HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM
Nội san linh đạo đan tu
SAY MÊ THIÊN CHÚA 2
Lời ngỏ
Kính thưa Quí Độc Giả Quí Mến
Trong bầu khí năm thứ nhất trong ba năm chuẩn bị mừng Bách Chu Niên ngày Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận lập dòng trên Núi Phước, thuộc tỉnh Quảng Trị, Giáo phận Huế (15/8/1918 – 15/8/2018), Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm dành hai số: số 18 (đã xuất bản) và số 19 này để suy tư học hỏi cùng một chủ đề ‘Say Mê Thiên Chúa’, một chủ đề rất ‘xa xưa’ nhưng cũng rất ‘tân thời’.
Xa xưa bởi vì từ thế kỷ VII trước công nguyên, ngôn sứ Giêrêmia đã khám phá ra sự quyến rũ mãnh liệt của Thiên Chúa. Một sự quyến rũ mà theo vị ngôn sứ là “không thể cưỡng lại” và cuối cùng ông đành “để cho Ngài quyến rũ” (x.Gr 20,7.9). Gần 700 năm sau, thánh Phaolô cũng đã trải qua một cảm nghiệm tương tự, khiến cho vị thánh Tông Đồ dân ngoại đã phải thốt lên: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi… so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ rác rưởi, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Pl 3,7-9).
Đàng khác, niềm ‘Say Mê Thiên Chúa’ cũng là một thực tại rất tân thời. Bởi vì ngay hôm nay niềm say mê ấy vẫn đang thu hút, đang đốt cháy hàng triệu con tim khi họ dám chấp nhận từ bỏ tất cả những hấp lực của một thế giới tiện nghi hưởng thụ, để dấn thân không mệt mỏi trên con đường theo Chúa. Cha Đáng Kính Henri Denis Biển Đức Thuận, Đấng Sáng Lập Dòng Xitô Thánh Gia đã chia sẻ cảm nghiệm của Ngài cho các con cái về sức hút của tình yêu của Thiên Chúa rằng: “Chúa yêu thương chúng ta quá lẽ!… Chúa yêu thương chúng tôi không biết là dường nào!” (DN 38.22); và để đáp lại tình yêu ‘quá lẽ’ và ‘dường nào’ ấy, Ngài căn dặn thêm: “Mọi sự đều vô ích chóng qua, trừ ra sự kính mến Chúa” (DN 21).
Mong ước rằng những dòng chia sẻ trong Nội San số 19 này sẽ gợi lên trong lòng độc giả một niềm ao ước và say mê mãnh liệt đối với Thiên Chúa, Đấng được Thánh Gioan định nghĩa là Tình Yêu (x.1Ga 4,16), một tình yêu đến cùng, một tình yêu hy sinh tính mạng (x.Ga 13,1).
Cầu chúc cho mọi độc giả luôn chìm ngập trong ‘cơn say’ triền miên, một cơn say kéo dài đến vô tận: Say Mê Thiên Chúa, như Thánh Phụ Biển Đức đã dạy: “Tuyệt đối không lấy gì làm hơn Chúa Kitô” (TL 72).
Những bài viết trong Nội San số 19 này tuy rất đơn sơ về nội dung, mộc mạc về hình thức văn phong, nhưng đây là những suy tư và xác tín toát ra từ tâm tình Say Mê Thiên Chúa – hay ít ra là đang ao ước và tha thiết muốn tìm kiếm niềm say mê Ngài – của chính các tác giả hay của những anh chị em mà các tác giả đã thu lượm được thuộc nhiều thế hệ, nhiều trình độ khác nhau.
Xin trân trọng gửi đến Quí Độc Giả.
Ban Biên Tập
MỤC LỤC
- Giêrêmia- Con Người Của Lời Chúa
(Tác giả: FM.Montfort Huyên_ Đan viện CSDĐ) - Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến
(Tác giả: FM.JB. Nguyễn Tiến Dũng_ Đan viện Phước Sơn ) - Tìm Hiểu Thông Điệp DIVES IN MISERICORDIA
(Tác giả: FM.Dominico Phạm Văn Hiền_ Đan viện Phước Sơn) - “Say Mê Thiên Chúa”
(Tác giả: FM.Duyên Thập Tự_ Đan viện Phước Sơn) - Ấp Yêu Thập Giá Chúa Kitô
(Tác giả: M. Giuse Khang Tiên_Đan viện Thiên Phước) - Động Lực
(Tác giả: FM.Theophan Phạm Hữu Ái_ Đan viện Thiên Phước) - Yêu Thương Là Chu Toàn Lề Luật
(Tác giả: FM. Anrê Dũng Lạc Phạm Văn Phong_Đan viện Châu Thuỷ) - Hãy Ở Lại Trong Tình Yêu Của Thầy
(Tác giả: FM. Piô X _ Đan viện Phước Vĩnh ) - Ơn Gọi Tình Yêu Trong Lòng Mẹ Giáo Hội
(Tác giả: M. Phaolô Thánh Giá _Đan viện Phước Hải ) - Theo Chúa
(Tác giả: FM. Ignatio Hoàng Quốc Toản_Đan viện Phước Sơn) - Lạy Chúa! Chúa Biết Con Yêu Mến Chúa
(Tác giả: FM.Mai Vương An_Đan viện An Phước) - Điên Vì Yêu
(Tác giả: FM.Mai Thi_Đan viện CSĐD) - Trái Tim Thổn Thức
(Tác giả:M.Vinh Sơn Chung_Đan viện Vĩnh Phước) - Đời Tu – Tấm Bánh Bẻ Ra
(Tác giả: M. Vạn Bích Tâm _Đan viện Phước Thiên) - Đền Thờ Của Lòng Thương Xót
GIÊRÊMIA
CON NGƯỜI CỦA LỜI CHÚA
FM.Montfort Huyên_ Đan viện CSDĐ
Khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng thì nhiều người nghĩ rằng Ngài là ngôn sứ Giêrêmia (x. Mt 16,13-14). Tại sao thế? Bởi vì Giêrêmia là một người bạn của Thiên Chúa, ông có một nỗi đam mê mãnh liệt đối với Đấng đã gọi ông. Ông là một người say mê Lời Thiên Chúa, sống độc thân và chịu nhiều đau khổ vì Lời Thiên Chúa mà ông đã rao giảng. Ông có nhiều nét giống Đức Giêsu. Trong bài này, chúng ta sẽ xem xét hành trình ơn gọi của Giêrêmia, tâm tình của ông khi đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa, và nỗi say mê của ông đối với Lời Chúa, để qua đó chúng ta cũng nhận ra ý nghĩa ơn gọi của mình, tâm tình chúng ta cần có trong việc đáp lại tiếng gọi của Chúa và mối tương quan giữa chúng ta với lời Chúa.
1. Hành trình ơn gọi của ngôn sứ Giêrêmia
Giêrêmia là người liên lỉ tìm kiếm ý nghĩa ơn gọi của mình qua sứ vụ của ông. Thánh Phaolô đã chú ý đến ông khi thánh nhân tìm kiếm căn tính của mình. Ngài nói: “Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ (những lời này trích dẫn từ Giêrêmia) và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người (câu này trích dẫn từ đoạn nói về người tôi trung của Giavê trong sách Isaia, được viết dưới ảnh hưởng của Giêrêmia). Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại” (Gl 1,15-16).
Thần học của Giêrêmia về ơn gọi không thể tách lìa khỏi cá tính của ông. Điều ông viết bùng phát từ trái tim ông, đôi khi có những đoạn chẳng êm dịu chút nào. Thần học về ơn gọi của Giêrêmia trào ra từ một cuộc đời đầy kích động với những nỗi thống khổ, liên lỉ kiếm tìm.
Sáu năm đầu của Giêrêmia là những năm đầy phấn khích vì tràn trề hy vọng. Rồi ông bị sốc khi vua Giôsia bị tử trận ở Megiddo (x. 2V 23,29-30). Người kế vị Giôsia là vua Giơ-hô-gia-kim, một kẻ bội giáo, đã phục hồi việc thờ tự các thần ngoại giáo tại Giêrusalem.
Giêrêmia ghi lại nỗi thống khổ của mình trong phần được gọi là “những lời tự thuật”. Trong phần này, ông đã viết một trong những câu sâu sắc nhất trong toàn bộ Kinh Thánh : “Lạy Đức Chúa, Ngài biết con và Ngài thấy rõ, Ngài dò xét lòng con, lòng con ở bên Ngài” (Gr 12,3). (Trong tiếng Do Thái câu này có ý nói: “Chúa đã bước đi cùng với con. Khi con chìm ngập trong bóng tối của tâm hồn, Chúa có ở đó với con không?“) Giêrêmia đã phải tìm kiếm Thiên Chúa trong bóng tối. Câu trả lời của Thiên Chúa được chính ông viết sau một thời gian dài cầu nguyện: “Ngươi chạy với người đi bộ mà còn nhọc mệt, thì chạy đua với ngựa làm sao? Nếu ngươi chỉ thấy an tâm trong một xứ thái bình, thì trong bụi rậm sông Giođan, an tâm làm sao được ?” (Gr 12,5)
Chúng ta có thể suy nghĩ, nghiền ngẫm và cầu nguyện dựa trên những lời này của ông. Những lời này có ý nói: “Này Giêrêmia, mọi sự bây giờ có vẻ tệ hại, nhưng sau này sẽ khá hơn nhiều.” Khi ông viết những lời này như thể là câu trả lời của Thiên Chúa thì ông muốn thưa lại: “Lạy Thiên Chúa của con, con sẽ để tương lai đem đến điều sẽ xảy ra cho con.“
Trong một đoạn khác, Thiên Chúa trả lời cho ông: “Nếu ngươi nói điều cao quý thay vì điều hèn hạ, thì ngươi sẽ nên như miệng Ta” (Gr 15,19). Những lời lạ thường này xác nhận: một vài lời nói đã được linh hứng của Giêrêmia vẫn chứa đựng một chút điều xấu pha vào sứ điệp quí báu. Nó chỉ rõ điều rất hiển nhiên mà nhiều vị hoạt động tông đồ đã xem thường và bỏ qua. Giêrêmia đã phải trải qua sự thanh luyện nhằm loại bỏ những điều xấu để lời nói của ông diễn đạt một cách tinh tuyền thánh ý của Thiên Chúa, và ý tưởng về ơn gọi của ông càng phải được thanh luyện nhiều hơn nữa. Không một thử thách nào làm héo hon tâm hồn một cách đau đớn hơn việc phải thanh luyện chính những ước mơ và hy vọng của người đó. Điều này xảy đến khi vị tông đồ bước vào bóng tối ngày càng dày đặc hơn của đức tin, được dẫn dắt bởi một xác tín duy nhất là Thiên Chúa có đó.
Sau cùng, vào lúc cuối đời, Giêrêmia viết câu chuyện về ý nghĩa ơn gọi của ông. Nó bắt đầu với những lời rất thân mật mà Thiên Chúa nói với ông: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi,Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1,5).
Thiên Chúa Giavê đến với Giêrêmia trước. Không có gì cản trở được phúc lành của Giavê. Việc một hài nhi ra đời không phải là chuyện ngẫu nhiên. Mỗi người đều là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa. Mỗi người có một lịch sử duy nhất và độc đáo. Giêrêmia được Giavê tuyển chọn trước khi ông lọt lòng mẹ. Giavê đã tuyển chọn ông từ thuở đời đời.
Qua Bí Tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta được mời gọi để trở thành ngôn sứ, tư tế, và vương giả. Đạo chúng ta là đạo yêu thương và khởi điểm của đạo là tình yêu của Thiên Chúa dành cho mỗi người. Việc trung tín với đường lối của Thiên Chúa, kiên trì trong một cuộc đời công chính và sống trong bình an cần được bắt đầu bằng sự hiểu biết về tình yêu của Thiên Chúa. Trong thâm tâm, chúng ta phải có một sự xác tín mạnh mẽ rằng, Thiên Chúa yêu thương chúng ta và tin tưởng vào chúng ta, đến nỗi Ngài muốn và cần chúng ta cộng tác vào công trình của Ngài.
Một xác tín nội tâm được thành hình như thế nào? Trong trường hợp Giêrêmia, nó đòi hỏi các giấc mơ tông đồ của ông phải bị đè bẹp như một căn nhà bằng giấy. Một cách nào đó ông phải chấp nhận những thất bại và khó khăn. Chỉ khi ấy ông mới có thể nói với tấm lòng thành thực: nỗi khao khát Thiên Chúa của tôi không gì khác hơn là chính nỗi khao khát của Thiên Chúa dành cho tôi. Đây là đích điểm của việc kết hiệp riêng tư với Thiên Chúa trong một tình yêu tinh ròng nhất. Đây là ơn gọi trong ý nghĩa chân thực nhất của nó[1].
2. Tâm tình của Giêrêmia khi đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa
“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng. Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con” (Gr 20,7).
Bản dịch Kinh Thánh Giêrusalem dùng chữ “quyến rũ” còn bản New Revised Standard dùng chữ “dụ dỗ“. Nếu chúng ta để ý đến các sắc thái khác nhau của hai từ này, chúng ta sẽ nhận ra ý nghĩa đích thực của bản chất dục tính trong cuộc gặp gỡ này giữa Thiên Chúa và Giêrêmia. Trên đây chúng ta đã xét đến khung cảnh theo tầm nhìn của Thiên Chúa, bây giờ chúng ta xét nó theo tầm nhìn của Giêrêmia. Các cảm xúc của ông thật trái nghịch. Cảm tưởng của ông về ơn gọi của mình bị kiềm chế bởi một chút nghi ngờ và thất vọng.
Thiên Chúa đang gợi lên những đam mê của ông. Dấn thân cho Thiên Chúa thì không hoàn toàn giống như ký kết vào một bản hợp đồng làm ăn. Nó giống như một khế ước hôn nhân. Làm việc với Thiên Chúa có nghĩa là sống trong tình yêu với Thiên Chúa và những điều thuộc về Thiên Chúa, bị thiêu đốt bởi lửa nhiệt thành của Thiên Chúa, sống nhiệt tình trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Bị thúc đẩy bởi tình yêu Thiên Chúa, Giêrêmia đã tự nguyện chọn lựa hiến dâng tất cả. Ông dâng hiến trọn vẹn, nhưng lại cảm thấy bị áp đảo.
Kinh Thánh đã sử dụng một ngôn ngữ rất mạnh. Cách thức duy nhất mà Thiên Chúa có thể khuất phục được Giêrêmia là để cho ông cảm nghiệm được tình yêu say đắm, nỗi khát khao mãnh liệt mà Thiên Chúa dành cho ông. Điều cần thiết để cho một người tự nguyện bước vào mối liên hệ yêu thương với Thiên Chúa là để cho người ấy nhận ra Thiên Chúa say mê người ấy như thế nào. Tình yêu của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn bất cứ sức mạnh nào của con người. Thiên Chúa khao khát sự đáp lại của con người, Thiên Chúa khao khát mở rộng Nước Trời cho tất cả mọi người. Thiên Chúa là một người tình rất đòi hỏi. Không một sự đáp trả nửa vời nào được dung thứ. Làm việc cho Thiên Chúa là một công việc toàn thời gian, không chỉ giữ các giờ kinh và giờ lễ trong nhà nguyện là đủ. Giêrêmia được kêu gọi không chỉ để loan báo lời Thiên Chúa, nhưng còn được kêu gọi để sống cho Thiên Chúa nữa, chỉ sống cho một mình Thiên Chúa mà thôi.
Dĩ nhiên, tiếng kêu của Giêrêmia về mức độ mãnh liệt của mối liên hệ giữa ông với Thiên Chúa cũng được dành cho mọi người có lòng tin. Không gì có thể làm no thoả cơn đói khát của trái tim con người, và làm thoả mãn nỗi say mê tìm kiếm của lòng người, ngoại trừ việc bước vào mối liên hệ yêu thương một cách mãnh liệt và say đắm Thiên Chúa. Yêu mến và tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa là con đường duy nhất làm triển nở trọn vẹn tất cả các tiềm năng trong mọi lãnh vực của con người.
Có hai yếu tố then chốt trong tiếng kêu của Giêrêmia, Thiên Chúa đã quyến rũ ông và ông đã đồng thuận. Bây giờ chúng ta hãy suy nghĩ về việc Thiên Chúa đã quyến rũ vị ngôn sứ. Đây là một tuyên bố mạnh mẽ của Giêrêmia. Nó xảy đến khi ông bắt đầu sống vai trò của một vị ngôn sứ. Trong thực tế, nó xảy ra ngay sau khi ông bị bắt và bị hành hạ vì đã loan báo lời của Thiên Chúa.
Giêrêmia đã cảm nghiệm được những hệ quả của việc trung tín với Giavê trong hoàn cảnh thối nát về chính trị và xã hội. Ông đã chịu đau khổ trong cảnh tù tội. Và ông la lên: Thiên Chúa đã quyến rũ ông. Ông đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa tới mức độ ông không thể khước từ sự quyến rũ đến từ Thiên Chúa. Ông không nói rằng Thiên Chúa đã ra lệnh hay đe doạ ông. Ông không diễn tả nỗi sợ hãi; đúng hơn ông thừa nhận rằng Thiên Chúa đã làm ông say mê; ông không thể và không muốn cưỡng lại tình yêu của Ngài.
Thiên Chúa là tình yêu và Thiên Chúa là người tình vĩ đại nhất trong mọi thời. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể làm nảy sinh và hướng dẫn một cảnh tượng tình yêu như thế. Giêrêmia biết điều này. Mặc cho các hệ quả hết sức đau thương của tình yêu này, tù tội và bị tra tấn, ông vẫn hân hoan vui sướng trong tình yêu Thiên Chúa. Lòng say mê Thiên Chúa thì mãnh liệt đến nỗi nó lấn át mọi sự kháng cự. Đối diện với những thực tại đau thương xảy ra vì việc loan báo lời Thiên Chúa của mình, Giêrêmia vẫn tuyên xưng tình yêu và lòng say mê Thiên Chúa của ông.
Các cơn khủng hoảng sàng lọc và loại bỏ những động lực và nơi nương tựa hời hợt. Nếu tình yêu vẫn còn tồn tại, nó sẽ chi phối tất cả. Lời mời gọi ra đi loan báo bình an của Thiên Chúa cho mọi người là một lời mời gọi phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa trong tình yêu. Giêrêmia đã nắm chắc tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mình, đến mức ông không thể làm bất cứ điều gì khác hơn là chấp nhận, phó thác tất cả cho Thiên Chúa. Tấm gương của ông cho thấy việc gắn bó với Thiên Chúa không phải là một chọn lựa có tính toán. Nó làm người ta chìm vào một tình yêu say đắm và không thể nào quay trở lại được.
Giêrêmia chỉ rõ mầu nhiệm đức tin lớn lao nhất là mầu nhiệm về ơn gọi, mầu nhiệm về mối liên hệ giữa một cá nhân với Thiên Chúa và mầu nhiệm của Thiên Chúa đối với người ấy. Đức tin luôn luôn là một vấn đề của hy vọng vượt quá tầm nhìn. Nếu đức tin chỉ được thấy rõ ràng sau khi con người chết thì ơn gọi có thể không bao giờ hiểu được lúc khởi điểm của cuộc sống, nhưng chỉ vào lúc cuối đời.
Theo Giêrêmia, ơn gọi công bố sự cần thiết phải tin tưởng vào các trực giác của con người. Một ơn gọi bắt đầu bằng việc đáp ứng một cơ hội cụ thể, nhưng điều nâng đỡ ơn gọi lại là một trực giác không rõ ràng và giấu ẩn, chỗ mà Thiên Chúa hiện diện, thuyết phục người ta tiến bước, tìm kiếm điều mà người ta còn chưa hiểu. Tin tưởng vào trực giác là tín thác vào một gợi hứng kín ẩn của Thiên Chúa. Vì thế, tin tưởng vào các trực giác là vâng phục và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Giêrêmia là con người của cầu nguyện. Chỉ dẫn chắc chắn nhất của trực giác của một con người sống theo ý Thiên Chúa là khả năng sống trong bình an giữa tối tăm và bí nhiệm. Đó là lúc Thiên Chúa hiện diện gần gũi với người ấy nhất, điều này vượt quá khả năng diễn tả bằng lời nói, vượt quá những chân trời của tri thức, và chỉ cho phép trái tim tìm kiếm một sự kết hiệp huyền nhiệm và mật thiết với Thiên Chúa. Trong cuộc tìm kiếm một sự kết hiệp huyền nhiệm như vậy, cuối cùng người ấy sẽ hiểu được ý nghĩa về điều mà Thiên Chúa đã muốn trước khi người ấy thành hình trong lòng mẹ[2].
3. Giêrêmia, con người của Lời Chúa
Giêrêmia là người say mê Lời Thiên Chúa. Ông nói: “Tâm can tôi tan nát, xương cốt tôi rã rời. Tôi nên như người say, nên như người bứ rượu, cũng chỉ vì ĐỨC CHÚA, vì thánh ngôn của Người” (Gr 23,9).
Đối với Giêrêmia, Lời Chúa là một ngọn lửa thiêu đốt ông: “Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được !” (Gr 20,9). Vì thế, Lời Chúa có sức biến đổi con người. Người ta không thể để cho lửa chạm đến mình mà vẫn còn y nguyên. Việc tiếp xúc với Lời Chúa hằng sống nung nấu chúng ta, thách thức chúng ta, lôi kéo chúng ta. Người rao giảng Lời Chúa phải thâm nhuần lửa. Chúa hứa với Giêrêmia: “Ta sẽ làm cho các lời của Ta thành lửa nơi miệng ngươi, và sẽ biến dân này thành củi cho lửa ấy thiêu đốt.” (Gr 5,14). Lời mà Giêrêmia rao giảng là ngọn lửa thiêu đốt ông trước đã, rồi đến lượt những người nghe ông rao giảng Lời Thiên Chúa.
Vấn đề nằm ở chỗ, chúng ta có biết tận dụng những gợi hứng mà lời Chúa khơi dậy trong tâm hồn của chúng ta hay không? Có lẽ điều tốt nhất là chúng ta tự hỏi chính mình: Chúng ta có tương quan nào với Lời Chúa? Làm thế nào để nuôi dưỡng mình từ những trang sách đã giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa, Đấng đang hoạt động trong lịch sử của cuộc đời chúng ta? Và những trang sách nào giúp chúng ta bắt đầu một ngày mới với ý chí quyết tâm sống yêu thương, làm những việc tốt, với sức mạnh phát xuất từ tình yêu của Chúa Thánh Thần? Nếu Lời Chúa trở nên thinh lặng là vì chúng ta đã lơ là chểnh mảng. Vì tự phụ đã biết rõ Lời Chúa rồi nên chúng ta đã không lắng nghe một cách mến yêu, và kín múc sức mạnh từ Lời Chúa.
Thay lời kết
Giêrêmia đã để cho Lời Thiên Chúa chi phối toàn bộ cuộc đời của ông. Ông là con người của Lời Chúa, con người mà số phận có thể nói được rằng đã đồng hóa với Lời Chúa. Nếu dân chúng đón nhận lời Chúa cũng sẽ đón nhận ông, và trong thực tế khi họ loại bỏ Lời Thiên Chúa thì họ cũng loại trừ Giêrêmia. Lời Thiên Chúa thúc đẩy ông chịu liên lụy vì yêu mến Đấng đã lên tiếng. Ông đã có lúc muốn kháng cự lại Lời Chúa, nhưng Lời Chúa lay động ông và cuối cùng ông tự thú nhận: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng” (Gr 20,7).
[1] Patricia, The Word of God-The Word of Peace, tr 150 tt
[2] Patricia, The Word of God-The Word of Peace, tr 8 tt
[3]Carlo Maria Martini, A Prophetic Voice in City, tr 110 tt
[4] Tadeusz Dajczer, The Gift of Faith, tr. 179.
NGƯỜI MÔN ĐỆ
ĐỨC GIÊSU THƯƠNG MẾN
FM.JB. Nguyễn Tiến Dũng_ Đan viện Phước Sơn
Khi chép Tin Mừng, mỗi Thánh Sử đều có những điểm thần học đặc trưng, hoặc để lại những dấu ấn đặc thù của riêng mình, khiến độc giả không thể lầm lẫn khi đọc tác phẩm của các Ngài. Thật vậy, đọc Tin Mừng theo thánh Gioan[1] chúng ta cũng dễ dàng nhận ra điểm nhấn về nguồn gốc và bản tính Thần linh của Ngôi Lời Nhập Thể. Ngoài ra nơi Tin Mừng Thứ Tư, chúng ta còn gặp thấy một chi tiết khác rất thú vị khi vị Thánh Sử nhắc đến ‘Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến’ mà không chỉ rõ người môn đệ ấy là ai. Điều này đã góp phần làm cho tác phẩm của ngài trở nên độc đáo, nhưng đồng thời cũng gây nên không ít khó khăn và thắc mắc cho các độc giả trong suốt hai ngàn năm nay.
Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi sẽ dựa vào một số bản văn trong Tin Mừng để tìm hiểu xem ‘Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến’ trong Tin Mừng Thứ Tư là ai; nhưng trước hết chúng ta cần xem xét hai danh xưng ‘tông đồ’ và ‘môn đệ’ được tác giả sử dụng như thế nào trong Tin Mừng Thứ Tư.
1- Phân biệt hai danh xưng: tông đồ và môn đệ
1.1. Tông đồ
Chữ ‘Tông Đồ’ trong Tin Mừng Thứ Tư được chuyển dịch từ tiếng Hylạp ‘apostolos’ (απόστολος), thời Tân Ước chữ này có nghĩa thông thường là người được sai đi, hay người được gửi tới [2] . Đức Giêsu cũng dùng từ ‘apostolos’ này để đặt tên cho Nhóm 12 do chính Ngài thiết lập, do Ngài đích thân đào tạo và cũng do chính Ngài trao cho họ sứ vụ đặc biệt: “Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là tông đồ” (Lc 6,12-16).
Sau khi Giuđa Iscariot rút lui khỏi Nhóm 12 này, thì Matthias được chọn để thay thế vào vị trí của Giuđa (x.Cv 1,15-26). Về sau, Thánh Phaolô với ơn gọi đặc biệt mà Đức Giêsu Phục Sinh đã dành cho Ngài trên đường Đamát cũng được kể là Tông Đồ: ‘Tông Đồ Thứ 13’ (x.Gl 1,1).
1.2. Môn đệ
Chữ ‘Môn Đệ’ được chuyển dịch từ tiếng Latinh ‘discipulus’. ‘Discipulus’ ban đầu có nghĩa chung là người học, học sinh, sinh viên hay được dùng để ám chỉ những người đệ tử theo học với một vị thầy trong lãnh vực chuyên môn nào đó với hy vọng sẽ được truyền nghề của thầy [3] . Trong Tân Ước, danh xưng ‘discipulus’ ám chỉ những người được Đức Giêsu kêu gọi và họ đã đáp lại lời Ngài, nhưng không thuộc Nhóm 12. Khởi đầu là nhóm 72 môn đệ, và sau đó là mọi kitô hữu, thánh Luca viết: “Chúa chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến” (Lc 10,1tt; x. Cv 2,1tt).
1.3. Tông đồ và môn đệ trong Tin Mừng Thứ Tư
Tin Mừng Thứ Tư gọi những người đi theo Đức Giêsu và cộng tác với Ngài trong thời gian rao giảng tại thế và trong Giáo Hội Sơ Khai là ‘tông đồ’ hay ‘môn đệ’ mà không có sự phân biệt rõ ràng giữa hai tước hiệu này. Nói cách khác, theo Tin Mừng Thứ Tư, mọi người đều có thể trở thành tông đồ hoặc môn đệ [4] của Đức Giêsu nếu họ đáp ứng được ba điều kiện sau đây:
1- “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi” (Ga 8,31) [5].
2- “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
3- “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15,8).
Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng người môn đệ hay tông đồ của Đức Giêsu là người: Tin vào Đức Giêsu và ở lại trong Lời của Ngài (x.Ga 8,31); Yêu thương nhau như Ngài đã yêu (x.Ga 13,35); Và luôn sẵn sàng tôn vinh Chúa Cha (x.Ga 15,8).
Đàng khác, trong bữa ăn cuối cùng, Tin Mừng Thứ Tư ghi lại rằng: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Ngài đã đến,… Ngài vẫn yêu thương kẻ thuộc về mình…và đã yêu họ đến cùng” (x.Ga 13,1). Qua câu này, tác giả Tin Mừng Thư Tư muốn nói rằng tất cả những ai đã tin vào Đức Giêsu đều là môn đệ hay tông đồ của Ngài. Nhưng điều chúng ta muốn biết ở đây là ‘Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến’ là ai?
2- ‘Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến’ là thánh Gioan Tông Đồ
Trước hết, nếu căn cứ vào ba tiêu chuẩn trên đây, gồm: tin vào Đức Giêsu và ở lại trong Lời của Ngài, yêu thương nhau như Ngài đã yêu, và luôn sẵn sàng tôn vinh Chúa Cha, thì chắc chắn Gioan đã thuộc vào nhóm các môn đệ của Đức Giêsu. Ngoài ra, trong Tin Mừng Thứ Tư còn có năm lần khác nhắc đến danh xưng ‘Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến’ mà không xác định rõ người môn đệ ấy là ai. Năm lần đó là:
1/ Ga 13,23-25: “Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giê-su thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giêsu. Ông Simôn Phêrô làm hiệu cho ông ấy và bảo: “Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?” Ông này liền nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu và hỏi: “Thưa Thầy, ai vậy?”
2/ Ga 19,25-27: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.”
3/ Ga 20,1-9: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. (…) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.”
4/ Ga 21,4-7: “Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu… Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phêrô: “Chúa đó!”
5/ Ga 21,15-23: “…Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy.” Ông Phêrô quay lại, thì thấy người môn đệ Đức Giê-su thương mến đi theo sau;… ông Phêrô nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” Đức Giêsu đáp: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy.” Do đó, mới có tiếng đồn giữa anh em là môn đệ ấy sẽ không chết. Nhưng Đức Giêu đã không nói với ông Phêrô là: “Anh ấy sẽ không chết”, mà chỉ nói: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?”
Trong các trình thuật trên đây, tuy tác giả Tin Mừng Thứ Tư không nói rõ ‘Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến’ là ai, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu Tân Ước -trong gần 2000 năm qua-, đều cho rằng nhân vật không được nhắc rõ tên trong các trình thuật này chính là thánh Gioan Tông Đồ; đồng thời các ngài cũng nhìn nhận thánh Gioan là tác giả Tin Mừng cùng tên, Tin Mừng theo thánh Gioan hay còn gọi là Tin Mừng Thứ Tư [6]. Ngoài ra khi đọc Tân Ước, chúng ta cũng gặp thấy những đoạn khác -trực tiếp hay gián tiếp- tường thuật về ơn gọi của thánh Gioan, về những đặc ân ngài nhận được và về thái độ của ngài đối với lời mời gọi và tình yêu của Thầy Giêsu.
2.1. Ơn gọi của thánh Gioan Tông Đồ
Khi kêu gọi các môn đệ, Đức Giêsu không đi tìm những người có địa vị, giàu sang hay tài giỏi theo tiêu chuẩn thế gian. Ngài gọi những kẻ ngài muốn, thánh Marcô đã từng viết: “Người gọi đến với Người những kẻ Người muốn” (Mc 3,13). Tông Đồ Gioan cũng được Đức Giêsu kêu gọi vì ‘Người muốn’ gọi ông (x.Mc 1,19-20).
Từ bước đầu theo Chúa, Gioan vẫn còn mang nhiều cá tính nóng nảy và tham vọng. Cùng với anh Giacôbê, Gioan ước muốn một chỗ danh dự trong vương quốc của Ðức Giêsu (x.Mt 20,23). Ông còn được mệnh danh là con của “sấm sét” (x.Mc 3,16-17). Tham vọng đó đã gây chia rẽ giữa các Tông Đồ khác: “Nghe vậy mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó” (Mt 20,24). Nhân dịp này Đức Giêsu đã dạy cho các ông một bài học về khiêm ngường và phục vụ, Chúa nói: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ” (Mt 20,26).
Có lần Gioan tỏ ra tức giận và cố ngăn cản một người nhân danh Chúa trừ quỉ, người ấy lại không cùng nhóm đi theo Thầy (x.Lc 9,49-50; Mc 9,38-40). Óc đố kỵ vẫn còn đè nặng trong con người Gioan, ông muốn mình ‘độc quyền’ trong việc theo Chúa và rao giảng Tin Mừng. Đặc biệt hơn, khi thấy dân làng Samaria không đón tiếp Thầy Giêsu, Gioan đã muốn khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy thành ấy. Nhưng Đức Giêsu đã quay lại quát mắng ông (x.Lc 9, 51-55).
Từ những nhắc nhở của Thầy Giêsu, Gioan đã từng bước thấu hiểu tình yêu thương Đức Giêsu dành cho mình. Từ đó, Gioan đã thay đổi bản chất con người của ông. Gioan đã chiến thắng tính nóng nảy và lớn lên trong tình yêu cảm thông. Cũng từ đó, Gioan đã dành được một chỗ đặc biệt trong trái tim yêu thương của Thầy Giêsu.
2.2. Đặc ân của thánh Gioan Tông Đồ
Có vẻ như ngay khi chào đời, Gioan đã nhận được đặc ân đặc biệt qua tên gọi rất tiêu biểu trong truyền thống Do thái: Gioan. Gioan có nghĩa là ‘Cha ban ân huệ của Ngài’. Sau đó khi còn rất trẻ, Gioan đã lọt vào tầm ngắm của Đức Giêsu. Cùng với các môn đệ khác, Gioan được Ngài chọn, gọi và yêu thương cách đặc biệt với một tình yêu đến cùng (x.Ga 13,1).
Tuy vậy trong thực tế, người ta vẫn thấy Đức Giêsu thể hiện tình yêu thương của Ngài theo ‘cách’ Ngài muốn và cho những ‘ai’ Ngài muốn. Phải chăng là do sự tương xứng trong công việc hay trong cá tính của của từng môn đệ? Dù sao thánh Gioan vẫn luôn nằm trong ‘tốp 3’ (Phêrô – Giacôbê – Gioan), thường xuyên có mặt trong các sự kiện quan trọng của Thầy Giêsu. Ngay trong ‘tốp 3’ này, Gioan vẫn là người đặc biệt hơn cả, như chúng ta thấy ghi lại trong các sách Tân Ước, đặc biệt là trong các Tin Mừng. Phải chăng đây là những đặc ân Thầy Giêsu muốn dành riêng cho Gioan?
– Gioan là người trẻ nhất, là một trong những môn đệ đầu tiên đi theo Đức Giêsu (x.Mt 4,21-22) và là người sống thọ nhất trong Nhóm 12 [7]
– Gioan thường xuyên có mặt trong các sự kiện quan trọng của Đức Giêsu, chẳng hạn: chữa cho con gái ông trưởng hội đường Giairô (x.Lc 8,49-56), biến hình trên núi Tabor (x.Lc 9,28-36), chữa cho mẹ vợ Phêrô (x.Mc1,29), lúc cầu nguyện trước cuộc khổ nạn ở vườn Cây Dầu (x.Mt 26,37), cùng với Phêrô chuẩn bị lễ Vượt Qua (x.Lc 22,8); Gioan còn là môn đệ có được vị trí đặc biệt trong bữa tiệc Vượt Qua, khi ngài tựa đầu vào ngực Đức Giêsu (x.Ga 13,25);
– Gioan có mẹ là bà Maria Salomê, một trong những phụ nữ từng đi theo phục vụ Đức Giêsu và các tồng đồ; bà này cũng là họ hàng với Đức Maria (x. Mt 27,55-56).
Với những phẩm chất nơi bản thân và những mối tương quan như thế, thánh Gioan Tông Đồ được Đức Giêsu thương mến cách đặc biệt cũng là điều dễ hiểu.
2.3. Thái độ của thánh Gioan đối với ơn gọi
Từ việc chung sống và hấp thụ giáo huấn của Đức Giêsu, cùng với độ nhạy bén của tuổi trẻ, cũng như quyết tâm theo Thầy Giêsu, Gioan đã đạt được một sự tiến bộ vượt bậc trên con đường trở thành ‘Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến’. Tác giả Trần Duy Khiêm đã có lý khi viết: “Gioan, người môn đệ của tình yêu đã đi qua con đường vạn dặm…Từ đanh đá đến điềm đạm, từ giận dữ đến dịu dàng, từ chia rẽ đến chia sẻ tình yêu và đó là con đường bạn và tôi phải đi qua nếu chúng ta muốn đến gần Thầy Chí Thánh.” [8]
Khi đã cảm nghiệm được tình yêu và những đặc ân đặc biệt của Đức Giêsu đối với mình, Gioan đã dành hết phần còn lại của cuộc đời để diễn tả tình yêu mà ngài đã nhận được từ Thầy Chí Thánh. Tâm tình tạ ơn của người tội lỗi trong Tin Mừng theo thánh Luca thật đúng cho trường hợp của Gioan: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” (Lc 7,47). Những gì thánh Gioan thực hiện cho Đức Giêsu và cho Giáo Hội Sơ Khai đều là ‘bằng cớ’ cho tình yêu thương mà ngài đã nhận được từ nơi Chúa:
– Gioan đã can đảm theo Đức Giêsu vào đến dinh Thượng Tế (x.Ga 18,15); Gioan là người duy nhất trong Nhóm 12 có mặt dưới chân Thánh Giá và được hân hạnh đón Đức Maria về nhà chăm sóc trong quảng đời còn lại; ngài đại diện cho Giáo Hội nhận Đức Maria làm Mẹ Giáo Hội và là mẹ của mỗi người tín hữu (x.Ga 19,25-27).
