HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM
Nội san linh đạo đan tu
HUYỀN NHIỆM HIỆP THÔNG 2
Số 21, tháng 7 năm 2017
LỜI NGỎ
Kính thưa quý độc giả
Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm số 21 với chủ đề ‘Huyền Nhiệm Hiệp Thông 2’ xin được gửi tới quý độc giả trong và ngoài Hội Dòng những suy tư, chia sẻ liên quan đến sự hiệp thông trong đời sống của những người thánh hiến nói chung và của các đan sĩ nói riêng. Các bài viết tuy mộc mạc đơn sơ, nhưng chất chứa đầy tâm tình tri ân sâu đậm về Hồng Ân Hiệp Thông mà Ba Ngôi Thiên Chúa – nền tảng, khuôn mẫu và động lực cho tất cả mọi hình thức hiệp thông – đã thương ban cho Hội Dòng Xitô Thánh Gia và rất nhiều các tâm hồn, qua Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, trong suốt gần 100 năm qua (1918-2018).
Như một dòng chảy không bao giờ cạn, dòng chảy của ân sủng Thiên Chúa xuyên qua các thế hệ cha anh trong Hội Dòng, bắt đầu từ Đấng Sáng Lập Kính Yêu: Cha Biển Đức Thuận. Thật vậy, truyền thống Đan tu Xitô Thánh Gia, đã được Cha Biển Đức Thuận khơi nguồn đúng ngày Lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời (15/8/1918) trên Núi Phước, tỉnh Quảng Trị, Giáo Phận Huế. Thấm thoắt đã gần 100 năm, truyền thống ấy vẫn tiếp tục tuôn chảy dạt dào tưới mát tâm hồn của hơn 1200 đan sĩ thuộc Hội Dòng Xitô Thánh Gia và lan tỏa đến biết bao ân nhân, thân nhân của Hội Dòng cũng như đông đảo Dân Chúa xa gần. Tuy khác nhau về thời gian và không gian, về trình độ văn hóa, về nhận thức đức tin… nhưng tất cả họ đều được kế thừa và được tưới mát bởi cùng một dòng chảy đã được khơi nguồn từ Núi Phước trong suốt gần một thế kỷ, nhờ hồng ân hiệp thông được thiết lập và duy trì trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi qua đặc sủng đấng sáng lập.
Những hình ảnh sống động, những mối tương quan hiệp thông đa chiều, cả những thăng trầm trong suốt chiều dài của gần một thế kỷ ấy, vẫn đang được tái hiện từng ngày, nơi từng sinh hoạt đan tu trong tất cả 12 Đan Viện của Hội Dòng trải dài từ Bắc chí Nam[1] của mảnh đất hình chữ “S” thân yêu mà cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã thích thú nhận làm quê hương thứ hai của Ngài. Thật vậy, một cành nho sẽ không thể sinh hoa kết trái, thậm chí sẽ không thể sống còn, không tồn tại nếu nó không gắn liền với thân cây nho; một chiên con tự tách đàn sẽ nhanh chóng nộp mạng cho sói dữ. Đời sống Đan Tu cũng sẽ mai một nếu không gắn liền với Cây Nho Giêsu để hút nhựa sống, để tồn tại và sinh hoa kết trái.
Rất có thể những bài viết trong tập Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm số 21 này không thể diễn tả hết ý nghĩa sâu xa và thiết thực của “Huyền Nhiệm Hiệp Thông”, một sự hiệp thông sâu xa, toàn vẹn và tuyệt đối giữa Ba Ngôi Thiên Chúa là nền tảng cho mọi mức độ và hình thái hiệp thông trong đời sống đức tin của chúng ta. Nhưng ít ra nó cũng sẽ là một tiếng kêu mời, tuy bé nhỏ, nhưng tha thiết xuất phát từ thao thức hiệp thông của Thầy Giêsu Chí Thánh trong Lời Nguyện Hiến Tế (x. Ga 17,1tt). Đồng thời, qua những bài viết đơn sơ nhưng rất chân thành này, các tác giả cũng muốn bày tỏ tấm lòng nhiệt huyết trong việc xây dựng sự hiệp thông trong cộng đoàn tu trì, đặc biệt trong chính cộng đoàn mà họ đang sống, như là dấu chỉ cho sự hiện diện của Nước Trời, của Vương Quốc Ba Ngôi Thiên Chúa ngay tại thế gian này.
Xin trân trọng gửi đến quí độc giả Tập Nội San số 21.
Ban Biên Tập
[1] Trong đó có cả Đan Viện Fatima tại Thụy Sỹ.
MỤC LỤC
- BÀI HỌC HIỆP THÔNG
(Tác giả: FM.Montfort Huyên_ Đan viện CSDĐ) - CON TRONG HỌ CHA TRONG CON
(Tác giả: FM. JB Nguyễn Tiến Dũng_Đan viện Phước Sơm ) - Đọc Huấn Thị: ĐỜI SỐNG HUYNH ĐỆ TRONG CỘNG ĐOÀN
(Tác giả: FM.Goan Bosco Trần Văn Hùng) - HIỆP THÔNG VÀ ĐỒNG HÀNH
(Tác giả: FM.Duyên Thập Tự Lê Văn Đoàn_VPHT) - ĐỨC MARIA VÀ MẦU NHIỆM HIỆP THÔNG CỦA GIÁO HỘI
(Tác giả: FM. Fx. Nguyễn Hoài Lâm_Đan viện CSĐD) - VƯỢT QUA BIÊN CƯƠNG HỮU HÌNH CỦA GIÁO HỘI
(Tác giả: FM. Theophan Phạm Hữu Ái_ Đan viện Thiên Phước ) - DẤU CHỨNG TÌNH CHÚA VÀ TÌNH NGƯỜI
(Tác giả: Sr.M. Vinh Sơn Nguyễn Thị Chung_Đan viện Vĩnh Phước ) - MẦU NHIỆM CÁC THÁNH THÔNG CÔNG
(Tác giả: FM.Alberto Vũ Bá Đạt_ Đan viện Phước Lý) - HIỆP THÔNG HỮU CƠ
(Tác giả: FM. Martino Phạm Thanh Toàn _Đan viện Phước Vĩnh) - NỀN TẢNG ĐỂ TRỞ THÀNH NHỮNG CHUYÊN VIÊN HIỆP THÔNG
(Tác giả: Sr.M. Têrêsa Calcutta Nguyễn Thị Liên_ Đan Viện Vĩnh Phước ) - CÁC THẾ HỆ TRONG CỘNG ĐOÀN …
(Tác giả: FM. Benado Phạm Thanh Bình _Đan viện CSNQ) - TÌNH BẠN THIÊNG LIÊNG TRONG ĐỜI TU
(Tác giả: FM. Anrê Dũng Lạc PhạmVăn Phong ) - MẪU SỐ CHUNG
(Tác giả: FM.An Tâm ) - PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG
(Tác giả: FM. Mai Vương An _Đan viện An Phước) - CHIÊM NGƯỠNG VẺ ĐẸP THIÊN NHIÊN
(Tác giả: Sr.M. Gerardo Trần Thị Hợp _Đan viện Phước Hải) - TẢN MẠN ĐỒNG TIỀN
(Tác giả: FM. Arnold Janssen Thái Bá Đại_Đan viện Thiên Phước )
BÀI HỌC HIỆP THÔNG
FM. Montfort Huyên
Trong Kinh Thánh, có những trình thuật cho chúng ta thấy: người ta đánh mất sự hiệp thông bởi vì không thắng vượt được sự ghen tương và thù oán nhau, vì xung đột về lợi ích, sự thiên vị của người trên, sự ngây thơ dại khờ khơi lên sự ghen tương và thù oán của người khác đối với mình. Tuy nhiên, người ta cũng có thể tái lập sự hiệp thông nhờ lắng nghe nhau, chịu đựng lẫn nhau và nhận ra thiếu sót của mình, nhất là khiêm tốn và tha thứ cách khôn ngoan.
Bằng việc đọc lại những trình thuật này, chúng ta có thể rút ra bài học về sự hiệp thông trong các gia đình và cộng đoàn của chúng ta ngày nay.
I. NHỮNG NGUYÊN NHÂN LÀM MẤT SỰ HIỆP THÔNG
1. Ghen tương và thù oán ( x. St 4,1-16)
Câu chuyện Kinh Thánh đầu tiên về các anh em cũng là câu chuyện ghen ghét dẫn đến giết nhau giữa những anh em với nhau, giúp chúng ta đi vào trung tâm của vấn đề. Cain và Abel có nhiều điểm chung: Cùng cha mẹ, môi trường, mái ấm, sự giáo dục. Tuy nhiên, họ không thể hoà giải những khác biệt: Người lớn tuổi hơn và mạnh hơn là Cain, người trẻ hơn và yếu hơn là Abel. Cain là người làm vườn, còn Abel là người chăn nuôi. Nghề nghiệp của họ diễn tả não trạng và văn hoá khác nhau.
Cả hai đều dâng cho Thiên Chúa những sản phẩm do công việc của họ làm ra. Nhưng Cain có ấn tượng rằng mình không được lắng nghe và chấp nhận như người em của mình. Trong thực tế, ông nghĩ rằng Thiên Chúa phân biệt đối xử giữa hai người và thích Abel hơn mình. Cain không nghĩ rằng Thiên Chúa là một người Cha. Cain thấy Abel là một đối thủ. Ông mất bình an và niềm vui trong cuộc sống, vì để cho nỗi ghen tương và thù oán xảy ra trong tâm hồn mình.
Ở ngoài đồng, xa cách những người khác, Cain đã đánh và giết Abel. Lúc ấy Thiên Chúa nói với Cain: “Abel em ngươi đâu rồi ?” Cain thưa : “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?” Đức Chúa phán: “Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Cain thưa với Đức Chúa: “Hình phạt dành cho con quá nặng không thể mang nổi”. Nhưng tại sao Cain không biết kiểm soát nỗi thù oán và bạo lực nảy sinh trong tâm hồn ông? Tại sao ông không nhận ra hạnh phúc của em ông cũng là hạnh phúc của ông? Ông đánh mất sự hiệp thông với em mình chỉ vì ông đã không kiềm chế được nỗi ghen tương và thù oán của mình.
Tại sao chúng ta cảm thấy bực mình, nổi loạn và giận dữ khi những người lân cận của mình được đánh giá cao và được ca ngợi, khi họ thành công và mọi việc đều xuôi xắn đối với họ? Tại sao chúng ta lại vui mừng khi mọi việc xảy ra một cách tồi tệ đối với họ? Con người ghen tương đã bao phủ cảm giác của ta với sự kiêu ngạo đối với người khác và biện minh cho những cảm xúc này với những lý do khác nhau. Chỉ đến lúc cuối cùng Cain mới nhận ra rằng ghen tương và bạo lực chống lại em mình không giải quyết những vấn đề của ông hay thoả mãn những nhu cầu của ông. Ngược lại, chúng còn làm gia tăng oán thù và bất an hơn nữa[1] .
2. Xung đột về lợi ích (x. St 13, 2-18)
Điều gì thường gây ra những bất hoà và chia rẽ giữa anh chị em với nhau, giữa bạn bè? Đó là sự xung đột về lợi ích. Hai người sống hoà hợp và yêu thương nhau, nói chuyện với nhau, đi dạo với nhau, nhưng vào một lúc nào đó, sự lạnh nhạt, thinh lặng và ngờ vực trỗi dậy, bùng nổ sự tranh chấp, cãi vã và chia rẽ. Điều gì đã xảy ra? Chúng ta hãy xem xét câu chuyện thứ hai trong Kinh Thánh giữa ông bác và cháu trai: ông Abraham và ông Lót.
Abraham là một người may mắn. Từ một chút ban đầu, ông đã trở thành một người chủ giàu có với đàn súc vật đông đảo, một người được kính trọng và quý mến. Cháu của ông là Lót, một trẻ mồ côi đã đi theo ông trong cuộc di cư từ Phương Đông đến Palestine. Ông luôn được chia sẻ trong mọi công việc và những thành công của ông Abraham. Ông đã có đàn súc vật riêng và những người chăn thuê cho ông. Dần dần, những lợi ích làm cho hai bên bất hoà. Kinh Thánh cho chúng ta hiểu rằng lỗi lầm không phải khởi đầu từ Abraham, vì ông luôn luôn là một người công chính và hiếu hoà. Cũng không phải bởi ông Lót, người luôn kính trọng bác của mình, nhưng khởi đầu từ những người chăn súc vật cho họ. Chúng ta biết những cãi vã thô bạo xảy ra giữa những người mục đồng. Vì thế, ông Abraham và ông Lót đã từng sống hoà hợp và bình an với nhau, nay lại đối nghịch nhau.
Ông Abraham có thể làm gì? Ông có thể nhấn mạnh về quyền lợi của mình, quyền ưu tiên của ông. Ông có mọi sự để chống lại cháu ông. Thay vào đó ông đã chứng tỏ mình là người khôn ngoan và hiểu biết. Ông đã nhận ra rằng vào một thời điểm nào đó, việc duy trì quyền lợi của mình không còn quan trọng nữa.
Có những gia đình vì cứ khăng khăng giữ quyền lợi của mình trong nhiều năm, nhiều thập niên, đã đầu độc họ, đã làm họ mất nhiều tiền bạc vào việc kiện tụng, trong khi đó những lợi ích mà họ cho rằng phải giữ lấy đã không còn nữa. Trước khi bắt đầu cãi vã về những lợi ích, cần tự hỏi chính mình: Điều này có đáng không? Trên hết, các Kitô hữu làm gì khi nhận ra rằng: Một mặt họ đòi hỏi một vài quyền lợi nào đó, mặc dù những điều đó không luôn luôn được bảo đảm, mặt khác, họ mất đi sự bình an, tình yêu, sự hoà hợp, vui vẻ và ngay cả sức khoẻ vì sự bất hoà? Lúc ấy những thiệt hại nào xảy ra cho linh hồn, cho đức tin, làm tê liệt con người khi chúng ta không kiến tạo được sự bình an trong cuộc sống?
Abraham đã nói với ông Lót: “Sao cho đừng có chuyện tranh chấp giữa bác và cháu, giữa người chăn súc vật của bác và người chăn súc vật của cháu. Vì chúng ta là anh em họ hàng với nhau! Tất cả xứ chẳng ở trước mặt cháu đó sao? Cháu hãy xa bác đi. Nếu cháu đi về bên trái thì bác sẽ đi về bên phải; nếu cháu đi về bên phải thì bác sẽ đi về bên trái” (St 13,8-9). Abraham để ông Lót chọn đồng cỏ tốt nhất. Lịch sử cho chúng ta thấy đồng cỏ tốt nhất mà ông Lót đã chọn sẽ bị huỷ diệt bởi hình phạt giáng xuống trên Sôđôma và Gômôra. Abraham đã từ bỏ quyền lợi của mình, nhưng trong thực tế lại giữ được đồng cỏ của mình lâu nhất!
Abraham mời gọi chúng ta, không nhất thiết phải từ bỏ quyền lợi của mình một cách tự động trong trường hợp có bất hoà, nhưng đừng làm trầm trọng thêm những nguyên nhân của cuộc tranh cãi vì tư lợi bản thân. Hãy biết cách rộng lượng và tự nguyện tìm kiếm một sự ổn định thân thiện hơn là một cuộc cãi vã, ngay cả với sự trợ giúp của những người khôn ngoan là bạn của cả hai bên. Đừng làm sự khác biệt về lợi ích trở thành lý do cho sự thù oán, nỗi cay đắng và sự thù địch. Hãy biết cách nhượng bộ, trong khi biết rằng Thiên Chúa sẽ ban thưởng cho người có một tấm lòng tốt[2] .
3. Tái lập hiệp thông nhờ sự khiêm tốn
Có những trường hợp trong đó, giữa anh em không có sự hiểu biết nhau đầy đủ, cũng không hoàn toàn ác cảm với nhau, nhưng có sự khó khăn để hiểu biết nhau. Đây là chuyện có sự xen kẽ giữa thiện cảm và ác cảm, giữa yêu thương và thù ghét. Trong thực tế, người ta có ấn tượng rằng hai cảm xúc và hai đam mê không loại trừ nhau, nhưng đan xen nhau. Những người ghét nhau bởi vì họ yêu nhau, và ngược lại. Câu chuyện Kinh Thánh thứ ba có thể giúp chúng ta đi vào khung trời cảm xúc này.
Êxau và Giacóp là hai anh em sinh đôi. Bởi vì điều này họ có nhiều lý do để cảm thấy họ gắn kết và hoà hợp với nhau. Tuy nhiên, họ không phải là cặp sinh đôi giống nhau trong mọi sự. Ngược lại, họ có nhiều điểm khác biệt nhau: Nét mặt, trí thông minh, tính cách, sở thích và khả năng. Êsau là đứa con cưng của người cha, trong khi Giacóp là đứa con yêu dấu của người mẹ. Nhưng họ có vài điểm chung: họ thương nhau và ghét nhau với cùng sự thoải mái và thường xuyên. Họ tìm đến nhau để ngay lập tức chạy trốn nhau. Người mẹ của họ đã hiểu điều này ngay cả trước khi họ được sinh ra, bởi vì bà cảm thấy họ đấu tranh với nhau ngay trong bụng của bà.
Giacóp thông minh và tự phụ, lợi dụng cơn đói của anh và sự mù loà của người cha. Còn Êxau vì tính không kiên nhẫn và hời hợt đã mất những quyền lợi của mình. Người mẹ không có khả năng hoà giải họ. Họ phải xa nhau để khỏi giết nhau. Gia đình bị phân tán, con cái bất hoà và giận dữ, cha mẹ thất vọng và nản lòng.
Nhưng ở tuổi trưởng thành, hai anh em trở về để tìm kiếm nhau. Và họ đã tìm thấy nhau: “Ông Giacóp ngước mắt lên, thấy ông Êsau đang tiến đến, có bốn trăm người đi cùng” (St 33,1). Ông rất sợ hãi, vì anh ông có thể giận dữ và sẽ giết ông. Nhưng ông Giacóp được Thiên Chúa hướng dẫn, đã sụp xuống đất lạy bảy lần trước khi đến gần anh mình. Rồi “ông Êsau chạy lại đón em, ôm chầm lấy, bá cổ mà hôn, rồi cả hai cùng khóc” (St 33,4). Cuối cùng, sự căng thẳng trong tâm hồn họ đã dịu xuống, nỗi sợ biến mất, sự thù oán biến mất. Họ khóc về chuyện của họ, tha thứ cho nhau vì những hành động sai trái của nhau, họ quên đi những lời nguyền rủa và thay vào đó, họ chúc lành cho nhau. Sự khiêm tốn đã biến đổi tính tự phụ và nỗi ước ao trả thù thành niềm vui tha thứ và trao ban cho nhau những điều tốt lành[3] .
4. Tái lập hiệp thông với nhau nhờ sự tha thứ cách khôn ngoan (x. St 37-50)
Khi có những hành động nhục mạ và xúc phạm đến nỗi người ta bị cám dỗ để nói: “Đủ rồi, tôi sẽ tuyệt giao với họ mãi mãi!” Có hy vọng cho một hoàn cảnh như thế không? Đây là vấn đề trong trình thuật sau cùng của sách Sáng Thế, đó là trình thuật về mối liên hệ giữa ông Giuse và các anh em của ông.
Họ là mười hai người con trai của cùng một người cha nhưng khác mẹ. Ông Giuse là người con kế út, sinh ra bởi người vợ mà ông Giacóp yêu quý nhất. Lúc mười bảy tuổi, ông Giuse là một mục đồng trong công việc của các anh ông. Nhưng giữa ông và họ không có sự hoà hợp và mối liên hệ của họ không được tốt. Lý do rất bình thường: ông Giuse là đứa con cưng của Giacóp, người đã mặc cho ông chiếc áo đẹp hơn áo của mọi đứa con khác. Ông hay mách những lỗi lầm của họ với người cha. Ông hay có những giấc mơ, và giải thích những giấc mơ đó như những phóng chiếu cho tham vọng vĩ đại của ông. Còn các anh Giuse thì không có khả năng đối thoại với ông một cách thân thiện để dẹp bỏ những khác biệt và thù oán. Họ kém lòng bao dung và từ chối nhìn nhận sự ghen tị của họ, không chấp nhận các sự kiện, và đã đưa đến việc nuôi lòng thù ghét Giuse.
Một ngày khi Giuse đến gặp các anh của mình, “họ thấy cậu từ xa, và trước khi cậu tới gần họ thì họ lập mưu giết chết cậu” (St 37,18). Nhưng Giuđa nói với các anh em: “Ta giết em và phủ lấp máu nó, nào có ích lợi gì? Thôi, ta hãy bán nó cho người Ítmaên, nhưng đừng động tay tới nó, vì nó là em ta, là ruột thịt của ta” (St 37,26-27). Những lái buôn người Mađian đi qua đó, anh em của Giuse bán cậu cho người Ítmaên hai mươi đồng bạc. Những người này đưa Giuse sang Ai cập và bán cậu tại Ai cập cho một quan chức của Pharaô. Nhưng Chúa ở với Giuse và bất chấp những khó khăn và đau khổ, ông đã trở nên người quyền thế trong Ai cập. Gặp nạn đói, các anh của Giuse được người cha sai sang Ai cập tìm lương thực. Họ đến với ông Giuse mà không nhận ra ông. Họ cúi mình sát đất trước mặt ông.
Dù ông Giuse nhận ra họ, ông giả vờ không biết. Trong thực tế, ông xử với họ rất nghiêm khắc và tố cáo họ là gián điệp. Dường như đến lúc ông trả thù vì sự dữ họ đã làm cho ông. Nhưng Giuse không trả thù: với cách đối xử khôn ngoan, ông giúp họ ý thức về lỗi lầm họ đã phạm chống lại người cha và ông. Ông dẫn họ dần dần đến việc thống hối và một tình yêu quảng đại đối với gia đình, và đặc biệt đối với người cha của họ, người đã sống vì các con. Khi ông thấy họ hoán cải, ông tỏ lộ: “Tôi là Giuse, đứa em mà các anh đã bán sang Ai Cập. Nhưng bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây: chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em… Rồi ông hôn tất cả các anh và ôm họ mà khóc” (St 45,4-15)[4] .
II- SỐNG HIỆP THÔNG VỚI NHAU NHƯ ANH EM TRONG GIA ĐÌNH
1. Sống hiệp thông với nhau như những người anh chị em trong cùng một gia đình
Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền được nảy sinh từ lương tâm con người, đã nhìn nhận tình huynh đệ phổ quát trong mục đầu tiên: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm và vì thế phải đối xử với nhau như những người anh chị em”. Công đồng Vaticanô II dạy chúng ta rằng: “Thiên Chúa đã muốn mọi người hình thành một gia đình duy nhất, và họ cư xử với nhau như anh chị em. Trong thực tế, mọi người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được mời gọi đến cùng một mục đích là chính Thiên Chúa”[5] . Những lời này hiện tại hóa câu nói đầy hy vọng của Chúa Giêsu: “Tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt 23,8).
Về phương diện lý tưởng và tình cảm, mọi người muốn trở thành anh chị em của nhau. Vậy điều gì trong cuộc sống cản trở chúng ta trở thành những anh chị em với nhau? Trong mỗi người, ngay từ khi mới sinh, cùng với nỗi khao khát về tình huynh đệ, có một tính kiêu ngạo và thù nghịch của cái tôi đối nghịch với những người khác. Từ trong con người, một sức mạnh của tính ích kỷ xúi giục chúng ta từ chối người khác, không chấp nhận họ như những người anh chị em của mình; xúi giục chúng ta loại trừ, bóc lột và đẩy họ ra khỏi cuộc sống của mình.
Khi chúng ta nhượng bộ cho tính kiêu căng phản lý trí, phản xã hội, nó không muốn chúng ta ở cùng cấp độ với những người khác. Chúng ta từ chối ngang hàng với họ, khinh thường và làm giảm giá trị của họ. Chúng ta muốn tôn vinh cái tôi của mình, tranh cãi và trở thành kẻ tố cáo, ông chủ và nô lệ hoá anh chị em của mình. Sự dữ của thế giới nằm ở chỗ thiếu tình huynh đệ giữa những con người và những dân tộc. Người ta đặt lợi ích chính trị và kinh tế lên trên hết. Sự bóc lột, bất công và bạo lực được biện minh. Ngay cả trong một cộng đoàn tu trì, nếu sự thật “mỗi người là anh em/ chị em của tôi” bị từ chối, lúc ấy sự phản kháng, sự kình địch, tính hiểm độc, đố kỵ, ghen tương, những xung đột xảo quyệt sẽ bùng nổ.
2. Giáo dục chính mình về tình huynh đệ
Bất hoà là một căn bệnh bẩm sinh, phổ biến nhất và khó khăn nhất để chăm sóc và chữa lành. Bây giờ chúng ta tự hỏi: làm thế nào chúng ta có thể tìm lại được trong mình cảm thức về tình huynh đệ phổ quát trong trường hợp chúng ta đã mất nó? Hay làm thế nào chúng ta có thể làm gia tăng nó và làm cho nó có hiệu quả hơn?
Tất cả mọi tình huynh đệ giả thiết, đòi hỏi và được xây dựng trên tình phụ tử. Người cha và người mẹ là cội rễ của bất cứ cộng đoàn huynh đệ nào. Trước hết, chúng ta cần tái khám phá Chúa Cha, nguồn mạch sự sống của mọi người, điểm qui chiếu, mẫu mực của cách cư xử và giao hoà giữa anh chị em. Khi người Cha của gia đình vắng mặt, không được nhận biết, không được vâng phục với tình yêu, thật là khó cho con cái hiệp nhất, yêu thương và giúp đỡ nhau. Thiên Chúa đã trở thành con người để biểu lộ tình phụ tử của Ngài trong Chúa Giêsu Kitô, để truyền thông cho chúng ta ân sủng của Ngài: ân sủng giao hoà và tái hiệp nhất toàn thể gia đình nhân loại. Thiên Chúa chúng ta là Ba Ngôi trong một sự hiệp nhất và hiệp thông hoàn hảo. Lời Chúa hướng dẫn chúng ta gặp gỡ anh chị em mình, giúp chúng ta nhận ra họ, chấp nhận và nâng đỡ họ, quý trọng và sống chung với họ.
Như các Kitô hữu đầu tiên sống hiệp nhất như thánh Luca mô tả (x. Cv 2,42): Sống kiên nhẫn hơn, chuyên cần đọc và suy niệm Lời Chúa, chúng ta sẽ thành công trong việc sống chung như anh chị em của nhau. Những ai yêu mến Cha của họ cũng sẽ yêu mến con cái của Ngài. Những ai yêu mến Thiên Chúa cũng sẽ yêu mến anh chị em của mình (x.1Ga 5); và những ai yêu mến anh chị em của mình cũng sẽ yêu mến Thiên Chúa (x.1Ga 4).
Việc thực hành hiệp nhất huynh đệ giúp chúng ta “cư xử như những người anh chị em” với mọi người, trong tinh thần của Tin Mừng.
3. Nhận ra thiếu sót của mình
Trong thực tế, chúng ta mong chờ sự kính trọng và hiểu biết từ những người khác, nhưng mình lại hiếm khi làm như vậy, hay chỉ làm cho những ai mình ưa thích. Chúng ta bị xúc phạm khi những người khác đối nghịch hay phê phán, cảm thấy mình có quyền nói xấu về người khác và xúc phạm họ. Chúng ta đòi hỏi được giúp đỡ một cách tự mãn, nhưng lại từ chối giúp người đang khó khăn. Nhiều lúc, chúng ta là “chuyên viên” trong việc nhận biết khuyết điểm của những người khác, mà không thấy những bất công ta đã làm. Chúng ta thường bị cám dỗ cho mình là người vô tội, bởi vì lỗi lầm luôn là của những người khác. Chúng ta muốn được tha thứ mà không hoán cải. Ngược lại, chúng ta minh oan cho mình, và khiến cho những kẻ làm tổn thương mình phải trả giá. Chúng ta đòi hỏi vinh dự và yêu thương, nhưng khi lại keo kiệt trong việc tỏ ra quý trọng và tử tế đối với người lân cận.
4. Đừng làm điều mình không muốn người ta làm cho mình
“Điều gì con không thích thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,15). Nếu tiêu chuẩn đơn sơ này được mọi người thực hành, thì nó có thể thay đổi toàn bộ xã hội. Chúng ta hãy bắt đầu thực hành điều này nơi chính mình và đừng đợi người khác bắt đầu, đừng mong chờ và đòi hỏi mọi người đem nó ra thực hành. Luật sống đầu tiên này khẳng định nguyên tắc bất bạo động, một trong những sức mạnh lớn nhất nằm trong tay loài người. Bất bạo động là một chọn lựa sự sống và loại trừ cái chết, nỗi khao khát hoà bình ngược lại với bản năng chiến tranh độc ác. Bất cứ sự xâm phạm, hung hăng, gây tổn thương, giết người, chống lại một con người là một hành vi bạo lực chống lại toàn thể gia đình nhân loại, bởi vì tình liên đới tự nhiên hiệp nhất chúng ta lại.
Chúng ta đừng học “nghề chiến tranh”, bất kể trong gia đình, quốc gia hay quốc tế. Chúng ta hãy phá bỏ mọi hình thức dạy bạo lực, ngay cả chỉ dùng ngôn từ; hãy học và dạy sống yêu thương và học cách xây dựng hoà bình. Sống bác ái là một nhân đức mà mọi người có thể thực hành, bất kể họ là ai và thuộc bậc sống nào.
5. Lắng nghe nhau
Ngày nay, người ta cần lắng nghe hơn nói. Chúng ta học nói, ngay cả nhiều ngôn ngữ, và chúng ta không còn khả năng lắng nghe nhau. Chỉ khi chúng ta lắng nghe người khác với sự chú ý và không lơ đãng, với sự kiên nhẫn và không vội vàng, với sự ngạc nhiên và không chán chường, thì có khả năng đi vào tâm hồn người khác. Như vậy, chúng ta trở nên người sử dụng thời gian có hiệu quả. Đôi khi chúng ta nghĩ thời gian lắng nghe là thời gian bị mất, nhưng trong thực tế, nếu nghĩ như vậy là vì chúng ta không có thời gian cho người khác, nhưng chỉ cho chính mình và sở thích của mình.
Không ít khi chúng ta dùng quyền để nói hay diễn tả ý muốn trên người khác, nó che giấu cảm giác ngờ vực và loại trừ của chúng ta. Nó là một loạt những lý lẽ và cáo lỗi đầy hàm hồ và mâu thuẫn để biện minh cho mình. Trong khi đó, “một sự lắng nghe có chủ ý” trở nên một trợ giúp lớn và hiệu quả cho người khác. Người ta cần nói những vấn đề của họ cho ai đó, những người hiểu họ để làm giảm nhẹ chúng đi, để không cảm thấy cô đơn trong hoàn cảnh đau đớn, để trao đổi giải quyết vấn đề hay tìm lối thoát. Khi người ta không tìm thấy ai đó để chia sẻ, những vấn đề cá nhân có thể trở thành to lớn, khủng khiếp, chúng làm yếu đi ý nghĩa của cuộc sống và bóp nghẹt niềm hy vọng.
6. Chịu đựng lẫn nhau
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô đã ghi lại tiêu chuẩn của cuộc sống cộng đoàn: “Anh em hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4,2). Điều này tóm tắt toàn bộ luật của Chúa Kitô. Nó mời gọi chúng ta phục vụ những người khác, để giúp những người đang gặp khó khăn một cách cụ thể: phục vụ tại bàn ăn, giúp một chút trong công việc, nở một nụ cười và cúi đầu chào nhau khi gặp nhau. Đó có thể là những việc nhỏ, bên ngoài có vẻ vô nghĩa, nhưng rất hiệu quả trong việc xây dựng một cộng đoàn huynh đệ, trong việc tạo nên sự hiệp nhất trong gia đình. Đừng dửng dưng khi chúng ta thấy một người đang cần giúp đỡ, vì nghĩ “đó không phải là chuyện của tôi”; đây là dấu chỉ của một não trạng lười biếng, keo kiệt, một sự phủ nhận tình huynh đệ: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô” (Gl 6,2).
