn cô tịch của các đan sĩ sẽ là một lời chứng hùng hồn về Thiên Chúa cho thế giới mà ở đó “người ta cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy” . Bên cạnh đó, những lời này của thánh Giáo hoàng cũng muốn nhắc nhở các đan sĩ hãy xác tín mạnh mẽ vào căn tính của mình, đó là gia sản quý giá mà Thiên Chúa đã ban cho họ qua các đấng sáng lập, để tiếp nối truyền thống, duy trì và phát triển ơn gọi của mình giữa lòng Giáo hội, bằng một sự hiện diện tuy âm thầm nhưng lại mang tính ngôn sứ hữu hiệu cho thế giới hôm nay.
Còn Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong tông huấn Vita Consecrata, đã khẳng định giá trị và đề cao tính ngôn sứ của đời sống chiêm niệm trong lòng Giáo hội và giữa lòng thế giới như sau: “Các dòng hoàn toàn sống đời chiêm niệm, trong cô tịch là thinh lặng, họ hướng toàn thể đời sống và toàn thể sinh hoạt vào việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Như thế họ cống hiến cho cộng đồng Giáo hội một chứng tá độc đáo về tình yêu của Giáo hội dành cho Chúa, và góp phần với sức phong nhiêu Tông đồ huyền diệu vào sự tăng trưởng của Dân Thiên Chúa”.
Đức Thánh cha Biển Đức XVI, trong buổi tiếp kiến các tín hữu và du khách hành hương trong sân nhà nghỉ mát Castel Gandolfo sáng thứ Tư 10-8-2011, đã đề cập một cách trân trọng tới các đan viện và cuộc sống trong thinh lặng, suy tư, chiêm niệm và cầu nguyện của các đan sĩ khi nói: “Trong mọi thời đại, đều có các người nam nữ thánh hiến cuộc đời cho Thiên Chúa trong đời cầu nguyện như các nam nữ đan sĩ. Sự thinh lặng và vẻ đẹp của nơi chốn, trong đó cộng đoàn đan tu sống – vẻ đẹp đơn sơ và khắc khổ – phản ánh sự hài hòa tinh thần mà chính cộng đoàn tìm thực hiện. Các đan viện là các ốc đảo, trong đó Thiên Chúa nói với nhân loại; và trong nhiều đan viện có sân bên trong, là nơi biểu tượng, bởi vì nó là một khoảng không đóng kín, nhưng mở về trời cao”.
Cuối cùng, Đức Thánh cha Phanxicô thì cho rằng những nam nữ đan sĩ sống đời chiêm niệm là tiếng nói của Giáo hội không ngừng ca ngợi, tạ ơn, nài van và cầu bầu cho toàn thể nhân loại. Bằng cách này, họ là những người cộng sự của Thiên Chúa, đan sĩ chiêm niệm có một sứ mệnh Tông đồ và ngôn sứ trong Giáo hội và cho thế giới, bằng sự “giúp các thành viên ngã qụy của Nhiệm thể vinh quang của Người trỗi dậy”. Ngài cũng bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với các đan sĩ chiêm niệm khi ngài nói tiếp: “Thế giới và Giáo hội cần các con là ánh sáng soi đường cho hành trình của nhân loại trong thời đại chúng ta. Đây chính là chứng tá mang tính ngôn sứ của các con. Mặc dầu các con rời xa thế gian, nhưng các dấu chỉ cho thấy các con thuộc về Đức Kitô, các con sẽ không ngưng nghỉ chuyển cầu cho nhân loại, dâng lên Chúa những sợ hãi và hy vọng, những niềm vui và đau khổ của thế giới”. Chính vì sự cao trọng đó, nên ngài cũng khuyên dạy họ rằng: “Đời sống chiêm niệm, cha thấy điều quan trọng là phải biết lưu ý đến sự thinh lặng được lấp đầy bởi sự hiện diện của Thiên Chúa. Đời sống chiêm niệm trọn vẹn của các con đòi hỏi ‘một thời gian và khả năng thinh lặng và lắng nghe’ Thiên Chúa và con người. Hãy để tình yêu mà các con dành cho Thiên Chúa thúc bách các con, ngõ hầu các con có thể để cho miệng lưỡi của mình trở nên thinh lặng và nhờ đó Thần khí sẽ nói với các con”.
Từ những lời giáo huấn và khích lệ của các Vị cha chung của Giáo hội qua những thời đại khác nhau, chúng ta nhận thấy Giáo hội luôn luôn trân quý đời sống cô tịch và thinh lặng của các đan viện. Đời sống này là nét đẹp quen thuộc bắt nguồn từ trong truyền thống đan tu thời các tổ phụ cho đến ngày nay. Giá trị đời đan tu và lý tưởng ngôn sứ của người đan sĩ không phải là câu chuyện của thời xưa, nhưng vẫn là câu chuyện của ngày hôm nay. Vì người đan sĩ thuộc về hành ngũ những người sống đời thánh hiến, nên ơn gọi phải trở nên dấu chỉ cho thời đại, trở nên ngôn sứ giữa lòng thế giới. Bản Tuyên Ngôn của Hội dòng Xitô Thánh Gia minh định rằng: “Đan sĩ Xitô Thánh Gia làm chứng tá tình yêu Thiên Chúa giữa lòng nhân loại bằng sự thông hiệp với Chúa Cứu Thế, trong hy sinh thầm lặng và cầu nguyện tha thiết để cứu giúp những người chưa nhận biết Chúa” . Đây cũng là điều mà ngày nay Đức Giáo hoàng Phanxicô mong muốn đời sống của các đan sĩ phải “đánh thức thế giới” qua đời sống chứng nhân âm thầm như muối, như men và là ánh sáng cho trần gian (x. Mt 13, 13-16). Đó vừa là một vinh dự, vừa là một nhiệm vụ khẩn thiết đối với các đan sĩ, nghĩa là đan sĩ không chỉ sống cho mình, nhưng còn phải hướng tới một viễn tượng lớn lao hơn, đó là vì phần rỗi nhân loại. Đan sĩ phải trở nên ngôn sứ của Thiên Chúa cho con người thời đại, nghĩa là mang sứ điệp hiệp nhất của Chúa Kitô đến với mọi người bằng lời cầu nguyện và đời sống thánh thiện, bởi vì “họ là vinh dự của Giáo hội và là mạch tuôn trào các ơn thiêng và gương sáng của đời sống cá nhân như là lời giới thiệu hùng hồn nhất cho Hội dòng mình, và là lời mời gọi sống đời Tu dòng hữu hiệu hơn hết.”
Đáp lại lời mời gọi của Đức Thánh cha Phanxicô trong Tông thư Desiderio Desideravi về việc giữ thinh lặng thánh như Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma hướng dẫn, hầu hết các giám mục giáo phận tại Việt Nam đã ra thông báo cho các giáo xứ về việc thực hành này; cụ thể như trong huấn từ vào dịp tĩnh tâm của linh mục đoàn Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh năm 2022, Đức tổng giám mục Giuse Nguyễn Năng đã ra thông báo ấn định như sau: “Thinh lặng thánh là một thành phần của việc cử hành và là cao điểm của trình tự phụng vụ. Đây là động tác dành cho toàn thể cộng đoàn, qua đó, Chúa Thánh Thần hiện diện làm sinh động toàn bộ việc cử hành và uốn nắn người tham dự. Vì thế, các Giáo xứ và các cộng đoàn thực hiện việc thinh lặng thánh trong tất cả các thánh lễ”.
Cũng trong tinh thần đó, các đan viện ngày nay tiếp nối truyền thống đan tu bao đời và đáp lại lời mời gọi của Đức Thánh cha, đã, đang và mãi là những cộng đoàn đi đầu trong việc thực hiện việc giữ sự thinh lặng thánh, không những trong các cử hành phụng vụ, mà còn cả trong đời sống hằng ngày; bởi thinh lặng và cô tịch là những yếu tố quan trọng làm nên tính đặc thù cho đời sống chiêm niệm của họ trong lòng Giáo hội và giữa lòng thế giới; và mẫu gương về đời sống thinh lặng cho tất cả chúng ta không ai khác chính là Mẹ Maria, như lời của Đức Thánh cha Phanxicô dạy: “Mẹ rất Thánh Maria là gương mẫu của các con. Mẹ có thể lãnh nhận Lời Chúa bởi vì Mẹ là người phụ nữ thinh lặng – không phải là một sự thinh lặng không sinh hoa trái và cằn cỗi, nhưng đúng hơn là một sự phong phú và tròn đầy. Sự thinh lặng của Mẹ cũng là sự tròn đầy của tình yêu, vì tình yêu luôn chuẩn bị cho chúng ta đón chào một Ai Khác và những người khác”.

 

CON NGƯỜI CHỈ TRỞ NÊN VĨ ĐẠI KHI QUỲ GỐI CẦU NGUYỆN (PASCAL)

 

Sr. M. Gioan Nguyễn An

Pascal từng nói: “con người chỉ trở nên vĩ đại khi quỳ gối cầu nguyện”. Câu nói này như gợi mở lên trong tâm trí người viết về một nền “Thần học quỳ cũng như về bài học khiêm nhường: khiêm nhường trước Đấng Tạo Hóa, khiêm nhường với mọi anh em, với chính mình và sau cùng là với vạn vật. Chính nhờ sự khiêm nhường đó mà người ta trở nên vĩ đại. Tuy nhiên, sự khiêm nhường có thể có được là nhờ cầu nguyện.
Không phải ngẫu nhiên mà một nhà bác học nổi danh như Pascal lại có thể thốt lên được câu nói thời danh như thế. Có lẽ ông đã từng trải qua kinh nghiệm gặp gỡ này. Sau tất cả những thành công, ông nhận ra rằng tất cả điều đó không làm cho ông vĩ đại, nhưng điều làm cho con người trở nên vĩ đại là nhờ quỳ gối cầu nguyện trước Thiên Chúa. Vì tất cả đều là ân ban từ Thiên Chúa, còn ông chỉ là người lãnh nhận mà thôi như thánh Phaolô đã cảm nghiệm: “Tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa mà thôi” (1Cr 15,10).
Người viết dậy lên khát vọng muốn hiểu sâu hơn câu nói của Pascal, để phần nào cũng bắt gặp được chính kinh nghiệm như Pascal. Trong bài viết này, xin đưa ra một vài ý tưởng nhỏ, như một gợi mở để tìm thấy được ý nghĩa qua câu nói trên của nhà bác học Pascal. Nội dung ở phần sau đây được chia ra 4 điểm chính: 1/ Một vài ý nghĩa về từ ngữ vĩ đại. 2/ Cầu nguyện là gì mà có thể giúp con người trở nên vĩ đại? 3/ Cầu nguyện có giá trị và hiệu quả như thế nào? 4/ Đâu là cách thức và thái độ cần phải có của người cầu nguyện?

1. Về từ ngữ vĩ đại
Từ “vĩ đại” trong tiếng Việt có nghĩa là có tầm cỡ và giá trị lớn lao, đáng khâm phục. Từ này thường được sử dụng để mô tả những sự nghiệp, chiến thắng, phát minh, con người hoặc đầu óc có ảnh hưởng mạnh mẽ và tầm vóc lớn. Theo từ điển Hán-Nôm, vĩ đại có nghĩa là cao siêu, cao cả, không phải tầm thường , còn có nghĩa là rất lớn lao (Những con người vĩ đại, phát minh vĩ đại, thế hệ vĩ đại…).
Như thế, theo quan niệm thông thường, sự vĩ đại của một ai đó được tỏ hiện qua những thành công trên đường đời. Các bậc vĩ nhân trở nên vĩ đại là bởi vì họ theo đuổi những giá trị phổ quát và vĩnh hằng. Sự vĩ đại biểu hiện qua lao động và những thành quả của họ xuyên thời gian, không gian, mọi người dân và quốc gia đều hưởng lợi để phát triển.
Ngược lại, trong nhãn quan Kitô giáo, sự vĩ đại của con người được thể hiện qua đời sống khiêm hạ. Khiêm hạ trước Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và ban tặng mọi sự cho con người. Khiêm hạ trước anh em đồng loại, nhận ra mình yếu đuối, còn đó những khiếm khuyết, bất toàn với Đấng Tạo Hoá và với nhau…

2. Cầu nguyện là gì mà có thể giúp con người trở nên vĩ đại?
Con người được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,27) nên có giá trị trổi vượt trên các loài thụ tạo. Chính vì thế, con người chỉ có thể trở nên vĩ đại nhờ có một mối tương quan mật thiết với Đấng là chủ tể của mình ngang qua đời sống cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện là chiếc cầu nối giữa Thiên Chúa và con người. Cầu nguyện làm cho con người tìm ra được nguồn cội, cùng đích của cuộc đời, giúp cho con người biết mình phải làm gì và khước từ điều gì. Trong đời sống tâm linh, điều quan trọng nhất là cầu nguyện. Ai không cầu nguyện thì không còn là người Kitô hữu đích thực nữa. Bởi lẽ, cầu nguyện là yếu tố cần thiết trong đời sống Kitô hữu.
Mặc dù nhà bác học Pascal có nhiều đóng góp trong lĩnh vực khoa học bằng những nghiên cứu, những phát minh nhưng ông luôn dành cho Thiên Chúa một chỗ quan trọng trong tâm hồn và ngay cả trong những nghiên cứu của ông. Sau ông còn rất nhiều người nổi tiếng khác, dù bận rộn họ vẫn dành hằng giờ cho Thiên Chúa. Bên cạnh đó cũng có nhiều người nổi tiếng đang hướng lòng lên Thiên Chúa để thân thưa cùng Người, hình ảnh đó thật sự có sức lay động lòng người. Trong khi đó, vẫn có nhiều người nói mình biết Thiên Chúa nhưng hiếm khi quỳ gối cầu nguyện và hỏi Chúa là ai trong cuộc đời của họ?… Như thế, người môn đệ của Chúa cần phải gây ý thức cho người khác hiểu và yêu mến đời sống cầu nguyện; giúp họ nhận thức rằng, cầu nguyện là cầu nối giữa Thiên Chúa và con người, là lối đi vào cuộc sống, là nguồn để ta tìm về. Cách riêng, đan sĩ cần giữ vững và củng cố việc cầu nguyện hơn mỗi ngày. Để thực hiện được điều đó, chúng ta cần nhận thức rõ giá trị và hiệu quả của việc cầu nguyện.

3. Giá trị và hiệu quả của cầu nguyện
Không có đời sống cầu nguyện, con người cũng không tìm ra lý tưởng và mục đích của sự hiện hữu của mình. “Khi nhìn vào hình ảnh cậu học trò tên là Osaman, là học trò của nhà bác học thiên tài André Marie Ampère , khi Anh rơi vào bế tắc của cuộc đời, kể từ ngày anh đặt chân vào đại học, cũng là lúc anh bắt đầu bỏ Chúa. Tuy nhiên, thật may mắn cho Anh, một hôm khi Anh bước vào nguyện đường Anh bắt gặp được hình ảnh người Thầy của mình đang quỳ gối cầu nguyện… Anh đã tìm lại được ý nghĩa cuộc sống của mình sau lần gặp gỡ ấy.”
Tác giả Joseph Trần Ngọc Huynh, trong cuốn Cầu nguyện là lối đi vào cuộc sống, cho rằng cầu nguyện luôn là một điều gì đụng chạm tới con tim, là một cuộc trần tình, vấn đáp và đối thoại, là trở về lòng mình, nhận diện và đối diện với tiếng nói thẳm sâu trong tâm hồn . Lối đi này dẫn chúng ta đi vào mối tương quan mật thiết với Đấng mà mình tin, hay nói theo ngôn ngữ Kitô giáo chính là những giây phút sống mật thiết với Thiên Chúa. Chính nhờ cầu nguyện và qua cầu nguyện mà vinh quang, tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa luôn ở cùng. Khi chuyên tâm sống đời cầu nguyện ta mới có thể nhận ra Thánh Ý của Thiên Chúa mà cất bước thi hành.
Chính Chúa Giêsu trở nên mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta về cầu nguyện: Người cầu nguyện mọi lúc (x.Lc 11,1). Tiếp nối theo gương cầu nguyện như: Mẹ Maria, các Tông đồ, và các thánh. Việc cầu nguyện còn được tái diễn một cách sống động nơi các môn đệ Đức Kitô, nơi những người sống đời thánh hiến trong các Hội dòng, đặc biệt là các Hội dòng chiêm niệm.

4. Yếu tố cần phải có
Yếu tố đầu tiên của cầu nguyện đó là sự khiêm nhường. Điều này đã hàm chứa trong chính nội dung của đề tài. Chính khi cầu nguyện với lòng khiêm nhường sẽ giúp ta trước hết trở về với chính mình, nhận ra con người thật của mình, không che đậy, tránh né nhưng là của một con người thật, con người cụ thể, với tất cả cuộc sống, hoàn cảnh, tâm tư, khó khăn, hy vọng của mình, với cả quá khứ, hiện tại cũng như tương lai của con người .
Có thể khẳng định rằng, khiêm nhường là đức tính mà Thiên Chúa luôn ưa thích, người đời mến mộ. Nhưng, để đạt được đức đó trong cuộc sống quả là không dễ chút nào, đặc biệt giữa thời đại hôm nay … Mặc dù vậy, ta vẫn có thể đạt được sự khiêm hạ, và qua khiêm hạ giúp ta trở thành người vĩ đại trước nhãn quan của Thiên Chúa, trở thành người bạn tốt của mọi người.
Yếu tố thứ hai là đức tin. Bởi “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những gì ta không thấy” (Dt 11,1). Chính vì thế, cầu nguyện cùng giả thiết con người phải tin: Tin Thiên Chúa. Niềm tin đó phải tiến tới như một thứ tương giao sống động cụ thể hơn là cậy dựa vào Thiên Chúa, tin một cách chắc chắn và vững bền.
Yếu tố sau cùng là yêu mến. Vì khi đứng trước thế giới siêu việt, con người cảm thấy một sự cuốn hút, hấp dẫn và say mê. Thế giới thần linh xuất hiện như một thế giới kỳ ảo êm dịu, thanh thoát, niềm vui, bình an hấp dẫn con người, nhất là trong đó, con người gặp được một “AI KHÁC” và muốn hoà nhập với Người. Đây là một thứ hấp lực của lòng yêu mến. Bởi vì chỉ khi ở mức độ tình yêu thì mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa mới trở nên thân thiết, sâu xa và thực sự làm thoả mãn nỗi khát mong trong con người, vì thực sự điều căn bản nhất của con người là tình yêu.
Kết luận
Câu nói của Pascal “con người chỉ trở nên vĩ đại khi quỳ gối cầu nguyện”, mang giá trị thật sâu sắc, không chỉ cho thế hệ trước mà còn cho thế hệ mai sau. Cách đặc biệt đây là lời nhắc nhớ cho tu sĩ, cách riêng cho các đan sĩ. Điều quan trọng hơn hết là cầu nguyện với một thái độ khiêm nhường trước Thiên Chúa. Họ sẽ trở nên vĩ đại khi siêng năng cầu nguyện, vì qua đời sống cầu nguyện mà sức mạnh, tình yêu và quyền năng của Chúa được tràn đổ xuống trên các tâm hồn, trên toàn thế giới. Đồng thời, đan sĩ cần nhận thức rằng, cầu nguyện chính là đường lối căn bản để con người sống thật, sống trọn vẹn con người của mình. Thực vậy, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa trọn vẹn của đời mình một khi bản thân quỳ gối cầu nguyện trước Thiên Chúa.

 

TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN

 

PM. Grégoire Phan

“Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Mc 14,38)
Là đan sĩ, chúng ta không lạ lẫm gì với thuật ngữ “tỉnh thức và cầu nguyện.” Điều này có làm chúng ta vốn là những người được coi là “chuyên viên cầu nguyện,” chạnh lòng khi được nhắc nhở là hãy tập trung vào bổn phận của mình, đừng sao lãng việc bổn phận! Tại sao lại nhắc đến vấn đề tỉnh thức trong bối cảnh hôm nay? Phải chăng đan sĩ đã không còn đủ tỉnh thức, đan sĩ mất cảnh giác với sứ vụ của mình?
Điều gì nhắc nhớ người đan sĩ về nếp sống của mình khi thiếu đi sự tỉnh thức cầu nguyện đích thực? Mệnh lệnh “hãy tỉnh thức và cầu nguyện” đến từ Chúa có thức tỉnh tâm hồn đan sĩ, hay chỉ là một vấn đề để bàn thảo, mổ xẻ theo kiểu văn chương triết tự. Vì những hệ luỵ có thể xảy ra nếu thiếu đi tỉnh thức, thiếu đi cầu nguyện trong cuộc sống của đan sĩ, chúng ta cùng nhau nhấn mạnh đến chiều kích tỉnh thức và cầu nguyện, hầu nhắc nhớ bổn phận quan trọng của nếp sống chúng ta.

1. Khái quát hạn từ

1.1. Tỉnh thức
Theo ngữ nghĩa Hán-Việt, tỉnh thức là người không có ảo tưởng về bản thân và cuộc đời; không nhầm lẫn giữa mộng tưởng và thực tại. Người tỉnh thức sẽ hiểu biết mình trong tương quan với trần thế và tương quan với Thiên Chúa.
Trong giáo thuyết Phật giáo, Thuật ngữ Bắc Phạn “Smrti” có nghĩa là tỉnh thức: Tỉnh thức là thực hiện hành động với đầy đủ ý thức. Mục đích của sự chú tâm trong việc kiểm soát những hành động của người tu thiền. Đây là một trong những điểm trọng yếu của thiền tập trong Phật giáo, bao gồm việc tu tập tỉnh thức thân, khẩu và ý để hoàn toàn tỉnh thức về việc mình làm và cái mình muốn.
Sống tỉnh thức là tự thân duy trì ý thức trên mỗi công việc mình đang thể nghiệm, đang “sống” từng khoảnh khắc và biết rõ những gì đang diễn ra nơi mình và cuộc sống quanh mình. Một vị cư sĩ tu tập đạt đến giác ngộ là tỉnh thức. Vị hành giả “ngộ” ra chân lý để không còn bị những sân si phiền muộn chi phối, làm biến dạng chân lý đang thể hiện nơi mình. Nơi họ có quán chiếu của tâm hồn như mặt trời chân lý chiếu soi vào thâm tâm. Họ nhìn thấy cái đúng với bản sắc thật của chúng.
Theo chiều kích thiêng liêng, người tỉnh thức luôn hướng về siêu việt, nghĩa là luôn hướng đến Chân, Thiện, Mỹ để tư tưởng và hành động luôn đặt ở tình trạng thận trọng, khôn ngoan và đạo đức. Người tỉnh thức cũng chính là người sống đẹp từng giây phút hiện tại, nghĩa là sống toàn tâm, toàn ý trong từng công việc, từng bổn phận, từng mối quan hệ với tâm hồn đầy yêu mến.