– Cùng với Phêrô, sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Gioan đã can đảm rao giảng Tin Mừng Phục Sinh không chút sợ hãi, và Gioan cũng là một trong những cột trụ cho Giáo Hội tại Giêrusalem (x.Cv 4,1tt; Gl 2,9).
– Gioan là người môn đệ đã suy tư và cảm nghiệm sâu xa nhất về mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể và cũng là người đóng góp rất nhiều trong việc rao giảng Tin Mừng, từ Giêrusalem, Rôma đến Patmos.
– Gioan cũng là tác giả của Tin Mừng Thứ Tư, tác giả của ba lá thư chứa đầy giáo lý chính thống của Đức Giêsu (1,2,3 Ga) và là tác giả của Sách Khải Huyền [9] , cuốn sách duy nhất trong Tân Ước chứa đầy tính ngôn sứ.
– Gioan đã nhận ra Chúa hiện diện trong mọi biến cố cuộc đời và nói cho người khác biết rằng: ‘Chúa đó!’ (x.Ga 21,7); chính Gioan đã nhận ra chân lý trường cửu: “Thiên Chúa là tinh yêu; ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy” (1Ga 4,16).
Những ‘bằng cớ’ trên đây đã khá đủ để có thể quả quyết rằng ‘Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến’ trong Tin Mừng Thứ Tư chính là thánh Gioan Tông Đồ. Tuy nhiên, điều làm chúng ta ngạc nhiên và thắc mắc là tại sao tác giả Tin Mừng Thứ Tư không nêu rõ danh tánh của mình theo cách bình thường nhất? Đàng khác, có vài chi tiết trong các trình thuật trên đây cũng cho thấy rằng Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến vẫn còn mãi cho đến ngày Chúa trở lại: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?” (Ga 21,23); trong khi đó, thực tế cho thấy là thánh Gioan Tông Đồ đã chết tại đảo Patmos [10] .
Như vậy, khi nói đến Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến mà không xác định rõ nhân vật đó là ai, chắc chắn tác giả Tin Mừng Thứ Tư có ý ám chỉ đến một “ai đó”, “những ai đó” chứ không chỉ nói về bản thân ngài mà thôi. Đọc Tin Mừng Thứ Tư, chúng ta thấy rất rõ điều đó.
3- ‘Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến’ là các kitô hữu mọi thời
Các thánh Giáo Phụ, đặc biệt là thánh Augustinô đã dựa vào năm trình thuật trên đây trong Tin Mừng Thứ Tư để nói rằng Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến chính là các Kitô hữu mọi thời, khi họ hoàn toàn tin tưởng vào Lời Chúa hứa (x.Ga 20,8), sẵn sàng chia sẻ mầu nhiệm khổ nạn của Đức Giêsu (x.Ga 13,22-26), sống chan hòa trong Giáo Hội (x.Ga 21,7), một Giáo Hội lữ hành hướng về Cánh Chung (x.Ga 21,21) và luôn biết liên kết chặt chẽ với Mẹ Maria trong sự hướng dẫn của Thánh Thần (x.Ga 19,25-26). Như vậy, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến là người:
3.1. Tin tưởng vào Lời Chúa hứa (Ga 20,8)
Khi kể lại: “Sáng sớm, Maria Magđala chạy ra thăm mồ lúc trời còn tối” (Ga 20,8). Qua kiểu nói ‘sáng sớm’ nhưng ‘trời còn tối’, Gioan muốn cho thấy rằng Maria Magđala chạy ra mộ theo cảm tính của con người thế gian, nên bà ‘vẫn bị tối’ không thể thấy Đấng Phục Sinh, mà chỉ thấy ngôi mồ trống [11] Thấy mồ trống, bà vội chạy về báo tin cho những người trong nhà, tức thì Phêrô và Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến chạy ra mồ. Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến chạy tới trước, ông đã thấy băng vải còn đó, nhưng ông không vào, đợi Phêrô tới và để ông này vào trước. Phêrô nhìn mọi sự, thấy khăn liệm của Đức Giêsu để qua một bên, khăn trùm đầu được xếp lại một chỗ. Điều này muốn nói rằng sự chết không thể khống chế được con người Đức Giêsu.
Sau đó, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến mới bước vào. Ông đã thấy và ông đã tin. Hành động tin của Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến trong câu Ga 20,8 này không chỉ rõ đối tượng tin (tin ai hay tin điều gì). Điều này cho phép hiểu hành động ‘tin’ của ông theo nghĩa rộng nhất, tức là Thánh Sử muốn ám chỉ tới mọi khía cạnh của lòng tin [12] Như vậy, những gì diễn ra nơi ngôi mồ trống giúp chúng ta nhận ra phẩm chất của Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến về sự gắn bó với Thầy. Trình thuật cho thấy môn đệ này: đến trước, thấy trước và tin trước.
3.2. Chia sẻ cuộc khổ nạn Đức Giêsu (Ga 13,22-26)
Trong bữa Tiệc ly, khi nghe Đức Giêsu loan báo: “Một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (Ga 13,21), các môn đệ phản ứng về lời này. Trong trong bối cảnh đó, danh xưng Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến đã xuất hiện lần đầu tiên (x.Ga 13,23).
Thánh Phêrô đưa mắt làm hiệu cho Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến và người này hiểu được ý của Phêrô, người anh cả của mình, lập tức ông nghiêng đầu vào ngực Đức Giêsu và hỏi: “Thưa Thầy, Thầy nói về ai vậy?” [13].
Khi kể rằng Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến nghiêng đầu vào ngực Thầy như thế, Thánh Sử có ý nói đến hình ảnh của người môn đệ lắng nghe tiếng nói của trái tim, lắng nghe niềm tâm sự sâu xa nhất của Thầy Giêsu. Tư thế của Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến trong bữa Tiệc ly “đầu tựa vào lòng Chúa Giêsu” gợi lên cho chúng ta 2 suy nghĩ:
1). Trước hết trong lời tựa, Tin Mừng Thứ Tư đã mạc khải vị trí và tương quan giữa Đức Giêsu và Chúa Cha: “Chưa ai thấy Thiên Chúa bao giờ, Con Một Thiên Chúa là Đấng hằng ở nơi cung lòng Cha, chính Đấng ấy sẽ tỏ cho biết” (Ga 1,18). Điều này muốn nói rằng tương quan giữa Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến cũng phải ở nơi cung lòng của Thầy như vậy.
2). Đàng khác, thái độ của Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến gục đầu vào ngực Thầy là hình ảnh người môn đệ lắng nghe nỗi niềm của Thầy trước cuộc khổ nạn. Giáo Hội ngày nay cũng đang mời gọi mọi kitô hữu lắng nghe ‘nỗi niềm’ của Nhiệm Thể Đức Kitô là Giáo Hội, như thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Côlôsê: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24).
Như vậy, thái độ của Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến không chỉ là hướng lòng về niềm tâm sự của Thầy, lắng nghe cuộc khổ nạn của Thầy năm xưa mà thôi; trái lại, người môn đệ ấy phải luôn luôn đồng cảm, chia sẻ với Giáo Hội là Nhiệm Thể của Ngài khi Giáo Hội bị bách hại trong mọi thời đại.
3.3. Sống chan hòa trong Giáo Hội (Ga 21,7)
Tin Mừng Gioan chương 21 kể rằng Phêrô cùng với các bạn vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào và họ chán nản! Gặp một người đang đi trên bờ, người này dừng lại và bảo họ: “Hãy quăng lưới bên phải mạn thuyền”. Phêrô và đồng bạn đã làm theo và khi kéo lên, lưới nhiều cá cho đến độ gần rách. Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến nói với Phêrô ‘Chúa đó!’. Quên hết vất vả, quên hết mệt nhọc, Phêrô nhảy xuống biển bơi nhanh về phía Đức Giêsu.
Ngày nay, lời của Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến vẫn vang vảng bên tai mỗi khi chúng ta gặp khó khăn thử thách trong cuộc sống: Chúa đó, đừng sợ! Chúa đó, đừng nản lòng! Chúa đó, Ngài vẫn mãi mãi trung thành! Lời đó như thông truyền sức mạnh cho người môn đệ Chúa trong mọi thời đại.
Thật vậy trong Giáo Hội, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến luôn là nguồn trợ lực, nâng đỡ không những các anh chị em của họ, mà đặc biệt còn nâng đỡ những người có trách nhiệm trên họ, chia sẻ trách nhiệm với các ngài. Điều này giúp chúng ta thấy rằng Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến vẫn luôn là người sống chan hòa giữa cộng đoàn Giáo Hội.
3.4. Luôn hướng về Cánh Chung (Ga 21,21)
Sau khi đã nhận ‘bài sai’ từ Đức Giêsu: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”, Phêrô còn được Ngài mời gọi: “Hãy theo Thầy”. Trong Tin Mừng Thứ Tư, “theo” Đức Giêsu có nghĩa là đi đến cái chết. Phêrô chấp nhận sứ mạng đi theo Chúa cho đến cùng, dù ông biết là mình sẽ bị “người ta thắt lưng cho con và dẫn đến nơi con không muốn” (Ga 21,18). Số phận của Phêrô là thế. Nhưng khi thấy Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến theo sau, Phêrô hỏi Thầy về ông này, Đức Giêsu trả lời: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?”.
Căn cứ vào lời này của Đức Giêsu, nên có người cho rằng Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến (tức là thánh Gioan) sẽ không chết. Nhưng Đức Giêsu không nói như thế; tác giả Tin Mừng Thứ Tư cũng không hiểu như vậy. Chúa chỉ nói là Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến sẽ tồn tại cho đến ngày Người trở lại [14] .
Đàng khác, những ai sống trong đức tin của Phêrô, những ai nâng đỡ anh em, đặc biệt nâng đỡ Giáo Hội trong những lúc gặp khó khăn thử thách như Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến, thì người đó sẽ luôn luôn là dấu chỉ hồng ân Chúa ban cho Giáo Hội, để hiện diện từ thế hệ này đến thế hệ khác cho đến ngày Chúa trở lại.
3.5. Biết nép mình bên Mẹ Maria (Ga 19,25-26)
Sau cùng, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến là người hiện diện dưới chân Thánh Giá Chúa. Đọc kỹ Tin Mừng Thứ Tư, chúng ta thấy thánh tác giả kể lại rằng: “Đứng bên Thập giá Chúa Giêsu có Mẹ Người, bà Maria Clêôpat, Maria Magđala. Trông thấy Mẹ và bên cạnh có người môn đệ mình thương mến, Ngài liền nói: Thưa Bà, đây là con bà. Này là mẹ con”. Có vẻ như khi tường thuật về sự hiện diện của những người bên Thánh Giá Đức Giêsu, tác giả Tin Mừng Thứ Tư chỉ kể đến ba nhân vật chính: Đức Mẹ, bà Maria Clêôpat và Maria Magđala. Còn Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến dường như chỉ đóng vai phụ: “Trông thấy Mẹ và bên cạnh có người môn đệ mình thương mến”. Tác giả cố tình không ghi lại sự hiện diện của Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến cách chính thức, nhưng chỉ là hiện diện ‘bên cạnh’ Mẹ Maria. Điều này gợi lên cho chúng ta 2 suy nghĩ:
1)- Suy nghĩ thứ nhất liên quan đến sự tế nhị và nhạy cảm. Theo lẽ thường, người đứng dưới chân Thánh Giá Đức Giêsu lúc này phải là Phêrô, Tông Đồ Trưởng. Vậy mà Phêrô không có mặt, các Tông Đồ khác cũng thiếu vắng. Vì vậy, tác giả Tin Mừng Thứ Tư đã không đề cập đến sự hiện diện của mình, để không làm lu mờ ảnh hưởng của Tông Đồ Trưởng Phêrô, và các đồng bạn của ngài [15]
2)- Suy nghĩ thứ hai liên quan đến ý nghĩa thần học. Có lẽ thánh Gioan muốn nói rằng không ai có thể trực diện với Thánh Giá của Chúa, một thử thách quá lớn. Vì vậy, cách khôn ngoan là hãy nép mình bên Đức Mẹ, cậy nhờ Đức Mẹ, và như vậy, chúng ta thấy hình ảnh Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến giống như một người con bé nhỏ ẩn núp bên mẹ mình. Nhờ Mẹ để hướng về Thánh Giá và hiện diện dưới chân Thánh Giá Chúa.
Tuy nhiên, khi hiện diện dưới chân Thánh Giá Chúa- dù theo cách không chính thức- Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến cũng đã nhận được những ân huệ này:
– Ân huệ thứ nhất là trở nên người con của Mẹ Maria, người con mà Mẹ sinh ra từ mầu nhiệm Thánh Giá Đức Giêsu. Nghĩa là Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến được tái sinh, được đón nhận sự sống thần linh từ cái chết của Đức Giêsu trên Thánh Giá. Theo lệnh Chúa, Đức Maria trở thành người Mẹ mới và Gioan đón nhận Mẹ về nhà mình. Kể từ giờ phút đó, trong cuộc sống của Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến không bao giờ vắng bóng Mẹ Maria [16] .
– Ân huệ thứ hai là được Đức Giêsu trao ban Thần Khí khi Ngài gục đầu trút hơi thở trên Thánh Giá và cả khi cạnh sườn của Ngài được khai mở, máu và nước chảy ra, nước Thánh Thần. Khi chứng kiến máu và nước từ cạnh sườn chảy ra, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến đã thốt lên rằng tôi đã xem thấy việc này, tôi sẽ làm chứng và chứng của tôi là chứng thật, và có Chúa làm chứng cho tôi là tôi nói thật để cả anh em nữa cũng tin (x.Ga 19,35).
Vì vậy, dưới chân Thánh Giá, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến chấp nhận xóa mình đi, nhưng bù lại, ngài được đón nhận Đức Maria làm người mẹ thiêng liêng như một dấu chỉ được tái sinh trong nước và Thánh Thần, được tái sinh trong cái chết của Đức Giêsu.
4- Một vài nhận định thay lời kết
Hình ảnh Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến trong Tin Mừng Thứ Tư giúp chúng ta nhận ra một vài đặc tính nổi bật của Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến ngày nay.
4.1. Tương quan giữa môn đệ và Thầy Giêsu
Đặc tính nổi bật thứ nhất là tương quan mật thiết giữa Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến với chính Thầy Giêsu. Nếu như Đức Giêsu hằng “ở nơi cung lòng Chúa Cha” và “Ngài là Ngôi Lời của Cha” (Ga 1,18), thì hôm nay, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến cũng nghiêng mình vào cung lòng Đức Giêsu trong bữa Tiệc ly (x.Ga 13,23) và hằng ở lại trong Lời của Ngài (x.Ga 8,31).
4.2. Tương quan giữa môn đệ và Giáo Hội
Đặc tính nổi bật thứ hai liên quan tới tương quan của Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến với Phêrô và Giáo Hội. Các bản văn trong Tin Mừng Thứ Tư trên đây không có ý nói đến sự cạnh tranh quyền hành giữa Phêrô và Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến. Thật vậy, tuy Phêrô là người đứng đầu nhóm các môn đệ, nhưng trong lãnh vực: “tình yêu”, “sự hiểu biết”, và “tương quan gần gủi thân mật với Đức Giêsu” thì Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến xem ra nổi bật hơn Phêrô [17]
4.3. Gia đình mới dưới chân Thánh Giá
Đặc tính nổi bật thứ ba là trước khi về cùng Cha, Đức Giêsu đã qui tụ một gia đình mới dưới chân Thánh Giá để đón nhận sự sống của Thiên Chúa. Từ đây, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến đã đón nhận Mẹ Maria về nhà mình. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng là Thân Mẫu Đức Giêsu đại diện cho số dân Israel trung tín, biết lắng nghe và đón nhận mạc khải của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, và đã hội nhập vào cộng đoàn Israel mới, tức là Giáo Hội [18]
4.4. Môn đệ và vai trò chứng nhân
Đặc tính nổi bật thứ tư nơi Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến là vai trò chứng nhân. Lời chứng của người môn đệ này trong Tin Mừng Thứ Tư là đúng sự thật và đáng tin cậy. Chính Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến đã xác định rằng: “Người ấy biết rằng mình nói sự thật để cho các anh em khác nữa cũng tin” (Ga 19,35).
Tóm lại, những trình bày trên đây cho thấy hình ảnh Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến trong Tin Mừng Thứ Tư mang ý nghĩa biểu tượng rất sâu xa. Nhân vật ‘Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến’ này được tác giả Tin Mừng Thứ Tư trình bày như một người môn đệ vô danh. Điều này muốn cho thấy rằng tất cả các môn đệ của Đức Giêsu trong mọi thời sẽ được gọi là Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến khi họ hội đủ những điều kiện đã nói trên là: hoàn toàn tin tưởng vào Lời Chúa hứa, sẵn sàng chia sẻ cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, sống chan hòa trong Giáo Hội, một Giáo Hội hướng về Cánh Chung và luôn biết liên kết chặt chẽ với Mẹ Maria trong sự hướng dẫn của Thánh Thần, chứ không chỉ dành riêng cho một mình thánh Gioan Tông Đồ.
Nói cách khác, tương quan thân tình giữa Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến trong Tin Mừng Thứ Tư với Đức Giêsu, trở thành khuôn mẫu cho tất cả các môn đệ trong mọi thời và mọi nơi. Nghĩa là qua nhân vật Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến, người tín hữu trong mọi thời đại nhận ra rằng Đức Giêsu cũng yêu thương họ như đã yêu thương Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến, bởi vì Đức Giêsu đã chết vì yêu thương những kẻ thuộc về Ngài và vẫn yêu thương họ đến cùng (x.Ga 13,1). Và như thế là cả chúng ta nữa, chúng ta cũng được mời gọi trở thành Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến.
[1] Tin Mừng theo thánh Gioan cũng được gọi là Tin Mừng Thứ Tư, bài này cả 2 cách gọi sẽ sử dụng xen kẽ nhau mà không có sự phân biệt ý nghĩa.
[2] M. Carrez – F. Morel, Dictionnaire Grec – Francais du Nouveau Testament, Delachaux et Niestlé 1979, tr. 42. Xem thêm: người tông đồ (x.MK, s. 4); đuợc Đức Kitô đặt lên để nối tiếp sứ mệnh của Người (x.GH, s. 17.18); và làm thành Nhóm 12 mà người đứng đầu là Phêrô (x.GH, s. 19. 22; HN, s. 2).
[4] Trong bài viết này, tước hiệu ‘tông đồ’ và ‘môn đệ’ cũng sẽ được sử dụng xen kẽ mà không có sự phân biệt nào.
[5]Việc đánh đậm một số từ trong những trích dẫn Kinh Thánh là của người trích dẫn.
[6] x. Nhóm Phiên Dịch CGKPV, Kinh Thánh Tân Ước, tr. 385-386.
[7]x. UBPVGK, Kinh Thánh Tân Ước, tr. 387.
[8] Trần Duy Khiêm, Ngài Đã Gọi Họ, Ngài Đã Gọi Tôi, tr. 72.
[9]x. Nhóm Phiên Dịch CGKPV, Kinh Thánh Tân Ước, tr. 385-386; 1000
[10] Tuy đã phải đối diện với cái chết tử đạo khi bị nấu trong nồi dầu sôi trong cuộc bách hại tôn giáo ở Rôma. Nhưng Gioan được cứu thoát khỏi cái chết cách lạ lùng. Sau đó, ngài bị kết án đi làm hầm mỏ tại trại tù ở đảo Patmos. Tại đây, Ngài đã viết cuốn sách Khải Huyền chứa đầy những lời tiên tri. Thánh Gioan được trả tự do, và trở về làm Giám mục ở Edessa, Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài chết vì già yếu. Ngài là tông đồ duy nhất đã chết một cách bình an. http://baoconggiao.com/vi/news/Song-Dao/NHUNG-CAI-CHET-CUA-CAC-TONG-DO-CHUA-GIESU-3302/. Ngày tra cứu trang mạng: 21-06-2016.
[11]x. Xavier Léon-Dufour, Lettura dell’Evangelo Secondo Giovanni, San Paolo 1990, tr. 1158-1160.
[12] Qua đó, chúng ta có thể hiểu rằng Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến không chỉ tin Đức Giêsu, tin những lời Ngài nói, tin Ngài là Đấng Chúa Cha sai đến; mà còn tin ở mức độ cao nhất, tức là tin rằng Đức Giêsu là “Chúa” và là “Thiên Chúa” như có lần thánh Tôma tuyên xưng trước Đấng Phục Sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
[14] Xavier Léon-Dufour, Lettura dell’Evangelo Secondo Giovanni, San Paolo 1990, tr. 1131-1132.
[16] x. Xavier Léon-Dufour, Lettura dell’Evangelo Secondo Giovanni, San Paolo 1990, tr. 1108-1110.
[17]Trong bữa Tiệc ly, Phêrô phải nhờ Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến làm trung gian để biết thông tin. Ngày đầu tuần khi ra thăm mồ Đức Giêsu, người môn đệ này đã thấy và ông đã tin. Bên bờ biển hồ Tibêria, cũng nhờ người môn đệ này mà Phêrô nhận ra Người đứng bên bờ biển hồ là Đức Giêsu Phục Sinh (Chúa đó!).
[18] Với gợi ý song song giữa thân mẫu Đức Giêsu và người đàn bà trong ‘Tin Mừng Tiên Khởi’ (x.St 3,15), sư kiện Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến đón nhận thân mẫu về nhà mình, trở thành lời mời gọi dân Israel và toàn thể nhân loại gia nhập cộng đoàn Đức Giêsu tức là Giáo Hội, để được Cứu độ.
TÌM HIỂU
THÔNG ĐIỆP DIVES IN MISERICORDIA
FM.Dominico Phạm Văn Hiền_ Đan viện Phước Sơn
Năm Thánh kính Lòng Thương Xót do Đức Thánh Cha Phanxicô khai mở qua tông sắc Misericordiae Vultus (vẻ mặt thương xót) Tông sắc này trích dẫn rất nhiều lời của Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, viết trong thông điệp Dives in Misericordia- Đấng Giàu Lòng Thương Xót. Vì thế, thiết nghĩ rất cần thiết và hữu ích, nếu chúng ta cùng đọc lại và tìm hiểu nội dung thông điệp của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phalô II.
Thông điệp Dives in misericordia (DM), được ký ngày 30.11.1980 và đây là thông điệp thứ hai trong triều đại giáo hoàng của ngài. Lý do ban hành thông điệp này được chính Thánh nhân minh định như sau:
“Theo giáo huấn Công đồng Vatican II, và xét tới những nhu cầu đặc biệt của thời đại chúng ta đang sống, tôi đã dành thông điệp Redemptor Hominis (Đấng Cứu chộc nhân loại) để trình bày chân lý về con người mà trong Đức Kitô chân lý đó đã được mạc khải cho chúng ta cách đầy đủ và sâu xa. Cũng với đòi hỏi quan trọng như thế, trong thời buổi nguy kịch và khó khăn này, lại thúc đẩy tôi một lần nữa khám phá trong chính Đức Kitô dung nhan Chúa Cha là ‘Đấng giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an”. Hai thông điệp – ‘Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại và Cha Giàu Lòng Thương Xót’ – liên hệ mật thiết và bổ sung cho nhau.
Trong nội san ‘Hạt Giống Chiêm Niệm’, chúng tôi đã có dịp giới thiệu và tìm hiểu thông điệp thứ nhất, hôm nay xin tập chú vào thông điệp thứ hai.
Xin mạn phép chia thông điệp ‘Dives in misericordiae’ (Đấng giàu lòng thương xót, Ep 2,4) thành năm mục chính:
– Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót Chúa Cha (DM 1-3)
– Tình thương xót ấy được mô tả trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước (DM 4-6)
– Đỉnh cao Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là Thập Giá và Mầu nhiệm Phục sinh (DM 7-9)
– Thái độ nhân loại đối với Lòng Thương Xót Thiên Chúa qua các thời đại (DM10-12)
– Giáo Hội có sứ mệnh loan báo, thực thi và cầu xin Lòng Thương Xót Thiên Chúa cho nhân loại (DM 13-15).
I. Đức Kitô là hiện thân lòng thương xót của Chúa Cha (1-3).
‘Thiên Chúa là Tình yêu’ ( 1Ga 4,8.16). Đây hẳn là mặc khải cao nhất của Tân ước. Nhưng Thiên Chúa vô hình, làm sao con người cảm nhận được tình yêu của Ngài? Phải chăng chỉ qua công trình sáng tạo vạn vật, theo nguyên tắc, xem quả biết cây, mà con người khám phá được tình thương của Đấng Tạo Thành? Trong thư Rôma , thánh Phaolô cho đó mới chỉ là những bước dò dẫm trong đêm tối. Hẳn thật tình yêu Thiên Chúa là một nguồn suối trào tràn, qua con đường mạc khải, Ngài “đã đến nói chuyện với loài người như với bạn thân” (Vatican II, DV 2). Đúng thế, Ngôi Lời Nhập Thể là quà tặng của một tình yêu “quá mức” của Thiên Chúa (Ga 3,16). Do đó, trong Tông thư khai mở năm thánh, Đức Phanxicô gọi Đức Giêsu là Vẻ Mặt của lòng thương xót Chúa Cha. Vậy cũng như qua vẻ mặt, người ta đoán biết tâm tình sâu kín của một con người, thì qua Đức Kitô, tình yêu Thiên Chúa vô hình trở thành hữu hình để chúng ta có thể cảm nhận, bởi lẽ “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9).
Theo giáo sư C. Spicq, trong Tin Mừng thánh Gioan, ba từ: “Thấy- biết- yêu” hầu như đồng nghĩa . Vì thế muốn thấy và biết Thiên Chúa, giả định nơi con người đã có tình yêu Thiên Chúa, vì: “Ai không yêu mến thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,16). Và điều kiện “ở lại trong tình yêu Đức Kitô” không thể nào thiếu được (Ga 15,5). Như thế mạc khải là một ân huệ của Ba Ngôi Thiên Chúa theo lời khẳng định của Thầy Chí Thánh Giêsu: “Không ai biết Chúa Con, trừ Chúa Cha, và không ai biết Chúa Cha, trừ Chúa Con, và kẻ mà Chúa Con mạc khải cho” (Lc 10,22). Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II có lý do xác quyết: “Tình thương xót nơi Đức Kitô mang tính chung cuộc và viên mãn! Tình thương trở thành đề tài chính của Lời giảng, được cụ thể hóa trong cảnh sống con người hiện sinh (Lc 4,18). Tuyệt vời thay từ Đức Kitô Giêsu tỏa ra một sức cuốn hút cực kỳ mãnh liệt!” Để đọc giả hiểu sâu sát đạo lý về lòng thương xót, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta khảo sát Cựu và Tân Ước trong phần hai của thông điệp Dives in Misericordia.
II. Lòng thương xót của Thiên Chúa trong Kinh Thánh Cựu và Tân ước.
1. Trong Cựu ước.
Mạc khải về lòng thương xót khởi đi từ cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và Môsê trong sa mạc (Xh 3): “Ta chạnh lòng thương dân Ta“. Qua câu này, Đức Gioan Phalo II lưu ý: Đối tượng Lòng thương của Thiên Chúa trước hết là dân Israel, chứ không phải một cá nhân riêng rẽ nào. Israel là dân giao ước (hôn ước) nên mỗi khi phạm tội, họ phản bội tình bạn của Giavê. Đó là điều David đã thú nhận: “Con đắc tội với Chúa, với duy một mình Chúa” và để xóa tội “David xin Chúa mở lượng hãi hà của lòng thương xót” (Tv 51,2.6). Vì được Giavê ưu ái, dân Chúa luôn là đối tượng tấn công của Satan như trường hợp ông Gióp, hay của dân ngoại như thời hoàng hậu Esther. Lòng thương xót của Giavê đã mau mắn tiếp cứu họ. Những dấu chứng tình thương được trải dài trong lịch sử dân tộc Israel, nên Vịnh gia có lý khi nhắc lại như một điệp ca câu: “Tình thương Chúa muôn đời trường cửu” (Tv 135)
2. Lòng thương xót trong Tin Mừng
“ Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9); “Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1, 15)
“Vì loài người chúng ta và để cuỗi chúng ta…Ngài đã từ trời xuống thế” (Credo).
Mầu nhiệm nhập thể là dấu chứng đầu tiên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với nhân loại (Pl 2,6-9). Dấu chứng ấy ngày càng thêm rõ nét qua chính cuộc sống tại thế của Đức Kitô. Tính cụ thể của chứng từ này được mô tả trong lời giảng đầu tiên (theo Luca 4,18): “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”.
Đức Kitô cũng đã sử dụng nhiều dụ ngôn để mô tả lòng thương xót của Thiên Chúa…Trong thông điệp Dives in Misericordia, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đặc biệt dừng lại nơi dụ ngôn ‘Con trai hoang dàng”. Tại sao ?
Theo thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II, dụ ngôn này nêu rõ hai điểm: lòng trung thành của Thiên Chúa và phẩm giá con người.
Đúng như thánh Phaolô dạy: “Nếu ta không trung tín, Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể chối bỏ chính mình” (2Tm 2,13)
Tình yêu tự bản chất đòi hỏi sự trung tín. Thế mà Thiên Chúa là tình yêu, do đó Ngài không thể không trung tín trong các hành xử với con người, kể cả với tội nhận. Đây, chúng tôi xin trích dẫn một vài khẳng định tuyệt vời của Thông điệp: “Sự trung thành của người cha đối với chính mình là một khía cạnh đã từng được Cựu Ước gọi bằng từ Hesed, đồng thời được diển tả như là một cách đặc biệt chứa chan tình thương…Người cha biết rằng mặc dù người con đã phá tán tài sản, nhưng nơi nó còn có một giá trị căn bản đã được cứu vãn, đó là nhân tính của nó. Ông tuyên bố với con trai trưởng: ‘Em con đã chết mà nay lại sống, đã mất nay lại tìm thấy’. Như thế sự trung thành của người cha với chính mình được tập trung hoàn toàn vào nhân tính của người con hư hỏng, vào phẩm giá của nó…Người cha đã vui mừng vì thấy rằng một thứ tài sản còn nguyên vẹn: đó là một người con, dầu hoang đàng, vẫn không ngừng thực sự là con của cha mình, khi nó biết quay về với sự thật của chính mình” (s.6)
Nói tóm, ngụ ngôn “người con hoang đàng” mô tả cuộc trở về cách đơn sơ nhưng sâu sắc. Trở về hay hoán cải không chỉ là một tác động luân lý, mà còn là một sự khôi phục thiên chức làm con của Cha trên trời. Hiểu như thế, thương xót là nội dung căn bản sứ điệp Cứu Thế của Đức Kitô và là quyền năng xây dựng một đời sống mới.
III. Mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh là Đỉnh cao lòng thương xót của Thiên Chúa.
Vì “chạnh lòng thương nhân loại”, Thiên Chúa đã sai Con Một đến làm Chiên Vượt Qua , chịu sát tế vì chúng ta (1 Cr 5,7). Nhưng nói đến Vượt qua là giả định ba thì: khổ nạn, chết đi và sống lại. Trên đường đi Emmaus, Đấng Phục sinh đã nhắc lại Kinh Thánh để củng cố niềm tin của hai môn đệ đang ưu sầu chao đảo. Ngài nói với hai ông: “Nào Đức Kitô không phải kinh qua đau khổ rồi mới đạt tới vinh quang sao?” (Lc 24,25-26). Như thế, theo các giáo phu, ngài đã qua thập giá để đạt tới ánh sáng, per crucem ad lucem. Cũng như thánh tông đồ Phaolô, Đức Gioan Phaolô đã nêu một cách sâu sắc hết mọi khía cạnh của mầu nhiệm Thập Giá, chẳng hạn:
– Thập giá xuất hiện từ chính trung tâm tình thương, mà từ đời đời Thiên Chúa đã dành cho con người.
– Thập giá là tiếng nói cuối cùng của sứ điệp và sứ mệnh Cứu Thế.
– Thập giá là phương thế siêu vời để thần tính đoái nhìn đến con người và những nỗi bất hạnh của nó.
– Thập giá là nơi Đức Kitô cho chúng ta hiểu rằng cội rễ sâu xa nhất của sự dữ nằm ngay trong tội lỗi và sự chết.
– Thập giá cũng mang tính cánh chung, vì Thập giá sẽ nở hoa Phục Sinh, đồng thời mang lại cho con người trái chín của Triều Đại sự sống, sự thánh thiện và vinh quang bất tử.
Như thế, mầu nhiệm Phục Sinh đưa tới tuyệt đỉnh Mạc Khải tình thương Thiên Chúa, và hiện thân của Tình Thương khôn dò ấy không gì khác ngoài Đức Kitô: ‘Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha’ (Ga 14,9 )
Tiếp theo, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II gắn kết vai trò của Đức Mẹ với Đấng Phục Sinh, vì theo ngài: “Đức Mẹ Maria đã có một kinh nghiệm đặc biệt và phi thường hơn ai hết về lòng thương xót…Hẳn thật trong bài hát Vọng Phục sinh, Giáo Hội đã cho vang lên nội dung mang tính tiên tri câu nói của Mẹ: Từ đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”. Đúng thế, ngay từ giây phút Nhập Thể, những lời này đã mở ra một viễn tượng mới cho lịch sử cứu độ. Đặc biệt sau biến cố Phục Sinh của Đức Kitô, viễn tượng này đã đi vào lịch sử và mang ý nghĩa cánh chung.
Để đóng kết cho triệt này, thiết nghĩ nên nhắc lại nơi đây lời tuyên ngôn của công đồng Vatican II: “Kể từ sự ưng thuận mà Người đã đem lại bằng lòng tin của mình vào ngày được ngôn sứ truyền tin và Mẹ đã giữ y nguyên sự ưng thuận đó ngay cả dưới chân thập giá. Đức Maria không ngừng làm Mẹ trong sưốt nhiệm cục ân sủng, nghĩa là cho tới khi tất cả những người được tuyển chọn đạt tới vinh quang muôn đời. Quả thế, sau khi lên trời, vai trò của Đức Mẹ trong công trình cứu chuộc vẫn không gián đoạn, vì người hằng tiếp tục chuyển cầu cho chúng ta”.
IV. Nhân loại có thái độ nào đối với lòng thương xót của Thiên Chúa.
Không ai phủ nhận tầm quan trọng vượt mức của các tiến bộ khoa học hiện đại. Nó mở ra cho cuộc sống tương lai của chúng ta một cái nhìn đáng hãnh diện. Niềm hãnh diện ấy, nếu kèm theo lời tạ ơn, dâng lên Thiên Chúa, sẽ trở thành nguồn mạch khôn ngoan hữu ích nhân loại biết bao! Nhưng trái lại nếu chúng ta coi các tiến bộ ấy như kết quả thuần đơn của con người để rồi loại bỏ Thiên Chúa, thì thật thiển cận và ngây thơ!
Đàng khác, theo thông điệp Dives in Misericordia, người thời đại hôm nay thường căn cứ vào tiêu chuẩn cân đo đong đếm, để đề cao công bằng, theo nghĩa sòng phẳng, và coi nhẹ hay khinh thường lòng thương xót, thì đó quả là một chủ trương phi nhân đạo, vì con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu mà!