Mang gánh nặng có nghĩa là nâng đỡ sự mệt mỏi của nhau, chịu đựng những khó khăn nảy sinh từ việc sống chung, đón nhận nỗi khát mong của người khác, sống tử tế và yêu thương với những người có thể không đáng được xử như vậy. Nếu chúng ta muốn là người anh em, thì phải trở nên mạnh mẽ để mang gánh nặng cho nhau: những gánh nặng này có thể là những khuyết điểm và tội lỗi của chúng ta cũng như của những người khác. Về điều này, Chúa Giêsu là gương mẫu cho chúng ta (x. Pl 2,6-11): mọi tội lỗi của chúng ta đều chất lên Ngài và Ngài không bao giờ phàn nàn.
Việc hằng ngày phục vụ anh chị em mang lại ý nghĩa cho cuộc đời chúng ta và làm cho cuộc sống chúng ta hạnh phúc hơn. Khi việc phục vụ trở nên hỗ tương sẽ tạo ra sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu cầu nguyện trong Bữa Tiệc Ly, cho chúng ta sống kinh nghiệm về bác ái và niềm vui thực sự.
7. Tha thứ cho nhau (x. Cl 3,13)
Những ai cho rằng mình không cần làm gì để được tha thứ là kiêu ngạo và mù quáng. Để học biết tha thứ, chúng ta phải cảm nghiệm về nỗi buồn sầu và lòng thống hối Kitô giáo. Thống hối đòi hỏi chúng ta có một sự ý thức về việc sai trái, vi phạm kế hoạch của Thiên Chúa, làm cộng đoàn nghèo nàn và đau khổ. Từ nhận thức này nảy sinh nơi chúng ta nỗi buồn sầu: một sự đau buồn nội tâm, buồn vì đã làm tổn thương những người khác và chính mình, đã phản bội tình yêu Thiên Chúa. Từ đó, đi đến một quyết tâm không tái phạm, đền bù những bất công đã gây ra và khiêm tốn nài xin Thiên Chúa tha thứ. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa tha thứ tội lỗi và giúp chúng ta có khả năng tha thứ.
8. Cùng làm việc với nhau vì thiện ích chung
Nếu chúng ta chưa đạt đến sự hiệp nhất của tình yêu mà các Kitô hữu tiên khởi đã thực hành, thì ít nhất chúng ta hãy nhắm đến sự hoà hợp để cùng làm việc chung với tư cách là một gia đình, một cộng đoàn. Nếu không thì sẽ có nguy cơ người này phá đổ những gì người khác xây dựng.
Sự hoà hợp nằm ở chỗ cùng nhất trí trong một quyết định, trong một mục tiêu được mọi người cùng chia sẻ. Sự hoà hợp của chúng ta phải có cội rễ và mục đích là thiện ích chung, trong đó có hạnh phúc của mỗi thành viên trong gia đình mà họ thuộc về. Đừng để sự hòa hợp giữa các thành viên bị hư hỏng do việc theo đuổi lợi ích cá nhân hay của một nhóm người.
Có lẽ chúng ta phải tái khám phá thiện ích chung là gì? Trong Kinh Lạy Cha, sau khi cầu xin sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cầu xin những nhu cầu căn bản của mỗi người: bánh ăn hàng ngày cho mọi người, một cuộc sống đúng phẩm giá cho tất cả, sự bình an nảy sinh từ việc giao hoà và công bình xã hội thực sự. Nếu chúng ta thực hiện sự hoà hợp liên quan đến những thiện ích này, chúng ta sẽ thành công trong việc cùng nhau cộng tác và hoạt động, bằng việc nhận biết đánh giá đúng và áp dụng trí thông minh, sự nhạy bén và khả năng của mỗi cá nhân, trong việc nhận biết không chỉ bằng lời nhưng còn bằng sự chia sẻ bình đẳng những lợi ích, để phục vụ việc nhân bản hoá thế giới. Bấy giờ chúng ta sẽ ý thức rằng công việc được thực hiện chung với nhau, cùng chia sẻ mệt nhọc, niềm hy vọng, những khoảnh khắc vui vẻ, kết hiệp ý chí và tâm hồn của mọi người, chúng ta sẽ khám phá mình là anh chị em của nhau[6] .
Thay lời kết
Các trình thuật Kinh Thánh trên đây cho chúng ta những bài học sâu xa về sự hiệp thông. Hiệp thông với nhau trong cùng một cộng đoàn không phải là chuyện dễ dàng. Nó đòi hỏi mỗi người phải sống một cách có trách nhiệm và đúng cương vị của mình. Trách nhiệm của mỗi người trước hết là chu toàn bổn phận được cộng đoàn giao phó. Chúng ta như là một bộ phận trong cùng một thân thể. Nếu chúng ta ý thức rằng thành công của anh chị em cũng là thành công của mình thì không còn ghen tương thù oán, và lợi ích chung phải là mục tiêu mà mọi người cùng nhắm đến. Trách nhiệm lớn nhất mà mọi người đều phải thi hành là xây dựng sự hiệp nhất của cộng đoàn. Người ta cần hy sinh chịu thua thiệt vì lợi ích và sự hiệp nhất của cộng đoàn. Nếu ai cũng đón nhận người khác như người anh em ruột thịt của mình, thì cộng đoàn mới có thể đứng vững trong những thử thách gian nan của đời thánh hiến.
[1] Carlo Martini, The New Wine, Christian Witness of the Family, tr. 165.
[2] Carlo Martini, The New Wine, Christian Witness of the Family, tr. 166.
[3] Carlo Martini, The New Wine, Christian Witness of the Family, tr. 169.
[4] Carlo Martini, The New Wine, Christian Witness of the Family, tr. 170.
[5] Công đồng Vaticano II, Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng, số 24.
[6] Carlo Martini, The New Wine, Christian Witness of the Family, tr. 174.
CON TRONG HỌ CHA TRONG CON
FM. Gioan Baptist Nguyễn Tiến Dũng
Trong một giờ chầu Thánh Thể dịp đầu Năm Mới Đinh Dậu 2017, tôi thật sự bị đánh động bởi câu Lời Chúa được khắc chạm cách cẩn thận và sắc nét trên gian Cung Thánh Nguyện Đường Nhà Cha của Đan Viện Thánh Mẫu Phước Sơn. Chắc chắn đây không phải là lần đầu tiên gặp thấy câu Lời Chúa ấy, nhưng lần này bản văn Lời Chúa được ‘thếp vàng’ cách trang trọng đó đã gợi lên trong tôi một suy nghĩ sâu sắc và mời gọi tôi đọc lại cách chăm chú hơn trong tâm tình cầu nguyện. Bản văn Lời Chúa được trích trong Tin Mừng Thứ Tư đó là: “Con trong chúng, Cha trong Con để chúng hoàn toàn nên một” (Ga 17,23).
Tuy nhiên, phải nói ngay rằng sự đánh động trong tâm hồn và lời mời gọi tính hiếu kỳ của tôi lúc này không chỉ đến từ những nét nghệ thuật trang trí hay kỹ năng khắc chạm trên gian cung thánh, nhưng đúng hơn nó đến từ chính nội dung sứ điệp mà câu Lời Chúa ấy muốn thông đạt: sứ điệp của một sự hiệp thông đa chiều, thâm sâu và trọn vẹn giữa Chúa Cha với Đức Giêsu, giữa Đức Giêsu với các môn đệ của Ngài. Sứ điệp hiệp thông từ câu Lời Chúa trên đây càng trở nên thiết thực và ý nghĩa hơn khi được đặt trong bầu khí chung của toàn thể Hội Dòng đang cùng nhau cầu nguyện, suy tư, học hỏi về Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, trong dịp chuẩn bị mừng Bách Chu Niên ngày Dòng Đức Bà Annam [1] (tiền thân của Hội Dòng Xitô Thánh Gia) được chính thức khai sinh trên Núi Phước, tỉnh Quảng Trị, thuộc Giáo Phận Huế.
Quả thật, khi đọc lại cuốn Tin Mừng Thứ Tư trong tâm tình cầu nguyện, tôi đã rất ngạc nhiên và thích thú về những khái niệm, những hình ảnh, những dụ ngôn,… được thánh sử Gioan lặp đi lặp lại nhiều lần khi mô tả mối tương quan hiệp thông mang tính tất yếu và trọn vẹn giữa Đức Giêsu với Chúa Cha và giữa Đức Giêsu với các môn đệ của Ngài. Nhiều lần trong Tin Mừng Thứ Tư, với những kiểu nói mang tính biểu tượng cao đã được thánh sử Gioan sử dụng cách rất tinh tế để diễn tả mối tương quan thâm sâu giữa Đức Giêsu với Chúa Cha. Đó là mối tương quan hiệp thông trọn vẹn cả trong bản thể lẫn trong hành động: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,11); “Chúa Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Chúa Cha” (Ga 14,9-11); “Cha Ta hằng làm việc thì Ta cũng hằng làm việc luôn” (Ga 5,17), “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho” (Ga 15,1). Tương quan giữa Đức Giêsu với các môn đệ cũng được Tin Mừng Thứ Tư trình bày cách rõ ràng qua các hình ảnh đơn sơ và dễ hiểu được rút ra từ kinh nghiệm trong đời sống thường nhật của người dân Palestina đương thời, nhưng ý nghĩa của chúng thì thật là phong phú và sâu sắc: Hình ảnh ‘cây nho – cành nho’ (x. Ga 15,1tt) và hình ảnh ‘chủ chiên – đàn chiên’ (x. Ga 10,1tt). Ngoài ra, thánh sử Gioan còn cho thấy nét độc đáo của Tin Mừng Thứ Tư khi xác định tương quan hiệp thông giữa Đức Giêsu với các môn đệ là[2] mối tương quan ‘Thầy Trò’ và mối tương quan ‘Bạn Hữu’.
Tất cả những khái niệm và hình ảnh đó đã nói lên bản chất sâu xa của một mối tương quan hiệp thông trọn vẹn giữa Đức Giêsu với Chúa Cha và giữa Đức Giêsu với các môn đệ: một mối tương quan hiệp thông đến mức ‘ở trong’ và ‘nên một’ với nhau. Cũng chính vì thế, trong một bối cảnh trầm lắng và thánh thiêng hơn mà chúng ta quen gọi là ‘Lời Nguyện Hiến Tế’, Đức Giêsu đã bày tỏ thao thức nồng cháy của Ngài là lo sao cho các môn đệ nhận thức rõ và được ở lại mãi trong sự hiệp thông với Ngài và với Chúa Cha. Ngài cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta … Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (17,21-23).
I – TƯƠNG QUAN HIỆP THÔNG GIỮA ĐỨC GIÊSU VỚI CHÚA CHA
Tương quan giữa Đức Giêsu và Chúa Cha được thánh Gioan trình bày trong Tin Mừng qua hình ảnh Ba Ngôi và trong tương quan Cha – Con. Đó là những mối tương quan hiệp thông hai chiều, sâu sắc và trọn vẹn.
1. Tương quan hiệp thông bản thể
Tương quan hiệp thông trong mầu nhiệm Ba Ngôi là mối tương quan ‘Đồng Bản Thể’. Chữ ‘đồng’ ở đây muốn nói lên một sự ngang bằng về bản tính giữa Đức Giêsu và Chúa Cha (và Chúa Thánh Thần) trong mầu nhiệm Ba Ngôi. Trong mầu nhiệm này, tuy là Ba Ngôi Vị riêng biệt nhưng có cùng một bản tính Thiên Chúa[3] . Thật vậy, trong Lời Tựa của Tin Mừng Thứ Tư, thánh Gioan khẳng định: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1). Qua lời khẳng định này, chữ ‘đồng’ còn muốn diễn tả một sự ngang bằng trong hành động sáng tạo và quan phòng: “Thế gian đã nhờ Người mà có và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,10).
Trong cuộc đối thoại với tông đồ Philipphê, khi ông này năn nỉ Đức Giêsu, xin cho được thấy Chúa Cha: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Đức Giêsu đã trả lời với vị Tông Đồ này rằng: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không, thì hãy tin vì chính các việc kia vậy” (Ga 14,8-11). Qua câu trả lời này, Đức Giêsu như muốn hoàn toàn đồng hóa Ngài với Chúa Cha: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy. Vì vậy, ai thấy Thầy thì cũng là thấy Chúa Cha; tuy hai mà một (hai ngôi vị nhưng chỉ với một bản thể duy nhất)!
Như vậy, lời khẳng định trên đây giúp chúng ta thấy được rằng Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha là một: một trong bản thể, trong ý hướng, trong hành động. Chính Đức Giêsu luôn ý thức về nguồn gốc, bản tính và cùng đích của Ngài: “Đức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa” (Ga 13,3).
2- Tương quan hiệp thông Cha và Con
Ngoài tương quan ‘đồng bản thể’, trong những lần giáo huấn cho các môn đệ, Đức Giêsu còn cho thấy tương quan giữa Ngài và Thiên Chúa là mối tương quan Cha – Con. Thật vậy, tương quan Cha – Con giữa Chúa Cha và Đức Giêsu không dừng lại ở trật tự hay cấp bậc xã hội…, nhưng là một sự hiệp thông Ngôi Vị ở mức độ cao nhất. Từ ngữ ‘ở trong’ không ngừng được lặp đi lặp lại để nói lên thực tại này: “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,11). Nói cách khác, tương quan theo cách thức ‘ở trong’ giữa Chúa Cha và Đức Giêsu không chỉ là một cách nói hay chỉ tồn tại trong ý tưởng, nhưng đây là sự hòa hợp và hòa quyện thật sự và trọn vẹn giữa hai Ngôi Vị: Ngôi Vị Cha và Ngôi Vị Con.
Trong một ngữ cảnh khác, Đức Giêsu còn mạc khải cho thấy tương quan Cha – Con giữa Ngài với Chúa Cha, khi Ngài cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12,27-28). Trong những lời hứa cuối cùng với các môn đệ trước khi bước vào cuộc thương khó, Ngài còn nói thêm: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12,26). Nhiều lần Đức Giêsu đồng hóa với Chúa Cha: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ anh em biết Người và đã thấy Người” (Ga 14,7).
Khi những người Do Thái hỏi Đức Giêsu: “Cha ông ở đâu?”, Ngài thẳng thắn trả lời cho họ rằng: “Các ông không biết tôi, cũng chẳng biết Cha tôi. Nếu các ông biết tôi, thì hẳn cũng biết Cha tôi” (Ga 8,19). Qua câu trả lời này, rõ ràng là Đức Giêsu đã muốn khẳng định tương quan hiệp thông giữa Ngài với Chúa Cha là mối tương quan của Cha – Con; một tương quan thân tình, gần gũi và cùng có một nguồn gốc, một sự sống.
3- Tương quan hiệp thông trong sứ vụ
Trong bài giảng Chống Lạc Giáo Ario vào thời của ngài, thánh Irênê đã trình bày rất chi tiết tương quan giữa Đức Giêsu và Chúa Cha là mối tương quan giữa người được sai đi thi hành sứ vụ (Đức Giêsu) và người sai đi (Chúa Cha)[4] . Thật vậy, trong chương mười hai của Tin Mừng Thứ Tư, Đức Giêsu đã thú nhận rằng: “Không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh[5] cho tôi phải nói gì” (Ga 12,49). Như thế, chúng ta có thể nói rằng, Đức Giêsu là ‘phát ngôn viên’ của Thiên Chúa Cha. Ở câu tiếp theo, Đức Giêsu còn cho biết mục đích và nội dung của việc sai đi mà Ngài đã đón nhận từ Chúa Cha là gì, khi nói: “Tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi” (Ga 12,50).
Trong chương mười bốn của Tin Mừng Thứ Tư, Đức Giêsu khẳng định một lần nữa mục đích sứ vụ của Ngài rằng: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Đó chính là mục đích mà Thiên Chúa Cha đã nhắm tới khi sáng tạo con người. Thiên Chúa sáng tạo con người để con người tiếp tục cộng tác vào công trình sáng tạo và thông hiệp trong sự sống với Ba Ngôi (x. St 1,24-30). Đức Giêsu còn xác quyết: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Nói cách khác, Đức Giêsu là người ‘hiện thực hóa ý muốn’ của Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai phái Ngài đến thế gian.
Đức Giêsu còn cho thấy Chúa Cha là mẫu gương, là động lực và là điểm qui chiếu cho công việc của Ngài. Trong một cuộc đối thoại với những người Do Thái đang tra vấn Ngài, Đức Giêsu nói với họ rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông: Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì Người Con cũng làm như vậy” (Ga 5,19). Có thể nói rằng những việc Đức Giêsu làm là vì Ngài đã thấy Chúa Cha từng làm trước rồi: “Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17). Đức Giêsu là người ‘họa lại hình ảnh trung thực’ của Thiên Chúa Cha, Đấng luôn hành động (x. Dt 1,3).
II – TƯƠNG QUAN HIỆP THÔNG GIỮA ĐỨC GIÊSU VÀ CÁC MÔN ĐỆ
Đề cập tới tương quan giữa Đức Giêsu và các môn đệ, thánh sử Gioan đã sử dụng hai hình ảnh đơn sơ dễ hiểu trong đời sống thường nhật của người dân Palestina đương thời, nhưng ý nghĩa của chúng thì thật là sâu sắc: Hình ảnh ‘cây nho – cành nho’ và hình ảnh ‘chủ chiên – đàn chiên’. Ngoài ra, Thánh Sử còn nói đến tương quan ‘Thầy Trò’ và tương quan ‘Bạn Hữu’ giữa Đức Giêsu với các môn đệ.
1 – Hiệp thông giữa cây nho và cành nho
Khi mô tả tương quan giữa Đức Giêsu với các môn đệ, tác giả Tin Mừng Thứ Tư đặc biệt nhấn mạnh đến một dạng thức tương quan hiệp thông mang tính tất yếu và sống còn. Theo thánh sử Gioan, điều kiện tiên quyết và thiết yếu để trở thành môn đệ của Đức Giêsu là phải gặp gỡ và lưu lại với Ngài như các môn đệ đầu tiên: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1,39). Kiểu nói ‘lưu lại’ hay ‘ở lại’ với Đức Giêsu trong Tin Mừng Thứ Tư, diễn tả một đời sống gắn kết thâm sâu mang tính sống còn như Ngài vốn ở trong Chúa Cha và kết hợp trọn vẹn với Chúa Cha: “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,11).
Thật vậy, hình ảnh cây nho và cành nho được tác giả sử dụng như một minh chứng cụ thể và sống động cho mối tương quan hiệp thông thiết yếu và trọn vẹn giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Chính Đức Giêsu là cây nho đích thực, Cha Ngài là người trồng nho, các môn đệ là những cành nho cần phải thường xuyên kết nối với cây nho để sống và sinh nhiều hoa trái. Qua hình ảnh này, Đức Giêsu đã giải thích cho các môn đệ hiểu thế nào là kết hợp với Ngài và bằng cách nào sự sống nơi Ngài chuyển lưu qua họ, để giúp cho họ sinh hoa kết trái.
Nhờ kết hợp với Đức Giêsu như cành nho kết hợp với cây nho, người môn đệ được tham dự vào chính bản tính và sự sống của Ngài, nhờ đó, họ cũng sẽ được hiệp thông sâu xa với Chúa Cha. Người nào lưu lại trong Đức Giêsu thì Ngài cũng sẽ lưu lại trong người ấy và người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái[6] . Sau đó, Ngài kết luận: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em sẽ không làm gì được” (Ga 15,5).
Ngoài ra, Tin Mừng theo Gioan còn cho thấy mối tương quan lệ thuộc giữa cành nho với cây nho được củng cố thêm bằng tương quan giữa một thụ tạo và Đấng Tạo Thành. Trong lời tựa, thánh sử Gioan đã xác định: “Thế gian đã nhờ Người mà có” (Ga 1,10). Chữ ‘thế gian’ trong Tin Mừng Thứ Tư bao gồm tất cả vạn vật và con người. Nói cách khác, tương quan giữa Đức Giêsu và các môn đệ cũng là tương quan giữa ‘Đấng Tạo Hóa và thụ tạo’; giữa Vị Thiên Chúa vô biên, quyền năng… và con người hữu hạn, thấp hèn. Không gắn kết với cây nho, cành nho sẽ khô héo; không gắn kết với Đức Giêsu, người môn đệ sẽ lụi tàn và trở thành vô dụng.
2- Hiệp thông giữa chủ chăn và đàn chiên
Cũng một cách thức như trên (cây nho và cành nho), hình ảnh chủ chăn và đàn chiên được Đức Giêsu sử dụng, trước hết, để ám chỉ tương quan giữa Ngài với các môn đệ, và sau đó, là tương quan giữa Ngài với mọi kitô hữu. Ngài quả quyết: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,14-15).
Tuy nhiên, dù là tương quan với các môn đệ hay tương quan với tất cả mọi Kitô hữu, hình ảnh chủ chăn và đàn chiên được nói tới trong Tin Mừng Thứ Tư đều chú tâm đặc biệt đến mối tương quan hiệp thông giữa Đức Giêsu với từng cá nhân. Người Mục Tử biết chiên của mình từng con một, gọi tên từng con một, chăm sóc và bảo vệ chiên từng con một để đưa chúng vào cùng một đàn chiên và một chủ chăn; để dẫn chúng đến đồng cỏ xanh tươi, đến dòng suối mát trong. Về phần chiên thì sao? Mỗi con chiên cũng sẽ chỉ nghe tiếng chủ chăn, nhận ra tiếng chủ chăn, đi theo chủ chăn và đón nhận sự chăm sóc bảo vệ của vị chủ chăn của mình mà thôi, chứ không nghe và cũng không theo người lạ. Nhờ vậy, chiên sẽ được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,3-15).
Động từ “biết” được thánh Gioan dùng ở đây mang một ý nghĩa đặc biệt. Mục Tử biết chiên không chỉ là cái biết của trí năng nhằm thu thập thêm những kiến thức sinh học trong cơ thể chiên, cũng không chỉ là biết đặc tính của chiên. Mục Tử biết chiên với cả trí lòng, bao hàm một sự nhận thức của cả con người[7] . Hơn nữa, cái biết trong Tin Mừng Thứ Tư còn bao hàm một sự hiệp thông đích thực và trọn vẹn giữa hai hữu thể, hai ngôi vị; bao hàm cả tương quan hòa hợp thể lý và tâm hồn[8] . Như vậy, việc chủ chăn biết chiên của mình và gọi tên từng con một và phần chiên thì nghe tiếng của chủ chăn, nhận ra tiếng chủ chăn và đi theo chủ, không đi theo người lạ là một sự hiểu biết toàn diện giữa hai thực thể, hai ngôi vị: ngôi vị Giêsu và ngôi vị môn đệ. Nói cách khác, đây là một sự hiệp thông sâu xa, một sự thông chia cùng một sự sống.
Tương tự như thế, trường hợp của Nathanael được Đức Giêsu biết trước khi Philípphê gọi, lúc ông đang ngồi dưới cây vả, đã biến ông thành một con người hoàn toàn mới [9] . Nghĩa là chính cái biết của Đức Giêsu đã làm cho cái biết của Nathanael về bản thân ông và về Đức Giêsu nên hoàn hảo. Nhờ vậy, ông thốt lên: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ísraen!” (Ga 1,49); khác hẳn cái biết trước đó của ông về Đức Giêsu: “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46).
3 – Tương quan hiệp thông giữa Thầy và trò
Tương quan “Thầy – trò” giữa Đức Giêsu và các môn đệ cũng là mối tương quan đặc biệt có ý nghĩa trong Tin Mừng Thứ Tư. Đức Giêsu đã không ngừng xác nhận nhiều lần tương quan “Thầy – trò” giữa Ngài với các môn đệ trong các bài giáo huấn cho các ông. Thật vậy, khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu đã xác nhận: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa” (Ga 13,13).
Tuy nhiên, tương quan “Thầy – trò” ở đây không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ (thầy) và tiếp thu (môn đệ) một số kiến thức nhằm ‘nâng cấp’ hay để ‘cải thiện’ cuộc sống thể chất hay tinh thần của người môn đệ mà thôi. Trái lại, Thầy Giêsu đã vạch cho những ai đến học với Ngài một con đường sống, một cùng đích phải đạt tới, một phương cách duy nhất để đạt được cuộc sống mới trong Chúa Cha. Ngài quả quyết: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Ngoài ra, Thầy Giêsu còn thông truyền cho môn đệ một khả năng phi thường để thực thi công việc của Chúa Cha, như Ngài đã thực hiện: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14,12).
Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng tương quan “Thầy – trò” giữa Đức Giêsu và các môn đệ là mối tương quan mở. Nghĩa là mối tương quan này không chỉ giới hạn cho những môn đệ của Đức Giêsu khi Ngài còn tại thế, nhưng nó còn được mở rộng cho mọi người, mọi nơi và mọi thời miễn là họ lắng nghe và tuân giữ Lời của Ngài, bước đi trên con đường Ngài đã đi và luôn gắn kết với Ngài như Ngài vẫn luôn gắn kết với Chúa Cha.
4 – Tương quan hiệp thông bạn hữu
Kinh Thánh Cựu Ước có ghi lại một vài mẫu gương rất đáng khâm phục về sự chân thật, lòng trung thành và quảng đại trong tình bạn của một số nhân vật trong Dân Chúa. Thật vậy, câu chuyện về những người bạn của ông Gióp đáng được trân trọng và thán phục. Khi nghe tin Gióp gặp tai họa, họ đã từ xa kéo đến chia buồn và an ủi ông. Khi nhìn thấy thân hình tiều tụy của Gióp, những người bạn này đã bật khóc; họ xé áo mình ra và rắc tro lên đầu. Họ ngồi xuống im lặng bên cạnh ông suốt bảy ngày đêm. Chính trong sự thinh lặng này, họ đã bày tỏ một sự liên đới hiệp thông tình bạn sâu sắc với ông Gióp. Đối với họ, sự hiện diện bên cạnh bạn hiền đáng giá hơn ngàn vạn lời nói (x. G 2,13tt).
Câu chuyện giữa vua Đavit và Gionathan cũng cho thấy giá trị của một tình bạn chân thành là thế nào. Đavit là người có nhiều bạn vì ông luôn sống chân tình và tử tế với những ai tiếp xúc với ông. Tuy nhiên, tình bạn giữa ông với Gionathan, con trai của vua Saul là đáng kể hơn cả. Mặc cho những mối đe dọa đến từ vua cha là Saul, Gionathan vẫn một lòng trung thành với Đavit. Ông tìm cách che chở và bảo vệ cho Đavit; đồng thời ông tạo điều kiện để Đavit được lên ngôi vua. Về phần mình, Đavit cũng một mực trung thành với bạn. Khi Gionathan chết, Đavit đã rất thương tiếc, ông khóc rằng: “Gionathan, anh hỡi, lòng tôi se lại vì anh! Tôi thương anh biết mấy! Tình anh đối với tôi thật diệu kỳ hơn cả tình nhi nữ” (1Sm 2,1).
Trong Tin Mừng Thứ Tư, tình bạn giữa Đức Giêsu và các môn đệ đã đạt tới một tầm mức mới, một gương mặt mới và hoàn hảo hơn rất nhiều. Bởi vì trong Tin Mừng Thứ Tư, tình bạn đích thực luôn phải có khởi điểm, động lực và cùng đích từ biến cố Nhập Thể của Con Thiên Chúa làm người: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Qua biến cố này, Thiên Chúa đã đến như một người bạn để đồng hành, thấu hiểu, chia sẻ thân phận và cuộc sống của con người cách toàn diện và trong mọi cung bậc của cuộc sống trần thế như một người bạn tâm giao đích thực, nhằm giải thoát và nâng họ lên một tầm mức mới: tầm mức con Thiên Chúa[10] .
Câu chuyện về tình bạn giữa Đức Giêsu với Matta, Maria và Ladaro cũng có những nét riêng, qua cách các Ngài đối xử thân tình và thẳng thắn với nhau: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết” (Ga 11,33). Trước tình cảnh đó, Đức Giêsu cũng đã khóc thương Ladaro, khiến mọi người chứng kiến đều phải thừa nhận: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!” (Ga 11,37). Quả thật vì thương bạn Ladaro, Đức Giêsu đã làm phép lạ để cứu bạn mình sống lại.
Cao điểm của tình bạn chỉ được tìm thấy trong chương 15 của Tin Mừng Gioan, khi Đức Giêsu quả quyết: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy” (Ga 15,12-15). Đức Giêsu luôn là người chủ động đi bước trước trong việc kết bạn với các môn đệ, bởi vì Ngài ý thức giá trị và tầm quan trọng của tình bạn trong cuộc sống nhân sinh nói chung và trong việc thi hành sứ vụ tông đồ nói riêng: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 14,15).
“Hy sinh tính mạng vì bạn hữu” là việc Đức Giêsu đã làm để thanh tẩy con người và để chứng tỏ cho con người thấy rằng mối tương quan hiệp thông bạn hữu giữa Thiên Chúa và con người thật sâu đậm và mang tính cá nhân riêng tư [11] . Qua đó, Ngài cũng xác định một tiêu chí cho một tương quan hiệp thông tình bạn hoàn hảo.
Để có được một tình bạn tốt lành và trung tín, chúng ta phải nuôi dưỡng mối liên hệ đó bằng sự chân thực, trung thành và tình yêu thương cách vô điều kiện và bền bỉ, biết chăm sóc và hy sinh cho nhau. Đó là thứ tình yêu như Đức Giêsu đã dạy và đã thực hành: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,12). Nói cách khác, tình yêu theo ‘phong cách Giêsu’ là tình yêu yêu vô vị lợi, yêu cả kẻ thù và yêu cho đến cùng.
5 – Tương quan hiệp thông sứ vụ
Tương quan hiệp thông sứ vụ giữa Đức Giêsu và các môn đệ là sự tiếp nối công việc mà Ngài đã nhận từ Thiên Chúa Cha, được thể hiện quan ba khía cạnh: nguồn gốc sứ vụ, nội dung sứ vụ và mục đích của sứ vụ ấy.
a. Nguồn gốc sứ vụ
Chính Đức Giêsu đã khẳng định một cách chắc chắn và rõ ràng rằng sứ vụ mà Ngài đã lãnh nhận từ Chúa Cha, thì bây giờ Ngài cũng trao lại cho các môn đệ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Chưa dừng lại ở đó, Đức Giêsu còn cho thấy rõ hơn tính duy nhất của sứ vụ này, khi khẳng định rằng: Ngài chỉ nói, chỉ dạy những gì do Chúa Cha truyền lệnh (x. Ga 12,49); Đức Giêsu nói với các môn đệ đúng như Ngài đã nghe Chúa Cha nói với Ngài (x. Ga 12,50).
Nơi khác, Đức Giêsu còn cho thấy Chúa Cha là mẫu gương và cũng là đối tượng của công việc của Ngài: “Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17). Có lần, Ngài nói thêm: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Trong chương 17 thánh sử Gioan còn viết: “Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian” (Ga 17,18).
b. Nội dung sứ vụ
Trước khi về trời, trong lúc trao sứ vụ cho Phêrô như là người đại diện cho tất cả các môn đệ khác, Đức Giêsu đã chất vấn vị Tông Đồ Trưởng một điều duy nhất, Ngài nói: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Phêrô đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Thế rồi, Đức Giêsu trao sứ vụ cho Phêrô: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy” (Ga 21,15).