1.2. Cầu nguyện
Cầu nguyện là kết nối với vĩnh cửu. Cầu nguyện là thái độ sáng suốt của nếp sống kết nối với Đấng là nguồn thánh thiêng. Khi kết hiệp với Chúa, sống trong ơn nghĩa Chúa, tâm hồn không bị giao động bởi sợ hãi hay những biến chuyển bất thường của cuộc sống; con người vốn dĩ sợ hãi những gì là mong manh, bấp bênh, chóng qua và hay hư mất. Khi được kết nối với vĩnh cửu, con người được trú ẩn nơi chốn an toàn. Thánh vịnh 62 đã diễn tả điều này: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 62,2).
Cầu nguyện là tâm tình vượt thời gian và không gian. Lời cầu nguyện không giới hạn chúng ta trong thực tại hữu hình, nhưng liên kết chúng ta với thực tại vô hình. Lời cầu nguyện không ràng buộc chúng ta trong khung cảnh địa lý, nhưng tâm tình cầu nguyện với Thiên Chúa vươn tới người anh em cùng khổ ở tận nơi xa xôi của một vùng trời xa lạ đan sĩ chưa hề đặt chân tới.

2. Tác nhân gây cản trở

2.1. Thể lý không đủ tỉnh thức
Một người thể lý bị rối loạn về thần kinh thì không đủ tỉnh táo để xử lý những thông tin. Một người rối loạn giấc ngủ cũng trở nên mơ hồ trong các vấn đề của cuộc sống. Việc rối loạn thể lý do bệnh tật gây nên làm yếu nhược thể xác.
Đức Giêsu nhấn mạnh tình trạng thể lý trong lối sống thiếu tỉnh thức sẽ ảnh hưởng đến đời sống thiêng liêng: “Anh em hãy đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em” (Lc 21,34).
Trong Tin mừng Nhất Lãm, khi ba môn đệ thân tín là thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan được Chúa dẫn vào vườn Cây Dầu để cùng tỉnh thức mà cầu nguyện với Người trước khi chịu khổ nạn. Trong giờ phút quan trọng, Chúa cảnh báo: Hãy cầu nguyện luôn thì mới có thể tỉnh thức, vì “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41). Tuy nhiên, Tin mừng cho thấy các môn đệ thân tín đã không giữ được mình tỉnh thức trong cầu nguyện. Họ đã mê man trong giấc ngủ. Cha Nguyễn Thế Thuấn dịch là “đôi mắt họ li bì nặng giấc”. Hệ luỵ tai hại của việc thiếu tỉnh thức và thiếu cầu nguyện có thể dẫn người ta xa rời đức tin.
Vậy nên, điều cần thiết là mối tương quan giữa thân xác và linh hồn được hoà hợp. Khi đó Kitô hữu lướt thắng được những trì trệ trong nếp sống. Người Kitô hữu không bị dòng đời xô đẩy mà ngủ mê trong những yếu đuối của mình.

2.2. Ngủ mê giữa dòng đời xô đẩy
Nhìn vào thực tế của kiếp sống nhân sinh, chúng ta thấy có những người bị dòng đời xô đẩy vào vòng xoáy nghiệt ngã danh, lợi, thú. Khi bị cuốn vào vòng xoáy cuộc đời, chúng ta hiểu đó là trình trạng ngủ mê giữa dòng đời, xoay vần nổi trôi.
Ca dao tục ngữ rất khéo léo diễn tả tình trạng luẩn quẩn của sự u mê này : “Cái vòng danh lợi cong cong, Kẻ hòng ra khỏi, kẻ mong bước vào. Cá trong lờ đỏ hoe con mắt, cá ngoài lờ ngúc ngắc muốn vô. Tung tăng như cá trong lờ, trong không ra được, ngoài ngờ là vui.”
Đoạn trích dẫn trên đây diễn tả tình trạng của kiếp người bị xô đẩy, dập dờn bởi lợi lộc và danh vọng, tiến thoái lưỡng nan. Người ta có thể chấp nhận cuộc đời theo kiểu “Đời là thế, It’s life ! C’est la vie!” Có người chấp nhận những cái “tầm thường” được mệnh danh thanh tao, thiêng thánh. Có người chấp nhận kiếp sống nổi trôi giữa dòng đời trôi nổi và sống thiếu mục đích. Những suy nghĩ tiêu cực cũng làm cho người ta quên đi mục tiêu sống. Lúc đó, nhãn quan của chúng ta về thế giới bị đóng băng, cảm giác lạnh lùng trước sự vật. Hình ảnh tươi đẹp của thế giới bị giới hạn trong nhãn quan tiêu cực của bản thân. Buông xuôi là điều có thể xảy ra ngay cả đối với một người đã từng sống rất nhiệt thành.

2.3. Sa chước cám dỗ
Trong cuốn sách có tựa đề “Chứng từ kinh nguyện, cuộc chiến của một ẩn sĩ” diễn tả về việc cầu nguyện cần phải chiến đấu với thế lực thù địch. Thù địch ở đây chính là ma quỷ, vì ma quỷ làm cho người ta chia trí, cản trở họ cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Ma quỷ là tác nhân gây trở ngại chúng ta kết nối với Thiên Chúa. Thiếu tỉnh thức còn thể hiện ở tình trạng bị ma quỷ điều phối hoạt động với những người thiếu đời sống cầu nguyện. Vì vậy thánh Giacôbê cảnh giác chúng ta về tình trạng tồi tệ có thể xảy ra: “Mỗi người có bị cám dỗ là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà bắt” (Gc 1,14). Bị cám dỗ là điều có thể xảy ra. Chúa không dạy: hãy cầu nguyện để không bị cám dỗ, nhưng là đừng để sa vào chước cám dỗ.
Tác nhân thứ đến làm cho chúng ta không kết nối được với Thiên Chúa chính là thể xác yếu hèn. Khi miêu tả về tình trạng không tỉnh thức của ba môn đệ theo Chúa trong vườn Cây Dầu. Thể lý của các môn đệ mệt mỏi, mắt nhắm nghiền và tinh thần trống rỗng diễn tả về tình trạng tâm hồn u mê và thiếu cầu nguyện. Cần phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đứng vững trong ngày tận cùng. Vì chúng ta hiểu rằng: “Tinh thần thì hăng hái, xác thịt thì yếu hèn (x. Mt 26,41); “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22,40).
Với những người Kitô hữu, Chúa Giêsu cảnh giác cao độ cho chúng ta về việc phải “tỉnh thức và cầu nguyện”, để đứng vững trong mọi thử thách (x.Mt 26,41; Mc 13,33; 14,38; Lc 21, 36). Thánh Phêrô cho chúng ta thấy tác nhân đánh mất đi sự thức tỉnh nơi tâm hồn, ấy chính là sự quấy phá của ma quỷ. Vì vậy, cần thiết nơi chúng ta là sống tỉnh thức và chừng mực trong mọi sự: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1Pr 5,8-9). Chúng ta luôn luôn bị những thế lực của sự dữ muốn cướp đi sự phong phú của đức tin và tìm mọi cách gây tổn hại về mặt tinh thần của chúng ta.
Phương thế để không rơi vào cám dỗ chính là cầu nguyện. Chúa ban cho cho chúng ta một huấn dụ để hoàn thiện bằng cách thực hành việc cầu nguyện. Cầu nguyện để xin đừng sa chước cám dỗ. Thậm chí ngay trong khi cầu nguyện, chúng ta cũng được mời gọi tỉnh thức để không xin Chúa chiều theo ước vọng của mình; nghĩa là chiều theo cám dỗ và lầm tưởng rằng điều đó đẹp ý Chúa.

3. Đan sĩ thức tỉnh và cầu nguyện

3.1. Kitô hữu tỉnh thức cầu nguyện
Đức giáo hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện để tâm hồn không bị sự lười biếng thiêng liêng làm trì trệ: “Chúng ta thấy rằng tỉnh thức gắn liền với sự chú tâm: hãy chú ý, canh thức, đừng xao lãng, nghĩa là hãy tỉnh thức! Không để lòng mình trở nên lười biếng và đời sống thiêng liêng trở nên tầm thường. Hãy quan tâm ta có thể là những “Kitô hữu ngái ngủ”, không có đà tiến tinh thần, không hăng hái cầu nguyện, không hăng say đối với sứ vụ, không say mê Tin mừng. Và điều này làm ta “ngái ngủ,” ù lỳ, rơi vào tình trạng lãnh đạm, dửng dưng đối với mọi sự, trừ những gì làm chúng ta thoải mái.”
Như vậy khi sống tỉnh thức, chúng ta tránh được những ảo tưởng về cuộc sống. Chúng ta nhận ra ánh sáng sự thật và không bị những suy nghĩ tiêu cực làm vạy vọ nếp sống của chúng ta. Đan sĩ vốn là những Kitô hữu cũng xây dựng chiều kích cánh chung cần tỉnh thức và sẵn sàng luôn.

3.2. Tỉnh thức, tâm thế của những người sẵn sàng
Gần đây, các nhà khảo cổ đã tìm khám phá ra nếp sống phồn thịnh của một thành phố cổ xưa Pompeii, gần thành phố Napoli, Italia. Vào mùa hè năm 79 sau Công nguyên, núi lửa Vesuvius gần đó đã phun trào. Khi núi lửa phun trào, khói và khí độc hoà vào không khí nhanh chóng bao trùm thành phố. Gần như chỉ sau một đêm, nhiều người trong số 10.000 cư dân ở thành phố này đã biến mất dưới lớp tro bụi. Rất nhiều xác chết hoá thạch được tìm thấy trong các tư thế khác nhau: Có người chết trong tư thế ngủ, kẻ chết tư thế đang ăn, kẻ khác chết đang khi làm việc. Tuy nhiên, có những xác chết của những người lính đang đứng trong thư thế canh gác, với cây giáo dài trên cánh tay.
Những hình ảnh trên đây cho chúng ta thấy tâm thế sẵn sàng không lệ thuộc vào việc chúng ta đang thức hay ngủ, đang làm việc hay trong lúc ăn uống. Điều Chúa mời gọi chúng ta sẵn sàng không nhằm chỉ thị cho chúng ta: không được ngủ, nhưng là tâm thế tỉnh thức với đời sống thiêng liêng. Bởi vì cuộc sống trần gian sẽ là: cái có kỳ hạn sẽ qua đi, còn những điều vĩnh cửu sẽ tồn tại mãi. Chúng ta sẽ không thấy rõ được những gì vĩnh cửu ở trần thế này, nhưng chúng ta có một con đường kết nối với vĩnh cửu. Thánh Phaolô xác tín: “Bao giờ cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi (…) Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như một bức gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt” (1Cr 13,10.12).
Người khôn ngoan là người có tâm thế sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh. Dụ ngôn về năm cô khôn ngoan chỉ cho chúng ta thấy tâm thế của người sống tỉnh thức (x. Mt 25,1-13). Người tỉnh thức chủ động trong mọi thời khắc của cuộc sống; thời điểm chuẩn bị cho hành trình gặp gỡ Thiên Chúa, vì Người không ấn định cho chúng ta biết thời giờ Thiên Chúa viếng thăm. Vì vậy, Chúa Giêsu nhắc nhở: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13). Người biết dự trù về cuộc sống mai hậu là người sống trong sự hướng dẫn và ơn lo liệu của Chúa Thánh Thần.
Như vậy, tình trạng ngủ mê trong lỗi phạm đánh mất cơ hội gặp gỡ Thiên Chúa. Chúa muốn chúng ta luôn giữ mối tương quan tình yêu. Tỉnh thức và sẵn sàng giúp cho chúng ta luôn cầm trên tay đèn sáng là đức tin, chứa đầy dầu ân sủng của đức cậy để đức mến luôn cháy sáng trong hy vọng. Đó là tâm thế chờ đợi Chúa với tất cả lòng kính cẩn và sẵn sàng, là cách thế chúng ta đang kiên vững trong bước đường hoàn thiện.

3.3. Đan sĩ cùng nhau thức tỉnh mong chờ “thời khắc lịch sử”
Tâm trạng của người chờ đợi là nôn nóng, vội vàng và ngóng chờ thành quả. Tuy nhiên, nếp sống đan tu tạo cho đan sĩ có được một tâm lý ổn định đứng trước các biến cố của cuộc sống. Việc chờ đợi tập cho đan sĩ đức tính kiên nhẫn trong mọi hoàn cảnh. Thực hành nếp sống chung giúp đan sĩ hoàn thiện hơn và biết đối diện trước thách đố của cuộc sống mà không chạy trốn hay thoái lưu. Bởi lẽ, một tập thể lành mạnh và gắn kết sẽ giúp các thành viên vững mạnh.
Những phương thế của nếp sống đan tu giúp cho tâm hồn đan sĩ hướng về Chúa Kitô với mối dây hiệp thông của một cộng đoàn có chung mẫu số: cùng nhau cầu nguyện và việc làm theo nhịp sống cộng đoàn. Điểm chung này đã được thánh Phaolô nhấn mạnh khi nhắn gửi các tín hữu thành Philiphê: “Anh em hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau” (Pl 2,2).
Đan sĩ sống tỉnh thức là biết sống hiệp thông với nhau. Khi cầu nguyện trong ca toà, các đan sĩ hướng vào nhau diễn tả nguồn mạch hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa và cùng nhau canh thức trong tâm tình cầu nguyện. Việc cử hành chung mang đặc tính canh thức cộng đồng, vì Chúa đã hứa: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy giữa họ” (Mt 18,20). Đan sĩ cùng nhau cử hành phụng vụ chung là thánh hoá thời khắc, mang vào thời khắc lịch sử có “âm vang” của thần khí Chúa.
Trong đời sống cầu nguyện, sẽ là một mất mát lớn của cộng đoàn khi tinh thần thế tục lấn át, sự đề cao chủ nghĩa cá nhân đến nỗi nếp sống chung của cộng đoàn bị ảnh hưởng. Đó là dấu chỉ của một cộng đoàn ngủ mê, thiếu tỉnh thức, thiếu nhịp sống chung.
Một cộng đoàn chờ đợi tập trung vào Đấng đang đến nói với nhân loại về ơn tái sinh. Trong tĩnh lặng, đan sĩ đón chờ Chúa xuất hiện trong vinh quang. Khi thoát khỏi thái độ hình thức, đan sĩ sẽ ý thức bước vào không gian tĩnh lặng để chu toàn bổn phận hằng ngày trong tinh thần cầu nguyện, phù hợp với lối sống và đặc sủng của mình.

3.4. Đan sĩ thức tỉnh nhân loại bằng nếp sống thánh thiện
Con đường thức tỉnh của đan sĩ dựa vào điều gì? Đâu là những dấu hiệu đan sĩ đã mất đi sự tỉnh thức và cầu nguyện? Điều dễ nhận ra hơn cả là trong nếp sống hàng ngày, đan sĩ đang tìm kiếm điều gì hơn Chúa cho hành trang sống?
Một cộng đoàn xao lãng chiều kích cánh chung (mục tiêu cứu cánh) thì khó nhận diện được như nào là sống chứng nhân. Một nhân loại chạy theo vật chất, đan sĩ cũng chạy theo vật chất, chạy theo số lượng, vậy việc tỉnh thức của đan sĩ ở mức độ nào ? Đức giáo hoàng Phanxicô cảnh báo: “Anh chị em đừng chiều theo chước cám dỗ về số lượng và hiệu quả, lại càng không nên tín thác vào sức riêng của mình. Hãy lục lọi những chân trời của cuộc đời anh chị em và của thời buổi hiện tại với sự tỉnh thức.”
Đời tu vẫn là nếp sống giúp người đan sĩ đạt đến đức ái hoàn hảo một cách sung mãn nhất. Thực vậy, ngày sống của đan sĩ được dệt bằng bảy giờ Kinh đan xen với công việc lao tác và nghỉ ngơi. Trong đó, giờ kinh đêm (vigile) có nghĩa là giờ kinh canh thức. Đan sĩ cử hành cách trọng thể trong ca toà, sau giờ kinh kết vào ban đêm như một sự nhắc nhở đan sĩ về bổn phận canh thức của mình cho Giáo hội và canh chừng nhân tâm của mình cũng như nhân tâm của thế gian bằng việc chờ đợi thời điểm Thiên Chúa viếng thăm. Đan sĩ giống như bạn của Chàng Rể bước vào tiệc cưới hân hoan.
Khi liên kết bổn phận của mình trong sứ vụ mà Hội thánh trao ban, đan sĩ chuyên chăm cầu nguyện, soi mình vào Chúa chứ không soi mình vào vẻ đẹp và sự quyến rũ của thế gian. Đan sĩ nhận ra rằng những điều dệt nên cuộc đời mình không phải là sự hào hoa của thế gian, nhưng là nét đẹp thánh thiêng của các thánh tổ phụ đã chia sẻ về đặc sủng bằng nếp sống thánh thiêng. Những vị đã hăm hở chạy trong cuộc đua dành vòng hoa cho người công chính.
Tóm lại: Như một ngọn lửa làm cháy cả cánh rừng, như một chút men làm cho cả khối bột dậy men, thì một động lực sống thánh sẽ thành toàn ngang qua nếp sống đan tu. Đan sĩ cũng mang trong mình hy vọng về cánh cửa của cánh chung được mở ra đúng thời, đúng buổi. Niềm hy vọng này như một tín hiệu nhận diện về sự hiện diện của Chàng Rể bước vào tiệc cưới vĩnh cửu. Đó là tiệc hoan lạc của Thiên Đàng, của niềm hạnh phúc dạt dào mà người đan sĩ hằng mong đạt được.
Thật vậy, không cầu nguyện, không kết nối với Đấng vô hình, đan sĩ tự để cho thần trí khác chiếm hữu và điều khiển. Những khoảnh khắc ấy, chiều kích thánh thiêng mất hút nơi người đan sĩ. Thay vào đó là những toan tính trần tục thế chỗ cho những định hướng chọn lựa cơ bản của đan sĩ chúng ta.

 

HÁT “HAY” LÀ CẦU NGUYỆN HAI LẦN
(Bis Orat Qui Bene Cantat)

 

F. Salesio Duy Đông

Âm nhạc đã “thấm” vào tâm hồn tôi từ bao giờ – Tôi không biết! Trong ký ức của tuổi thơ, tôi vẫn còn nhớ, khi còn đang “ngái ngủ” trên chiếc giường cũ kỹ và đơn sơ của đan viện, tôi chợt nghe tiếng đàn ngân nga, vang vọng cùng với lời ca rất êm ả, nhẹ nhàng tựa như ai đó gõ cửa hồn tôi: “Lạy Chúa Trời xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài”, rồi tiếp tục những lời ca du dương lúc trầm, lúc bổng, nhẹ nhàng, êm đềm như ru tôi vào lại trong giấc ngủ: “Hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát. Đàn lên mừng Chúa khúc hạc cầm dìu dặt, nương khúc hạc cầm réo rắt giọng ca” (Tv 95, 4-6). À! thì ra đó là lời ca, tiếng hát của các đan sĩ. Tôi nghe rất hay và rất thích nhưng tôi không hiểu! Cho đến khi tôi được vào trong Ca tòa và cùng với các đan sĩ, tôi “ngêu ngao” theo “cung điệu của riêng mình” những lời Thánh thi, Thánh ca và Thánh vịnh.
Có lẽ âm vang của những lời kinh, tiếng hát nơi đan viện thời đó đã theo tôi cho đến tận hôm nay – là một đan sĩ. Và bây giờ, tôi lại càng thấm hơn khi đọc được đâu đó câu châm ngôn được xem là của thánh Augustinô: “Hát hay là cầu nguyện hai lần”. Tại sao thế? Tại sao hát “hay” lại được sánh ví với “hai lần cầu nguyện”? Chắc hẳn rằng, thánh Augustinô đã từng có kinh nghiệm. Bởi vì, lời cầu nguyện của ngài luôn được hòa quyện với một trái tim “cháy lửa” yêu mến Chúa. Và chính kinh nghiệm cầu nguyện bằng lời ca tiếng hát đó, đã cho ngài một xác quyết: “Hát là việc của người đang yêu” hay “ai yêu thì hát”.

1. Âm nhạc và cuộc sống con người
Scot Peck đã nói: “cuộc đời này là gai gốc, khó khăn và đau khổ.” Có lẽ, đây là một thực tế mà nhiều người trong thế giới hôm nay đang phải đối diện. Đời người là thế, hạnh phúc và đau khổ, khó khăn và thách đố luôn cùng nhịp bước trên “con đường chẳng mấy ai đi”. Nếu nhìn trong lăng kính của âm nhạc thì đời người chẳng khác gì một bản tình ca lúc trầm, lúc bổng, có lúc êm ái nhẹ nhàng như ru ta vào trong giấc ngủ nhưng cũng có lúc mạnh mẽ, sôi động làm tim ta rạo rực và trào tràn hy vọng, đôi khi lại đặt để ta vào trong những “khoảng lặng” trên dòng nhạc của cuộc đời với những nỗi đau và ray rứt. Những nốt trầm, những nốt bổng cho ta biết giá trị và sự hiện hữu của những nốt bổng và ngược lại. Cũng vậy, đau khổ, buồn sầu, thất vọng, thử thách cho ta biết giá trị và sự tồn tại của niềm vui, hạnh phúc và hy vọng.