Trong số 15 (DM), thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đặt câu hỏi: phải chăng chỉ công bằng là đủ ? Thật ra, – xin mở một dấu ngoặc – theo khoa đạo đức học, có tới ba thứ công bằng: công bằng giao hoán (tiền trao, cháo múc), công bằng phân phối (phân phát theo đúng phần lượng của mỗi người) và công bằng xã hội (lao động theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu). Trong hai loại công bằng trước, luật sòng phẳng được áp dụng triệt để, còn trong loại công bằng thứ ba, bác ái giữ vai trò quan trọng ,và đây là nét đặc trưng của công bằng Kitô giáo (x. Cv 4,35). Về loại công bằng mang tính sòng phẳng, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II có nhận định như sau: “Kinh nghiệm chứng tỏ rằng nhiều khi những sức mạnh tiêu cực, như oán hận, thù ghét, thậm chí cả sự độc ác đã lấn lướt ý niệm công bằng, đến nỗi dồn đối phương vào đường cùng, thậm chí giới hạn tự do của họ”. Thánh giáo hoàng nói tiếp: “Cái loại lạm dụng ý niệm công bằng như thế…cho thấy hành động của con người có thể tách xa sự công bằng biết bao, ngay cả khi nó được khởi xướng nhân danh công bằng”. Đức Kitô hẳn thật đã bài xích quan niệm công bằng ‘răng đền răng’ của nhóm Biệt Phái đương thời (trong bài giảng trên Núi, Mt chương 5 – 7).
Qua thông điệp Dives in Misericordia, Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II mời gọi Giáo Hội thực thi sứ mệnh loan báo tình thương xót của Thiên Chúa.
V. Sứ mệnh của Giáo Hội đối với lòng thương xót của Thiên Chúa
Sứ mệnh này tóm gọn trong ba chữ: loan báo, thực thi và cầu xin.
1. Loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa.
“Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Hay nói rõ hơn: Ai cảm nhận được lòng thương xót của Thầy, là cảm nhận được lòng Cha từ bi nhân hậu. Nhưng Thiên Chúa thì vô hình, Đức Giêsu lại đã về trời, Ngài chỉ hiện diện trong Lời Ngài và qua các bí tích, đặc biệt qua bí tích Yêu Thương. Do đó, nhiệm vụ hàng đầu của Hội Thánh là loan truyền Tin Mừng tình thương và ban phát ân sủng qua các bí tích, đặc biệt Bí tích Thánh Thể và Giao Hòa. Hơn bao giờ hết nhân loại tội lỗi và đầy khổ đau cần ơn tha thứ và được bồi dưỡng bằng Bánh sự sống.
Chúng ta cũng cần nêu cao vai trò của đời sống Phụng vụ trong việc loan báo Tình Thương Xót của Thiên Chúa. Phụng vụ hẳn thật hiện tại hóa các mầu nhiệm của Chúa. Đức Thánh Cha Pio XII quả quyết: Annus liturgicus est Christus Ipse, năm phụng vu chính là Đức Kitô. Truyền thống Giáo Hội trải hai nghìn năm, luôn xác tín điều này, nên đã cẩn thận giới thiệu các biến cố cuộc đời Chúa Kitô xuyên suốt năm phụng vụ. Ngoài ra, nhạc Bình Ca hay các kiếng màu trong các đại thánh đường, như nhà thờ chính tòa Chartres cũng góp phần vào việc làm cho mọi người ‘THẤY’ tình thương của Chúa Cha qua Đức Kitô.
2. Giáo Hội thực thi lòng thương xót.
Giáo Hội là một tập thể đang khao khát hạnh phúc chân thật, nên Giáo Hội nổ lực thực thi Mối Phúc của Chúa: “Phúc cho ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được xót thương. Lòng thương xót phải luôn kèm theo hành động, nó biến đổi cả người cho lẫn người nhận: người cho được thoát ra khỏi cái tôi ích kỷ, người nhận được thăng tiến trong niềm vui! Hành động thương xót không chỉ diển ra trong một lần nào đó, nhưng phải xuyên suốt nơi ơn gọi ki tô hữu. Nó hệ tại ở việc không ngừng khám phá và kiên trì thực thi tình thương; vừa có sức hợp nhất, vừa có sức nâng cao, bất chấp mọi khó khăn tâm lý và xã hội” (Dm 14). Đức Gioan Phaolô II còn nhấn mạnh: Người ta thường coi lòng thương xót như tiến trình một chiều trong đó vẫn duy trì khoảng cách giữa người thương xót và kẻ được thương xót, giữa kẻ thi ân và người thụ ân, nên cho đó là lý do tạo nên sự bất bình đẳng. Vậy cần loại nó khỏi tương quan của một xã hội công bằng. Để trả lời cho thắc mắc này, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nhắc lại giáo huấn của Công Đồng Vatican II: “Cần thiết phải làm cho thế giới mang tính người hơn, nếu chúng ta đưa vào trong quan hệ đa dạng, giữa người với nhau, không chỉ sự công bằng mà còn tình thương xót, vì đó là nội dung công trình Cứu thế của Chúa Giêsu. Dĩ nhiên lòng thương xót này không khoan nhượng với sự dữ, với gương xấu, với những xúc phạm thanh danh. Trái lại trước khi nhận lãnh sự tha thứ, tội nhân phải đền bù thiệt hại và phục hồi thanh danh cho ai bị cướp mất” (Dm 14).
3. Giáo Hội có sứ mạng khẩn cầu lòng thương xót Thiên Chúa cho nhân loại.
“Hơn lúc nào hết và không giai đoạn lịch sử nào, nhất là thời kỳ quyết liệt hôm nay, Giáo Hội không thể quên cầu nguyện bằng những lời van xin thống thiết, dâng lên Đấng giàu lòng thương xót, khi phải đối diện với sự dữ, dưới muôn vàn hình thức, đang đe dọa và đè nặng trên nhân loại. Hẳn thật, trong Đức Kitô, Giáo Hội được thông phần quyền năng và nghĩa vụ dâng lên Thiên Chúa lời cầu xin cho nhân loại…đồng thời tuyên xưng và công bố cho mọi người hay: ‘Lòng thương xót đã được tỏ bày một cách khẩn thiết nơi Đức Giêsu chịu đóng đinh. Chính mầu nhiệm chịu đóng đinh tự nó đã mạc khải đầy đủ lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình thương mạnh hơn tội lỗi và sự dữ, khả dĩ nâng dậy những ai sa ngã và giải thoát họ khỏi bất cứ đe dọa lớn lao nào” (Dm 15).
Với những lời này, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô tin tưởng đặt vào tay Hội Thánh và mỗi Kitô hữu lời cầu nguyện như một phương thế hữu hiệu nhất để hoán cải và canh tân thế giới. Vì ‘khi chúng ta dâng lên Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, những nài van với tất cả niềm tin- cậy- mến, mà Thánh Linh đã đổ tràn vào lòng chúng ta. Chúng ta được mời gọi noi gương Đức Maria, Mẹ của lòng thương xót, ký thác thế giới cho lòng lân tuất của Đức Kitô, Con của Mẹ. Ngài là Lời Vĩnh Cửu luôn hướng về Cha (Ga 1,1). Ngài đã đi vào lịch sử để giúp nhân loại hướng về chính Nguồn Suối trào tuôn Tình Thương Sung Mãn Thường Hằng, Đức Kitô Giêsu!
“SAY MÊ THIÊN CHÚA”
FM.Duyên Thập Tự_ Đan viện Phước Sơn
Cứ mỗi lần trong cộng đoàn có những anh em tuyên khấn lần đầu hay vĩnh khấn, một câu hỏi thường đến trong suy nghĩ của tôi là tại sao những thanh niên này – những bạn trẻ này – lại dấn thân trong một nếp sống xem ra chẳng có gì là hấp dẫn và lôi cuốn. Phải chăng trong lòng họ có một điều gì hay đúng hơn Một Ai Đó đang hoạt động để họ có thể dám dấn thân như vậy?
Cũng phải thú nhận rằng việc khám phá ra Ai Đó hay điều gì đó đang tác động trong tâm hồn của con người là khó khăn, vì chỉ những ai trong cuộc mới hiểu được sức mạnh nào đang tạo nên ảnh hưởng để họ có thể dám quyết định dấn thân. Nhưng cũng phải công nhận rằng chắc chắn nơi các bạn trẻ đó có một nỗi đam mê khiến cho họ đã, đang và sẽ còn tiến bước trên con đường họ đã quyết định.
Trong bầu khí năm thứ nhất trong ba năm chuẩn bị Bách Chu Niên ngày Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận lập dòng trên Núi Phước (Phước Sơn) 15/8/1918 – 15/8/2018, với chủ đề “SAY MÊ THIÊN CHÚA”, tôi gửi đến anh chị em trong Hội dòng bài gợi ý của tôi cho các thành viên trong ban huấn luyện của các cộng đoàn tham dự cuộc tĩnh huấn vào đầu năm 2016 tại đan viện Phước Sơn. Mong ước cuộc đời của mỗi người chúng ta luôn được bừng ngọn lửa tình yêu và ngọn lửa đó ngày càng mãnh liệt.
1. HAI GHI NHẬN
Khi nói đến “say mê”, chúng ta nghĩ ngay đến một sức mạnh nội tâm thúc đẩy và một sự kiên trì đạt cho được kết quả sau bao nhiêu đầu tư công sức. Nói đến sức mạnh là đề cập đến “cường độ”. Không thể nào gọi là đam mê hay say mê, nếu không có một mức độ mãnh liệt nào đó. Nguyên từ ngữ “say mê” đã cho chúng ta hình dung một con người vừa say và vừa mê. Hình ảnh “ngọn lửa” cũng gợi cho chúng ta hình ảnh của cường độ say mê; chính vì thế mà những hạn từ như “nhiệt tâm”, “nhiệt huyết”, “nhiệt thành” được sử dụng trong mối liên hệ với những thứ bao gồm “nhiệt lượng”. Người say mê như thể có ngọn lửa thiêu đốt và thổi bùng trong nội tâm mình.
Nhưng, cường độ mà thôi thì chưa đủ để có thể diễn tả niềm say mê, vì có những thứ “lửa rơm” bạo phát bạo tàn. Để có thể là người say mê, cần hội tụ thêm yếu tố “trường độ”, nghĩa là độ dài trong cuộc sống, trong công cuộc. Chính độ dài này làm nên khác biệt giữa những người hời hợt, nhất thời và những người đi đến cùng của lựa chọn và đạt được điều mình dấn thân vào.
Hai yếu tố “cường độ” và “trường độ” có được chúng ta nhận ra nơi con người Cha Tổ Phụ Biển Đức không? Hành trình 53 năm (1880-1933) không phải là dài của một cuộc đời và cũng không phải là thọ -vì ngài hưởng dương, chứ không phải hưởng thọ- nhưng cường độ và trường độ được nhận ra nơi ngài, chính là mối tình thiết tha của ngài với Chúa, mối tình keo sơn gắn bó mà không có gì tách lìa được.
2. XÁC TÍN CĂN BẢN
Chúng ta khẳng định Cha Tổ Phụ là con người “say mê Thiên Chúa” và chúng ta thường nhìn vào ngài như thể chính ngài là con người đi bước trước trong hành trình của mối tình song phương này. Sự thật không phải vậy.
Theo tâm lý bình thường, người ta chỉ say mê một điều gì khi đã cảm nghiệm, trải nghiệm hay chứng nghiệm ít ra một phần nào đó. Nghĩa là người ta cảm thấy thu hút bởi một đối tượng. Như vậy, say mê là lời đáp của một lực cuốn hút.
Đâu là lực hút của niềm say mê nơi Cha Tổ Phụ?
Những môn sinh đã từng sống với ngài, và qua các giáo huấn thiêng liêng được ghi lại trong cuốn DI NGÔN, đều minh chứng một điều, đó là Cha Tổ Phụ luôn nói về Tình Yêu của Chúa một cách say mê. Những kiểu nói: “Chúa yêu thương chúng ta quá lẽ”, “Chúa yêu thương chúng tôi không biết là dường nào”, “Chúa thương cha quá lẽ”… diễn tả thật dễ hiểu nhưng sâu sắc mối tình Thiên Chúa dành cho chúng ta. Như vậy, chúng ta chỉ say mê Thiên Chúa khi chúng ta cảm nghiệm được rằng Chúa yêu chúng ta bằng một mối tình say đắm. Chúng ta có dám tin như thế không? Cha Tổ Phụ đã dám tin và dám sống cảm nghiệm được Chúa yêu tha thiết, và cha đã trở thành một con người say mê Thiên Chúa.
Có thể chúng ta chưa là con người của cảm nghiệm, những cảm nghiệm sâu xa về tình yêu thương của Chúa trên và trong đời mình, nên tình yêu Chúa chưa đủ cường độ để lôi cuốn chúng ta. Thật lòng, chúng ta đang bị những thứ gì lôi cuốn? Cha Tổ Phụ nhiều lần đã nói: “mọi sự đều vô ích chóng qua, trừ ra sự kính mến Chúa”. Với tư cách là những người đang dấn bước trong đời đan tu, chúng ta có thực sự khao khát để Chúa là Đấng duy nhất lôi cuốn chúng ta một cách mãnh liệt nhất?
Xin nhắc lại lời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI – và được nhắc lại rất nhiều và trong nhiều hoàn cảnh khác nhau – “ngày nay, người ta lắng nghe chứng nhân hơn là thầy dạy. Và nếu người ta tin vào thầy dạy, là vì thầy dạy đó cũng đồng thời là chứng nhân”. Chứng nhân, nói một cách đơn giản, là con người đã “thấy, đã nghe, đã đụng chạm tới” – như thánh Gioan viết trong thư của ngài – nghĩa là con người đã chứng nghiệm và có thể thông truyền cho người khác (x.1Ga 1,1tt).
Như vậy, xác tín căn bản – xác tín chứ không phải một tuyên bố suông – là Thiên Chúa yêu thương tôi bằng một tình yêu say mê, là một điều hết sức quan trọng. Điều đó làm nên nền tảng cho sự đáp trả say mê của mối tình chúng ta với Thiên Chúa. Các Linh Phụ, Linh Mẫu Xitô đã dùng hình ảnh Đấng Tình Quân và Hiền Thê để diễn tả mối tình say đắm đó. Hiền thê, một khi đã cảm nghiệm thấy tình yêu của Đấng Tình Quân, một khi đã hưởng nếm vị ngọt ngào của tình yêu đó, đã đáp lại bằng tất cả mối tình của mình. Và khi Đấng Tình Quân ra đi, vắng mặt, Hiền Thê chỉ còn một khát khao nóng bỏng là mong gặp lại Đấng lòng mình tha thiết yêu mến. Một loại “bệnh tương tư”! Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, không diễn tả tình yêu say mê của Thiên Chúa và con người dưới ngôn ngữ của tình yêu phu thê – vì ngài biết nói với ai trong nền văn hóa nào – nhưng không vì vậy mà ngài thiếu chất “lửa” và “say” trong đời sống và ngôn từ của ngài. Những kiểu nói: “Chúa ở cùng”, “Người ngự trong chúng tôi”, “phước của chúng tôi cao trọng lắm là được chính mình Chúa”, “Người nên như cha, như bạn thiết tình thân”… Những điều đó lột tả phần nào nội tâm của Cha Tổ Phụ trước mối tình say mê của Thiên Chúa.
Nhớ về ngài, chúng ta cũng nghĩ về mình. Chúng ta đã nói trên khi đặt câu hỏi là chúng ta được lôi cuốn bởi ai và điều gì. Chúng ta cũng nói đến cảm nghiệm tình yêu say mê của Thiên Chúa đối với mình. Và chúng ta cũng tự thẩm định xem “chất lửa” của tình yêu Chúa nung nấu và sôi bỏng tâm can chúng ta hướng về Chúa không?
3. MỘT VÀI DIỄN TẢ
Khi nói đến diễn tả, là nói đến cái bên trong thôi thúc diễn đạt ra bên ngoài. Nhưng đâu là những tâm tình bên trong mang dấu ấn của một con người say mê?
Thật ra, khi nói đến ai đó “say mê Thiên Chúa”, chúng ta khó mà thẩm định, vì phán đoán và nhận xét của chúng ta cũng dễ sai lầm, và con người cũng rất có khả năng đóng kịch để che mắt tha nhân. Chúng ta chỉ có thể nhận ra một vài dấu chỉ bên ngoài có thể diễn tả một phần nào nội tâm. Cha Tổ Phụ, qua các giáo huấn của ngài, lột tả chính nội tâm của ngài, diễn đạt không theo một hệ thống, nhưng chúng ta có thể nêu lên một vài yếu tố.
a. “Được yêu mến Chúa là một hồng ân” : “Vì lòng Người yêu thương chúng ta, nên buộc chúng ta phải yêu mến Người, để chúng ta được nhờ mà thôi. Vì khi chúng ta được xem thấy Đức Chúa Trời, thì được sung sướng toại chí phỉ lòng phỉ dạ, không còn thiếu chi nữa” (DN 112, Về đức mến, tr.134).
Xác tín trên rất quan trọng vì cho chúng ta thấy rằng việc yêu mến Chúa là một hồng ân nhưng không. “Được yêu mến Chúa là một hồng ân”. Từ xác tín đó, chúng ta sẽ biết khiêm tốn đón nhận và chân thành cảm tạ Thiên Chúa. Đây là một hồng ân mà không phải bất cứ ai cũng hiểu và nhận được. Chính vì thế, niềm vui biết ơn – vì biết mình được cái phước yêu mến Chúa – là một diễn tả đẹp và chân thực về tình yêu say mê đối với Thiên Chúa. Cha Tổ Phụ, một con người nghiêm túc và nghiêm trang, nhưng theo chứng từ của các môn sinh từng chung sống với ngài, ngài là một con người của niềm vui. Trong các lời giáo huấn, ngài luôn nói đến niềm vui với những khía cạnh khác nhau. Phải chăng khi yêu nhau một cách say mê, người ta cảm nghiệm thấy một niềm vui dạt dào được thuộc về nhau. Đối với chúng ta, đâu là niềm vui lớn nhất của chúng ta? Phải chăng là Thiên Chúa hay điều gì khác? Chúa có là niềm vui trọn vẹn cho tâm hồn chúng ta không?
b. “Lòng khao khát” là một diễn của tình yêu say mê. Tất cả chúng ta đang trên hành trình để thuộc về Chúa. Chúng ta chưa đạt tới đích là chiêm ngưỡng Chúa như các thánh. Chính vì thế, lòng khao khát luôn thúc đẩy chúng ta sống trọn vẹn trong hiện tại và vươn tới tương lai để yêu Chúa tha thiết hơn nữa cho đến ngày hoàn toàn được Chúa chiếm trọn và kết hợp mật thiết với Chúa. Trong cuộc sống hiện tại, sự kết hiệp với Chúa vẫn được hiện thực với cường độ của tình yêu, nghĩa là thiết tha yêu mến Chúa. Cha Tổ Phụ, trong cuộc sống và qua các giáo huấn, luôn nhấn mạnh đến sự kết hiệp một lòng một trí với Chúa. Ngài giải thích đó là sống thân tình với Chúa, một cách hết sức cụ thể và gần gũi như sống tình cha con, anh em nghĩa thiết với nhau. Để có thể đạt tới điều đó, ngài nhất mạnh đến lòng khao khát Chúa và thuộc về Chúa, đến nỗi khao khát thiên đàng, nghĩa là được thật sự gặp Chúa một cách trọn vẹn.
Trong tình yêu nhân loại, lòng khao khát là một diễn tả của tình yêu thật sự. Khi không còn yêu nhau, người ta sẽ hờ hững, sẽ lạnh nhạt và chắc chắn sẽ không còn những khát khao, chưa nói là những khát khao mạnh mẽ. Và chúng ta? Chúng ta hãy tự chất vấn mình xem mình có thật sự khát khao Chúa không? Thánh Augustino đã nhận định rằng lòng khát khao đã là tình yêu rồi. Chúng ta đang khát khao gì nhất đây? Và chúng ta đã, đang đầu tư sức lực, trí khôn và tâm hồn cho điều gì đây? Kho tàng ở đâu thì lòng ở đó, và kho tàng ở đâu thì lòng khao khát cũng ở đó.
c. “Làm vui lòng Chúa” là một diễn tả sống động và chân thực của tình yêu say mê. Làm sao có thể yêu say mê, nếu không muốn và thực sự làm vui lòng nhau. Có thể nói, người yêu trở thành duy nhất đối với mình, và mọi hành vi, ngôn hành đều sẽ chỉ có mục đích là làm cho người yêu vui. Niềm vui của người yêu là niềm vui của chính mình. Điều đó đòi hỏi hay đúng hơn lột tả một sự “vượt qua bản thân”, nghĩa là quên mình đi mà chỉ hướng về người yêu. Người yêu là tất cả. Hãy chiêm ngắm Đức Giêsu, Đấng luôn làm vui thỏa lòng Chúa Cha và chu toàn mọi việc để Chúa Cha được vinh danh.
Chúng ta có thể nói cuộc đời của Cha Tổ Phụ in đậm dấu ấn của khát khao làm vui lòng Chúa. Và cuộc sống của ngài thật sự đã diễn tả điều này. Ngài không tìm kiếm bản thân ngài như thể bản thân là trung tâm hay mục tiêu, nhưng là Chúa. Trong các giáo huấn, khi đề cập đến các khía cạnh của đời sống thiêng liêng hay huynh đệ hoặc bất cứ vấn đề nào được nêu lên, ngài luôn khuyên – và đương nhiên là ngài đã sống – phải lợi dụng mọi hoàn cảnh đó để thêm lòng yêu mến Chúa, thêm lòng sốt sắng (nghĩa là thêm cường độ của tình yêu). Những kiểu nói “chịu khó hằng ngày vì mến Chúa”, “vui lòng chịu đau khổ hiệp với sự thương khó của Chúa”, “tìm Chúa, kết hợp với Chúa, nói khó với Chúa”… diễn tả điều duy nhất là muốn làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự.
Chúng ta cũng cần trở về với lòng mình để tự xét xem chúng ta có thật sự ước muốn làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự không? Thánh Gregorio đã viết về thánh Biển Đức “Ngài chỉ muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa”. Nhưng làm đẹp lòng Chúa không phải là tình cảm chóng qua hay chỉ là những cảm xúc nhất thời, đây là một định hướng, và chính định hướng này mới giúp chúng ta sống cái thường nhật và cả cuộc đời có ý nghĩa. Nhưng ước muốn làm đẹp lòng Chúa cũng hết sức thực tế, đó là những công việc chúng ta thực hiện, những ngôn từ chúng ta sử dụng, với ý hướng nào? Nguy cơ đi tìm bản thân một cách ích kỷ và kiêu ngạo vẫn luôn rình rập chúng ta.
4. NHỮNG HOA TRÁI
Nói đến hoa trái là nói đến sự phong nhiêu. Một tình yêu chân thật và say mê luôn là một tình yêu chứa đựng những hoa trái trong chính mình. Cũng như trong đời sống hôn nhân, một tình yêu nồng thắm dành cho nhau sẽ trổ sinh nhiều hoa trái cho hạnh phúc gia đình, cho con cái và chuyển động đến các thế hệ. Tình yêu say mê của Thiên Chúa hay đối với Thiên Chúa cũng đương nhiên là mang lại nhiều hoa trái. Có rất nhiều hoa trái của một tình yêu say mê không thể nào liệt kê hết được. Xin được nêu lên một vài hoa trái mà Cha Tổ Phụ đã chỉ cho và muốn chúng ta trổ sinh trong đời sống đan tu Xitô Thánh Gia này.
a. “Kẻ gặp được Chúa thì yêu anh em lắm lắm!”
Cha Tổ Phụ luôn nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa tình yêu Thiên Chúa và tình huynh đệ. Điều này không có gì mới vì đó cũng là chính giới luật yêu thương của Chúa. Thánh Gioan đã nhấn mạnh đến mối tương quan kép này của tình yêu. Ở đây, chúng ta không phân tích tình yêu anh em, tình huynh đệ là gì và thực hiện như thế nào. Chúng ta chỉ nêu lên sự kiện là tình yêu say mê đối với Thiên Chúa sẽ dẫn đến sự say mê trong đời sống cộng đoàn, đến việc sống mạnh mẽ tình huynh đệ.
Điều mỗi chúng ta cần nêu lên cho chính mình, đó là đời sống cộng đoàn có phải là nơi chúng ta sống mối tình say mê với Thiên Chúa. Nghĩa là đời sống cộng đoàn với những mối tương giao huynh đệ có thật là môi sinh lành mạnh cho mối tình chúng ta sống với Chúa? Điều này cũng giả thiết là chúng ta gắn kết “sống chết” với cộng đoàn, với anh em mình. Nhưng chúng ta cũng tự vấn xem tâm hồn của chúng ta có thực sự thuộc về cộng đoàn không? Và cộng đoàn, đời sống cộng đoàn có thật sự giúp chúng ta đào sâu và sống chân thực mối tình say mê với Thiên Chúa?
Cha Tổ Phụ nói là “gặp Chúa”, nghĩa là một cuộc gặp gỡ thật sự, có âm hưởng mạnh mẽ đến nỗi chúng ta sẽ biết yêu thương những anh em sống chung trong đan viện – và trong Hội Dòng – bằng một sự gặp gỡ thật sự. Nhưng thế nào là gặp gỡ thật sự?
b. “Kẻ gặp được Chúa thì khao khát linh hồn người ta”
Hoa trái thứ hai lớn hơn hoa trái thứ nhất, hay đúng hơn, hoa trái thứ nhất phải dẫn đến hoa trái thứ hai. Cha Tổ Phụ đã khuyên các môn sinh là không những yêu thương những anh em cùng chung sống dưới một mái nhà mà còn yêu thương mọi người. Nhưng yêu thương như thế nào và bằng cách nào?
Chúng ta biết là Cha Tổ Phụ đã là một thừa sai thuộc Hội Thừa Sai Paris. Lòng nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng, truyền giáo, thấm tận xương tủy ngài. Cho nên, khi lập dòng đan tu chuyên sống đời chiêm niệm, ngài không bao giờ quên những người chưa nhận biết Chúa. Những người chưa nhận biết Chúa được ngài yêu mến một cách hết sức mãnh liệt. Chính vì thế, trong Hiến Pháp ngài soạn thảo, trong các lời giáo huấn và qua cuộc sống của chính ngài, lòng khao khát các linh hồn như là hoa trái của mối tình say mê đối với Thiên Chúa.
Một lần nữa, chúng ta nhắc lại từ “gặp” – người gặp Chúa thì khao khát linh hồn người ta – diễn tả một điều gì thật mạnh mẽ và đến nỗi thúc đẩy đến gặp người khác, gặp “linh hồn’ người khác, không phải bằng sự hiện diện thể lý mà trong sâu xa của một mối tình say mê. Bằng lời cầu nguyện và hy sinh – như được nêu lên trong Hiến Pháp – nhưng còn trong mọi hoàn cảnh cuộc sống, để đan sĩ luôn biết sử dụng các cảnh huống đó để hướng tới những tâm hồn chưa nhận biết Chúa. Chúng ta có thể nói tình yêu say mê đối với Thiên Chúa luôn tỷ lệ thuận với lòng khao khát linh hồn người ta. Đây cũng là một điều chúng ta cần tự vấn lương tâm mình.
c. “Vui sướng vì người ta yêu mến Chúa”
Xin được nêu lên hoa trái thứ ba là vui sướng vì người ta yêu mến Chúa. Điều này được Cha Tổ Phụ nói lên khi viết thư cho song thân kể chuyện ngài dạy giáo lý và người ta vui sướng khi được dạy về lòng yêu thương của Thiên Chúa. Họ tròn xoe đôi mắt với tất cả ngạc nhiên khi được nghe nói về một Thiên Chúa yêu thương, vì xưa nay, khi chưa được học giáo lý để theo đạo, người ta sợ đủ thứ thần minh và nhìn thấy đe dọa ở khắp nơi có các ông thần hiện diện. Điều này cũng được chân nhận khi ngài cảm thấy rất vui sướng khi anh em hết lòng yêu mến Thiên Chúa và ngày càng tiến bộ trong tình yêu.
Vui sướng vì người ta yêu mến Chúa là một hoa trái rất cao quí của một tình yêu say mê. Thật vậy, khi say mê Thiên Chúa – với một tình yêu chân thật – người ta cũng rất mong muốn Thiên Chúa được yêu mến, say mê bởi rất nhiều người. Đây chính là tâm tình và thái độ của thánh Gioan Tẩy Giả đối với Đức Giêsu, và chắc chắn cũng là của các thánh, đặc biệt các thánh Tổ Phụ các dòng tu.
Chúng ta cũng được mời gọi để chia sẻ niềm vui sướng đó. Nhưng điều đó chỉ có nghĩa khi chúng ta cũng thực sự vui sướng yêu mến Chúa một cách say mê. Đôi khi và có thể nhiều khi chúng ta cứ muốn được người ta yêu mến, có khi hơn cả Chúa nữa! Nếu thật sự yêu mến Chúa, thì cũng sẽ vui sướng khi thấy nhiều người yêu mến Chúa.
THAY LỜI KẾT : Chỉ Một Thiên Chúa Mà Thôi
Để đóng lại một vài suy niệm trên, tôi bỗng nhớ lại một bài hát mà nhạc sỹ Ân Đức – của Hội Dòng Xitô Thánh Gia chúng ta – đã sáng tác với tựa đề “CHỈ MỘT THIÊN CHÚA”. Không bàn đến giai điệu bài hát, tôi chỉ muốn trích lại một vài ca từ mà nhạc sĩ đã sử dụng để diễn tả niềm say mê Thiên Chúa.
Chỉ một Thiên Chúa mà thôi, con xin dâng trái tim này, tâm tư mộc ước vơi đầy.
Chỉ một Thiên Chúa mà thôi, con xin dâng hết cuộc đời, bao nhiêu ơn nghĩa cao vời.
Chúa là đối tượng duy nhất đời con, là cùng đích con hằng vươn tới, là lẽ sống muôn đời..
Chỉ một Thiên Chúa con hằng thao thức khôn nguôi.
Chúa là sản nghiệp kho báu đời con, là ngọc quí con hằng tìm kiếm…
Chúa là mối tình con vẫn ngợi ca cuộc đời con đi vào tìm Chúa…
Chúa là khát vọng, thao thức của con, là binh an khi đời xao xuyến..
CHỈ MỘT THIÊN CHÚA : ĐỐI TƯỢNG CON MUỐN SAY MÊ !
ẤP YÊU THẬP GIÁ CHÚA KITÔ
M. Giuse Khang Tiên_Đan viện Thiên Phước
Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Thập Giá mà người môn đệ Chúa Kitô vác là gì, nếu không phải từ bỏ con người ích kỷ của mình để sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Như vậy, điều kiện tiên quyết là phải hy sinh, một sự hy sinh từ bỏ thường xuyên trong đời sống Kitô hữu. Nếu người môn đệ Chúa Kitô thiếu vắng thập giá trong đời sống mình thì không phải là môn đệ đích thực của Ngài. Hơn thế nữa, người môn đệ Chúa Kitô không yêu mến thập giá thì không còn sức sống, ngày càng tàn lụi và đánh mất chính mình. Ngược lại, người môn đệ Chúa Kitô biết đón nhận và yêu mến thập giá trong mọi hoàn cảnh thì cuộc sống trở nên thanh thoát và ý nghĩa.
Nhìn lại cuộc đời cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, nếu ngài không “ấp yêu Thập Giá Chúa Kitô”, chắc chắn thân thế và sự nghiệp của ngài không được như hiện nay. Khi còn nhỏ, ngài mất mẹ hiền yêu dấu; chấp nhận cảnh nghèo của gia đình… Khi trở thành linh mục, đối diện với biết bao khó khăn ở những xứ đạo nghèo; làm giáo sư với kiên trì nhẫn nại… Khi lập dòng, chịu đựng bao nghi ngờ, trách móc… Tuy nhiên, nhờ sức mạnh cây thập giá, ngài đã vượt qua và mang lại kết quả lớn lao.
Với tất cả những xác tín về ý nghĩa của Thánh Giá, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã mạnh mẽ rao giảng thập giá Chúa Kitô, coi thập giá như vinh dự lớn lao nhất trong đời mình, luôn hiệp thông với khổ nạn của Chúa Kitô và biết sử dụng thập giá như phương thuốc hữu hiệu nhất chữa lành mọi bệnh tật tâm linh. Vậy trong bài viết này, dựa vào đời sống và ngôn từ của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, xin ghi nhận những điểm chính sau đây.
I. Vinh Dự Rao Truyền Thánh Giá Chúa Kitô
Thánh Phaolô coi thập giá là vinh dự trong đời sống đức tin của ngài: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian” (Gl 6,14). Thánh Phaolô xác tín như vậy vì thập giá là khí cụ của ơn cứu độ, là sức mạnh Thiên Chúa trong đời sống chúng ta (x. 1Cr 1,18). Chính vì thế, trong sứ vụ rao giảng, thánh Phaolô đã mạnh mẽ rao giảng về thập giá Chúa Kitô : “Dân Do Thái đòi hỏi phép lạ, dân Hy Lạp thì tìm lý lẽ khôn ngoan; còn chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh, một điều vấp phạm cho dân Do Thái và điều dại dột đối với dân Hy Lạp” (1Cr 1,22-23). Noi gương thánh Phaolô và các thánh Tông Đồ, biết bao sứ giả Tin Mừng loan báo thập giá Chúa Kitô, bất chấp mọi gian nan khốn khó, bắt bớ hiểm nguy và can đảm liều chết vì thập giá Chúa Kitô. Cũng thế, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận không quản ngại khó khăn, vượt hàng chục ngàn cây số để đến vùng Viễn Đông rao giảng thập giá Chúa Kitô. Trong thư gởi cho song thân, ngài viết : “Con không thể bộc lộ sự vui sướng khi thấy họ mở mắt nhìn con, ngạc nhiên vì nghe con nói Chúa lân mẫn vô cùng, đã từ trời xuống thế, chết ô nhục trên Thập Giá để cứu vớt sinh linh mà còn bao kẻ chưa nhận biết Người” [1].Đọc tiểu sử của cha Biển Đức Thuận, chúng ta nhận ra rằng, ngài đã ấp ủ mến yêu thập giá từ thuở nhỏ, qua giáo dục của gia đình. Lòng mến yêu đó càng tăng lên gấp bội khi được giáo dục của các linh mục, tu sĩ và chủng viện Hội Thừa Sai Paris, nhất là kinh nghiệm mục vụ và đời sống nội tâm sâu sắc của ngài. Cùng với lòng khát khao rao giảng Tin Mừng, đã thúc đẩy ngài bỏ quê hương xứ sở, cha mẹ và người thân để đến vùng truyền giáo Việt Nam. Ngài đã xác tín tình yêu qua thập giá Chúa Kitô, khi cảm nghiệm Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến trần gian, đã sống như người trần thế. Ngài chịu mọi đau khổ, vất vả, mọi sự mà loài người phải chịu, nhất là chịu bách hại và chịu chết vì loài người. Cuộc đời trần gian của Đức Giêsu Kitô kết thúc bằng cuộc khổ hình thập giá trên đỉnh đồi Calvê, một lễ tế hy sinh, lễ tế tình yêu.
Như vậy, Mầu nhiệm thập giá là trọng tâm Tin Mừng mà cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận loan báo cho mọi người biết, là Chúa Kitô hoàn tất ý định cứu độ của Thiên Chúa bằng thập giá, để chứng minh tình yêu Thiên Chúa dành cho loài người.
II. Phước Của Thánh Giá Chúa Kitô
“Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí con” (Đức Cha Lambert de la Motte). Tại sao vậy ? Bởi vì, thập giá không chỉ là biểu trưng của sự độc ác và tội lỗi, nhưng còn là vẻ đẹp của chính tình yêu Thiên Chúa. Thập giá chính là đỉnh cao của công trình cứu độ và là bằng chứng của tình yêu: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Chúa Giêsu đã thực hiện luật yêu thương của Tin Mừng, Ngài đã sống cái cùng tận của định luật tình yêu là chấp nhận cái chết nhục hình trên thập giá vì yêu nhân loại, dù Ngài hoàn toàn vô tội (x. Mt 27,4). Chính vì thế, người Kitô hữu đón nhận thập giá với tất cả mến yêu tha thiết, và đạt được tình yêu trọn vẹn mà Tin Mừng đòi hỏi. Về điều này, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã giáo huấn anh em: “Nếu chúng ta biết ấp yêu Thánh Giá vào lòng, thì mọi gian nan khốn khổ ở đời này, không làm cho chúng ta nao núng. Có lòng trìu mến Thánh Giá thật, thì ở trong nhà dòng này rất đỗi vui mừng. Như vậy, ai làm chi được chúng ta ! Bề trên có quở phạt, anh em có khinh chê, đó là Thánh Giá, là điều mình hằng nâng niu trân trọng. Những kẻ ấy ở trong nhà dòng này vui thích biết mấy” [2]
Theo Tông Huấn Đời Tống Thánh Hiến, mọi ơn gọi đời sống thánh hiến đều bắt nguồn từ thập giá Chúa Kitô (số 23). Bởi đó, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận luôn xác tín thập giá trong đời sống cộng đoàn ngài mới thành lập. Trong thư gởi cho bà kế mẫu, ngài viết: “Thăm mẹ yêu dấu, mùa lạnh đến rồi, tất nhiên mùa ho cũng đi theo. Mẹ hãy giữ mình, ngồi gần lửa mà lần hạt hoặc nói khó cùng Chúa. Đôi khi xin mẹ nói với Người về thầy dòng, thầy dòng Phước Sơn, vì dầu thầy dòng cũng có Thánh Giá không thoát được, mẹ hãy tin điều ấy. Song có Thánh Giá là có phước” [3]. Cũng trong lời giáo huấn cho anh em, ngài nói lên nhiệm vụ cao cả mà ơn gọi đan tu đảm nhận: “Phước của chúng ta là trở nên một ‘loài chim’, hót lên lời ca ngợi Chúa, theo gương Đức Mẹ, là ‘con chim hót hay hơn cả'” [4].