Điều này cho thấy rõ rằng để có thể thi hành sứ vụ được trao, Đức Giêsu đòi Phêrô có một điều kiện, một điều kiện duy nhất: “Yêu mến Thầy”. Có lẽ chúng ta sẽ thắc mắc: tại sao Đức Giêsu không đòi Phêrô phải yêu mến chiên (anh em)? Câu trả lời thật đơn giản: ai yêu mến Thầy thì đương nhiên cũng sẽ yêu mến chiên (anh em, chi thể, cành nho) của Thầy. Đàng khác trong Thư Thứ Nhất, thánh Gioan đã khẳng định: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi” (1Ga 2,4-6). Điều răn mới mà Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ không gì khác hơn là: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
‘Yêu như Thầy đã yêu’ có nghĩa là yêu cho đến cùng: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 15,12); ‘Yêu như Thầy đã yêu’ cũng có nghĩa là hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13); ‘Yêu như Thầy đã yêu’ còn có nghĩa là không loại trừ một ai và yêu cả kẻ thù: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6,27-28).
Như thế, nếu nội dung của sứ điệp Tin Mừng mà người môn đệ có sứ mệnh loan báo là tình yêu, thì chính họ cũng phải là chuyên viên, là người đã cảm nhận và đang sống nhờ bởi tình yêu ấy[12] . Nói cách khác, yêu thương cũng chính là điều kiện tất yếu mà người môn đệ Đức Giêsu cần phải có để hiệp thông với Ngài và để chu toàn sứ vụ của Ngài trao phó: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
c. Mục đích sứ vụ
Như đã đề cập trong phần thứ nhất rằng mục đích của sứ vụ Đức Giêsu được Cha sai đến thế gian là để làm cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10). Thì ở đây chúng ta vẫn phải quả quyết rằng mục đích sứ vụ của người môn đệ cũng chỉ là tiếp tục sứ vụ của Thầy Giêsu: tham gia vào việc chăn dắt đàn chiên của Thầy (x. Ga 21,15). Thánh sử Gioan còn thêm: “Để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ Danh Người” (Ga 20,31).
Thánh Gioan còn xác định rõ hơn mục đích sứ vụ của người môn đệ là rao truyền sự sống yêu thương mà họ đã lãnh nhận, Ngài viết: “Chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô, Con của Người. Những điều này, chúng tôi viết ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn” (1 Ga 1,2-4).
Thay Lời Kết
Đọc Tin Mừng Thứ Tư không ai có thể phủ nhận tương quan hiệp thông giữa Đức Giêsu với Chúa Cha và giữa Đức Giêsu với các môn đệ là mối tương quan hiệp thông sâu sắc nhất, toàn vẹn nhất và tuyệt đối nhất. Tương quan hiệp thông sâu xa, toàn vẹn và tuyệt đối ấy lại được diễn tả bằng những hình ảnh rất sinh động, gần gũi và cụ thể. Nhờ những cảm nghiệm sâu sắc của cá nhân về tương quan hiệp thông và cách mô tả sống động, thánh sử Gioan đã làm cho thực tại hiệp thông – vốn là một huyền nhiệm – trở thành dễ hiểu, dễ cảm nhận và dễ thực hành hơn. Tất cả như đã đụng chạm đến cuộc sống thường ngày của mỗi người Kitô hữu. Đó là mối tương quan mang tính ‘qui tâm’: xuất phát từ Chúa Cha qua Đức Giêsu đến vũ trụ vạn vật và sau cùng sẽ quy hướng về Chúa Cha như nguồn cội và cùng đích của vạn vật.
Trong chiều hướng đó, những xác tín và giáo huấn của Giáo Hội về tương quan hiệp thông trong các cộng đoàn sống đời thánh hiến ngày càng trở nên ‘hữu hình’, rõ ràng và cụ thể hơn. Vì vậy, Huấn Thị ‘Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn’, chỉ rõ: “Cộng đoàn tu trì, trong cơ cấu, trong những động lực, trong những giá trị riêng biệt của mình, làm cho hồng ân tình huynh đệ mà Đức Kitô đã ban tặng cho toàn thể Hội Thánh trở nên hữu hình cách công khai và không ngừng được mọi người nhận biết. Chính vì lý do này, cộng đoàn tu trì có bổn phận và sứ vụ hiệp thông huynh đệ sâu sắc, dấu chỉ và sự khích lệ cho tất cả các Kitô hữu” [13] .
Nhưng đàng khác, đi từ tương quan hiệp thông giữa Đức Giêsu với Chúa Cha và giữa Đức Giêsu với các môn đệ như Thánh Gioan đã mô tả trên đây và được Giáo Hội quảng diễn thêm, chúng ta có thể rút ra một vài hệ luận, khả dĩ áp dụng trong đời sống chứng tá đức tin của các tu sĩ ngày nay về mối tương quan hiệp thông giữa những người môn đệ với nhau.
1. Tương quan hiệp thông giữa những cành nho trong cùng một cây nho. Lời khẳng định của Đức Giêsu: “Thầy là cây nho, anh em là cành nho” đã xác định rõ rằng tương quan hiệp thông giữa các môn đệ là tương quan giữa những cành nho với nhau. Vì vậy họ phải đón nhận và chia sẻ cùng sức sống từ một ‘Thân Cây Nho Duy Nhất’. Như thế, khi một cành nho bị cắt lìa khỏi thân cây thì đương nhiên cũng sẽ bị chia lìa khỏi những cành nho khác. Ngược lại, khi nối kết với ‘Thân Cây Nho’ là Đức Kitô thì họ cũng sẽ nối kết với nhau, cùng sinh hoa kết trái
Hình ảnh những con chiên trong cùng một đàn chiên, có cùng một chủ chăn cũng nói lên sự liên kết hiệp thông chia sẻ trách nhiệm, liên quan đến sự sinh tồn của nhau. Khi bị sói dữ tấn công, họ buộc phải cùng nhau chống đỡ, khi được dẫn tới đồng cỏ xanh tươi, tới dòng suối mát trong,… họ sẽ cùng nhau chia sẻ và cùng nhau thưởng thức sự ngọt ngào hạnh phúc ấy.
2. Tương quan hiệp thông giữa những người anh em trong gia đình có cùng một Cha. Đã là trong một gia đình, đương nhiên họ cùng xuất phát từ một nguồn gốc, một dòng máu và có cùng mong ước trở về cùng một nguồn cội. Khi đón nhận cùng một dòng máu, một sức sống thần linh từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu, tất cả chúng ta sẽ có chung một mầm sống, cùng chia sẻ một sức sống… Vì vậy, chúng ta sẽ cùng ‘ở trong’ nhau như Đức Giêsu ở trong Cha và Cha ở trong Ngài. Đó là lý do để chúng ta có sự hiệp thông trọn vẹn, sự hiệp thông của anh em trong một gia đình, gia đình Hội Dòng, gia đình Thiên Chúa.
3. Tương quan hiệp thông của những người đón nhận và thi hành cùng một sứ vụ. Với tư cách cùng là Kitô hữu qua bí tích Rửa Tội, tất cả chúng ta đều đã đón nhận cùng một sứ vụ từ Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Vì thế, chúng ta có bổn phận phải thi hành sứ vụ đó cách tốt nhất. Hơn nữa, khi cùng chung chia ơn gọi thánh hiến trong cùng một Hội Dòng (đan tu Xitô Thánh Gia), chúng ta còn được đích thân Đức Giêsu tuyển chọn và mời gọi chia sẻ cùng một đoàn sủng của Đấng Sáng Lập. Đây là lý do chính yếu đòi hỏi những ai đã đón nhận đoàn sủng này phải có một tương quan hiệp thông chặt chẽ với Cộng Đoàn và Hội Dòng cách đặc biệt nhất.
Huấn Thị ‘Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn’ đã chỉ rõ cho chúng ta rằng: “Những người gia nhập các cộng đoàn như thế phải có ơn gọi đặc biệt. Trong thực tế, các phần tử của một cộng đoàn tu trì được liên kết với nhau do một ơn gọi chung của Thiên Chúa phù hợp với đoàn sủng nguyên thuỷ, do việc cùng được Giáo Hội thánh hiến cách đặc biệt, do việc chung nhau đáp lại ơn gọi nhờ tham dự vào “kinh nghiệm của Thánh Thần” mà đấng sáng lập đã sống và trao lại, cũng như trong sứ vụ của đấng sáng lập trong lòng Giáo Hội”[14] .
Ước mong rằng những gì thanh sử Gioan ghi lại trong Tin Mừng Thứ Tư, cùng với giáo huấn của Giáo Hội sẽ giúp mỗi người chúng ta ý thức và hăng say hơn trong việc nhận ra ý muốn của Đức Giêsu về sự hiệp nhất trong đời sống đức tin của người môn đệ Chúa trong hoàn cảnh mình đang sống.
Những dòng suy tư đơn sơ trên đây, một đàng như muốn tóm kết lại những gì người viết đã gặp thấy, đã suy niệm và đã chiêm ngưỡng khi đọc cuốn Tin Mừng Thứ Tư. Đàng khác, đây cũng là một lời mời gọi tha thiết xin được gửi tới các anh chị em trong Hội Dòng để cùng đọc, cùng khám phá, cùng chiêm ngưỡng và cùng sống mối tương quan hiệp thông thiết yếu, sâu sắc nhưng cụ thể, mà mỗi người tu sĩ chúng ta cần phải nhận ra vai trò và chỗ đứng của mình trong tương quan hiệp thông với Đức Giêsu, với Thiên Chúa Cha và với anh chị em của mình, trong tư cách là những ‘chuyên viên hiệp thông’ như Đức Thánh Cha Phanxico hằng mong ước trong Sứ Điệp Mùa Chay năm 2017[15] .
Đó cũng là lời mời gọi tha thiết nhất của Đức Giêsu dành cho tất cả chúng ta, những người được mời gọi thực hiện hóa mong ước của Chính Đức Giêsu: “Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con” (Ga 17,23).
[1] Để chuẩn bị Mừng Bách Chu Niên (1918-2018), ngày Cha Tổ Phụ Henri Denis Biển Đức Thuận lập Dòng Đức Bà Annam (tiền thân Hội Dòng Xitô Thánh Gia), Hội Dòng Xitô Thánh Gia đã dành ba năm học hỏi về Cha Tổ Phụ. ‘Đan sĩ Xitô Thánh Gia sống Huyền Nhiệm Hiệp Thông’ là chủ đề của năm học hỏi thứ hai (2017).
[2] Trong bài viết này danh xưng ‘môn đệ’ sẽ được dùng theo nghĩa rộng, bao gồm: Nhóm Mười Hai, nhóm các môn đệ lúc Đức Giêsu còn tại thế, những người sống đời thánh hiến và các kitô hữu mọi thời.
[3] Chữ ‘đồng bản thể’ có vẻ như trừu tượng hơn chữ ‘đồng bản tính’, nhưng xét về ý nghĩa thì cụ thể hơn và đầy đủ hơn. x. GM Phaolo Bùi Văn Đọc, Giải Quyết Vấn Đề ‘Đồng Bản Thể’ hay ‘Đồng Bản Tính’, http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Phungvu/07DongBanTheHayDongBanTinh.htm
[4] X. Bài đọc II Kinh Sách, ngày Thứ Tư, Tuần I, TN.
[5] Việc bôi đen một số chỗ trong các đoạn trích Kinh Thánh là của người viết.
[6] X. Francis J. Moloney, S.D.B., The Gospel of John, Tủ Sách Sacra Pagina, Daniel J. Harington, S.J., Biên tập và xuất bản, vol. 4, Nxb. The Liturgical Press 1998, tr. 420-421.
[7] X. Xavier Léon-Dufour, Lettura dell’Evangelo Secondo Giovanni, San Paolo 1990, tr. 657.
[8] X. Yves-Maria Blanchard, La Bible Et Sa Culture, tr. 443-444.
[9] X. Xavier Léon-Dufour, Lettura dell’Evangelo Secondo Giovanni, San Paolo 1990, tr. 182-183.
[10] X. Xavier Léon-Dufour, Lettura dell’Evangelo Secondo Giovanni, San Paolo 1990, tr. 889.
[11] X. Xavier Léon-Dufour, Lettura dell’Evangelo Secondo Giovanni, San Paolo 1990, tr. 889.
[12] Francis J. Moloney, S.D.B., The Gospel of John, Tủ Sách Sacra Pagina, Daniel J. Harington, S. J., Biên tập và xuất bản, vol. 4, Nxb. The Liturgical Press 1998, tr. 424.
[13] Thánh Bộ Tu Sĩ, Huấn Thị Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, Ban hành 1994, số 2b.
[14] Thánh Bộ Tu Sĩ, Huấn Thị Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, Ban hành 1994, số 2c.
[15] X. Đức Thánh Cha Phanxico, Sứ Điệp Mùa Chay, ngày 1/3/2017.
Giúp đọc Huấn Thị
ĐỜI SỐNG HUYNH ĐỆ TRONG CỘNG ĐOÀN
(Phần II)
FM. Gioan Bosco Trần Văn Hùng
I. ĐỜI SỐNG HUYNH ĐỆ CỘNG ĐOÀN
1. Thực tế của cộng đoàn và giá trị cần khai thác
Cộng đoàn tu trì gồm những người chung sống với nhau không phải do các cá nhân tự chọn nhau mà do Thiên Chúa chọn lựa. Các thành viên trong cộng đoàn chấp nhận lẫn nhau và cam kết vượt qua những khó khăn, những đặc điểm của cộng đoàn không thuần nhất. Những cộng đoàn như thế bộc lộ tính siêu việt là lý do làm cho cộng đoàn hiện hữu. Đó là sức mạnh của Thiên Chúa, một “sức mạnh tỏ hiện trong sự yếu đuối” (2Cr 12,9-10) (số 41).
Nếu chủ nghĩa cá nhân gây khó khăn cho đời sống huynh đệ, thì ngược lại chủ nghĩa cộng đoàn khó chấp nhận những dị biệt cá nhân. Cả hai cần một sự hoán cải để bước vào đời sống huynh đệ cộng đoàn là nơi cá nhân sẵn sàng phục vụ anh chị em mình, và là nơi “tập thể” nâng cao cá nhân.
Đối với các cộng đoàn mang tính quốc tế, các cá nhân thuộc những nền văn hóa khác nhau cùng chung sống, có thể góp phần vào việc hiệp thông huynh đệ một cách sâu đậm hơn (số 42).
2. Trở thành cộng đoàn nhờ huấn luyện liên tục
Việc huấn luyện liên tục là vấn đề có tầm quan trọng sinh tử đối với tương lai cộng đoàn cũng như cá nhân tu sĩ. Nhất là trước khó khăn gây hậu quả hiển nhiên cho cộng đoàn. Khó khăn đó là việc hòa hợp các phần tử xuất phát từ những nền đào tạo khác nhau và có quan điểm tông đồ khác nhau vào trong một cộng đoàn, để những khác biệt này không trở thành những xung khắc, mà làm phong phú lẫn nhau. Vấn đề này cần được hỗ trợ bằng việc huấn luyện liên tục, trong đó các tu sĩ được huấn luyện về đời sống huynh đệ và tông đồ. Cụ thể có hai khía cạnh cần được lưu ý trong huấn luyện liên tục là chiều kích cộng đoàn của các lời khuyên Phúc Âm và đoàn sủng (số 43).
– Chiều kích cộng đoàn trong các lời khuyên Phúc Âm. Lời tuyên khấn của các tu sĩ diễn tả hồng ân dâng hiến cho Thiên Chúa và cho Giáo hội. Tuy nhiên, các tu sĩ trong cộng đoàn “cùng được kêu gọi”, cùng được thánh hiến, nên lời khuyên Phúc Âm mang tính cộng đoàn. Do đó, trong việc xây dựng tình huynh đệ cần lưu ý đến chiều kích cộng đoàn của các lời khuyên Phúc Âm (số 44).
– Đoàn sủng: Nền tảng của sự hiệp nhất và hiệp thông trong Đức Kitô được củng cố bởi đoàn sủng duy nhất của đấng sáng lập. Vì thế, việc quy chiếu về vị sáng lập dòng, về đoàn sủng mà vị ấy đã sống và thông truyền, gìn giữ và phát triển qua cuộc sống hội dòng, được coi là yếu tố thiết yếu cho sự hiệp nhất của cộng đoàn (số 45).
Ngược lại, nếu tu sĩ thiếu sáng suốt về đoàn sủng, họ sẽ rơi vào chủ nghĩa “đại loại”, hiện tượng “thành viên lưỡng diện”, không nắm vững đặc loại của đoàn sủng của dòng mình. Nguy cơ bóp méo đoàn sủng để thích nghi với não trạng người giáo dân, hoặc đòi hỏi của tổ chức nào đó. Chủ nghĩa “đại loại” làm giản lược đời tu vào một mẫu số chung thấp nhất và không còn sắc thái, dẫn tới việc tiêu diệt vẻ đẹp và hiệu quả của những đoàn sủng vừa nhiều vừa khác biệt được Chúa Thánh Thần khơi dậy (số 46).
3. Quyền bính để phục vụ tình huynh đệ
Bầu khí đời sống huynh đệ cải thiện được biểu lộ qua: Có nhiều chỗ cho mọi người tích cực tham gia, bớt lưu tâm đến việc giữ luật hình thức, thay vào đó là chú ý đến những nhu cầu cá nhân, bớt độc đoán, thêm tình huynh đệ (số 47). Tuy nhiên, nếu những điều tích cực này đi quá đà sẽ phủ nhận giá trị quyền bính. Hậu quả là một số cộng đoàn đi tới chỗ sống không có người phụ trách; trong một số cộng đoàn khác, mọi quyết định đều có tính tập thể. Tất nhiên là đời sống cộng đoàn đổ vỡ hoàn toàn. Từ kinh nghiệm đau thương này, dần dần đưa tới chỗ tái khám phá lại nhu cầu và vai trò quyền bính. Đồng thời nhận thấy tình huynh đệ không phải là kết quả của sự cố gắng của con người, nhưng trên hết là hồng ân của Thiên Chúa. Đó là hồng ân do tuân phục lời Thiên Chúa, và trong đời tu, cũng là vâng phục quyền bính. Trong các cộng đoàn tu trì, các vị hữu trách là những người được quan tâm và kính trọng cũng do lời khấn tuân phục. Họ được đặt lên để phục vụ tình huynh đệ, để phát triển, để hoàn thành những mục tiêu thiêng liêng và tông đồ (s 48).
Cuộc canh tân mới đây đã giúp tái khám phá lại quyền bính với nền tảng Tin Mừng. Và do đó, quyền bính được lập ra để phục vụ sự tiến bộ thiêng liêng của mỗi người và phát triển tình huynh đệ trong cộng đoàn. Cách thức thực thi quyền bính tùy thuộc vào đoàn sủng của hội dòng với sứ vụ riêng. Việc này được quy định trong luật riêng (số 49). Theo tinh thần Tin Mừng, quyền bính luôn luôn để phục vụ. Quyền bính có những khía cạnh sau đây:
– Quyền bính về tâm linh: Phục vụ chính của quyền bính là xây dựng, trong sự hiệp nhất anh em, một “cộng đoàn huynh đệ, trong đó mọi người tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự”. Do đó, trước hết, bề trên phải là một người tâm linh. Bề trên phải biết rằng tình yêu Thiên Chúa càng tăng lên trong tâm hồn mỗi cá nhân, thì càng có sự hiệp nhất giữa các thành viên. Như thế nhiệm vụ chính của bề trên là vị linh hoạt đời sống tâm linh, cộng đoàn và tông đồ của cộng đoàn mình.
– Quyền bính tạo sự hiệp nhất: Huấn thị nêu lên những hướng dẫn thi hành quyền bính, và đồng thời cũng là lời tự vấn cho các bề trên.
– Quyền bính có khả năng quyết định cuối cùng và bảo đảm việc chấp hành. Sự phân định của cộng đoàn góp phần cho quyền bính có khả năng quyết định. Nhưng quyết định mang lại lợi ích tối hảo cho đời sống huynh đệ và phục vụ khi cộng đoàn phân định với đức tin và sự nghiêm túc. Khi một quyết định đã được đưa ra, các bề trên cần nhiều kiên nhẫn và can đảm để những gì quyết định sẽ được thực hiện (số 50).
Để tránh gây ra lộn xộn và xung đột trong cộng đoàn, luật riêng của hội dòng phải xác định rõ ràng thẩm quyền liên hệ của cộng đoàn, những hội dòng, những vị điều phối của ban ngành và của bề trên (số 51).
Các cộng đoàn huynh đệ hiệp nhất ngày càng được mời gọi trở thành yếu tố quan trọng và đầy sức thuyết phục đối với nền văn hóa phản Tin Mừng. Các cộng đoàn này là muối của trần gian và ánh sáng cho đời. Tùy theo hoàn cảnh xã hội và văn hóa, các cộng đoàn tu trì sẽ là chứng tá huynh đệ hiệp nhất trong môi trường mình sinh sống (số 52).
Huấn thị cũng không quên nhắc đến vai trò của đức tin. Đức tin đóng vai trò trong sự tuân phục và trong đời sống tu trì (số 53).
4. Huynh đệ như là một dấu chỉ
Cần đặc biệt lưu ý: đừng vì quá dấn thân vào công tác tông đồ mà thiếu quan tâm đến tình huynh đệ cộng đoàn. Tình huynh đệ có một dấu chỉ sống động: “Do điều này mà mọi người nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau” (Ga 13,35) (số 54).
Giá trị của “dấu chỉ” đời sống huynh đệ cần thiết cho công việc tái Phúc Âm hóa Giáo hội. Nhờ các dấu chỉ này mà các sứ điệp Giáo hội công bố được tin tưởng, bí tích hiệp nhất với Thiên Chúa và hiệp nhất các phần tử với nhau cũng được hiện rõ hơn. Vì thế, đời sống huynh đệ không phải là để bổ túc cho sứ vụ của các cộng đoàn tu trì, nhưng là yếu tố nòng cốt không những cho chính đời tu mà còn cho cả sứ vụ (số 55).
Các cộng đoàn tu sĩ cũng trở nên dấu chỉ về khả năng sống huynh đệ Kitô giáo và cái giá phải trả để xây dựng bất cứ hình thức tình huynh đệ nào. Đặc biệt nó là lời mời gọi cho bối cảnh xã hội khác nhau bị xâu xé bởi những thế lực phân rẽ do đam mê và xung đột quyền lợi. Họ khao khát hiệp nhất mà không biết xây dựng bằng con đường nào, thì sự hiệp nhất của các cộng đoàn tu trì là lời mời gọi và là một chỉ dẫn cho việc xây dựng sự hiệp nhất.
Tình yêu được xây dựng trên bác ái cũng là tình yêu khiến người tu sĩ trải rộng tới người khác kinh nghiệm hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau. Tình yêu này tạo nên những vị tông đồ bằng cách thúc đẩy các cộng đoàn trên nẻo đường sứ vụ (số 56).
Phẩm chất của đời sống huynh đệ ảnh hưởng quan trọng đối với sự bền chí của cá nhân tu sĩ. Phẩm chất ấy được biểu lộ nơi mỗi phần tử đều có tinh thần đồng trách nhiệm đối với sự trung thành của các phần tử khác (số 57).
II. CỘNG ĐOÀN TU TRÌ, ĐỊA ĐIỂM VÀ CHỦ THỂ THI HÀNH SỨ VỤ (Chương III của Huấn Thị)
Trong chương này, Huấn thị mô tả tổng quát về mối liên hệ mật thiết giữa sự hiệp thông cộng đoàn và sứ vụ. Hiệp thông cộng đoàn làm phát sinh sứ vụ và sứ vụ hoàn thành nhờ hiệp thông (số 58).
1. Cộng đoàn tu trì và sứ vụ
– Huấn thị nhắc lại lời của công đồng Vatican II trong Hiến chế Giáo Hội (số 46) để cho thấy các dòng tu khác nhau tham dự vào những khía cạnh khác nhau của sứ vụ Đức Kitô. Chúa Thánh Thần làm phát sinh những dòng tu khác nhau ấy với những sứ vụ khác nhau.
– Cụ thể: các cộng đoàn chiêm niệm tập trung vào sự hiệp thông hai chiều với Thiên Chúa và với các phần tử trong cộng đoàn. Kiểu mẫu cộng đoàn này được đánh giá là có ảnh hưởng tông đồ hữu hiệu nhất. Cộng đoàn tu trì “tông đồ” được thánh hiến để phục vụ tha nhân cách sống động, chuyên biệt phát xuất từ đoàn sủng riêng biệt.
Theo chiều dài lịch sử đã có những cộng đoàn tu trì khác nhau: cộng đoàn đan viện, cộng đoàn tu viện, các cộng đoàn hoạt động hay “phục vụ”. Cũng từ các loại cộng đoàn khác nhau này mà “đời sống cộng đoàn” không có cùng một ý nghĩa đối với các dòng tu khác nhau. Những khác biệt này được trình bày trong hiến pháp riêng của mỗi hội dòng.
– Các cộng đoàn chuyên biệt hoạt động tông đồ có sự khó khăn trong việc hòa hợp đời sống cộng đoàn và đời sống tông đồ. Nhưng đây cũng là lời nhắc nhở cho các tu sĩ rằng: người môn đệ một đàng phải sống với Đức Giêsu và với đám đông đi theo Người, đàng khác phải sống đời sống tông đồ là tham gia vào sứ vụ của Chúa.
– Trong những năm gần đây, do nhu cầu tông đồ đa dạng đã hình thành nên những cộng đoàn tông đồ khác biệt nhau: những cộng đoàn lớn có cơ cấu chặt chẽ và hữu hiệu, những cộng đoàn nhỏ hoạt động linh động hơn và đồng thời không đánh mất đi tính chất cộng đoàn đích thực của đời tu.
– Ngược lại, trong một vài hội dòng, khuynh hướng nhấn mạnh đến sứ vụ hơn đời sống cộng đoàn, và khuynh hướng cổ võ sự khác biệt hơn là sự hiệp nhất, đã tác động xấu đến đời sống huynh đệ cộng đoàn (số 59).
2. Trong Giáo hội địa phương
Chứng tá về sự hiện diện có tính truyền giáo của cộng đoàn tu sĩ có một giá trị đặc biệt trong Giáo hội địa phương. Các phần tử của cộng đoàn đem lại cho Giáo hội đó sự phong phú của đời thánh hiến, của tình huynh đệ và đoàn sủng của mình. Đồng thời, đây cũng là đòi hỏi đối với các thành viên của cộng đoàn về trách nhiệm làm gương sáng, đặc biệt về lòng mến. Lòng mến đối với Giáo hội phổ quát và Giáo hội địa phương.
Huấn thị đề cập đến mối tương quan giữa nhu cầu mục vụ của Giáo hội địa phương với tính chất riêng biệt trong đoàn sủng của cộng đoàn tu trì. Mối tương quan này cần được thực hiện dưới sự hướng dẫn của văn kiện “những liên hệ hỗ tương: Mutuae Relationes” (số 60).
– Giáo xứ
Huấn thị nêu lên những khó khăn trong việc hòa hợp mục vụ giáo xứ với đời sống cộng đoàn. Vì thế nhấn mạnh đến việc các cộng đoàn phải trung thành với đoàn sủng của mình thì sự hiện diện của họ trong giáo xứ mới đem lại nhiều hoa trái (số 61).
– Các phong trào Giáo hội
Trong việc các tu sĩ tham gia vào các phong trào Giáo hội, Huấn thị lưu ý: Có những phong trào chỉ là phong trào canh tân, những phong trào khác lại có nhiều dự phóng tông đồ có thể không tương hợp với dự phóng của cộng đoàn. Các phong trào có thể là thách đố hữu ích đối với các cộng đoàn tu sĩ. Khó khăn lớn nhất đối với các phong trào là vấn đề căn tính của cá nhân tu sĩ. Nếu căn tính này vững chắc thì mối tương quan có thể đem lại thành công cho đôi bên (số 62).
– Hòa mình với người nghèo
Trong những năm gần đây, đời sống tu trì thực sự đối diện với vấn đề làm thế nào để công việc truyền bá Phúc Âm cho người nghèo được hiệu quả. Và người tu sĩ cũng muốn được Phúc Âm hóa nhờ tiếp xúc với thế giới người nghèo. Tuy nhiên đòi hỏi phải bảo đảm tính độc đáo trong đoàn sủng của Hội dòng. Không được coi đặc sủng của hội dòng là ít quan trọng hơn công việc phục vụ người nghèo (số 63).
3. Cộng đoàn truyền giáo và các thành viên tu sĩ
– Các cộng đoàn nhỏ
Các cộng đoàn nhỏ thi hành sứ vụ gặp phải một số khó khăn. Vì thế, Hội dòng rất cần có những cộng đoàn lớn để cung cấp những trợ giúp đầy ý nghĩa cho toàn Hội dòng và cho cộng đoàn nhỏ (Số 64).
– Các tu sĩ nam nữ sống một mình
Các tu sĩ nam nữ sống một mình không bao giờ là điều lý tưởng. Khi gặp lý do bất đắc dĩ phải sống một mình ngoài cộng đoàn của Hội dòng, bề trên phải củng cố liên lạc thường xuyên với thành viên ấy. Ngược lại, các thành viên ấy phải ý thức rằng mình là thành viên thuộc hội dòng, hiệp thông với các phần tử của Hội dòng, và tìm mọi phương thế thích hợp để củng cố mối dây huynh đệ. Dù ở đâu đi nữa, các phần tử của Hội dòng cũng là người mang đặc sủng của gia đình tu trì của họ (số 65).
– Các miền truyền giáo
Tại các miền truyền giáo, việc thi hành sứ vụ gặp phải những khó khăn. Trong những hoàn cảnh ấy, các cộng đoàn tu sĩ gần như là dấu hiệu duy nhất, là chứng tá thầm lặng và hữu hiệu của Đức Kitô và Giáo hội. Các thành viên của những cộng đoàn trong các miền truyền giáo xây dựng đời sống huynh đệ, đó là việc có sức mạnh truyền giáo (số 66).
– Tổ chức lại công việc
Trước những thay đổi bên ngoài cộng đoàn và bên trong cộng đoàn, việc tổ chức lại công việc được đặt ra nhưng phải làm sao bảo vệ ý nghĩa của đoàn sủng trong bối cảnh riêng biệt, quan tâm đến đời sống huynh đệ thực sự và chú trọng tới những nhu cầu địa phương, cách riêng là những nhu cầu mới (số 67).
– Các tu sĩ cao niên
Vấn đề gia tăng tuổi tác trong một số cộng đoàn (ở Châu Âu) đặt ra vấn đề quan tâm đến các tu sĩ cao niên về vật chất cũng như tinh thần. Ngược lại, tu sĩ cao niên được khuyến khích hiện diện tích cực bằng cung cách sống vui vẻ, yêu thương và hy vọng. Đồng thời kéo dài những năm “hoạt động” bằng việc học biết cách thức mới mẻ để xây dựng cộng đoàn và cộng tác vào sứ vụ chung, tiếp tục đáp ứng trước những thách đố của thời đại mình nhờ những mối quan tâm sống động về tinh thần và văn hóa, bằng lời cầu nguyện và bằng việc tiếp tục tham gia hoạt động bao lâu còn có thể phục vụ, cho dù bị giới hạn (số 68).
Riêng đối với các dòng chiệm niệm, trước tình trạng thiếu ơn gọi trong một số đan viện, Huấn thị nhắc lại tầm quan trọng trong những cơ cấu hiệp thông, như liên hiệp, hay liên kết với các đan viện khác, để khắc phục khó khăn trong những hoàn cảnh rất cần thiết nhân sự (số 69).
– Mối quan hệ mới đối với giáo dân
Đứng trước hoàn cảnh có những cộng đoàn thiếu nhân sự, do đó bị hiếu hụt trong những lãnh vực hoạt động, Bộ Tu Sĩ đưa ra một giải pháp đã được Công Đồng Vatican II đề ra về sự hiệp thông cộng tác giữa tu sĩ và hàng ngũ giáo dân. Tuy nhiên, Bộ Tu Sĩ cũng lưu ý đến các cộng đoàn tu trì bảo đảm thể hiện đoàn sủng và tuân giữ đời sống chung (số 70).