1.1. Âm nhạc và nhân cách
Trong cuộc sống con người, cho dù bạn là ai, hay bạn đang sống trong bậc sống nào thì âm nhạc luôn là một trong những nguồn năng lực tinh thần giúp ta trải nghiệm cuộc sống tốt hơn. Không những thế, âm nhạc còn có thể tác động lớn đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của một con người. Tại sao âm nhạc lại ảnh hưởng đến việc phát triển nhân cách của con người? Thưa, bởi vì, âm nhạc có tác dụng phản ánh lên trí tuệ, tư tưởng, cũng như tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến con tim, nghĩa là cảm xúc của con người.
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, mỗi khi nghe một ca khúc, với nội dung, ý nghĩa, và tâm tư, tình cảm của tác giả chạm đến trái tim ta, lúc đó ta sẽ cảm nhận được sự rung động của con tim, và làm thức giấc tình yêu đang lắng đọng trong tâm hồn mình. Và hơn nữa, âm nhạc lúc này như chắp thêm cho ta đôi cánh để sức tưởng tượng của ta được bay bổng, giúp con người nhận thức, yêu đời và yêu cuộc sống hơn. Ngoài ra, âm nhạc còn đem lại cho con người những cảm thức về thẩm mỹ và sự tinh tế của cuộc sống và là nguồn hạnh phúc cho tất cả mọi người. Lev Tolstoi là một triết gia và là văn hào người Nga đã từng viết: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu”. Và để minh chứng điều đó thì “văn học nghệ thuật phải luôn gắn cho mình sứ mệnh và trách nhiệm lớn đó là bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, đạo đức, hướng đến giá trị Chân-Thiện-Mỹ.”
Âm nhạc cũng vậy, mỗi một ca khúc đều là kết quả của tình yêu mà tác giả thổi vào đó và nó cũng không đi ra ngoài sứ mệnh và trách nhiệm là hướng con người đến những giá trị và phẩm hạnh cao đẹp nhất là Chân – Thiện – Mỹ. Chính những giá trị cao đẹp này giúp nuôi dưỡng tâm hồn đẹp trong mỗi chúng ta và tạo nên một nhân cách tốt: khiêm tốn, nhẫn nại, cam đảm, kỷ luật, nhân ái, yêu thương… Và vì thế, một người không có nhân cách tốt sẽ khó có thể viết ra được những tình khúc bất hủ và sống mãi trong lòng con người qua muôn thế hệ. Chúng ta có thể chấp nhận một ca – nhạc sĩ “khiếm khuyết” trên thân xác, chứ không chấp nhận một ca – nhạc sĩ “khiếm khuyết” về nhân cách. Vì Nhạc cũng là nhân, giúp ta sống những giá trị cao đẹp của phận người, đó là đạt đến Chân – Thiện – Mỹ.
Đời nguời có lúc bình yên, phẳng lặng trong niềm vui và hy vọng, có lúc lại lắm thử thách, gian nan và đau khổ. Tựa như một bản tình ca, cuộc đời con người khi thì có cao trào với những điệp khúc sôi động, lắm lúc phải đối diện với những “nốt trầm”, những “khoảng Lặng” và đôi khi lại còn bị “đảo phách”. Và đó là những “tình khúc” trong cuộc sống, nó gắn kết với phận người và chúng ta chỉ có thể cảm nhận được bằng con tim.

1.2. Ngôn ngữ của trái tim
Âm nhạc là ngôn ngữ của trái tim và thuộc về cảm xúc. Thế nên, “Con người không thể dùng giác quan của mình để nghe, nhìn, ngửi, chạm đến hay nếm được mà chỉ có thể cảm nhận bằng trái tim. Đôi khi, chúng ta yêu thích một ca khúc nào đó không chỉ vì giai điệu, ca từ mà còn bởi cảm giác mà bài hát đó mang lại.” Nhất là những tâm tình, ý nghĩa của bài hát đó không đâu xa, nhưng gắn liền với những biến cố trong đời mình. Khi ta “hòa mình trong những giai điệu, ca từ của bản nhạc, thì rất có thể ta được xoa dịu những đau khổ dằn vặt của mình trong cuộc sống, hàn gắn những vết thương lòng, khơi dậy miền xúc cảm và kỷ niệm, “tô màu” cho ký ức, “vẽ” nên những bức họa với đủ các gam màu” , “ký âm” lên những nốt nhạc với những “tông thăng trầm”, những “khoảng lặng” của cuộc sống. “Khi buồn, nó là liều thuốc xoa dịu nỗi sầu, làm tâm hồn nhẹ nhàng thanh thản. Khi vui, nó lại là chất xúc tác điểm tô thêm xúc cảm, giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn vẻ đẹp của cuộc sống” .
Đây chính là “phương diện truyền tải cảm xúc trọn vẹn và tuyệt vời nhất, giúp chúng ta cảm nhận được từng ngõ ngách sâu thẩm nhất trong tâm hồn” . Và đây là điều mà tôi cảm nhận được không chỉ bằng lý trí mà bằng cả con tim. Hơn hữa, âm nhạc còn có khả năng giao thoa giữa cuộc sống thể xác và cuộc sống tâm linh (Beethoven) , chỉ vì một lý do rất đơn giản: âm nhạc là ngôn ngữ của con tim. Mặc dù, âm nhạc giúp con người đạt được những giá trị tinh thần, xây dựng nhân cách, khám phá ra những giá trị cao đẹp là Chân – Thiện – Mỹ. Thế nhưng, con người vẫn cảm thấy mình cô đơn, lạc lõng giữa một thế giới đang dần bị “tục hóa” những giá trị đạo đức, luân lý và những giá trị thuần túy của con người. Và vì vậy, con người không ngừng tìm kiếm những giá trị tinh thần và siêu nhiên để “khoác” cho âm nhạc một “sắc màu” mới – cao cả hơn, thánh thiêng hơn.

2. Âm nhạc và cầu nguyện

2.1. Âm nhạc trong phụng thờ Thiên Chúa
Ủy ban Thánh nhạc trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam trong tài liệu hướng dẫn về thánh nhạc đã minh định rằng: “Thiên Chúa đã ban cho Dân Ngài hồng ân ca hát. Thiên Chúa ở trong mỗi một con người, và Ngài hiện diện ở cội nguồn âm nhạc. Thật vậy, Thiên Chúa, Đấng ban tiếng hát cho con người luôn hiện diện bất cứ khi nào dân Chúa lên tiếng ca tụng Ngài.” Kinh thánh cũng cho chúng ta thấy được điều đó.

2.2 Cựu ước
Nếu nói hát là cầu nguyện, là để ca tụng Thiên Chúa, thì từ thời Cựu ước, các tổ phụ, các vị tiền nhân chúng ta đã làm được điều đó. Trong sách Đệ Nhị Luật, Thiên Chúa đã phán cùng Môsê rằng: “Bây giờ các ngươi hãy viết cho mình bài ca này, (các) ngươi hãy dạy cho con cái Israel, hãy đặt vào miệng chúng, để Ta lấy bài ca ấy làm chứng cáo tội con cái Israel” (Đnl 31,19). Và trong cuộc xuất hành, khi Dân riêng của Thiên Chúa đã vượt qua Biển Đỏ ráo chân, bấy giờ ông Môsê cùng với con cái Israel hát mừng Thiên Chúa bài ca sau đây, họ ca rằng: “Tôi xin hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng: Kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương…” (x. Xh 15,1-18). Trong sách Thủ lãnh cũng ghi lại một mẫu gương, đó là bà Đêbôra, thẩm phán Israel, cùng với ông Barac đã hát mừng Thiên Chúa sau khi được Chúa cho khải hoàn (x. Tl 5,1-31).
Đặc biệt, “Vua Đavít và toàn thể nhà Israel vui đùa trước Nhan Thiên Chúa, với mọi thứ nhạc cụ bằng gỗ trắc bá, với đàn cầm đàn sắt, trống con, chũm chọe, thanh la” (2Sm 6,5). Sự phấn khích của vua Đavít khi hát mừng và nhảy múa để ca tụng Đức Chúa đã làm cho bà Mikhan, con gái vua Saun, từ cửa sổ nhìn xuống sinh lòng khinh dể (x. 2Sm 6,16). Thế nhưng, vua Đavít vẫn cứ nhảy múa, vẫn cứ ca hát, vì đối với vua, không có lời cầu nguyện nào sâu sắc hơn, tha thiết hơn, nâng hồn ta lên hơn cho bằng lời ca tiếng hát của chính mình – ngài hát bằng con tim, bằng tình yêu và cả con người.
Trên đây là một vài ghi nhận, cho thấy rằng tổ tiên chúng ta đã dùng lời ca tiếng hát của mình để hát khen và chúc tụng những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho các ngài. Có lẽ đó cũng là lời cầu nguyện chân thành nhất của các tổ phụ chúng ta thời bấy giờ.

2.3. Tân ước
Truyền thống dùng lời ca tiếng hát để cảm tạ và chúc tụng Thiên Chúa của Tổ tiên không những không bị lãng quên và phai nhòa đi vào thời Chúa Giêsu, mà còn được Chúa Giêsu cũng cố, khích lệ và mặc cho nó một tinh thần mới trong mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Chính Chúa Giêsu cũng hát Thánh vịnh để cầu nguyện với Cha của Ngài – Đấng ngự trên Trời, chính thánh Máccô đã ghi nhận trong Tin mừng của mình, ngài viết: “Hát Thánh vịnh xong, Đức Giêsu và các môn đệ ra núi Ôliu” (Mc 14,26). Chúa Giêsu còn hát bằng cả cuộc đời của Ngài, hay nói đúng hơn, cả cuộc đời của Chúa Giêsu là một bản tình ca với đủ các tông nhạc “Trầm – Bổng”, những “khoảng lặng” được ứng nghiệm qua lời Kinh thánh, các sách Luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và Thánh vịnh (x. Lc 24,44).
Một “Pharisêu” đậm chất “truyền thống” như thánh Phaolô, nhưng khi được Chúa Giêsu Phục sinh cảm hóa và chạm đến trái tim, ngài đã trở thành một con người trào tràn “đam mê”: đam mê Chúa Giêsu, đam mê rao giảng Tin mừng Tình yêu của Chúa. Và, cũng chính ngài đã khuyên các tín hữu: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài Thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha” (Ep 5,19-20).
Thánh Phaolô đã noi gương Thầy Giêsu trong việc cầu nguyện, ngay cả khi trong nghịch cảnh. Khi còn bị giam trong tù, ngài vẫn hát ca chúc tụng Thiên Chúa: “Vào quãng nửa đêm, ông Phaolô và ông Xila hát thánh ca cầu nguyện với Thiên Chúa; các người tù nghe hai ông hát” (Cv 16,25). Cầu nguyện bằng lời ca tiếng hát có ích lợi cho cuộc sống. Thấy được lợi ích đó, thánh Giacôbê đã khuyên chúng ta: “Ai trong anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca” (Gc 5,13).
Như vậy, những lời ca, tiếng hát từ thời Cựu ước, Tân ước cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc cầu nguyện bằng âm nhạc. “Như tiếng kêu từ cõi sâu thẳm của con người chúng ta, âm nhạc là con đường để Thiên Chúa dẫn chúng ta hướng tới nơi cao vời hơn. Như thánh Augustinô đã nói: “Người nào yêu thì hát.” Vì thế, âm nhạc là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chúng ta yêu mến Ngài. Điều này được hiện thực cách cụ thể hơn qua việc cử hành phụng vụ mà ta quen gọi là thánh nhạc trong phụng vụ. Thánh nhạc “làm cho lời kinh phụng vụ của cộng đoàn Kitô hữu thêm linh động, nhiệt thành, ngõ hầu mọi người có thể ca tụng và cầu khẩn Thiên Chúa Ba Ngôi cách mạnh mẽ và hiệu nghiệm hơn.”
Quả thật, chính “Đức Kitô đã hát Thánh vịnh bằng chính giọng hát của Ngài (x. Mc 14,26). Ngài đã hát Thánh vịnh bằng cuộc đời của Ngài (x. Lc 24,44). Ngài vẫn còn hát Thánh vịnh ngang qua “Thân Thể của Ngài”, nghĩa là ngang qua Giáo hội và một cách cụ thể, ngang qua chính “giọng hát” hàng ngày của chúng ta. Và như Đức Kitô, chúng ta được mời gọi hát Thánh vịnh bằng chính cuộc đời của mình.”

3. Âm nhạc trong Phụng Vụ thánh
Âm nhạc chưa hẳn là thánh nhạc, âm nhạc là nghệ thuật diễn tả cảm xúc, tâm tình bằng âm thanh. Âm nhạc có thể nâng tâm hồn con người lên để “cảm nghiệm” cuộc sống, và quy hướng về sự giải trí, giải tỏa những tâm tư của con người hơn là hướng về cầu nguyện. Trong khi đó, thánh nhạc, được coi là một nghệ thuật cao cả và tế nhị, làm tăng thêm vẻ huy hoàng cho việc thờ phượng Thiên Chúa và làm cho đời sống thiêng liêng của các Kitô hữu nói chung, và người tu sĩ, đan sĩ nói riêng, được triển nở và gắn kết hơn với Chúa Kitô và cộng đoàn khi cầu nguyện.
Hội thánh luôn cầu nguyện qua các thừa tác viên và cộng đoàn, và có nhiều hình thức cầu nguyện khác nhau tùy theo các bậc sống trong đời sống của Hội thánh. Tuy nhiên, việc cầu nguyện phổ biến và chung hết cho tất cả mọi Kitô hữu được quy tụ lại với nhau, có thể đó là cầu nguyện trong Thánh lễ mỗi ngày – Âm nhạc trong Phụng vụ thánh lễ hay thánh nhạc. Thánh nhạc giúp cho sự tiến triển đời sống thiêng liêng của các Kitô hữu được thể hiện rõ nét hơn qua việc tham dự thánh lễ mỗi ngày. Đời sống cầu nguyện của các Kitô hữu được nuôi dưỡng qua thánh lễ với những bài thánh ca mà chính họ hát lên bằng cả con tim và lý trí.
Ðức Giáo Hoàng Piô XII trong Thông điệp Kỷ Luật về Thánh Nhạc đã minh định rằng: “Nhờ thánh nhạc mà giọng nói của Linh mục đang dâng lễ hoặc của cộng đoàn dân Chúa đang chúc tụng Ðấng Tối Cao được hay hơn, làm cho lời kinh phụng vụ của cộng đoàn Kitô hữu linh động hơn, nhiệt tình hơn. Vinh dự mà Hội thánh – kết hợp với Ðức Kitô là vị thủ lãnh của mình – dâng lên Thiên Chúa sẽ lớn lao hơn, và tín hữu nhờ thánh ca lôi cuốn sẽ đạt được nhiều kết quả hơn.” Nhưng không phải ở tự bản chất của âm nhạc khi dùng trong phụng vụ có thể đem lại những thành quả đó, mà vì âm nhạc đi liền với lời kinh, kết thành một phần cần thiết hoặc kiện toàn của phụng vụ thánh. Âm nhạc càng liên kết chặt chẽ với phụng vụ thánh bao nhiêu thì càng trở nên một thứ nhạc thánh hơn bấy nhiêu, vì nó biểu đạt lời cầu nguyện một cách dịu dàng và sâu sắc của con tim.
Tuy âm nhạc có một vị thế rất quan trọng trong thánh lễ, nhưng nó chỉ là phương tiện để hỗ trợ cho phụng vụ thêm phần sốt sắng, nhờ đó các tín hữu cầu nguyện và nâng tâm hồn lên cùng Chúa, chứ không phải để làm “bá chủ” trong phụng vụ theo nghĩa như là một buổi hòa nhạc hầu thưởng thức cho “vui tai”. Và vì thế, âm nhạc trong phụng vụ Thánh lễ phải nhẹ nhàng, du dương để không lấn át giọng hát của cộng đoàn. Ngoài ra, thánh nhạc trong Phụng vụ Thánh lễ không những phải giúp đỡ cộng đoàn dân Chúa biểu lộ và chia sẻ đức tin cùng anh chị em mình, và để nuôi dưỡng cũng như khích lệ niềm tin của họ, mà còn giúp cộng đoàn đi vào đời sống cầu nguyện một cách sâu sắc hơn, sống một đời sống thánh thiện và hiệp nhất hơn.

4. Hát hay là cầu nguyện hai lần
“Tự bản chất, âm nhạc vừa có chiều kích cá nhân, vừa có chiều kích cộng đồng. Vì vậy, có thể nói rằng việc cùng nhau ca hát trong thánh đường diễn tả một cách tốt đẹp sự hiện diện cách bí tích của Thiên Chúa giữa dân Ngài.” Và đây cũng là bổn phận mà các đan sĩ phải cử hành mỗi ngày trong đan viện và trong suốt cuộc đời.

4.1. Cầu nguyện chung – “Hát là việc của đan sĩ”
Trong Đan viện, các đan sĩ dành rất nhiều thời gian cho việc cầu nguyện chung với nhau. Mỗi ngày, các đan sĩ thức dậy từ rất sớm để ca tụng Thiên Chúa qua việc hát kinh trong Các Giờ Kinh Phụng Vụ và trong Thánh lễ. Có thể nói, đan sĩ hóa thân thành những “ca sĩ” thực thụ, để hát lên những “tình khúc” là Thánh vịnh, Thánh thi và Thánh ca do Thần khí linh hứng.
Giờ Kinh Phụng vụ là lời cầu nguyện liên lỉ của toàn thể Hội thánh, nhất là của những người sống đời thánh hiến, đặc biệt là của các nam nữ đan sĩ, hầu để thánh hóa ngày sống và toàn bộ sinh hoạt của mình và cộng đoàn. Với ý nghĩa này, thì cầu nguyện là nhiệm vụ chính yếu của đan sĩ, vì Hội thánh và các đấng sáng lập dòng luôn theo lời Chúa Giêsu dạy, đó là “phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1). Cha Tổ phụ Biển Đức Thuận – đấng sáng lập Hội dòng Xitô Thánh Gia cũng nhắc nhở các đan sinh phải luôn cầu nguyện, ngài nói: “việc bổn phận chúng ta là cầu nguyện và kết hợp với Chúa. Đó là việc riêng của chúng ta… Nhà này mà không cầu nguyện, thì hóa ra là nhà nông phu… Thầy dòng phải là con người cầu nguyện” (DN, số 118).
Thật vậy, đời sống cầu nguyện luôn gắn kết cuộc đời Chúa Giêsu với Chúa Cha, và việc cầu nguyền của Chúa Giêsu được Phúc âm ghi lại rất rõ: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc 1,35; Lc 4,42). Có những lúc, “Chúa Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6,12). Ngay từ thời các Tông đồ cũng vậy, noi gương Thầy Chí Thánh, các tín hữu đã chuyên cần cầu nguyện vào những thời khắc nhất định. Tác giả sách Công vụ Tông đồ đã ghi nhận: các môn đệ họp nhau cầu nguyện vào giờ thứ ba (x. Cv 2,15), vị thủ lãnh các Tông đồ “lên sân thượng cầu nguyện vào giờ thứ sáu” (x. Cv 10,9), ông Phêrô và ông Gioan lên Đền thờ cầu nguyện vào giờ thứ chín (x. Cv 3,1), “vào quãng nửa đêm, ông Phaolô và ông Xila cầu nguyện ca tụng Chúa” (x. Cv 16,25).
Dần dà với thời gian, “tại nhiều nơi đã sớm có thói quen dành những khoảng thời gian rõ rệt để cầu nguyện chung với nhau. Những buổi cầu nguyện chung như thế dần dần tạo thành một chu kỳ giờ kinh nhất định.” Đặc biệt, với các đan sĩ, họ cầu nguyện bằng cách hát kinh phụng vụ chung với nhau 7 giờ kinh trong một ngày, khởi sự từ mờ sáng “lúc trời còn tối mịt” cho đến lúc chiều tà khi đêm về (Kinh Sáng, Kinh giờ III, giờ VI, giờ IX, Kinh Chiều, Kinh Tối và Kinh Sách hay Kinh Đêm). Đây là lời cầu nguyện của các đan sĩ và của Hội thánh cùng với Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa Cha.
Vấn đề được đặt ra, liệu đan sĩ có đơn điệu hay không, khi mà ngày nào cũng vậy, từ rạng đông đến lúc chiều tà, họ cứ lặp đi lặp lại và hát bấy nhiêu điều ấy? Hát kinh thần vụ và cầu nguyện là việc của họ (x. DN, số 118). Hát Kinh Thần Vụ mỗi ngày, đó không đơn thuần là bổn phận của các đan sĩ thay mặt Hội thánh, nhưng họ hát là vì “họ đang yêu”. Thánh Augustinô đã từng có kinh nghiệm khi cầu nguyện, và chính ngài đã xác quyết rằng: “hát là việc của người đang yêu” hay “ai yêu thì hát” (x. Quy chế tổng quát số 39).
Thực tế cho thấy, khi người ta yêu thì họ không bao giờ nhàm chán, họ càng muốn hát nhiều hơn cho người mình yêu được nghe những tâm tình mà họ muốn nói. Đan sĩ cũng vậy, mỗi lời kinh tiếng hát như nỗi lòng từ sâu thẩm trong trái tim ta dâng lên Thiên Chúa mỗi ngày, vì Người là Đấng luôn lấp đầy những khoảng trống trong tâm hồn chúng ta. Chính vì thế, để không bị nhàm chán và đơn điệu trong cầu nguyện, đan sĩ phải luôn làm mới tâm hồn mình và hâm nóng tình yêu với Thiên Chúa và với anh chị em trong cộng đoàn mỗi ngày.