Đời Kitô hữu không đi trên đường rộng thênh thang, nhưng là ngỏ hẹp. Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, một lần nữa khẳng định Thập Giá trong đời sống mình: “Con lại được tin mẹ đau mắt, thế là thêm một Thánh Giá, một đau khổ. Song đau khổ đời này thì thoát đau khổ đời sau. Mẹ đừng buồn, hãy để Chúa làm việc Chúa. Người thương mẹ, Người làm chi cho mẹ thì Người biết. Con nói với mẹ thế mà con cũng nói với con như vậy, vì ở đây cũng không thiếu Thánh Giá” [5].
Như vậy, ai không đón nhận con đường hẹp, làm sao có thể đón nhận Thập Giá Chúa Kitô. Thomas Kempis trong sách “Gương Chúa Giêsu” có viết như sau:
– Có rất nhiều kẻ muốn lên thiên đàng với Chúa Giêsu, nhưng rất ít kẻ muốn vác Thập Giá giá với Người.
– Nhiều kẻ ước ao được ơn an ủi của Người, nhưng ít kẻ muốn chịu thử thách với Người.
– Nhiều kẻ muốn dự tiệc với Người, nhưng ít kẻ muốn chịu thiếu thốn với Người.
– Nhiều kẻ muốn vui hưởng với Người, nhưng ít kẻ sẵn sàng chịu sự gì khó với Người.
– Nhiều kẻ muốn theo Chúa Giêsu đến bàn tiệc bẻ bánh, nhưng ít kẻ muốn uống chén đắng với Người.
– Nhiều kẻ tôn sùng các phép lạ của Người, nhưng ít kẻ muốn chịu sỉ nhục với Người.
Mang thập giá mình hằng ngày nghĩa là đón nhận ơn Chúa ban cho chúng ta, thường không phải là những gì chúng ta kỳ vọng. Thiên Chúa luôn đáp lời cầu nguyện của chúng ta, và Ngài cho chúng ta những gì chúng ta thực sự cần hơn là những gì chúng ta nghĩ mình cần.
Tóm lại, đối với cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, mang thập giá với Chúa Giêsu vẫn mãi là cây sự sống rợp bóng trên đời tín hữu, bởi ở đó người ta nhận được ơn cứu độ, và cũng ở đó người ta nhận ra vinh quang mà Thiên Chúa muốn tỏ lộ cho loài người.
III. Hiệp Thông Với Thánh Giá Qua Đau Khổ
Đời sống Kitô hữu gắn liền thập giá với hy sinh đau khổ, mỗi lần nói tới thập giá thì không thể nào tránh được vấn đề đau khổ. Thánh Phaolô đã hiểu điều kiện làm môn đệ của Đức Kitô như là thông dự vào Thập Giá của Ngài: “Tôi cùng chịu đóng cùng với Đức Kitô vào Thập giá. Tôi sống, nhưng không cỏn là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,19-20). Chính vì thế, thánh Phaolô luôn nói về sự thông phần vào những đau khổ của Đức Kitô (x. 2Cr 4,10) trong cuộc đời của mình, đặc biệt qua những cuộc bách hại gặp phải trên đường truyền giáo. Đây là đề tài được lập đi lập lại nơi cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, như thư ngài viết cho bà kế mẫu: “Con được thư của cha Golliot nói về bệnh tật của mẹ, về sự mẹ cầu nguyện cho địa phận Huế, cùng về sự đầy lòng nhẫn nại xứng người giáo hữu, mà chịu những sự khó Chúa gởi đến cho mẹ…Lạy Chúa, con ngợi khen Chúa! Chúa đã để thập giá đè nặng trên vai mẹ con, thì xin Chúa cũng ban cho mẹ con được lòng mà vác lấy” [6].
Trong đoạn khác, ngài viết: “Con cầu nguyện cho mẹ hơn mọi khi. Xin Chúa ban cho mẹ được bằng lòng chịu đau đớn và chịu cách vui vẻ. Luyện ngục còn cực hơn gấp bội phần. Trong đó không lập công được nữa. Mẹ hãy ngửa trông Thánh Giá Chúa mà thân thưa : dạ con xin vâng chịu mọi sự Chúa gởi cho con! Chính lúc con viết thư cho mẹ, con cũng liếc mắt trông Chúa trên Thánh Giá mà thầm thỉ cầu cho mẹ” [7]. Đối với cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, khi gặp khó khăn, ngài nhìn lên thập giá trước hết như một mẫu gương để học sống tinh thần tín trung yêu mến, và sau đó như một điểm tựa mà cậy trông tìm kiếm sức mạnh vượt thắng gian nan. Một thư khác, ngài viết : “Con vừa viết câu này (câu nói về Thập Giá) thì trạm đem thư mẹ đến [8]. Mở thư ra coi mới biết mẹ bị mổ lần thứ hai, thế nên con viết cho mẹ mà nói về Thánh Giá là hợp lắm”[9] (trích thư 26/10/1921). Cha Biển Đức Thuận cảm nhận thập giá nơi anh em ốm đau, nên đã nói trong lời giáo huấn: Chúng ta hãy ra sức nên thầy dòng thật, chẳng những lúc mạnh khỏe mà lại lúc đau ốm nữa. Có kẻ đau thì xếp đi đàng nhân đức lại, để lúc rảnh rồi hay, kẻ ấy thật lầm lắm” [10].
Về điều này, chúng ta cảm nghiệm lời Đức cố Hồng Y Phanxico Xavier Nguyễn Văn Thuận: “Khi nêu cao giá trị của mỗi đau khổ như thể chúng là một trong vô số khuôn mặt của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và khi kết hiệp những đau khổ ấy với đau khổ của Ngài, chúng ta mới bước vào sức năng động của đau khổ- yêu thương, để tham dự vào ánh sáng, sức mạnh, an bình của Chúa, và tìm lại được trong chúng ta một sự hiện diện mới mẻ và sung mãn hơn của Thiên Chúa” [11] .
Hơn nữa, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận xác tín lời của thánh Phaolô: “Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11). Cũng vậy, trong tư tưởng của thánh Gioan Tông Đồ, thập giá không chỉ là một đau khổ, một nỗi nhục nhã nhưng là vinh quang [12] . Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận nhắm đến đích điểm là thiên đàng, như lời giáo huấn về sự khôn ngoan, ngài nói : “Khôn ngoan thánh thiện là chỉ lo cho mình kính mến Chúa mà thôi… Người khôn ngoan thật chỉ lo về đời sau mà thôi, là biết mình sống ở đời này là lo sửa soạn về nhà Thiên Đàng đời sau” [13]. Nơi khác, ngài nói : “Chúng ta hãy xét mình xem, lòng chúng ta có mong mỏi khát khao Thiên Đàng chăng? Khi chúng ta suy một ít nữa chúng ta được nhìn thấy Chúa và Đức Mẹ yêu dấu chúng ta. Khi chúng ta suy như vậy, trong lòng có lấy làm vui, có mong mỏi mau về cùng Chúa không ?”[14]. Hay như ngài nói : “Khi chúng ta chịu khó vì mến Chúa, thì được thêm công nghiệp, giúp chúng ta tập các nhân đức, nhất là đức nhịn nhục, lại thêm phước thanh nhàn trên Thiên Đàng” [15] .
Như vậy, cuộc sống người Kitô hữu họa lại cuộc đời của Chúa Giêsu. Cái chết của Ngài như tất yếu cuộc sống trần gian của kiếp người. Khi Ngài chọn xuống thế làm người và mặc lấy xác phàm để cứu chuộc chúng ta, Ngài cũng đã chấp nhận cái chết. Vì “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Chúa Giêsu chết và phục sinh để mở đường cho nhân loại đến với Ngài, như Ngài đã nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26). Theo gương Chúa Giêsu, cuộc đời dấn thân của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận như hạt lúa mì chết đi, để từ đó sinh nhiều bông hạt, là những thành quả đạt được trong việc chứng tá Tin Mừng, và Hội Dòng Xitô Thánh Gia ngày nay.
Kết
Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu phải trải qua mọi khốn cùng của kiếp người. Vì yêu thương chúng ta, Ngài chấp nhận chịu treo trên thập giá. Không phải đinh sắt đã đóng Ngài vào thập giá, mà chính là tình yêu. Đó là tất cả vẻ đẹp cao vời của thập giá, và cũng chính là động lực thúc đẩy cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận “ấp yêu ủ Thánh Giá”, qua đó cũng mến yêu anh chị em mình. Tiếp nối bước chân cha Tổ Biển Đức Thuận, có biết bao tâm hồn muốn tận hiến đời mình cho đời sống chiêm niệm. Chính khi “ấp yêu Thánh Giá”, họ được tăng thêm nguồn sinh lực mới, vượt qua bao khó khăn trở ngại để đến với anh chị em mình bằng sự cảm thông và yêu mến.
Trong dịp chuẩn bị mừng kỷ niệm 100 năm cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận lập dòng trên Núi Phước, các thành viên Hội Dòng Xitô Thánh Gia học hỏi đề tài: “Noi gương cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, đan sĩ say mê Thiên Chúa”. Qua đề tài này, đan sĩ coi Thánh Giá là trung tâm và là động lực thu hút mọi sinh hoạt đời mình. Ước gì nhờ gương sáng của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, họ đón nhận Thánh Giá với lòng mến yêu, đón nhận anh chị em mình với sự quảng đại và phục vụ chân thành. Cho dù gặp bao thử thách, nhưng khi hướng về Thập Giá, tiếng gọi yêu thương anh chị em càng mãnh liệt và thắm thiết hơn.
[1] Di Ngôn, số 5; x. Hạnh Tích cha Benoit, tr. 52. Cha Tổ Phụ Benoit nhận xứ Nước Mặn vào thượng tuần tháng giêng năm 1908, có lẽ thư này viết liền sau thời gian đó (x. chú thích Di Ngôn, số 5).
[2] Di Ngôn, số 126.
[3]Di Ngôn, số 62; x. Hạnh Tích cha Benoit, tr. 172.
[5] Di Ngôn, số 72; x. Hạnh Tích cha Benoit, tr. 180.
[6] Di Ngôn, số 28; x. Hạnh Tích cha Benoit, tr. 87.
[7]Di Ngôn, số 58; x. Hạnh Tích cha Benoit, tr. 167.
[8] Thư 26/10/1921 (x. Di Ngôn, số 62; x. Hạnh Tích cha Benoit, tr. 172).
[9]Di Ngôn, số 62; x. Hạnh Tích cha Benoit, tr. 172.
[10] Di Ngôn, số 127.
[11]Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, 2000, tr .152.
[12] X. Điển ngữ thần học Thánh Kinh, tập 4, mục “Thập Giá”.
[13]Di Ngôn, số 147.
[14] Di Ngôn, số 148.
ĐỘNG LỰC
FM.Theophan Phạm Hữu Ái_ Đan viện Thiên Phước
Theo “Đại Tự Điển Tiếng Việt” do Nguyễn Như Ý chủ biên. Hạn từ “động lực” bao gồm hai nghĩa:
1. Năng lực làm cho máy móc chuyển động
2. Cái thúc đẩy làm cho biến đổi, phát triển. Chẳng hạn, tình yêu là động lực của cuộc sống.
Bài viết xin dừng lại ở nghĩa thứ hai, tức là sức mạnh thúc đẩy làm cho biến đổi, phát triển. Ở đây, chữ “động lực” được hiểu và suy tư dưới lăng kính của việc “say mê Thiên Chúa”. “Say mê Thiên Chúa” là một hạn từ cụ thể, nhưng nội hàm rất là siêu việt. Bởi lẽ, “Thiên Chúa chưa ai xem thấy bao giờ, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người sẽ tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1, 18). Nếu là siêu việt, vượt trí hiểu và sức lực con người, thử hỏi “say mê Thiên Chúa” là một khả thể? Và động lực nào có thể khiến con người bị cuốn hút đến mức không thể rời ra và không thiết điều gì ngoài Thiên Chúa? Có một động lực như thế trong thế giới này không, hay chỉ là sản phẩm của một sự tưởng tượng? Nếu có, động lực đó là gì?
I. Động lực
Có một điều ai cũng phải công nhận: con người luôn khao khát đi tìm kiếm hạnh phúc và xem đó như là đích đến của một đời người. Theo Aristote, hạnh phúc là sự hoàn thành, là đạt tới đích mà mình nhắm tới. Một khi hoàn thành thì điều đó cũng là trọn vẹn, trọn hảo. Thế mà, điều gì trọn hảo là thiện hảo. Như vậy, hạnh phúc theo Aristote là đạt tới sự thiện hảo và nó không gì khác hơn chính là có một cuộc sống tốt đẹp, một niềm vui tròn đầy ngay tại thế. Theo nghĩa này, để có một cuộc sống tốt đẹp, ta phải hướng về đích đến và hành động làm sao cho cuộc sống được hoàn thành xứng với phẩm giá con người. Ở đây ba yếu tố: đích đến, lòng ước ao và hành động (praxis), luôn đi liền và tương quan mật thiết với nhau. Ta chỉ ước ao khi thấy được sự hấp dẫn của đích đến. Đích đến càng hấp dẫn, sự ao ước càng mạnh mẽ và khiến ta phải thực hiện một hành động (praxis) để đạt tới đích đó. Tại sao ta ước ao hướng về đích, nếu không phải vì thích, vì yêu, vì nó thoả mãn được ước vọng của mình? Nếu như vậy thì càng thấy thích, thấy yêu, cảm được hạnh phúc, ta càng mong ước hướng về. Chẳng hạn, một người yêu thích thể thao thì tâm trí của họ luôn hướng về nó và chấp nhận tất cả để làm sao sự yêu thích của mình được mãn nguyện; một người chỉ có thể say mê chính trị khi họ thực sự thích, thực sự yêu quyền lực. Và, chỉ khi tình yêu đủ lớn, đủ mạnh người ta mới đủ lực để hướng về phía trước; vận dụng mọi khả năng, phương thế để đạt được điều mình yêu thích. Điều đó cho thấy: tình yêu chính là động lực và là động lực duy nhất để biến đổi và thôi thúc con người đạt tới đích mà họ nhắm tới. Thế mà, trong cuộc đời này hai chữ hạnh phúc thật sự mơ hồ. Nó được cảm nhận rất khác nhau tuỳ theo đối tượng, hoàn cảnh và tuỳ vào lợi ích. Một người đang đói, hạnh phúc đối với họ là có một bữa ăn; một người làm chính trị, hạnh phúc của họ là đạt được quyền lực, yêu sách được đáp ứng… và như thế, có bao nhiêu lợi ích, bao nhiêu cảm nhận về hạnh phúc thì cũng có từng đó tình yêu; do đó, cũng có bấy nhiêu động lực.
Dẫu là thế, nhưng trong tiến trình lịch sử, người ta đã tổng hợp và phân tách tình yêu thành ba cấp độ khác nhau. Ba cấp độ này được diễn tả bằng ba hạn từ Hy Lạp: Eros, Philia và agape.
Theo Platon, Eros là thứ tình yêu thiếu thốn, là nỗi đam mê của con người hướng về những gì mà nó không sở hữu, những gì nó cảm thấy thiếu, những gì không thuộc về nó. Tình yêu này là tình yêu chiếm hữu và mong muốn chiếm hữu để làm của riêng mình. Đó là tình yêu dễ dàng nhất, nhưng cũng mưu mô xảo quyệt nhất. Tuy nhiên, nó là nguồn của mọi đau khổ và chán chường. Đau khổ vì phải yêu những gì không thuộc về mình, nên nó không chắc chắn, hoàn toàn ở ngoài tầm tay. Người ta muốn giữ, nhưng giữ không nổi. Nó làm cho ta chán, vì bao giờ cũng vẫn thiếu, không thể thoả mãn, không thể tròn đầy; đến rồi lại đi, biến biến hoá hoá theo phương cách hiện hữu vô thường. Vì thế, động lực của nó rất mãnh liệt, nhưng mang tính cảm xúc, nên không ổn định và dễ làm tiêu tan nhiệt huyết. Đến một lúc nào đó, ta mất đi động lực để rồi phải đi tìm chữ “quên”, đánh mất phương hướng.
Philia là tình bạn. Đây là tình yêu theo quan niệm của Aristote. Yêu những gì thuộc về mình, là mình và những gì mình tạo nên. Tình yêu mang lại niềm vui và không thể tách khỏi niềm vui. Đối với Aristote, yêu là vui sướng, là hạnh phúc. Với nghĩa này, yêu những gì mình đang thiếu theo quan niệm Platon thì không thể được gọi là tình yêu, vì nó không mang lại hạnh phúc cho ta. Trong thực tế, Eros và Philia luôn pha trộn và thường quyện lấy nhau. Chính vì thế, khi diễn tả tình bạn, Aristote cũng đã phân chia thành ba cấp độ: bạn để lợi dụng nhau; bạn vì thú vui và bạn mang đến hạnh phúc. Tiến triển của các cấp độ này diễn tả một kinh nghiệm: tình bạn chân thật sẽ mang đến cho con người hạnh phúc và con người chỉ có hạnh phúc khi có tình bạn chân thật. Tình bạn chân thật luôn mong ước điều tốt lành cho bạn; chia sẻ cho bạn những gì tốt nhất và cùng với bạn nếm hưởng niềm vui. Trong tình bạn này không phải không có lòng mong ước có nhau, cần nhau, nhưng lòng mong ước này không phải là một sự thiếu thốn mà nó chính là sức mạnh để xây dựng một tình bạn trọn hảo. Tình yêu ở cấp độ này thanh cao hơn eros, nhưng phần ưu tiên là niềm vui và hạnh phúc cho mình, vì bạn là nguyên nhân niềm vui của tôi. Vì thế, vẫn còn đó tính vị lợi nơi động lực của con người.
Agape là cấp độ thứ ba và là cấp độ sau cùng của tình yêu. Tình yêu này được gọi là đức ái, bác ái (Caritas, la Charité). Tuy nhiên, agape là danh từ không hề được biết đến và sử dụng trong tư tưởng của Platon, Aristote và ngay cả Épicure mà xuất hiện rất trễ trong văn hoá Hy Lạp. Đặc biệt, thánh Gioan đã sử dụng danh từ “agape” khi định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8). Sau này, các triết gia như Simone Weil hay Jankélévitch đã sử dụng và khai triển trong tư tưởng của mình. Theo đó, agape là tình yêu trao ban và đón nhận; chấp nhận và bảo vệ; yêu và được yêu; một tình yêu hoàn toàn vô vị lợi. Đây cũng là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, “vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 6,45). Cụ thể, chúng ta có thể diễn tả: tôi yêu bạn như yêu chính tôi, không vì một lý do nào cả, hoàn toàn không. Tôi yêu bạn như Thiên Chúa đã yêu tôi “ngay khi tôi còn là tội nhân”. Tuy nhiên, thực tế mà nói: chúng ta là những hữu thể tại thế, nên không thể nào không có tham, sân, si và vì thế rất giới hạn. Giới hạn đến nỗi bất lực vì “sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm”(Rm 7,19). Thử hỏi, một hữu thể tham, sân, si như vậy có thể yêu tha nhân như Thiên Chúa yêu được không? Một hữu thể giới hạn có thể say mê Thiên Chúa, Đấng vô cùng siêu việt ngay tại thế này không? Và điều gì tạo nên động lực để con người “say mê Thiên Chúa”?
II. Động lực “say mê Thiên Chúa”
Rất khó để thực hiện tuyệt đối tình yêu agape trong cuộc sống đời thường, vì theo thánh Benado: khởi đầu tình yêu nơi con người là tình yêu vị kỷ (thuộc về bản chất của con người): “yêu mình vì mình” [1] . Do đó, để yêu như Thiên Chúa yêu ta là một khó khăn; yêu kẻ thù như yêu chính mình theo đúng nghĩa của nó- hoàn toàn vô vị lợi- là một điều rất khó, nếu không muốn nói là mâu thuẫn với khuynh hướng tự nhiên. Nếu vậy, agape chỉ tồn tại trong tâm tưởng sao?
Thánh Benado cũng đã nhận ra điều nan giải này khi ngài phân chia tình yêu thành bốn cấp độ: “yêu mình vì mình”; “yêu Chúa vì mình”; “yêu Chúa vì Chúa” và “yêu mình vì Chúa” [2]. Ở cấp độ thứ tư là cấp độ mà con người như tan biến trong Chúa, trở nên trống rỗng hoàn toàn để kết hiệp mật thiết với Ngài. Linh hồn giống như giọt nước được bỏ vào thùng rượu và tan biến đi đến nỗi không còn là giọt nước nữa. Thánh nhân gọi đây là giai đoạn “thần hoá”, và cho rằng: ở trần gian, con người không thể đạt được mức độ này trọn vẹn, nếu có chăng là một số trường hợp đặc biệt do ân huệ của Chúa, nhưng chỉ được thực hiện khi ở trên Nước Trời.
Mặc dù không thể thực hiện cấp độ thứ tư của tình yêu cách trọn vẹn trong cõi thế này, nhưng không có nghĩa là không tồn tại tình yêu agape-yêu như Chúa yêu-trong cuộc sống chúng ta. Vì rằng: chúng ta có thể chứng kiến vô số con người tận hiến đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân với một tình yêu nhưng không; vô số người cha, người mẹ sẵn sàng hy sinh tất cả cho con cái của mình, ngay cả những người con hư hỏng và phản nghịch. Có chăng là khó tìm ra một agape tinh tuyền, một agape lý tưởng như agape nơi Thiên Chúa.
Về điểm này, nhìn dưới khía cạnh triết học là một điều rất tự nhiên, nếu không muốn nói: đương nhiên là như vậy. Ba cấp độ của tình yêu: eros, philia và agape là ba điều cần thiết, liên kết trong một tiến trình nối tiếp nhau; chứ không phải là ba yếu tính tách biệt nhau. Vì thế, không thể tách eros ra khỏi philia và agape; cũng như không thể tách agape ra khỏi philia và eros. Đúng hơn nó là ba cực của cùng một lãnh vực tình yêu; ba khoảng khắc trong một tiến trình. Trong đó, eros là đầu tiên và luôn luôn vẫn thế, Freud và Schopenhauer đã nhắc lại cho chúng ta điều này trong học thuyết của họ; agape là đích đến mà Tin Mừng không ngừng chỉ cho ta thấy; còn philia là con đường, là phương thế và cũng là động lực để hướng tới đích. Vì, người ta sẽ không tiến tới đích được, nếu không có niềm vui (philia). Như vậy, niềm vui là con đường, là điều kiện để biến “cái vơi” (eros) thành “sức mạnh”; “cái thiếu”(eros) thành “tròn đầy” và “cái nghèo” thành “sung mãn, giàu có”(agape) [3].
Hiểu như thế để chúng ta chấp nhận một sự thật: agape vừa là một tình yêu đang tồn tại, nhưng cũng là cùng đích mà con người nhắm tới; vừa là nguồn dinh dưỡng tạo nên năng lực sinh động cả thế giới, nhưng cũng là một nỗi khao khát khôn vơi: “Lạy Chúa, linh hồn con khao khát mãi cho đến khi nào được nghỉ an trong Chúa”[4] . Ta khao khát hướng về cùng đích “agape” (tình yêu Thiên Chúa), vì chúng ta đã nếm cảm được niềm vui đó qua việc được trở nên bạn hữu của Chúa Giêsu (x Ga 15,15) và chính chúng ta có khả năng để trở thành bạn hữu của Ngài (x. St 1,26) [5].
Như vậy, trong thân phận con người, chúng ta vẫn có khả năng yêu Chúa đến độ “say mê”, nhưng “say mê” này không phải là cùng đích, mà chỉ là phương tiện và là động lực. Có thể nói: đó là tình yêu “agape-philia”, nghĩa là “thoả” mà “bất thoả”; là tình yêu của “tân lang-tân nương” trong sách Diễm Tình Ca, tưởng là trọn vẹn, nhưng vẫn luôn kiếm tìm. Vì thế, mức độ của động lực “say mê Thiên Chúa” tỉ lệ thuận với mức độ “làm bạn” với Chúa. Càng là “bạn bè” thì càng đầy tràn niềm vui; một khi đầy tràn niềm vui thì lại “say mê Thiên Chúa” hơn. Cứ thế, “say mê” tạo nên động lực, động lực dẫn đưa đến say mê và đến một lúc nào đó ta được “nên một” trong “agape” tuyệt đối.
III. Tạo động lực
Để nên “một” với agape tuyệt đối, nghĩa là tình yêu Thiên Chúa, dĩ nhiên cần phải có động lực. Động lực càng mạnh, càng thúc đẩy ta tiến về đích nhanh hơn. Thế mà, động lực của việc say mê Thiên Chúa tỉ lệ thuận với mức độ “trở nên bạn” với Thiên Chúa. Nếu là “bạn” của Thiên Chúa ở mức độ ba, tức là bạn để được hạnh phúc (theo Aristote), thì ta sẽ có được một niềm vui tràn đầy, trọn vẹn. Niềm vui sẽ tạo nên động lực để say mê Thiên Chúa hơn nữa. Thế nhưng để có một tình bạn tốt, tình bạn thực sự thì cần phải hiểu bạn, quí bạn và trách nhiệm với bạn.
Trước hết, cần phải hiểu bạn. Hiểu bạn là điều kiện đầu tiên để tạo nên một tình bạn chân thật. Nhưng để hiểu được một người bạn không phải là một chuyện dễ vì nó đòi hỏi cần phải biết rõ về người bạn đó. Để biết rõ phải có thời gian làm quen, tiếp xúc, gần gũi và chung sống. Chính khi biết rõ về bạn, nó sẽ tạo nên một sức hút, một sự hấp dẫn để hướng tới và xây dựng một tình bạn chân thật.
Cũng thế, để tạo nên động lực say mê Thiên Chúa, cần phải biết được Chúa. Làm sao chúng ta có thể biết được Thiên Chúa, Đấng vô cùng siêu việt? Chúng ta có thể biết được Thiên Chúa qua: giác quan, lý trí và mạc khải:
– Với giác quan, ta nhận ra sự kỳ diệu của vạn vật như là dấu chứng cho sự hiện diện của Thiên Chúa chân thật (x. Rm 1,19-20)
– Bằng lý trí, với phương pháp luận lý, ta khám phá ra có một nguyên nhân đệ nhất, tác tạo và chỉ huy trật tự lạ lùng của vũ trụ, mà nếu không chấp nhận điều này thì thật là phi lý.
– Nhờ mạc khải, Thánh Thần dẫn chúng ta vào sự thật trọn vẹn. Nơi đây, ta biết được Thiên Chúa qua những lời nói và hành động của Đức Giêsu. Những hành động như tha tội, cho kẻ chết sống lại và chế ngự thiên nhiên không thể đến từ bản tính con người, nhưng phải phát xuất từ quyền năng Thiên Chúa.
Một khi biết rõ Thiên Chúa, theo thánh Benado, chúng ta không thể không yêu mến Ngài: “Tôi khẳng định rằng lý do yêu mến chính là Thiên Chúa. Tôi nói đúng, vì Ngài vừa là Đấng tạo thành, vừa là cứu cánh của tôi; Ngài vừa tạo điều kiện, gây cảm tình và cũng chính Ngài thoả mãn mọi ước vọng. Ngài khiến tôi yêu mến Ngài, hay đúng hơn, Ngài có sức lôi cuốn đến độ ta không thể không yêu mến Ngài nếu ta biết rõ Ngài”[6] .
Kế đến, một khi biết rõ và cảm nhận được sự tốt lành của bạn, lẽ tự nhiên, ta quí mến bạn. Quí mến bạn là điều kiện thứ hai để có một tình bạn bền vững. Bởi vì, quí bạn sẽ không lợi dụng bạn, nhưng luôn trân trọng và giữ gìn. Thực tế cho thấy khi trân trọng và quí mến ai, người ta thường biết trân trọng và quí mến chính mình. Sự trân trọng này được thể hiện qua việc muốn trở nên giống người đó trong lời ăn tiếng nói và nhất là cố gắng làm sao tiến lên đạt tới tầm mức của bạn. Ước muốn này không phải để cạnh tranh hay ganh tỵ, nhưng là để hiểu rõ bạn hơn và nhờ đó tạo nên sự đồng cảm. Trong tình bạn với Thiên Chúa, chính Chúa cất nhắc ta trở nên bạn hữu của Ngài: “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ nữa, nhưng gọi các con là bạn hữu của Thầy” (Ga 15,15), nên Ngài cũng muốn ta được giống như Ngài bằng chính việc thực hiện những hành động và suy nghĩ của Ngài (x. Mt 5: nói đến những đòi buộc của việc thực thi Hiến chương Nước Trời). Để có cùng một suy nghĩ, cùng một hành động như Chúa, điều kiện tiên quyết là nâng mình lên một tầm mức mới. Đó là cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới (x. Cl 3,9), để “đạt tới tuổi trưởng thành viên mãn trong Đức Kitô Giêsu” (Ep 3, 19).
Cuối cùng, tình bạn chỉ có thể trở thành nguồn hạnh phúc khi ta xây dựng một tình bạn có trách nhiệm, nghĩa là “thương mến bạn như thể thương thân”, vì ta với bạn, tuy một là hai; tuy hai là một (Tản Đà). Ta yêu mến bạn vì bạn là bạn của ta, chứ không vì lý do nào cả; ta yêu bạn vì ta cần có bạn và bạn cần có ta. Ta như “ở trong” bạn; bạn “ở trong” ta. Ta trách nhiệm với bạn, vì ta phải trách nhiệm với ta. Cũng thế, trở nên “bạn” với Thiên Chúa, ta cũng phải sống có trách nhiệm với Chúa. Thế mà, Ngay khi còn yếu hèn, Đức Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì ta là kẻ tội lỗi (x. Rm 5,6), Ngài thể hiện tình yêu qua Đức Giêsu và “yêu cho đến cùng” (Ga 13,1). Ngài mong muốn gì nếu không phải là “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2,4). Như thế, trách nhiệm với Thiên Chúa là làm theo thánh ý của Ngài, nghĩa là “trở nên hoàn thiện như Cha ở trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Vậy mà để hoàn thiện như Cha, ta phải yêu mến Cha. Đích đến của việc yêu mến này là chứng nghiệm Thiên Chúa, tức là hiệp thông trọn vẹn với Ngài. Một khi hiệp thông hoàn toàn với Thiên Chúa, ta được “thần hoá” và sẽ tạo nên một động lực mãnh liệt say mê Thiên Chúa [7] .
Như thế, tình yêu và chỉ có tình yêu là động lực duy nhất để ta “say mê Thiên Chúa”. Tình yêu đó khởi đi từ những gì hết sức cụ thể trong cuộc sống thường ngày, tuân theo một trật tự rất tự nhiên. Khởi đầu luôn vẫn là tình yêu eros và nhờ tình bạn Philia, ta biến cái vơi, cái thiếu thốn của tình yêu nhục thể thành tròn đầy của tình yêu agape. Thế nhưng, để tiến tới một tình yêu agape trọn vẹn, rất cần lực đẩy của những động lực được nuôi dưỡng bằng tình bạn với tha nhân và với Thiên Chúa. Động lực này chỉ có được khi ta biết rõ Thiên Chúa và yêu Ngài bằng một tình yêu không mức độ; một tình yêu khác với tình yêu thế gian. Đây là một thách thức cho chúng ta và con người thời đại, nhưng cũng là một động viên để mỗi người vươn ra khỏi mình, hướng về Thiên Chúa tình yêu.
[1] Thánh Benado, De diligendi Deo (Phải yêu mến Thiên Chúa), số 23
[2] Thánh Benado, De diligendi Deo số 23-27
[4] Thánh Augustino, Tự thuật, quyển một, số 5
[6] Thánh Benado, khảo luận: Phải yêu mến Thiên Chúa, số 22
[7]X. Thánh Benado, Phải yêu mến Thiên Chúa, số 27
YÊU THƯƠNG
LÀ CHU TOÀN LỀ LUẬT
FM. Anrê Dũng Lạc Phạm Văn Phong_Đan viện Châu Thuỷ
Trong cuộc sống, chúng ta biết con người luôn mang xã hội tính, nghĩa là “sống cùng, sống với”, không ai có thể tách biệt nhau. Chính con người luôn mang xã hội tính ấy mà không thể sống không có lề luật, để rồi ai muốn làm gì thì làm. Nhưng nếu chúng ta sống quá thiên về lề luật và sống trong sự cứng nhắc theo những luật lệ đã có; thử hỏi con người có còn thấy hay nghe được hai chữ yêu thương hay không, chúng ta có biết được thế nào là tình người không? Bởi con người sống không chỉ dựa trên lề luật mà còn sống dựa trên chữ “tình”, tình của yêu thương. Chính lẽ đó thánh Phaolô đã nói với hết thảy chúng ta trong thư Rôma: “yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 8,13). Vậy chúng ta phải thể hiện tình yêu đó ra sao? Phải chăng chúng ta cần yêu như Đức Giêsu đã yêu?
1. Đức Giêsu, con người kiện toàn luật
Người Pharisêu đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong các điều răn, điều răn nào là trọng nhất?”. Đức Giêsu trả lời: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,30). Trả lời như thế, Đức Giêsu đã cho thấy ý nghĩa nguyên thủy của lề luật; và Ngài cũng khẳng định rằng lề luật được lập ra vì con người.
Nhiệm vụ chính yếu của lề luật là giúp cho con người phụng sự Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Nhưng các Luật sĩ và các Kinh sư đã sử dụng luật để trốn tránh trách nhiệm của mình và thong dong ẩn nấp sau lớp vỏ của lề luật: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào (Mt 23,4). Thêm vào đó, họ sử dụng luật như là công cụ để trục lợi và moi móc đồng tiền bà góa: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các ngươi nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh lâu giờ, cho nên các ngươi sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (Mt 23,14; x. Mc 7,8-11).
Về phần mình, Đức Giêsu đã có thái độ rất rõ ràng đối với lề luật: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Ngài không những trả lại ý nghĩa nguyên thủy của lề luật mà còn thổi vào đó một làn gió mới đầy sức sống, đầy tình yêu. Luật Do Thái Giáo được ca ngợi là hoàn thiện, nhưng chỉ hoàn thiện ở mức công bình giao hoán như: mắt đền mắt, răng đền răng; còn Đức Giêsu đã không dừng lại ở đó, nhưng đã biến nó thành luật của tình yêu. Điệp khúc mà Chúa Giêsu thường khuyên dạy các môn đệ rằng: “Anh em nghe luật xưa dạy rằng… còn Thầy, Thầy dạy rằng…” (x. Mt 5,22.28.32.34). Điều Chúa Giêsu dạy vượt xa luật cũ, bất chấp những suy nghĩa thông thường của nhân loại để tình yêu lên ngôi. Một tình yêu vượt quá mọi toan tính của con người: “Nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5,39), và ở chỗ khác Ngài dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44).
Như vậy, trong luật mới của Đức Giêsu, chúng ta thấy tình yêu hiện diện đầy sức sống, vì luật ấy giúp làm vinh danh Chúa và phục vụ con người. Đức Thánh Cha Benedicto XVI đã triển khai cách tuyệt với ý tưởng này trong một buổi tiếp kiến chung trưa ngày13-2-2011 như sau: “Chúng ta thấy rằng Ðức Giêsu không coi trọng chỉ đơn thuần những việc tuân thủ quy luật hay những hành vi bên ngoài. Ngài đi đến tận cội rễ của Luật, chú ý trước hết đến ý hướng và con tim của con người, nơi phát sinh những hành vi tốt hay xấu của chúng ta. Ðể có được lối hành xử tốt đẹp và chân thực, những quy định của lề luật thôi thì chưa đủ, nhưng cần động lực bên trong, diễn tả một sự khôn ngoan ẩn tàng, sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà chỉ có thể nhận được nhờ Thánh Thần. Về phía chúng ta, nhờ đức tin nơi Ðức Kitô, chúng ta có thể mở lòng mình ra để Chúa Thánh Thần hoạt động, Ngài có thể giúp chúng ta sống tình yêu của Thiên Chúa.” [1] .Đó là luật yêu thương.