Kết Luận
Mọi tu sĩ phải cảm thấy mình có trách nhiệm đối với việc xây dựng đời sống huynh đệ cộng đoàn. Hiệu quả của đời sống tu trì cũng tùy thuộc vào phẩm chất của đời sống huynh đệ cộng đoàn. Trong thực tế đối với một số tu sĩ và một số cộng đoàn gặp khó khăn trong việc xây dựng đời sống huynh đệ cộng đoàn cũng tìm được một cách thế: đó là suy tư trong đức tin về ý nghĩa thần học của đời sống huynh đệ cộng đoàn, của việc xác tín rằng chứng tá sự thánh hiến tuôn trào từ đời sống đó (số 71).
HIỆP THÔNG VÀ ĐỒNG HÀNH
CHA BIỂN ĐỨC THUẬN ĐỒNG HÀNH VỚI
CỘNG ĐOÀN TRONG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM
(Một Vài Suy Tư Và Gợi Ý)
Duyên Thập Tự Lê Văn Đoàn, VPHT
Bài tham luận cho khóa học “Đồng Hành Để Theo Chúa Kitô” tại đan viện Thánh Mẫu Phước Sơn, từ ngày 13 đến 19 tháng 2 năm 2017, dành cho quý Bề trên và các nhà đào tạo của Dòng Biển Đức và Dòng Xitô tại Việt Nam.
DẪN NHẬP
HIỆP THÔNG VÀ ĐỒNG HÀNH là hai ý niệm khác nhau. Thật vậy, khi nói đến hiệp thông là nhấn mạnh đến “phía trong”, diễn tả sự tương giao trong chiều sâu, chiều sâu của tình yêu. Còn khi đề cập đến đồng hành là nhấn mạnh đến “bên ngoài”, quảng diễn việc cùng đi với nhau, có thể cùng đi với nhau trong một không gian nào đó, hay cùng bước đi trong một tiến trình cụ thể. Nhưng hai ý niệm hiệp thông và đồng hành, theo thiển ý của tôi, không tách biệt nhau, điều này ẩn chứa điều kia, điều này mặc nhiên điều nọ. Làm sao có thể đồng hành mà lại không hiệp thông với nhau. Nói cách khác, khi bước đi cùng nhau – đồng hành – thì cũng phải hiệp thông bằng con đường đồng cảm, đồng sinh, ngay cả đồng tử. Nếu không hiệp thông, thì việc bước đi bên nhau, chỉ là một hành động bên ngoài không có một chút tương giao, và cũng không có gì liên kết. Mỗi ngày chúng ta cùng bước đi với nhiều người, nhưng họ vẫn là “người dưng”, “người lạ”, không để lại trong tôi điều gì và tôi cũng chẳng có ấn tượng gì đối với họ. Có thể nói “đồng sàng dị mộng”.
Như vậy, hiệp thông và đồng hành luôn liên kết với nhau, hướng về nhau, để hiện thực một hành trình. Nghĩa là một hành trình cần có “điều hướng dẫn bên trong” và “cái thể hiện bên ngoài”. Trong luồng tư tưởng đó, tôi gửi đến quí đọc giả, đặc biệt anh chị em Xitô Thánh Gia, một vài suy tư và gợi ý về Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận trong việc ngài đồng hành với cộng đoàn trong nền văn hoá Việt Nam. Bài viết này là bài tham luận nhân dịp khoá học “Đồng Hành Để Theo Chúa Kitô” được tổ chức tại đan viện Thánh Mẫu Phước Sơn từ ngày 13 đến 19 tháng 2 năm 2017, dành cho quí bề trên và các nhà đào tạo của Biển Đức và Xitô tại Việt Nam. Nhận thấy đề tài này liên quan đến chủ đề của số Nội San này, tôi sử dụng lại bài viết để chúng ta cùng đào sâu chủ đề của năm thứ hai chuẩn bị mừng bách chu niên cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận lập dòng: “Cùng cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, các đan sĩ Xitô Thánh Gia sống huyền nhiệm hiệp thông”.
Nhưng, xét về tầm rộng lớn của đề tài, tôi xin được giới hạn trong phạm vi kinh nghiệm mà cha Biển Đức Thuận đã có – ít là tôi nhận ra một phần – trong việc đồng hành với cộng đoàn, để giúp các thành viên của cộng đoàn của mình.
I. NHỮNG TIẾP CẬN CĂN BẢN
Để có thể đồng hành với một người, và hơn thế nữa, với một nhóm người, một cộng đoàn, trong một nền văn hóa khác với nền văn hóa của mình, cần thiết phải có sự tiếp cận. Đây là một điều kiện cần thiết; nếu không, việc đồng hành chỉ là một việc tiếp xúc hời hợt bên ngoài và không thể mang lại lợi ích.
Trong trường hợp của cha Biển Đức Thuận, tôi khám phá ra nơi ngài có bốn bước tiếp cận, khởi từ bên ngoài như ngôn ngữ, phong tục, đến tận sâu thẳm bên trong của lòng con người.
1. Ngôn ngữ
Đây là bước tiếp cận đầu tiên. Việc học ngôn ngữ là chìa khóa mở ra cho tương giao và sự hiểu biết hỗ tương.
Trong văn kiện “Những Lời Khuyến Dụ Các Thừa Sai”, những vị Đại Diện Tông Tòa đầu tiên ở vùng Viễn Đông là Đức cha Lambert de la Motte và Đức Cha Pallu, đã gửi tới các vị tân thừa sai những chỉ dẫn cần thiết cho việc thi hành sứ vụ truyền giáo. Các ngài viết: “Khi sai các Tông Đồ đi khắp thế giới rao giảng Tin Mừng, Chúa chúng ta đã ban cho các ngài ơn nói các thứ tiếng khác nhau “(x. Cv 2,4). Điều này cho thấy rõ ràng rằng sứ vụ rao giảng cần kèm theo nhu cầu học biết nhiều ngôn ngữ, bởi vì Thiên Chúa, trong sự minh triết của Người, đã muốn đức tin được triển nở nhờ lời rao giảng. Thật vậy, “có đức tin là nhờ lời rao giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô” (x. Rm 10,17). Hai vị giám mục kết luận: “Như vậy, các vị thừa sai sẽ không ngừng chuyên cần học tập tiếng nói địa phương, và học tập bao lâu tùy theo nhu cầu đòi buộc. Họ cũng không nên quên rằng họ không được chuyên chú vào thứ ngôn ngữ trí thức và văn học, đến độ chểnh mảng tiếng nói thông dụng trong dân gian. Họ cần phải làm cho những người học thức cũng như người thất học hiểu mình”.
Cha Biển Đức Thuận nhận thức rõ điều này, nên ngài mải miết đêm ngày học tiếng Việt. Ngoài tiếng Quốc Ngữ, ngài còn học chữ Nôm và chữ Hán; vì ba ngôn ngữ này cận kề nhau. Chính nhờ ngôn ngữ địa phương, ngài đã có thể tiếp xúc với những người Việt Nam, để hiểu họ và để cho họ hiểu mình. Ngôn ngữ chính là một chìa khóa cho mọi tương giao và hiểu biết nhau.
2. Phong tục
Bước tiếp cận thứ hai là hiểu biết và sống phong tục của người bản địa. Trong trường hợp của cha Biển Đức, đó chính là môi trường Việt Nam. Có hai khía cạnh diễn tả phong tục, đó là văn chương và nếp sống.
Trước hết, văn chương Việt Nam, nhất là văn chương bình dân, trong một mức độ nào đó, diễn tả tâm hồn của dân tộc này. Cha Biển Đức Thuận đã dịch hai tác phẩm thơ văn Nôm là “Trê Cóc” và “Lục Súc Tranh Công” sang tiếng Pháp. Khi chuyển ngữ, ngài đã giải thích những thành ngữ và những thói tục được nêu lên. Cần phải có một sự hiểu biết nào đó mới có thể làm được việc này.
Tiếp đến, là chú tâm đến nếp sống người dân Việt Nam, hơn thế nữa, sống chính nếp sống của người bản địa. Vào thời đó, tuyệt đại đa số người Việt Nam là nông dân: thiên nhiên, các tương quan gia đình, những hoạt động trong làng mạc, đều được diễn tả trong văn học và nếp sống cụ thể. Ngài đã sử dụng những dụng cụ của người dân địa phương, và ngài đánh giá cao những phương tiện đó. Đây là một thái độ khác hẳn thái độ của những người muốn đến ‘khai thác’ người khác, coi họ là man di, và áp đặt một lối sống văn minh của mình. Cha Biển Đức Thuận trân trọng các giá trị của phong tục tốt đẹp.
Ngài đã ghi nhận nếp sống bình dân, nghèo khó, nhưng đậm tình gia đình, như là nền tảng để có thể xây dựng nếp sống đan tu và đồng hành với cộng đoàn.
3. Những con người cụ thể
Bước tiếp cận thứ ba là gặp gỡ những con người cụ thể. Khi còn ở Tiểu chủng viện An-Ninh cũng như khi ở tại giáo xứ Nước Mặn, cha Biển Đức Thuận luôn tìm cách gặp gỡ những con người cụ thể, chứ không nhốt mình trong phòng giáo sư hay nhà xứ. Ngài gặp họ khi họ đến với ngài, hoặc chính ngài đi gặp họ tại gia đình hay trên đường đi làm về. Ngài hiểu cuộc sống của họ, những vất vả, lo âu, cả những vấn đề nơi họ. Chính những cuộc gặp gỡ này giúp ngài có một cái nhìn thực tế, nhưng đầy thương mến và trân trọng, cũng như giúp ngài biết đáp ứng những như cầu nào nơi họ, với những ưu tiên khác nhau.
Việc thành lập dòng Đức Bà An-Nam như là kết quả của việc khám phá tâm hồn của những con người cụ thể và xuyên qua những cuộc gặp gỡ, cha Biển Đức Thuận nhận ra được những dấu chỉ của những gì sâu xa ẩn kín trong tâm hồn họ.
4. Hồn sống tâm linh
Bước thứ tư là thấm nhập vào chính nỗi khát khao trong tâm hồn của những người Việt Nam mà ngài đã tiếp xúc. Đó là hồn tôn giáo và nhu cầu tâm linh của họ. Bên kia những thứ ma thuật, dị đoan, là tâm hồn của người muốn sống mối tương giao với Thiên Chúa, với các thần minh. Dù tên gọi gì đi nữa, con người vẫn có một khao khát khôn nguôi về Đấng Tuyệt Đối.
Cha Biển Đức Thuận đã khám phá ra chiều sâu tâm linh này của người Việt Nam, nên dù rất tha thiết với công việc truyền giáo, ngài đã mở ra một hướng đi cho họ, đó là đời sống đan tu chuyên về chiêm niệm. Ngài đã đánh giá cao khát vọng sâu xa của tâm hồn Việt Nam. Trái ngược lại, khi từ chối lời mời của cha Biển Đức Thuận đến lập đan viện tại Việt Nam, những vị bề trên Âu-Châu đã đánh giá tiêu cực cho rằng người Việt Nam không thể sống đời đan tu và chu toàn những đòi hỏi của nếp sống ấy. Và chính họ cũng chân nhận rằng vùng nhiệt đới rất khó cho họ để sống đời đan tu!
Việc tiếp xúc bên ngoài đã giúp cha Biển Đức Thuận khám phá hồn sống động của những người ngài gặp gỡ. Đó là một sự gặp gỡ ngay chính, không thành kiến. Chính những cuộc gặp gỡ này giúp ngài tìm những cách thức để đáp ứng nhu cầu tâm linh của họ và đồng hành một cách hữu hiệu. Ngài luôn có cái nhìn tích cực về anh em trong cộng đoàn, về cuộc sống đan tu mới mẻ này, dù rằng luôn có những vấn đề.
II. TỔ CHỨC MỘT NẾP SỐNG
Với tư cách người tiên phong trong đời sống đan tu cho những người Việt Nam, cha Biển Đức Thuận muốn đan viện ngài thành lập mang đậm dấu ấn của cuộc sống Việt Nam, không những về phương diện văn hóa mà con cả chiều kích thiêng liêng và truyền giáo.
1. Đặc thù Việt Nam
Đây là điều cha Biển Đức Thuận tha thiết nhất. Tôi xin trích thuật một vài đoạn trong thư tín của ngài gửi cho cha Tổng Phụ Xitô, để bàn về việc sát nhập vào dòng Xitô. Trong lá thư đề ngày 17 tháng 9 năm 1932, Cha Biển Đức Thuận viết:
“Cha rất đáng kính, con mau chóng gửi cho cha lá thư mới thỉnh nguyện xin gia nhập, được Đức Cha Giáo Phận Tông Tòa Huế ký nhận… Nhưng, kính thưa cha, con cũng phải thú nhận với cha rằng, trong khi chúng con gia nhập, thì đó là một Hội Dòng hoàn toàn An-nam (Việt Nam) mà chúng con gia nhập vào Dòng.”
Khi nhấn mạnh đến sự kiện là Hội Dòng hoàn toàn Việt Nam, đấng sáng lập muốn đưa ra ánh sáng nét độc đáo của nếp sống đan tu tại Phước Sơn.
Việc nhấn mạnh đến nét độc đáo Việt Nam, một lần nữa được nhắc lại sau khi cha Biển Đức Thuận qua đời. Cha Bernard Mendiboure và Hội Đồng đan viện đã viết thư ngày 20 tháng 7 năm 1934 cho cha Tổng Phụ, nhắc lại việc xin gia nhập. Phần cuối lá thư, có những dòng chữ được nhấn mạnh :
“Chúng con rất vinh dự được gia nhập vào gia đình Xitô, nhưng nếu để là thành viên mà chúng con đánh mất bản sắc riêng của mình, thì chúng con từ chối vinh dự này… Nhắc lại một câu nói lịch sử “Sint ut sunt aut non sint”, của Cha Tổ Phụ đáng kính của chúng con trước khi ngài qua đời; chúng con coi đó như là trao gởi linh thiêng; chúng con tiếp tục sống cùng trên một đường hướng với lý tưởng như trong quá khứ. Nếu chúng con phải thay hình đổi dạng về điểm này để trở nên Xitô, chúng con thấy cần từ chối. Chúng con đã sinh ra như vậy và chúng con tiếp tục tồn tại như chúng con là…”
Vấn nạn trên tóm lược quan tâm của các đan sĩ Phước Sơn muốn giữ bản sắc của mình. Mà bản sắc này được cắm rễ sâu trong tâm tưởng Việt Nam và thích hợp với trình độ của họ. Điều này có thể trở thành vấn đề dưới mắt của những đan sĩ đến từ một nền văn hóa Tây Phương đã nhận được nền giáo dục đan tu trong đất nước họ.
2. Bầu khí chiêm niệm
Quan tâm của Cha Biển Đức Thuận là thiết lập một đời sống đan tu chuyên về chiêm niệm. Dù rằng ngài thiết tha với vấn đề truyền giáo và luôn mong ước nhiều người Việt Nam được tin Chúa và gia nhập Giáo Hội, nhưng con đường ngài chọn khác, đó là đời sống ẩn kín. Trong các lời giáo huấn cho các môn sinh, ngài luôn nhấn mạnh đến sự kín nhiệm của đời đan tu, của đan sĩ. Ngài cũng quả quyết là người ta không thể hiểu được ơn gọi đan tu đâu.
Bầu khí chiêm niệm mà ngài muốn tạo dựng trong đan viện, đó là một đáp ứng cho tâm hồn người Việt Nam. Chắc chắn ngài đã khám phá ra khát vọng chiều sâu nơi người Việt Nam – như tôi đã nói trên – đây là một nét trong bản sắc của đời đan tu ngài muốn thiết lập tại Vệt Nam. Đó là cuộc sống ẩn kín, mà chính ngài cũng đã hết mình sống ẩn kín. Ngài đã dồng hành với anh em, với cộng đoàn, trong khát khao này, và nỗ lực để giúp anh em, cộng đoàn đạt được điều đó. Đây chính là đồng hành trong một cuộc sống chiều sâu.
3. Tình gia đình
Một nét độc đáo nữa mà cha Biển Đức đã khám phá nơi cuộc sống người Việt Nam và áp dụng trong đời đan tu ngài thiết lập, đó là tình gia đình. Đối với người Việt Nam, tình gia đình là hồn sống, là cung cách sống trong các tương giao. Loại bỏ những yếu tố tiêu cực như cục bộ, tính gia trưởng, tình gia đình là phẩm chất của một cuộc sống tốt đẹp.
Tình gia đình Việt Nam được cha Biển Đức Thuận hiện thực trong một nếp sống mà mọi thành viên trong đan viện đều được đối xử như nhau, trong tình thương. Chính vì thế mà khi thành lập dòng Đức Bà An-nam, ngài muốn không có hai hạng người: đan sĩ và qui sĩ. Đây là một bước đột phá và đi trước thời đại. Chính vì điều này mà dòng Xitô Nhặt Phép đã từ chối việc xin gia nhập.
Nét văn hóa của tình gia đình cần được bảo tồn và sống một cách cụ thể ngày hôm nay, nếu chúng ta muốn đồng hành với anh em.
4. Hồn tông đồ
Vẫn biết rằng mọi lối sống đời chiêm niệm phải được linh động bởi hồn tông đồ. Nhưng trong trường hợp của cha Biển Đức Thuận và dòng ngài thành lập, dấu ấn của hồn tông đồ rất rõ nét. Ngài đã muốn đan viện và đời sống các đan sĩ là một đóng góp cụ thể, hữu hiệu nhưng kín nhiệm cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội. Như chúng ta đã biết, là ngài đã long trọng ghi trong hiến pháp rằng mục đích thứ hai của dòng là cầu nguyện và hy sinh cho lương dân trở lại. Những sinh hoạt hằng ngày với những việc đạo đức, đều được qui hướng về mục tiêu này.
Đây phải là nét của nền văn hóa Công Giáo Việt Nam. Thật vậy, khao khát cho anh em đồng bào nhận biết Chúa và gia nhập Giáo Hội phải là nét văn hóa của những người tin Chúa. Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận sống trong hoàn cảnh này và ngài đã hiện thực nét văn hóa đó trong chính nếp sống của các đan sĩ. Đây cũng là một hướng để chúng ta, với trách nhiệm đồng hành, hướng anh chị em về một mục tiêu lớn hơn không gian riêng tư, phần rỗi riêng tư của mỗi người.
III. NHỮNG HOẠT ĐỘNG CHÍNH
Sau khi đã tiếp cận với những con người cụ thể để khám phá nhu cầu sâu xa nơi họ. Cha Biển Đức Thuận đã thành lập đan viện đầu tiên cho những người Việt Nam. Việc thành lập này chứa đựng quá nhiều gian truân đối với ngài. Phải chờ đợi chín năm trường mới được phép lên đường sống đời đan tu, và hầu như không ai ủng hộ; vì họ coi việc thành lập đan viện là một sự lãng phí trong một vùng truyền giáo. Nhưng cha Biển Đức Thuận, hơn ai hết, đã hiểu và xác tín con đường chọn lựa. Một khi đã có những môn sinh đến chia sẻ nếp sống, ngài nhiệt tâm đồng hành với họ, với cộng đoàn mới được khai sinh và ngày càng lớn lên.
1. Hiện diện với niềm vui
Cha Biển Đức Thuận là một con người khắc khổ và sự khổ hạnh đó in đậm trong nếp sống tại đan viện Phước Sơn – còn gọi là dòng Đức Bà An-Nam. Sự khắc khổ đó được nhìn thấy rõ nét ngay nơi không gian của mãnh đất khô cằn, của khí hậu khắc nghiệt, của lương thực quá đạm bạc và cơ sở cũng rất thô sơ. Nhưng nơi đó lại là nơi quyến rũ ngài hơn bất cứ nơi nào khác. Tại sao?
Trong các lời giáo huấn thiêng liêng, cha Biển Đức Thuận diễn tả “cái Phước” của các đan sĩ, đó là sống với Chúa, nói khó với Chúa, thân tình như giữa cha con. Trong các thư tín, ngài cũng nói đến nơi tốt nhất đó chính là dòng Phước Sơn, nghĩa là cộng đoàn của ngài. Chính vì thế ngài luôn hiện diện. Nếu phải xa vắng cộng đoàn vì công việc, ngài cảm thấy khổ tâm, và tìm mọi cách mau trở về ngay khi công việc hoàn tất. Và khi ngài hiện diện giữa cộng đoàn, ngài hiện diện với tất cả niềm vui, niềm vui sâu lắng của hồn chiêm niệm. Đây là chứng từ của tất cả các môn sinh của ngài. Ngài rất nghiêm trang nhưng rất vui. Phải chăng đây là một phương cách đồng hành: hiện diện với niềm vui. Tại sao vui? Vì hài lòng với cuộc sống, với anh em, dù rằng các vấn đề vẫn còn đó. Đây chính là sự hiện diện của niềm vui Tin Mừng. Khi người ta hiện diện ở nơi nào đó với nềm vui, người ta muốn nói lên rằng nơi đó, nếp sống đó có giá trị. Tôi thiết nghĩ đây là nét đậm mà chúng ta, những người muốn đồng hành với anh chị em, với cộng đoàn, cần phải suy nghĩ nhiều hơn.
2. Giáo huấn nuôi sống
Để đồng hành với cộng đoàn, cha Biển Đức Thuận đã dành rất nhiều thời gian để nuôi sống anh em bằng việc giáo huấn. Đây là một công việc quan trọng mà cha Thánh Biển Đức đòi hỏi nơi Viện Phụ để “lệnh truyền và giáo lý ngài phải như men công chính của Chúa gieo vào tâm trí môn đệ” (TL 2,5).
Cha Biển Đức Thuận đã dành mỗi ngày hai lần, để hướng dẫn cộng đoàn về những kiến thức và những kinh nghiệm thiêng liêng (x. HT, tr. 173). Những lời giáo huấn của ngài đã được các môn sinh ghi lòng tạc dạ, và nuôi sống họ một cách rất kiến hiệu. Một người anh em, là thầy Vincentio Nguyễn Văn Tình, mỗi ngày đã chăm chú nghe và ghi lại những lời giáo huấn đó. Những lời giáo huấn đó nay đã được thu tập trong cuốn Di Ngôn.
Những giáo huấn của cha Biển Đức Thuận không theo một hệ thống, trái lại đáp ứng những nhu cầu thực tế xuất phát từ nhiều hoàn cảnh khác nhau. Những lời giáo huấn của ngài như món ăn bổ dưỡng được các con cái ghi tâm khắc cốt. Tất cả đều xác nhận: đã nghe, thậm chí đã quen nghe ngài giáo huấn về các điều ấy. Và vì là những điều quan trọng, chắc chắn ngài đã không ngần ngại nhắc đi nhắc lại đến nỗi các đan sĩ như đã thuộc nằm lòng.
Điều tôi muốn nói thêm nơi đây, liên quan đến vấn đề văn hóa và khung cảnh sống. Cha Biển Đức Thuận nhạy cảm về môi trường và rất tinh tế trong lời nói cũng như hành động. Ngài biết ngài sống với những ai và trong môi trường nào. Chính vì thế, ngài đã sử dụng một thứ ngôn ngữ thích hợp với các đan sĩ thời đó, để giúp họ tiển triển trên hành trình thiêng liêng. Điều đó muốn nhấn mạnh đến tinh thần biện phân.
Chắc chắn ngài đã đọc rất nhiều các tác phẩm của các linh phụ Xitô, vì cha Viện trưởng Maur…, bề trên đan viện Notre Dame du Phare, ở Hokodaté, Nhật Bản, đã cung cấp các tài liệu và sách vở đan tu cho ngài. Như chúng ta biết, các linh phụ Xitô đã sử dụng thứ ngôn ngữ tình yêu – của nền văn hóa Tây Phương – để diễn đạt mối tình giữa Chúa Kitô, Đấng Tình Quân với Hiền Thê là Giáo Hội và các linh hồn. Những hình ảnh được sử dụng đó rất có thể gây sốc cho những người Việt Nam và bình dân. Chính vì thế, khi giáo huấn, cha Biển Đức Thuận đã rất tài tình lột tả nội dung sự kết hiệp giữa Thiên Chúa và linh hồn bằng chính những hình ảnh gần gũi của đời thường. Và điều đó đã mang đến rất nhiều lợi ích cho người nghe. Ngài là một người có khả năng nắm bắt những yếu tố căn bản của một nền văn hóa cụ thể, của khung cảnh sống và những con người đón nhận. Thật vậy, để mang lại lợi ích cho các tâm hồn, cần thiết phải biết làm sao và bằng phương tiện nào xây dựng tòa nhà thiêng liêng cho những người đón nhận. Không chỉ là việc bứng gia sản của Giáo Hội, của Xitô vào mảnh đất Việt Nam.
Đây là một đòi hỏi cho chúng ta. Để làm được điều đó, chắc chắn chúng ta phải đầu tư rất nhiều công sức và suy tư, cũng như có những sáng kiến có tính khai mở.
3. Gương lành lôi cuốn
Một phương thức để việc đồng hành trở nên kiến hiệu hơn, đó chính là phục vụ, không những công việc liên quan đến chức vụ bề trên, mà còn chu toàn các bổn phận của một đan sĩ, nghĩa là trung thành với nếp sống và sinh hoạt của đan viện. Cha Biển Đức Thuận thường nói đến việc tuân giữ luật dòng, với tâm tình yêu mến và với đầy đủ chi tiết. Đây không phải là giữ luật vì luật, mà là một sự trung thành với chính đời sống đan tu. Chính khi tuân giữ lề luật, ngài đã đồng hành và hiểu biết anh em cũng như những vấn đề nảy sinh trong môi trường đó.
Ngoài ra, sự phục vụ rất khiêm hạ của ngài với công việc dọn dẹp nhà vệ sinh – mà ngài làm suốt thời gian tại đan viện, cho tới khi sức khỏe không cho phép và chỉ ngừng một thời gian ngắn trước khi ngài ra đi, đã là một gương lành cho cộng đoàn. Chúng ta có thể tưởng tượng nhà vệ sinh thời đó rất thô sơ, và rất kém vệ sinh! Ngài đã chọn địa vị nào khi phục vụ? Đối với người Việt Nam chúng ta, khi nhận một tước hiệu thì cũng nhảy lên một địa vị cao hơn, cảm thấy hơn người, và loại bỏ những công việc gì mà mình cho là không xứng đáng với địa vị cao đó. Phải chăng đây cũng là một nét “văn hóa Việt Nam”! Nếu hành động như vậy, đó là một sự chạy trốn cản trở chính việc đồng hành. Sẽ không hiểu hoàn cảnh, thiếu cảm thông, vì đang đứng ở địa vị bên trên và bên ngoài. Những đánh giá sẽ hết sức khiếm khuyết và sai lạc. Cha Biển Đức Thuận đã đồng hành với cộng đoàn trong những gì hèn hạ nhất. Gương sáng là một giá trị có sức lôi cuốn hơn bất cứ bài vở nào khác.
4. Phó thác trong cầu nguyện bình an
Một điều tôi cũng khám phá nơi cha Biển Đức Thuận, đó là tinh thần phó thác khi bản thân ngài không thể làm được điều gì đó cho cộng đoàn. Trong việc đồng hành với cộng đoàn, điều làm ngài ái ngại và lo lắng, đó là nhận ra nơi anh em có điều gì làm họ buồn. Đã hơn một lần, ngài viết lên điều này. Ngài cũng nhận định rằng sự buồn phiền đó là một hiện tượng mau qua, nhưng rồi thực tế lại cho thấy, anh em này hết buồn, anh em khác lại buồn. Ngài rất muốn cho anh em vui, thêm vui. Nhưng nếp sống đan tu, với những đòi hỏi của nó, không thể đi tìm và cung cấp những niềm vui của một cuộc sống dễ dãi. Ngài cũng đã nói đến việc phải giết con người cũ nơi mình và giúp giết con người cũ nơi nhau. Ngài hướng tới hạnh phúc, tới chính cái phước của Thiên Chúa, chứ không phải sự sung sướng của xác thịt.
Đồng hành với cộng đoàn, với anh em, khám phá ra những khía cạnh tiêu cực, ngài không gay gắt lên án, tuy ngài cũng rất thẳng thắn. Ngài không nhìn tiêu cực nơi anh em, nhưng mong chờ thiện chí sửa đổi; “trước không phải, sau phải” (x. DN, số 146).
Tại sao có thể tin vào thiện chí anh em và kiên nhẫn chờ đợi, nếu ngài đã không phó thác cho Thiên Chúa với tâm hồn bình an. Trong các giáo huấn của ngài, ngài luôn để đức khiêm nhường đi đôi với bình an. Phải chăng ngài nhìn lên Chúa và công trình của Chúa hơn là dừng lại nơi những việc làm và thành quả của mình. Nhiều lần, trong các thư tín, ngài xác tín rằng thành công là của Chúa, và rằng nếu có những hư hỏng, sai sót là phần trách nhiệm của ngài. Trong một thứ văn hóa Việt Nam, “tốt khoe, xấu che”, cha Biển Đức Thuận đã muốn cộng đoàn hãy nhìn vào sự thật, để từ đó hoán cải, bắt đầu lại.
IV. VƯỢT QUA SỰ ĐỒNG HÀNH
Sự đồng hành như một hoạt động của chính Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng linh hứng cho người đồng hành và người được đồng hành. Tôi không dừng lại ở câu hỏi này, vì các vị đã nói đến và sẽ đề cập đến. Tôi chỉ muốn nói rằng, việc đồng hành của chúng ta, tuy là một công việc rất quan trọng và hữu ích, nhưng cũng đến lúc, người đồng hành phải nhường bước, phải im tiếng, để Chúa Thánh Thần hoạt động trong người được đồng hành hoặc trong cộng đoàn.
Tôi muốn nói đến vấn đề này với trường hợp của cha Biển Đức Thuận.
1. Ra đi trong bình an
Trong thời gian sống với các anh em trong cộng đoàn mới thành lập, cha Biển Đức Thuận rất tận tâm lo cho họ về mọi phương diện. Ngài đồng hành với họ trong mọi sinh hoạt cộng đoàn, và trong cả những tâm tư của họ. Ngài biết họ vui, buồn về điều gì, ngài hiểu họ tận sâu thẳm lòng họ. Như trong lá thư của cha Willibrord viết cho viện phụ đan viện Thánh Mẫu của Ân Sủng, ngày 15 tháng 7 năm 1934, đã xác định khi nhắc lại lời của cha tập sư thuộc cộng đoàn Phước Sơn:
“Người cha quá cố của chúng tôi đã hiểu thấu điều đó, vì điều đó là chính điều ngài đã sắp xếp, và người cha của chúng tôi, xin cha biết cho rằng, ngài thật là một ánh sáng! Ôi, ngài thật là một con người của Thiên Chúa! Ngài hiểu thấu chúng tôi biết bao!”
Và cũng trong lá thư đó, cha Willibrord viết tiếp: “Vị linh mục đó không thể nói hay hơn nữa… Họ là người An-nam, còn con chỉ là một người ngoại quốc, một người thuộc dòng giống khác. Còn người cha của họ đã sống bao nhiêu năm giữa họ, ngài đã hiểu họ, ngài thấy tận thâm cung họ…”
Nhưng đồng thời, cha Biển Đức Thuận rất ý thức về việc tới lúc nào đó sẽ nhường bước cho người khác, và trong thâm tâm ngài, là để chính anh em Việt Nam coi sóc anh em Việt Nam. Trong thư gửi cho bề trên của đan viện biển đức La Pierre-qui-vire, ngài khuyên không nên gửi số đông các đan sĩ ngoại quốc đến lập dòng, mà chỉ khoảng 2 người thật nhiệt tâm và đạo đức. Và chính ngài cũng đã định hướng rằng không bao giờ quá 2 người ngoại quốc trong cộng đoàn. Phải chăng, qua đó, ngài ý thức tầm quan trọng tới lúc phải để những con người sống cùng một nền văn hóa có khả năng đồng hành với nhau trong việc theo Chúa Kitô, để sống đời đan tu.
Trong Lời Trối – như kết tinh của tâm hồn ngài – ngài đã nói đến việc ngài ra đi trong bình an. Phải chăng điều đó nói lên rằng sẽ tới lúc người đồng hành sẽ rút lui, nhường bước cho người khác, và hơn thế nữa, cho Thánh Thần Chúa hoạt động?