4.2. Cầu nguyện riêng – chỉ mình ta với Chúa
Đức Thánh cha Phanxicô nói rằng: “Con người – tất cả người nam hay người nữ – mỗi người chúng ta chỉ tựa như một hơi thở, một ngọn cỏ. Nhà triết học Pascal đã viết: “Cả vũ trụ không cần trang bị sức mạnh để nghiền nát con người; chỉ cần một chút hơi nước, một giọt nước cũng đủ giết chết họ”. Con người chúng ta rất mỏng giòn, nhưng chúng ta biết cầu nguyện: đây là phẩm giá lớn nhất của chúng ta, và nó cũng là pháo đài của chúng ta.” Trong dòng suy tư này, chúng ta cũng có thể nói rằng cầu nguyện cũng là phẩm giá lớn nhất của đan sĩ và nó là pháo đài gìn giữ chúng ta trong Đời sống Thánh hiến đan tu.
Cầu nguyện là phẩm giá lớn nhất của đan sĩ. Vì thế, lời cầu nguyện rất quan trọng. Chúng ta thường cầu nguyện bằng những lời kinh theo kiểu hát thần vụ những thánh thi, thánh ca và Thánh vịnh chung với nhau. Thế nhưng, để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và nội tâm, đan sĩ cũng có thể cầu nguyện bằng chính ngôn ngữ của mình qua việc chiêm niệm, suy gẫm Lời Chúa và cầu nguyện riêng trong thinh lặng và yên tĩnh. (x. DN, số 118-119). Ở đó, chỉ mình ta với Chúa! Cũng như Chúa Giêsu, ngoài những thời gian thầy trò cầu nguyện và hát Thánh vịnh cùng nhau, Người tìm cho mình một nơi thanh vắng, tĩnh mịch để gặp gỡ và trò chuyện riêng tư với Chúa Cha. Và đây là điều rất quan trọng và cần thiết, để đan sĩ kiến tạo và củng cố mối tương quan thiết thân với Ba Ngôi Thiên Chúa cũng như với anh chị em trong đan viện.
Thánh phụ Biển Đức rất quan tâm đến việc cầu nguyện riêng của đan sĩ. Ngài đã nhắc nhở các đan sinh trong đan viện khi cầu nguyện phải ý thức rằng: “Chẳng phải do nhiều lời nhưng chỉ cần một lòng thanh sạch, hòa với dòng lệ thống hối là được Chúa nhận lời. Vì thế, lời cầu nguyện phải ngắn gọn và tinh tuyền… nhưng dù sao trong cộng đoàn, kinh nguyện phải rất vắn tắt…”
Sở dĩ thánh Phụ Biển Đức muốn kinh nguyện trong cộng đoàn phải ngắn gọn, là để cho các đan sĩ có thời gian cầu nguyện riêng tư với Chúa. Thánh phụ Biển Đức đặc biệt lưu ý: “Giờ thần vụ vừa xong, mọi người triệt để im lặng đi ra và hết lòng cung kính Chúa, để anh em nào muốn cầu nguyện riêng khỏi bị phiền hà ngăn trở. Còn những lúc khác, ai muốn cầu nguyện âm thầm một mình cứ đơn sơ vào cầu nguyện, không lớn tiếng om sòm nhưng với nước mắt và lòng thành.”
Như vậy, đời sống cầu nguyện của người Kitô hữu nói chung và của các đan sĩ nói riêng, được nuôi dưỡng bằng thánh nhạc trong phụng vụ và việc cầu nguyện riêng tư của mỗi người. Âm nhạc cũng là nguồn gợi hứng cho thánh nhạc, giúp ta cử hành những buổi hát kinh thần vụ và cầu nguyện chung với nhau sốt sắng hơn. Qua đó, đan sĩ nhận ra giá trị Lời Chúa trong cuộc đời mình. Và như vậy, có thể nói rằng, thánh nhạc trong lối “cầu nguyện phụng vụ” – cầu nguyện bằng lời ca tiếng hát chung với cộng đoàn và “cầu nguyện riêng tư” – cầu nguyện bằng chính ngôn ngữ của mình được sánh ví như đôi cánh có thể nâng tâm hồn đan sĩ lên để “chiêm niệm” và “cảm nghiệm” Chân lý, giúp cho đan sĩ quy hướng về Thiên Chúa, Đấng mà vịnh gia đã không ngớt lời ngợi khen: “Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa, sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời” (Tv 146,1-2).

5. Cầu nguyện với Mẹ Maria qua bài ca Magnificat
Hơn ai hết, Mẹ Maria là người đã thấm nhuần giá trị của đời sống cầu nguyện. Cuộc đời của Mẹ là một bài ca tạ ơn và là lời cầu nguyện liên lỉ không ngừng dâng lên Thiên Chúa và được Mẹ hân hoan xướng lên trong bài ca Magnificat. Khởi đầu bài ca này, Mẹ đã nói lên lòng mừng rỡ hân hoan sâu thẳm từ trong trái tim Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-47). Không dừng lại ở đó, Mẹ Maria tiếp tục kể lại những gì mà Thiên Chúa đã làm cho Mẹ: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,48-49).
Những lời cầu nguyện và ca khen của Mẹ Maria, không chỉ tạ ơn Thiên Chúa về những gì Người đã làm cho Mẹ, nhưng Mẹ còn ngợi ca Thiên Chúa vì những việc cao trọng Người đã thực hiện cho những kẻ nghèo hèn, cho những ai có lòng kính sợ Thiên Chúa và cho chính chúng ta là những người đang sống đời thánh hiến đan tu: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta” (Lc 1,50-55). Và đó là lời kinh, lời ngợi ca, lời cầu nguyện tuyệt vời nhất, trọn vẹn nhất của Mẹ Maria dâng lên Thiên Chúa.
Quả thật, tâm tình và lời cầu nguyện của Mẹ Maria đặt để trong bài ca Magnificat được khởi đi từ trái tim và tình yêu của Mẹ. Đó cũng là tâm tình mà mỗi đan sĩ cần phải có khi cầu nguyện. Hiểu được giá trị nội tại của lời kinh Magnificat trong đời sống của người Kitô hữu, Giáo hội từ thế kỷ thứ V-VI, đã đưa vào trong Kinh Chiều của kinh Thần vụ, vì đây là một lời cầu nguyện tuyệt vời nhất. Điều này cũng được thánh Giáo hoàng Phaolô VI minh định trong Tông huấn Marialis Cultus: “Magnificat là lời cầu nguyện tuyệt vời của Mẹ Maria, bài ca ngợi khen của thời Đấng Thiên Sai, nơi hoà chung niềm vui của Israel Cựu – Tân… Bài ca của Đức Trinh Nữ đã trở thành lời cầu nguyện của Hội thánh trong mọi thời đại.”
Vì thế, là đan sĩ, khi cầu nguyện chúng ta cần ý thức, biết kết hợp mật thiết với Mẹ và cùng hát với Mẹ Maria, với toàn thể Hội thánh mà dâng lên Thiên Chúa tâm tình ngợi ca tuyệt vời này. Vì như thánh Augustinô đã nói: “hát hay là cầu nguyện hai lần”. Và đây cũng là lời cầu nguyện tuyệt vời nhất của đan sĩ dâng lên Thiên Chúa Cha mỗi ngày bằng lời ca, tiếng hát và bằng chính ngôn ngữ của riêng mình. Và, cho đến khi hoàn tất cuộc đời thánh hiến, còn được cùng với anh chị em đan sĩ trong đan viện mình và Hội dòng hát lên lần cuối cùng bài ca Te Deum Laudamus – Tạ Ơn Thiên Chúa, vì suốt cuộc đời con đã hát vì yêu!

SỨ VỤ “MUỐI” VÀ “ÁNH SÁNG” NƠI ĐAN SĨ
để nên lời ngợi ca

(x. Mt 5,13-16; Cl 3,16)

M. Gioan XXIII Nguyễn Văn Tấn

Đan sĩ tham gia vào sứ mạng của Hội thánh bằng cách sống triệt để linh đạo đan tu Biển Đức – Xitô: “Cầu nguyện và lao động – Ora et Labora”. Nội san “Hạt Giống Chiêm Niệm”số 32 xoay quanh chủ đề “Cầu nguyện đan tu”. Chủ đề về cầu nguyện rất quen thuộc với nhiều người, cách riêng, các đan sĩ – những người được ví như “Môsê cầu nguyện cho dân” hay những “chuyên viên cầu nguyện”… Với đề tài: Nên lời ngợi ca trong sứ vụ “muối” và “ánh sáng” nơi đan sĩ, bài viết này không nhằm giải quyết và bàn về các định nghĩa liên quan tới cầu nguyện, nhưng chỉ nêu ra và trả lời cho những câu hỏi: cầu nguyện đích thực cần hiểu như thế nào? Tại sao chúng ta phải cầu nguyện? Có bao nhiêu hình thức cầu nguyện? Phải chăng ca ngợi là hình thức cầu nguyện làm cho đan sĩ trở nên lời ngợi ca trong sứ vụ “muối” và “ánh sáng” của đời đan tu?

1. Hiểu thế nào về cầu nguyện
Cầu nguyện trong tiếng La tinh là Oratio. Cầu: xin; nguyện: mong ước. Cầu nguyện được hiểu là xin và mong ước điều gì. Theo Từ Điển Công Giáo, thì “cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Thiên Chúa, qua Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, để yêu mến, thờ lạy, ca tụng, cảm tạ, thống hối và cầu xin Ngài ban cho những ơn cần thiết”. Như vậy, cầu nguyện chính là một cuộc đối thoại mầu nhiệm và thực sự với Thiên Chúa, một cuộc đối thoại tin tưởng và yêu thương. Nói cách khác, cầu nguyện là sống tròn đầy sự hiện diện trước tôn nhan Thiên Chúa và tương quan hiệp thông với Ngài (x. GLHTCG , số 2564-2565).
Chúng ta là Kitô hữu và vì thế chúng ta phải cầu nguyện như Kitô hữu. Nhưng lời cầu nguyện của người Kitô hữu mang một đặc tính hoàn toàn đặc biệt làm thay đổi bản chất thâm sâu và giá trị sâu xa nhất của lời cầu nguyện. Người Kitô hữu là môn đệ của Chúa Giêsu; họ thực sự tin rằng Chúa Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Con Thiên Chúa đã đến với chúng ta trong thế giới này. Đời sống của Chúa Giêsu là một lời cầu nguyện liên lỉ, một hành động tôn thờ và yêu mến không ngừng đối với Chúa Cha. Cao điểm lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là hy tế trên Thập giá, được báo trước trong Bữa Tiệc Ly khi lập Bí tích Thánh Thể và trong hánh lễ sẽ tiếp tục mãi mãi.
Do đó, người Kitô hữu biết rằng lời cầu nguyện của mình là Chúa Giêsu; tất cả những lời cầu nguyện của họ đều bắt đầu từ Chúa Giêsu; chính Người cầu nguyện trong chúng ta, với chúng ta và cho chúng ta (x. GLHTCG, số 2746). Nói cách khác, chúng ta cầu nguyện nhờ Người và trong Người (GLHTCG, số 2615), nhân danh Người (x. GLHTCG, số 2614). Trong phần nói về cầu nguyện, sách Giáo Lý Hội thánh Công Giáo cũng trưng dẫn nhiều số liên quan đến điều đó khi nói rằng: Đức Giêsu là mẫu gương cầu nguyện (x. GLHTCG, số 2599-2606; 2746-2751), Người là thầy dạy cầu nguyện (x. GLHTCG 2607-2615) và đồng thời Người cũng nhậm lời chúng ta cầu nguyện nữa (x. GLHTCG, số 2616).
Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã khuyên chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vào lời cầu nguyện xuyên suốt cuộc đời của Người như một con kênh ẩn giấu tưới mát cuộc sống, các mối tương quan, các hành động và dẫn đưa Người với quyết tâm ngày càng tăng đến sự hiến thân trọn vẹn, theo kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu cũng là thầy dạy cầu nguyện của chúng ta và Người hỗ trợ chúng ta hướng về Chúa Cha một cách hữu hiệu và huynh đệ. Quả vậy, “trong Chúa Giêsu, việc cầu nguyện đã được mặc khải và thực hiện cách trọn vẹn.”
Do đó, thánh Gioan Phaolô II mời gọi: tất cả những ai tin vào Chúa hãy cầu nguyện. Nhưng người Kitô hữu cầu nguyện trong Chúa Giêsu Kitô: Chúa Kitô là lời cầu nguyện của chúng ta! Lời cầu nguyện tối cao là thánh lễ, bởi vì trong đó chính Chúa Giêsu thực sự hiện diện để lập lại hy tế của Người trên thập giá; nhưng mọi kinh nguyện khác cũng có giá trị của nó, nhất là kinh “Lạy Cha” mà chính Chúa Giêsu muốn dạy các Tông đồ và mọi người trên trái đất, vì lời kinh này “là bản tóm lược toàn bộ Tin mừng” , là “lời kinh tuyệt hảo” và “lời kinh này nằm ở tâm điểm của Sách Thánh” (GLHTCG, số 2774).
Nhưng tại sao chúng ta cầu nguyện? Theo thánh Gioan Phaolô II, chúng ta cần cầu nguyện vì chúng ta yếu đuối và tội lỗi. Phải nhìn nhận một cách khiêm tốn và thực tế rằng chúng ta là những tạo vật đáng thương, tâm hồn rối bời, luôn bị sự cám dỗ của sự dữ, mong manh và yếu đuối, luôn cần đến sức mạnh và sự an ủi nội tâm.
– Cầu nguyện tiếp thêm sức mạnh cho những lý tưởng cao cả, giữ vững niềm tin, tình yêu, sự trong sạch, độ lượng.
– Cầu nguyện đem lại can đảm vươn lên từ sự thờ ơ, từ mặc cảm khi chẳng may sa ngã trước cám dỗ và yếu đuối.
– Cầu nguyện mang lại ánh sáng để nhìn và chiêm ngưỡng các biến cố của đời người và lịch sử từ viễn cảnh cứu độ của Thiên Chúa và cõi vĩnh hằng. Vì vậy, đừng bao giờ ngừng cầu nguyện! Không một ngày nào trôi qua mà bạn không cầu nguyện ít nhất một thời gian ngắn! Cầu nguyện là một bổn phận, nhưng cũng là một niềm vui lớn vì nó là một cuộc đối thoại với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô!
Thánh Phaolô đã viết cho các Kitô hữu tiên khởi: “Anh em đừng nản lòng khi cầu nguyện” (Cl 4,2) “Anh em đừng ngừng cầu nguyện và nài xin” (Ep 6,18). Vậy có bao nhiêu hình thức cầu nguyện?

2. Các hình thức cầu nguyện
Đọc lại lịch sử Kitô giáo chúng ta biết được rằng, đã có rất nhiều định nghĩa được phát biểu về sự cầu nguyện. Nhưng tựu trung thì có ba hình thức cầu nguyện: Oratio Vocalis (khẩu nguyện), meditatio (suy niệm) và oratio comtemplativa (cầu nguyện chiệm niệm). Điểm chung của ba hình thức này là tập trung tâm hồn (x. GLHTCG 2721).

2.1. Oratio Vocalis (khẩu nguyện)
Khẩu nguyện được hiểu là việc con người dùng lời nói để bày tỏ tâm tình cầu nguyện bên trong tâm hồn, là một trong những hình thức cầu nguyện phổ biến theo truyền thống Kitô giáo (x. GLHTCG 2702). Đặc tính đầu tiên của khẩu nguyện, chính là sự liên kết thân xác chúng ta với lời cầu nguyện nội tâm. Ngay cả lời cầu nguyện thầm kín nhất cũng phải cần đến khẩu nguyện. Thứ hai, trong mọi trường hợp, khẩu nguyện phải luôn xuất phát từ đức tin của bản thân người cầu nguyện. Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta một công thức tuyệt hảo của khẩu nguyện, đó là kinh Lạy Cha. Đức Thánh cha Phanxicô đánh giá rất cao hình thức khẩu nguyện. Quả vậy, trong bài giáo lý sáng ngày 21/04/2021, ngài suy tư về giá trị của khẩu nguyện, của lời cầu nguyện phát trên môi miệng, những lời này là những lời duy nhất mà Thiên Chúa muốn nghe và dẫn đưa chúng ta đến với Thiên Chúa. Đừng kiêu ngạo xem thường khẩu nguyện.

2.2. Meditatio (suy niệm)
Đây là hình thức suy tư trong cầu nguyện. “Việc suy tư này phải bắt đầu từ Lời Chúa trong Thánh Kinh. Suy niệm vận dụng lý trí, trí tưởng tượng, tình cảm, ước muốn, để đào sâu đức tin, hoán cải tâm hồn và củng cố ý chí muốn bước theo Ðức Kitô. Ðây là bước khởi đầu tiến đến việc kết hợp với Chúa trong tình yêu.” Nói cách khác, việc suy niệm nhằm mục đích đi tìm hiểu các mầu nhiệm đức tin liên quan tới Đức Kitô trong tinh thần cầu nguyện. Cho nên “mục đích của suy niệm không phải là nghiên cứu, học hỏi hay hiểu biết về lý thuyết mà là để cho điều đã suy tư trong đức tin trở nên của riêng mình, đồng thời khơi dậy tâm tình yêu mến và củng cố ý muốn phụng sự Thiên Chúa (x. GLHTCG 2723)” Do đó, những gì chúng ta suy gẫm cầu nguyện thì cũng cần đem ra thực hành, vì “meditatio “ không chỉ đơn thuần mang nghĩa là “suy gẫm”.

2.3. Oratio Comtemplativa (cầu nguyện chiêm niệm)
Thánh nữ Têrêsa cho biết: “Tâm nguyện không gì khác hơn là cuộc trao đổi thân tình giữa bạn hữu, trong đó chúng ta năng dành thời gian để một mình ở bên Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta biết là Ngài yêu thương chúng ta.” Vì thế, “cầu nguyện chiêm niệm là hình thức đơn sơ của mầu nhiệm cầu nguyện. Đó là cái nhìn của đức tin chiêm ngắm Chúa Giêsu, lắng nghe Lời Chúa, mến yêu thầm lặng. Cầu nguyện chiêm niệm là sự kết hợp với lời cầu nguyện của Đức Kitô, vì cho chúng ta tham dự vào mầu nhiệm của Người” (GLHTCG 2724). Nói cách khác, cầu nguyện chiêm niệm là một hồng ân Chúa ban cho con người, là một ân sủng mà con người được đón nhận trong sự khiêm tốn và khó nghèo của bản thân. Giáo hội gọi đó là một tương quan của Giao ước được Thiên Chúa thiết lập từ trong sâu thẳm cõi lòng con người. Cho nên, nó cũng diễn tả sự hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi, qua đó con người được làm cho trở nên “giống Thiên Chúa” (x. GLHTCG 2713).
Ngoài ba hình thức: khẩu nguyện, suy niệm và chiệm niệm, còn có hình thức cầu nguyện ca ngợi (laus), ca: tán dương và ngợi: khen. Ca ngợi là dùng lời nói, cử chỉ hay hành động để tỏ bày tâm tình chúc tụng và là hình thức cầu nguyện tinh tuyền nhất để tán dương, tôn vinh Thiên Chúa chỉ vì Ngài hiện hữu và đáng chúc tụng. Chính nhờ Thần Khí của Đức Kitô mà chúng ta có thể ca ngợi Thiên Chúa Cha trong tâm tình của những người con (x. GLHTCG, số 2639). Lời kinh ca ngợi tiêu biểu của Kitô giáo đã được chính Chúa Giêsu truyền dạy trong Kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng”. Vì thế, Giáo hội luôn theo gương và lời dạy của Thầy Chí Thánh mà không ngừng dâng lời chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, vì “Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19), và thánh tễ chính là hy tế, là lời ca ngợi cao cả nhất được dâng lên Chúa Cha qua cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô (GLHTCG, số 1359).
Đan sĩ cần nuôi dưỡng những hình thức cầu nguyện đó, để gúp họ trở nên lời ngợi ca trong sứ vụ “muối” và “ánh sáng” của cuộc sống đan tu. Tin mừng nói gì về vai trò “muối” và “ánh sáng” của người môn đệ? Đâu là những tham chiếu rõ nét cho thấy khi đời sống đan sĩ được nuôi dưỡng bằng đời sống cầu nguyện, thì cũng là lúc họ đang thực thi sứ vụ cao cả mà mình được mời gọi?

3. Sứ vụ “muối” và “ánh sáng” nơi đan sĩ (x. Mt 5,13-16)
Trong Tin mừng Mátthêu, sau khi nói về Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã sử dụng hai hình ảnh nổi tiếng: muối và ánh sáng để nói lên vai trò của người môn đệ trên trần gian.