2. Luật mới – luật yêu thương
Trong Tin Mừng Thứ Tư, Đức Giêsu đã xác định rất rõ ràng nội dung của luật mới: “Đây là điều răn mới của Thầy, anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Trong luật mới này việc giữ luật không chỉ là tập chú vào những hành vi/cử chỉ bên ngoài nhưng cần phải thể hiện ngay trong ước muốn, trong ý hướng và bằng những hành động phục vụ anh em cách cụ thể. Chính nhờ những cử chỉ yêu thương trong phục ấy mà mọi nhười sẽ nhận ra sự khác biệt giữa luật cũ và luật mới, như Đức Giêsu đã xác định: “Người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em phải yêu thương nhau” (Ga 13, 35). Chính Đức Giêsu đã thể hiện tinh thần phục vụ đó qua việc rửa chân cho các môn đệ (x.Ga 13,12-14).
Tiếp nối sứ mạng của Thầy Giêsu, thánh Phaolô cũng đã nhắn nhủ giáo đoàn Rôma rằng: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn lề luật” (Rm 13,8). Với kinh nghiệm của mình, thánh Phaolô đã nhận thức rất rõ sự khác biệt trong cách tuân giữ luật cũ và luật mới. Trước đây, với tư cách là một Pharisêu, Phaolô đã giữ luật cách nghiêm nhặt vì tin rằng luật sẽ đem lại ơn công chính hóa. Nhưng khi gặp gỡ Đức Giêsu Phục sinh trên đường Đamát, Phaolô đã thay đổi hẳn niềm tin vào lề luật để đặt trọn niềm tin vào Đức Giêsu và luật mới của Ngài. Vì thế chính Ngài đã viết cho tín hữu Galat: “Nhưng vì biết con người được nên công chính không phải nhờ làm những việc luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Kitô Giêsu… Quả thế, không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì luật dạy” (Gl 2,16).
Chính niềm tin và tình yêu giúp người ta giữ luật cách nhẹ nhàng và trọn hảo. Tình yêu có sức biến đổi mạnh mẽ. Tình yêu của Thiên Chúa làm cho con người vượt trên mọi hính thức của lề luật, vượt qua mọi rào cản của tính ích kỷ hẹp hòi, khỏi mọi tham sân si của trần thế. Về tình yêu hy sinh tính mạng này, thánh Phaolô đã có lý khi chia sẻ kinh nghiệm của Ngài cho tín hữu Rôma: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân khốn khổ đói rách hiểm nguy bắt bớ gươm giáo? Nhưng trong mọi thử thách đó chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,35.37).
Cảm nếm được hương vị ngọt ngào của lề luật, nên Vịnh gia đã thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn, thánh ý Chúa quả là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19,8). Giờ đây, việc giữ luật là nhẹ nhàng, tự nguyện “Luật pháp Ngài con hằng tuân giữ tới muôn thuở muôn đời” (Tv 119,44) và cảm thấy ưa thích: “Luật pháp Ngài, lạy Chúa, con yêu chuộng dường bao, suốt ngày cứ suy đi gẫm lại” (Tv 119, 97).
Như thế khi những tương quan trong cuộc sống được đặt trên nền tảng tình yêu thì nó sẽ được thăng hoa bởi lòng mến, như thánh Phaolô nói đó là món nợ của tình yêu (x. 1Cr 13,4-7). Tinh thần yêu thương sẽ giúp chúng ta nhìn người khác với con mắt và trái tim đầy yêu thương của Đức Kitô, Đấng đã tha thứ và hiến thân bản thân mình để bài trường ca tình yêu được lên ngôi. Noi gương Thầy Chí Thánh Giêsu, người đan sĩ cũng phải có tinh thần giữ luật siêu thăng như thế.
3. Thái độ người Đan Sĩ đối với lề luật
Hành trình để tu sĩ sống viên mãn đời tu, trong việc giữ các lời khuyên Phúc Âm luôn là sự hòa hợp cách hoàn hảo giữa việc tuân giữ luật dòng và tình mến.
Về thái độ tuân giữ lề luật trong đời sống thánh hiến, cha đáng kính Henri Deni Biển Đức Thuận – Tổ Phụ Hội Dòng Xi-tô Thánh Gia, trước khi về với Chúa, ngài đã tha thiết nhắn nhủ con cái mình: “Cha khuyên chúng con hãy nhớ: đàng nhân đức là tuân theo Thánh Ý Chúa mà theo Thánh Ý Chúa là giữ Luật Dòng cho trọn. Cha nhắc lại một lần nữa: chúng con muốn nên thánh thì hãy giữ Luật Dòng; muốn nên thánh thì hãy giữ Luật Dòng…” [2].
Sở dĩ Cha Tổ Phụ nhắn nhủ con cái mình như thế, vì ngài đã sống, đã kinh qua việc tuân giữ luật cách đúng nghĩa. Luật đối với ngài không bóp nghẹt sự sống hay tự do, mà nơi đó thể hiện sự ưng thuận. Lòng mến được đổ tràn vào tinh thần giữ luật nên đối với ngài, giữ luật là cái gì đó nhẹ nhàng và con đường để nên thánh. Hơn ai hết, Cha Tổ Phụ đã cảm nhận được tình Chúa và muốn con cái ngài cũng nỗ lực đạt đến sự hoàn hảo đó bằng việc tự do trong việc thi hành luật dòng.
Thật ra, đây không là giáo huấn mới của Cha Tổ Phụ, mà là điều thánh Phaolô đã viết cho giáo đoàn Côrintô về thái độ tuân giữ lề luật bằng một lòng mến trọn hảo để rồi chúng ta có khả năng đón nhận tất cả, chịu đựng tất cả (x. 1Cr 13,1tt).
Người Do Thái tự hào vì được Thiên Chúa ban cho lề luật và thánh chỉ. Đan sĩ Xitô Thánh Gia cũng tự hào được Chúa ban lề luật thể hiện qua: Giáo luật- Tu luật- Hiến pháp- Thói lệ… Nếu chúng ta có lòng mến đích thực, con tim yêu thương của đan sĩ sẽ được lấp đầy khi họ nhìn vào bản thân để khám phá ra tính bất toàn của mình, và nhìn ra những điểm tích cực nơi người anh chị em.
Trong đời sống đan sĩ luôn có tính cộng đoàn, như John Done nói “không ai là một hòn đảo”. Vì thế trong đời sống chung, chúng ta phải sống vì nhau, với nhau và cho nhau. Bởi Con đường nên thánh của người đan sĩ phải được đan dệt bằng tình yêu, bởi hương thơm của sự khiêm nhường, biết bỏ mình và tin tưởng vào Chúa: “Vậy nên thánh là dâng mình cho Chúa trong giây phút hiện tại bằng tác động yêu mến nồng nàn. Bỏ mình để làm theo Thánh Ý Chúa, tùy sức mạnh và sự sáng Chúa ban, để mặc Ngài định liệu cho thụ tạo quý yêu của Ngài như Ngài nuốn. Trao phó cho Ngài quá khứ và tương lai, nài ép Ngài xếp đặt, lo liệu và sửa chữa cho”[3] .
Kết luận
Nếu trong đời sống xã hội, con người cố tình tách rời lề luật và tình yêu, đến nỗi có người nói rằng: trong lề luật không có chỗ cho tình yêu. Vì vậy nhiều người đã run sợ khi nghe nói đến lề luật. Đối với Đức Giêsu thì khác, lề luật và tình yêu chỉ là hai mặt của thực tại và có một tương quan mật thiết với nhau. Chính tình yêu làm cho lề luật trở nên nhẹ nhàng, và lề luật cũng làm cho tình yêu không lạc lối. Trong niềm xác tính đó, thánh Phaolô đã quả quyết: “Yêu thương là chu toàn lề luật”.
Là người đan sĩ trong đời sống thánh hiến, chúng ta được mời gọi và theo sát thầy Chí Thánh trong giáo lý và thực hành: Luật mới – Luật yêu thương. Yêu thương như Chúa là không chỉ dừng lại ở những lời nói ngon ngọt, nhưng bằng những hành động cụ thể, bằng việc tuân giữ luật dòng trong tình yêu theo cách tự nguyện. Nói cách khác như Cha Tổ Phụ đã khẳng định “muốn nên thánh phải giữ luật dòng”.
[2]Di ngôn cha Biển Đức Thuận, số 150.
[3]Jos. Schrijvers, C.s.s.R, Đời Tận Hiến, dịch giả Hồng Chung, NXB Tôn Giáo, Hà Nội 2010, tr. 62.
HÃY Ở LẠI
TRONG TÌNH YÊU CỦA THẦY
FM. Piô X _ Đan viện Phước Vĩnh
Sống trong thế kỉ XXI này, một thế kỉ của văn minh với nhiều tiến bộ của khoa học – công nghệ, một xã hội luôn đề cao sự hưởng thụ và tự do, con người dễ rơi vào tình trạng lãng quên Thiên Chúa. Sống giữa một nền văn minh sự chết, đó là một thách đố không nhỏ đối với tất cả mọi thành phần dân Chúa, đặc biệt với đan tu chiêm niệm. Bởi thế, để hòa nhịp với sứ vụ của Giáo Hội hoàn cầu trong Năm Thánh Lòng Thương xót (2016), cũng như trong niềm vui hân hoan chuẩn bị mừng 100 năm khai sinh Hội Dòng Xitô Thánh Gia (2018), với niềm say mê Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi trở nên khí cụ lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và qua đó hãy cùng nhau suy tư về sứ điệp tình yêu qua lời mời gọi của Đức Giêsu với các môn đệ là Anh em Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.
1. Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy
Dựa trên những tiến bộ của khoa học, con người ngay nay tự hào có thể làm được tất cả, không cần Thượng Đế, không cần Thiên Chúa nữa. Thế nhưng thực tế đã chứng minh, chính “sự chối bỏ Thiên Chúa đưa tới sự sa đọa của con người và nhân loại” [1] .
Một khi con người không còn đón nhận Thiên Chúa, từ chối tình thương của Ngài, thì người ta cũng từ chối nhau.
Để tái lập quân bình, Đức Giêsu đã dùng tình yêu như sợi dây liên kết con người với Thiên Chúa cũng như con người với nhau, như lời Ngài mời gọi: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9-10).
Khi mời gọi các môn đệ “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”, Đức Giêsu muốn củng cố đức tin cho các ông. Bởi vì Đức Giêsu nói lời này lúc sắp từ biệt thế gian và các môn đệ thấy rõ giờ khổ nạn của Thầy mình đã đến gần nên các ông rất xao xuyến lo lắng. Vì thế, để trấn an các ông Đức Giêsu đã nói: “Lòng các con đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Như thế, ở lại với Chúa là vững vàng tin tưởng vào Chúa dù trong hoàn cảnh thử thách, ta vẫn cảm nhận được bình an.
Đức Giêsu mời gọi hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Nếu chúng ta giữ lệnh truyền của Đức Giêsu thì ở lại trong Đức Giêsu như Đức Giêsu giữ lệnh truyền của Chúa Cha nên Người ở lại trong tình yêu của Cha. Khi ta giữ lệnh truyền của Chúa là sống theo sự thúc đẩy của tình yêu, là lưu lại trong tình yêu để cho tình yêu của Chúa thúc đẩy ta yêu như Người đã yêu và yêu cho đến cùng. Khi chúng ta ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu có nghĩa là để tình yêu của Đức Giêsu hành động và ta làm như Chúa đã làm: thực thi bác ái, giúp đỡ người khác, săn sóc anh em đau yếu, giúp đỡ người nghèo, hy sinh khổ chế, cầu nguyện cho lương dân nhận biết Chúa, vâng phục Bề Trên hay chết đi trong những hy sinh âm thầm hằng ngày…Chính những tình yêu ấy liên kết chúng ta với Chúa và cũng chính tình yêu ấy sẽ liên kết chúng ta lại với nhau trong tình hiệp thông huynh đệ.
Ở lại trong tình yêu của Chúa là ở lại trong tình bạn hữu với Chúa, ở lại là gắn bó vĩnh viễn với Thiên Chúa trong tình yêu. Ở lại với Chúa là để đón nhận tình yêu và cùng đập chung một nhịp với Đức Giêsu là Đấng tình quân của mình. Từ đó, người tu sĩ nhận ra ánh mắt yêu thương của Người trên con đường sống đời độc thân thánh hiến. Vì thế, người tu sĩ là người sống để yêu và sống vì yêu, ngang qua các lời khấn dòng như một giao ước để nói lên tình yêu người tu sĩ như muốn khẳng định một sự dâng hiến trọn vẹn, một người bạn trăm năm của Chúa mà họ tự nguyện hiến dâng cho Thiên Chúa qua người đại diện của Giáo Hội. Khi họ kiên định trong nếp sống đan tu và tự nguyện phó thác tương lai, tự do của mình cho Thiên Chúa và Cộng đoàn, người tu sĩ đã chọn “Không lấy gì làm hơn Chúa Kitô” (TL,4) và tình yêu của Ngài. Người tu sĩ chọn Thầy Giêsu làm người lãnh đạo, làm bạn tâm giao, cho nên họ luôn nhìn ngắm cuộc đời Đức Giêsu như là yêu sách tối thượng để vươn tới.
Ở lại trong tình yêu của Chúa là yêu mến và hiệp thông với Ngài. Sự kết hiệp với Chúa, đó chính là đích điểm của người tu sĩ. Sự hiệp thông với Chúa cần thiết như hơi thở đối với thân xác, là sức sống nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của con người. Khi không gắn bó, không kết hiệp với Chúa đời sống người tu sĩ sẽ trở nên vô nghĩa như xác không hồn. Nếu không có sự say mê tìm Chúa, không cảm nghiệm được niềm vui và tình thương khi ở trong nhà Chúa, người tu sĩ sẽ cảm thấy chán nản thất vọng, chậm chí xa rời tình yêu của Chúa. Vì thế, khi hiệp thông với Chúa, chúng ta xác tín niềm tin vào sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống và trong tâm hồn mình. Đồng thời khi kết hiệp với Chúa, chúng ta cũng hiệp thông với Giáo Hội và với anh em trong sứ vụ loan báo Tin Mừng và cứu rỗi các linh hồn, thực thi bác ái trong tình huynh đệ.
Như vậy, ở lại trong tình yêu là ở lại trong bình an của Chúa, là đặt tất cả niềm tin cậy phó thác vào Chúa, chọn Chúa làm chủ và gia nghiệp cho cuộc đời. Vì thế, người tu sĩ không tìm kiếm gì khác ngoài Chúa và thánh ý của Ngài. Từ đó, người tu sĩ luôn sống tâm tình tín thác vào Cha trên trời. Điều này chúng ta thấy rõ nơi Cha Biển Đức Thuận: dù bị nhà cháy, trâu bò chết, vườn tược bị heo phá phách, nhưng cha vẫn vui hát bài ca Te Deum, như cha muốn nói với chúng ta: không phải lo lắng mà giải quyết được tất cả; trái lại, hãy chấp nhận thánh ý Chúa, vững tin và cậy trông vào Ngài. Vì không có sợi tóc nào rơi xuống ngoài ý Ngài (x. Mt 10,30). Khi sống vững tin và biết chấp nhận những sự kiện xảy ra trong cuộc sống, chúng ta mới có được niềm vui và vững vàng trong đức tin.
2. Thái độ tu sĩ trước lời mời gọi của Chúa
“Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” là một lời mời gọi đầy yêu thương và tha thiết mà Đức Giêsu không những dành cho các môn đệ của Ngài, mà còn dành cho các người sống đời thánh hiến và cho tất cả mọi Kitô hữu. Một mối tương quan mật thiết, gần gũi và sâu sắc không gì có thể chia tách được, như lời của thánh Phaolô: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu” (Rm 8,39).
Để ở lại trong tình thương của Chúa, chúng ta không chỉ hiệp thông với Chúa mà còn phải hiệp thông với Giáo Hội, với anh em và tận tâm phục vụ người khác. Lòng thương xót, sự tha thứ và bác ái với anh em là bằng chứng sống động cho tình yêu mến dành cho Chúa. Thánh Gioan đã nêu rõ: “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình thì vẫn còn ở trong bóng tối. Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm” (1Ga 2,9-10). Yêu thương tha nhân chính là cốt lõi của đạo Công giáo. Do đó, sống tình yêu thương hiệp thông là biết xót thương người khác như Chúa đã xót thương chúng ta; là để dấn thân phục vụ như Đức Kitô đã đến để phục vụ. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nổ lực hết mình trong việc chết đi cho chính mình, chết đi hằng ngày hằng giờ, chết đi trong những ý riêng, trong những việc hi sinh khổ chế, trong việc trao ban thì giờ, sức lực. Vì một khi thực sự chết đi như thế, chúng ta sẽ cảm nghiệm được niềm vui trọn vẹn trong Đức Kitô.
Đời sống người tu sĩ là một cuộc hành trình tìm Chúa và làm vinh danh Chúa. Vì thế, chúng ta cần ở với Chúa để được Chúa huấn luyện và biến đổi để trở nên con người sống theo thần khí. Để được Chúa biến đổi, người tu sĩ cần sống tốt tương quan tình bạn mật thiết với Đức Giêsu qua những giờ cầu nguyện, qua thần vụ, lao tác, vui chơi giải trí, nhất là gặp gỡ Đức Giêsu trong Thánh Thể. Nhờ sự kết hiệp, thinh lặng và lắng nghe sẽ giúp cho Lời Chúa đi sâu vào tâm hồn để thúc đẩy chúng ta hành động, biến đổi ta trở thành khí cụ lòng thương xót của Chúa.
Tuy nhiên, ở lại trong tình yêu của Chúa – điều này là khó khăn nhất đối với mọi người, có nghĩa là làm điều Đức Giêsu đã làm, thực hành Lời Chúa dạy như: khi chúng ta thiếu trung thực với bề trên, chúng ta không ở lại trong Đức Giêsu. Khi chúng ta không tha thứ cho người anh em, hơn thua, đố kỵ, chúng ta không ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu. Khi không yêu mến nhau, ta không ở lại trong Chúa và hậu quả sẽ dẫn đến sự xa lìa tình thương của Thiên Chúa.
Lời mời gọi của Đức Giêsu: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”, không phải là một mệnh lệnh mang tính áp đặt, nhưng là lời mời gọi chúng ta đến và ở lại với Người trong một tinh thần tự do và trách nhiệm. Khi đã đáp lại lời mời gọi của Chúa là đồng thời cũng chấp nhận khước từ những gì thế gian mời gọi chúng ta. Khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã ở lại trong tình yêu Đức Kitô; đặc biệt qua lời khấn dòng, người tu sĩ một lần nữa công khai khước từ những gì thế gian mời gọi để ở lại trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn. Thế nhưng, chúng ta có thực sự đáp lại lời mời gọi đó hay không? Với Thực tế trong đời sống hằng ngày, đôi khi chúng ta lãng quên tình yêu và lệnh truyền của Chúa khi chúng ta đặt tiêu chuẩn cho việc yêu thương, cho tinh thần bác ái…theo tiêu chuẩn và ý riêng của mình, mà không theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa và giáo huấn của Hội dòng. Khi không yêu thương theo tiêu chuẩn Thiên Chúa, chúng ta tự tách mình ra khỏi tình thương của Ngài. Lối sống này biểu lộ xu hướng bất vâng phục, sống theo ý riêng, tách biệt với cộng đoàn.
Thực tế khá nhiều bạn trẻ có khuynh hướng “vượt rào”: họ muốn giữ luật một cách “thoải mái”, tự do hơn trong mọi hành động để “hòa nhập” với truyền thống văn hóa và sự phát triển của xã hội. Nhưng kinh nghiệm cho thấy khi không thận trọng, họ dễ xa rời căn tính đời sống đan tu và có thể gây ra những hậu quả tai hại và khi tỉnh ngộ thì đã quá muộn. Mặt khác, trong đời sống thiêng liêng, chúng ta ở trong nhà Chúa nhưng hãy tự hỏi: Liệu tôi có đón nhận tình yêu và ân sủng Chúa ban cho tôi không; tôi có thực sự để cho Lời Chúa ngự trị trong tôi và biến đổi tâm hồn tôi trở thành khí cụ tình yêu của Chúa; tôi có thực sự đón nhận niềm vui khi ở trong nhà Chúa hay tôi lại mơ ước về “những miền đất xa xôi” nào đó, để rồi làm ngơ trước tiếng gọi của Chúa. Chúa đã mời gọi “hãy ở lại với Chúa”, nhưng chúng ta có thực sự đáp trả dứt khoát hay vẫn sống trong sự bàng quan, an phận, để rồi khước từ tình thương và niềm vui mà Chúa đã mời gọi.
Tóm lại, tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, thì đem lại niềm vui và hạnh phúc. Vì Thiên Chúa là suối nguồn của tình thương, nên ở lại trong tình yêu của Chúa là để Chúa nuôi dưỡng và chữa lành tâm hồn. Quả thật, nơi Đức Kitô, hạnh phúc vượt trên mọi giá trị trần gian, vượt qua mọi quyến rũ của danh vọng và quyền lực thế gian. Bởi thế, nếu chúng ta đi tìm hạnh phúc ngoài tình yêu của Đức Kitô thì không có hạnh phúc an vui đích thực. Chỉ có tình yêu của Chúa mới biến đổi được tất cả những rác rưởi của tâm hồn con người. Vậy “ở lại trong tình yêu của Chúa” là để cho tình yêu viên mãn ngự trị qua việc chúng ta thực hành Lời Chúa dạy, đón nhận và bảo vệ niềm vui của Chúa ở trong mình; đồng thời, trở nên khí cụ bình an, lòng thương xót của Chúa nơi mọi người.
Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy, chúng ta đáp lại lời mời gọi của Chúa như thế nào? Chính cuộc đời chúng ta sẽ là câu trả lời sống động cho lời mời gọi đó. Hy vọng nhờ việc ở lại trong Chúa, chúng ta sẽ cảm nghiệm được niềm vui trọn vẹn khi ở trong nhà Chúa, được biến đổi nên giống Đức Kitô đầy tình thương trong sự trao ban tình yêu, trong sự cho đi tất cả, hy sinh tất cả, dâng hiến tất cả.
[1] Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI phát biểu tại Assisi nhân ngày cầu nguyện cho thế giới hòa bình 27-10-2012
ƠN GỌI TÌNH YÊU
TRONG LÒNG MẸ GIÁO HỘI
M. Phaolô Thánh Giá _Đan viện Phước Hải
Thánh Gioan xác quyết: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,18.16). Điều này nói lên phẩm tính của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả một tình yêu hành động, một tình yêu tự hiến: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để những ai tin vào Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời (x. Ga 3,16). Chính tình yêu là con đường Thiên Chúa đến với con người hầu cứu độ và dẫn đưa con người đạt đến chân lý vẹn toàn.
Cảm nhận được tình yêu trao ban khởi đi từ Thiên Chúa, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng đã chọn con đường tình yêu đi đến với Ngài bằng đời sống thánh thiện và nhiệt tâm xây dựng Hội Thánh. Với tình yêu nồng thắm bắt nguồn nơi Thiên Chúa, thánh nữ đã nhận ra ơn gọi và vai trò của mình trong lòng Hội Thánh: “Trong Lòng Mẹ Hội Thánh, con sẽ là tình yêu”. Vì thế, khi suy tư về ơn gọi của Thánh Nữ, người viết muốn giới hạn bài viết với những ý tưởng nhỏ bé như sau.
– Trong lòng Mẹ Hội Thánh, con sẽ là tình yêu.
– Làm mọi việc vì tình yêu, để cứu rỗi các linh hồn.
– Sống tin tưởng phó thác vào tình yêu của Chúa.
1. Trong lòng Mẹ Hội Thánh, con sẽ là tình yêu
Được sống trong Lòng Mẹ của Hội Thánh, chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được ngụp lặn trong suối nguồn tình yêu của Chúa một cách sung mãn. Sau khi phải trải qua những đêm tối đức tin của mình, thánh nữ đã nhận ra ơn gọi và vai trò của mình trong Hội Thánh: đó là tình yêu. Với trái tim bừng cháy yêu thương, thánh nữ xác tín rằng tình yêu là động lực giúp Hội Thánh làm trọn ơn gọi của mình qua việc nhiệt tâm loan báo Tin Mừng, dám hy sinh tính mạng để làm chứng cho đức tin. Thánh nữ đã nói lên ý hướng này trong bản tự thuật Một Tâm Hồn:
“Khi suy nghĩ về thân thể mầu nhiệm của Hội Thánh, con chẳng thấy mình thuộc loại chi thể nào trong các loại thánh Phaolô mô tả, hay con muốn đồng hóa mình trong mọi chi thể đó. Đức ái cho con chìa khóa để tìm ra ơn gọi của con. Con hiểu rằng Hội Thánh có một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Con hiểu rằng Hội Thánh có một trái tim và trái tim đó bừng cháy tình yêu. Con hiểu rằng chỉ có tình yêu mới làm nên chi thể của Hội Thánh hoạt động và nếu tình yêu tắt ngúm thì các tông đồ sẽ chẳng loan báo Tin Mừng nữa, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình ra… con hiểu rằng tình yêu là tất cả, nó bao trùm mọi nơi mọi thời…, tắt một lời, tình yêu tồn tại.
Bấy giờ, vào lúc tình yêu dạt dào ngây ngất, con đã reo lên: Ôi Giêsu, Tình Yêu của con…ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy, ơn gọi của con chính là tình yêu…Vâng, con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh và chỗ đứng này, Ôi Thiên Chúa của con, chính Chúa đã ban cho con. Trong lòng Hội Thánh, Hiền thê của con, con sẽ là tình yêu. Như thế, con sẽ là tất cả” [1] .
Khi ý thức ơn gọi của mình là Tình Yêu, cuộc đời Thánh nữ đã mở ra một biên cương rộng lớn hơn: biên cương của phục vụ và hướng tới sứ vụ. Có lần chị nói: “Nhờ yêu thương Thiên Chúa với tình yêu mà chị đã dâng hiến chính mình…và chị dâng lên Thiên Chúa tình yêu bởi vì tình yêu thành toàn mọi ơn gọi. Thánh Gioan Thánh Giá có viết: một tác động nhỏ nhất của tình yêu tinh ròng thì hữu dụng cho Hội Thánh hơn tất cả công việc khác?” [2] .
Cảm nhận được ơn gọi của mình là do tình yêu của Thiên Chúa ban, thánh nữ đã làm cho tình yêu của mình được triển nở và đạt đến cùng đích của nó. Ngang qua tình yêu, thánh nữ dám chấp nhận tất cả những khổ đau để cứu các linh hồn bằng chính ơn gọi chiêm niệm của mình.
2. Làm mọi việc vì tình yêu, để cứu các Linh hồn.
Trong thư gửi tín hữu Corintô, Thánh Phaolô khuyên: “Dù ăn, dù uống, hay bất cứ làm việc gì hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10, 31). Đây cũng là nhân tố giúp thánh nữ hiến dâng trọn cuộc sống cho tình yêu Thiên Chúa và tha nhân bằng những việc làm cụ thể. Chị thánh đã thổ lộ bí quyết nên thánh của mình tình yêu: “Tình yêu được minh chứng bằng hành động; chị đã cố gắng không bỏ qua một hy sinh nhỏ nhặt nhất hay cái nhìn hay một lời nói nào – nhưng biết tận dụng tất cả mọi cơ hội để làm hữu ích cho chị. Chị sẽ đau khổ, nhưng luôn vui tươi, bởi chị luôn tràn đầy tình yêu của Chúa”[3] . Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu luôn dâng lên Chúa những hy sinh, đau khổ với những công việc hằng ngày; khâu một mũi kim thánh nữ cũng dâng cho Chúa: “Lạy Chúa, con dâng mũi kim khâu này cho Chúa vì tình yêu để làm vinh danh Chúa và xin Chúa cho con một linh hồn” [4] . Cuộc đời của Thánh Nữ đã trải nghiệm ngang qua những đau khổ và thử thách bằng cách dám chấp nhận tất cả. Nhiều lần thánh nữ đã khao khát chịu đau khổ vì: “Tuy gai nhọn đâm xé chúng ta, nhưng nó để cho hương thơm tình yêu tỏa ra: Dưới gánh nặng đè con đau khổ, con chứng minh Chúa cả tình yêu. Sướng vui con chẳng muốn nhiều, hy sinh dâng hiến sớm chiều mà thôi” [5] . Như vậy, tình yêu sẽ là chìa khóa giúp cho thánh nữ vượt thắng tất cả những đau khổ thử thách trong hành trình dâng hiến, bằng cách quy hướng tất cả cho tình yêu Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn khi sống hoàn toàn phó thác vào vòng tay từ ái của Ngài.
3. Sống tin tưởng phó thác vào tình yêu của Chúa
Cuộc đời của thánh nữ được thêu dệt bởi chuỗi ngày sống tin tưởng phó thác vào tình yêu Thiên Chúa. Trong lá thư gửi Chị Pauline, thánh nữ nói : “Em là quả bóng của Chúa Giêsu Hài Đồng, hoàn toàn vào việc sử dụng của Ngài”. Nói theo cách của thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Thánh nữ luôn coi mình là khí cụ trong bàn tay yêu thương của Chúa, để Ngài sử dụng vì lợi ích Hội Thánh và vì phần rỗi của con người.
Đồng thời, lời của Thánh Vịnh 130 cũng phần nào diễn tả bước đường theo Chúa của thánh nữ, đó là đặt để nơi Chúa tất cả với một tâm hồn đơn sơ của trẻ thơ. Như người con thơ nép vào lòng mẹ, cuộc đời của thánh nữ cũng được vòng tay yêu thương của Chúa ôm ấp và chở che. Nhờ đó, tâm hôn luôn được an vui và hạnh phúc: “Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con hồn lặng lẽ an vui. Cậy vào Chúa Israel ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm” ( Tv 130).
Nói như thế, không có nghĩa là cuộc đời của thánh nữ được xây đắp bởi cuộc sống bình yên và không gặp phải thử thách đau khổ nào. Đã là con người, thì luôn mang nơi mình những bất toàn yếu đuối, những cám dỗ về thế tục và cả về phương diện đức tin. Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu cũng không ở ngoài biên độ ấy. Tuy nhiên, dù gặp đau khổ, thử thách nặng nề, thánh Têrêxa vẫn luôn tuyệt đối tín thác vào Chúa. Thánh nữ quả quyết: “Chúa sẽ mệt mỏi, sẽ chán thử thách con, chứ không bao giờ con hoài nghi Chúa … không phải con giữ được linh hồn sạch tội trọng mà con trông cậy vào Chúa đâu, cả khi con phạm tất cả các tội lỗi người ta có thể phạm, con cũng không mất lòng tin tưởng phó thác vào Chúa. Lúc đó con sám hối, ăn năn, con gieo toàn thân vào cánh tay Chúa cứu độ con… tất cả những tội đó sẽ tan đi như giọt nước, tan biến trong ngọn lửa yêu thương đang bừng cháy” [6] . Tinh thần phó thác được thánh nữ diễn tả tâm hồn phó thác hoàn toàn cho Chúa. Thánh nữ nói:“Chúa nhớ chăng thánh ý Ngài, nghỉ ngơi hạnh phúc nhất đời của con, con phó thác ngủ ngon, không sợ, trong tay Ngài cứu Chúa của con”. Thánh nữ viết thêm trong tập thơ mấy lời như sau: “Trong tay Chúa, con sợ gì bão táp, phó trót mình, luật duy nhất đời con, bên lòng Chúa, kề nhan thánh, ngủ ngon. Đây chính là Thiên Quốc lòng con đó”[7] .
Thánh nữ luôn ý thức rằng ở trần gian này, chỉ cần thi hành một điều quan trọng là dâng lên Thiên Chúa tất cả những hy sinh nho nhỏ gặp trên đường đời. Thánh nữ biết mình mỏng dòn yếu đuối tựa bình sành dễ vỡ, nên ngài đã đặt để cuộc đời trong sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa: “Tình yêu của Chúa đã đi trước con đã lớn lên trong con”. Vả lại, Thiên Chúa có thể làm mọi sự sinh ích cho những ai yêu mến Ngài (x. Rm 8,28). Điều này giúp thánh nữ sống khiêm tốn và tín thác. Đồng thời, cũng là một lực đẩy mạnh mẽ thôi thúc thánh nữ truyền giảng Tin Mừng tình yêu để muôn người được cứu độ và nhận biết chân lý (x.1Tm 2,4)[8] .
Kết
Ơn gọi là một huyền nhiệm của Thiên Chúa mà không ai có thể thấu cảm được như Chúa đã từng nói với các môn đệ: “không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15,16). Chính nhờ vào sức mạnh của Chúa mà Thánh Nữ Têrêxa đã nhận ra ơn gọi của mình với một điều hết sức hùng hồn: “Trong lòng Mẹ Hội Thánh, con sẽ là tình yêu”; một tình yêu dâng trọn cho Chúa, sống và làm chứng cho ttnh yêu của mình cách sống động trong đời sống chiêm niệm. Chính mầu nhiệm ơn gọi đó, chị Thánh đã sống hết mình vì Chúa và vì phần rỗi các linh hồn, sống phó thác cho Thiên Chúa cách vô điều kiện. Nhờ đó, dù chỉ sống vỏn vẹn hai mươi tư năm trên dương thế, nhưng chị trở thành một vị đại truyền giáo lừng danh bằng đời sống hy sinh âm thầm của chị. Là những người em đang dấn thân theo Chúa, chúng ta cũng phải khám phá ơn gọi của chính mình trong lòng Mẹ Giáo hội để sống ý thức hơn.
[1] Hương Việt, Truyện Một Tâm Hồn, Tr 5-6.
[2] Thánh Têrêxa HĐGS, Học Thuyết Con Đường Nhỏ Yêu Thương, tr 164.
[3]Thánh Têrêxa HĐGS, sđd, tr 164
[4] Hương Việt, Truyện Một Tâm Hồn, Tr 207
[5]Trích Tinh Thần của Thánh Têrêxa HĐGS, tr, 207
[6] Truyện Một Tâm Hồn, Lời dẫn, Hương Việt biên soạn, Tr 8
[7]Trích Tinh Thần Của Thánh Têrêxa HĐGS, tr 151.
[8] Truyện Một Tâm Hồn, Lời dẫn, Hương Việt biên soạn, Tr 293
THEO CHÚA
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình,
vác thập giá mình mà theo” (Lc 9, 23)
FM. Ignatio Hoàng Quốc Toản_Đan viện Phước Sơn
Khi viết cho các tín hữu Philipphê, thánh Phaolô mời gọi “anh em hãy có những tâm tình của Đức Giêsu Kitô” (Pl 2,5). Nhưng tâm tình của Đức Giêsu Kitô là gì? Thánh nhân viết tiếp: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa… nhưng Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. …” (Pl 2,6-11). Những lời này của thánh Phaolô được xem như tóm lược toàn bộ mầu nhiệm tự hủy trong cuộc đời và sứ mạng của Đức Giêsu.
Bản tóm lược này cho thấy rõ sứ mạng của Đức Giêsu trên cuộc hành trình trần thế là một chuỗi những từ bỏ. Khởi đầu là từ bỏ địa vị cao sang, ngang hàng với Thiên Chúa để trở nên kiếp phàm nhân; từ bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa để mặc lấy thân nô lệ; từ bỏ sự tự do của Đấng Toàn Năng để đón nhận giới hạn qua sự vâng phục; từ bỏ sự sống vĩnh cữu để đón nhận cái chết khổ hình trên thâp giá.
Nếu thập giá đã gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Đức Giêsu, thì thập giá cũng gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của người môn đệ Ngài. Nếu thập giá đã là hòn đá vấp phạm cho các môn đệ Chúa ngày xưa, thì thập giá đó vẫn có thể là hòn đá vấp phạm cho những người theo Chúa hôm nay. Vì thế, khi ngỏ lời với những kẻ muốn theo Ngài, Đức Giêsu đã nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo!” (Lc 9,23).
1. Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình (x. Lc 9, 23)
Theo Đức Giêsu, không phải là một mệnh lệnh, nhưng là một lời mời gọi những “ai muốn theo”. Có nghĩa là nói lên sự tự do quyết định của mỗi người trước lời mời gọi của Chúa. Khi quyết định bước theo Ngài thì phải chấp nhận một quy luật tất yếu là chọn lựa và từ bỏ. Bởi đó là điều kiện đầu tiên Đức Giêsu đòi hỏi “những ai muốn theo Ngài phải từ bỏ mình”, nhưng thế nào là từ bỏ mình?
Từ bỏ mình, không có nghĩa là hủy hoại thân xác mình, cũng không phải là đánh mất những giá trị nhân bản, phủ nhận nhân phẩm của mình, vì mọi người đều là công trình sáng tạo và là hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1, 27). Nên họ không những không được hủy hoại mình, mà còn phải làm cho mình phát triển xứng với phẩm giá mà Thiên Chúa đã tặng ban. Chính Thánh Phaolô cũng khẳng định: Mỗi người là Đền Thờ của Thiên Chúa, và là nơi Thánh Thần Thiên Chúa ngự. Vậy ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy là chính mỗi người (x. 1Cr 3,16-17). Do đó, họ không những có bổn phận phải gìn giữ, mà còn được mời gọi hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác mình (x. 1Cr 6, 20).