2. Anh em cùng đi với nhau
Và đây là một định hướng cho việc đồng hành, đó chính là việc cùng đi với nhau. Khi cha Biển Đức Thuận thành lập đan viện đầu tiên cho những người Việt Nam, ngài đã muốn đời sống cộng đoàn được đề cao, và trong các giáo huấn của mình, ngài luôn nhấn mạnh đến việc “cùng đi với nhau”. Chính đời sống cộng đoàn là môi trường của một việc đồng hành được hiện thực và mang lại nhiều kết quả; việc đồng hành mang tính cộng đoàn. Những người trẻ mới bước vào đan viện, những anh em đã sống lâu năm trong đan viện, tất cả đều chia sẻ một nếp sống, những sinh hoạt, cả những tình cảm… tất cả những điều đó trở thành những nhân tố cấu thành một sự đồng hành tốt đẹp.
Khi cha Biển Đức Thuận ý thức việc “nhường bước” là ngài muốn nhấn mạnh đến sự trưởng thành của một cộng đoàn mà các thành viên được nuôi dưỡng bằng một nền văn hóa với những cảm thức chung, thì điều đó, đối với ngài, là một nét tích cực làm an tâm cho việc nhường bước đó. Hơn thế nữa, ngài đã khám phá ra ánh sáng khả dĩ để cộng đoàn và từng anh em tiến bước ra sao.
3. Ánh sáng của thánh ý Chúa
Suốt đời cha Biển Đức Thuận luôn hướng về việc thuận theo thánh ý Chúa. Đây là ánh sáng lớn nhất để anh em cùng bước đi với nhau không sợ trật hướng và, hơn thế nữa, triển nở trong ơn gọi. Thật vậy, nếu trong việc đồng hành, người đồng hành và người được đồng hành, cả hai phải tìm thánh ý Chúa – chứ không phải một ý muốn của con người áp đặt – thì việc cộng đoàn cùng nhau tìm thánh ý Chúa và thực hiện là một tiến trình quan trọng trong việc đi theo Chúa Kitô.
Đây cũng là một tiến trình để cùng nhau biện phân trong những hoàn cảnh cụ thể. Điều đó sẽ dễ dàng hơn nếu cùng có một cảm thức chung và với những suy nghĩ của cùng một nền văn hóa.
Nhưng việc đồng hành, với tính chất cộng đoàn, cũng cần phải có một một môi sinh thiêng liêng, chứ không chỉ là một không gian mang tính địa dư.
4. Trong môi trường của luật sống
Môi sinh mà cha Biển Đức Thuận đề cao, đó là luật sống. Đó là Tu Luật Biển Đức, là Hiến Pháp và những qui định của cộng đoàn. Ngài nhấn mạnh: muốn nên thánh phải giữ luật dòng. Ngài luôn nhắc đi nhắc lại, và nói một cách trịnh trọng trong Lời Trối.
Nhưng luật sống đó cần phải được nhập thể trong một nền văn hóa. Chính những con người sống trong nền văn hóa riêng biệt, với những cảm thức riêng biệt, hiểu và áp dụng cuộc sống cụ thể với những hoàn cảnh cụ thể.
Cha Biển Đức Thuận, khi ý thức rằng mình phải nhường bước, thì ngài cũng biết đưa ra định hướng cho cộng đoàn biết đâu là môi sinh có khả năng giúp việc cùng đi với nhau đạt mục đích, và việc đồng hành và được đồng hành bởi những con người có cùng một nền văn hóa, phải được hiện thực với những điều kiện nào.
Kết luận: Việc thành lập đan viện tại Việt Nam
Để kết luận những suy nghĩ về đề tài trên, tôi xin được phép trở lại việc cha Biển Đức Thuận thành lập đời sống đan tu tại Việt Nam.
Một nét độc đáo của đan viện này, đó là việc thích nghi. Vào thời mà mô hình Tây Phương chiếm lĩnh trong mọi địa hạt – một thứ độc quyền, độc tôn – thì cha Biển Đức Thuận lại chọn một loại đan tu cắm rễ sâu trong văn hóa, trong cuộc sống và não trạng của những người bản xứ. Đó là việc nhập thể các giá trị vào truyền thống đan tu của Giáo Hội và nhập thể truyền thống đan tu vào những thực hành địa phương. Đó là sự tương nhập các giá trị. Thật ra, việc nhập thể này là kết quả của những năm tháng mà cha Biển Đức Thuận đã đồng hành cùng với những người Việt Nam, khi ngài là cha xứ hay bề trên của đan viện. Ngoài ra, vì đã không nhận được một sự đào luyện đan tu nào từ một môi trường tây phương, nên đan viện ngài thành lập mang đậm chất Việt Nam, không những trong các việc thực hành, mà còn trong cách suy tư và diễn đạt những kinh nghiệm thiêng liêng và thần bí.
Dầu vậy, nhập thể không chỉ là chiều kích duy nhất đã linh động cha Biển Đức Thuận khi ngài thành lập đan viện đầu tiên tại Việt Nam. Chiều kích mà tôi nghĩ tới, đó là linh đạo. Đời sống đan tu được nhìn dưới lăng kính linh đạo, nghĩa là một con đường để sống Tin Mừng. Sau 15 năm nhiệt tâm truyền giáo, cha Biển Đức Thuận đã mở ra một con đường nhờ đó mà một số Kitô hữu có thể sống đạo trong chiều sâu. Linh đạo đó không mang dấu ấn của những hiện tượng thiêng liêng như xuất thần, nhưng là được trao tặng cho mọi người, ngay cả những “người nhà quê nghèo nàn”, hạng người mà cha Biển Đức Thuận chú tâm hơn cả. Theo ngôn ngữ của Công đồng Vaticanô II, điều đó diễn tả sự thánh thiện được trao tặng cho mọi người: mọi Kitô hữu được mời gọi đến sự thánh thiện.
Vào thời cha Biển Đức Thuận, từ ngữ “hội nhập văn hóa” chưa xuất hiện. Lúc đó, người ta sử dụng từ “thích nghi”. Đó là một nỗ lực nhập thể đời sống và sự điệp Kitô giáo trong nền văn hóa cụ thể. Liên quan đến vấn đề “thích nghi” được thực hiện bởi cha Biển Đức Thuận trong đan viện ngài thành lập, nỗ lực này không chỉ giới hạn trong những diễn tả bên ngoài như y phục hay thực phẩm, nhưng nó đụng chạm đến chính não trạng của dân tộc Việt Nam. Nghĩa là cha Biển Đức Thuận đã đi vào trong tầng lớp sâu thẳm nhất của con người dân tộc này
Tôn giáo không tách ly khỏi văn hóa. Nói cách khác, không có một nền văn hóa nào là trung lập, nó luôn mang trong mình một chiều kích tôn giáo nào đó. Dù rằng vào thời cha Biển Đức Thuận, đối thoại liên tôn chưa xuất hiện, nhưng cách nào đó, đã có sự hiện thực trong lãnh vực này qua việc đối thoại với nền văn hóa. Cha Léopold Cadière, một vị thừa sai thuộc Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Paris, người đồng thời với cha Biển Đức Thuận, đã dầy công nghiên cứu về tình cảm tôn giáo nơi người Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu của ngài đã giúp đỡ rất nhiều cho các vị thừa sai trong sứ vụ của họ. Cha Biển Đức Thuận, không bao giờ là một nhà nghiên cứu uyên bác trong lãnh vực này, nhưng tầm hiểu biết của ngài về văn hóa và não trạng của người Việt Nam đã giúp ngài đối thoại với họ và có thể đồng hành với họ.
Điều này cho thấy, cha Biển Đức Thuận, một cách nào đó, đã gieo những hạt mầm đầu tiên trên mảnh đất Việt Nam, để thế hệ chúng ta, hậu duệ của ngài, một đàng trung thành với tinh thần của vị sáng lập đồng thời đủ can đảm để đưa ra những sáng kiến cho thời đại và những con người của hôm nay.
ĐỨC MARIA
VÀ MẦU NHIỆM HIỆP THÔNG CỦA GIÁO HỘI
FM. Fx. Nguyễn Hoài Lâm
Sách Tông Đồ Công Vụ đã trình bày hình ảnh của Giáo Hội Sơ Khai, một cộng đoàn hiệp thông với nhau. Thánh Thần quy tụ những con người đón nhận “kerigma” và thực hành “metanoia” trong cộng đoàn hiệp thông. Cộng đoàn này được xây dựng bởi những yếu tố nền tảng: lời giảng dạy của các tông Đồ (Lời Chúa, giáo huấn của Giáo Hội), cử hành lễ bẻ bánh (Thánh Thể), và cầu nguyện chung với nhau (Cv 2,42).
Cộng đoàn hiệp thông này diễn tả tình yêu huynh đệ qua việc “hiệp nhất với nhau và đặt mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai, của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Cv 2,44). Bầu không khí trong cộng đoàn của Thần Khí là “sự Đồng tâm nhất trí”, là “lòng đơn sơ vui vẻ” (Cv 2,46). Chính điều này là lời rao giảng hùng hồn nhất về Đức Kitô, về Tin Mừng cứu độ. Đời sống cộng đoàn của Lễ Ngũ Tuần là một sự thu hút mãnh liệt và con số những người được cứu độ ngày càng tăng thêm. “Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến” (Cv 2,47). Nhưng cộng đoàn hiệp thông ấy chỉ nên trọn vẹn nhờ sự hiện diện của Đức Maria. Hơn nữa, cầu nối tương quan hiệp thông giữa Đức Maria và Giáo Hội chính là Chúa Thánh Thần.
1. Đức Maria và sự hiệp thông của Giáo Hội
Giáo Hội sơ khai hiệp thông với nhau trong cùng một Thần Khí, trong cùng tâm tình cầu nguyện với nhau và với Đức Maria: “Tất cả họ đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ và bà Maria, Mẹ Đức Giêsu và các anh em Người” (Cv 1,14). Chúng ta có thể mường tượng được một nhóm người liên kết mật thiết với nhau, đồng tâm cầu nguyện với nhau. Các ngài là các Tông Đồ, các phụ nữ đã từng theo Đức Kitô trên những nẻo đường truyền giáo của Người, Đức Maria, các anh em và những người bà con với Đức Giêsu. Mẹ Đức Giêsu được trình bày cách rõ nét.
Hình ảnh của Đức Maria có một tầm quan trọng đặc biệt trong Giáo Hội sơ khai. Sau khi đề cập đến các Tông Đồ, Đức Maria là người duy nhất được sách Công Vụ nhắc đến với tên gọi cụ thể và tước danh “Mẹ Đức Giêsu”. Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ đừng rời khỏi Giêrusalem và chờ đợi Thánh Thánh ngự xuống (x. Cv 1,4-5). Và sau đó, tất cả đã trở nên những chứng nhân của Đức Kitô khắp cùng trái đất (x. Cv 2,1-4). Giáo Hội bắt đầu cuộc hành trình truyền giáo và có Đức Maria hiện diện và hiệp thông với Giáo Hội ngay đúng giờ phút khởi đầu ấy. Giáo Hội sơ khai là một cộng đoàn nhỏ bé nhưng là một hạt giống từ đó làm phát sinh Dân Thiên Chúa rộng lớn và đông số. Động cơ của mối tương kết và hiệp nhất giữa các thành viên trong Giáo Hội Sơ Khai chính là Đức Giêsu Kitô Phục Sinh và kế hoạch sự sống của Người. Tất cả sống tinh thần môn đệ với Thầy Chí Thánh và cùng hướng về Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu[1] .
Đoạn sách Công Vụ 1,14 giúp chúng ta đào sâu những yếu tố quan trọng, đặc biệt là việc cầu nguyện chung giữa Đức Maria và các Tông Đồ. Chính Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện và Ngài đề cao sự cần thiết của việc cầu nguyện (x. Lc 11,5-13; 18,1). Trong sách Công Vụ, chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều đoạn đề cập đến việc cầu nguyện chung do chính các Tông Đồ chủ tọa và trung tâm của những cuộc cầu nguyện chung đó là việc bẻ bánh (x. Cv 4,24-30; 2,42.46). Trong khi vai trò của các Tông Đồ là những mục tử thì vai trò của Đức Maria là Mẹ Đức Giêsu.
Cuối cùng, ta thấy lý do của việc tụ hợp nhau cầu nguyện là chờ đợi đón nhận Chúa Thánh Thần. Đối với Đức Maria, Lễ Ngũ Tuần được gắn liền với biến cố truyền tin. Lãnh nhận hồng ân Thánh Thần, Đấng đã rợp bóng trên Mẹ tại Nazareth (x. Lc 1,6-28) là tham gia cách trách nhiệm vào việc hình thành Đức Kitô trong chính cung lòng Mẹ, thì việc lãnh nhận Thánh Thần trong Lễ Ngũ Tuần là tham dự vào việc thành hình chính thân mình của Đức Kitô là chính Giáo Hội.
“Vì Thiên Chúa không muốn tỏ bày mầu nhiệm cứu rỗi nhân loại cách long trọng trước khi Ngài đổ tràn Thánh Thần mà Chúa Kitô đã hứa, nên chúng ta thấy các Tông Ðồ trước ngày Hiện Xuống “đã kiên tâm hiệp ý cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, với Ðức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và với anh em Người” (Cv 1,14). Ðức Maria cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Ðấng đã bao phủ lấy ngài trong ngày Truyền Tin. Sau cùng, được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Ðức Nữ Trinh Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa (x. Kh 19,16), Ðấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết”[2] .
Trích dẫn Kinh Thánh cuối cùng về Đức Maria – Mẹ Đức Giêsu trong tương quan với hình ảnh Giáo Hội đã được đề cập trong thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Galát: “Khi đến thời tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới quyền Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” [3] (Gl 4,4-5) .
Theo ý kiến của các chuyên viên, đây là bản văn cổ nhất vì thư gửi tín hữu Galát có thể được viết vào khoảng hậu bán thế kỷ I [4] . Có nhiều cách chú giải khác nhau về câu này: có cách chú giải nhấn mạnh đến việc trở nên người phàm của Ngôi Lời Thiên Chúa, nhưng có cách giải thích nhấn mạnh đến sự Đồng Trinh của Đức Maria. Tuy nhiên, chính quy chiếu lịch sử của cụm từ “thời gian đã đến hồi viên mãn” nhấn mạnh đến sự cần thiết của Đức Maria trong lịch sử cứu độ.
Thời gian viên mãn không phải là thời khắc bất kỳ nào nhưng là điểm trung tâm mà Cựu Ước mong chờ, và là điểm phát xuất của chiều kích cánh chung. Trong bối cảnh này, việc Đức Maria được gọi là “người nữ” giúp ta hiểu được sứ mạng phổ quát của Mẹ là ơn gọi hoàn tất kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nhập Thể. Đức Maria làm cho mầu nhiệm kenosis của Chúa Con được thực hiện trong ý muốn của Thiên Chúa, để cứu độ con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và khỏi luật của tội lỗi đang xiết chặt để con người thăng tiến trong phẩm giá làm con Thiên Chúa họa theo hình ảnh của Chúa Con.
Biến cố mà thánh Phaolô mô tả là trung tâm của lịch sử cứu độ. Biến cố này đến theo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, trong tình yêu thương xót của Người vì nhân loại khổ đau, tội lỗi. Biến cố này được thực hiện bởi việc hạ mình của Chúa Con từ lúc Nhập Thể đến đỉnh cao là cái chết trên Thập giá, cho đến khi Thánh Thần được ban tràn đầy cho chúng ta, Thiên Chúa đã sai Thần Khí con của Người vào lòng anh em, (Thần Khí) kêu lên: “Abba!” (x. Gl 4,6). Không thể cho rằng Mẹ Maria chỉ đóng một vai trò thụ động và máy móc trong biến cố này.
2. Đức Maria – Mẹ – khuôn mẫu của Giáo Hội
Chương VIII của Lumen Gentium nhấn mạnh về mối tương quan giữa Đức Maria và Giáo Hội. Mẹ là Mẹ các chi thể của Chúa Kitô vì Mẹ cộng tác vào việc sinh thành các tín hữu với tình yêu của Mẹ. Mẹ cũng được ca tụng như chi thể, mẫu mực, gương sáng của Giáo Hội. Mẹ là “typos” của Giáo Hội nên Mẹ là hình ảnh của cộng đoàn cánh chung của Đức Kitô.
“Thực vậy, khi sứ thần truyền tin, Ðức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian. Ngài được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Ðấng Cứu Thế. Ðược cứu chuộc cách kỳ diệu hơn nhờ công nghiệp Con Ngài và hiệp nhất mật thiết và bền chặt với Con, Ðức Maria đã lãnh nhận sứ mệnh và vinh dự cao cả là được làm Mẹ Con Thiên Chúa, do đó làm ái nữ của Chúa Cha và cung thánh của Chúa Thánh Thần. Nhờ lãnh nhận ân sủng vô cùng cao quí này, Ngài đã trổi vượt mọi tạo vật trên trời dưới đất. Nhưng đồng thời, vì thuộc dòng dõi Adam, Ngài cũng liên kết với tất cả mọi người cần được cứu rỗi; hơn nữa, “ngài thật là Mẹ các chi thể (của Chúa Kitô)… vì đã cộng tác trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Giáo Hội là những chi thể của Ðầu ấy“. Vì thế, ngài cũng được chào kính như chi thể của Giáo Hội tối cao và độc nhất vô nhị, cũng như mẫu mực và gương sáng phi thường của Giáo Hội trên phương diện đức tin và đức ái. Và Giáo Hội Công Giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên ngài tình con thảo, như đối với một người Mẹ rất dấu yêu”[5] .
Công Đồng không gọi Mẹ là Mẹ Giáo Hội, nhưng tôn xưng Đức Maria là “Mẹ rất yêu dấu”, “Mẹ các chi thể”. Sau này, Chân Phước Phaolô VI tuyên xưng Mẹ là “Mẹ Giáo Hội, Mẹ của toàn dân Thiên Chúa, của các tín hữu cũng như Mẹ của các mục tử”[6] . Thật vậy, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội ( 60-65) đã trình bày những chiều kích khác nhau trong tương quan giữa Đức Maria và Giáo Hội.
Công Đồng nhấn mạnh chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người là Đức Kitô. Tuy nhiên, Đức Maria cũng cộng tác với Đức Kitô trong công cuộc cứu chuộc.
“Chúng ta chỉ có một Ðấng Trung Gian duy nhất, như lời Thánh Tông Ðồ dạy: “Thực vậy, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, và chỉ có một Ðấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa với nhân loại, đó là Chúa Giêsu Kitô, là Người đã dâng mình làm giá chuộc mọi người” (1Tm 2,5-6). Nhưng vai trò làm mẹ của Ðức Maria đối với loài người không làm lu mờ hay giảm bớt vai trò trung gian duy nhất của Chúa Kitô chút nào, trái lại còn làm sáng tỏ mãnh lực của sự trung gian ấy. Vì mọi ảnh hưởng có sức cứu rỗi của Ðức Nữ Trinh trên nhân loại không phát sinh từ một sự cần thiết khách thể nào, nhưng từ ý định nhân lành của Thiên Chúa, và bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa Kitô. Ảnh hưởng ấy nương tựa và hoàn toàn tùy thuộc vào sự trung gian của Chúa Kitô, nguồn mạch mọi quyền lực của ảnh hưởng đó. Nhưng ảnh hưởng này không làm cản trở gì, trái lại còn giúp đỡ các tín hữu kết hiệp trực tiếp với Chúa Kitô”[7] .
Điểm trọng tâm mà Công đồng lưu ý là việc Mẹ đã cộng tác quảng đại trong công trình của Thiên Chúa và là tôi tớ khiêm hạ của Người. Tính trung gian duy nhất của Ngôi Lời luôn mời gọi thụ tạo cộng tác vào chương trình cứu độ và tùy thuộc vào một nguồn mạch duy nhất. Trên bình diện ân sủng Mẹ là Mẹ của chúng ta: “Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong đền thánh và cùng đau khổ với Con mình chết trên thập giá, Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng, ngài thật là Mẹ chúng ta” [8] .
Ðức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm mẹ, ngay cả sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để chúng ta được cứu độ. Mẹ Đồng hành với Giáo Hội, chuyển cầu và bảo trợ Giáo Hội: “Với tình từ mẫu, Ngài chăm sóc những anh em của Con Ngài đang lữ hành trên dương thế và đang gặp bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời. Vì thế, trong Giáo Hội, Ðức Nữ Trinh được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng Trung Gian. Tuy nhiên phải hiểu các tước hiệu ấy thế nào để không thêm bớt gì vào vinh dự và quyền năng của Ðấng Trung Gian duy nhất… Vai trò tùy thuộc ấy của Ðức Maria, Giáo Hội không ngần ngại tuyên xưng, mà luôn nghiệm thấy, và nhắn nhủ các tín hữu ghi nhớ trong lòng để nhờ sự nâng đỡ và phù hộ từ mẫu của Ngài, họ gắn bó mật thiết hơn với Ðấng Trung Gian và Cứu Thế” [9] .
Theo thánh Ambrosiô, Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô. Đức Maria là hình ảnh, “typos” của Giáo Hội: “Trong mầu nhiệm Giáo Hội, chính Giáo Hội cũng được gọi cách hợp pháp là Mẹ và Trinh Nữ, Ðức Nữ Trinh Maria đi tiên phong, tỏ ra là một người Mẹ và một Trinh Nữ gương mẫu tuyệt vời và hiếm có”[10] .
Giáo Hội trở thành mẹ qua lời rao giảng và phép rửa. Nơi Đức Maria, Giáo Hội đạt tới sự hoàn thiện như thư gửi tín hữu Êphêxô viết: “Thanh sạch và vẹn tuyền” (Ep 5,27). Các tín hữu ngước trông lên Mẹ để noi gương Mẹ tiến bước trên con đường thánh thiện. Noi gương các nhân đức của Mẹ cũng chính là đào sâu mầu nhiện Nhập Thể và trở nên Đồng Hình Đồng Dạng với Đức Kitô.
Việc sùng kính Đức Maria dẫn đưa chúng ta đến với Đức Kitô. Khi các tín hữu nghe rao giảng về Đức Maria và tôn sùng Đức Maria, “họ được ngài mời gọi đến kết hiệp với hy lễ của Con Ngài và yêu mến Chúa Cha. Phần Giáo Hội càng tìm kiếm vinh quang Chúa Kitô càng nên giống Khuôn Mẫu cao cả của mình, nhờ luôn tiến tới trong đức tin, đức cậy, đức mến, và tìm kiếm cùng vâng theo thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự” [11] .
Kết luận
Có thể nói, với Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội, lần đầu tiên trong văn kiện của Giáo Hội, chiều kích Giáo Hội Học về Đức Thánh Trinh Nữ được tuyên bố cách long trọng và rõ nét: Đức Maria là Mẹ các tín hữu vì Mẹ đã cộng tác với Chúa Con trong công trình cứu độ, nên trên bình diện ân sủng Mẹ là hình ảnh, khuôn mẫu cho Giáo Hội trong việc đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Đức Maria luôn liên kết với Giáo Hội, với dân Thiên Chúa, với cộng đoàn Kitô hữu. Noi gương Đức Maria, cộng đoàn Giáo Hội và mọi chi thể trong thân mình Chúa Kitô được mời gọi canh tân đời sống. Cộng đoàn tín hữu phải canh tân theo khuôn mẫu cộng đoàn của Lễ Ngũ Tuần, cộng đoàn để cho Thần Khí thanh tẩy, thánh hóa, dẫn dắt; cộng đoàn luôn có sự hiện diện của Đức Maria.
Thiết nghĩ, bí mật của mọi nỗ lực canh tân trên những chiều kích khác nhau, từ đời sống nhân bản, tâm linh, đời sống thánh hiến hoặc đời sống mục vụ, cần phải trở về với kinh nghiệm của Lễ Ngũ Tuần, kinh nghiệm về thực tại đầy tràn Thần Khí mà mỗi cá nhân và các cộng đoàn đang sống, và đang được mời gọi để đào sâu hồng ân Thánh Thần và cộng tác với Thánh Thần, để Người canh tân, đổi mới chúng ta và cộng đoàn. Chắc chắn kinh nghiệm canh tân trong Thần Khí không thể bỏ quên chiều kích thánh mẫu học: cộng đoàn Giáo Hội liên kết với Đức Trinh Nữ Maria vì Mẹ là hình ảnh và là Mẹ hiền của Giáo Hội, là khuôn mẫu cho Giáo Hội.
[1] X. L. COZZARIN, Madre di Cristo e Degli Uomini, Padova 1999, tr. 50.
[2] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội, số 59.
[3] Công Đồng đã trích dẫn câu Kinh Thánh này ngay trong số thứ nhất của chương VIII của Hiến Chế Lumen Gentium.
[4] L. COZZARIN, Madre di Cristo e Degli Uomini, Padova 1999, tr. 51.
[5] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội, số 53.
[6] L. COZZARIN, Madre di Cristo e degli uomini, Padova 1999, tr. 18.
[7] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội, số 60.
[8] Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 61.
[9] Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 62.
[10] Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 63.
[11] Công Đồng Vaticanô II, Sđd , số 65.
VƯỢT QUA
BIÊN CƯƠNG HỮU HÌNH
CỦA GIÁO HỘI
FM. Theophan Phạm Hữu Ái
Giáo Hội là “Dân tộc mới”, là Dân Thiên Chúa, đang trên đường lữ thứ tiến về Quê Trời[1] . Vì thế, Giáo Hội vừa hữu hình, vừa vô hình và chúng ta chỉ thực sự hiểu được khi “Vượt qua biên cương hữu hình của Giáo Hội” để đụng chạm đến chiều kích vô hình, là chiều kích chính yếu tạo nên bản chất của Giáo Hội. Đây là chiều kích căn bản đã được Công Đồng Vaticanô II triển khai trong chương I, Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân.
Xét về lý, trên bình diện “hiện tượng học”, “vượt qua biên cương hữu hình” không thể dừng lại ở việc ‘soi’ vào cơ cấu, cấu trúc hay ngay cả bản chất. Bởi lẽ, bên kia “Biên cương hữu hình của Giáo Hội” là một thực tại vượt lên trên mọi khả năng của con người; nó cũng không thể ‘mô tả’ theo phương pháp hiện tượng học để trở về với “sự vật như chính là sự vật”, vì cần phải có kinh nghiệm thiêng liêng. Tự mình, chúng ta có thể có kinh nghiệm thiêng liêng hay không? Kant cho biết: Nơi con người chỉ có trực giác cảm giác. Khả năng duy nhất của trực giác này nằm trong lãnh vực của hiện tượng và biết được những gì thuộc về hiện tượng, chứ không thể nào biết “vật tự thân”. Mặc dù không biết được “vật tự thân”, nhưng Kant tin là “có”, vì ông thấy được hiện tượng của nó.
Thấy được hiện tượng để đi đến khẳng định là có “vật tự thân” cũng chỉ mới dừng lại ở chỗ “hợp lý”. Từ hợp lý đến thực tại là cả một con đường không hề ngắn và không phải lúc nào cũng đạt tới đích, nhất là “cái bên kia” biên cương hữu hình của một thực tại mà Công đồng Vaticanô II gọi là “mầu nhiệm Giáo Hội”. Thế mà nơi mầu nhiệm Giáo Hội, giữa hữu hình và vô hình không hề có ranh giới: Vô hình nằm ngay trong hữu hình; hữu hình ở trong vô hình thì làm gì có biên cương để mà vượt. Cả hai trở thành một thực thể không thể phân tách. Như vậy, chúng ta có thể đề cập đến “cái bên kia ấy” là gì không? Có thể sử dụng hạn từ “vượt qua” để “thấu hiểu”, để “ngộ” được điều đó không? Và bằng cách nào?
1. Bên kia “biên cương hữu hình của Giáo Hội”
Thánh Công đồng Vaticanô II, trong Hiến Chế Tín Lý đã trình bày Giáo Hội phát xuất từ ý định của Chúa Cha, một “ý định khôn ngoan nhân lành, hoàn toàn tự do và mầu nhiệm”[2] . Với ý định đó, “Chúa Cha hằng hữu đã tạo dựng vũ trụ: Ngài đã quyết định nâng loài người lên tham dự đời sống thần linh và Ngài đã không từ bỏ con người sa ngã trong Adam, nhưng luôn ban sự trợ giúp để họ được cứu rỗi, nhờ Chúa Kitô…Thế nên Chúa Cha muốn qui tụ những ai tin kính Chúa Kitô vào trong Giáo Hội”[3] . Ý định này đã được Đức Kitô thực hiện khi Ngài vâng phục Chúa Cha đến trần gian với sứ mạng cứu độ nhân loại, đồng thời khai sinh ra Giáo Hội từ nước và máu nơi cạnh sườn của Ngài để làm cho Giáo Hội trở nên bí tích cứu độ[4] . “Khi công trình của Chúa Cha trao phó cho Chúa Con trên trần gian đã được hoàn tất”, Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến để tiếp tục công trình đó bằng cách ban ơn thánh hoá và Ngài chính là hồn sống của Giáo Hội. Trong tư cách là thần chân lý, Ngài đã soi sáng, dẫn dắt con người đến cùng Chúa Cha; “nhờ sức mạnh Phúc Âm, Ngài làm tươi trẻ, không ngừng canh tân và dẫn đưa Giáo Hội đến kết hợp hoàn toàn với Phu Quân mình”[5] . “Như thế, Giáo Hội phổ quát xuất hiện như “một dân tộc được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”[6] .
Dân tộc ấy là gì? Và có thể tách biệt vô hình ra khỏi hữu hình không? Rõ ràng là không thể được. Vì thế, Tin Mừng không hề đưa ra một câu định nghĩa nào về Nước Thiên Chúa, nhưng chỉ trình bày bằng những hình ảnh như là hạt giống gieo vào lòng đất (x. Mc 4,14); chuồng chiên (x. Ga 10,1-10); Thửa ruộng hay toà nhà của Thiên Chúa (x. 1 Cor 3,9); hoặc Thành thánh Giêrusalem trên trời (x. Gl 4,6; Kh 12,7)… “Nhưng trước tiên, Nước ấy được biểu lộ trong chính bản thân Chúa Kitô, Con Thiên Chúa và Con loài người”[7] .
Vì không thể tách biệt vô hình với hữu hình, nên có rất nhiều ngộ nhận. Những ngộ nhận đến từ những người ngoài Giáo Hội và ngay cả hiện hữu nơi con cái của mình. Những ngộ nhận đó đã xảy ra, đang xảy ra và sẽ xảy đến. Kết quả là hình ảnh của Giáo Hội được nhìn nhận và đánh giá rất phiến diện và méo mó. Sở dĩ đã xảy ra một thực tế đau lòng như thế là vì sự “vô minh” và tham vọng của con người muốn “vượt qua biên cương hữu hình của Giáo Hội” theo nghĩa là nắm bắt như một đối tượng. Nếu vậy, chúng ta không thể “vượt qua” biên cương hữu hình của Giáo Hội để “ngộ” ra được thực tại vô hình sao?
2. Có thể “vượt qua” không?
Suy tư thần học về các mầu nhiệm luôn luôn là suy tư theo thần học phủ định, nghĩa là vừa khẳng định, vừa phủ định. Khẳng định là để cho con người hiểu một phần nào, nhưng điều mà con người hiểu được phần nào đó lại không phải hoàn toàn như vậy. Trong thực tế khi trình bày sự tốt lành của Thiên Chúa, người ta thường nói: Thiên Chúa là chân – thiện – mỹ; đồng thời lại phủ định ngay tức khắc: Thiên Chúa là chân – thiện – mỹ nhưng không phải như quan niệm của tôi. Tôi là hữu thể hữu hạn mà có thể “hiểu” được Thiên Chúa trong tầm mức của tôi, thì hoá ra Thiên Chúa ngang bằng tôi sao?