3.1. “Chính anh em là muối cho đời” (Mt 5,13)
Chúng ta biết, muối có hai công dụng chính, đó là ướp cho khỏi hư và làm gia vị. Đời sống người Kitô hữu nói chung và đan sĩ nói riêng, cũng phải giữ làm sao cho xã hội khỏi suy thoái, đồng thời giúp cho nó được thăng tiến trong thánh ý của Thiên Chúa. Tác giả Louis Barbieri cho rằng, những người theo Chúa Giêsu phải giống như muối, khơi dậy trong người khác niềm khát khao biết thêm những điều gì cao quý mà họ đang theo đuổi.
Đâu là “muối” của đời đan tu? Đó là việc chu toàn linh đạo đan sĩ sống giữ luật nội vi đan viện, trong cô tịch, thinh lặng, trong chuyên chăm cầu nguyện và vui sống đời khổ hạnh, qua đó, các đan sĩ dâng lên Thiên Chúa những hoa trái thánh thiện, tạo gương lành cho Dân Thiên Chúa để làm Dân Chúa được lớn mạnh bằng sự âm thầm trong sứ vụ của mình. Đan sĩ phải trở nên “muối” về niềm tin tưởng nơi những người khác bằng việc sống căn tính của mình. Cha tổ phụ Biển Đức Thuận nói: “Chúng tôi phải nên thầy dòng thật, bằng không chỉ là phỉ dối người ta. Họ gửi thư xin chúng tôi cầu nguyện, họ tưởng chúng tôi là những người nhân đức lắm, toàn là những ông thánh, ông thánh hết. Vậy, chúng tôi hãy lo nên thầy dòng thật. Chớ để sự họ tin cậy chúng tôi ra vô ích” (DN, số 134).
Chính vì thế, trong bất cứ lý do gì, thì điều quan trọng là muối cần giữ được hương vị của nó. Nếu nó không còn mặn nữa thì nó đã mất đi mục đích sử dụng và bị vứt đi. Mặc dù, muối tách biệt rõ ràng với những thứ khác nhưng lại thấm vào mọi thứ, các môn đệ trong Mt 5,13 được cho là chính muối cho thế gian, và do đó, mọi người đều có thể nhìn thấy hành động của họ. Nếu muối mất tác dụng, có nghĩa là nếu các đan sĩ không còn thể hiện đức tin của mình bằng những hành động thích hợp thì họ mất đi ý nghĩa, giống như muối nhạt đi (x. Mt 5,13; Lc 14,34). Trong Cl 4,6, thánh Phaolô cũng nói về tác dụng gia vị của muối: Cũng như muối thêm hương vị cho thức ăn, lời nói của những người tin vào Thiên Chúa cũng phải thân thiện như “có muối”, tức là đầy nội dung, khi họ trình bày về đức tin của mình.
Ngoài ra, muối còn tượng trưng cho giá trị lâu bền của khế ước (xem giao ước muối Ds 18,19 ). Bài học này nhắc nhở những người theo Chúa phải giữ cho thế giới loài người được đậm đà, và trung tín với giao ước của Thiên Chúa. Các đan sĩ ý thức về những điều mình đã thề ước với Thiên Chúa trong việc tuyên khấn. Việc tuân giữ các Lời khuyên Phúc âm cũng là cách mà các đan sĩ chu toàn giao ước với Thiên Chúa.

3.2. “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14)
Chức năng quan trọng nhất của ánh sáng là chiếu sáng. Những người được mô tả trong Mt 5,3-10 rõ ràng có đức tính này. Công việc của họ được thấy rõ ràng như một thành phố nằm trên núi hay ánh sáng trên chân đèn. Một ngọn đèn đặt dưới cái thùng sẽ vô dụng. Nhưng người lan tỏa ánh sáng sống sao cho người khác nhìn thấy công việc của họ mà khen ngợi Cha trên trời.
Công việc đầu tiên mà đan sĩ cần làm để trở nên ánh sáng cho trần gian, đó là lo chu toàn “việc Chúa” khi cử hành Phụng vụ, vì Phụng vụ là đỉnh cao của mọi hình thức cầu nguyện (x. GLHTCG 2720), đặc biệt trong việc cử hành Thánh Thể và Các Giờ Kinh Phụng Vụ. Thánh Biển Đức chỉ dạy về điều này rất nhiều trong Tu luật của ngài, cách riêng, ngài dành riêng chương 19, và chương 20 để chỉ thị về việc này . Thánh Phaolô đã khuyên rằng: “Ước chi lời Đức Kitô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài Thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng” (Cl 3,16). Thánh ca do Thần Khí linh hứng: có thể là những bài ca khi cộng đoàn họp nhau để cử hành phụng vụ, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần (x. 1 Cr 14,26). Bên cạnh đó, chúng ta cũng đọc thấy trong thư gửi tín hữu Êphêsô: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài Thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha” (Ep 5,19-29). Đó cũng là một trong ba phận vụ của đan sĩ trong Nhà dòng theo cha Tổ phụ Biển Đức Thuận: Thứ nhất là “đọc kinh hát lễ thay cho cả Hội thánh thờ phượng Chúa, cũng như quân lính hằng canh thức luôn”. Thứ hai là “học hành, xem sách thiêng liêng, suy gẫm, kết hợp với Chúa”. Thứ ba là “làm việc xác” (DN, số 139). Trước đó, ngài cũng nói: “Việc bổn phận của chúng tôi là cầu nguyện, kết hợp với Chúa … Thầy dòng phải là con người cầu nguyện”. Điều này hết sức quan trọng, vì: “Nhà này mà không cầu nguyện thì hóa ra một nhà nông phu” (DN, số 118).
Việc hát Thánh vịnh, thánh thi trong cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ là lời cầu nguyện không những đẹp lòng Chúa vì đây là cách đáp lại tình yêu Người, mà còn báo trước phụng vụ trên trời. Nỗ lực của con người nhằm đáp lại tình yêu bao la của Thiên Chúa chỉ có thể gây ngạc nhiên bằng cách cầu nguyện và thần học thờ phượng, phụng vụ tạ ơn, khen ngợi và ngợi ca Thiên Chúa Ba Ngôi. Lời cầu nguyện của dân lữ hành của Thiên Chúa là lời báo trước và thực hành phụng vụ vĩnh cửu. Ecclesia santa (Giáo hội thánh) sống và được hiện thực hóa như ecclesia orans (như một Giáo hội cầu nguyện) – trong thời gian và vĩnh cửu. Đức Giáo hoàng Piô XII nói về tầm quan trọng của việc tập hợp cùng nhau khi cử hành Phụng vụ trong Thông điệp Mediator Dei như sau: Người ta nói rằng các Kitô hữu của Giáo hội sơ khai “chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (x. Cv 2,42). Bất cứ nơi nào các mục tử thành công trong việc tập hợp một cộng đồng tín hữu, họ dựng một bàn thờ để dâng hy lễ và sắp đặt xung quanh những nghi thức khác, để nhờ bàn thờ mà con người có thể thánh hóa chính mình và tôn vinh Thiên Chúa xứng đáng với Người.
Thông thường tự ánh sáng cũng đã thu hút sự chú ý của những người khác. “Hữu xạ tự nhiên hương” nên đời sống môn đệ Chúa Kitô tất nhiên ảnh hưởng tới người khác. Trong Tông huấn Vita consecrata số 8, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói:
Các dòng hoàn toàn sống đời chiêm niệm, gồm những người nữ hoặc nam, là một lý do hãnh diện cho Giáo hội và một nguồn mạch đưa lại những ân sủng thiên quốc. Nhờ nếp sống và sứ mạng của họ, những phần tử thuộc các dòng ấy bắt chước Đức Kitô cầu nguyện trên núi, họ làm chứng về quyền chủ tể của Thiên Chúa trên lịch sử, họ tiên báo vinh quang mai ngày sẽ đến.
Trong cô tịch và thinh lặng, bằng việc lắng nghe Lời Thiên Chúa, cử hành phụng vụ, khổ chế cá nhân, kinh nguyện, hãm mình và hiệp thông vào tình yêu huynh đệ, họ hướng toàn thể đời sống và toàn thể sinh hoạt vào việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Như thế họ cống hiến cho cộng đồng Giáo hội một chứng tá độc đáo về tình yêu của Giáo hội dành cho Chúa, và góp phần với sức phong nhiêu Tông đồ huyền diệu vào sự tăng trưởng của Dân Thiên Chúa.
Tuyên ngôn của Tổng hội đặc biệt năm 1969-1970 và 1972 của Hội dòng Xitô đã nhắn gửi các đan viện rằng: “Sinh hoạt đan viện phải được tổ chúc và diễn tiến thế nào, để đan viện thực sự trở thành ngọn đèn sáng chói giữa dân Chúa, chứng tích những thực tại Nước Trời và biểu hiện sức mạnh tình yêu Chúa Kitô giữa nhân loại.”
Ánh sáng rất cần cho sự sống, như lương thực cần cho con người. Lời Chúa là ánh sáng soi đường, chỉ lối cho cho con người như của ăn nuôi sống tâm hồn như Chúa đã nói: “Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9,5). Muốn sống trong ánh sáng, muốn “trở thành” ánh sáng thì theo thánh Guerric von Igny chúng ta cần làm hai việc: thứ nhất sống theo con đường ánh sáng của các tổ phụ. Bời vì, con đường ngắn nhất để chúng ta tìm thấy Chúa Giêsu là đi theo con đường sáng chói của các tổ phụ đã đi trước chúng ta. “Con đường của người công chính là ngay thẳng; con đường sẽ được dọn sạch cho người công chính” (Is 26,7). Ai đi theo người công chính “sẽ không bước đi trong bóng tối nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống” (Ga 8,12) – không chỉ nhìn thôi, người ấy sẽ thấy điều đó như niềm an ủi trong cuộc sống hiện tại và là tài sản thừa kế vĩnh cửu. Thứ hai, đó là tự thực hành công việc trong ánh sáng. Thánh Guerric von Igny khuyên rằng, chúng ta hãy thực hành các công việc của ánh sáng, và người cầm ánh sáng trong tay (x. G 36,32) và tuyên bố với bạn mình rằng ánh sáng đó thuộc về anh ta và anh ta có thể chạm tới ánh sáng này, anh ta sẽ trao nó cho chúng ta ngay bây giờ và sau đó xuất hiện lại để khuyến khích chúng ta nỗ lực và sau này sẽ trao nó cho chúng ta như một phần thưởng. Chính Người là ánh sáng của chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, Đấng hằng sống và hiển trị đến muôn đời.

Kết luận
Tóm lại, cuộc đời các đan sĩ chiêm niệm được nuôi dưỡng bằng đời sống cầu nguyện. Họ cần học hỏi, trau dồi, và làm thăng tiến đời sống cầu nguyện nơi bản thân cũng như cộng đoàn. Muốn cụ thể hóa được điều đó, các đan sĩ cần học nơi Chúa Giêsu – Người là gương mẫu tuyệt hảo cho đời sống của họ, để trong mọi cảnh huống của cuộc sống, họ dâng lời cảm tạ Thiên Chúa là Cha nhờ Chúa Giêsu (x. Ep 5,20).
Đồng thời, nhờ sự tác động của Chúa Thánh Thần, các đan sĩ dâng lên Thiên Chúa Cha tâm tình tạ ơn chúc tụng ngang qua khẩu nguyện, suy niệm và cầu nguyện chiêm niệm. Bởi vì, đời đan tu phải đối diện với một xã hội đang đổi thay từng ngày trong nhiều lãnh vực khác nhau và những điều đó sẽ ảnh hưởng đến đời sống đan sĩ, cho nên họ cần “siêng năng cầu nguyện, hãy tỉnh thức mà cầu nguyện và tạ ơn” (Cl 4,2). Đan sĩ tạ ơn Thiên Chúa không phải chỉ những lúc “thuận buồm xuôi gió”, thuận lợi trong đời tu, nhưng là trong mọi hoàn cảnh vì đây là điều Thiên Chúa muốn trong Chúa Kitô (x. 1 Tx 5,18).
Ngoài ra, khi các đan sĩ sống kết hiệp với Thiên Chúa trong việc đọc, suy niệm, cầu nguyện với Lời Chúa, siêng năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, hăng say, nhiệt tình và yêu mến các Giờ Kinh Phụng Vụ, cũng như tích cực tham gia các sinh hoạt khác trong cộng đoàn, cũng là khi, các đan sĩ đang sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa nơi gia đình đan viện và thể hiện luôn vai trò “muối” và “ánh sáng” trong thế giới ngày nay.

STRESS VÀ CẦU NGUYỆN

 

Sr. M. Monica Quỳnh Như

Stress là vấn đề của con người ở mọi thời đại và không ai có thể tránh khỏi stress. Đan sĩ dẫu sống tách lìa thế gian, nhưng cộng đoàn đan viện vẫn hiện diện trong trần thế. Vì thế, đan sĩ vẫn bị tác động và ảnh hưởng bởi các yếu tố gây stress không những đến từ môi trường bên ngoài, mà còn đến từ những yếu tố thiết yếu của đời đan tu. Thinh lặng, khổ chế, học vấn, lao tác, đời sống cộng đoàn… là những yếu tố giúp đan sĩ thăng tiến để nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Kitô (x. Rm 8,29) và “nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (x. Mt 5,48). Tuy nhiên, xét theo bản tính nhân loại, thì những yếu tố đó phần nào gây nên stress cho đan sĩ. Gần đây, một số nhà khoa học đã nghiêm túc nghiên cứu nền tảng cầu nguyện trên đời sống con người, “nhiều nhà nghiên cứu đã có những quan tâm tới nguồn gốc tâm lý của việc cầu nguyện và lượng giá những thực tiễn về kết quả của việc cầu nguyện trên những người thực hành cầu nguyện.”
Trong tác phẩm Quan Điểm Tâm Lý Học về Cầu Nguyện, hai tác giả Leslie J. Francis và Jeff Astley đã biên tập 31 kết quả nghiên cứu về cầu nguyện và sắp xếp thành 10 chủ đề nghiên cứu, trong đó “Cầu nguyện và ứng phó” là một trong những đề tài được nghiên cứu và thấy có hiệu quả tích cực từ những người tham gia cầu nguyện. Đời sống đan tu là đời tận hiến chuyên lo về cầu nguyện. Cầu nguyện là yếu tố hàng đầu của đan sĩ. Do đó, cầu nguyện đem lại hoa trái thiêng liêng, sự sung mãn trong đời sống đan sĩ.
Theo đó, người viết xin được trình bày một vài hiệu quả được thấy trong việc cầu nguyện như một phương thế thiêng liêng chữa lành với stress trong đời sống đan sĩ.

1. Tìm thấy ý nghĩa ứng phó với stress
Chester L. Tolson quả quyết: “Qua cầu nguyện, con người nhận thấy mình hòa hợp hơn với mục đích thần linh dành cho cuộc sống.” Đức Phanxicô nhận xét: Cầu nguyện trở thành bối cảnh mà mọi hành động trong cuộc sống của chúng ta đều tìm thấy ý nghĩa sâu xa nhất, “cầu nguyện là nơi mà mỗi hành động tìm thấy ý nghĩa, lý do và sự bình yên của nó.” Cầu nguyện là một trong những con đường phổ biến và hữu dụng để tìm thấy ý nghĩa sống trong những hoàn cảnh gây stress nhất cho con người. Cầu nguyện thường không làm đảo ngược những yếu tố gây stress, nhưng giúp con người có cái nhìn tập trung vào Thiên Chúa, từ đó thay đổi và nhìn sự kiện cách siêu việt trên các thực tại đang diễn ra. Tuy nhiên, không phải nhờ vào những phương pháp cầu nguyện, mà chính cuộc gặp gỡ Đấng Phục Sinh mới là nguyên lý mang lại cho cầu nguyện một ý nghĩa đích thực.
Trong Tông huấn Chứng Tá Phúc âm, Đức Phaolô VI nói rằng: “Biết bao người, nhất là những người trẻ đã đánh mất ý nghĩa cuộc sống và băn khoăn đi tìm chiều kích chiêm niệm của con người mình, mà không nghĩ rằng Đức Kitô, trong Giáo hội Ngài có thể đáp ứng nỗi mong chờ của họ.” Trong Tông thư gửi những người thánh hiến, Đức Phanxicô cũng chỉ cho thấy nhờ cầu nguyện hiệp thông với Chúa Giêsu mà chúng ta có thể đương đầu với stress trong đời sống: “Cũng như bao sinh linh khác, chúng ta cũng trải nghiệm những khó khăn, những đêm tối tinh thần, những thất vọng, bệnh tật, kiệt sức do tuổi tác. Chính trong hoàn cảnh đó mà chúng ta cần phải khám phá ‘sự hoan hỉ hoàn hảo’, học cho biết cách nhận ra khuôn mặt Đức Kitô Đấng đã trở nên giống như chúng ta mọi đàng, và vì thế cảm nghiệm sự vui mừng vì biết rằng mình được nên giống kẻ vì yêu thương ta đã không khước từ thập giá”.
Trong đời sống đan tu, đan sĩ gắn bó với Thiên Chúa nhờ cầu nguyện, họ tìm thấy ý nghĩa nội tại nơi mỗi biến cố đang diễn ra. Có lẽ điều đó là lý do lớn nhất để họ mạnh dạn đáp trả lời mời gọi hiến dâng và sẵn sàng đảm nhận những khó khăn thử thách đến trong đời mình. Thậm chí, đau khổ (do hoàn cảnh) nhiều lúc còn như một cơ hội để họ xác tín hơn vào Thiên Chúa, Đấng đem lại ý nghĩa và niềm hy vọng cho đời họ. Hơn nữa, cầu nguyện còn mang đến một ý nghĩa linh thánh hơn khi giúp đan sĩ tinh tuyền trong ý muốn, để đón nhận “lời” Thiên Chúa trong đời mình. Đan sĩ không chống đối, không bỏ chạy, nhưng đối diện bằng việc hoàn toàn phó thác và sẵn sàng để đời mình ăn khớp với dự định của Thiên Chúa.

2. Stress được quản lý

a. Đem lại sức mạnh và sự hướng dẫn
Trong cuốn “Đi Tìm Một Giải Pháp Tinh Thần”, Wayne W. Dyer chỉ cho thấy một người khi kết nối vào nguồn năng lượng từ Thượng Đế thì có khả năng quản lý được tất cả mọi vấn đề, ông khẳng định: “Với sự kết nối Thần Thánh, chúng ta luôn có được thông tin về cách giải quyết”. Thật vậy, khi gặp những vấn đề khó giải quyết hoặc không biết phải xử lý thế nào, đan sĩ cảm thấy stress. Tuy nhiên, khi họ chạy đến cầu xin Thiên Chúa ban cho họ sự bình tĩnh và sức mạnh giải quyết vấn đề, lúc đó họ nhận ra rằng Thiên Chúa luôn yêu thương, cận kề và hướng dẫn để mọi việc họ thực hiện đều sinh hoa trái. Vào những thế kỷ đầu, thánh Dorothee Gaza, một đan sĩ Đông phương đã kinh nghiệm: “Trước mỗi lời nói, mỗi hành động, phải đổ cho Thiên Chúa sự bất lực của mình, …. Trình cho Ngài ước vọng, thiện chí, chúng ta sẽ thấy sự trợ giúp mà Ngài ban cho chúng ta để thành công, với điều kiện là chúng ta đặt tin tưởng nơi Ngài.”

b. Đem lại định hướng và soi sáng
Khi vừa thức giấc đan sĩ đã dâng cho Chúa mọi công việc, và chương trình của mình. Họ phó thác tất cả cho Thiên Chúa, thậm chí ngay cả những điều họ không biết trước được. Cho nên họ luôn được Thiên Chúa định hướng cho ngày sống mới của đan sĩ. Hơn nữa, trong ngày sống, đan sĩ thường dành một vài phút buông bỏ công việc, lắng đọng giây lát trong cầu nguyện hay hướng lòng lên Thiên Chúa, nhất là khi họ đang bế tắc không biết phải xử lý công việc thế nào, những lúc đó họ được Người soi sáng cho một con đường, như một sự sáng tạo hay một cách thức mới mẻ mà bình thường họ đã không nhận ra được. Các nhà tâm lý đã có nhiều nghiên cứu chứng minh sự sáng tạo bất ngờ thường đến từ kết quả của sức mạnh tâm trí vô thức. Dẫu thế, trong niềm tin Kitô giáo, họ xác tín những ánh sáng hướng dẫn chợt đến không chỉ thuần túy tâm lý, nhưng tất cả là ân ban đến từ Thiên Chúa, Cha của Sự Sáng (x. Gc 1,17).