Như thế, sự từ bỏ mà Đức Giêsu đòi hỏi người theo Chúa phải thực hiện là: “từ bỏ hết những gì mình có” (Lc 14,33). Với kinh nghiệm của người đã từ bỏ tất cả và nhiệt tâm theo Chúa, thánh Tông Đồ đã liệt kê rõ ràng những điều mà người theo Chúa phải từ bỏ là: “Từ bỏ thái độ ngoan cố chẳng chịu tin (Rm 11,23); từ bỏ tính giận dữ, nóng nảy, độc ác, thoá mạ, ăn nói thô tục (Cl 3,8); từ bỏ ngẫu tượng (1Tx 1,9); từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục (Tt 2,12); từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương cùng mọi lời nói xấu gièm pha” (1Pr 2,1); là từ bỏ con người tội lỗi cùng các dục vọng, thói xấu đang lôi kéo nơi con người xác thịt của mình(x. Rm 13, 14). Thánh Phaolô coi sự từ bỏ này như một cuộc trở về từ cõi chết (x. Rm 6,13), nên thánh nhân khuyên: Anh em đừng dùng chi thể của mình như khí cụ để làm điều bất chính, phục vụ cho tội lỗi nữa. Trái lại hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của mình như khí cụ để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa (x.Rm 6,13), và để tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác mình (x. 1Cr 6,20). Nhưng làm cách nào để tôn vinh Thiên Chúa cho xứng hợp? Thánh nhân mời gọi: “Anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,1-2).
Như thế, “từ bỏ mình” là từ bỏ những gì đối nghịch với ý muốn, đường lối, kế hoạch của Thiên Chúa thực hiện nơi chính bản thân mình. Từ bỏ tất cả để bước theo Đức Giêsu và thực thi những giáo huấn của Ngài dưới ánh sáng của Tin Mừng (x. Mt 19,21). Do đó, từ bỏ mình là một hành động xây dựng bản thân, chứ không phải là phá hủy; là tìm lại sự sống chứ không phải sự chết. Vì ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Đức Kitô và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy (x. Mc 8,35). Nhưng để từ bỏ mình mỗi ngày theo lời mời gọi của Chúa không phải là chuyện dễ dàng, đây quả là chuỗi ngày vác thập giá trong đời theo Chúa.
2. Vác thập giá mình mỗi ngày (x. Lc 9, 23)
Thập giá mà Đức Giêsu mời gọi những ai muốn theo Chúa phải vác mỗi ngày, không phải những thập giá bằng vàng, bạc hay gỗ, đá… cũng không phải là những thập giá thật lớn mà người ta thường vác trong đêm diễn nguyện hay trong ngày thứ 6 Tuần Thánh. Nhưng thập giá Đức Giêsu nói ở đây là cái giá mà người theo Chúa phải trả, khi họ dám sống triệt để lời mời gọi của Tin Mừng. Vác thập giá bước theo Đức Giêsu, cũng là cách diễn tả sự gắn bó và cùng thông phần đau khổ, cùng nên đồng hình đồng dạng, cùng chia sẻ con đường thập giá với Ngài (x. Pl 3,10). Chính thánh Phaolô đã sống và chia sẽ: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,19-20). Từ kinh nghiệm này, thánh nhân dám khẳng định: “Những ai thuộc về Ngài thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,24). Như thế, vác thập giá theo Đức Giêsu cũng có nghĩa là tự nguyện hy sinh, hãm mình và đón nhận cả những hành vi sám hối, canh tân mỗi ngày để cố gắng uốn nắn cho mình nên giống Đức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm tự hủy. Phải nói lên tiếng xin vâng trước những đòi hỏi của sứ vụ, chấp nhận thử thách, đau khổ, để trung thành với Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài.
Do đó, người bước theo Đức Giêsu, họ mang nơi mình tâm tình của Đức Giêsu (x. Pl 2,5-11), để nói được như thánh Phaolô: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mìnhchúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi” (2Cr 4, 10-11). Không những thế, họ còn dám hy sinh cả mạng sống mình vì muốn trungthành với Đức Giêsu và sứ mạng của Ngài, họ gắn kết với Ngài đến nỗi “có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa, vì dù sống, dù chết, chúng tôi vẫn thuộc về Chúa” (Rm 14,8).
3. Những thách đố của con đường thập giá
Để có thể từ bỏ mình, vác thập giá theo Đức Giêsu một cách triệt để không phải là việc dễ dàng thực hiện. Đặc biệt là khi sống trong một xã hội mà thái độ sống của nhiều người thường mang nặng tính thực dụng và hưởng thụ, nên họ có khuynh hướng muốn hưởng thụ mà không muốn hy sinh. Bởi vậy, khi mời gọi họ đến hưởng phần thưởng từ lời chúc phúc của Chúa, thì dễ dàng đón nhận, nhưng khi mời gọi bước theo Chúa trên đường thập giá, hy sinh thì dễ bị họ khước từ.
Thật ra, thái độ này không chỉ có nơi những người theo Chúa ngày hôm nay, mà đã có từ xa xưa, ngay cả các môn đệ thân tín của Đức Giêsu cũng không thoát khỏi não trạng này. Chính tông đồ Phêrô, khi xem thấy vinh quang Chúa trên núi thì ông đã vui mừng và muốn ở lại đó (x. Lc 9,33); thế mà, khi nghe Chúa loan báo về cuộc thương khó sắp tới thì ông lại can ngăn (x. Mc 8,32). Cũng như các tông đồ Đức Giêsu ngày xưa, ngày nay nhiều người cũng muốn theo Đức Giêsu lên núi Taborê (x. Mt17,1-8), nhưng chẳng mấy ai muốn theo Ngài lên núi Calvê (x. Mt 27,32)! Bởi họ thường bị cám dỗ đi theo Đức Giêsu để tìm sự “tiến thân” hơn là để “hiến thân”. Với kinh nghiệm lâu năm của một nhà đào tạo ơn gọi, cha Alex Rebello đã có lần nhận xét:“Cám dỗ thường xuyên nơi người theo Chúa Giêsu là tìm kiếm một Chúa Giêsu không có Thánh giá, là hình dung một thứ Kitô giáo dễ dãi nào đó, là khao khát một thứ Tin Mừng không khổ lụy. Nghĩa là không có đau khổ, hy sinh hiến mình trong ơn gọi. Vì thế, khi không đạt được ý nguyện đặt ra thì họ cảm thấy đau khổ chán nản, phải tự mình vác lấy những đau khổ ấy như những thập giá mà không có Chúa Giêsu hiện diện, từ đó, họ dễ dàng có thái độ chán nản và thất vọng”. Có lẽ, đây là một sự ngộ nhận, vì muốn hưởng phần thưởng của những lời chúc phúc trên núi, nhưng lại quên mình phải leo lên núi để đón nhân lời chúc phúc.
Vì những lời chúc phúc của Chúa không phải là một kho tàng mà người ta có thể nhặt được trên đường đi, hay người ta có được nhờ may mắn trúng số, nhưng đây là một kho tàng được chôn dấu trong ruộng. Những ai muốn có được thì phải chấp nhận đánh đổi, phải bán hết tất cả những gì mình có để mua thửa ruộng ấy và phải hy sinh vất vã, phải đào xới kiếm tìm (x. Mt 13,44). Bởi vậy, con đường dẫn ta đến lãnh nhận lời chúc phúc là con đường của từ bỏ, của hy sinh. Con đường của thập giá như là sự cố gắng của con người cùng với sức mạnh, quyền năng và sự hướng dẫn của Thiên Chúa trong cuộc nhân sinh.
Chính Đức Giêsu, Đấng đã nêu gương về con đường dẫn tới lãnh nhận những lời chúcphúc. Bởi vậy, những ai muốn đến lãnh nhận những lời chúc phúc ấy không thể không đi qua con đường duy nhất là Đức Kitô. Vì “chính Ngài là con đường, là sự thật,và là sự sống. Không ai có thể đến được với Chúa Cha mà không qua Ngài” (x. Ga 14, 6). Đến với Đức Kitô để cùng sống với Ngài và đi theo Ngài. Nhưng con đường Đức Giêsu đã đi là con đường nào, nếu không phải là con đường lao nhọc vất vả, con đườngcủa khổ giá hy sinh và cái chết quên mình, để chứng minh cho tình yêu cứu độ?
Thật vậy, sống theo gương Đức Giêsu thì không thể loại bỏ những hy sinh vất vả khó nhọc ra khỏi cuộc sống. Nói thế không có nghĩa là chủ trương học thuyết thống khổ, đề cao và coi đau khổ như là phương tiện cứu rỗi. Phải xác định ngay rằng: tự bản chất đau khổ không có giá trị gì, nếu nó không được thánh hoá bởi mầu nhiệm thập giá của Đức Giêsu và liên đới với Ngài. Bởi vậy, những ai muốn hưởng những lời chúc phúc mà Đức Giêsu đã hứa trên núi (x. Mt 5, 1-12) thì họ cũng phải chấp nhận vác thập giá lên núi với Đức Giêsu (x. Lc 23,16).
4. Cùng chết với Đức Kitô ( Rm 6, 8).
Qua mầu nhiệm nhập thể, Đức Giêsu đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta (x. Ga 1,14). Ngài đến không phải như một vị thần giáng lâm trong thần thoại Hy lạp, hay thần thoại Ấn giáo. Nhưng chính Ngài đã mặc lấy bản tính chúng ta, cùng liên đới với thân phận yếu hèn của chúng ta (x. Dt 4,15) và nhận lấy cái chết để đem lại cho chúng ta sự sống mới. Vì Ngài là Ađam mới và là thủ lãnh của nhân loại mới (x. 1Cr 15,45; Rm 5,14), Người mang tất cả chúng ta trong Người khi chết trên Thập giá (x. 1Pr 2, 24). Do đó, cái chết của Ngài là một cái chết ân sủng, cái chết cứu độ, để trong cái chết của Người, tất cả chúng ta cũng phải chết đi con người cũ, chết cho tội lỗi thì mới được tham dự vào sự sống mới với Ngài (x. 2Cr 5,14-17).
Cái chết này phải là một thực tại hiện hữu nơi mỗi cá nhân từ khi họ lãnh nhận bí tích thánh tẩy: cùng chết, cùng được mai táng với Đức Kitô thì mới được sống lại với Ngài trong sự sống mới (x. Rm 6,4). Thánh Phaolô liệt kê những điều người tín hữu phải chết, đó là chết cho tội lỗi (x. Rm 6,11); cho con người cũ (x. Rm 6,6); cho nhụcthể (x. Gl 5,24); cho thân xác (x. Rm 6,6; 8,10); cho lề Luật (x. Gl 2,19); cho những gì thuộc thế gian (x. Cl 2,20).
Cùng chết với Đức Kitô là chấp nhận đóng đinh con người cũ vào thập giá với Ngài, để hủy diệt thân xác tội lỗi, và không còn là nô lệ của tội lỗi nữa. Từ nay sống là sống cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô (x. Gl 3,26), sống kết hợp, nên một với Ngài, để nói được như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm là sống trong niềm tin vào conThiên Chúa Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20-21). Vì cùng chịu chết, chịu mai táng và sống lại với Đức Kitô trong sự sống mới, nên người tín hữu không để cho tội lỗi ngự trị trong thân xác của mình nữa, và không được dùng các chi thể của mình để phục vụ tội lỗi như dụng cụ của bất công nữa, nhưng dùng chúng như dụng cụ của sự công chính và phụng sự Thiên Chúa. (x. Rm 6,12-13).
Nếu trước đây, họ nô lệ tội lỗi và dùng chi thể của họ để phục vụ sự ô uế và gian ác để dẫn đưa họ tới cái chết, thì giờ đây họ phải cố gắng sống vâng phục Thiên Chúa để nên thánh (x. Rm 6,16), là được tham dự vào đời sống mới với Đức Kitô. Đời sống mới mà họ được tham dự vào, không khác gì hơn là con người mới, đời sống mới của chính Đấng Phục sinh (x. Ep 2,5).
Dù là con người mới, con người được tham dự vào sự sống mới với Đức Giêsu Kitô phục sinh, nhưng họ cũng không thể tránh khỏi dấu ấn của thập giá trong cuộc lữ hành đức tin. Vì chính Đức Giêsu Kitô Phục sinh, khi hiện ra với các môn đệ, Ngài vẫn còn mang những vết thương của của cuộc khổ nạn ở trên mình (x. Ga 20,27). Bởi đó, người môn đệ của Đức Kitô không chỉ mang nơi mình dấu ấn của thập giá nhưng còn mang cả cuộc thương khó của Đức Giêsu Kitô để sự sống của Ngài cũng được biểu lộ khi họ sống và loan báo Tin Mừng của Ngài (x. 2Cr 4,10).
5. Mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Kitô (2Cr 4, 10).
Nếu thập giá luôn gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Đức Giêsu, thì thập giá cũng không thể tách lìa khỏi đời sống và sứ mạng của môn đệ Ngài, vì họ là chi thể trong thân mình Ngài là Giáo Hội (x. Ep 5,23). Dưới nhãn quan này mà TGM Thimothy M.Dolan đã có lần khẳng định: “Tôi không tin rằng, có một thời kỳ nào đó trong Giáo Hội, thân mình của Chúa Kitô, lại không có thập giá. Không thể được. Vì thập giá là một phần thiết yếu, không thể miễn trừ được khi người ta đi theo Chúa Kitô”.
Thật vậy, khi Đức Giêsu Kitô Phục sinh hiện ra với các môn đệ, thân mình Ngài vẫn còn mang những thương tích của cuộc khổ nạn (x. Ga 20,27); nên Giáo Hội là thân mình Đức Kitô cũng không được xoá bỏ khỏi mình những thương tích ấy. Hơn nữa, Giáo Hội còn mang nơi mình cả cuộc thương khó của Ngài (x. 2Cr 4,10). Cuộc thương khó mà Giáo Hội Chúa luôn mang nơi thân mình là những thách đố, những bách hại mà Giáo Hội phải đón nhận khi sống, thực thi sứ vụ rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô.
Nếu ngày xưa, khi rao giảng Tin Mừng cứu độ, Đức Giêsu đã bị thế gian bách hại thì ngày nay, khi Giáo Hội rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng Đức Giêsu, cũng không thể thoát khỏi cảnh nghi kỵ, bắt bớ của thế gian dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì chính Đức Giêsu đã nói trước: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ.Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bêeldêbun, huống chi là người nhà” (Mt 10, 24-25). Sở dĩ có sự ghen ghét, bách hại, bắt bớ xẩy ra với các môn đệ Đức Giêsu cũng là điều dễ hiểu, vì Ngài đã nói:“Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước”. Vã lại, “tuy sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, mà thế gian chỉ yêu thích những gì thuộc về nó” (Ga 15,18-19).
Do đó, Giáo Hội luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu Kitô, nghĩa là vẫn tiếp tục chịu bắt bớ, chịu đóng đinh với Ngài, vì Ngài và vì Tin Mừng. Mặc dù vậy, nhưng qua hàng ngàn năm Giáo Hội vẫn không hề sợ hãi nao núng trước mọi âm mưu của kẻ thù. Vì Giáo Hội luôn xác tín rằng: “Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt” (2 Cr 4,8-11). Chính Chúa Giêsu đã báo trước: “Vì Thầy anh em sẽ bị người ta thù ghét,” nhưng Giáo Hội luôn vững tin vào lời trấn an của Thầy Chí Thánh: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10,22-28), và “trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.” (Ga 16,33).
Sự thương khó đó không phải chỉ là những nguyên nhân ngoại tại, như sự thù ghét, bắt bớ, bách hại của thế giới hữu hình, nhưng đó cũng là những cám dỗ của những kẻ thù vô hình và cả những hy sinh, khổ chế trong đời sống của ơn gọi mình. Do đó, dù khi phải đối diện với kẻ thù hữu hình hay vô hình, nhưng Giáo Hội vẫn luôn vững tin, anh dũng chiến đấu. Giáo Hội không tìm sức mạnh nơi vũ lực, khí giới và sức mạnh của trần thế, nhưng tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người, đó là thứ vũ khí thần thiêng mà thánh Phaolô đã chỉ bảo: “Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, … Hãy đứng vững: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa.” (Ep 6,11-17). Chính nhờ những khí giới thần thiêng này, mà hàng ngàn năm qua, Giáo Hội vẫn kiên vững trước mọi thử thách bão tố và mưu đồ của thế gian và hiên ngang bước đi trên con đường thập giá tiến về niềm hoan lạc Phục sinh.
Kết luận
Là con người, ai cũng muốn cuộc đời được sung sướng, bình an, hạnh phúc và tránh đau khổ, sợ hãi sự chết chóc. Chính Đức Giêsu Con Thiên Chúa nhập thể làm người, Ngài cũng đã trải qua kinh nghiệm này. Các Tin Mừng đã ghi nhận thái độ của Đức Giêsu trước cuộc khổ hình Thập giá, Ngài cũng hãi hùng xao xuyến (x. Mc 14,33), đến nỗi “mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44), nên Ngài đã cầu xin Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này.” (Mt 26,39).
Khi nhận xét về thái độ của Đức Giêsu trước cái chết, tác giả thư gửi tín hữu Do thái đã nhận định: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết” (Dt 5,7), “vì chính Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Ngài chịu thử thách nhưng Ngài không hề mất niềm trông cậy và phó thác vào Thiên Chúa là Cha. Do đó, khi xin Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này”, thì Ngài cũng nói thêm: “xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26,39). Chính vì thế mà Ngài đã can đảm chấp nhận uống cạn chén đắng Cha trao khi can đảm bước đi trên con đường Thập giá, hiến dâng thân mình làm hy lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa để cứu độ nhân loại. Thật vậy, “Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”. (2Cr 5,15).
Noi gương Đức Kitô (x. Mt 26,39) và vâng theo lời Ngài dạy (x. Ga 16,33), người môn đệ Chúa cũng được mời gọi tiếp bước theo Ngài trên con đường thập giá để sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng cứu độ đến tận cùng trái đất (x.Mc 16, 15). Rao giảng bằng Lời và làm chứng bằng chính cuộc sống chứng nhân của người môn đệ trung tín bước theo Đức Kitô như Ngài mời gọi: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mỗi ngày” (Mc 8, 34), và họ lấy làm hãnh diện với mối tình thập tự, luôn nói được như Phaolô: “niềm vinh dự của tôi là thập giá Đức Kitô” ( 1Cr 1, 23-24).
LẠY CHÚA!
CHÚA BIẾT CON YÊU MẾN CHÚA
FM.Mai Vương An_Đan viện An Phước
Hành trình ơn gọi được kết nối bởi những chuỗi ngày yêu và được yêu. Hành trình này phát xuất từ tiếng gọi tình yêu của chính Đấng đã yêu thương và biết rõ chúng ta trước khi chúng ta biết và yêu mến Người (x.Ga 4,10); chính tình yêu Chúa đã lôi kéo và dẫn đưa chúng ta đến với Ngài.
Để thực hiện chương trình cứu độ, Đức Giêsu đã mời gọi và tuyển chọn các môn đệ đầu tiên tại biển hồ Caphacnaum năm xưa, trong đó có: Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan (x. Mt 4,18-22); tiếp theo đó Ngài cũng gọi các môn đệ khác với một cách thức như thế, và mãi cho tới ngày hôm nay là chính mỗi người Đan sĩ trong chính đời sống thánh hiến cho Thiên Chúa.
Đó là bước khởi đầu cho một ơn gọi, một tình yêu của Đấng đã và đang yêu mến những ai được Ngài tuyển chọn. Vậy chúng ta cảm nhận và đã đáp lại tình yêu của Ngài như thế nào?
1. Cảm Nghiệm Tình Yêu
Đứng trước tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, chúng ta cảm nhận rằng; Ngài đã yêu và chết vì phần rỗi con người, cho dù con người mỏng dòn yếu đuối. Với thân phận con người mỏng dòn yếu đuối, có lúc chúng ta thấy mình thật hăng hái nhiệt thành, sẵn sàng tiến bước cách mạnh mẽ với những lời tuyên xưng đầy xác quyết và dám sống chết cho tình yêu Chúa. Nhưng có lúc chúng ta lại chùn bước một cách đầy sợ hãi trước những thử thách nghiệt ngã mà trước kia chúng ta dường như không dám nghĩ đến.
Với điểm này chúng ta có thể thấy rõ nét nơi các môn đệ của Chúa xưa kia, đặc biệt là Phêrô (x.Ga 11,16 ; 13,37). Thánh nhân là một con người đầy ắp tình yêu với lòng nhiệt thành hăng say nên đã dám tuyên xưng niềm tin và tình yêu của mình đối với Thầy Giêsu, đến độ sẵn sàng chết vì Thầy (x. Ga 13,37). Nhưng những lời tuyên xưng đầy nhiệt huyết ấy đã vội lụn tắt trước thử thách bởi những câu hỏi của các người đầy tớ trong dinh thượng hội đồng, vào chính đêm mà Đức Giêsu bị bắt (x. Mt 26,69-75).
Dĩ nhiên, không phải do ông không được báo trước, nhưng vì lòng nhiệt thành quá đỗi đã che mờ đi tất cả, với lòng nhiệt thành ấy ông đã muốn chứng tỏ mình đúng và sẵn sàng sống chết vì Thầy khi ông mạnh mẽ chặt đứt tai tên đầy tớ của thầy Thượng Tế Caipha (x. Ga 18,10). Nhưng lòng nhiệt thành ấy đã chóng tan biến, để rồi ông trở nên người nhút nhát sợ hãi trước người đầy tớ trong Dinh Thượng Hội Đồng với câu nói: “Đúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilê” (Mc 14,70), nên ông đã chối bỏ người thầy mà ông luôn được kề cận yêu thương. Đứng trước thử thách ấy, ông không còn đủ mạnh mẽ, để rồi chính ông phải phủ nhận tất cả mối tương quan tốt đẹp mà bấy lâu nay giữa Thầy và trò đã có.
Vậy chúng ta cần và nên đặt câu hỏi: Tình yêu Phêrô dành cho Thầy Giêsu ở đâu? Phêrô có yêu mến Thầy Giêsu với tất cả những gì ông đã tuyên xưng hay không?
Tình yêu Phêrô dành cho Thầy Giêsu vẫn có đó, nhưng tình yêu của ông chưa đủ mạnh để vượt qua thử thách lớn lao ấy, như chính ông đã quả quyết: “Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không. Con sẽ thí mạng con vì Thầy!” (Mc 14,29 ; Ga 13,37). Tình yêu mà Phêrô dành cho Thầy Giêsu là một tình yêu chưa trọn vẹn, một tình yêu chưa được rèn luyện bởi ngọn lửa của sự thử thách. Nhưng với ánh sáng tình yêu và lòng nhân hậu của Thầy Giêsu khi trao cho Phêrô cái nhìn của yêu thương và cảm thông của Thầy, nên thánh nhân đã hiểu và biết thế nào là yêu. Với thánh nhân, yêu thương lúc này là im lặng và khiêm nhường; thánh nhân im lặng để nhớ lại và lắng nghe những gì Thầy đã nói với mình; thánh nhân khiêm nhường để nhìn ra sự mỏng dòn nơi bản thân với một tình yêu mong manh chóng tàn tựa hạt sương mai. Cũng từ đó, thánh nhân càng ý thức hơn về chính những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chính bản thân, vì không có gì mà không do Chúa thương ban (x. 1Pr 4,10).
2. Đáp Trả Tình Yêu
Phêrô sau lần vấp ngã đó, ông đã trở nên khiêm nhường hơn khi trả lời ba lần câu hỏi của Thầy Giêsu: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,15-17), và ông đã nói: “Thưa Thầy! Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,17).
Qua hình ảnh của Phêrô, chúng ta cũng tìm thấy hình ảnh mình trong đời sống thánh hiến đan tu; bởi chúng ta vẫn luôn dành cho Chúa một tình yêu, nhưng lại là một tình yêu bất toàn, vì tình yêu đó chưa được thanh luyện và thử thách. Tuy nhiên, trong những lúc như thế chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào ánh mắt yêu thương và tha thứ của Chúa như thánh Phêrô.
Chúng ta cũng nên nhìn nhận rằng, không phải chỉ mình Phêrô mà ngay cả chúng ta cũng vậy: tất cả đều dành cho Thầy của mình một tình yêu bất toàn. Nhưng điều quan trọng là chúng ta có bắt gặp được ánh mắt tình yêu bao dung của Chúa như Phêrô hay không. Chúa không đòi chúng ta yêu Chúa với một tình yêu trọn hảo, nhưng chỉ cần chúng ta yêu mến Ngài, dù đó là tình yêu nhỏ bé nhất. Vì chính Chúa đã yêu chúng ta cách nhưng không đủ để ấp yêu chúng ta bằng lòng bao dung của Ngài, mặc dù Ngài vẫn tôn trọng sự tự do của chúng ta. Điều này chúng ta thấy rất rõ qua cảm nghiệm của thánh Augustine: “Chúa tạo nên con không cần có con, nhưng để cứu độ con, Ngài cần sự cộng tác của con”.
Chúng ta biết trong tình yêu, khi yêu ai thì phải chiều. Vì lẽ đó, Chúa đã chiều Phêrô hết thảy và chấp nhận thứ tình yêu nhỏ bé của ông. Trong Tin Mừng Gioan chương 21,15-17: chúng ta thấy tác giả dùng hai lần danh từ “Agape” [1] diễn tả tình yêu mến và sự hy sinh bằng chính hai câu hỏi của Đức Giêsu, nhưng Phêrô chỉ trả lời cho Chúa về sự yêu mến của mình bằng động từ “Agapo” [2] . Sau cùng chính Chúa đã giảm dần cấp độ câu hỏi theo như ý của Phêrô bằng việc dùng chính động từ “Agapo” mà hỏi ông về tình yêu. Qua đó chúng ta nhận thấy, Chúa đã yêu và chiều ông quá đỗi.
Trong ánh mắt yêu thương của Chúa, chúng ta là tình yêu duy nhất của Ngài. Điều quan trọng là chúng ta có dám đón nhận và hướng nhìn đến ánh mắt yêu thương bao dung của Chúa, để rồi cũng như Phêrô đáp lại tình Ngài: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,17).
Thay Lời Kết
Lạy Chúa! Chúa biết con là người yếu đuối, yêu Chúa với một tình yêu bất toàn. Con đã nhiều phen trở nên mạnh mẽ như Phêrô để tuyên xưng Ngài là tình yêu duy nhất để rồi sẵn sàng chết vì Ngài, nhưng khi thử thách ập tới, con liền quên mất Chúa. Con đã vô tâm chối bỏ Chúa như chính Phêrô đã chối bỏ và còn hơn thế nữa. Nhưng lạy Chúa, Chúa biết con vẫn yêu mến Chúa. Chúa biết rõ lòng con hơn tất cả, dù tình yêu con dành cho Chúa thật nhỏ nhoi: tình yêu đó có thể nhỏ như hạt bụi dính bàn chân hay như giọt sương mai sớm tàn, nhưng con vẫn xin được nói lời mến yêu với Chúa.
Ôi! Tình yêu Chúa thật là kỳ diệu, lạ lùng biết bao. Tình yêu Chúa dành cho nhân loại, đồng thời cũng trở nên duy nhất và cá biệt cho từng đối tượng; và đối tượng tình yêu duy nhất ấy chính là con.
Lạy Chúa! Xin hãy quyến rũ con, và hãy ngỏ lời yêu với con thêm lần nữa, để cho con được trả lời với Ngài, bằng tất cả tâm tình: “Lạy Chúa! Chúa biết lòng con. Chúa biết con yêu mến Chúa!”. Amen.
Theo website: https://vi.glosbe.com
αγάπη back translations: ái tình, cưng, người yêu, tình yêu
Transliteration: agápē
Pronunciation: aˈɣapi, [aˈɣapi],
Declension lp liczba pojedyncza D. dopełniacz αγάπης / lm liczba mnoga αγάπες, D. dopełniacz αγαπών
αγάπη f. (agápi), plural αγάπες(Noun f)
Theo website: https://vi.glosbe.com
αγαπώ back translations: thích, yêu
Transliteration: agapṓ
Pronunciation: /aγapɔ/, a.ɣa.ˈpo,
Declension: αγαπώ (agapó) simple past: αγάπησα (agápisa)
C10: αγάπησα, αγαπήθηκα, αγαπημένος (Verb) null
ĐIÊN VÌ YÊU
Chúng ta vẫn thường được nghe những câu nói bình dị, quen thuộc nhưng rất ấn tượng về tình yêu, chẳng hạn: “Yêu là chết ở trong lòng một ít”[1] , hoặc “Tình yêu có thể làm nên những điều vô cùng kì diệu”. Ngoài ra, còn nhiều câu có nội dung tương tự như: “Tình yêu là mù quáng”, hay “Điên vì yêu”.
Trong bài viết này, người viết chọn chủ đề: “Điên vì yêu”, nhưng hạn từ “điên” ở đây sẽ được hiểu theo nghĩa nhất định và mang tính tích cực. Đúng vậy, nếu ai đó bị phê bình chỉ có “điên” mới làm điều đó, chỉ có điên mới yêu người đó. Điều này hoàn toàn đúng khi áp dụng vào trường hợp Đức Giêsu và các vị thánh trong Giáo hội. Nếu Đức Giêsu tự nguyện chấp nhận chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại, trở thành chuyện: “Điên rồ đối với dân ngoại và bị coi là ô nhục không thế chấp nhận được đối với người Do thái”[2] , thì đó lại là một chọn lựa khôn ngoan của Thiên Chúa. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có tình yêu lớn lao và vô điều kiện ở tầm mức ngoại thường như thế, chỉ vì yêu con người, Ngài mới có thể và có khả năng làm những chuyện phi thường không ai làm được và hiểu nổi. Nơi Đức Giêsu và các vị thánh đều diễn tả một tình yêu như vậy, cho nên được thế gian gán cho nhãn hiệu “những kẻ điên”.
“Điên vì yêu” sẽ được khởi đi từ những câu chuyện lạ lùng xảy ra trong đời thường của cuộc sống quanh ta, rồi sẽ tiếp tục được bàn đến lý tưởng sống của các vị thánh, những người muốn đi lại con đường thập giá của Đức Giêsu, và cao điểm là tình yêu Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Qua đó, chúng ta sẽ tìm thấy động lực cũng như giá trị của tình yêu trong cuộc đời. Ngòai ra chúng ta cũng được khai mở một tầm nhìn mới và cảm phục trước những quyết định chọn lựa theo phong cách riêng của họ.
1. Những câu chuyện cảm động về “điên vì yêu”.
Tình yêu tự bản chất là đẹp, là lãng mạn nhưng ở một góc độ nào đó là mù quáng, là điên rồ mà người ngoài cuộc chẳng thể nào hiểu được. Nhận định đó sẽ được làm sáng tỏ qua những câu chuyện dưới đây:
a. Hoàng tử Ma Rốc[3] : Vì yêu một dân thường, đã hủy chế độ đa thê và cải sửa Hiến pháp.
Hoàng hậu Lalla Salma sinh năm 1978 trong một gia đình trung lưu ở thành phố cổ Fes của Ma Rốc. Cha bà là một giáo viên, mẹ bà qua đời khi bà vừa được 3 tuổi. Sau khi mẹ qua đời, cô bé Lalla Salma sống cùng với bà nội của mình.
Khi còn là học sinh, Lalla Salma luôn là một cô bé có thành tích xuất sắc. Lalla Salma tốt nghiệp kỹ sư công nghệ thông tin năm 22 tuổi, sau đó bà làm việc cho Omnium Nord Africain, một tập đoàn tư nhân hàng đầu Ma Rốc có vốn đầu tư của hoàng gia. Có thể nói, Lalla Salma vừa là một người xinh đẹp lại vừa tài năng.
Đầu năm 1999, Quốc vương Mohammed khi ấy còn là Thái tử, trong một lần tham dự bữa tiệc tối cá nhân đã gặp Lalla Salma. Thái tử vừa gặp Lalla đã bị thu hút và đem lòng yêu mến.
Sau khi hai người hẹn hò được 3 năm, thì Thái tử Mohammed khi ấy đã lên ngôi vua và cầu hôn Lalla. Lalla khi ấy không nhận lời ngay, bà thổ lộ rằng: Bản thân bà chỉ có thể chấp nhận cảnh một vợ một chồng, nếu như Quốc vương Mohammed muốn kết hôn với bà thì phải hủy bỏ tập tục “đa thê” của hoàng cung.
Ở những đất nước Ả Rập nói chung và đất nước Ma Rốc nói riêng thì địa vị của người phụ nữ là thấp kém. Thậm chí đến ngày nay vẫn còn một số đất nước ở đây theo chế độ đa thê.
Tình yêu sâu đậm mà Quốc vương Mohammed dành cho Lalla Salma đã chiến thắng tất cả và ông đã đồng ý với yêu cầu này.
Quốc vương Mohammed đã gạt bỏ mọi sự cản trở từ trọng thần và gia tộc. Ông lệnh cho tất cả phi tần của cha rời khỏi hậu cung đồng thời sửa đổi Hiến pháp quốc gia, quy định toàn bộ người dân Ma Rốc thực hiện chế độ một vợ một chồng.
b.Thánh Maximiliano Maria Kolbe[4]: Tình nguyện chết thay cho một bạn tù.
“Tôi là một linh mục công giáo Ba-lan, tôi đã già, Tôi muốn được chết thay cho ông này, vì ông còn có vợ con”. Đây là lời của cha Maximilianus Maria Kolbe đã nói với viên cai ngục Đức Quốc Xã, trong lúc hắn đang chọn ra 10 tù nhân phải chết để đền tội thay cho một tù nhân mới vượt ngục đêm qua. Quyết định anh hùng của cha Kolbe đã cứu tù nhân Phanxicô thoát chết, khi ông là người cuối cùng được chọn phải ra xếp hàng vào hầm chết đói. Sau đó, cha Kolbe đã phải chịu số phận chết chung với 9 tù nhân kia. Suốt thời gian ở trong ngục tối nhịn đói chờ chết, thay vì những tiếng la hét chửi rủa mọi khi, người ta chỉ nghe thấy những lời kinh tiếng hát của nhóm tù nhân sắp chết nhờ sự động viên của cha Kolbe. Câu chuyện tình nguyện chịu chết thay cho người khác của cha Kolbe cho thấy “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Sự hy sinh tình nguyện chết thay cho người khác của cha Kolbe cho thấy tình yêu của cha thật lớn lao giống như Đức Giêsu và như lời Người đã tâm sự với các môn đệ: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Bản lĩnh của mỗi người được mạnh lên khi có tình yêu mặn nồng đặt vào mỗi chọn lựa nghiêm túc cho cuộc sống riêng tư của mình.
2.Cũng là một chọn lựa.
Như phần dẫn nhập đã nói, cần phải xác định kiểu nói: “Điên vì yêu” theo nghĩa nào chúng ta mới thấy được lý, do đồng thời nhận ra giá trị nguyên tuyền của những hành động mà các nhân vật chúng ta đang nói đến thực hiện. Nếu như hoàng tử Ma rốc trở thành kẻ điên vì si tình thì thánh Kolbe lại được gọi là kẻ điên theo nghĩa người đam mê Thiên Chúa. Thánh nhân tự nguyện chết thay cho người không hề quen biết chỉ vì say mê yêu Chúa, vì muốn cháy lửa tình yêu Chúa và yêu thương người đồng loại. Đó là lý do duy nhất khiến thánh nhân “hóa dại” theo cách nói của người đời, chứ không phải điên vì yêu những đối tượng khác. Giống như những kẻ si tình, đời sống của các thánh trở nên khó hiểu khi chọn lựa cho mình một lối sống đặc biệt, say mê một mình Thiên Chúa.
Giống như Thánh Maximilianô Kolbe, Chân Phước Têrêsa thành Calcutta cũng đã chịu “ngu dại” theo chọn lựa khôn ngoan của con người để ôm lấy những người nghèo đói nằm vất vưởng ngoài đường phố mang về săn sóc, thuốc men và cho ăn uống trong Tu Viện Bác Ái của mẹ. Nhưng việc “dại khờ” của mẹ đã chinh phục được sự khâm phục và yêu mến của biết bao người trên thế giới, và nhiều người đã được ơn nhận biết Chúa qua gương sống chứng nhân bác ái của mẹ và các nữ tu của mẹ.
Đúng vậy, người ta sẽ không thể hiểu nổi, không thể tưởng tượng được và tin vào cuộc sống của những người sống đời dâng hiến khi dám bỏ hết mọi sự sung sướng để chấp nhận vác thánh giá theo Đức Kitô, ngay cả việc hy sinh mạng sống vì người chẳng hề quen biết.