Cũng thế, Giáo Hội vừa là hữu hình, vừa vô hình, không hề có đường biên cương giữa hai thực tại này. Chúng ta nhận ra Giáo Hội vô hình ngay trong Giáo Hội hữu hình, nhưng “hữu hình” này không phải là “hiện tượng” như quan niệm của Kant; trái lại, hữu hình đó cũng chính là vô hình và vô hình được thể hiện nơi hữu hình trong một thực tại sự sống, tiến triển trong không gian và thời gian, trên đường lữ thứ về Quê Trời. Nếu không thể phân tách ra được thì làm gì có “vùng biên cương” để vượt qua? Vả lại, Công Đồng Vaticanô II, khi trình bày về Giáo Hội đã nhắc đến cụm từ “mầu nhiệm Giáo Hội”. Giáo Hội là mầu nhiệm, nên chúng ta không thể diễn tả Giáo Hội bằng ngôn ngữ khẳng định, nhưng phải suy tư dưới nhãn giới của thần học phủ định. Điều ấy cho thấy, với cái nhìn của lý trí và ngôn ngữ của con người thì không thể nào “ngộ” ra chiều kích vô hình trong hữu hình được mà phải cần đến một khả năng khác đó là trực giác. Theo triết gia Henri Bergson, trực giác này là trực giác tôn giáo. Một thứ trực giác thần bí nơi những con người có kinh nghiệm thần bí như thánh Gioan Thánh Giá, thánh Têrêxa Avila… Mặc dầu trong quan niệm của mình, Bergson đã đồng hoá kinh nghiệm triết học với kinh nghiệm của các nhà thần bí, nhưng dầu sao nó cũng cho chúng ta nhận thấy một vấn đề: Mầu nhiệm Giáo Hội là một thực tại sống, một đà sống (Vì Chúa Thánh Thần là hồn sống của Giáo Hội) chứ không phải là một cơ cấu cứng ngắc và hình thức như một tổ chức trần thế, nên phải được đón nhận bằng “trực giác tôn giáo”. Trực giác này không phải là kết quả suy tư của Bergson, nhưng rút ra từ những quan sát thực tế nơi những con người có kinh nghiệm thần bí.
Kinh nghiệm thần bí là kinh nghiệm của một người đã đạt tới sự chứng nghiệm trong đức tin. Mức độ cao nhất của chứng nghiệm này là mức độ thần hoá). Cấp độ thứ 4 trong 4 cấp độ của tình yêu trong khảo luận “Tình yêu Thiên Chúa”. Ở mức độ đó, con người như hoà tan trong Chúa, chẳng khác nào giọt nước hoà tan trong thùng rượu, đến nỗi không thể nhận ra đâu là nước, đâu là rượu. Nơi mức độ này, chúng ta thực sự đang “ở trong Chúa” và “Chúa ở trong” chúng ta, như thánh Gioan đã diễn tả trong “Cây nho thật” (x. Ga 15,1-17). Chúng ta được “ở trong” Chúa nhờ được nối kết với thân nho là Đức Kitô. Trong thân nho, sự sống của Chúa ở trong chúng ta và chúng ta được ở trong sự sống của Chúa. Lúc đó, chúng ta “ngộ” ra được thực tại vô hình ngay trong hữu hình; và nhận ra những thực thể hữu hình của Giáo Hội cũng chính là những thực tại vô hình, mà khi đón nhận nó thì Giáo Hội chính là bí tích cứu độ mà Thiên Chúa muốn thiết lập vì chúng ta. Đây là con đường giúp cho chúng ta “vượt qua”. Con đường đó còn được gọi là con đường hiệp thông.
3. Hiệp thông, con đường “vượt qua biên cương hữu hình của Giáo Hội”
Hiệp thông là từ ngữ thuần tuý Kitô giáo, không có trong “Từ điển tiếng Việt”, được dịch từ Koinonia [Hy-lạp] và Communio [La-tinh]. Theo nguyên ngữ, Koinonia phát xuất từ chữ koinos, diễn tả việc nhiều người cùng chia sẻ với nhau về một điều gì đó. Communio, có nguồn gốc từ communis, được cấu tạo từ chữ “cum” và “munis”, một tính từ xuất phát bởi chữ “munus” và cũng có nghĩa là cùng tham gia một công việc. Như thế, nếu lược bỏ mọi sắc thái tầm thường mà từ ngữ có thể gợi ra, thì koinonia và communio có thể diễn tả một phần nội dung của khái niệm hiệp thông trong Kitô giáo.
Trong tiếng Việt, khái niệm hiệp thông có một ý nghĩa rất thâm sâu vì nó vừa là “hiệp nhất”: nên một, cùng chung; nhưng có “thông” từ bên trong như dòng nhựa sống luân chuyển trong thân cây và cành cây; như sự sống từ mẹ qua thai nhi và từ thai nhi qua người mẹ. Vì là “nên một” và “thông từ bên trong” nên khi sống hiệp thông với Giáo Hội chúng ta vừa đồng thời “ở trong” và “ở lại” trong Giáo Hội, giống như chúng ta được “ở trong” và “ở lại” trong Chúa Kitô khi thông hiệp nơi bàn tiệc Thánh Thể (x. Ga 6,50; 15, 1-17). Một khi “ở trong”, “ở lại” là chúng ta “ở trong”, “ở lại” nơi một “toàn thể” (Giáo Hội vừa là hữu hình và vô hình, không phân tách), nghĩa là không phân tách “hữu hình”, “vô hình”, và lúc đó chúng ta “đụng chạm” tới vô hình ngay trong hữu hình. Nói cách khác, khi sống hiệp thông là được “ở trong”, “ở lại” trong chính sự sống Chúa Ba Ngôi, là nguyên uỷ và là sự sống của Giáo Hội hữu hình.
Vì hiệp thông là được “ở trong” sự sống Chúa Ba Ngôi, nên cánh cửa để bước vào sự thông hiệp này theo Đức Phanxicô trong Tự Sắc “Porta Fidei” [Cánh Cửa Đức Tin] chính là đức tin. Thế nhưng, với Đức Benedicto XVI, Cựu Ước và Tân Ước không đề cập đến “tin có” mà chỉ nói là “tin vào”, vì chỉ có người ngu mới bảo không có Thiên Chúa (x. Tv 13,1). Tin có Thiên Chúa là điều hiển nhiên (x. Rm 1,19). Kiểu nói “tin vào” Chúa hàm ẩn cả ba nhân đức đối thần: Tin – Cậy – Mến. Ba nhân đức này như quyện vào nhau nơi hành động “tin vào”. Đây là ba khả năng mà mỗi người nhận lãnh qua bí tích Thanh Tẩy để trở nên con cái Thiên Chúa. Nhờ “tin vào” mà con người “vâng phục” Thiên Chúa để dấn thân cho Ngài , nhưng chúng ta chỉ có thể dấn thân [8] “hết mình” khi có một tình yêu mãnh liệt, và từ đó trở nên hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa. Như thế, “tin vào” đưa ta đến một sự gặp gỡ để nên một với Thiên Chúa, nguồn sự sống và tình yêu.
Theo thư thứ nhất của thánh Gioan (x. Ga 1,3): Khởi điểm cuộc gặp gỡ này là “gặp gỡ với Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đến với con người – nam cũng như nữ – thông qua lời rao giảng của Giáo Hội. Từ đó sẽ làm phát sinh sự hiệp thông giữa con người với nhau, và chính sự hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi” [9] . Cuộc gặp gỡ với Đức Kitô là gặp gỡ trong sự sống và trong tình yêu và được thể hiện rõ nét trong mầu nhiệm Giáo Hội.
Với hình ảnh thứ nhất, Giáo Hội được trình bày như là thân mình của Đức Kitô (x. 1Cr 12), trong đó mọi chi thể đều quy về đầu và về với nhau; các chi thể có cùng một sự sống với thân mình. Ngược lại, sự sống toàn thân là sự sống của từng chi thể. Mỗi chi thể liên kết với tất cả các chi thể khác trong cùng một sự sống của toàn thân và được “ở trong” sự sống, cũng như trong từng chi thể.
Hình ảnh thứ hai sánh ví Giáo Hội như cây nho và cành nho (x. Ga 15, 1-17). Hình ảnh này không chỉ diễn tả sự thông hiệp ngay chính trong sự sống, mà Đức Giêsu còn chuyển qua sự hiệp thông trong tình yêu. Thế mà, nơi Thiên Chúa, tình yêu cũng chính là sự sống, vì bản tính của Thiên Chúa là tình yêu (x. 1Ga 4, 8.16). Đây là tình yêu agape, tình yêu như “Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu anh em” (Ga 15, 12). Nói đến sự sống và tình yêu thì không thể nói đến từ “thông”, vì bản tính của tình yêu và sự sống luôn luôn “bởi” và “cho”. Chính vì đó mà tình yêu và sự sống không bao giờ chấp nhận sự tắc nghẽn; trái lại, luôn trao ban, thông cho nhau sự sống, tình yêu và làm cho toàn thân càng ngày, càng phong nhiêu và luôn sống động cùng với toàn thân.
4. Thực hiện sự hiệp thông trong Giáo Hội
Toàn thân chỉ phong phú khi có sự sống sung mãn. Sự sống chỉ sung mãn khi và chỉ khi tất cả các chi thể cùng hướng về một mục đích. Mục đích của Giáo Hội là gì nếu không phải là để làm vinh danh Chúa Cha (x. Ga 15,8; 1Cr 10, 31). Thế mà, Giáo Hội phát xuất từ Chúa Ba Ngôi, nên để Giáo Hội có một sự sống sung mãn, cần phải thực hiện con đường hiệp thông trong Giáo Hội. Con đường hiệp thông ấy trước hết phải là con đường hiệp thông với sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Đó là sự sống mà chúng ta đã lãnh nhận được khi chịu bí tích Thanh Tẩy. Nhờ sự sống này, mỗi người được tham dự vào bản tính Thiên Chúa và được gọi Ngài là “Abba, Cha ơi” (x. Rm 8,15). Một cách thiết thực, chúng ta nhận được sự sống Ba Ngôi bởi và qua Chúa Con. Như thế, để thông hiệp với sự sống Ba Ngôi, phải khởi đi từ sự thông hiệp với Chúa Giêsu. Một Chúa Giêsu đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể để cho chúng ta được thông hiệp với Thiên Chúa trong chính thân mình của Ngài. Bởi đó, không có con đường nào thiết thực, chắc chắn và ngắn nhất ngoài con đường Đức Giêsu đã vạch ra: Con đường “hiện diện, hiến tế và hiệp thông”.
Nơi bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện với, cho và vì chúng ta. Ngài hiện diện để chúng ta được thông hiệp với sự sống và tình yêu của Ngài, và để sự sống, tình yêu đó thấm nhập, tràn đầy trong chúng ta. Do đó, qua bí tích Thánh Thể chúng ta thực hiện một sự hiện diện bằng việc “ở lại”, “ở trong” qua việc lắng nghe, vâng phục và thực hành giáo huấn của Giáo Hội để có thể đồng cảm, đồng nhịp và đồng tâm với nhịp bước của Giáo Hội hữu hình trên con đường lữ thứ.
Một khi đã đồng cảm, đồng tâm, chắc chắn sẽ tiến tới đồng hướng. Hướng đi ấy không gì khác hơn là làm vinh danh Thiên Chúa nhờ được cụ thể hoá qua việc hiến tế của Chúa Giêsu, nên hiến tế nằm trong hướng đi của những ai muốn sống trọn vẹn chiều kích hiệp thông với Giáo Hội. Nó được thể hiện qua việc trở nên nghèo; nghèo để cho người khác được giàu như Chúa Giêsu (x. 2Cr 8,9); nghèo để trở nên “của nuôi” cho tha nhân. Cái nghèo này biến người thông hiệp trở thành một hữu thể luôn sống với những thao thức của Giáo Hội: là bí tích cứu độ.
Cuối cùng, thực hiện con đường hiệp thông được hoàn tất qua việc sống ý nghĩa hiệp thông. Một ý nghĩa được diễn tả tròn đầy trong 1Ga 1,1: “Điều vẫn có ngay từ đầu; điều chúng tôi đã nghe; điều chúng tôi đã thấy tận mắt; điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến; đó là Lời hằng sống”. Chạm đến Lời hằng sống là đụng chạm đến tình yêu, đụng chạm đến chính “sự sống” của Giáo Hội, và đây là cái “chạm” của cảm nghiệm giữa tình yêu với tình yêu đã được thánh Phaolô diễn tả qua xác tín của ngài: “Tôi sống mà không phải tôi, nhưng Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Nhưng xác tín này chỉ thực sự trọn vẹn khi “sống trong niềm tin vào Đấng đã yêu tôi và phó nộp mình vì tôi” (Gl 2,20). Đó là sự tròn đầy của con đường hiệp thông: hoàn toàn hoà quyện vào sự sống của Đức Kitô trong đức mến.
Kết luận
“Vượt qua biên cương hữu hình Giáo Hội” để khám phá ra thực tại vô hình là sự sống Chúa Ba Ngôi, là một lời mời gọi đối với tất cả những anh chị em đan sĩ Hội Dòng Xitô Thánh Gia trong những năm chuẩn bị Bách Chu Niên, ngày cha Tổ Phụ khai mạc đời sống đan tu tại Núi Phước. Sở dĩ cần phải khám lại là để mỗi người được đồng hành với Giáo Hội trong năm thánh ân phúc của Hội Dòng. Việc làm này rất thiết thực và hữu ích vì giúp cho chúng ta có được một sự chuẩn bị trong tâm hồn để sống hiệp thông với Chúa Ba Ngôi trong lòng Giáo Hội; và với Giáo Hội, mỗi anh chị em hiệp nhất để tiến tới thông hiệp trong cùng một sự sống và một tình yêu.
Để thực hiện vượt qua này không chỉ cần một xác tín, một sự can đảm nhưng cần phải xác định một hướng đi, vì Giáo Hội vô hình và hữu hình không hề có làn ranh giới vật lý. Vì thế, vượt qua ở đây không phải là vượt qua thể lý hay ngay cả siêu hình, nhưng là chính là sự hiệp thông trong sự sống để tiến tới sự hiệp thông trọn vẹn nơi thành Giêrusalem trên trời. Đó là trọng tâm trong lời mời gọi “Vượt qua biên cương hữu hình của Giáo Hội” để mỗi anh chị em kiếm tìm phương thế thực hiện theo hoàn cảnh và khả năng giới hạn của mình. Phương thế ấy cũng tuỳ thuộc vào cơ duyên và tình yêu của mỗi người đối với Hội Dòng và với Giáo Hội.
[1] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế “Ánh Sáng Muôn Dân”, số 9.
[2] Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 2.
[3] Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 2.
[4] X. Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 3.
[5] Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 3.
[6] Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 4.
[7] Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 5.
[8] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Mạc Khải Của Thiên Chúa, số 5.
[9] Lm. Phêrô Trần Văn Hội, Giáo Hội-Mầu Nhiệm Hiệp Thông Theo Công Đồng Vaticano II, nguồn:http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2009/02GiaoHoiMauNhiemHiepThong.htm.
DẤU CHỨNG TÌNH CHÚA
VÀ TÌNH NGƯỜI
Sr. M. Vinh Sơn Nguyễn Thị Chung
Với tựa đề ‘Dấu chứng Tình Chúa và tình người’, người viết liên tưởng đến một mối tương quan ‘kép’ mà Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã đề cập trong Thông điệp Deus Caritas Est: “Đó là mối dây liên kết bất khả phân ly của tình mến Chúa yêu người. Cả hai lệ thuộc vào nhau, đến độ lời quả quyết yêu thương Thiên Chúa sẽ trở thành dối trá, khi con người đóng kín tâm hồn mình lại trước tha nhân hay thù ghét họ. Bởi vì, yêu người là một con đường dẫn đến gặp gỡ Thiên Chúa, và quay lưng lại với tha nhân sẽ làm cho chúng ta ra mù loà không gặp được Người”[1] .
Đó cũng là giới răn kép: mến Chúa và yêu người (x. Đnl 6,4-5; x. Mc 12,29-31) mà Thiên Chúa đã truyền dạy. Hơn ai hết, chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa tự nguyện xuống thế làm người đã thực hiện cách trọn vẹn bài học tình yêu này, với đỉnh cao là cái chết trên thập giá (x. Pl 2,5-11). Do đó, Chúa Giêsu chính là mẫu gương về tình yêu mà Ngài dành cho Thiên Chúa Cha và con người. Đáp lại tình yêu ấy, có biết bao người đã/ đang và sẽ còn tiếp tục họa lại con đường của Thầy Giêsu đã đi để trở nên dấu chứng về tình thương của Thiên Chúa và tình bác ái đối với tha nhân. Trong đó, Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận – Đấng Sáng Lập Hội Dòng Xitô Thánh Gia là một trong những dấu chứng sống động về tình Chúa và tình người. Đó cũng là những gì người viết muốn trình bày.
1. Chúa Giêsu: thể hiện tình Chúa và tình người
Nếu tình yêu là một cái gì thiêng liêng, trừu tượng, mà con người không thể nhìn thấy bằng đôi mắt thể lý, cũng như không thể hiểu thấu bằng lý trí của mình, đến nỗi thi sĩ Xuân Diệu phải thốt lên: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”[2] , thì việc con người không thể nhìn thấy hay hiểu thấu Thiên Chúa là chuyện đương nhiên. Do đó, trong Thông điệp Deus Caritas Est, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI cũng đặt vấn đề: “Chúng ta có thật sự yêu được Thiên Chúa, Đấng là chúng ta không thể thấy, và người ta có thể đòi buộc tình yêu hay không?”[3] . Chúng ta vẫn thường nói “vô tri bất mộ”, không biết thì không thể yêu. Tuy nhiên, vì con mắt thể lý của chúng ta chưa nhìn thấy Thiên Chúa như chính Người “là”, nên Thiên Chúa đã ban chính Con Một của mình (x. Ga 3,16), để qua Người Con ấy mà thế gian nhận biết Người, một Thiên Chúa nhân hậu và giàu tình thương. Chính vì thế, trong Tông sắc Misericordiae Vultus, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã khẳng định: “Chúa Giêsu Kitô là dung nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha… Vì trong Chúa Giêsu thành Nazareth, lòng thương xót của Thiên Chúa trở nên sống động, rõ ràng”[4] . Chúa Giêsu là Đấng thể hiện tình yêu tự hiến mà Thiên Chúa dành cho loài người. Như vậy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã trở nên hữu hình để chúng ta có thể chiêm ngắm và đụng chạm được Người: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Đó cũng là điều mà thánh Gioan xác tín: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8). Nói cách khác, Thiên Chúa và tình yêu là một. Đặc biệt qua mầu nhiệm thập giá, chúng ta càng nhận ra độ dài – rộng – cao – sâu của một tình yêu đã cho đi tất cả; đến độ Ngài đã tự hiến chính bản thân mình cho họ, “để trở nên mẫu mực cho tình yêu cao ngất và cũng là cao nhất trên đời. Từ đó ta nhận ra không có danh xưng nào áp dụng tương thích với tấm lòng của Thiên Chúa bằng danh xưng Tình Yêu”[5] . Vậy khi nói Chúa Giêsu là Đấng thể hiện về tình yêu của Thiên Chúa: một Thiên Chúa bao dung nhân hậu, mặc lấy bản tính con người trong thân phận phàm nhân để ở với, ở cùng và để chia sẻ thân phận yếu đuối mỏng giòn của chúng ta.
Tình yêu Đức Giêsu dành cho Chúa Cha, chính là tình yêu vâng phục đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập giá. Chính nơi Thập giá, Chúa Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tình yêu Ngài dành cho Thiên Chúa và con người. Ngài yêu mến và vâng lời Cha đến nỗi thi hành mọi điều Cha truyền dạy: “Này con đến để thi hành ý Cha” (x.Tv 39,8). Ngài yêu thương nhân loại đến nỗi sẵn sàng hiến tế chính bản thân mình để làm giá cứu chuộc: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15,13). Như thế nơi Thập giá, tình yêu Đức Giêsu dành cho Thiên Chúa và cho con người được hòa quyện với nhau, bởi “tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân đã thực sự kết hợp lại với nhau”[6] . Cho nên, cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là biểu thức cao cả nhất của tình yêu Ngài dành cho Chúa Cha (x. Ga 14,31), và cũng là chóp đỉnh của tình yêu của Ngài đối với nhân loại (x. Ga 13,1). Điều đó cho thấy: “Tấm lòng của Đấng Cứu Thế vừa hiến mình vuông tròn làm của lễ đẹp ý Chúa Cha, vừa tự hiến trọn vẹn thân mình đến chết vì phần rỗi của hết mọi người”[7] .
Chúa Giêsu Kitô chính là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại (x. Ga 3,16); một tình yêu rộng mở, không loại trừ. Tình yêu Ngài luôn dành ưu tiên cho những người nghèo, người ốm đau, tội lỗi, những người bị đẩy ra bên lề của xã hội. Ngài yêu họ bằng một tình yêu hoàn toàn nhưng không. Ngài luôn đi bước trước và không chờ đợi được đáp trả, vì “Ngài chính là tình yêu” (x. 1Ga 4,16). Điều đó cho thấy: “Chân lý này có thể được nhìn ngắm. Và cũng từ đó có thể định nghĩa tình yêu là gì. Từ cái nhìn này, người Kitô hữu tìm được con đường để sống và để yêu”[8] .
Như vậy, “Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với nhân loại được kết hợp lại với nhau: trong những người bé mọn nhất, chúng ta sẽ gặp gỡ chính Đức Giêsu và trong Đức Giêsu chúng ta sẽ gặp gỡ Thiên Chúa”[9] . Đó cũng chính là điều cha Biển Đức Thuận đã thao thức và thể hiện một cách trọn vẹn trong suốt cuộc đời của mình.
2. Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận:Dấu chứng sống động về tình Chúa và tình người
Khi nói về cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, là con cái của ngài, người viết có thể khẳng định: tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân đã thực sự kết hợp lại với nhau trong chính con người và cuộc sống của ngài. Một cuộc sống luôn chìm sâu trong Chúa, nên ngài có một sự nhạy cảm tinh tế trước Tình Chúa và tình yêu tha nhân. Đó cũng là động lực giúp ngài tìm thấy con đường Chúa muốn ngài đi, khi gieo vào lòng ngài sự ước ao lập dòng chiêm niệm, để hướng về Giáo Hội trong sự hài hòa giữa bầu khí cô tịch và thinh lặng, để âm thầm cầu nguyện và hoan hỉ hi sinh, cầu cho những người chưa nhận biết Chúa[10] . Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận lấy lòng mến Chúa làm trung tâm, lấy tình bác ái huynh đệ, sự từ bỏ theo tinh thần Phúc Âm làm quy luật sống, với ước nguyện lớn lao tất cả cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội và các linh hồn. Bằng một tâm hồn nhạy cảm thánh đức, ngài muốn dấn bước theo Chúa bằng cách thi hành trọn vẹn thánh ý Người. Vì thế, châm ngôn của ngài luôn là “thánh ý Chúa”. Từ đó, ngài làm tất cả mọi việc do tình yêu thúc đẩy qua việc “chết đi” cho ý riêng để ý Chúa được thể hiện từng ngày trong cuộc sống của mình.
Càng dấn bước vào con đường tình yêu của Chúa, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận càng hiểu được quy luật của tình yêu ấy, nên ngài luôn vâng theo ý Chúa cả những lúc vui, lúc buồn, khi thành công hay thất bại, với một tấm lòng tín thác: “Chúa cho chúng tôi vui, chúng tôi cũng vâng; Chúa để chúng tôi buồn, chúng tôi cũng dạ; Chúa cho gặp những gì trái ý nghịch lòng cũng đón nhận. Dẫu phải làm những điều khốn cực lắm, cũng xin vâng hết thảy” (DN, số 134). Bởi vì ngài luôn tâm niệm một điều: “Mọi sự thế gian đều chóng qua, vô lối hết thảy, chỉ có một điều quan trọng nhất là kính mến Thiên Chúa và phụng sự một mình Người mà thôi” (DN, số 107).
Tình yêu của ngài đối với Thiên Chúa được chứng thực bằng tình yêu thương ngài dành cho anh em; hai chiều ngang – dọc này không thể tách rời nhau. Cho nên, ngài đã khẳng định: “Muốn biết chúng tôi có kính mến Chúa hay không, hãy xét coi chúng tôi có yêu thương anh em không. Sự kính mến Chúa không biết có chắc không, còn sự thương anh em thì dấu chắc chúng tôi có lòng kính mến Chúa” (DN, số 112)[11] . Tình yêu của ngài đối với anh em vừa thể hiện tình phụ tử, vừa như người mục tử biết rõ sức khỏe từng con chiên nên không thúc chúng đi quá nhanh trong một ngày[12] . Ngài biết rõ những yếu đuối và cả sự cố gắng của từng anh em: “Chúng ta chớ ngã lòng, cứ gắng vì chúng ta như trẻ con, nhẹ tính, nhẹ dạ. Chúa cũng không chấp cho lắm” (DN, số 137). Nhờ tình yêu, ngài biết “điều hoà mọi sự sao cho người mạnh còn muốn làm thêm và kẻ yếu không lẩn trốn”[13] .
Nhưng có lúc ngài cũng sửa dạy để anh em đi vào khuôn khổ và nề nếp của đời đan tu: “Chớ có ai nói rằng tôi không có tính xấu, chớ nói rằng bề trên nói những lời ấy cho ai chứ tôi có đâu… chúng ta có tính xấu, chúng ta kiêu ngạo, chúng ta chớ nói không có. Bề trên cũng phải lo sự ấy, anh em cũng phải giúp nhau trong sự ấy là làm gương tốt cho nhau. Khi thấy anh em lỗi Luật rõ ràng thì phải giúp nhau hoặc thưa với bề trên” (DN, số 138). Điều này chính thánh Gioan Tông đồ cũng đã nói: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta” (1Ga 1,8-9). Những lúc sửa dạy anh em, ngài chỉ nhắm đến việc chữa trị căn bệnh linh hồn cho anh em (x.HT, tr 193), và giúp anh em tấn tới trên đường nhân đức, bằng tất cả thiện chí và cố gắng của mình: “Chúng ta hãy ra sức nên thầy dòng thật, chẳng những lúc khỏe mạnh mà cả những lúc đau ốm nữa” (DN, số 127).
Ngoài tình phụ tử, tình yêu của ngài còn thể hiện tình mẫu tử với sự dịu dàng, tế nhị, luôn lưu tâm đến nhu cầu của người khác. Trong thư gửi cho bà kế mẫu, ngài viết: “Con đã cho một người bổn đạo đi Huế học bếp Tây, kẻo cha phó mới không chịu nổi bếp Việt Nam của con, lại là bếp Việt Nam nghèo túng” (DN, số 15). Với anh em đau ốm, ngài hết sức lưu tâm và lo lắng tận tình, luôn ân cần săn sóc: “Người nghèo lo cho cha mẹ lâm bệnh thế nào, thì chúng ta cũng lo cho anh em đau ốm như vậy…tận tình phục vụ bệnh nhân như phục vụ chính Chúa Kitô” (DN.95). Mặc dù hết sức lo lắng cho anh em, nhưng ngài vẫn chưa lấy làm đủ. Câu chuyện của thầy Leo cho thấy tinh thần phục vụ của ngài chu đáo, tế nhị như hiền mẫu: “Thầy Leo Phòng quê ở Búng, đau nặng, cha đã hết sức lo lắng thuốc men, cơm cháo, thế mà khi thầy qua đời, ngài cứ phàn nàn: cha săn sóc cho anh Leo chúng tôi chưa đủ, cha buồn lắm. Cha dốc lòng về sau ai đau nặng thì lo lắng tận tình hơn” (HT, tr 193).
Có thể nói, tình yêu của ngài dành cho anh em là một tình yêu trong sáng, khiêm tốn và quảng đại. Ngài yêu anh em bằng trái tim rộng mở và phổ quát của Thiên Chúa: yêu anh em và mọi người tới mức quên đi chính mình, sẵn sàng chịu thiệt thòi vì lợi ích của anh em. (x. HT, tr 193). Đó là một tình yêu họa lại từ tình yêu mà Chúa Kitô đã thể hiện cho nhân loại: tình yêu luôn quên mình, sẵn sàng phục vụ và hy sinh tính mạng vì anh em mình, hầu “trở nên mọi sự cho mọi người” (1Cr 9,22). Tìm hiểu về cha Tổ Phụ, chúng ta nhận ra cuộc sống của ngài đã họa lại cuộc đời của Đức Kitô cách trung thực và sống động: khi còn ở Nước Mặn, có nhiều người đến xin, và ngài vẫn sẵn lòng chia sẻ cho họ, đến nỗi phải mang nợ vì làm việc bác ái[14] . Điều này, ngài đã học được từ tình yêu của Chúa Giêsu, Đấng luôn kiên nhẫn chờ đợi để thi ân và giáng phúc, cho dù họ cứ mãi quấy rầy (x. Lc 11,5-8).
Qua những con người nghèo khổ ấy, cha Tổ Phụ đã khám phá ra một điều: Thiên Chúa yêu tha nhân qua bản thân ngài. Chúa muốn ngài là tay – mắt – tim – lòng của Chúa để qua ngài, Chúa thi thố tình thương cho họ. Do đó, ngài sẵn sàng phục vụ anh em bằng tất cả con người của mình, theo gương Chúa Giêsu: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Càng sống mật thiết với Thiên Chúa, cha Tổ Phụ càng có nhiều sáng kiến trong tình yêu để chia sẻ và giúp đỡ anh em cả trên bình diện thiêng liêng lẫn vật chất. Ngài làm những công việc tầm thường, hèn hạ như: Gánh đá, gánh vôi, cưa gỗ, rửa chén bát, giúp bàn, giúp bếp …bất luận việc chi, hễ anh em làm là không bao giờ cha bỏ. (x. HT, tr 190-191).
Đó là một tấm gương phục vụ tuyệt vời mà chỉ những ai có tình mến Chúa và tình yêu anh em thì mới thực sự làm được. Tinh thần phục vụ của ngài không chỉ thể hiện rõ nét khi sống đời đan sĩ mà ngay khi còn là giáo sư ở chủng viện An Ninh (x. HT, tr 41) và làm cha sở ở giáo xứ Nước Mặn (x. HT, tr 51-52); ngài đã thể hiện tinh thần dấn thân phục vụ ấy một cách hăng say, nhiệt tâm.
Qua tấm gương phục vụ của ngài, giúp ta nhận ra một điều quan trọng: Phục vụ chính là chìa khóa vạn năng để mở các mối tương giao. Nhờ sự dấn thân phục vụ của ngài mà từ người lương dân đến người có đạo, từ các Cấp Chính Quyền đến Cấp Lãnh Đạo Tôn Giáo, từ những người bên ngoài đến những anh em trong Cộng Đoàn quý mến ngài và ra sức noi theo gương sáng của ngài để lại.
Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận còn có nét đặc biệt khi “họa lại” hình ảnh Thầy Giêsu ở việc sửa dạy người khác: muốn dạy dỗ anh em điều gì, ngài cũng đều thực hiện trước. Trong một thư, ngài viết: “Mẹ biết, muốn giết con người cũ của các thầy thì phương thế hiệu nghiệm nhất là con phải giết con người cũ của con trước đã” (DN, số 37). Sự tế nhị, dịu dàng và nhạy bén giúp cho ngài luôn nhìn thấy những tiến bộ, những cố gắng của anh em: “Trước không phải thì sau phải” (DN, số 145). Chính tình yêu ngài dành cho Chúa giúp ngài có một tình yêu rộng mở đến tất cả mọi người, không giới hạn tuổi tác, ngôn ngữ, tôn giáo, đau yếu hay mạnh khỏe, người tốt hay kẻ xấu… Với ngài, tất cả mọi người đều là những đối tượng được yêu thương và đáng được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa (x. DN, số 65 và 78).