3. Tìm thấy bình an và biến chuyển cảm xúc tiêu cực

a. Tìm thấy bình an
Một trong những hiệu quả của cầu nguyện được kinh nghiệm nhiều nhất là trạng thái an bình. Cầu nguyện không phải để làm tâm hồn trở nên trống rỗng, nhưng là để được lấp đầy bởi sự hiện diện của Thiên Chúa Tình Yêu. Trong cầu nguyện, đan sĩ đến với cõi tĩnh lặng của lòng mình để nghỉ ngơi nơi Thiên Chúa, và chìm đắm trong cái nhìn yêu thương của Ngài. Evagre gọi tình trạng này là “cái nhìn bình an làm cho người ta gặp lại chính sự bình an tuyệt vời hơn tất cả mọi hiểu biết và là sự bình an bảo vệ tâm lòng chúng ta.”
Bởi đó, bình an không chỉ là một cảm giác, hay một tình trạng an ổn. Và cầu nguyện cũng không tìm cách tránh né, nhưng trổi vượt hơn, cầu nguyện giúp đương đầu với thực tại và trên thực tại, cầu nguyện mang lại bình an nội tâm, “bình an vượt trên mọi hiểu biết” (Gl 4,6).

b. Biến chuyển cảm xúc tiêu cực
Bao lâu con người còn sống thì những cảm xúc: cô đơn, buồn chán, lo lắng, sợ hãi hay tức giận vẫn luôn tồn tại. Những cảm xúc này tự nó không xấu, nhưng nếu không biết cách quản lý, sẽ trở nên tiêu cực cho bản thân. Do đó, bên cạnh việc nhìn nhận cảm xúc đang có nơi mình thì cần thực hành những cách thế biến chuyển đến trạng thái tích cực hơn, và cầu nguyện là một trong những cách thế hữu ích đó.
• Cảm xúc cô đơn
Đôi khi đan sĩ có cảm giác trống rỗng, chán nản vì liên tục sống trong đời sống đơn độc, cảm thấy không thuộc về, không có chỗ trong cộng đoàn, dù đang ở giữa cộng đoàn nhưng vẫn cảm thấy mình cô đơn. Những lúc như thế, cầu nguyện giúp họ đối diện và sống với cô đơn cách sung mãn nhất. Nhà tâm lý học người Anh, D.W. Winnicott đã phát triển một chuỗi những nghiên cứu thăm dò sự cách ly của trẻ khỏi cha mẹ. Ông nhận thấy rằng, sự hiện diện “tách rời” của cha mẹ, tạo nên “môi trường có cảm giác an toàn” quan trọng trong sự phát triển nhận thức và cảm xúc của trẻ. Nghĩa là, chỉ cần thấy sự hiện diện của mẹ thì đứa trẻ cảm thấy được bảo vệ, và có sẵn “để khống chế các nguy hiểm”. Cũng vậy, khi cầu nguyện, đan sĩ bắt gặp kinh nghiệm tương tự, cầu nguyện giúp họ biết và tin khi làm bất kỳ điều gì, hay đi bất cứ nơi nào, mình cũng không bao giờ cô đơn (x. Tv 139,7-10). Cầu nguyện giúp họ nhận thức Thiên Chúa luôn hiện diện, và cảm được sự an toàn tràn ngập trong cuộc sống. Vì thế, dù có ở một mình và sống trong cô tịch nhưng họ không cảm thấy cô độc, họ “cô đơn trong sự hiện diện của Thiên Chúa”.
• Cảm xúc lo lắng
Khi đối diện với những nỗi lo lắng trong cuộc sống, cầu nguyện giúp đan sĩ hoàn toàn tập trung vào Thiên Chúa và trao phó cho Người. Khi ấy, họ không nghĩ đến những điều trong quá khứ, cũng không bận tâm về chuyện tương lai, họ bước ra khỏi chính mình để đi vào sự hiện diện của Chúa và vào kế hoạch lớn hơn của Người trong giây phút hiện tại. Lúc đó, những nỗi lo lắng của họ được biến chuyển thành niềm vui và bình an trong đức tin và hy vọng.
• Cảm xúc sợ hãi
Sợ hãi bắt nguồn từ những mối đe dọa sự an toàn của đan sĩ. Nhà tâm lý học mở đường cho học thuyết gắn bó, John Bowlby cho rằng: “Chúng ta có thể an toàn ngay cả trong môi trường đe dọa sự an toàn của chúng ta, nếu có sự hiện diện của người bảo vệ chúng ta.” Chuyên gia tâm thần học Willard Gaylin lý giải động cơ sâu xa nhất là vì “chúng ta sợ bị bỏ rơi – ở một mình”. Tuy nhiên, khi nguyện cầu, đan sĩ lắng nghe lời Chúa nói với họ rằng: “Đừng sợ!”, vì Ngài là Đấng nắm giữ chủ quyền trên vũ trụ và vận mệnh cuộc đời, Ngài đang ở cùng và giang tay bảo vệ họ không những sự an toàn thể lý mà còn bình an tâm hồn.
Cho nên, trong đời sống đan tu, những khi đan sĩ cảm thấy bất lực với sự yếu đuối và giới hạn của bản thân, nhất là khi đối diện với những de dọa bất ngờ đang xảy đến, cầu nguyện sẽ giúp đan sĩ mạnh mẽ để tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa-là tình yêu, Ngài tạo điều kiện cho họ vượt qua mọi nỗi sợ, thậm chí còn loại trừ sợ hãi (x. 1Ga 4,8;18).
• Cảm xúc tức giận
“Cầu nguyện là cái nhánh của dịu dàng và là cái vắng bóng của giận dữ” (Evagre). Đan sĩ xoa dịu cơn tức giận và chấp nhận tha thứ chân thành cho người khác khi họ cầu nguyện. Khi giận dữ, đan sĩ dường như khó có thể kiềm chế bản thân, dễ kích động và gây hấn. Tuy nhiên, cầu nguyện giúp đan sĩ có khả năng tách mình ra khỏi nỗi bực tức, quan sát hành xử của mình với những yếu tố đang tác động đến bản thân. Khi ấy, họ “lùi lại” với cảm xúc nóng giận và tìm đến lắng dịu trong Thiên Chúa. Hơn nữa, họ còn có thể trở nên bất bạo động trong tâm trí, dừng lại trong những suy nghĩ tìm kiếm sự trả lẽ và đòi cho kỳ được tính công bằng.
Tuy nhiên, việc cầu nguyện không bao giờ là dồn nén cảm xúc, trái lại thăng hoa chúng trong tình yêu tha thứ và bao dung đối với mọi người. Vì khi nhìn lại chính mình trong Đức Kitô và nhớ lại tình yêu thương xót Thiên Chúa dành cho mình, đan sĩ dễ dàng xóa bỏ bực dọc và chấp nhận những yếu đuối của tha nhân, cũng như nhìn nhận bản thân vẫn luôn tồn tại khuyết điểm. Khi làm điều đó, đan sĩ không biểu lộ cơn tức giận hay ức chế cảm xúc; trái lại họ hình thành cung cách ứng xử tế nhị và sẵn sàng đối thoại về nỗi khó chịu của mình với tha nhân bằng thái độ tử tế.

4. Tìm đến liên kết và xây dựng tình huynh đệ

a. Tha thứ và hòa giải
Tình huynh đệ cộng đoàn và mọi mối dây liên kết của chúng ta đều phát sinh từ đời sống cầu nguyện. Cầu nguyện giúp đan sĩ nhận hiểu chính mình và tha nhân, vì thế những stress do bất đồng và mâu thuẫn dễ đi đến tha thứ và hòa giải. Trong cầu nguyện, đan sĩ nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với những lỗi lầm và khuyết điểm của bản thân mình. Từ đó, họ cũng nhận biết và tha thứ lầm lỗi cho người khác. Mặt khác, cầu nguyện giúp họ nhìn thấy những vấn đề rắc rối đang xảy ra với tha nhân, cũng như giải thoát họ khỏi những tư tưởng và suy nghĩ hạn hẹp, chỉ quẩn quanh trong phạm vi cái tôi và tính tự ái, để tha thứ và hòa giải.

b. Xóa bỏ lòng ganh tỵ
Cầu nguyện nhắc nhở đan sĩ về lòng biết ơn, vì thế giúp họ xóa bỏ so sánh đố kỵ trong đời sống cộng đoàn. Nhờ cầu nguyện, họ nhìn nhận chính mình và quý trọng những điều tốt lành Thiên Chúa ban; đồng thời nhìn ra những khác biệt của anh chị em như là sự sáng tạo đa dạng và ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Từ đó, đưa họ đến thừa nhận khả năng và nét đẹp của mình cũng như người khác, để có thể “cùng vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15).
Về khía cạnh này, hai nhà phân tâm học theo trường phái Jung, Ann và Barry Ulanov, nhận định trong một tác phẩm nghiên cứu về lòng ganh tỵ: “Chúng ta không buộc phải có hết mọi sự và làm hết mọi việc. Chúng ta có thể tin tưởng rằng, người khác sẽ cung cấp cho chúng ta những gì chúng ta thiếu” và “có thể vui mừng vì tài năng và khả năng của người khác, bởi vì chúng ta cùng nhau làm nên một khối vẹn toàn và đáng mong ước”.

c. Đem lại lòng trắc ẩn và cảm thông
Cầu nguyện dẹp bỏ những hàng rào phòng vệ và an toàn nơi đan sĩ, và nâng họ lên một bình diện khác với những bận tâm toan tính việc làm hằng ngày, đó là mở ra để học biết lòng trắc ẩn nơi Thiên Chúa. Khi ấy, họ không còn cố gắng để thay đổi người khác, nhưng thay đổi con tim của chính mình, để chấp nhận và cảm thông với những hữu hạn của anh chị em mình
Chính nhờ thường xuyên kết hợp với Thiên Chúa và đem lòng bao dung đối đãi với tha nhân, đan sĩ luôn sống trong cảm thức nhạy bén và tế nhị, quan tâm và để ý hơn đến nhu cầu của mọi người. Thêm vào đó, thay vì tỏ ra khó chịu và stress trong những chuyện nhỏ nhặt của cuộc sống; thay vì đối diện với vấn đề một cách nặng nề, họ có thể dùng nụ cười hay thái độ hài hước để làm bầu khí trở nên dễ thở và nhẹ nhõm, để kiến tạo an hòa.

d. Thống nhất và hòa thuận trong cộng đoàn
Cuối cùng, cầu nguyện đem đến sự thống nhất và hòa thuận trong cộng đoàn; bởi bình an theo thánh Augustinô, chính là sự thanh bình của trật tự. Nhờ cầu nguyện đan sĩ đi vào quỹ đạo của quy luật hiếu hòa, tôn trọng và biết ơn. Nhờ đó, họ chung sống với nhau như anh chị em một nhà, tôn trọng những quy luật chung, cũng như tôn trọng nhau. Họ biết ơn Thiên Chúa cũng như biết ơn cộng đoàn mình đang sống. Họ ý thức rằng đời sống với Chúa cũng có nghĩa là sống với anh chị em mình, gắn bó với Chúa cũng có nghĩa là gắn bó với anh chị em mình. Cho nên, dù cuộc sống như thế nào, thì đan sĩ khi có đời sống cầu nguyện đích thực sẽ luôn gắn bó với Thiên Chúa và yêu thương anh chị em của mình.

5. Tìm lại chính mình và chuyển hướng cuộc sống
Cầu nguyện nếu không đem lại hoa trái là sự biến đổi bản thân thì chưa thực sự là cầu nguyện. Đại thi hào Julien Green nói: “Mục đích của lời cầu nguyện có lẽ là chúng ta ít đạt được điều chúng ta xin cho bằng chúng ta trở nên khác. Có lẽ nên đi xa hơn mà nói rằng việc cầu xin Chúa cái gì đó dần dần biến đổi chúng ta thành những con người có khả năng vượt quá điều mình xin.” Khi cầu nguyện, đan sĩ cũng kinh nghiệm cầu nguyện không đương nhiên thay đổi sự việc nhưng giúp họ được biến đổi. Cầu nguyện giúp đan sĩ tìm lại chính mình trong sự thống nhất bản thân và phát triển lòng tự trọng để chuyển biến cuộc sống theo lối tích cực hơn.

a. Thống nhất bản thân
Ồn ào náo động làm con người bị phân tâm và stress. Chú tâm vào đời sống cầu nguyện, trở lại lòng mình trong tĩnh lặng, đan sĩ tìm thấy một sự thống nhất như là nền tảng của sự thánh thiện và là nguồn mạch của hạnh phúc. Họ kinh nghiệm được rằng khi ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, họ có cảm giác được yêu thương và chấp nhận, vì thế họ có khả năng “tự bộc lộ chính mình trong sự thật của Ngài” – biết Chúa và biết mình – Nhờ thế, có thể đón nhận vào trung tâm hữu thể mình và hội nhập vào cuộc sống tất cả những gì từ ngoài đến, dù là con người, sự vật hay ý kiến một cách an nhiên và không còn bị phân tán nữa.

b. Phát triển lòng tự trọng
Nhờ cầu nguyện, đan sĩ cảm nhận tình yêu cá vị nơi Thiên Chúa và khám phá nơi bản thân mình có một giá trị đặc biệt mà không ai có thể thay thế. Thiên Chúa đã quý trọng và sáng tạo họ là duy nhất. Điều này giúp họ phát triển lòng tự trọng. Ngành khoa học di truyền khám phá mỗi người là sự kết hợp của 23 nhiễm sắc thể từ cha và 23 nhiễm sắc thể từ mẹ. Những nhiễm sắc thể là yếu tố quyết định đặc tính di truyền của chúng ta. Theo Amram Schenfeld có hàng chục đến hàng trăm gen, nhưng chỉ một gen cũng có thể thay đổi cuộc đời của một người. Do đó, thế giới gần tám tỷ người họ vẫn là duy nhất. Bên cạnh chân lý khoa học đó, chân lý đức tin còn đi xa hơn khi làm cho đan sĩ đụng chạm đến huyền nhiệm con người như phần rất riêng thuộc về kinh nghiệm cá vị. Vì thế, trong khi chiêm niệm, thánh Têrêsa Avila nhận biết rằng có một sự khác biệt nơi linh hồn của người ta hơn khuôn mặt của họ rất nhiều, điều này được mặc khải trong Kinh thánh một cách biểu trưng với “tên mới” ở sách Isaia (x. Is 62,2) và Khải huyền (x. Kh 2,17).
Như vậy, nhờ cầu nguyện đan sĩ không còn tự ti cũng chẳng tự tôn, họ hài lòng và sống thật như chính mình đang là. Họ cảm thấy hài hòa và ổn định, cảm thấy tự tin hơn với những món quà Thiên Chúa phú ban. Họ cảm nghiệm Thiên Chúa yêu thương mình một cách lạ lùng, kín ẩn như chỉ dành riêng cho họ; họ nhận thấy mình có giá trị và như vậy là đủ.

c. Chuyển biến cuộc sống theo hướng tích cực
Nhờ vào việc phát triển lòng tự trọng, đan sĩ dần được biến đổi ngày một tích cực hơn trong cảm xúc, suy tư và lối sống. Họ yêu bản thân mình cách lành mạnh, sống lạc quan, cảm thấy cuộc đời thú vị, yêu cuộc sống, vui vẻ, hạnh phúc, và cởi mở với mọi người. Họ vững vàng hơn trong cuộc sống, có ý chí quyết tâm và có mục đích sống rõ ràng cho bản thân. Hơn nữa, họ cũng rèn luyện lối sống một cách quân bình và lành mạnh.

Kết luận
Stress là một phần của cuộc sống mà không ai có thể tránh khỏi, ngay cả đan sĩ vẫn không tránh khỏi điều này. Tuy nhiên, sống linh đạo chiêm niệm, đan sĩ thường xuyên cầu nguyện, với nhiều cách thức khác nhau, để không chỉ đem lại hoa trái thiêng liêng, mà còn giảm thiểu cảm xúc tiêu cực để tìm đến bình an.
Bên cạnh việc cầu nguyện như phương thế thiêng liêng, đan sĩ cũng được khuyến khích sử dụng các biện pháp khác nhằm đạt nhiều hiệu quả tốt hơn, miễn sao việc sử dụng các phương thế này phù hợp với tính cách cá nhân và sinh hoạt của đời đan tu. Chẳng hạn: Thư giãn như nghỉ ngơi, tập yoga, đi dạo, chiêm ngắm thiên nhiên…; giải trí như nghe nhạc, xem phim lành mạnh…; tham gia các môn nghệ thuật như đàn, hát, hội họa, nhiếp ảnh…; tương quan huynh đệ như chia sẻ, trò chuyện tâm sự với vị linh hướng hoặc những người bạn đồng tu; tập cho mình lối sống tự bằng lòng bản thân, cũng như tự hài hòa và quân bình trong sinh hoạt của mình.

 

ĐỨC GIÊSU: GƯƠNG MẪU CẦU NGUYỆN HOÀN HẢO

FM. Mauro

Đức Giêsu là con người thật và Thiên Chúa thật. Đó là một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết của con người. Nếu Đức Giêsu, trong phận con người, đã là mẫu gương cầu nguyện hoàn hảo, thì đối với chúng ta là đan sĩ càng cần phải luôn sống đời cầu nguyện như Người. Đối với Đức Giêsu, cầu nguyện là phận vụ ưu tiên hàng đầu, bất kể hoàn cảnh nào, Người đã dâng lên những lời cầu nguyện và nài xin: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính” (Dt 5,7). Đức Giêsu không chỉ ban cho chúng ta một mẫu cầu nguyện mà còn làm gương sáng của mình, khơi dậy lòng khao khát cầu nguyện trong tâm hồn các môn đệ khiến họ nài xin Đức Giêsu: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện” (Lc 11,1). Như vậy, Đức Giêsu vừa là người cầu nguyện vừa là mẫu mực cho việc cầu nguyện của người đan sĩ.

1. Chân dung Đức Giêsu cầu nguyện
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Đức Giêsu đã sống cuộc đời như bao người khác, ngoại trừ tội lỗi, Người cũng đã trải qua những mệt mỏi, đói, khát, kiệt sức, đau đớn, xung đột, khinh miệt, những giây phút chịu cám dỗ, bị bỏ rơi và cô đơn. Thật là một niềm khích lệ khi biết Đức Giêsu hiểu và đồng cảm với chúng ta khi chúng ta trải qua những thời điểm khó khăn. Đôi khi chúng ta có những giây phút nghi ngờ, trải qua tình trạng khô khan về mặt thiêng liêng hoặc không còn muốn cầu nguyện nữa. Đức Giêsu hiểu và có lòng thương xót với chúng ta: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội.” (Dt 4,15).
Đức Giêsu say mê cầu nguyện khi nói chuyện với Chúa Cha. Vì vậy, Đức Giêsu đã cầu nguyện một mình vào sáng sớm và ban đêm để sống mật thiết với Chúa Cha. Qua đó cho thấy Người có mối liên hệ gần gũi với Chúa Cha. Và vì chúng ta, Đức Giêsu đã trở nên mẫu gương con người cầu nguyện hoàn hảo.

2. Đức Giêsu cầu nguyện như thế nào?
Trong nội tâm sâu thẳm, Đức Giêsu thường xuyên chiêm ngưỡng Thiên Chúa và do đó luôn dấn thân vào sự hiệp thông nội tâm với Chúa Cha trong mọi nơi chốn.
Nơi chốn cầu nguyện của Giêsu thường là trên núi và sa mạc. Ngay trước khi bắt đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã vào sa mạc để cầu nguyện 40 ngày 40 đêm. Kinh thánh cho chúng ta biết Chúa Giêsu thường lên núi cầu nguyện (Mt 14,23; Mc 6,46; Lc 6,12, Ga 6,15). Núi là nơi vắng vẻ và Đức Giêsu cần một nơi yên tĩnh để cầu nguyện để trò chuyện với Chúa Cha, để nhận được sức mạnh và sự hướng dẫn từ Chúa Cha.
Đức Giêsu luôn dành thời gian để cầu nguyện trong khi thi hành sứ vụ của mình, thậm chí là cầu nguyện suốt đêm. Người dậy rất sớm để cầu nguyện trước khi bắt đầu giảng dạy: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.” (Mc 1,35) Đức Giêsu rời các môn đệ vào ban đêm để gặp Chúa Cha trong lời cầu nguyện: “Trong những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa.” (Lc 6,12)
Lời cầu nguyện cao quý nhất của Đức Giêsu là “lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất” trong chương 17 của Tin mừng thánh Gioan. Ở đó, Đức Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ của Người và cho những ai, qua lời dạy của các môn đệ, sẽ tin vào Người; để tất cả có thể là nên một, cũng như Người và Chúa Cha là một. “Để để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,21). Đức Giêsu cầu nguyện vào những lúc bình thường trong hội đường và ở những nơi khác, vào những dịp khác nhau. Đức Giêsu cầu nguyện trước khi thực hiện bất kỳ sứ vụ quan trọng nào và Người đã cầu nguyện suốt đêm.
Đức Giêsu khép lại cuộc đời Người bằng lời cầu nguyện đầy tín thác vào Chúa Cha. Người đã cầu nguyện nơi vườn Ghết-sê-ma-ni, trên Thập Giá để theo y muốn của Chúa Cha, cũng không cầu xin cho công bằng nhưng xin thương xót và tha thứ cho những kẻ giết Người. Khi dâng linh hồn mình cho Thiên Chúa, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở!” (Lc 23,46). Hành động cao cả nhất của cuộc đời Người được hoàn thành bằng lời cầu nguyện với tình yêu dâng lên Chúa Cha.
Đức Giêsu đã cầu nguyện với niềm vui và hạnh phúc: “Được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21; Mt 11,25). Lời cầu nguyện tạ ơn Chúa Cha trên trời của Đức Giêsu đã mặc khải cho các môn đệ sự khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của Đức Giêsu nói với chúng ta về Thiên Chúa vừa là Cha vừa là Chúa của chúng ta. Không gì có thể mang lại cho chúng ta niềm vui lớn hơn khi biết rằng chúng ta là người con của Thiên Chúa và tên của chúng ta đã được ghi trên trời. Đức Giêsu nói rõ rằng nguồn vui thực sự của chúng ta là Thiên Chúa, và chỉ một mình Thiên Chúa. Đó là niềm vui nội tâm trong lời cầu nguyện cũng là sức mạnh để vượt qua những nỗi buồn của phận người.
Đức Giêsu đã cầu nguyện với cảm xúc buồn. Tại mộ La-da-rô, thổn thức và xao xuyến trong lòng, Đức Giêsu khóc (Ga 11,33-34). Ngài thốt lên lời cầu nguyện: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con. Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!” (Ga 11,43-44).
Đức Giêsu cầu nguyện với cảm xúc đau buồn nhất. Tại vườn Ghết-sê-ma-ni, Người nói với các môn đệ: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mt 26,38). Đồng thời, Người cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này” (Mt 26,40). Lời cầu nguyện này thể hiện nhân tính của Đức Giêsu, mang lại cho Người niềm an ủi và sức mạnh ngay cả khi đau khổ nhất. Trong mọi sự, Người luôn vâng phục Chúa Cha: “Xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,40).
Đỉnh điểm lời cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá: “Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”, nghĩa là “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Người bỏ rơi con?” (Mt 27,46). Trong tất cả những lời cầu nguyện mà chúng ta đã xem xét, đây là lời cầu nguyện đau buồn nhất mà Đức Giêsu bày tỏ cùng Thiên Chúa. Từ lời cầu nguyện tha thiết của Đức Giêsu trên thập giá, Thiên Chúa đáp lại bằng sự im lặng. Đó chính là thách đố niềm tin của chúng ta.
Thánh Phaolô dạy: “Anh em hãy siêng năng cầu nguyện; hãy tỉnh thức mà cầu nguyện và tạ ơn” (Cl 4,2). Khi cầu nguyện, chúng ta phải tỉnh thức chờ đợi câu trả lời của Thiên Chúa; đang tìm cách tìm hiểu Thiên Chúa là ai trong phản ứng của Người. Nếu Chúa đáp lại bằng lời nói thì đó là để cung cấp thông tin cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa đáp lại trong im lặng, đó là vì sự cứu chuộc của chúng ta. Nếu Thiên Chúa đáp lại bằng hành động thì đó là để giải phóng chúng ta. Chúa luôn đáp ứng, và sự đáp ứng của Người luôn lớn lao hơn sức tưởng tượng của chúng ta có thể nắm bắt được. Thiên Chúa của chúng ta là một người Cha nhân hậu, yêu thương, lắng nghe và đáp lại.
Trong suốt lịch sử của Kinh thánh và Giáo hội, mọi sự thức tỉnh tâm linh đều bắt đầu khi một người tin tưởng vững vàng vào sự hiện diện của Thiên Chúa khi cầu nguyện. Chính sự hiện diện của Thiên Chúa và Lời Người mở rộng tâm hồn chúng ta, thay đổi thái độ của chúng ta, biến đổi chúng ta và ban cho chúng ta một quan điểm mới về bản thân, hoàn cảnh và thế giới. Khi chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa, Người ở đó và Người đang ở đó. Như vậy, cầu nguyện không phải là một nghĩa vụ mà là niềm vui lớn lao khi được nói chuyện trực tiếp với Thiên Chúa. Thật là một nguồn động lực lớn lao cho đời sống cầu nguyện của người đan sĩ.