Chỉ có những tâm hồn say mê Thiên Chúa, trọn cả cuộc đời ước muốn làm đẹp lòng duy một mình Thiên Chúa mới đảm nhận được cuộc đời bị coi là thua thiệt đủ thứ, để đổi lấy niềm vui và hạnh phúc vì ý thức mình được dâng hiến cuộc đời cho Ngài. Chúa vẫn đang gọi chúng ta như xưa Ngài đã gọi Samuel hay trực tiếp chọn gọi các tông đồ: “Hãy theo Ta” (Mt 5,13). Nhưng dường như chúng ta chưa đủ can đảm đáp lại hay muốn cầm chừng chứ không dám dấn thân hết mình, và vui vẻ chấp nhận các điều kiện Chúa đưa ra.
Người đời không thể hiểu nổi tại sao phải hy sinh, phải bỏ mình, phải tiết dục, phải tha thứ, chấp nhận sỉ nhục…, vậy mà bao thế hệ linh mục, tu sĩ tự nguyện sống như thế vì lòng yêu mến Chúa và yêu mến các linh hồn. Sử liệu kể lại rằng: sau nhiều năm làm việc cho Chúa, thánh Gioan Thánh Giá trải qua nhiều đau khổ. Lần kia, Chúa hiện ra với thánh nhân và nói: “Gioan, sau nhiều năm con đã làm việc cho Cha và bây giờ con muốn phần thưởng gì?”, thánh nhân thưa rằng: “Xin cho con đau khổ hoặc chết”. Thế đó, các thánh là vậy. Đang khi nhiều người sợ, lẩn tránh, đau khổ thì các thánh thường khao khát: “xin ban cho con thánh giá, xin ban cho con đau khổ”. Thế gian không thể hiểu nổi vì các thánh của chúng ta sống chẳng giống ai, như những người điên.
Noi gương các thánh, chúng ta cũng can đảm để sống theo giáo huấn của Đức Kitô: ở giữa thế gian mà không thuộc về thế gian (x. Ga 17, 16). Chính Đức Giêsu đã ở “ngoài vòng” chi phối hay cách xử lý thông thường của thế gian. Đức Hồng Y Fulton Sheen quả có lý khi nhận xét: Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại kẻ bị kết án không xin được ân xá, vì Ngài là Thiên Chúa, cũng không biện minh cho sự vô can của mình, vì loài người không thể là quan án xét xử việc Thiên Chúa. Hơn nữa, Ngài còn bênh vực cho chính kẻ giết mình: Lạy Cha! xin tha thứ cho chúng vì chúng chẳng hiểu biết việc chúng làm (x. Lc 23, 34)[5].
3. Đức Giêsu Kitô: tình yêu nhưng không và đến cùng vì chúng ta.
Vì say mê Thiên Chúa và say mê con người nên Đức Giêsu đã làm tất cả, chấp nhận tất cả để yêu và cứu chuộc chúng ta. Ngài hành động như: “một người điên” khi chấp nhận chết trên thánh giá nhằm ban phát ơn cứu độ cho con người. Đức Giêsu bằng lòng để người ta cho là điên với ước nguyện sống trọn chữ “yêu” đối với Cha và loài người. Ngài trở thành điên vì yêu thương chúng ta, yêu cho đến mức sẵn sàng “dâng hiến tất cả”.
Đọc trong các sách Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu không những bị giới lãnh đạo Do thái giáo cho là điên, mà ngay cả những người thân cũng cho rằng Ngài bị mất trí (x. Mc 3, 20-21). Lẽ ra, người nhà của Đức Giêsu phải có tầm nhìn đúng về sứ mạng của Người thì trái lại, họ cũng giống người ta mọi đàng: Đức Giêsu bị cô đơn giữa những người thân thuộc. Bởi vì yêu nhân loại quá đỗi nên Ngài đã chấp nhận chết trên thập giá: Người đã yêu thương chúng ta đến cùng (x. Ga 13,1).
Cả cuộc đời Đức Giêsu là thế, Ngài đã sống mầu nhiệm tự hủy trọn vẹn (x. Pl 2, 6-11), đến nỗi người ta không tưởng tượng nổi đồng thời cũng không chấp nhận một Đấng Messia như thế. Sự kiện Đức Giêsu sinh ra trong hang lừa máng cỏ giữa mùa đông giá lạnh và chết trần trụi trên thập gía là điều ô nhục, là điên rồ và thất bại theo đánh giá của con người. Cũng chính vì yêu thế gian nên Đức Giêsu, “Đấng vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em được trở nên giàu có” (x. 2Cr 8,9). Theo Thánh Phaolô quả quyết: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1, 25). Hậu quả của sự “điên rồ và dại dột”, lối hành xử khác người của Đức Giêsu, xét theo quan niệm khôn ngoan của thế gian lại có giá trị vô biên cho nhân loại là được hưởng ơn tha tội, cứu chuộc và được sống hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước Trời mai sau.
Đức Giêsu là Con Người say mê Thiên Chúa hơn bất kỳ ai khác. Cho nên, sự sống của Ngài là thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34). Phát xuất từ tình yêu mặn nồng của Người đối với Chúa Cha, nên tất cả những hành động và lời nói của Người cho Cha, hướng về Cha và theo ý Cha. Chính vì thế hầu như chẳng ai hiểu được Người, cho rằng Ngài bị “điên”. Nếu có một nhận xét về Ngài thì có thể nói Ngài là “một kẻ điên vì Tình Yêu Tuyệt Đối”.
Có thể tóm tắt nội dung chúng ta đang bàn tới dựa trên lời của thánh Phaolô bằng việc so sánh sự khôn ngoan của thế gian với sự khôn ngoan theo Thiên Chúa. Thánh nhân viết: “Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì có lời chép rằng: Ta sẽ huỷ diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái. Người khôn ngoan đâu? Người học thức đâu? Người lý sự của thời này đâu? Thiên Chúa lại đã không để cho sự khôn ngoan của thế gian ra điên rồ đó sao? Thật vậy, thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan của Người. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1,18-25).
Kết
Khi dạy các môn sinh của mình, Cha tổ phụ Biển Đức Thuận nói chúng ta là những người “điên” trước mắt thiên hạ: đang khi người ta lo lắng nhiều chuyện, thì chúng ta chỉ lo kính mến Chúa, quan tâm đến những việc về thiên đàng[6] . Đúng vậy, những người ngoài cuộc không thể hiểu, tưởng tượng được và cho rằng chỉ những người “điên” mới làm điều đó.
Trái tim khi yêu có lý lẽ riêng của nó. Thật vậy, khi yêu nhau, người ta như một “kẻ điên” theo sự rung cảm của con tim hơn là lý trí; người ta biết đau khổ và rắc rối do chính sự lựa chọn đem lại, nhưng vẫn lao vào, thậm chí biết rằng có thể mất tất cả từ danh dự đến sự nghiệp, thậm chí mất cả mạng sống chỉ vì yêu. Khi đã yêu, cái chết hãi hùng kinh sợ trước mắt cũng chẳng làm suy chuyển quyết định của thánh Maximilianô Kolbê. Cũng vì muốn yêu nhân loại đến cùng, Đức Giêsu là Chúa đã chấp nhận bỏ địa vị Thiên Chúa để xuống kết thân với con người, đến nỗi phải hy sinh cả mạng sống cho người mình yêu.
Còn chúng ta, có lẽ đã hơn một lần chúng ta nghe ai đó nói: “Chỉ ngu mới đi tu”. Lối đi chẳng giống ai của người sống đời thánh hiến sẽ mãi là điều điên dại nếu không phát xuất từ lòng say mê Thiên Chúa. Chúng ta đi theo Đức Kitô là trở thành kẻ “điên” vì thập giá Đức Kitô, ước ao được nên giống và thuộc về một mình Người mà thôi. Những hy sinh từ bỏ, những đau khổ nhọc nhằn, cười chê nhạo báng không làm chúng ta lùi bước. Dù thân phận mỏng dòn yếu đuối nhưng vì chúng ta đã múc lấy được sự can đảm và sức mạnh để làm những việc không ai muốn làm. Vì say mê yêu Chúa, chúng ta nguyện là những “người điên” của Ngài.
[1] Bài “Yêu” của Xuân Diệu.
[2] x. 1Cr 1, 22-24.
[3] Trích trong: http://www.baomoi.com/Vi-tinh-yeu-voi-mot-co-gai-thuong-dan-Vua-Morocco-da-thay-doi-Hien-phap-cua-ca-quoc-gia/c/18486358.epi
[4] Trích trong: http://www.giaophanvinhlong.net/Chua-Nhat-VI-Phuc-Sinh-B.html.
[5] x. ĐHY. Fulton Sheen – Trên đỉnh cao thập giá, tr. 55.
[6] x. Lời Giáo Huấn số 7.
TRÁI TIM THỔN THỨC
M.Vinh Sơn Chung_Đan viện Vĩnh Phước
Khi đọc tựa đề “Trái Tim Ta Thổn Thức”, người viết nhớ đến lời của bài hát “Trái tim không ngủ yên” của nhạc sĩ Thanh Tùng diễn tả tâm trạng của đôi bạn đang yêu. Khi yêu họ mong ước ở gần nhau, thao thức mong đến giây phút được gặp nhau, luôn nghĩ đến nhau cả lúc ăn, lúc ngủ, lúc làm việc, lúc nào họ cũng chỉ hướng về đối tượng duy nhất người họ yêu giờ này đang làm gì! Trái tim của họ lúc nào cũng bận rộn, không ngủ yên bao lâu họ chưa thuộc về nhau. Với lối hành văn nhân cách hóa, ngôn sứ Hôsê cũng diễn tả tâm trạng Thiên Chúa hệt như tâm trạng của một người đang yêu. Ngài cũng nhớ nhung, cũng thao thức, cũng khát mong cho con người được thuộc trọn về Ngài để họ cũng được chia sẻ hạnh phúc của Ngài. Bao lâu con người còn xa cách Ngài thì bấy lâu trái tim Ngài còn thổn thức, ruột gan Ngài còn bồi hồi (Hs 11,8). Ngài thổn thức, bồi hồi, vì thương xót những con người mà Ngài yêu mến còn phải xa cách Ngài, còn phải chiến đấu với nhiều cám dỗ và thử thách. Cho nên, Ngài đã bỏ trời xuống trần gian ở với con người.Trái tim Ngài “thổn thức, bồi hồi” vì không muốn con người chết trong tội. Vì yêu thương nên Ngài đã ban cho họ tình yêu, sự tự do. Nhưng con người lại đi quá giới hạn của sự tự do Ngài ban để làm điều xấu và cuối cùng phải chết, phải xa cách Ngài. Vậy mà Ngài vẫn không bỏ rơi họ: Có phải Ta muốn kẻ gian ác phải chết, chớ không muốn nó bỏ đàng tội lỗi và được sống (x. Ed 33,11). Quả thực, trái tim của Ngài thổn thức vì Ngài quá yêu con người.
I. Trái tim Thiên Chúa thổn thức vì yêu
Thổn thức, bồi hồi, đó là tâm trạng của người đang yêu. Vì yêu con người nên Thiên Chúa đã cưu mang nhân loại trong chính trái tim nguyên tuyền của Ngài, để thấu cảm nhu cầu và khát vọng sâu xa nhất của họ. Cho nên, trong trái tim của Thiên Chúa không ai bị loại trừ, không ai bị thiếu thốn tình yêu. Bởi vì, trái tim của Thiên Chúa là trái tim yêu thương và bao dung.
1. Trái tim Thiên Chúa: tình yêu & lòng bao dung
Khi yêu nhau, người ta thường diễn tả tình yêu bằng những cử chỉ, điệu bộ bên ngoài như: trao tặng cho nhau món quà, biểu lộ một nụ cười, một cử chỉ âu yếm thiết thân, hy sinh cho nhau thời giờ, sức khỏe…Chính Thiên Chúa khi bày tỏ tình yêu của Ngài với chúng ta qua con người Đức Giêsu. Ngài không những diễn tả tình yêu bên ngoài nhưng đã đi vào tận thâm cung sâu nhất và mở trái tim của mình ra qua hình ảnh lưỡi đòng đâm thâu đến nỗi những giọt nước và giọt máu cuối cùng Ngài cũng trao hết cho chúng ta: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Qua đó, Ngài muốn nói với chúng ta rằng Ngài yêu chúng ta đến cùng, đến tan nát trái tim vì chúng ta. Và cũng từ đó, trái tim được đặt làm biểu tượng của tình yêu để mỗi khi nói đến tình yêu người ta lại nghĩ ngay đến trái tim. Ngoài biểu tượng trái tim, tình yêu còn được xác nhận qua dấu chỉ cụ thể là giao ước. Thật vậy, để xác nhận tình yêu giữa hai người nam nữ, người ta đã đưa ra một cam kết, và sự cam kết đó như là tiêu chuẩn của một “giao ước” được quy định để bảo vệ hạnh phúc của hai người. Kể từ đó, người này thuộc chủ quyền của người kia và không ai còn xâm phạm được. Khi biểu lộ tình yêu với con người, Thiên Chúa đã đi bước trước và chủ động ký với con người một Giao Ước mới và vĩnh cửu; giao ước này đã được Thiên Chúa chứng thực bằng lòng nhân hậu và sự tín trung của Người. Chính lòng bao dung, nhân hậu của Thiên Chúa làm cho con người thêm tin tưởng và cậy trông vào tình yêu của Ngài; cho dù họ nhận thấy mình lầm lỗi, yếu đuối, hay bất tuân chống lại Ngài. Họ tin vào lòng bao dung của Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho họ mỗi khi họ biết hối hận quay về với Ngài. Tình yêu và lòng bao dung của Thiên Chúa được thể hiện rõ và cụ thể trong dòng lịch sử cứu độ. Lịch sử cứu độ của Dân Chúa không chỉ là một trang sử màu tối, bởi in đậm những lần sa ngã phạm tội và sự phản bội của dân Israel, nhưng còn là một trang sử huy hoàng bởi tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa luôn tỏa sáng trên dân. Chính Thiên Chúa đã khẳng định: Cho dù tội các ngươi có đỏ như son, Ta cũng làm cho trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng hóa trắng như bông (x. Is 1,18). Như vậy, chỉ có tình yêu và lòng bao dung của Thiên Chúa mới tẩy xóa hết tội lỗi mà con người đã phạm. Câu chuyện về người cha nhân hậu đã diễn tả thật đầy đủ và ý nghĩa về lòng nhân hậu và sự bao dung của người Cha. Một người Cha sẵn sàng tha thứ tất cả những lỗi phạm của con mình bởi vì trái tim của ông chỉ có tình yêu (x. Lc 15,11-32). Như vậy, tình yêu và lòng bao dung của Thiên Chúa gắn liền với tình yêu và sự tha thứ. “Tình yêu đích thực được đo bằng sự tha thứ. Chỉ có yêu thực lòng, yêu tha thiết mới có thể tha thứ. Khi yêu người ta dám cho đi tất cả. Nhưng ít có ai cho đi sự tha thứ. Chính tha thứ mở cho ta cánh cửa dẫn vào thâm cung nhiệm mầu của tình yêu”[1] . Bởi vì, “tha thứ là đặc tính của tình yêu Thiên Chúa”. Cho nên với Thiên Chúa, sự tha thứ không được đong đếm bằng số lượng, nhưng phải tha thứ hết lòng phải, tha thứ luôn luôn, một cách bao dung và quảng đại (x.Mt 18,21-22). Bài học về sự tha thứ được Đức Giêsu thể hiện trên thập giá khi Ngài cầu nguyện cho những người làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Qua kinh nghiệm được Thiên Chúa xót thương và thứ tha, dân đã nhận ra Thiên Chúa của họ là một “Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ” (Xh 34,6). Như vậy, trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn là người trung thành giữ trọn giao ước. Ngài cũng là người luôn đi bước trước thể hiện tình yêu đối với dân Ngài, vì Ngài thao thức và ước muốn trao ban hạnh phúc cho con người.
2. Trái tim Thiên Chúa trao ban hạnh phúc cho con người
Tình yêu đích thực là luôn mong muốn cho người mình yêu được hạnh phúc. Ba Ngôi Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc trào tràn. Nơi Ngài chẳng thiếu thốn gì, nhưng vì muốn chia sẻ hạnh phúc ấy mà Thiên Chúa đã sáng tạo con người, để thông chia cho họ vinh quang, hạnh phúc của Ngài. “Hành động sáng tạo chính là sự chia sẻ kỳ diệu ấy. Một tác giả đã viết: Giống như nước thủy triều, rút xuống nhường chỗ cho đất khô, Thiên Chúa sáng tạo như thu mình lại để nhường chỗ cho con người và tạo vật hiện hữu. Thật thế, công trình sáng tạo cho thấy Thiên Chúa yêu thương, muốn cho con người được hạnh phúc và chia sẻ vinh quang của Ngài”[2].
Sự chia sẻ hạnh phúc và vinh quang của Thiên Chúa được thực hiện cụ thể nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể. Thật vậy, Mầu Nhiệm Nhập Thể đi liền với sự tự hủy của Con Thiên Chúa (x. Pl 2,6-11). Để chia sẻ thân phận làm người với chúng ta, Đức Giêsu chấp nhận từ bỏ địa vị Thiên Chúa của mình, để nhờ Ngài mà con người được làm con Thiên Chúa. Tình yêu chia sẻ ấy còn đi đến tận cùng của sự phục vụ: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Khi chiêm ngắm mầu nhiệm thập giá, chúng ta càng thấy rõ sứ mạng dấn thân phục vụ của một Thiên Chúa làm người đã chấp nhận chịu sỉ nhục, chịu đánh đập và cuối cùng chịu chết chỉ vì yêu chúng ta và mong muốn cho chúng ta được hạnh phúc.
Có thể nói, lúc nào Thiên Chúa cũng thổn thức, cũng rung động vì con người. Ngài khao khát đem tình yêu và hạnh phúc của Ngài cho chúng ta, đồng thời, Ngài cũng muốn chúng ta biết yêu thương và hy sinh cho nhau. Nhưng con người thường quan niệm và hiểu sai về Thiên Chúa trong Cựu Ước và Thiên Chúa của Tân Ước. Nhiều người cho rằng Thiên Chúa trong Cựu Ước là một Thiên Chúa nghiêm minh, hà khắc, còn Thiên Chúa của Tân Ước mới là Thiên Chúa giàu lòng xót thương và bao dung. Hiểu như vậy là chúng ta chưa biết gì về Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa luôn chỉ là một, hôm qua cũng như hôm nay và mãi muôn đời Ngài vẫn là Thiên Chúa của tình yêu (x. Dt 13,8). Tuy nhiên, vào thời sau hết này, Ngài muốn biểu lộ một tình yêu cụ thể, trọn vẹn nơi Đức Giêsu– Ngôi Lời Nhập Thể.
Tình thương của Thiên Chúa đã được mặc khải nơi Đức Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể. Vì là Thiên Chúa làm người, Đức Giêsu ôm ấp nhân loại trong trái tim, và chạnh lòng thương thương trước nỗi đau của con người đến độ sẵn sàng hiến tế chính mạng sống Ngài cho họ. Chỉ có Thiên Chúa làm người mới có một trái tim yêu lạ lùng đến như thế.
II.Một trái tim yêu thương
Một trái tim yêu đến tận cùng là một trái tim “không bình thường”, yêu đến cùng, đến quên mình, đến cạn kiệt tấm thân và yêu đến hiến tế chính mình. Chúa Giêsu khi đến trần gian, Ngài đã thực hiện trọn vẹn ý muốn của Chúa Cha. Ngài đã diễn tả tình yêu của Thiên Chúa cho con người bằng chính mạng sống của mình: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã trao hiến mạng sống của mình cho người mình yêu” (Ga 15,13). Thiên Chúa yêu đến nỗi không còn giữ lại gì cho riêng mình; “Yêu đến nỗi…đã ban’, là một tình yêu hết mức. Động từ ‘yêu đến nỗi…’ nơi Thiên Chúa, là động từ mạnh mẽ, khắc ghi sâu thẳm, cưu mang và trao ban đến không còn gì giữ lại cho mình. Thiên Chúa yêu chúng ta bằng một tình yêu mà muôn đời chúng ta không thể nào hiểu nổi. Người yêu đến nỗi hiến mình nơi Con của Người vì chúng ta. Người thổn thức vì trái tim người ắp đầy hình bóng từng người chúng ta”[3]
Trái tim của Thiên Chúa mở rộng đến mức không bao giờ loại trừ bất cứ cá nhân nào, mà chỉ luôn luôn đón nhận. Ngài tự nguyện đi bước trước để đến với chúng ta và hiến dâng mạng sống Người cho chúng ta: “Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Nơi khác, thánh Gioan tông đồ cũng đã diễn tả: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4, 10). Thánh Phaolô cũng phải thốt lên: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 5-9). Trái tim của Thiên Chúa mở rộng đến mức không bao giờ loại trừ bất cứ cá nhân nào, mà chỉ luôn luôn đón nhận. Ngài tự nguyện đi bước trước để đến với chúng ta và hiến dâng mạng sống Người cho chúng ta: “Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Nơi khác, thánh Gioan tông đồ cũng đã diễn tả: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4, 10). Thánh Phaolô cũng phải thốt lên: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 5-9). Như vậy, khi Nhập Thể làm người, Thiên Chúa đã thấu cảm được những nỗi đau khổ của con người, để Ngài cảm thông, tha thứ và yêu họ đến cùng; một trái tim lúc nào cũng nghĩ đến người khác, cũng khát mong cho người khác được hạnh phúc; một trái tim luôn ấp ủ tâm tư hiến tế cho mỗi người chúng ta.
1. Tình yêu hiến tế
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16). Thật vậy, từ khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã quyết định cứu chuộc con người bằng việc để cho Ngôi Lời nhập thể, sống giữa trần gian, chấp nhận khổ đau và chết cho trần gian (x. Pl 2,6-11). Từ đó, tình yêu của Thiên Chúa được cụ thể nơi Đức Giêsu. Mục đích hiến tế của Đức Giêsu không gì khác hơn là để cứu độ con người. Vì thế, mà trong suốt thời gian tại thế, lúc nào Đức Giêsu cũng thao thao thực hiện thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Tuy nhiên, khi đứng trước cuộc hiến tế đã gần kề, Ngài cũng thổn thức thưa với Cha: “Cha ơi, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Sự hy sinh hiến tế qua con đường vâng phục của Đức Giêsu lớn hơn cả sự thử thách khó khăn mà Ngài đang đối diện. Ngài đã chấp nhận đau thương thập giá theo ý định của Chúa Cha hầu mang lại cho con người ơn cứu độ và sự giải thoát. Qua đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy “mang lấy tâm tư hiến tế của Chúa” để biết dấn thân hy sinh cho Chúa và cho nhau. Đó chính là tình yêu mà chúng ta thể hiện sự hiến tế đời mình, và trao ban chính mình cho anh chị em của chúng ta. Đó cũng là trái tim Thiên Chúa đang muốn thể hiện nơi người Đan sĩ.Nếu Trái Tim Đức Giêsu từng thổn thức vì yêu mỗi người chúng ta đến nỗi hiến dâng mạng sống Ngài. Thì đến lượt chúng ta, Ngài cũng ước mong mỗi người chúng ta có một trái tim như Chúa để yêu thương, và hiến tế cho nhau ngang qua cuộc sống và sứ mạng của mình.
2. Mang lấy tâm tình của Chúa
Khi mang lấy tâm tình Đức Giêsu, đan sĩ như họa lại cung cách sống của Ngài trong suốt cuộc đời mình. Qua mầu nhiệm nhập thể, Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta (Ga 1,14). Do đó, chúng ta họa lại cách sống của Đức Giêsu, Đấng đã tôn vinh Thiên Chúa Cha khi thực công trình cứu chuộc nhân loại (x. Ga 17). Mà họa lại cách sống tình yêu và lòng thương xót của Đức Giêsu thì trái tim của ta cũng phải thổn thức như Ngài, cũng phải khát mong yêu mến anh chị em mình như chính Chúa đã yêu chúng ta. Đức Phaolô VI trả lời cho chúng ta thật rõ ràng: “Toàn bộ đạo của chúng ta là một sự mạc khải về lòng nhân hậu, thương xót và yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta. ‘Thiên Chúa là Tình Yêu’ (1 Ga 4,16), một tình yêu bao la tuôn đổ dạt dào. Tất cả được tóm kết trong chân lý tối thượng này, chân lý giải thích và soi sáng mọi sự…Thánh Phaolô viết: ‘(Ngài) yêu mến tôi’. Mỗi người trong chúng ta có thể và phải tự mình lập lại – Ngài yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi’ (Gl 2,20)” [4].
Thiên Chúa đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi thì đến lượt tôi, tôi cũng phải hiến mình vì anh chị em tôi (x. 1Ga 3,16). Thiên Chúa luôn có sáng kiến trong tình yêu và luôn đi bước trước để đến với con người. Muốn hiến mình vì anh chị em, chúng ta cũng phải là người luôn có một trái tim nhạy cảm, biết lưu ý, quan tâm và nhìn thấy nhu cầu của anh chị em mình để mau mắn giúp đỡ. Sự hiến mạng tột cùng, đỉnh cao của tình yêu hy hiến nơi Đức Giêsu được thể hiện rõ nét ở hy tế Thập giá. Thì mỗi khi chúng ta có phải hy sinh một chút thời giờ, sức khỏe của ta cho anh chị em mình thì cũng chẳng đáng gì so với tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
Vậy mang lấy tình yêu của Đức Giêsu là ta chia sẻ tình yêu mà ta đã nhận lãnh từ Thiên Chúa cho anh chị em chúng ta, như thánh Gioan đã nói: “Chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,19). Nhưng chúng ta phải yêu bằng tình yêu của Chúa tức là yêu bằng một tình yêu cụ thể chứ không phải chỉ yêu bằng “đầu môi chót lưỡi” (1Ga 3,18). Cho nên, mang lấy trái tim của Đức Giêsu là “có những tâm tình như Chúa” (Pl 2,5), tức là sẵn sàng trao hiến chính mình cho anh chị em.
III.Trao hiến cho anh chị em
Khi có tình yêu của Chúa, chúng ta đang học bài học yêu thương của Chúa từng ngày trong đời sống thánh hiến của chúng ta. Yêu thương như Chúa, ta sẽ thực sự sống hiến tế như Chúa: Hiến tế một đời trong tâm tư và trong sự trao hiến đời mình cho anh chị em.
Ngoài ra, tình yêu đòi ta phải biết trao hiến ý riêng, biết dẹp bỏ cái “tôi” để đi vào cái “chúng ta”. Nhờ đó, ta sẽ cùng nhau vượt qua những khó khăn thử thách và dễ dàng đón nhận tha nhân. Vì Đón nhận nhau cũng là cách ta thể hiện sự hiến dâng đời mình để yêu anh chị em bằng tình yêu tính toán. Khi đó, ta cũng dễ dàng đón nhận cả những người anh chị em trái tính trái nết: Những người mà lời nói của họ sao cứ “mặn”, hành động của họ sao cứ “cay”, những tương quan mà họ biểu lộ ra ngoài sao cứ “đắng”. Nếu đan sĩ làm được như thế thì đó thật sự là một sự trao hiến trọn vẹn. Sự hiến tế, hay sự trao hiến bản thân mỗi ngày trong cộng đoàn, nơi từng anh chị em, hay bất cứ con người nào Chúa ban cho mình, cũng đều là chính tình yêu chúng ta trao dâng tất cả đời mình cho Chúa, Người Cha đầy lòng thương xót và bao dung của chúng ta.
Như thế, chính tình yêu của Chúa là nền tảng cho sự dấn thân, sự trao hiến của chúng ta cho anh chị em. Đó là phương thế hữu hiệu nâng đỡ đời sống cộng đoàn, cả những lúc ta không thể trao hiến cho nhau. Để luôn sẵn sàng hiến tế bản thân cho tha nhân, chúng ta cũng phải trao và nhận tình yêu. Đó là bí quyết giúp cho ơn gọi của mình được triển nở, được lớn lên và bền vững trong chính nguồn tình yêu của Chúa.
KẾT
Như vậy, qua tình yêu hiến tế của Đức Giêsu, mà con người có kinh nghiệm về lòng xót thương của Thiên Chúa: một tình yêu luôn thổn thức, luôn khát mong cho con người được hạnh phúc. Mặc dù đôi khi con người nhận ra tình yêu của Chúa, nhưng tình yêu của con người dành cho Chúa luôn thay đổi theo thời gian như nước thủy triều (x.Nkm 9,17; Xh 34,6;). Nhưng tình yêu thương và lòng nhân hậu của Thiên Chúa lại được nối dài bằng sự tín trung của Người trong suốt dòng lịch sử: “Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời” (Tv 146,6; St 24,27).
Trong Năm Thánh Lòng Thương xót, xin cho trái tim của con được trở nên giống như trái tim của Chúa, xin cho con luôn mang trong mình một trái tim yêu thương và bao dung, một trái tim luôn thổn thức trước nhu cầu và trước những tiếng kêu của anh chị em mình. Một trái tim “không ngủ yên” trước những đau khổ của anh chị em và của cả nhân loại này. Và nhất là xin cho con luôn biết thao thức hoàn thiện chính mình, nhờ đó con dễ dàng giúp cho anh chị em gặp gỡ được Thiên Chúa của Tình Yêu.
[1] Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt, Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót.
[2] Trái Tim Không Ngủ Yên, bài chia sẻ của Đức GM Giuse Vũ Văn Thiên.
[4] Đức Phaolo VI – Bài giảng Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô ngày 13.6.1976
ĐỜI TU – TẤM BÁNH BẺ RA
Vạn Bích Tâm_ Đan Viện Phước Thiên
Người sống đời thánh hiến có sứ mạng thực thi gương lành và giáo huấn của Đức Giêsu, đồng thời họa lại nếp sống của Ngài trong chính cuộc sống trần thế của con người mọi thời và mọi nơi. Nhưng đàng khác, đời sống thánh hiến cũng là quà tặng của Thiên Chúa Cha trao ban cho Giáo Hội và thế giới qua Chúa Thánh Thần. Thật vậy, trải qua bao thế kỷ vẫn luôn có những người nam cũng như nữ, quảng đại và can đảm đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu dưới sự soi sáng và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần với một con tim “không chia sẻ” (x. 1Cr 7,34). Khi chọn theo Thầy Giêsu qua đời sống thánh hiến, người tu sĩ đã chọn một con đường đặc biệt, con đường của trao ban dâng hiến cách vui vẻ và tự nguyện. Họ bỏ tất cả để theo Chúa, ở lại với Chúa, và để dấn thân phụng sự Thiên Chúa và phục vụ mọi người anh chị em không trừ một ai (x. Tông huấn về đời sống thánh hiến phần mở). Bởi thế đời tu luôn được xem như là Tấm Bánh Bẻ Ra cho nhân loại.
1. Đời tu là tấm bánh bẻ ra
Người sống đời thánh hiến là theo sát Đức Kitô, với mục đích để trở nên đồng hình đồng dạng với Người (x. Rm 8,29). Chính Đức Kitô cũng đã tự nguyện trở nên tấm bánh nuôi sống muôn người: “Đây là mình Thầy hiến tế vì anh em” (Lc 22,19). Là những người môn đệ của Đức Kitô, họ cũng được mời gọi trở nên tấm bánh cho người khác: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mc 6,37). Đời tu được gọi là tấm bánh, bởi tấm bánh diễn tả tình yêu gần gũi, tự hiến, hiệp thông và liên đới.
a. Tấm bánh diễn tả tình yêu gần gũi
Nói đến bánh chúng ta nghĩ ngay đến một thứ lương thực bình thường nhưng cần thiết trong cuộc sống con người. Tấm bánh tuy bình thường và rất quen thuộc nhưng nó đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của mọi người. Cũng như khí trời, như nước uống, bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con người. Người tu sĩ được mời gọi trở thành bánh để gần gũi với mọi người, để đi vào sinh hoạt đời thường của mọi người, để cung cấp lương thực nuôi sống con người. Đồng thời hình ảnh tấm bánh còn nói lên một sự gần gủi khiến mọi người có thể đến với chúng ta cách dễ dàng, không e ngại, không sợ sệt. Chỉ là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của con người. Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa vì tấm bánh diễn tả tình yêu tự hiến và chia sẻ.
b. Tấm bánh diễn tả tình yêu tự hiến
Chấp nhận trở thành bánh cho mọi người, chúng ta sẵn sàng chịu thiệt thòi, đau khổ cho tha nhân được hạnh phúc. Hay nói cách khác, chấp nhận là bánh có nghĩa là phải để cho người khác được sử dụng mình là: chấp nhận bị bẻ ra, chấp nhận bị nghiền nát, chấp nhận bị tan biến, và nhất là được tiêu hoá cho tha nhân được sống và sống dồi dào. Trong cuộc sống nếu khi cộng đoàn hay một người nào đó, cần sự giúp đỡ, cần sự hy sinh, thì chúng ta hãy luôn sẵn sàng. Để làm được điều đó chúng ta phải có sự tự nguyện, kèm theo tình yêu; nói khác, khi làm được như vậy không phải là chúng ta chấp nhận cách bất đắc dĩ, nhưng trong niềm vui và tình nguyện. Tự bản chất, tấm bánh luôn sẵn sàng để trao ban, để chia sẻ và để nuôi sống người khác. Khi Đức Giêsu nhận mình là bánh bởi trời, Ngài đã bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan biến, thành của ăn cho muôn người: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” (Mt 26,26), và sẵn sàng chịu chết cho con người được sống. Đức Giêsu chịu thương tích để cho ta được lành lặn. Chúa chấp nhận trở nên bé nhỏ để cho chúng ta được lớn mạnh. Như thế, tấm bánh đã được tiêu hoá để thể hiện một tình yêu hiệp thông.
c. Tấm bánh diễn tả sự hiệp thông
Thật vậy, Đức Giêsu đã rất tha thiết và không ngừng kêu mời sự hiệp thông, và chính thánh Phaolô cũng diễn tả điều này: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,17). Đức Giêsu đã không ngừng mời gọi mỗi người chúng ta đến với Người và sống thân mật với Người. Sự liên kết giữa Đức Giêsu và các môn đệ được diễn tả qua hình ảnh cây nho, để muốn nói đến một sự liên kết không thể thay thế, một sự liên kết mang tính sống còn: “Thầy là cây nho, anh em là nhành nho” (Ga 15,5). Đức Giêsu còn chủ động biến mình trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, trở thành của ăn nuôi sống con người, và còn hơn thế nữa trở thành thịt máu của con người. Thật vậy, không có sự kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn sự kết giữa Bánh Giêsu và người môn đệ. Hơn nữa, tấm bánh còn gợi lên một bàn tiệc, tại đó anh em quây quần trong tình thương, để chia sẻ của ăn tinh thần, của ăn vật chất. Không còn gì đẹp hơn, khi chính Đức Kitô tự hiến mình để nuôi sống, quy tụ chúng ta và liên kết con người lại với nhau thành một cây nho, thành một thân thể. Chính Đức Kitô bị bẻ ra để cho tình huynh đệ trong nhân loại được mặn mà thắm thiết. Với những gợi ý như thế, Chúa hướng dẫn chúng ta trong tình yêu mến, và lòng yêu mến đó được cụ thể hóa trong tình liên đới. Điều chủ chốt nhất trong tình liên đới là: “Nhận lấy trách nhiệm” và “biết chia sẻ”.
d. Tấm bánh diễn tả tình yêu liên đới
Liên đới là cùng có trách nhiệm trên người khác, cùng trao cho nhau những gì mình có, cùng đáp ứng những nhu cầu chính đáng của nhau; bao gồm những nhu cầu thể chất và thiêng liêng. Câu chuyện hóa bánh ra nhiều trong Tin Mừng Gioan (6,5-15) cho chúng ta những chỉ dẫn cụ thể rõ ràng về tình yêu liên đới. khi nhìn thấy đám đông, các môn đệ lo sợ không đáp ứng được nhu cầu của họ. Vậy các ông đề nghị với Chúa : Xin Thầy giải tán đám đông để họ vào làng mà mua thức ăn. Một đề nghị xem ra hợp lý và có vẻ như đang rất quan tâm, vì một đám đông quá lớn (5000 người đàn ông…) so với số bánh và cá ít ỏi mà các môn đệ đang có. Theo đề nghị của các môn đệ, tốt nhất để ai náy tự lo, nhưng đó không phải là cách Đức Giêsu muốn dạy, Đức Giêsu muốn các môn đệ phải có trách nhiệm trên đám đông này. Chúa nói với các môn đệ, …bất chấp số người ăn quá nhiều so với phần ăn ít ỏi hiện có. Chúa nói với các môn đệ : hãy bỏ ra số bánh ít ỏi và và cá mà anh em đang có. Chính anh em hãy cho họ ăn. Một trách nhiệm xem ra nặng nề vượt quá khả năng, nhưng đã cảm thương thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay hành động. Liên đới là đóng góp phần của mình. Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá” (Mt 14,17) . Thật là ít ỏi, nghèo nàn. Nhưng Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn đó: “Đem lại đây cho Thầy” (Mt 14,18). Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt đầu, là phải góp phần của mình. Liên đới không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta thật sự có trách nhiệm, góp phần của mình vào việc chung. Liên đới là biết chia sẻ. Chính khi con người thực thi lệnh truyền của Chúa mà trao cho nhau những gì họ có, thì phép lạ sẽ diễn ra. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn biết trao ban cho nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên bao lâu khi mắt con người vẫn còn nhìn nhau , bánh của tình liên đới, cá của sự chia sẻ… Chúng nhân lên theo nhịp của trái tim.