Ngoài ra, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận còn đặc biệt lưu tâm đến một trong truyền thống tốt đẹp của đời đan tu: tinh thần hiếu khách. Theo ngôn ngữ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: “Một nền linh đạo hiếu khách”[15] . Với ngài, mỗi một vị khách đều là hình ảnh của Chúa Kitô. Cho nên, ngài tiếp đón tất cả mọi người (sang, hèn) một cách nhiệt tình, đầy trân trọng như tiếp đón chính Chúa Kitô: “Ngài dùng hai, ba căn nhà gia nhân, rạp thợ làm nơi cứu thương cấp bách. Đêm kia, họ khiêng đến một bệnh nhân kẻ ngoại. Thầy khán hộ lo kẻ liệt ngoài vào trình, ngài liền bảo lấy thuốc kêu cả thầy y tá trong nhà ra. Ba cha con xuống hì hục nhóm lửa nấu nước nóng đổ vào chai đặt chung quanh người liệt, không quản nhớp nhúa tanh hôi, đêm hôm mất ngủ” (HT, tr 193-194). Ngài cũng lưu tâm đến sự công bằng và bác ái: “Trong việc thuê mướn, chúng ta phải trả lương cho công nhân cách công bằng và thích hợp. Liệu sao cho họ có giờ lo việc đạo đức, và không đến nỗi bỏ bê việc gia đình. Đừng bắt làm việc quá nặng, quá sức hoặc không hợp với tuổi tác của họ” (DN, số 101).
Chính đời sống thánh thiện, tình bác ái chan hòa và sự khiêm tốn thẳm sâu của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận mà nhiều người nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa, một Thiên Chúa thật gần gũi và giàu tình thương. Do đó, ngài không những là họa lại hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô nơi cuộc sống của mình, mà còn trở thành dấu chứng sống động của tình Chúa cho tha nhân.
3. Đan Sĩ: dấu chứng tình Chúa và tình người
Xã hội phát triển giúp cuộc sống của con người được mở ra với nhiều hy vọng, nhiều hứa hẹn, nhưng cũng nhiều thách đố. Tuy nhiên, một xã hội văn minh và cuộc sống của con người được nâng cao không đương nhiên đối với sự thăng tiến tinh thần con người. Bởi vì, trong xã hội ngày nay, có nhiều người “đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng”[16] . Nhưng có lẽ “cái đói” lớn nhất mà con người ngày nay đang phải đối diện đó là “đói tình yêu”. Nếu cơm bánh cần thiết để duy trì sự sống thể xác thế nào, thì “tình yêu” lại là yếu tố quan trọng để làm nên cuộc sống.
Thật vậy, tình yêu chi phối tất cả cuộc sống con người, có tình yêu con người sẽ có bình an, hạnh phúc và cũng sẽ tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời (x. 1Cr 13,13). Tuy nhiên, trước một “trào lưu tục hóa” và nền “văn minh hưởng thụ” ngày nay, một số người không còn tin tưởng vào nhau, đã dẫn đến những xung đột, chia rẽ, chiến tranh, mà nguyên nhân chính là sự thiếu vắng tình yêu. Do đó, những người sống đời tận hiến, đặc biệt các đan sĩ được mời gọi trở nên những nhịp cầu của yêu thương, tha thứ và hòa giải. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đề cao vai trò của đời sống đan tu: “Thế giới và Giáo hội cần đến các con, như những ngọn đèn soi đường cho hành trình của những người nam và nữ trong thời đại chúng ta. Đó chính là chứng tá mang tính ngôn sứ của các con” [17].
Vậy đâu là phương cách giúp đan sĩ trở nên dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa trong lòng Giáo hội? Sắc lệnh Đức Ái Hoàn Hảo nhấn mạnh về vai trò của đan sĩ trong lòng Giáo Hội: “Trong những hội dòng hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm, các tu sĩ chỉ nhất tâm phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch và lặng lẽ, trong việc chuyên lo cầu nguyện và hân hoan hãm mình, thì cho dù nhu cầu hoạt động tông đồ có khẩn thiết đi nữa, những hội dòng ấy vẫn luôn giữ một địa vị cao quý trong Nhiệm Thể Chúa Kitô” [18] . Và trong Tông Hiến Vultum Dei Quaerere, Đức Giáo Hoàng Phanxicô tái khẳng định: “Đời sống chiêm niệm của các người nữ ấy – trong Giáo hội và cho Giáo hội – luôn biểu trưng cho trái tim cầu nguyện của Giáo hội, một kho tàng của ân sủng và sự phong nhiêu tông đồ, đồng thời là dấu chứng hữu hình của sự thánh thiện nhiệm mầu và đa dạng phong phú” [19] . Cho nên, Giáo hội cần các đan sĩ trở thành những chứng tá cho Tin Mừng trong sự dấn thân trọn vẹn cho công cuộc xây dựng thành trì nơi trần gian [20] .
Như thế, không nhất thiết phải hoạt động bên ngoài, đan sĩ mới trở nên “dấu chứng” tình Chúa và tình người cho thế giới này. Họ được mời gọi làm chứng cho tình yêu của Chúa bằng sự trung tín sống đời đan tu của mình. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói trong Tông Hiến Vultum Dei Quaerere: “Đời sống “ẩn dật với Đức Kitô trong Thiên Chúa” (Cl 3,3) của các nữ tu chiêm niệm trở nên hình ảnh của một tình yêu vô điều kiện đối với Đức Kitô, vị chiêm niệm tiên khởi”[21] . Chính khi làm những công việc âm thầm bé nhỏ như: săn sóc những người anh chị em già yếu, bệnh tật về thể xác và tinh thần, đan sĩ đang thể hiện tình yêu của Chúa nơi những người anh chị em “bé nhỏ nhất” (x. Mt 25,40). Bởi vì, “việc chia sẻ của cải, tình yêu huynh đệ, chia sẻ những dự phóng cũng như mọi hoạt động trở thành một thực tại hữu hình”[22] .
Nhờ đó, những người anh chị em yếu đuối, đau khổ, bệnh tật gặp được Thiên Chúa, một Thiên Chúa nhân hậu và giàu tình thương. Điều này cũng được Đức Giáo Hoàng Phanxicô thao thức và ước mong, làm sao để: “Đời thánh hiến phải luôn gần gũi tha nhân như Chúa Giêsu gần gũi dân chúng. Bởi theo Chúa Kitô, là đi tới nơi Ngài đã đi; vác trên mình người bị thương chúng ta gặp bên vệ đường như người Samaritano nhân lành đã làm. Đi tìm kiếm con chiên lạc, chia sẻ vui buồn và đau khổ của họ, tỏ cho họ khuôn mặt hiền phụ của Thiên Chúa và sự dịu dàng từ mẫu của Giáo Hội, qua tình thương của chúng ta. Mỗi người chúng ta được kêu gọi phục vụ anh chị em qua đoàn sủng của mình”[23] .
Như vậy, hiệp thông huynh đệ là phản ảnh chính cách thức hiện hữu của Thiên Chúa và cách Ngài trao ban chính mình; và đời sống cộng đoàn trở thành một sự phản chiếu ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu[24] . Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã xác quyết một cách mạnh mẽ: “Mối tương quan hiệp thông là biểu hiện của tình yêu vọt lên từ trái tim Chúa Cha, tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần mà Đức Giêsu đã hứa ban cho chúng ta. Khi sống mối tương quan hiệp thông ấy cách hữu hình, Giáo hội, gia đình của Thiên Chúa, sẽ trở nên dấu chỉ hiệp nhất sâu xa với Chúa; trở nên mái ấm nơi đó kinh nghiệm trao ban sự sống trở thành khả thi với mọi người”[25] . Nhờ mối tương quan huynh đệ ấy, ta mới có thể mượn lời của Vịnh Gia để hát lên rằng: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau” (Tv 133,1 ).
Tóm lại, để trở thành dấu chứng về Tình Chúa và tình người, đan sĩ phải chu toàn Luật Yêu thương: Mến Chúa và yêu người (x. Mt 22,34-40). Thánh Phaolô đã minh định: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,8). Thánh Gioan Thánh Giá cũng đã quả quyết: “Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta về tình yêu và bằng tình yêu”. Cho nên, khi chúng ta thực sự yêu thương anh chị em, những người “bé nhỏ” nhất bằng tình yêu thương của Chúa, là chúng ta đã giữ trọn lề luật. Chính Cha Tổ Phụ cũng đã khẳng định rằng: “Muốn biết chúng tôi có kính mến Chúa hay không, hãy xét coi chúng tôi có yêu thương anh em không. Sự kính mến Chúa không biết có chắc không, còn sự thương anh em thì dấu chắc chúng tôi có lòng kính mến Chúa” (DN.112). Vậy khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta có khả năng mở rộng con tim của mình để yêu thương anh chị em như chính Người đã yêu[26] .
Kết luận
Để đan sĩ trở thành dấu chứng tình Chúa và tình người, thoạt nghe thì đơn giản nhưng để thực hành được điều đó thì cả là một nghệ thuật. Chính Chúa Giêsu cũng đã phải trả giá cho chiều kích “dài – rộng – cao – sâu” của tình yêu bằng chính mạng sống của mình. Cho nên, những ai muốn bước theo Ngài, đều được mời gọi đi vào con đường tình yêu của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống từ bỏ trung thành và trao hiến. Con đường tình yêu này đã được cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận tìm kiếm và sống khi ngài trung thành họa lại bằng cả một đời dấn thân trọn vẹn cho Chúa và tha nhân. Từ đó, ngài có thể khẳng định cho mọi người, như triết gia Soren Kierkegaard đã từng nói: “Biết Thiên Chúa hiện hữu chưa phải là điều quan trọng, biết Người chính là Tình Yêu mới là điều quan trọng”. Vì vậy, không lạ gì khi những con người đã được trực tiếp sống và tiếp cận với ngài đều phải công nhận: nhìn thấy ngài là thấy Chúa (x. HT.tr 72). Là con cái cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, chúng ta cũng được mời gọi bước tiếp con đường tình yêu mà ngài đã sống, và đi đã trọn vẹn cuộc hành trình. Nhờ đó, chúng ta biết thể hiện lòng vị tha, tình bác ái với tất cả mọi người bằng một trái tim rộng mở. Như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhắn nhủ các nữ đan sĩ chiêm niệm: “Qua việc chuyển cầu trong cầu nguyện, các con giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống Giáo hội…. Lời chuyển cầu của các con ôm ấp những gia đình đang trải qua những khó khăn, thất nghiệp, nghèo đói, bệnh tật, và những người đang vật vã với các chứng nghiện ngập… Các con giống như những người mang kẻ bại liệt đến với Chúa để họ được Chúa chữa lành (x. Mc 2, 2-12)”[27] . Thiết nghĩ, đó chính là sứ mạng của đan sĩ Xitô Thánh Gia giữa lòng xã hội hôm nay.
[1] Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est, (Thiên Chúa là Tình Yêu), ban hành ngày 25/12/2005, số 16.
[2] Xuân Diệu, Tập thơ Vì Sao, Tuyển tập: Tự Lực Văn Đoàn (tập III), NXB Hội Nhà Văn, 2004.
[3] Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI – Thông Điệp Deus Caritas Est, (Thiên Chúa là Tình Yêu), ban hành ngày 25/12/2005, số 16.
[4] Đức thánh Cha Phanxicô, Tông sắc Misericordiae Vultus– Dung Nhan Lòng Thương Xót, ban hành ngày 25/12/2005, số 1.
[5] Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, Thánh Giá Tình Yêu, http://huynhtruong.com/index.php/ruoc-le/1168-thanh-gia-tinh-yeu
[6] Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI – Thông Điệp Deus Caritas Est, (Thiên Chúa là Tình Yêu), số 14.
[7] Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, Thánh Giá Tình Yêu, http://huynhtruong.com
[8] Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI – Thông Điệp Deus Caritas Est, (Thiên Chúa là Tình Yêu), ban hành ngày 25/12/2005, số 12.
[9] Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, Sđd, số 15.
[10] X. Hiến Pháp Hội Dòng Xitô Thánh Gia, số 2.
[11] X. Nội san ‘Hạt Giống Chiêm Niệm’, số 18, Say mê Thiên Chúa, tr. 81.
[12] X. Tu Luật, chương 64,17-19.
[13] X. Francis Acharya, OCSO, CISTERCIAN SPIRITUAL, An Ashram Perspective, – LINH ĐẠO XITÔ, Một Cái Nhìn Đan Tu, Cistercian publications, Liturgical Press, Collegeville Minnesota, 2011, tr. 56-57. Giuse Phan Văn Phi, O.Cist, chuyển ngữ.
[14] Xem Di Ngôn số 9 và Hạnh Tích tr.54-55.
[15] Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông hiến Vultum Dei quaerere “Tìm Kiếm Tôn Nhan Thiên Chúa”, số 36.
[16] Đức Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt, Tìm Kiếm Giá Trị Tuyệt Đối.
[17] Đức Thánh Cha Phanxicô, Sđd, số 36.
[18] Bộ Đời Sống Thánh Hiến và Các Tu Đoàn Tông Đồ, Sắc Lệnh Về Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu – Perfectae Caritatis, số 7.
[19] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông hiến Vultum Dei Quaerere “Tìm Nhan Thiên Chúa” ban hành 29/06/2016, số 5.
[20] X. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Sđd, số 36.
[21] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Sđd, số 3.
[22] Bộ Đời Sống Thánh Hiến và Các Tu Đoàn Tông Đồ, Huấn Thị Về Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, ban hành ngày 2/2/1994, số 10.
[23] Đức Thánh Cha Phanxicô, Bài Nói Chuyện Với Những Người Thánh Hiến ngày 2-2-2016.
[24] X. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông hiến Vultum Dei Quaerere “Tìm Tôn Nhan Thiên Chúa” ban hành 29/06/2016, số 26.
[25] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Sđd, số 24.
[26] X. Rodriguez – J. C. Rey García Paredes – J. P. I Bardolet, “Castità” Sự khiết tịnh, trong Rodriguez A. A. – Casas j.m.c. (cb),Dizionario Teologico della Vita Consacrata, Ancora, Milano 1994, tr.213-278. Ở đây trích lại từ Huấn Thị Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô, số 22
[27] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông hiến Vultum Dei Quaerere “Tìm Tôn Nhan Thiên Chúa” ban hành 29/06/2016, số 16.
MẦU NHIỆM
CÁC THÁNH THÔNG CÔNG
FM. Alberto Vũ Bá Đạt
Hằng năm vào tháng 11, phụng vụ Hội Thánh mời gọi các tín hữu cùng tưởng nhớ và cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, bằng việc tham dự thánh lễ, kinh nguyện, viếng nghĩa trang với ơn phép lành toàn xá. Đây là nghĩa cử rất cao đẹp đã được thực hành từ rất lâu trong Hội Thánh, vì cầu nguyện cho người quá cố vốn là một việc lành thánh. Tuy nhiên, trước ngày lễ cầu cho Các Đẳng Linh Hồn (02-11), phụng vụ Hội Thánh mời gọi tín hữu cùng mừng kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ trên trời (01-11). Việc Hội Thánh lữ hành mừng kính hàng chư thánh hiển vinh trên thiên quốc và hướng đến các anh chị em tín hữu đã qua đời đang còn nơi chốn luyện hình, diễn tả sự hiệp thông giữa các tín hữu với nhau trong Hội Thánh duy nhất của Chúa Kitô bằng tín điều “Các Thánh thông công”. Dù ở ba trạng thái khác nhau (Hội Thánh vinh thắng trên trời, Hội Thánh lữ hành và Hội Thánh thanh luyện) nhưng các tín hữu trong Hội Thánh của Chúa Kitô vẫn hiệp thông với nhau và được chung hưởng các phúc lành của Thiên Chúa qua sự chuyển cầu của các thánh.
Theo ý hướng của đề tài học hỏi “Theo gương cha Tổ Phụ, đan sĩ sống mầu nhiệm hiệp thông” nhân dịp kỷ niệm “Bách Chu Niên Lập Dòng”. Nếu trong tập Nội san trước, chúng ta đã bàn rất nhiều về việc đan sĩ Xitô Thánh Gia sống mầu nhiệm hiệp thông trong Hội Thánh lữ hành, thì trong số Nội san này chúng ta cùng tìm hiểu về việc sống mầu nhiệm hiệp thông, nhưng không chỉ với Hội Thánh trần thế, mà còn với Hội Thánh khải hoàn và Hội Thánh thanh luyện qua đề tài: “Mầu nhiệm các thánh thông công”.
1. Thuật ngữ “các Thánh thông công”
Khi đọc Kinh Tin Kính của các thánh Tông đồ, chúng ta tuyên tín rằng: “Tôi tin có Hội Thánh ở khắp thế này, các thánh thông công…”. Thuật ngữ “các thánh thông công” nhằm diễn tả Hội Thánh là cộng đoàn của tất cả các thánh, Hội Thánh là sự hiệp thông của các thánh[1] . Vì thế, thuật ngữ này mang hai nghĩa: “Hiệp thông trong các thực tại thánh” (sancta) và “hiệp thông giữa những người thánh (sancti)”[2] . Sở dĩ phải tin là có sự hiệp thông những điều thiện hảo trong Hội Thánh, vì bởi tất cả các tín hữu được Thiên Chúa quy tụ và làm thành một thân thể duy nhất với Đức Kitô là Đầu (x. Cl 1,18).
Đây là giáo lý mà thánh Phaolô đã dạy dỗ các tín hữu trong các lá thư mục vụ gửi cho các giáo đoàn và đã được Công Đồng Vatican II hệ thống thành bài giáo lý về mầu nhiệm Hội Thánh như sau: “Khi Con Thiên Chúa chiến thắng sự chết bằng cái chết và phục sinh, trong nhân tính Người kết hợp, Người đã cứu chuộc và biến con người thành một thụ tạo mới (x. Gl 6,15; 2Cr 5,17). Thực vậy, Người tạo lập cách mầu nhiệm các em Người, tụ họp từ muôn nước thành thân thể Người, bằng cách thông truyền Thánh Thần cho họ. Trong thân thể ấy, sự sống Chúa Kitô tràn lan trên các tín hữu. Nhờ các bí tích, các tín hữu được kết hợp thật sự và cách mầu nhiệm với Chúa Kitô đau khổ và vinh hiển. Quả thực, nhờ phép rửa họ được nên giống Chúa Kitô: “Vì tất cả chúng ta được tẩy rửa trong một Chúa Thánh Thần để nên một thân thể” (1Cr 12,13). Nghi thức thiêng liêng ấy diễn tả và thực hiện sự hợp nhất với cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô: “Nhờ phép rửa, chúng ta được mai táng cùng Người trong cái chết”; và nếu “chúng ta liên kết với Người trong cuộc tử nạn thế nào thì cũng sẽ được sống lại với Người như vậy” (Rm 6,4-5). Khi bẻ bánh tạ ơn, chúng ta thực sự thông dự vào Thân Thể của Chúa nên chúng ta được nâng lên để hiệp thông với Người và với nhau. “Chúng ta tuy nhiều, nhưng là một tấm bánh, một thân thể, vì hết thảy chúng ta đồng thông hưởng cùng một tấm bánh” (1Cr 10,17). Thế nên tất cả chúng ta trở thành chi thể của Thân Thể ấy (x. 1Cr 12,27), “vì mỗi người là chi thể của nhau” (Rm 12,5). Thật vậy, tất cả các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ tạo thành một thân thể; cũng thế, các tín hữu hợp thành một thân thể trong Chúa Kitô (x. 1Cr 12,12). Trong việc xây dựng thân thể Chúa Kitô, cần có nhiều chi thể với phận vụ khác nhau. Chỉ có một Chúa Thánh Thần ban những ân sủng khác nhau để làm ích cho Giáo Hội theo sự sung mãn của Ngài và tùy nhu cầu của công việc (x. 1Cr 12,1-11)… cũng chính Thánh Thần ấy do nơi bản tính tự nhiệm của mình hợp nhất thân thể bằng thần lực Ngài và bằng sự liên kết tinh thần các chi thể lại với nhau; như thế Ngài làm phát sinh và hun đúc đức ái giữa các tín hữu. Vì thế, nếu một chi thể nào đau đớn tất cả các chi thể khác đều bị đau đớn; và nếu một chi thể nào được vinh dự tất cả các chi thể khác cùng chung vui” (x. 1Cr 12,26)”[3] . Qua đó, tín điều “các thánh thông công” khẳng định sự hiệp thông của tất cả mọi tín hữu trong Hội Thánh. Dù sống trên trần gian hay đã qua đời, dù ở bất cứ nơi đâu hay vào thời đại nào, các tín hữu đều chia sẻ cho nhau các ân huệ thiêng liêng của Thiên Chúa, vì tất cả chúng ta đều là chi thể trong một nhiệm thể duy nhất của Chúa Kitô.
2. Hiệp thông trong các thực tại thánh (sancta)
Vì Đức Kitô là Đầu nên sự thiện hảo của Người được truyền thông cho tất cả các chi thể qua các bí tích của Hội Thánh. Vả lại, cũng bởi vì các tín hữu là chi thể trong một thân thể duy nhất và điều thiện hảo của người này được truyền thông cho người khác, nên phải tin là có sự truyền thông những điều thiện hảo trong Hội Thánh[4] . Giáo lý trình bày sự hiệp thông đó qua các khía cạnh:
2.1 Hiệp thông trong đức tin
Ngay từ thời xa xưa, tác giả sách Công Vụ Tông Đồ đã miêu tả sự hiệp thông trong đức tin của các tín hữu thuộc cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Chúng ta nhận thấy rằng đức tin của các tín hữu là đức tin của Hội Thánh, được đón nhận từ các Tông Đồ, là kho tàng của sự sống, một kho tàng khi được truyền thông thì lại thêm phong phú[5] .
2.2 Hiệp thông trong đời sống bí tích
Các Giáo phụ giải thích rằng thuật ngữ “các thánh thông công” trong Tín biểu phải được hiểu là sự hiệp thông các bí tích[6] . Danh xưng hiệp thông phù hợp với tất cả các bí tích. Tất cả các bí tích đều dẫn tới hiệp thông, kết hiệp các tín hữu với nhau và với Chúa Kitô. Bí tích Thanh Tẩy là cửa và là nền tảng cho ta bước vào Giáo Hội, tháp nhập vào Thân Thể Chúa Kitô. Bí tích Thánh Thể dẫn đưa chúng ta vào sự hiệp thông trọn vẹn, là nguyên lý hữu hình duy nhất của Giáo Hội.
2.3 Hiệp thông nhờ các đặc sủng
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Trong sự hiệp thông của Hội Thánh, Chúa Thánh Thần “ban phát các ân sủng đặc biệt cho các tín hữu thuộc mọi bậc sống” để xây dựng Hội Thánh. “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1Cr 12,7)”[7] . Công Đồng Vaticanô II dạy: “Hơn nữa, cũng chính Thánh Thần ấy, không chỉ thánh hóa và hướng dẫn Dân Thiên Chúa bằng các bí tích, các chức vụ, và trang điểm họ bằng các nhân đức, nhưng Ngài còn ban phát các ân sủng đặc biệt cho mọi cấp bậc các tín hữu “phân chia ân huệ cho mỗi người theo ý Ngài” (1Cr 12,11), khiến người lãnh nhận các ân sủng ấy có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo Hội như lời chép rằng: “Thánh Thần hiển hiện trong mỗi người hầu mang lại lợi ích” (1Cr 12,7). Phải lãnh nhận những đoàn sủng này, từ các ơn chói lọi nhất đến các ơn thường mà nhiều người lãnh được, với lòng tri ân và yên ủi vì các ơn đó mang ích lợi và phù hợp với nhu cầu của Giáo Hội”[8] .
2.4 Hiệp thông trong đức mến
Trong mầu nhiệm “các thánh thông công”, việc nhỏ nhất trong các hành vi của chúng ta được làm trong đức mến đều sinh lợi ích cho mọi người, trong sự liên đới hỗ tương với tất cả mọi người, kẻ sống và kẻ chết. Sự thánh thiện hay tội lỗi của một người đều ảnh hưởng tới cả cộng đoàn, bởi vì tất cả chúng ta đều là chi thể trong cùng một thân thể của Chúa Kitô. Thánh Phaolô nói: “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình” (Rm 14,7); “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau; Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung. Vậy anh em, anh em là Thân Thể của Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận” (1Cr 12,26-27). Hiệp thông trong đức ái là sự liên đới căn bản nơi con người, giữa sự sống và cái chết, là cách biểu lộ cao cả nhất sự hiệp thông giữa các thánh.
3. Hiệp thông giữa những người thánh (sancti)
Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã rao giảng mầu nhiệm Nước Trời và thiết lập Hội Thánh. Hội Thánh luôn hiện diện với ba tình trạng khác nhau cho tới khi Chúa ngự đến trong uy nghi của Người: Hội Thánh lữ hành – Hội Thánh vinh thắng – Hội Thánh thanh luyện.
3.1 Hội Thánh lữ hành
Hội Thánh lữ hành gồm các tín hữu đang còn sống, đang bước đi trên hành trình đức tin theo Chúa Giêsu. Cũng như dân Israel xưa, Hội Thánh sẽ phải vượt qua “sa mạc trần gian” mà tiến về Đất Hứa là Nước Trời. Bao lâu còn tiến bước trên trần thế, các tín hữu còn phải chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt. Với hai nguồn sống trường cửu được Chúa ban tặng là Lời Chúa và Thánh Thể, các tín hữu sẽ đủ sức lướt thắng mọi thử thách hầu đạt tới phần thưởng nước trời mà Thiên Chúa đã hứa ban tặng cho những ai trung thành với Người [9] .
Trong gia đình duy nhất của Thiên Chúa, tất cả các tín hữu đều là con cái Thiên Chúa và hợp thành một gia đình trong Đức Kitô, nên khi hiệp thông với nhau trong đức mến và trong cùng một lời ngợi khen Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh, các tín hữu sống phù hợp với ơn gọi của Hội Thánh và làm chứng về Tin Mừng Chúa Kitô[10] .
3.2 Hội Thánh vinh thắng trên trời
Tác giả sách Khải Huyền đã mô tả đôi nét về Hội Thánh khải hoàn trong một thị kiến như sau: “Sau đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế…họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,9.14). Như thế, Hội Thánh vinh thắng trên trời là cộng đoàn chư thánh bao gồm tất cả những vị đã hoàn tất cuộc đời mình cách tốt đẹp trong ân nghĩa Chúa, nên được ban thưởng gia nghiệp nước trời.
Vì gắn bó mật thiết hơn với Đức Kitô, nên các thánh trên trời không ngừng chuyển cầu với Chúa Cha cho chúng ta, trong khi dâng các công nghiệp các ngài đã lập được nơi trần thế nhờ Đấng Trung Gian duy nhất là Đức Kitô Giêsu. Nhờ vậy, sự yếu đuối của chúng ta được giúp đỡ rất nhiều bằng sự quan tâm huynh đệ của các ngài [11] . Trong sự hiệp thông với các thánh, chúng ta không chỉ kính nhớ các thánh trên trời vì gương sáng của các ngài, nhưng hơn thế nữa, còn để sự hợp nhất của toàn thể Hội Thánh trong Thần Khí được tăng cường nhờ việc thực thi đức mến huynh đệ. Thật vậy, cũng như sự hiệp thông giữa những người đi đường đưa chúng ta tới gần Đức Kitô hơn, thì sự liên kết với các thánh cũng kết hợp chúng ta với Đức Kitô, tự nơi Người, với tư cách là nguồn mạch và là Đầu, tuôn chảy mọi ân sủng và sự sống của chính dân Thiên Chúa[12] .
Trong một bài giảng, thánh Bênađô cho rằng các thánh không cần chúng ta tôn vinh, và lòng tôn kính của chúng ta cũng chẳng thêm gì cho các ngài. Việc kính nhớ các thánh mang lại ích lợi cho chúng ta hơn là cho các thánh: “Việc kính nhớ các thánh hoặc khơi lên hoặc thôi thúc mãnh liệt hơn trong ta niềm khát vọng đầu tiên này: Đó là mong hợp đoàn với các ngài, được xứng đáng làm người đồng hương và làm bạn hữu với các thánh, được liên kết với chư vị tổ phụ, với hàng ngôn sứ, với bậc tông đồ, với hàng hàng lớp lớp các vị tử đạo, với cộng đoàn các vị tuyên xưng đức tin, với đoàn trinh nữ. Tóm lại, chúng ta được hân hoan sum họp trong mối dây hiệp thông với toàn thể các thánh” [13] .
3.3 Hội Thánh thanh luyện
Gồm các tín hữu tuy đã hoàn thành cuộc hành trình theo Chúa Giêsu, nhưng trên cuộc hành trình đó, họ còn mắc phải những sai lầm lỗi phạm, nên sau khi đã qua đời vẫn chưa được phần phúc thiên đàng. Vì vậy, họ cần phải tiếp tục chịu thanh luyện sạch mọi vết nhơ, hầu được chung hưởng hạnh phúc viễn mãn. Mặc dù ở trong những tình trạng khác nhau, nhưng tất cả mọi phần tử trong Hội Thánh tùy mức độ và cách thức khác nhau đều hiệp thông trong tình mến Chúa yêu người, cùng là môn đệ Chúa Kitô và cùng làm nên một Giáo Hội duy nhất và liên kết với nhau trong Đức Kitô.
Bởi biết chắc chắn có sự hiệp thông như thế trong nhiệm thể của Chúa Giêsu Kitô, nên ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Hội Thánh lữ hành hằng nhớ đến những người đã qua đời, và bởi vì ‘dâng hy lễ để đền tội cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi, là một ý nghĩ đạo đức và thánh thiện’ (2Mcb 12,45), nên Hội Thánh cũng dâng lời cầu cho họ[14] .
4. Đan sĩ sống mầu nhiệm các thánh thông công
Mỗi ngày chúng ta đều có cơ hội sống cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm các thánh thông công, khi cử hành các giờ kinh phụng vụ và đặc biệt khi hiệp dâng thánh lễ.
4.1 Cầu nguyện cho người đã khuất
Việc cầu nguyện cho những người qua đời đã có từ thời Cựu Ước. Sách Macabê quyển thứ hai đã ghi lại việc ông Giuda Macabê quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ cho những người đã khuất: việc làm của ông là cử chỉ rất tốt đẹp, cao quý, đạo đức và cũng là lời tuyên xưng niềm tin của ông vào việc người chết sẽ sống lại (x. 2Mcb 12,43-46).
Theo truyền thống của Hội Thánh, vào ngày 02 tháng 11, mỗi linh mục được phép cử hành ba Thánh Lễ để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời. Làm như thế là Hội Thánh muốn nói với các tín hữu rằng: giữa Hội Thánh thanh luyện và Hội Thánh lữ hành luôn có mối liên hệ hiệp thông với nhau. Các tín hữu còn sống có thể cầu nguyện một cách hữu hiệu cho các tín hữu đã qua đời, và ngược lại, các tín hữu đã qua đời có thể đón nhận ơn Chúa từ những hy sinh, sự chuyển cầu của các tín hữu lữ hành. Hội Thánh còn khuyến khích các tín hữu siêng thực hiện nhiều việc lành để cầu cho các tín hữu đã qua đời: “Ngày 1 tháng 11 năm 1967, ĐTC Phaolô VI, trong Tông huấn Ân xá đã ban một đại xá với điều kiện thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu theo ý ĐGH) cho những ai “viếng nhà thờ vào Chúa nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ Các Thánh (số 67), và những ai viếng nghĩa địa trong 8 ngày đầu tháng 11 để cầu cho các linh hồn (số 13)”[15] . Ngoài ra, Hội Thánh còn kêu gọi các tín hữu xin lễ, tham dự thánh lễ để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời trong tháng 11 này.