3. Đan sĩ cầu nguyện như Đức Giêsu
Cầu nguyện là một trong những yếu tố thiết yếu nhất của đời sống Đan sĩ. Đức Giêsu đã cho thấy tầm quan trọng của cầu nguyện bằng chính đời sống cầu nguyện của Người. Người bắt đầu ngày mới bằng lời cầu nguyện và kết thúc bằng lời cầu nguyện. Chúng ta thấy Đức Giêsu thường tách khỏi đám đông đến nơi vắng vẻ và vào ban đêm để cầu nguyện với Chúa Cha. Vậy, chúng ta có muốn học cách cầu nguyện chiều sâu và đúng đắn không? Nếu có, chúng ta hãy bước theo Đức Giêsu, người thầy thiêng liêng về đời sống cầu nguyện. Dưới đây là một số khía cạnh chính mà chúng ta có thể học được từ việc Đức Giêsu cầu nguyện.

a. Với lòng tôn kính Thiên Chúa
Đức Giêsu đến gần Thiên Chúa với lòng tôn kính, qui phục sự thánh thiện và uy quyền của Chúa Cha. Khi người đan sĩ cầu nguyện, hãy nhận ra sự uy nghiêm của Thiên Chúa và phục tùng ý muốn của Người; từ bỏ những ước muốn xấu xa và hướng trái tim thuận theo ý muốn của Thiên Chúa để việc thờ phượng của người đan sĩ nên lời tôn vinh Thiên Chúa.

b. Phát triển tương quan chiều sâu
Đức Giêsu có mối tương quan mật thiết với Cha của Người. Tương tự như vậy, để vun trồng mối tương quan cá nhân sâu xa với Thiên Chúa, người đan sĩ dành thời gian tương giao thường xuyên với Chúa, tham gia vào những cuộc trò chuyện chân thành và nhận ra sự hiện diện của Người trong Thánh lễ, các Giờ Kinh Phụng vụ, giờ nguyện gẫm và thói quen tâm nguyện trong từng giây phút.

c. Thực hành một cách chân thành
Đức Giêsu cầu nguyện với những cảm xúc chân thật, trút hết tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Hãy cầu nguyện cách trung thực và trong sáng, bày tỏ niềm vui, nỗi sợ hãi, đau khổ và mong muốn của mình. Đó là thái độ cầu nguyện của người đan sĩ chân thành khen ngợi, cảm tạ và sám hối trước nhan Thiên Chúa.

d. Tìm kiếm ý Chúa và Nước Trời
Đức Giêsu đặt ý muốn của Thiên Chúa lên trên ước muốn của chính Người. Trong lời cầu nguyện, người đan sĩ hãy tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và điều chỉnh ý muốn của chúng ta phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa. Người đan sĩ cầu nguyện cho vương quốc của Thiên Chúa được hiển trị và ý muốn của Người được thể hiện dưới đất cũng như trên trời trong giờ kinh nguyện chung và tâm nguyện của mình.

e. Kiên trì trong niềm tin
Đức Giêsu mời gọi phải cầu nguyện với sự kiên trì và kiên vững trong đức tin. Người đan sĩ đến gần Thiên Chúa với lòng tin tưởng, rằng Thiên Chúa lắng nghe và đáp lại những lời cầu nguyện của chúng ta.

f. Chuyển cầu cho người khác
Đức Giêsu dạy về tầm quan trọng của sự chuyển cầu và tha thứ (x. Lc 6,28). Người đan sĩ luôn có một trái tim rộng mở và ôm cả nhân loại trong lời cầu nguyện để nâng đỡ những người đang bị tổn thương hoặc đang cần được chữa lành, an ủi hoặc hướng dẫn họ.

g. Yêu mến thinh lặng để nghe Lời Chúa
Đức Giêsu thường lui vào những nơi yên tĩnh để cầu nguyện và lắng nghe Chúa Cha. Việc tạo không gian tĩnh lặng rất cần thiết cho đời sống cầu nguyện của đan sĩ. Nhờ mộ mến đời sống cô tịch mà người đan sĩ có thể chú tâm và mở lòng để lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa qua Kinh thánh bởi sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, người đan sĩ được biển đổi mỗi ngày để sống thánh thiện hơn và càng ngày trở nên giống Đức Giêsu.

Kết Luận
Một Kitô hữu yêu mến Thiên Chúa không thể thiếu cầu nguyện đích thực. Thiên Chúa thu hút linh hồn đến với Người qua lời cầu nguyện. Chỉ có người khiêm tốn mới được Thiên Chúa ban cho hương vị ngọt ngào của lời cầu nguyện.
Người đan sĩ hãy nhớ rằng, cầu nguyện như Đức Giêsu không phải là tuân theo một công thức cứng nhắc mà là vun trồng mối tương quan chân thật và mật thiết với Thiên Chúa. Hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và dẫn dắt chúng ta trong hành trình cầu nguyện. Thiên Chúa sẽ cho chúng ta biết lời cầu nguyện có chân thật và đẹp lòng Người hay không qua niềm vui và bình an tràn ngập nội tâm của mình. Đối với người đan sĩ cầu nguyện đích thực, những cám dỗ, khó khăn, bất hạnh, nguy hiểm, mất mát là những tác nhân kích thích đưa người đan sĩ đến với nghệ thuật cầu nguyện. Thánh giáo phụ Gioan Kim Khẩu, người mà cả cuộc đời là một lời cầu nguyện, đã nói như sau: “Cầu nguyện là bến đỗ cho những giông bão của cuộc đời, là cái neo cho những người gặp bão tố, là kho báu của người nghèo, sự an toàn của người giàu, chữa lành người bệnh, giữ gìn sức khỏe. Cầu nguyện xua đuổi điều ác, và bảo tồn những điều tốt đẹp…Cầu nguyện làm dịu đi những đam mê của tâm hồn, xoa dịu sự nổi loạn của cơn giận, xua tan đố kỵ, làm tiêu tan những ham muốn xấu xa, làm héo mòn tình yêu trần thế và mang lại sự bình an và thanh thản tuyệt vời cho tâm hồn.”

ĐAN SĨ – CON NGƯỜI CẦU NGUYỆN

 

F.M. Anselmo – Hồ Sỹ Chức

Khi được hỏi về vấn đề cầu nguyện, cha Michel Pascal, viện phụ đan viện Biển Đức ở Hautecombe, miền Savoie (thuộc miền Nam nước Pháp), đã trả lời rằng: Đan sĩ trước tiên là Kitô hữu, có nguyện ước sống sát với tinh thần Tin mừng, và thực thi ơn gọi làm con Thiên Chúa, ở mức độ tối đa. Cha Pascal đã phác họa ra những nét chính yếu của đời sống nơi một đan sĩ. Đó là công cuộc tìm kiếm Thiên Chúa, là chuyện vãn thân tình và kết hiệp mật thiết với Chúa trong mỗi phút giây của cuộc sống. Và để nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện, các đan sĩ lắng nghe Lời Chúa, đồng thời theo dõi các biến cố xảy ra trên thế giới.
Có thể nói, những lời phát biểu trên đã phác họa đan sĩ như con người cầu nguyện. Thế nhưng đứng trước thực trạng thế giới vắng bóng Thiên Chúa, đan sĩ phải đối diện trước những thách đố về chứng tá đời tu. Trong khi đó, đan sĩ cần quyết tâm trở thành con người cầu nguyện trong đời sống mới để can đảm hướng đến tương lai.

1. Thách đố chứng tá đời tu
Thế giới chúng ta đang sống có nguy cơ dẫn đến sự thiếu vắng Thiên Chúa. Điều này gây ra nơi chúng ta những phản ứng khác nhau về cách sống và những cách thức chúng ta lựa chọn các lãnh vực dấn thân của mình.
Một trong những cám dỗ nghiêm trọng nhất đối với Giáo hội và các dòng tu là cám dỗ rút lui, tự vệ, quay về với chính mình, quan tâm nội bộ, tạo thành những “ốc đảo”. Một số cộng đoàn đi tìm thể hiện căn tính của mình trong cách ăn mặc, cử điệu, cung cách.
Cám dỗ này có mặt ở khắp nơi và ở mọi bình diện:
– Bình diện linh đạo: quan niệm giản lược đời sống thiêng liêng vào các việc đạo đức bề ngoài; hoặc quan niệm tách biệt việc đạo và việc đời, mà bỏ qua lòng bác ái, tình huynh đệ.
– Bình diện suy tư thần học: xuất hiện những suy tư chỉ đề cao những điểm thứ yếu của đức tin, thay vì những điểm chính yếu.
– Bình diện sứ mạng: người ta nói nhiều đến Giáo hội truyền giáo, nhưng người ta đã quan niệm truyền giáo như thế nào? Như “men trong bột” hay chỉ vụ hình thức? Một Giáo hội từ chối thách đố gặp gỡ, đối thoại và phân định sẽ không còn là Giáo hội “hiệp hành” của Đức Kitô nữa.
Thế giới có thể quên lãng Thiên Chúa, nhưng không vì đó mà chúng ta sẽ bỏ rơi thế giới này hay lẩn trốn những thực tại trần thế hay bỏ qua nổi khổ đau của tha nhân, bởi vì chúng ta biết rằng đôi khi chúng ta cũng phải đi đến tận cùng của những tiêu cực và phủ định Thiên Chúa để tìm ra được niềm tin đích thực (mầu nhiệm Vượt Qua, kinh nghiệm Emmaus…). Theo Đức Kitô là theo Ngài ngay cả trên con đường dẫn xuống vực thẳm của thế giới lãng quên và từ chối Thiên Chúa, khi mà sự hiện diện trong thế giới ấy hẳn có nguy cơ cho đức tin của mình.
Tính hữu hình của đời tu mà chúng ta tìm kiếm, chính là sự hiện diện sống động, bằng đời sống cầu nguyện, giàu ý nghĩa và năng động.

2. Đan sĩ – con người cầu nguyện
Cầu nguyện trong đời sống tu trì luôn là điều cần thiết cho việc bảo vệ, che chở đức tin của mình, trước những thách đố, và những vấn đề của Giáo hội và thế giới hôm nay. Thế giới càng vô cảm trước uy linh Chúa, đan sĩ càng phải sống triệt để căn tính đặc thù (Ora et Labora) của họ hơn, liều mình dấn thân với lòng tín thác, và nhất là không hành động nhân danh sức lực riêng của mình.
Cầu nguyện chính là tiếng kêu trong niềm tin, phát xuất từ những mảnh đời dâng lên Thiên Chúa. Đó là tiếng kêu sầu khổ, cô đơn, niềm hy vọng và niềm vui… Đó là những tiếng kêu phát sinh trong hoàn cảnh nguy hiểm và khủng hoảng. Khi lời cầu nguyện trong cuộc sống trở thành lối mòn, đơn điệu, một bài tập vô nghĩa, cách nào đó, họ tự làm cho mình khó tránh khỏi những nguy cơ xói mòn đức tin.
Đi theo Đức Kitô trong đời sống Đan tu, đan sĩ cần nhập thể vào Giáo hội để trở thành một lời cầu nguyện vốn được sinh ra từ nỗi đau đớn của thế giới thiếu vắng Thiên Chúa. Đó là lời nguyện của người bị lưu đày (Tv 42,11); lời nguyện của người hành hương sống niềm hy vọng về đất hứa; lời cầu nguyện của những người đói khát sự công chính trong thế giới đầy bạo lực và vô thần; và nhất là lời cầu nguyện và sự hy sinh của họ cho biết bao người trên thế giới chưa tin nhận Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ duy nhất. Như vậy, sứ mạng cao quý của các cộng đoàn Đan tu phải làm sao để trở nên cần thiết cho thế giới. Điều này quả là một thách đố không nhỏ đối với mỗi đan sĩ chúng ta trong thời đại hôm nay.
Sự “hiện diện năng động” của đan sĩ là lời cầu nguyện mà chúng ta được mời gọi đem lại cho Giáo hội và cho thế giới. Nhưng, lời cầu nguyện này phải như thế nào, và hướng tới ai? Lời cầu nguyện dành cho những con người chung quanh họ đang chờ đợi và hy vọng. Lời nguyện có khả năng giúp cho mọi người cũng có được kinh nghiệm về Thiên Chúa ngay giữa đời sống thường ngày. Lời Chúa được đọc, suy niệm và chiêm niệm trong cuộc sống mỗi người. Một lời nguyện mà ở đó đan sĩ có thể cử hành giữa anh chị em với nhau trong những nghi thức phụng vụ: Thánh lễ, các bí tích, và các sinh hoạt đan tu.
Như thế sự hiện diện sống động và lời cầu nguyện của đan sĩ nhất thiết mang chiều kích qui hướng về Thiên Chúa, Đấng dẫn đưa họ chiêm ngưỡng các mầu nhiệm thánh thiêng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đồng thời, sự hiện diện và lời cầu nguyện của họ diễn tả sống động những tâm tình và mọi kêu cầu của nhân loại muốn dâng lên Chúa. Điều cần thiết là các đan sĩ luôn ý thức về đời sống chứng tá của mình để củng cố đời sống cầu nguyện đan tu.

3. Làm chứng bằng đời sống mới
Ơn cứu độ Kitô giáo không chỉ thuộc bình diện kiến thức, nhưng còn thuộc bình diện tình yêu năng động và sự sống được trao ban (x. Mt 25). Người Kitô hữu thánh thiện không phải là những bậc “kinh sư” hay “luật sĩ”, nhưng là người làm cho mình “dễ bị tổn thương” bởi tình yêu. Ân sủng của đời tu, cách riêng đời tu chiêm niệm, chính là làm cho các đan sĩ trở thành người bén nhạy với tình yêu như chính Đức Giêsu, với các vấn đề về ý nghĩa cuộc sống, về đức tin, về những ước ao, trăn trở tìm kiếm của những người khác, với những sự khẩn cấp của Nước Trời. Chính khả năng bén nhạy với tình yêu làm cho họ thành môn đệ của Đức Kitô.
Đời sống tu trì của các đan sĩ không gì khác hơn ngoài sứ mạng làm cho họ dấn thân cùng với Đức Giêsu vào công trình của Chúa Cha. Với sứ mạng lớn lao đó mà cha Tổ Phụ – Biển Đức Thuận của chúng ta đã lập Dòng Chiêm Niệm, qua việc cầu nguyện và hy sinh để tham gia việc truyền giáo của Giáo hội được hữu hiệu hơn (x. HP số 2). Chính trong sự trung tín với sứ mạng này mà sự thánh hiến của chúng ta được thực hiện: sự thánh thiện của Kitô giáo là đời sống được biến hình bởi sứ mạng được đón nhận trong Thánh Linh.
Đối diện với mọi thứ giấc mơ hiệp nhất với Thiên Chúa trong ảo tưởng, cần phải nhắc nhở rằng thần nhiệm Kitô giáo là một thần nhiệm Giao Ước, được sống và diễn tả trong một cuộc dấn thân và trong một tình yêu năng động. Chúng ta hãy để cho mình bị tình yêu năng động của Đức Kitô cuốn hút và thúc bách chúng ta (x. 2Cr 5,14).

4. Can đảm hướng đến tương lai
Trong một thế giới tưởng chừng như vắng bóng Thiên Chúa, người Kitô hữu hay có cám dỗ sống đức tin của mình chỉ trong nỗi hoài niệm về quá khứ. Trong khi đó, chúng ta cần bén rễ sự tưởng niệm này vào trong lịch sử sống động của các thế kỷ đã qua, và sẽ tới. Các đan sĩ chúng ta đừng quên sứ điệp của các chứng nhân về sự Phục Sinh: Người đi trước các anh ở Galilê (x. Mt 28,10). Mắt chúng ta hãy hướng về Đức Kitô đang đến.
Đời tu tự bản chất là sự dấn thân cho việc loan báo Nước Trời, và làm chứng cho sự hiện hữu của Thiên Chúa tình yêu tựa “lính canh mong đợi hừng đông” (x. Tv 130). Do ơn gọi, nó có cái nhìn hướng về tương lai và về những dấu chỉ của thời đại. Khi mà hiện tại nhiều khi trở nên nặng nề, khi mà cám dỗ cứ lớn dần về việc giam mình vào những hoài niệm của quá khứ, hơn bao giờ hết, đời tu phải sống hiện tại trong niềm hy vọng về tương lai. Hy vọng về tương lai không nhất thiết là hy vọng về ngày mai tươi sáng hơn, nhưng đó là xác tín rằng ngang qua những bất ngờ của lịch sử, ngang qua tính “bất tất” và “bất trắc” của những thực tại trần gian mà chúng ta đang sống và nơi ta được sai đến, Nước Trời đang lớn lên.
Tóm tại, đứng trước một tương lai vô định, mỗi đan sĩ được mời gọi sống can đảm trong mọi khoảnh khắc cuộc sống. Từ đó, việc dấn thân và thành quả Tông đồ đều được qui về Chúa. Thật vậy, việc đan sĩ sống trọn tâm tình cầu nguyện, sẽ tránh thái độ quy về chính mình nhưng mở ra cho sức sáng tạo của Chúa Thánh Thần. Có thế, cả cuộc đời đan sĩ sẽ là lời tạ ơn không ngừng dâng lên Chúa, Đấng làm chủ lịch sử và thời gian.
Chúng ta cùng xác tín với Thánh Gioan Phaolô II: “Cầu nguyện là linh hồn của công việc Tông đồ, còn công việc Tông đồ lại thêm sức sống cho cầu nguyện và thúc đẩy cầu nguyện.” Cầu nguyện chiêm niệm làm nên căn tính của đan sĩ, thúc đẩy họ trở thành những “chuyên viên hiệp thông” , những chuyên viên cầu nguyện để sinh hoa trái dồi dào cho Giáo hội cách âm thầm mà phong phú.

Thay lời kết
Những khó khăn của việc cầu nguyện.
Từ những gì vừa trình bày, chúng ta có thể nhận ra những khó khăn cố hữu trong việc cầu nguyện: khó khăn do chia trí, do sự khô khan, do sự quấy rối của ma quỷ…Và qua những lời khuyên của các thánh đã phần nào giúp chúng ta xác tín hơn những khó khăn đến từ con người sẽ được “hoá giải” với thời gian miễn là chúng ta kiên trì trong cầu nguyện với sự tác động của Thần Khí.
Có thể nói, mọi khó khăn đều có thể hoá giải bằng lời cầu nguyện bởi lẽ “không có gì sánh được với cầu nguyện: rõ ràng cầu nguyện là điều làm cho những cái không thể thành cái có thể, những điều khó thành điều dễ. Không thể nào người cầu nguyện lại phải sa vào tội lỗi bao giờ.” Chính Chúa Giêsu luôn nhắc nhở ta “anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36).
Ngày nào con người còn hiện hữu thì không thể tránh khỏi những khó khăn vừa kể trên trong việc cầu nguyện. Nhưng điều cốt yếu trong việc kiên trì cầu nguyện là giúp ta tiếp xúc với một Thiên Chúa tình yêu, Đấng có thể nhìn thấu tận đáy lòng về những tâm tình hiếu thảo của những người con thơ đang bập bẹ nói tiếng yêu thương hầu khả dĩ đáp lại phần nào tình yêu của Cha trên trời. Có thế, mỗi lần cầu nguyện, chúng ta luôn học được bài học khiêm tốn khi nhìn nhận phần yếu đuối của mình mà phó thác cho tác động của Chúa Thánh Linh.

 

NGƯỜI BẢO GÌ, CÁC ANH CỨ VIỆC LÀM THEO
(Ga 2,5)

 

M. Anna Huyền Trang

Dẫn Nhập

Theo Sắc lệnh Perfectae Caritatis, Đời sống Thánh hiến là Sequela Christi, đi theo Chúa Kitô. Thánh Gioan trong thư thứ nhất cũng mời gọi chúng ta: hãy đi trên con đường mà Đức Giêsu đã đi (x. 1Ga 2,6). Nhờ bước theo Chúa chúng ta có thể lắng nghe được điều Người muốn và có thể đáp lại. Cho nên, để đâm rễ sâu trong đời sống và giáo huấn của Đức Kitô, chúng ta cần ở lại với Người trong cầu nguyện. Và như Mẹ Têrêxa đã nói cầu nguyện là đi vào con tim của thế giới, còn theo Đức Phanxicô “không cầu nguyện, mọi hoạt động của chúng ta có nguy cơ vô hiệu hóa, và sứ điệp của chúng ta trở thành trống rỗng.”
Trong tiệc cưới Cana (Ga 2,1-12), Đức Maria, Đức Giêsu và các môn đệ đều là những khách được mời, chứng kiến cảnh gia đình chú rể hết rượu ngay khi tiệc còn dang dở. Đức Maria đã thể hiện tình yêu thương và quan tâm một cách thật tế nhị. Mẹ đã can thiệp không phải bằng mệnh lệnh, cũng không phải bằng lời cầu xin trực tiếp hay khẩn nài, nhưng một lòng tin tưởng vào Đức Giêsu, Mẹ nói: “Họ hết rượu rồi!” (Ga 2,3). Một câu nói tưởng chừng bâng quơ, một ghi nhận sự việc thông thường. Nhưng đối với Đức Giêsu, chừng ấy đã đủ. Và hướng về các gia nhân, Mẹ nói: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Lời của Mẹ nói với gia nhân cũng là đề tài mà người viết xin trình bày qua ba điểm dưới đây: (1) Đức Maria là đấng trung gian, (2) Đức Giêsu, Đấng ban Lời đem lại sự sống và (3) các đan sĩ (cũng như các gia nhân) lắng nghe và thực hành Lời Chúa.