2. Để trở thành tấm bánh bẻ ra cho mọi người
Nhìn lại mối tương quan của mình với Đức Kitô, cùng làm nên tấm bánh với Đức Kitô, đón nhận và kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể, chính là điều chúng ta đang hướng tới.
a. Tương quan mật thiết với Đức Kitô.
Mỗi chúng ta nhất thiết có mối tương quan mật thiết, thân tình với Đức Kitô khi biết mở tâm hồn mình để Ngài đi vào và biến đổi mỗi chúng ta trở thành tấm bánh cho mọi người. Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta: “Hãy mở toang con người của mình cho Chúa Giêsu Thánh Thể để vươn đến những chiều kích bao la của mầu nhiệm sâu thẳm này” (x. Tông thư về Thánh Thể – Mane nobiscum Domine, số 14). Trong bí tích Thánh Thể, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Đức Kitô. Khi hiệp lễ là đón rước Đức Kitô, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người chúng ta được kết hiệp với Người. Đó là tương quan hiện diện sâu thẳm nhất. Trong cuộc sống có nhiều người trong chúng ta thắc mắc: dâng lễ, dự lễ, rước lễ hàng tuần, thậm chí hàng ngày, nhưng tại sao chưa cảm nhận được những hiệu quả tốt đẹp, kỳ diệu của Thánh Thể như lòng hằng mơ ước? Có phải vì chúng ta tội lỗi nên không được Chúa đón nhận trong bữa tiệc của Người? Có phải vì chúng ta quá thụ động trong việc tham dự thánh lễ không? Phải chăng vì chúng ta hời hợt và thiếu “lịch sự” đã bỏ mặc Chúa Giêsu Thánh Thể đang ngự trong lòng ta để lo lắng, bận rộn những công việc thường ngày không?
b. Cùng làm nên tấm bánh với Đức Kitô
Đức Giêsu luôn nhắc nhở chúng ta phải cộng tác với Người khi mời gọi: “Anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19 ; 1Cr 11,23-25). Thực vậy, mỗi khi đến dự tiệc Thánh Thể chúng ta đã “làm việc này” không phải như những thực khách thụ động, nhưng là những người chủ động mang theo chất liệu Thánh Thể qua bánh và rượu là yếu tố vật chất của vũ trụ và lao công của con người (x. Ga 6,5-15). Chất liệu ấy, được ví như linh hồn và thân xác con người chúng ta, cần phải được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi bằng dòng nước thần linh nhờ máu và nước của Người đổ ra trên thập giá (x. Ga 19,34) và bằng Thánh Thần của Người (x. Ga 1,33). Chất liệu “thánh thể” cũng bao gồm phần của muôn người và phần của Đức Giêsu được dòng nước Thánh Thần liên kết để “nhà đầu bếp” vĩ đại Giêsu nướng chín thành tấm bánh hằng sống nhờ ngọn lửa Thánh Thần tình yêu của Người. Đó là điều quan trọng và không thể thiếu khi đón nhận và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể.
c. Đón nhận với Chúa Giêsu Thánh Thể
Nơi Bí Tích Thánh Thể, chúng ta được mời gọi và đón nhận để trở nên một như Chúa, Chúa đã dạy: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). Như vậy, qua Bí Tích Thánh Thể, chúng ta được ở lại trong Chúa và Chúa ở lại trong chúng ta. Hơn nữa, đời tu luôn gắn bó đặc biệt với Bí Tích Thánh Thể; bởi lẽ, đời tu là bước theo Đức Kitô trong mầu nhiệm vượt qua, để được cùng chết và sống lại như Chúa. Việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể giúp chúng ta chuyển hoá những chất bổ dưỡng từ Thánh Thể thành những hành động cụ thể và tốt đẹp trong đời sống chúng ta.
KẾT
“Đời tu-Tấm Bánh bẻ ra”, nghĩa là luôn đòi buộc người tu sĩ phải trở nên “tấm bánh đích thực” cho nhân loại. Chúng ta phải trở nên “bánh đích thực” trước tiên chính là cho những anh chị em đang sống kề bên chúng ta hằng ngày trong đời sống cộng đoàn.”Đời tu-Tấm Bánh bẻ ra” đòi buộc chính ta phải hy sinh thân mình cho anh chị em như Đức Kitô đã hy sinh cho chúng ta. Khi chúng ta biết hy sinh thời gian để giúp đỡ tha nhân là lúc chúng ta đang đã trở thành tấm bánh thật, khi chúng ta hy sinh cái tốt cho người khác, là lúc chúng ta đang làm cho Chúa được lớn lên, khi chúng ta chịu thiệt thòi là lúc của lễ chúng ta đang được Chúa đón nhận và hiệp thông với hy tế của Đức Giêsu trên bàn thánh. Khi chúng ta sống đúng ý nghĩa, và vai trò của bánh, chúng ta thực hiện trọn vẹn điều Chúa muốn và mọi người sẽ đón nhận được phúc lành của Thiên Chúa nơi chúng ta. “Ai nấy đều ăn và được no nê” (Lc 9,17). Vì thế chúng ta ý thức rằng đời tu sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu chúng ta không biết sống cho đi, không biết chấp nhận trở nên tấm bánh bẻ ra cho tha nhân.Chúng ta chỉ có thể là “tấm bánh” khi chúng ta chấp nhận mất mát, chấp nhận hao mòn vì tha nhân, chúng ta mới trở thành “bánh đích thực” như Đức Kitô đã trở thành “Bánh Đích Thực” vì chúng ta. Như thế chúng ta có thể nói như thánh Phaolô “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính Đức Kitô sống trong tôi”. (Gl 2,20).
ĐỀN THỜ CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
Thư Tổng Phụ Dòng Xi-tô gửi toàn Dòng
nhân dịp lễ Hiện Xuống 2016
Anh chị em rất thân mến!
Năm thành Lòng Chúa Thương Xót giúp tôi lưu tâm đến cách thức mà thánh phụ Biển Đức mời gọi chúng ta sống mầu nhiệm ơn gọi và sứ vụ đan sĩ Xi-tô của chúng ta. Chúng ta sẽ đào sâu đề tài Lòng Thương Xót trong khoá Bồi dưỡng cho các Bề Trên khai mạc vào tháng bảy với chủ đề Không bao gờ thất vọng vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa (Tl 4, 74), cũng như trong khoá huấn luyện đan tu.
Trong những cuộc thăm viếng các đan viện mà tôi đã thực hiện trong năm nay như ở Việt Nam, Brasile, Etiopia và ở Châu Âu, đề tài này luôn đồng hành và hướng dẫn việc lectio divina của tôi, cũng như những suy niệm mà tôi chia sẻ với anh chị em. Trong giáo huấn của Đức Phanxicô, Lòng Thương Xót phải là một tiêu chuẩn giải thích những điều chúng ta sống, mọi hoàn cảnh chúng ta gặp và nói chung là toàn bộ lịch sử của con người, của các cộng đoàn, của Giáo Hội và của toàn thế giới. Những người sống với chúng ta, chung quanh chúng ta như những người bị trấn lột, bị đánh đập và bị bỏ rơi “nửa sống nửa chết” giữa đường, rất cần đến Đức Ki-tô, người Samaritano nhân hậu, nhập thể, chết trên khổ giá, đã “đến gần” để trao ban cho chúng ta sự sống mới trong Sự Phục Sinh của Người (x. Lc 10,30-37).
Giữa nơi đền thánh
Trong tu luật thánh Biển Đức, có rất nhiều đoạn nói về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, cũng như lòng thương xót của viện phụ và lòng thương xót giữa anh em với nhau. Trong lá thư này, tôi muốn tập trung vào một điểm mà tôi suy niệm nhiều tháng này. Ở Poblet, tôi đã nói rằng: “trong chương 53 của Tu luật, chương bàn về việc tiếp khách, nghĩa là nói đến một đan viện được mời gọi để hiện hữu cho thế giới, thánh Biển Đức quy định rằng viện phụ và tất cả cộng đoàn, sau khi đã diễn tả sự hiếu khách qua những cử chỉ thiêng liêng và bên ngoài cần thiết, phải rửa chân cho khách như Đức Giê-su đã từng làm. Và sau cử chỉ này, thánh Biển Đức mời cộng đoàn hát câu thánh vịnh 47: “Suscepimus, Deus, misericordiam tuam, in medio templi tui – Lạy Chúa, giữa nơi đền thánh Chúa, chúng ta nhận được lòng Chúa xót thương” (Tv 47,10; Tl 53,13-14). (…)
Đối với thánh Biển Đức, đan viện là một đền thờ của Lòng Thương Xót Chúa. Cộng đoàn trở thành đền thờ Lòng Thương Xót khi người ta biết hạ mình rửa chân cho anh chị em mình và tất cả mọi người. Như vậy, đan viện đón nhận lòng thương xót Chúa cho toàn bộ thế giới. Đối với thánh Biển Đức, đan viện không chỉ là “trường học phụng sự Chúa” (Lời mở đầu 45), theo nghĩa là nơi ta học tập cách phụng sự Chúa, mà còn và có lẽ là trước hết phải là nơi người ta học phục vụ con người như Thiên Chúa đã từng phục vụ con người, tưởng niệm việc Đức Giê-su đã chết và sống lại vì chúng ta, Chúa Con đầy lòng thường xót như Chúa Cha, Đấng mà viện phụ có ơn gọi, sứ vụ và đặc ân được đại diện cho Người, để làm sống động thực tại ấy giữa anh em” (Poblet, Bài giảng ngày lễ chúc phong, 27.02.2016).
Chúng ta lưu ý đến sự đảo ngược mà thánh Biển Đức giới thiệu trong đoạn Tu luật này. Sau khi viện phụ và toàn cộng đoàn dành cho khách sự phục vụ với lòng thương xót và khiêm tốn, rửa chân cho họ, sau đó các đan sĩ hát câu thánh vịnh khẳng định rằng họ đã nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa.
Điều đánh động chúng ta ở đây là mầu nhiệm lòng Thương Xót như Đức Ki-tô đã rao giảng và mạc khải: mọi cử chỉ của lòng thương xót đối với tha nhân không bao giờ vượt quá lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa dành cho những người đối diện với chúng ta. Ngay cả khi chúng ta rửa chân cho nhau, hoặc rửa chân cho khách, cho người nghèo, khách hành hương, chúng ta không được quên rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước, Đức Giê-su đã rửa chân cho chúng ta trước với chính tặng ân mạng sống mà Người dành cho chúng ta trên Thập Giá, trong Thánh thể, qua bí tích Thanh tẩy và tất cả các bí tích.
Đời sống đan tu phải luôn luôn vun trồng nơi ta nhận thức này. Đan sĩ là người luôn ghi nhớ rằng, ngay khi chúng ta phục vụ anh chị em mình, thì trước đó ta đã được Chúa phục vụ, yêu thương và tha thứ trong Đức Giê-su Ki-tô. Khi chúng ta cho đi, chúng ta nhớ rằng mình đang được nhận lãnh; khi chúng ta yêu thương, chúng ta nhớ rằng mình được yêu thương; khi chúng ta tha thứ, chúng ta nhớ rằng mình được thứ tha; khi chúng ta thương xót, chúng ta biết rằng mình đã từng lãnh nhận lòng thương xót. Và không chỉ từ phía con người, nhưng từ Thiên Chúa: “Lạy Chúa, giữa nơi đền thánh Chúa, chúng con nhận được lòng Thương Xót của Người!”
Nhớ như thế là một lời tán dương, “tạ ơn”, một lời “chúc tụng”, một trạng thái của con tim hân hoan và biết ơn mọi sự phục vụ và mọi kiên nhẫn ở trong cộng đoàn và đối với thế giới bên ngoài. Những việc lành của lòng thương xót cách thiêng liêng hoặc vật chất mà chúng ta thực hiện cách cá nhân hoặc cách cộng đoàn không được là gì hơn việc làm đầy tràn lòng Thương xót của Thiên Chúa vốn luôn vượt quá thước đo của ta, con tim của ta và sự xứng đáng của ta. Có thể nói rằng: tôi có thể dâng hiến cho bạn tất cả, ngay cả mạng sống, vì Tặng Ân của Thiên Chúa luôn phong phú và vô tận. Như đã thể hiện trong câu thánh vịnh 62 mà tôi thường hay lập lại mỗi sáng khi tối thức dậy cầu nguyện: “bởi lòng thương xót (hesed) của Người quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này sẽ ca ngợi tán dương” (Tv 62,4).
Thánh Biển Đức đặt nhận thức này vào trung tâm cuộc sống và ơn gọi chúng ta. Chúng ta biết rằng, đối với ngài, Đền Thờ Thiên Chúa, Nhà Thiên Chúa, không chỉ là nhà thờ, nhà nguyện, mà là cả đan viện, nên ngài nói phải coi tất cả những của cải của đan viện “như bình thánh trên bàn thờ” (x. Tl 31,10). Tất cả đều thánh thiêng trong cuộc sống của chúng ta, trong cuộc sống của mọi Ki-tô hữu, vì tất cả là Đền Thờ của lòng Thương Xót. Lòng Thương xót Chúa, mà mọi kẻ sa ngã, mọi đứa con hoang đàng đều tìm thấy nơi Đức Ki-tô, làm cho thế giới trở nên chốn thánh thiêng của Sự Hiện Diện Thần Linh. Tất cả thế giới đều là Đền Thờ của Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa đến để ở cùng ta, chữa lành ta và mời gọi chúng ta đón nhận lòng thương xót. Đức Giê-su Ki-tô là Lòng Thương Xót của Cha luôn tràn lan đến mọi người và khắp cả nhân loại và mong muốn được ta đón nhận.
Việc thánh Biển Đức mời chúng ta tưởng nhớ đến mầu nhiệm này không chỉ nơi nhà nguyện, không chỉ trong nội vi đan viện mà ngay chính nơi mà thế giới bên ngoài đến với đan viện như những người khách, người nghèo, người hành hương, là để giáo dục chúng ta đặt việc đón nhận lòng thương xót Chúa vào trọng tâm cuộc sống chúng ta. Lòng Thương xót ấy làm ta thánh hoá cả thế giới này. Chỉ như thế, không gian thánh thiêng của đan viện, những khoảng không thánh thiêng mang tính đan tu sẽ không hoá ra “phàm tục” bởi thái độ Pha-ri-sêu, để tin rằng Thiên Chúa đến và yêu thương chúng ta không vì những lý do nào khác hơn chính sự đáng thương của ta và lòng thương xót của Người. Chỉ như thế, việc chúng ta được thánh hiến cho Chúa qua các lời khấn đan tu mới không bị đóng kín trong tháp ngà của sự kiêu ngạo. Thánh Biển Đức nhắc nhở ta rằng chúng ta những nam nữ đan sĩ vì chúng ta cần nhận lòng thương xót của Chúa và rửa chân cho những người khác. Đền thờ đan viện không là một đền thờ của sự công bằng, cũng chẳng là đền thờ của sự hoàn thiện và thánh thiện, nhưng là đền thờ của Lòng Thương Xót mà Chúa ban cho chúng ta để chúng ta đón nhận Người, đón nhận nhau và tất cả mọi người, mọi sự.
Sự công chính của việc tố cáo chính mình
Tôi rất ấn tượng những khẳng định lập đi lập lại trong các châm ngôn của những tổ phụ sa mạc về đề tài tự kết án chính mình. Tôi thường suy niệm châm ngôn của tổ phụ Poema nói về cộng đoàn của ngài: “trong nhà này, nhiều nhân đức đã du nhập nhưng chỉ trừ một nhân đức; thiếu nhân đức này người ta phải chịu nhiều đau khổ”. Các môn đệ hỏi đó là nhân đức nào, vị linh phụ đáp: “là con người biết kết án chính mình” (x. Châm ngôn, Thứ tự bảng chữ, Poemen 134).
Chúng ta thường gặp một điểm gây chết người trên con đường hoán cải cá nhân hoặc cộng đoàn. Người ta không thể tiến bộ và cứ tự hỏi tại sao. Tại sao người ấy hoặc cộng đoàn ấy lại không thể vượt qua được những vấn đề này? Tại sao chúng ta luôn ở điểm khởi hành? Chúng ta tìm hiểu những điều không tốt đã xảy ra và tìm cách khắc phục sau khi thử nghiệm nhiều phương thức khác nhau một cách vô hiệu. Chúng ta trở nên như ngôn sứ Balaam không thấy thiên thần đứng chặn đường. Lúc đó, ông ta chỉ tức tối và đánh đập con lừa của mình, trong khi đó, chính ông mới là người không nhận ra vấn đề nằm ở đâu cho tới khi Thiên Chúa cho con lừa của ông lên tiếng (x. Ds 2, 21-35). Quả thật, ngay cả chúng ta và các cộng đoàn của chúng ta cũng thế. Trước khi muốn hiểu và giải quyết những cản trở hành trình hoán cải của ta, chúng phải bắt đầu với việc trước tiên nhận thức những vấn đề xảy ra nơi chính chúng ta. Trở ngại đích thật của sự hoán cải ở tại chỗ chúng ta nghĩ rằng ta không cần thay đổi, nhưng chính người khác phải thay đổi. Trở ngại ở chỗ người ta tố cáo kẻ khác thay vì tố cáo chính mình.
Tất cả truyền thống đan tu, từ các tổ phụ sa mạc tới thánh Biển Đức, thánh Benado, cho đến Đức thánh cha Phanxico, đều truyền lại cho ta giáo huấn nền tảng của Phúc Âm: người công chính không phải là người không có tội nhưng là người biết rõ tội nơi mình chứ không kết án người khác. Trong một châm ngôn khác, cha Anub nói rằng có một sự công chính khả dĩ làm biến mất những thiếu sót của anh em. Họ hỏi ngài: “sự công chính này là gì?”, vị trưởng lão trả lời: “luôn kết tội chính mình”.
Rõ ràng là ta phải phân biệt việc tự kết án mình mà truyền thống đan tu mời gọi ta với sự tự khinh bản thân một cách thiếu lành mạnh vì lắm ngại ngùng và nhiều nỗi khổ niềm đau, nên co cụm vào chính mình, mất niềm hy vọng và ước ao. Điều này làm người ta mất đi sự khiêm nhường và phó thác con thảo để mở ra cho lòng thương xót của Cha nhân lành.
Thiếu sự sẵn sàng để lên án chính mình, nhận ra những lỗi lầm, giới hạn và cả những bất trung của mình cách khiêm tốn, sẽ đem ta đến sự mù quáng không còn có cái nhìn yêu thương và thương xót đối với người khác. Thái độ này thường dẫn đến sự chia rẽ trong các cộng đoàn, hoặc tách rời cộng đoàn này khỏi những cộng đoàn khác. Lịch sử giáo hội, của dòng chúng ta gần đây nhất, đã chỉ cho ta thấy cách minh bạch về vấn đề này.
Sự nghiêm trọng của thái độ này nằm ở nơi vấn đề là người không bị lên án, người không nhận thức cách khiêm tốn sự đáng thương và tội lỗi của chính mình, nhu cầu hoán cải, sẽ làm cho người ta khép kín lại với lòng thương xót, không muốn cảm nghiệm lòng thương xót, và dần dần họ trở nên chai đá trong một quan niệm giả hình về sự công chính. Đức Giê-su mac khải rằng sự công chính đích thực không bao gồm trong việc nghĩ mình là công chính, nhưng trong nhận thức rằng mình chưa được như thế, nghĩa là mở con người ra với tặng ân thương xót của Cha. Và cho đến những khoảng khắc cuối cùng trước khi chịu chết trên Thập Giá, người đã công chính hoá anh trộm lành bị đóng đinh bên cạnh Người.
Năm nay, khi suy niệm về cuộc thương khó theo Tin mừng Luca, qua bài giảng vào ngày Chúa Nhật lễ lá, tôi hiểu rằng: “người ta thảo luận rất nhiều về tương quan giữa công bằng và lòng thương xót. Bây giờ, tên gian phi này quả là công chính vì anh đã nói với anh bạn mình rằng hình phạt này là rất xứng với tội lỗi của họ. Trái lại, Đức Giê-su mới là người bị oan vì Người vô tội. Anh trộm lành, trước khi nài xin lòng thương xót, anh nhận thức và quả quyết về sự công chính. Và điều này giúp anh biết kết tội chính mình. Sự công chính của chúng ta nội tại nơi khả năng chúng ta biết tố cáo chính mình, chứ không phải người khác. Và đây cũng là sự công chính của Thiên Chúa. Ngài không thích lên án chúng ta, nhưng chính chúng ta lên án mình cách chân thành và khiêm tốn. Khi chúng ta biết lên án về những điều xấu mình gây ra, nhận rằng mình không phải là người công chính, chúng ta mới tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Người trộm lành đã chấp nhận sự thật và nài xin lòng thương xót của Thiên Chúa. Sự khiêm nhường tự lên án, tự thú lỗi làm cho anh xứng đáng với lòng thương xót dù anh chẳng đáng chút nào, lòng thương xót bởi chiếc ôm của Đức Ki-tô đưa anh cùng hưởng sự sống đời đời với Người” (x. Lc 23,39-43; Bài giảng Chúa Nhật lễ Lá, 20.03.2016).
Sự can thiệp của Thiên Chúa
Tại sao thái độ như thế sẽ tháo gỡ những hoàn cảnh làm cá nhân và cộng đoàn không tiến bộ và phát triển? Đơn giản vì thái độ này mở cuộc sống của ta, cộng đoàn của ta, cả Dòng của ta nữa cho sự can thiệp của Thiên Chúa, Đấng can thiệp toàn năng và giàu lòng thương xót, sự can thiệp yêu thương vô hạn qua việc trao tặng chính Mình, qua việc thực hiện những điều kỳ diệu mà chỉ có Người mới làm được nơi ta. Thật kỳ diệu sự sống viên mãn vĩnh cửu mà anh trộm biết sám hối được thông dự với Người! Thật diệu kỳ bữa tiệc cha dành cho đứa con trở về với niềm tự hối mình không xứng đáng là con cha nữa! Thật kỳ diệu lễ Ngũ Tuần tràn đổ Thánh Thần trên các môn đệ khi họ đã từng chối bỏ và chạy trốn Đức Giê-su, và bây giờ họ họp nhau trong nhà Tiệc Ly trong niềm khiêm cung và thống hối!
Lòng thương xót của Chúa là quyền năng vô biên của ơn cứu độ và biến đổi đời sống chúng ta cũng như cộng đoàn của chúng ta. Chúng ta không sợ nhận ra và lên án sự khốn cùng của mình, sự giới hạn của mình vì điều này mở cho chúng ta cánh cửa để tiến sâu vào quyền năng thương xót của Thánh Thần. Sự khốn cùng của chúng ta là một cản trở chỉ khi ta không nhận ra nó, vì khi ta nhận ra nó thì ngay lập tức Thiên Chúa sẽ biến đổi nó, mở ra cho nó cánh cửa qua đó Người đến để yêu thương và làm ta biết thương xót như Người.
Lên án chính mình khai mở mọi hoàn cảnh trì trệ vì Thiên Chúa không mệt mỏi tha thứ cho ta. Người muốn rằng mỗi hồng ân tha thức khởi đầu cho một hành trình mới. Bao lần Đức Giê-su nói với những người tội lỗi biết sám hối: “tội anh đã được tha, hãy đi!”. Sự kiêu căng là chứng bại liệt của các cá nhân và của cộng đoàn. Ơn tha thứ của Chúa không chỉ rửa sạch những vết nhơ mà còn chữa lành để chúng ta lên đường, chạy cùng Đức Giê-su, bước theo Người trên con đường của Vị Mục Tử nhân lành, đầy tình thương xót, Đấng đến để giao hoà toàn thể nhân loại. Ai nhận thức sự khốn cùng của mình sẽ mở ra cho lòng thương xót của Cha, sẽ khởi hành trên con đường hoàn giải luôn mãi để bước theo Đức Ki-tô, Đấng hoà giải loài người với Thiên Chúa.
Một người hoặc cộng đoàn tiến bước trên hành trình hoà giải huynh đệ sẽ luôn tiến triển, ngay cả khi còn đó nhiều mỏng manh, bất toàn và nhiều giới hạn. Sự giao hoà như một sự phục sinh thường kỳ, là một cuộc tái sinh mãi mãi tân kỳ trong yêu thương, đây chính là sự diệu kỳ của Thiên Chúa thực hiện giữa chúng ta, và qua chúng ta, cho toàn thế giới.
Phục vụ, phụng vụ, hiệp thông
Thánh Biển Đức mời gọi chúng ta rửa chân cho người khác, nghĩa là phục vụ và đón nhận tất cả với nhận thức rằng chính mình đã được Thiên Chúa xót thương. Cử chỉ biểu tượng này diễn tả bản chất cốt yếu và sâu xa của đan viện, của cộng đoàn như một đền thờ của Thiên Chúa, như nơi Thiên Chúa giàu lòng xót thương xót hiện diện để sáng tạo và cứu độ nhân loại.
Chỉ thị này của Tu luật thể hiện một tuyệt đối tính rất ấn tượng: “pedes hospitibus omnibus tam abbas quam cuncta congregatio lavet – cả viện phụ và toàn cộng đoàn cùng rửa chân cho khách” (Tl 53,13). Tất cả cộng đoàn phải rửa chân cho tất cả khách! Quy định mang tính chất nhấn mạnh thật không thể thực hiện được trong thực tế. Cộng đoàn nào cùng với viện phụ hoặc viện mẫu mình có thể rửa chân cho tất cả khách đến đan viện? Có chút gì đó hơi quá đáng trong đề nghị của thánh Biển Đức. Một chủ nghĩa tuyệt đối của Tin mừng cũng từng làm các môn đệ bối rối khi Đức Giê-su rửa chân cho các ông. Chủ nghĩa tuyệt đối Tin Mừng của tình yêu của Đức Ki-tô: “trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Đối với Đức Giê-su, việc rửa chân như là một diễn tả biểu tượng cho chính cái chết trên Thập giá, cho Thánh Thể, cho cuộc hành trình của Ngài từ thế gian về với Cha, nghĩa là cuộc Vượt Qua, thì đối với chúng ta, chỉ thị trên của thánh Biển Đức không đơn giản là một việc phải làm mà còn là một tâm tình phải sống trong mọi hoàn cảnh, trong mọi cuộc gặp gỡ, và là điều phải sống trong cộng đoàn.
Thánh Biển Đức mời gọi chúng ta học từ Đức Ki-tô Phục Sinh bài học rửa chân như một luật cho đời sống chung, như một chương trình chung, như một lựa chọn đậm tính Tin Mừng của cuộc sống có thể liên kết chúng ta với tất cả. Viện phụ và cộng đoàn được mời gọi để kết hiệp với nhau trong dự phóng thiết yếu và phổ quát này, một dự phóng tình yêu của Đức Ki-tô, một tình yêu khiêm tốn của Đức Ki-tô, Đấng trở thành tôi tớ của tất cả con người để cho lòng thương xót của Cha đi vào thế giới, làm cho cuộc đời chúng ta, cộng đoàn chúng ta, và tất nhân loại, trở nên đền thờ của Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Quy định này của thánh Biển Đức cũng là một lời khuyến khích. Thánh Biển Đức dường như không đặt nặng lắm quy định này. Ngài không đặt nó ở đầu tu luật, và không đặt quy định này vào một chương đặc biệt. Nhưng chính điều này lại rất quan trọng vì Đức Giê-su không bao giờ áp đặt tình yêu của Người như một sự bắt buộc. Đây là một lời yêu cầu khiêm tốn khơi gợi tự do của chúng ta, vì một tình yêu chân thực luôn là tình yêu trong tự do.
Rửa chân cho người khác, tự bản chất, không còn là một việc không thể được. Nó không đòi hỏi quá nhiều sức lực, nhiều phương tiện, nhiều thời giờ, hay một nhân đức vĩ đại nào đó mới làm được. Nhưng là một chọn lựa của tình yêu, tình yêu khiêm tốn của Đức Ki-tô. Nhưng thánh Biển Đức đồng nhất chọn lựa này với chọn lựa sống hiệp thông trong cộng đoàn, sự hiệp thông trong vâng lời các Bề Trên và anh chị em, một sự hiệp thông của chương trình sống.
Nền móng đan tu này được thánh Biển Đức nhắc đến xuyên suốt trong tu luật, trong mọi khía cạnh của cuộc sống và ơn gọi của chúng ta. Nhưng ở đây, nó là một tổng hợp biểu tượng khả dĩ trở nên ánh sáng soi chiếu trên tất cả những thứ còn lại, trên toàn bộ đời sống huynh đệ, trên mọi việc làm trong đan viện, trên tất cả đời sống phụng vụ và bí tích, trên mọi hoạt động và tác vụ mà cộng đoàn Ki-tô và cộng đoàn đan tu Biển Đức muốn bước theo Đức Ki-tô, Đấng biến đổi tất cả thực tại nhân loại với tình yêu phục sinh của Người.
Thế giới được canh tân bởi chính Đức Ki-tô-Đấng Cứu Độ, theo mức độ trong đó việc đón nhận người khác, đón nhận tất cả trở nên kinh nghiệm đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa. Sự canh tân của Đức Ki-tô sẽ thể hiện nơi nào mà việc phục vụ trở nên một kinh nghiệm ân sủng và tri ân lòng thương xót của Cha. Khoảng không gian nhân loại trở nên đền thờ Thiên Chúa vì trong Đức Ki-tô, chúng ta khám phá ra rằng khoảng không gian ấy mang tính thần linh, thật sự là nơi thánh, là tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu, Thiên Chúa là lòng thương xót.
Chúng ta tự do đón nhận hoặc từ chối gợi ý cẩn trọng và khiêm tốn của tu luật cũng như của Tin Mừng. Chúng ta tự do. Nhưng khi sự tự do cá nhân hoặc cộng đoàn của chúng ta không ưng thuận với ánh sáng phục sinh về khía cạnh sự thật và sự sung mãn của ơn gọi Ki-tô hữu hoặc đan tu của chúng ta, thì tất cả đều tuột mất đi trọng tâm khả dĩ đem lại cho chúng ta một cuộc sống hài hoà. Các cá nhân cũng như các cộng đoàn không ưng thuận với kế hoạch nền tảng của Ki-tô giáo là Thánh Thể sống động, là rửa chân cho mọi người, thì sẽ không thể kinh nghiệm được lòng thương xót vốn có thể làm biến hình cuộc sống chúng ta và cộng đoàn trong đền thờ Thiên Chúa, trong nơi thánh thiện và thánh thiêng , trong tình yêu của Thánh Thần. Nhà Tiệc Ly, nơi cử hành việc rửa chân, cử hành Thánh Thể và cũng là nơi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
Ta có thể nói rằng đối với thánh Biển Đức, hiệp thông, koinonia, hô hấp bằng hai lá phổi phục vụ và phụng vụ. Phục vụ, rửa chân cho nhau làm sống động lời kinh nhạc dâng tiến Chúa nơi ca toà để đón nhận từ Người hồng ân thương xót, và như vậy koinonia-sự hiệp thông của cộng đoàn ngày càng sống động và tăng triển và truyền trao đến những người khác. Sự hiệp thông là lòng thương xót của Thiên Chúa mà chúng ta nhận lãnh khi phục vụ tha nhân cách khiêm tốn và khi chúng ta ca tụng Người. Sự hiệp thông là đền thờ Thiên Chúa, là nơi thánh thiêng của sự hiện diện Thiên Chúa, nơi ấy lòng thương xót thần linh được nếm hưởng trong tình yêu huynh đệ và trong lời ca tụng Thiên Chúa. Ta có thể nói rằng cộng đoàn tìm được sự hiệp nhất của mình trong tinh thần phục vụ cộng đoàn và sứ vụ, và ta tìm thấy và sống sự hiệp nhất này trong âm vang của phụng vụ. Hành trình trực tiếp từ rửa chân đến ca toà của thánh vịnh 47 cho thấy phục vụ ngay lập tức trở thành phụng vụ, thành lời cầu nguyện tán tụng Thiên Chúa. Việc phục vụ con người trở thành tức khắc việc phụng sự Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi đến trong sự hiệp thông của lòng thương xót luôn liên kết không chỉ những con người mà còn tất cả những việc chúng ta làm với đôi tay, với con tim trong hành động và cầu nguyện.
Việc thánh Biển Đức mời gọi viện phụ và cộng đoàn thực hành cử chỉ biểu tượng cho chúng ta thấy ý nghĩa sâu xa của quyền bính và vâng phục trong cộng đoàn đan tu. Viện phụ không phải điều khiển một đoàn binh, hoặc một đội bóng phải luôn chiến đấu hết mình để đoạt giải quán quân, nghĩa là một nhóm có quyền lực, một tổ chức đóng kín để tìm kiếm lợi ích và lợi nhuận cho mình, hoặc chỉ rửa chân cho những người quan trọng, nhưng là cộng đoàn những người phục vụ cho nhân loại, trước hết là “những người nghèo khổ và khách ngoại kiều” vì “nơi họ, ta đón nhận Đức Ki-tô cách sung mãn nhất” (Tl 53,15).
Dường như vang lên lời trách dịu dàng của Đức Giê-su dành cho Phê-rô vì ông không để Thầy hiện diện giữa anh em “như một người tôi tớ” (Lc 22,27): “nếu thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ không được chung phần với thầy” (Ga 13,8). Và nếu viện phụ là đại diện của Đức Ki-tô thì ngài phải là người đi đầu trong việc rửa chân cho anh em. Bề Trên của các đan viện được mời gọi đi đầu và hướng dẫn anh chị em mình trên con đường bác ái khiêm tốn và phổ quát, giúp cộng đoàn gặp gỡ Đức Ki-tô và đón nhận Người, Đấng là lòng thương xót nhập thể của Cha.
Xây dựng lại những đền thờ của lòng thương xót
Trong thế giới mà sự thù ghét và bạo lực đang lan tràn và phá huỷ cộng đồng nhân loại, gieo rắc sự sợ hãi, nghi kỵ; trong một thế giới có quá nhiều người phải lữ hành cách thể lý và thiêng liêng để tìm một nơi trú ẩn, tìm ý nghĩa của cuộc đời, điều gì là khẩn cấp nhất phải làm nếu không phải là tái cấu trúc những cộng đoàn để trở thành những đền thờ của lòng thương xót? Một thế giới cần chúng ta trung thành xây dựng những chỗ hẹn cho cuộc gặp gỡ và đón nhận lẫn nhau giữa sự khốn khổ của con người và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Tôi nghĩ đến thời của thánh Bê-na-đô. Ngay cả trong một xã hội dường như bị tàn phá, thánh Bê-na-đô đã chấp thuận rao giảng đạo binh Thánh Giá. Nhưng dấn thân chính yếu của ngài không phải là chiến tranh, nhưng là xây dựng con người và những nơi cư ngụ của lòng thương xót cách thể lý và thiêng liêng. Đây chính là phản ứng tốt nhất để đối lại với chủ nghĩa bạo lực, khủng bố, sợ hãi người khác đang xâm chiếm thế giới này, nó còn là phản ứng tốt nhất để đối nghịch lại nên văn hoá vô nhân đạo bởi chính sự hoàn hảo máy móc đến nỗi quên đi phẩm giá và những khát khao sâu xa từ tâm hồn con người. Hơn bao giờ hết sứ mạng sống ơn gọi đan tu theo đặc sủng thánh Biển Đức là xây dựng những nơi cư ngụ để Thiên Chúa có thể đến ở với con người và an ủi những khốn cùng của mọi con tim.
Nguyện xin Nữ Vương, Mẹ của lòng thương xót giúp chúng ta có được lòng trung thành và tận hiến cho tình yêu Chúa Ki-tô. Xin Mẹ cầu bầu cho tất cả chúng ta như xưa trong nhà Tiệc Ly của lễ Hiện Xuống!
Fr. Mauro-Giuseppe Lepori
Tổng Phụ Ocis