1. Mẹ Maria là đấng trung gian ân sủng
Để trở thành trung gian ân sủng, trước hết Mẹ là người quy phục hoàn toàn thánh ý của Thiên Chúa. Kinh thánh không nói nhiều đến việc Mẹ muốn, nhưng là Mẹ luôn luôn làm theo điều Chúa muốn và sống trọn thánh ý Người với sự khiêm nhường sâu thẳm: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).
Thứ đến, Mẹ là người khao khát mãnh liệt tìm kiếm thánh ý Chúa. Sự khao khát này thúc đẩy Mẹ tìm kiếm Thiên Chúa trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời Mẹ. Vì thế, Mẹ đã có được sự bén nhạy hết sức tinh tế.
Lời Đức Maria nói với gia nhân tại tiệc cưới Cana: Người bảo gì anh em cứ việc làm theo cho phép chúng ta hiểu đức tin sâu xa của Mẹ; vì xác tín Đức Giêsu sẽ can thiệp nên Mẹ rất kiệm lời. Dường như niềm tin đã hướng dẫn Đức Maria nói và hành động như thế.
Đức Maria là Mẹ của Hội thánh. Cảm nghiệm được “uy lực” lời chuyển cầu của Mẹ, Hội thánh xác tín Mẹ hằng chuyển cầu cho con cái của Mẹ. Mỗi người Kitô hữu cũng hãy thường xuyên mở lòng ra với lời của Chúa Giêsu, khao khát ý muốn của Thiên Chúa trên cuộc đời mình, để khôn ngoan trong mọi chọn lựa mà tránh sa vào con đường mê lầm tội lỗi. Lời của Mẹ “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” giúp chúng ta đi vào đối thoại liên lỉ với Thiên Chúa trong vâng phục thánh ý Người.
Trong tiệc cưới Cana, lời của Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và sức sống mới cho mọi người tham dự.

2. Đức Kitô – Đấng ban Lời đem lại sự sống
Các gia nhân đã vâng lời Đức Maria và nghe theo Đức Giêsu truyền dạy: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi! … Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc” (Ga 2,7-8). Đức Giêsu đã làm phép lạ hoá nước thành rượu tại tiệc cưới Cana là dấu lạ đầu tiên trong sứ vụ của Người. Với dấu lạ này, Đức Giêsu công khai tỏ mình ra cho nhân loại. Người chỉ dùng lời mà truyền dạy các gia nhân và họ làm theo lời Người. Kết quả là phép lạ đã diễn ra. Đó là một niềm vui quá bất ngờ, từ quản tiệc, đôi tân hôn, gia nhân, cho đến khách dự tiệc… vì Đức Giêsu đã can thiệp kịp thời sự cố hết rượu để niềm vui tiệc cưới được nối dài. Sự hiện diện của Người trong bữa tiệc này quả là niềm vui lớn lao và vinh dự cho gia đình chủ tiệc cưới và tất cả khách mời. Nơi đâu có sự hiện diện của Đức Kitô, thì ở đó, niềm vui được trào tràn và bình an sẽ lan toả, bởi vì “chính Đức Kitô là bình an của chúng ta” (Ep 2,14).
Cũng thế, Đức Giêsu đã xuất hiện khi hai chị em Mácta và Maria đang đau khổ khóc thương em mình là Ladarô đã qua đời. Người đã cho anh trỗi dậy khi phán một lời: “Anh Lazaro, hãy ra khỏi mồ!” (Ga 11,43). Tất cả mọi người bỡ ngỡ mừng vui. Người lại chữa lành cho người nằm liệt giường, được người ta khiêng đến với Đức Giêsu để xin chữa lành. Bỏ qua cuộc tranh luận của Đức Giêsu và người Pharisêu, chúng ta ghi nhận lời của Đức Giêsu: “Trong hai điều: một là bảo: “Anh đã được tha tội rồi”, hai là bảo: “Đứng dậy mà đi”, điều nào dễ hơn? Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội -Đức Giê-su bảo người bại liệt-: tôi truyền cho anh: Hãy đứng dậy, vác lấy giường của anh mà đi về nhà!” (Lc 5,23-24) Đức Giêsu thực sự là Đấng có lời đem lại sự sống, sự chữa lành để qua những dấu chỉ đó, người chứng kiến được đánh động niềm tin vào Đức Giêsu.
Mặt khác, Người là căn nguyên của sự hợp nhất, là hồn sống của một cộng đoàn, vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Người, thì có Người ở đấy giữa họ (x. Mt 18,20).

3. Đan sĩ lắng nghe và thực hành Lời Chúa
Cuộc đời vốn không bằng phẳng như ta mộng ước, nên để sống trong niềm vui, người đan sĩ chọn Lời Chúa làm nguồn mạch cho sức sống của mình. Vì ý thức rằng tự mình, chúng ta không thể đạt được ơn cứu độ muôn đời, nên điều nhắn nhủ của Đức Maria “Người bảo gì các con cứ việc làm theo” trở nên là lời nhắc nhở cho người đan sĩ trong đời sống cầu nguyện, để Lời tác động mạnh mẽ trong tương quan của đan sĩ với Thiên Chúa và với tha nhân.

a. Lời – Nguồn mạch đời sống đan sĩ
Người sống đời Thánh hiến, cách riêng người đan sĩ lấy nguồn mạch chính yếu ở nơi Đức Kitô và Lời của Người. Hiến chế Tín lý về Giáo hội – Lumen Gentium, đã khẳng định: “Những người sống đời thánh hiến là thực hiện cuộc bước theo Đức Kitô cách sát hơn, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, tự hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa mà họ yêu mến trên hết mọi sự.” Hành trình của người đan sĩ cũng luôn được mời gọi đáp trả lệnh truyền đó. Thế nhưng, không thiếu những lúc đan sĩ phải đối diện với sự hoang mang vì “rượu ngon” đã cạn, khiến cho tình yêu thuở ban đầu của người đan sĩ bị phai nhạt, cằn cỗi. Những lúc như vậy, tiếng vọng của Lời chính là nguồn mạch đưa đan sĩ lại đi sâu vào đời sống cầu nguyện để kín múc tình yêu Chúa, bước theo Đức Kitô mạnh mẽ hơn, xác quyết hơn.
Nguồn mạch chính yếu của “những khí cụ làm việc lành” trong chương 4 của Tu luật thánh phụ Biển Đức là Lời Chúa. Người muốn các đan sĩ ý thức rằng, Lời cần thiết để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và sử dung khí cụ Lời Chúa trong cuộc sống để từng bước đưa đan sĩ vào hành trình thay đổi đời sống, để đan sĩ “không quí gì hơn lòng mến Chúa Kitô” trong Trường học phụng sự Thiên Chúa.
Trong Tông hiến Tìm Kiếm Tôn Nhan Thiên Chúa (Vultum Dei quaerere) Đức giáo hoàng Phanxicô đã nói: “Toàn bộ đời sống các con, cá nhân cũng như cộng đoàn, phải được tổ chức quanh Lời Chúa.” Vì chỉ có “tình yêu Đức Kitô thôi thúc tôi…” (x. 2Cr 5,14), nên mọi hoạt động của đan sĩ đều quy hướng về Đức Kitô để “dù ăn, dù uống hay làm bất cứ việc gì anh em hãy làm nhân danh Đức Kitô” (1Cr 10,31), và sau cùng đan sĩ cảm nhận hạnh phúc khi “sống đối với tôi là Đức Kitô và chết là một mối lợi” (Pl 1,21).
Quả thế, khi chọn Lời làm nguồn mạch, Lời sẽ chi phối toàn bộ đời sống đan sĩ đến nỗi “chỉ có Thiên Chúa là đủ” và đó là “chọn phần tốt nhất.” Khi ấy tâm nguyện của Đức Maria “Người bảo gì các con cứ việc làm theo” sẽ trở nên hiện thực nơi người đan sĩ và cũng nhờ Lời thúc đẩy đan sĩ bước tới với tha nhân trong tình bác ái.

b. Lời – Thúc đẩy đan sĩ đến với tha nhân trong tình bác ái
Câu tục ngữ “Một cây làm chẳng lên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” nói lên sự cần thiết phải tương tác với nhau trong cuộc sống. Thực vậy, nhờ có tương tác, con người mới có thể sống và phát triển bình thường: tôi và chúng ta không thể tách rời.
Tuy đan sĩ là người sống một mình với Thiên Chúa duy nhất, nhưng không thể tách rời khỏi cộng đoàn. Một đan sĩ không có cộng đoàn thì không phải là con cái cha thánh Biển Đức. Đan sĩ sẽ chỉ thực sự là đan sĩ khi sống một mình với Thiên Chúa mà vẫn đậm tình huynh đệ với anh em. Họ tách rời khỏi tất cả, nhưng liên kết với tất cả. Trong ý định của Thiên Chúa, con người sống tình huynh đệ hiệp thông với nhau, cùng nhau chia sẻ hạnh phúc và tình yêu thương, được đặt trong tình yêu với Thiên Chúa. Qua tương quan đó, mỗi người sẽ gặp gỡ được khuôn mặt Thiên Chúa – Đấng mà họ khao khát tìm kiếm, cũng là hạnh phúc đích thực của con người.
Vì vậy, để nên thánh, chúng ta hãy đặt mình trước một Chủ Thể là Thiên Chúa của Tình Yêu (x. 1Ga 4,8). Chính Tình yêu này thúc bách ta đến với tha nhân bằng những việc làm yêu thương cụ thể (x. Ga 13,35). Đó mới là hoa quả của công trình cứu độ mà Đức Kitô đã thực hiện.
Tại tiệc cưới Cana, Đức Maria đã rất nhạy bén một cách tinh tế. Không những Mẹ lo trực tiếp cho niềm vui của người khác, Mẹ còn gián tiếp mời gọi các gia nhân và các môn đệ hãy nghe lời Đức Giêsu, hầu có thể nhận biết Người là ai: “Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thánh rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, con gia nhân đã múc nước thì biết)…” Đời sống đan sĩ cũng vậy, mỗi thành viên cần ý thức mình là người xây dựng cộng đoàn, cần tạo cho nhau cảm thức được thuộc về, và loại bỏ lối sống “bầu không khí thang máy”, là bó mình trong một thế giới riêng tư. Sức mạnh đích thực của sự hiệp nhất chính là việc thực thi bác ái huynh đệ, điều này giúp người đan sĩ có khả năng ra khỏi chính mình, không còn tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng là tìm lợi ích cho người khác (x. 1Cr 10,24).
Hạnh phúc là hoa quả của tình yêu. Thế giới này cần tình yêu. Chúng ta cần tình yêu. Dù cuộc sống đầy dẫy những cái mâu thuẫn, vấp phạm, trái ý… nhưng dấu chỉ nơi người bác ái và yêu thương là luôn biết xây dựng niềm vui. Thánh Bênađô nói: Đức ái thì không chấp nhận bất cứ một giới hạn nào, trái lại nó trở thành đôi cánh hỗ trợ cho tâm hồn bay cao hơn. Tình yêu hoàn hảo thì loại trừ sợ hãi (x. 1Ga 4,18) và giúp chúng ta xích lại gần nhau hơn.

Kết luận
Đức Kitô là chàng rể đích thực đã đến và đưa chúng ta vào tiệc cưới Nước Trời, Người đã khai thông những bế tắc trong cuộc đời chúng ta và đã cúi xuống kết hôn với bản tính yếu hèn của chúng ta. Người cho chúng ta được hưởng nếm thứ rượu làm say ngất tâm hồn, và hưởng trọn một niềm vui không bao giờ vơi cạn, một niềm bình an mà thế gian không ban tặng được.
Thiên Chúa thì vô hạn, nhưng cuộc đời chúng ta thì vẫn luôn dang dở. Chính bởi cái dang dở ấy, nên chúng ta luôn có xu hướng muốn vươn lên để khát mong có thể khoả lấp những chỗ thiếu trong cuộc sống. Sự vươn lên này không gì khác hơn là tìm đến Đấng là Chân Thiện Mỹ. Qua nhiều trung gian, sứ điệp của Thiên Chúa đã được mặc khải, để chúng ta có thể đọc ra tiếng nói bên trong để sống thánh hơn, tuy nhiên là phận người, sự vươn lên của chúng ta ít nhiều bị cản trở bởi những tham sân si. Thế nên, Mẹ Maria đã để lại cho chúng ta di sản thiêng liêng quý báu: “Người bảo gì các con cứ việc làm theo” như một con số bí ẩn trong đời cầu nguyện, có giá trị giải mã những cản trở ấy để trong tình yêu của Thiên Chúa “chúng ta được sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17,28).
Là con cái của Mẹ Maria, người đan sĩ noi gương Mẹ, trở nên loài chim hót hay nhất để ca ngợi Thiên Chúa. Ca ngợi Thiên Chúa không gì khác ngoài việc đan sĩ sống trọn căn tính cầu nguyện của đời đan tu, là được hiện diện cách thân mật với Người trong từng phút giây. Hơn nữa, đối với người đan sĩ, sự vươn lên trong Thiên Chúa sẽ là cánh cửa mở ra cho lòng trung thành và dấn thân cách vô vị lợi. Mọi sự xuất phát bởi tình yêu, thì người đan sĩ sẽ đến với tha nhân bằng sự thúc bách của tình yêu Đức Kitô (x. 2Cr 5,14).

LỜI KINH ĐAN SĨ

FM. Lasan Ngô Văn Vỹ

Đêm qua gà gáy canh ba,
Trở mình nghe thoảng Thánh Ca rộn rang.
Giọng ai êm ái nhịp nhàng,
Du dương trầm bổng ngân vang thấu trời.

Ngợi ca Thiên Chúa Ba Ngôi,
Sáng Danh Thánh Phụ, Ngôi Lời, Thánh Linh.
Ba Ngôi Một Chúa hiển vinh,
Anh em đan sĩ xướng kinh ngọt ngào.

Gọi hồn người thế khát khao,
Hướng về Tuyệt Đối giữa bao sóng đời.
Truân chuyên ngàn nỗi lệ rơi,
Bụi trần hoen ố tình Trời tháng năm.

Dõi nhìn lên ánh Trăng rằm,
Soi đường chỉ lối ăn năn trở về.
Vượt qua biên ải u mê,
Thẳng đường tiến đức đi về nhà Cha.

Lời Kinh thánh vịnh ngân nga,
Tưới hồn lữ khách bao là thấm sâu.
Lời kinh đan sĩ nhịp cầu,
Nối Trời với đất nhiệm mầu lắm thay.

Tình đời giấc mộng trả vay,
Tình Trời nồng ấm ở ngay cõi lòng.
Lặng suy chiêm ngắm Cậy trông,
Hương kinh tha thiết thỏa mong gặp Ngài.

Lữ hành dương thế vắn dài,
Sắt son Tin Mến miệt mài gắng công.
Lời kinh đan sĩ mặn nồng,
Ấm hồn lữ khách vững lòng bước đi…

Dẫu đường còn lắm gian nguy,
Trung thành Lời Chúa thực thi đến cùng.
Vị tha bác ái vun trồng,
Cây lành kết trái cánh đồng gặt thu.

Hành trình nhịp bước Giêsu,
Tin yêu bừng sáng sương mù biến tan.
Đường dài trí sạch tâm an,
Hát câu cảm mến Thánh Nhan đời đời.

MỤC LỤC

Đôi lời………………………………………………………………………….3

Cầu nguyện sám hối trong Thánh vịnh 50 (51)……………………6
FM. Justino Nguyễn Vũ
Vẻ đẹp của sa mạc………………………………………………………..26
Sr. Pio X Trần Thị Mến
Việc cầu nguyện của Hội thánh sơ khai …………………. 34
FM. Giuse Phan Văn Phi
Cầu nguyện – sứ vụ của đan sĩ ……………………………………….40
FM. Gioan Thánh Giá Bùi Văn Dư
Nguyện gẫm đan tu……………………………………………………….61
VP. Duyên Thập Tự
Thánh nữ Gertrude……………………………………………………….72
FM. Martino Phạm Thanh Toàn
Lời cầu nguyện – Lời chứng tuyệt hảo……………………………..80
Án Khảm – Đức Tổng Giuse NQK
Cầu nguyện – một tiếp cận triết học…………………………………99
FM. Theophane Vena Phạm Hữu Ái
Lạy Trời…………………………………………………………………….111
FM. Lasan Ngô Văn Vỹ
Maria đã chọn phần tốt nhất………………………………………….121
FM. Phanxicô Salesiô Phạm Kim Ngân
Cung cách khi hát Thánh vịnh theo Tu luật thánh phụ Biển Đức… ……………………………………………………………………….128
FM. Tôma Aquinô Thái Văn Dũng
Thinh lặng thánh…………………………………………………………147
FM. Placido Quốc Vũ
Con người chỉ trở nên vĩ đại khi quỳ gối cầu nguyện……….168
Sr. M. Gioan Nguyễn An
Tỉnh thức và cầu nguyện………………………………………………175
FM. Gregorio Phan
“Hát hay” là cầu nguyện hai lần…………………………………….188
FM. Phanxicô Salesiô Đỗ Duy Đông
Sứ vụ “muối” và “ánh sáng” nơi đan sĩ………………………….214
FM. Gioan XXIII Nguyễn Văn Tấn
Stress và cầu nguyện……………………………………………………225
Sr. M. Monica Quỳnh Như
Đức Giê su – mẫu gương cầu nguyện…………………………….246
FM. Mauro Nguyễn Văn Biết
Đan sĩ – con người cầu nguyện……………………………………..255
FM. Anselmo Hồ Sỹ Chức
Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo………………………….263
Sr. M. Anna Huyền Trang
Lời Kinh đan sĩ …………………………………………………………272
FM. Lasan Ngô Văn Vỹ
Mục lục……………………………………………………………………..274

CÁC CHỦ ĐỀ NỘI SAN HGCN ĐÃ PHÁT HÀNH

1. SUỐI NGUỒN CHIÊM NIỆM
2. HƯƠNG VỊ LỜI CHÚA
3. THAO THỨC
4. NẺO ĐƯỜNG SỐNG ĐẠO
5. CỘI NGUỒN HY VỌNG I
6. CỘI NGUỒN HY VỌNG II
7. THỬ THÁCH
8. TRONG LÒNG GIÁO HỘI
9. DÁM ĐỐI DIỆN
10. TRÊN NỀN TẢNG ĐỨC KITÔ
11. BÉN RỄ SÂU TRONG CHÚA KITÔ
12. HIỆP THÔNG
13. CÁM DỖ
14. CANH TÂN
15. NIỀM VUI PHÚC ÂM
16. BÌNH AN
17. HIẾN DÂNG
18. SAY MÊ THIÊN CHÚA I
19. SAY MÊ THIÊN CHÚA II
20. HUYỀN NHIỆM HIỆP THÔNG I
21. HUYỀN NHIỆM HIỆP THÔNG II
22. ‘TỪ CỘI NGUỒN PHƯỚC SƠN – QUẢNG TRỊ…’
23. …HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI
24. NHIỆT TÂM SỐNG THÁNH
25. THINH LẶNG
26. CHỮ TÌNH
27. LẮNG NGHE
28. MÔI SINH
29. TỨ HẢI GIAI HUYNH ĐỆ
30. MỘT ĐI CHUNG CÙNG NHAU
31. HƯỚNG VỌNG TRỜI CAO
32. CẦU NGUYỆN ĐAN TU

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Hạt Giống Chiêm Niệm số 29: Tứ Hải Giai Huynh Đệ

Số 29 – tháng 07 năm 2022 Cùng Độc giả, Các...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 30: Một Đi Chung Cùng Nhau

LỜI NGỎ   Kính thưa Quí Độc Giả! Nội san Hạt Giống...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 31: Hướng Vọng Trời Cao

 Số 31 – Tháng 7 năm 2023 Lời ngỏ Kính thưa...

BÀI VIẾT MỚI

spot_imgspot_img

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Hạt Giống Chiêm Niệm số 31: Hướng Vọng Trời Cao

 Số 31 – Tháng 7 năm 2023 Lời ngỏ Kính thưa quý độc giả, Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày qua đời của cha Biển Đức...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 29: Tứ Hải Giai Huynh Đệ

Số 29 – tháng 07 năm 2022 Cùng Độc giả, Các sinh hoạt của Ban Biên Tập Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm (HGCN) của Hội...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 30: Một Đi Chung Cùng Nhau

LỜI NGỎ   Kính thưa Quí Độc Giả! Nội san Hạt Giống Chiêm Niệm số 30 phát hành vào tháng Giêng năm 2023 này mang chủ đích...

Giới Thiêu nội san “HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM” (Viện phụ Dominico Phạm Văn Hiền)

  NỘI SAN   HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     LỜI GIỚI THIỆU      ...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 1: NGUỒN SUỐI CHIÊM NIỆM

    HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM       Nội...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 2: HƯƠNG VỊ LỜI CHÚA

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 3: THAO THỨC

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 4: Những Nẻo Đường Sống Đạo

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     Nội san linh đạo đan tu   NHỮNG NẺO ĐƯỜNG SỐNG ĐẠO   Số 4 tháng 7 năm 2007 LỜI NÓI ĐẦU     Một người nọ hỏi...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số đặc biệt: Cội nguồn hy vọng

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 7: Thử Thách

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 8: Trong Lòng Giáo Hội

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 9: Dám Đối Diện

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...