Cách riêng, Thói Lệ Hội Dòng Xitô Thánh Gia cũng quy định nghĩa vụ đối với những thành viên đã qua đời: trong cộng đoàn khi có người anh em qua đời, mỗi linh mục trong cộng đoàn dâng ba thánh lễ, anh em hiệp dâng ba thánh lễ, mọi người ngắm đàng thánh giá ba lần[16] . Anh em trong Hội Dòng qua đời, mỗi nhà dâng một thánh lễ, anh em đi đàng thánh giá một lần [17] . Ngoài ra, trong ba năm liền, đến ngày giỗ, cộng đoàn dâng thánh lễ cầu nguyện cho người anh em[18] . Hằng năm đến ngày giỗ, nếu có thể, cộng đoàn đi viếng mộ và cầu nguyện cho người anh em ấy[19] . Đối với ông bà, cha mẹ của một anh em trong cộng đoàn qua đời, cộng đoàn dâng một thánh lễ trọng thể[20] . Mỗi tháng, Dòng Xitô dành một ngày cầu cho các linh hồn, quen gọi là nguyệt vụ cầu hồn[21] .
Như thế, khi xin lễ, tham dự thánh lễ, đọc kinh hoặc thực hiện các việc đạo đức cầu nguyện cho những người đã qua đời, chúng ta tuyên xưng niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời đời, tuyên xưng niềm tin vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công và tuyên xưng niềm tin vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Qua đó, chúng ta trực tiếp bày tỏ lòng thảo hiếu, lòng biết ơn và lòng bác ái đối với người đã khuất. Việc tưởng nhớ này cũng giúp chúng ta ý thức hơn về thân phận chóng qua của kiếp người để biết sống sao cho đẹp lòng Chúa.
4.2 Đạt tới sự hoàn thiện trong ơn gọi
Trong bài giảng về lễ các thánh, thánh phụ Bênađô nhấn mạnh lý do chúng ta mừng lễ các thánh không gì khác hơn là khát khao được sum họp với chư thánh. Nỗi niềm đó phải là động lực mạnh mẽ thúc bách chúng ta tiến nhanh trên đường hoàn thiện theo gương Chúa Kitô: “Cuối cùng, thưa anh em, chúng ta hãy thức dậy, hãy chỗi dậy cùng với Đức Kitô. Chúng ta hãy tìm hiểu những gì thuộc thượng giới, hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới. Chúng ta hãy mong những người đang mong chúng ta, hãy mau đến với những người đang đợi chúng ta, hãy hết lòng ước nguyện tiến đến với những người đang chờ chúng ta. Không những chúng ta phải ao ước được hợp đoàn với các thánh, mà còn phải ao ước được chia sẻ hạnh phúc với các ngài, để khi chúng ta mong được ở với các ngài, thì chúng ta cũng nóng lòng ôm ấp tham vọng được chia sẻ vinh quang với các ngài”[22] . Chính Chúa Giêsu trong hành trình loan báo Tin Mừng cũng đã kêu mọi người nên hoàn thiện (x. Mt 5,48), và Hội Thánh, qua các Tông đồ, khi đón nhận lệnh truyền đó cũng kêu gọi mọi thành phần dân Chúa nên trọn lành theo bậc sống mình[23] . Sự thánh thiện này được biểu lộ qua những hoa trái ân sủng mà Thánh Thần đã kết sinh nơi các tín hữu, cách đặc biệt được tỏ lộ trong việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm nơi những người sống đời thánh hiến[24] . Khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm là thực hành liên tục trong Hội Thánh nếp sống mà Đức Giêsu đã đề ra cho các môn đệ[25] . Do đó, Hội Thánh khuyên chúng ta hãy chuyên tâm sống bền đỗ trong ơn thiên triệu Chúa đã gọi mình và hãy mãi mãi tiến bộ để làm cho sự thánh thiện của Hội Thánh thêm phong phú[26] .
Đàng khác, vì phụng vụ đáng được xem là việc thực thi chức năng tư tế của chính Chúa Giêsu Kitô [27] và Kinh Nhật Tụng là lời ca chúc tụng của Đức Kitô và Hội Thánh tôn vinh Thiên Chúa Cha[28] . Sự hiệp nhất của chúng ta với Hội Thánh vinh thắng trên trời được thực hiện cách cao cả, đặc biệt trong Phụng Vụ; ở đó quyền năng Thánh Thần hoạt động trên chúng ta qua các dấu chỉ bí tích giúp chúng ta cùng hợp nhau trong một Hội Thánh duy nhất, đồng thanh chúc tụng một Thiên Chúa Ba Ngôi [29].
Thánh Biển Đức xem việc cử hành thần vụ là việc hiệp với ca đoàn thiên quốc ca tụng Chúa và ngài muốn các đan sĩ phải có thái độ trang nghiêm trước nhan Thiên Chúa và các Thiên thần[30] . Ngài thúc bách các đan sĩ siêng năng cầu nguyện[31] và hãy hát thế nào cho tâm trí hòa hợp với lời ca[32] . Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận cũng khuyên dạy chúng ta rằng phận vụ của thầy dòng chúng ta không phải là hoạt động bên ngoài, nhưng là việc dâng lên Chúa bài ca chúc tụng liên lỉ[33] .
Kết Luận
Trong sắc chỉ lập Dòng Đức Bà (Phước sơn) của Đức cha Eugène Joseph Allys có đoạn: “Mục đích chính của các tu sĩ Dòng này là nên hoàn thiện trong đời sống thiêng liêng qua con đường chiêm niệm và hy sinh. Mục đích thứ hai là cầu nguyện và hy sinh cho ơn cứu độ lương dân”[34] . Thật rõ ràng là mục đích chính của ơn gọi chiêm niệm là nên hoàn thiện và cầu nguyện cho những người chưa nhận biết Chúa. Khi sống triệt để căn tính ơn gọi của mình, chúng ta đã sống hiệp thông với toàn thể Hội Thánh trong mầu nhiệm các thánh thông công.
Thật vậy, khi tích cực tham gia vào sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh bằng việc cầu nguyện cho những người chưa tin nhận Chúa, chúng ta đang hiệp thông với Hội Thánh lữ hành. Khi siêng năng tham dự thánh lễ và thực thi các việc đạo đức để cầu nguyện cho những người quá cố, chúng ta đang hiệp thông với anh chị em trong Hội Thánh thanh luyện. Khi nỗ lực sống lời khấn Canh Tân mỗi ngày, chúng ta đang tiến bước trên đường hoàn thiện với niềm hy vọng một ngày nào đó mình cũng sẽ được hợp đoàn với hàng chư thánh hiển vinh. Vậy, mầu nhiệm Các Thánh thông công không chỉ là bài giáo lý trừu tượng xa rời cuộc sống, nhưng rất gần gũi và hòa nhịp cách cụ thể trong từng phút giây của nếp sống đan tu. Chúng ta hãy trân trọng ơn gọi của chúng ta như là một hồng ân của Thiên Chúa ban tặng.
[1] X. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 946.
[2] X. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 948.
[3] Cộng Đồng Vaticanô II, Hiến chế Lumen Gentium, số 7.
[4] X. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 947.
[5] X. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 949.
[6] X. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 950.
[7] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 951.
[8] Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Lumen Gentium, số 12.
[9] X. Lm. Đan Vinh, conggiao.info/mau-nhiem-cac-thanh-thong-cong.
[10] X. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 959.
[11] X. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 956.
[12] X. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 957.
[13] Thánh Bênađô, Chúng Ta Hãy Đến Với Các Anh Em Chúng Ta Đang Chờ Đợi Chúng Ta, trích bài đọc II Kinh Sách Lễ Các Thánh (Ngày 01.11).
[14] X. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 958.
[15] Lm. Đan Vinh, Mầu Nhiệm Các Thánh Thông Công, http://conggiao.info
[16] X. Thói Lệ số 280.
[17] X. Thói Lệ, số 281.
[18] X. Hiến Pháp, số 166.
[19] X. Thói Lệ, số 282.
[20] X. Thói Lệ, số 286.
[21] X. Thói Lệ, số 289.
[22] Thánh Bênađô. Vp, Bài Đọc Kinh Sách Lễ Các Thánh, ngày 01 tháng 11.
[23] X. Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 42.
[24] X. Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 39.
[25] X. Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 44.
[26] X. Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 47.
[27] X. Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Sacrosanctum Concilium, số 7 .
[28] X. Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 83.
[29] X. Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 50.
[30] X. Tu Luật 19,5-6.
[31] X. Tu Luật 4,56.
[32] X. Tu Luật 19,7.
[33] X. Di Ngôn, số 128.
[34] Di Ngôn, tr 200-201.
HIỆP THÔNG HỮU CƠ
FM. Martino Phạm Thanh Toàn
Khi nói “Hiệp thông hữu cơ” là nói đến mối liên hệ tất yếu giữa các thành viên trong một cộng đồng; mức độ phát triển của cộng đồng ấy tùy thuộc mức độ tương giao giữa các thành viên. Mối liên hệ sinh tử ấy càng triệt để sáng suốt, cộng đồng càng tiến tới nền văn minh thực thụ. Điều này hoàn toàn đúng với các mối tương giao huynh đệ trong cộng đoàn thánh hiến, trong đó, sự hiệp thông nội tại trong đức tin, trong lý tưởng tìm Chúa, nhưng cũng còn phải hiệp thông trong cơ cấu (hữu cơ) để vận hành nếp sống tu trì.
Nhân Khánh Nhật Truyền Giáo năm 2017, ngày cầu nguyện cho ơn gọi tu sĩ và linh mục, Đài phát thanh Vatican đưa tin: trong mười năm trở lại đây, con số tu sĩ xin hồi tục khoảng gần 3000 mỗi năm; và thống kê 5 năm trở lại đây, số tu sĩ trong Giáo hội giảm mỗi năm khoảng 5000. Con số tu sĩ qua đời hơn 2000 mỗi năm. Thông tin trên đây thúc đẩy chúng ta đặt ra câu hỏi: Phải chăng hiện tượng này có liên hệ đến vấn đề “hiệp thông hữu cơ” trong cộng đoàn thánh hiến?
Trong bài này, người viết xin được khởi đi từ nền tảng khuôn mẫu của sự “hiệp thông hữu cơ” nơi Ba Ngôi Thiên Chúa; và xã hội trần thế cũng cần được tổ chức mô phỏng theo khuôn mẫu đó; tuy nhiên, ngày nay đang đối diện với cuộc khủng hoảng gia đình và xã hội, khủng hoảng ơn gọi đời sống thánh hiến, thiết tưởng nên tái định hướng cho mình khi duyệt lại ơn gọi của chúng ta.
1. Hiệp thông hữu cơ nơi Thiên Chúa
“Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30), bởi lẽ “Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (Ga 10,38). “Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì. Và tôi biết mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi” (Ga 12,49-50). “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).
Thiên Chúa tự mặc khải như là một cộng đoàn gồm những Ngôi Vị: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nét độc đáo của cộng đoàn Ba Ngôi là hiệp nhất. Nói cách khác, các Ngôi Vị trong Ba Ngôi Thiên Chúa hoàn toàn khác biệt nhau, nhưng là một và ở trong nhau, vì cùng một bản tính thần linh[1] . Bằng chứng cho sự hiệp nhất ấy chính là sự vâng phục tuyệt đối của Ngôi Con đối với Ngôi Cha. Hơn nữa, động lực làm cho Ngôi Con vâng phục tuyệt đối Ngôi Cha chính là Thánh Thần: Thánh Thần năng động Ngôi Con theo ý của Ngôi Cha. Trong Ba Ngôi Thiên Chúa có sự tự do tuyệt đối, nghĩa là tương quan tự do giữa các Ngôi Vị, không phải là “tương quan tất yếu” (la relation nécessaire) theo cách hiểu của chúng ta. Thiên Chúa không bị lệ thuộc loại tương quan tất yếu này. Mối tương quan hữu cơ của Thiên Chúa đó lại là nguyên ủy, là mô phạm cho tất cả mọi mối tương quan của con người.
2. Hiệp thông hữu cơ trong xã hội trần thế
Xã hội trần thế được hình thành và phát triển tiệm tiến ngày một văn minh hơn dựa trên mô phạm tương quan hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thực vậy, Chúa Giêsu đã nói với quan Philatô rằng: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19,11). Tất cả mọi quyền bính đều xuất phát từ Thiên Chúa. Một xã hội phát triển bền vững khi xã hội ấy có quyền bính và vâng phục. Tuy nhiên, bi kịch của xã hội ấy cũng là hệ lụy của hai yếu tố này. Chúng ta lấy ví dụ dân tộc Do Thái. Trước khi có vua, họ vâng phục quyền bính của chính Thiên Chúa qua trung gian các ngôn sứ và thủ lãnh. Dường như đời sống của dân rất tốt đẹp dưới vương quyền của Thiên Chúa. Nhưng họ lại đòi có một vị vua cai trị họ giống như các dân chung quanh; qua trung gian ngôn sứ, Thiên Chúa cảnh báo sự khốn khổ dân sẽ phải chịu dưới vương quyền của con người.
“Họ nói với ông: “Này, ngài đã già, mà các con ngài lại không đi theo đường lối của ngài. Vậy bây giờ, xin ngài đặt vua trên chúng tôi để xét xử chúng tôi, như trong các nước khác”. … Samuel đã lặp lại hết thảy các lời của Giavê với dân xin được có vua. Ông nói: “Này đây thế nào là quyền của vua sẽ cai trị trên các ngươi: Nó sẽ lấy con trai các ngươi mà cho hầu xe, hầu ngựa của nó: chúng sẽ chạy trước xa giá của nó…. Ngày ấy, các ngươi sẽ kêu trời vì vua của các ngươi, mà các ngươi đã tự chọn lấy cho mình, nhưng ngày ấy Giavê sẽ không ứng tiếng lại đâu!”. Dân đã cự tuyệt không nghe tiếng của Samuel. Họ nói: “Không! Thế nào cũng phải có vua cho chúng tôi. Cả chúng tôi nữa, phải được nên như mọi dân tộc khác…” (1 Sam 8,5.10-11.18-20a).
Chế độ quân chủ – vương quyền nhân loại thường có sự phân biệt giai cấp. Vì thế, tương quan cũng trở nên bất bình đẳng và kết quả là thứ dân chỉ là tầng lớp bị trị nô dịch phục vụ cho tầng lớp cai trị với quyền hành vô hạn trong tay. Trái lại, khi sống dưới vương quyền của Thiên Chúa, tuy vẫn phải có những “đầu mục” trong dân, những người đại diện Thiên Chúa thi hành quyền bính, nhưng mọi người được hưởng sự bình đẳng trong tương quan với nhau, nhân quyền được bảo vệ.
Bi kịch đau thương cho dân tộc nào bị những tên bạo chúa độc tài chuyên chế cai trị. Những dân tộc đó sống trong lầm than, quyền con người bị cưỡng đoạt, luôn trong tình trạng bạo lực hoặc có nguy cơ bùng phát bạo lực: Trung Đông, Syria, Châu Phi và một vài nước Á Châu là những ví dụ. Nhìn từ góc độ này, viễn tượng một quốc gia thái bình, trong đó tương quan hữu cơ giữa quyền bính và vâng phục được mô phỏng theo khuôn mẫu của Thiên Chúa Ba Ngôi chỉ có trong giấc mơ.
Ngày nay, tuy chưa có một thể chế chính trị nào điều hành quốc gia cách “tuyệt hảo”, nhưng xét theo lợi ích mà người dân đang được hưởng một cách tối ưu nhất, phải kể đến nền cộng hòa và dân chủ. Thực vậy, những quốc gia theo đuổi nền cộng hòa và dân chủ hiện nay trên thế giới đều là những cường quốc hàng đầu (ví dụ nhóm G7 và nhiều nước khác). Quốc dân của họ được hưởng những quyền và lợi ích xứng với nhân phẩm. Chúng ta thấy trong những quốc gia này, mối tương quan giữa quyền bính và vâng phục được thể hiện rất sát với khuôn mẫu của Thiên Chúa. Nói cách khác, hệ thống luật pháp được tổ chức khoa học, những người thi hành luật pháp trong khuôn khổ chức năng của mình và bộ phận giám sát pháp luật và chế tài cũng rõ ràng phân minh. Tắt một lời, đó hệ thống quyền bính tam quyền phân lập. Được như vậy, sự vâng phục quyền bính sẽ là sự đáp trả trong mối tương quan tất yếu thể hiện sự hài hòa, an bình và an sinh cho tất cả mọi người.
Nếu như xã hội pháp quyền đã đem lại cho con người sự thịnh vượng, niềm hạnh phúc hợp với nhân phẩm vì nó mô phỏng sát sao tối đa vương quyền của Thiên Chúa, thì khi vương quốc pháp trị bằng luật yêu thương thì hạnh phúc viên mãn sẽ như thế nào! “Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa là Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp” (Tv 32,12).
3. Hiệp thông hữu cơ – khủng hoảng gia đình và đời sống thánh hiến
Trên thực tế, xã hội con người không ngừng gặp khủng hoảng, mỗi thời đại theo cách thế và mức độ khác nhau. Ở đây nhìn từ góc độ đời sống thánh hiến, ảnh hưởng đó cũng đặt thành vấn đề cho chúng ta. Tại sao ở những quốc gia được coi như thiên đường trần gian mà số lượng ơn gọi tu trì ở đó lại giảm sút trầm trọng, nhiều Hội dòng đã phải cáo chung? Tại sao những tu sĩ trẻ ngày nay, nhìn chung, khả năng vâng phục không được thuần khiết như các bậc tiền bối của chúng ta? Cuộc khủng hoảng xã hội đó thực sự đã ảnh hưởng đến nhận thức của con người như thế nào?
Về phương diện khách quan, môi trường sống sẽ khuôn đúc nên nhân sinh quan của chúng ta. Môi trường trong đó tương quan hữu cơ đặc thù của phong kiến thời Trung Cổ làm cho con người có tinh thần vâng phục rất cao. Trong giai đoạn khai mở chân trời tự do của những người cách mạng thuộc thế kỷ Ánh Sáng làm cho những con người thời đại này tràn đầy nhiệt huyết, hăng say truyền giáo và đạt những thành quả rất quan trọng đối với Giáo hội và thế giới. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ XX, sau hai cuộc Đại Thế Chiến, lòng người đang hoang mang chán chường đã bám vào được cái “phao cứu hộ” là trào lưu tục hóa và đề cao tự do như sự giải phóng toàn diện con người và điều này đã trở nên “lương tâm thời đại”[2] .
Về phương diện chủ quan, mỗi cá nhân sẽ chịu trách nhiệm về khả năng nhận thức của mình về tương quan hữu cơ, vốn hình thành và xây dựng con người trở nên hoàn thiện. Thiết tưởng cũng nên nhắc lại ở đây nhận thức căn bản này, tuy không phải là điều mới mẻ, nhưng càng không phải cũ đối với một số người. Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ; người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai nên một xương một thịt (x. St 1,26-27). Hôn nhân là định chế tự nhiên do Thiên Chúa thiết định. Dấn thân vào trật tự tự nhiên ấy, mỗi người sẽ tìm được vị trí và sống xứng nhân phẩm của mình; không dấn thân vào trật tự đó, phải có lý do khách quan; nếu làm khác đi cuộc đời những con người đó chênh vênh bất định và sẽ “lãng phí công trình sáng tạo của Thiên Chúa”. Người sống đời thánh hiến, tuy không lập gia đình riêng, nhưng họ đã “cưới” cộng đoàn tu trì đã tiếp nhận họ; họ cam kết dấn thân xây dựng và đón nhận cộng đoàn ấy cùng với những “hệ lụy” của nó một cách trọn vẹn. Cộng đoàn ấy về phần mình sẽ cho họ một vị trí xứng đáng để sống xứng nhân phẩm của mình. Một tu sĩ tách mình khỏi cộng đoàn bằng thái độ bất phục tùng sẽ là kẻ lưu lạc trên mặt đất này.
Vì thế, cuộc khủng hoảng ơn gọi tu trì nhìn dưới lăng kính tương quan hiệp thông hữu cơ cho thấy nguyên nhân của nó, đó là khủng hoảng về “lời”. Tức là khả năng trung tín với “lời”. Lời và con người không còn tương quan “sinh tử” nữa; người ta không còn dám chết vì lời của mình nữa. Sức hút mãnh liệt của chủ nghĩa tự do thái quá làm cho người ta như bị văng ra ngoài. Đó là sự tồi tệ của một sự sai lầm về nhận thức tự do vốn đã trở nên “lương tâm thời đại”.
Cái làm nên tương quan hữu cơ là “lời”, bởi vì chính “lời” thiết lập tương quan. Cái làm nên tương quan giữa Chúa Cha và Chúa Con chính là Ngôi Lời, bởi vì “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1-2). Tất cả mọi trật tự trần gian cũng đều do “Lời” thiết lập; trật tự đó Thiên Chúa thấy thế là rất tốt đẹp. Mọi khủng hoảng tương quan xảy ra là vì người ta đã “nuốt” lời.
Những tu sĩ khấn trọng xin rút lại “lời” đã cam kết, với số lượng đông đảo như vậy, chúng ta có thể nói đó như là cuộc khủng hoảng tương quan: họ đã “nuốt” lời của mình bằng nhiều cách và trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Còn những tu sĩ tuy “không nuốt lời” nhưng không phải là không thể làm thương tổn tương quan hiệp thông qua những thái độ và hành vi bất phục cũng bằng nhiều cách và trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.
Theo cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, sự khủng hoảng tương quan đó có thể gọi là một nhà dòng hư: “Là khi anh em trong nhà ăn nói như người đời, là khi anh em không thương yêu nhau; là khi anh em không bằng lòng với Bề trên và với nhau; là khi anh em tập hợp xầm xì mà tra xét việc Bề trên, là khi anh em chê trách nhau, chê trách đồ ăn thức uống không ngon….Khi ấy nhà dòng đã ra hư rồi đó, không còn chi là nhà dòng nữa” (DN. Số 143). Những điều được cha Tổ Phụ kể ra cũng chỉ là biểu hiện bên ngoài của vấn đề sâu xa là sự khủng hoảng tương quan đó.
Tương quan với Thiên Chúa do lời khấn thiết lập đã trở nên khủng hoảng khi “anh em ăn nói như người đời…tụ họp xầm xì mà tra xét việc Bề trên…”. Họ rất giống dân Do thái trong sa mạc đã càm ràm kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Tương quan trong xã hội và gia đình cũng bị khủng hoảng khi “lời” trao cho nhau đã không được bảo trọng, luật lệ qui ước là lời đã trở nên khuôn mẫu cũng bị lạm dụng, bị bóp méo và bị lèo lái theo tư lợi. Vòng lẩn quẩn này đã được nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đặt cho cái tên đầy ý nghĩa: tình yêu, tội ác và trừng phạt. Vậy chẳng lẽ cứ bế tắc như thế sao?
Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, qua bút tích, chúng ta biết ngài là một con người toàn diện (l’homme intégral), con người hiệp thông và sứ vụ. Nói đến “hiệp thông hữu cơ” là nói đến dấn thân trong tương quan ba chiều: với Thiên Chúa, với chính mình và với tha nhân. Nói đến sứ vụ là nói đến một công việc đặc thù. Ngài hết lòng với Chúa, nghiêm khắc với chính mình, và hằng lo cho người khác. Ngài chăm lo thi hành sứ vụ: lo đến phần rỗi kẻ khác bằng cầu nguyện cho Viễn Đông trở lại Đạo Chúa. Và dòng chiêm niệm Xitô Thánh Gia ra đời.
Kết luận – Tái định hướng
Để khép lại những dòng suy tư trên đây, thiết tưởng chúng ta hướng về Hội Dòng Xitô Thánh Gia hiện nay đang sống “Huyền nhiệm hiệp thông” theo gương cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận trong những năm mừng Bách Chu Niên thành lập Dòng. Cha Tổ Phụ ý thức rõ mối tương quan hữu cơ của mình. Không nghi ngờ gì nữa, ngài đã khao khát Thiên Chúa đến tận xương tủy và ăn vào máu huyết của mình để rồi dấn thân triệt để xây dựng Cộng đoàn Đức Bà An Nam theo Thánh Ý của Thiên Chúa; và cộng đoàn đó đã ý thức rõ ràng sứ vụ truyền giáo của mình “âm thầm mà phong phú” không kém những nhà truyền giáo lớn của Giáo hội. Về phần mỗi người chúng ta thì sao trong bối cảnh xã hội hiện nay?
Nếu đời sống đan tu đã được tồn tại và phát triển mạnh mẽ trên Đất Việt như hiện nay, thì chúng ta có trách nhiệm kế thừa gia sản đó và tín trung gìn giữ cũng như phát triển cách năng động đầy sáng kiến truyền giáo trong nếp sống “âm thầm mà phong phú” của chúng ta. Không ngừng thanh luyện ý chí tìm Chúa cho tinh ròng, dấn thân cách bền bỉ và tín trung trong cử hành phụng vụ, trong việc xây dựng tương quan huynh đệ và nung nấu lòng khao khát các linh hồn như một sứ vụ đặc thù nhận lãnh từ Giáo hội của Thầy Chí Thánh… phải chăng là những mối dây hiệp thông hữu cơ không thể đảo ngược đã vốn dĩ làm cho gia sản đan tu Xitô Thánh Gia tồn tại và phát triển suốt trăm năm qua!
[1] Xét về từ ngữ, hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa vì cùng một bản tính thần linh ; hiệp thông giữa con người với nhau vì cùng một Đức Tin. Về phía con người, nếu chưa có cái « một Đức Tin » này, họ chỉ là những người « sống chung hòa bình », một sự thỏa hiệp theo kiểu « hai bên cùng có lợi ». Trái lại, hiệp thông thì có sự dấn thân trong các mối tương giao, thậm chí có thể chết cho các mối tương giao.
[2] Theo cách nói của Thụy Khuê, Nhà phê bình văn học, khi bàn về Jean-Paul Sartre (1905-1980) trên đài RFI ngày 17.09.2005.
NỀN TẢNG ĐỂ TRỞ THÀNH
NHỮNG CHUYÊN VIÊN HIỆP THÔNG
Sr. Anna Nguyễn Thị Liên
Trong ‘Tông Thư Gửi Những Người Tận Hiến Nhân Dịp Năm Đời Sống Thánh Hiến’, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi tu sĩ trở nên những “chuyên viên hiệp thông”. Ngài ước mong “linh đạo hiệp thông” mà thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chỉ ra sẽ trở thành hiện thực, và chúng ta sẽ là những người đầu tiên “làm cho Giáo Hội thành ngôi nhà và trường học của hiệp thông”[1] . Tiên vàn sự hiệp thông phải được thực hành ngay trong nội bộ của các cộng đoàn[2] . Vì tình yêu luôn được khởi đi từ chính môi trường mình đang sống[3] .
Vậy đâu là nền tảng để những người tận hiến trở thành những “chuyên viên hiệp thông” trong cộng đoàn và Giáo Hội? Phương cách nào giúp ta sống tình huynh đệ? Và đâu là lương thực nuôi sống tình huynh đệ đó?
1. Đời sống huynh đệ họa lại mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa
Các nhà thần học tên tuổi như Augustino và Tôma Aquino nhấn mạnh vai trò của tình yêu, vì tình yêu là “xi măng” nối kết con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Hẳn thật, con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Ngài và hình ảnh ở đây không gì khác hơn là tình yêu, vì sự sống và bản tính “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 1,8.16). Thiên Chúa Ba Ngôi là một cộng đoàn yêu thương, trong đó sự khác biệt về ngôi vị không làm mất sự hiệp nhất bản thể: Ba Ngôi hỗ trợ nhau và không tách rời nhau. Quả thế, với sự mặc khải của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu đã biết, đã nghe, cảm nghiệm Chúa Cha hiệp nhất trọn vẹn và tỏ bày mọi sự cho Ngài (x. Ga 7,29; Ga 5,19; Ga 5,30; Ga 10,30; Ga 5,20).
Công đồng Vatican II quả quyết: “Giữa Chúa Ba Ngôi và cộng đoàn kitô hữu có một sự tương tự nào đó”[4] . Cũng vậy, cộng đoàn tu trì “bắt nguồn từ chính trọng tâm mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chí thánh”[5] . Thánh Cýpriano đã khẳng định:“Đoàn dân được kết hiệp nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Vì được thiết lập và hun đúc theo hình mẫu cộng đoàn Ba Ngôi, nên chúng ta cũng phải sống theo mẫu mực hiệp thông của cộng đoàn Ba Ngôi. Thật vậy, đời sống huynh đệ nhằm phản ánh chiều sâu và sự phong phú của mầu nhiệm này, bằng cách tạo ra một nơi cư ngụ cho Thiên Chúa Ba Ngôi giữa môi trường nhân loại, nhằm tiếp tục đưa vào lịch sử những ân huệ hiệp thông mà chỉ duy Ba Ngôi Thiên Chúa mới có. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Tất cả kết quả của đời tu tùy thuộc vào phẩm chất của đời sống huynh đệ cộng đoàn. Hơn nữa, đặc điểm của phong trào canh tân trong Giáo Hội và trong đời tu là tìm kiếm sự hiệp thông và cộng đoàn”[6].
“Những con người tận hiến sống “cho” Thiên Chúa và sống “bởi” Thiên Chúa, và chính vì thế, họ có thể tuyên xưng quyền năng hòa giải của ân sủng, là tiêu diệt các lực lượng gây chia rẽ nằm trong trái tim con người và trong những tương quan xã hội”[7] . Như lời Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin cho Giáo Hội: “Xin cho hết thảy nên một, cũng như Cha ở trong con, ngõ hầu chúng ở trong Chúng Ta và thế gian tin là Cha đã sai con” (Ga 17,21). Chính lời này của Chúa Giêsu đã chứng minh sự thông hiệp là yếu tố bất khả khuyết trong các cộng đoàn tận hiến. Vì chính nhờ hiệp thông, chúng ta liên kết thành một khối vững mạnh và tuyên chứng cho cộng đoàn Ba Ngôi.
2. Phương cách giúp sống tình huynh đệ
a. Thực thi “điều răn mới” của Chúa
Đời sống huynh đệ, hiểu như là một đời sống chia sẻ tình yêu, là một dấu chỉ hùng hồn về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Nó được vun trồng kỹ càng ở những nơi mà đời sống cộng đoàn mang một ý nghĩa đặc biệt[8] . Bởi chưng, khi sống ơn gọi làm môn đệ của Chúa theo những đòi hỏi của Tin Mừng, tất cả chúng ta dấn thân thực thi “điều răn mới” của Chúa bằng cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta (x. Ga 13,34).
Thánh Phaolô đã nêu những lý do sâu xa về đời sống cộng đoàn như sau: “Chỉ có một thân thể, một thần khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha mọi người. Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4,4-6). Thật vậy, bằng tình yêu, Đức Kitô đã đến trao hiến thân mình, hy sinh tận cùng trên thập giá. Giữa chúng ta cũng thế, không có sự hiệp nhất đích thực nếu không có tình yêu hỗ tương vô điều kiện: một tình yêu đòi hỏi phải sẵn sàng phục vụ không tính toán, sẵn sàng đón tiếp người khác dù họ thế nào đi nữa, không xét đoán và có khả năng tha thứ dù cả tới bảy mươi lần bảy (x. Mt 7,1-2; Mt 18,22). Đó cũng là điều mà thánh Phaolô không ngừng khuyên dạy các tín hữu: “Hãy thương mến nhau với tình huynh đệ; coi người khác trọng hơn mình” (Rm 12,10); “Hãy đồng tâm nhất trí với nhau” (Rm 12,16); “Hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em” (Rm 15,7); “Tôi tin chắc rằng … anh em … có khả năng khuyên bảo nhau” (Rm 15,14); “Anh em hãy chờ nhau” (1Cr 11,33); “Hãy đem lòng yêu thương mà làm tôi lẫn nhau” (Gl 5,13); “Hãy an ủi nhau” (1Tx 5,11); “Hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4,2); “Phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau” ( Ep 4,32). Sở dĩ thánh Phaolô đưa ra những lời khuyên này, vì trong một số cộng đoàn Kitô hữu và ngay giữa những người được thánh hiến, chúng ta vẫn còn dành chỗ cho nhiều hình thức hận thù, chia rẽ, vu khống, ganh tỵ, khao khát áp đặt các ý tưởng riêng của mình bằng bất cứ giá nào[9] . Đức Thánh Cha Phanxicô đã lặp đi lặp lại nhiều lần rằng: “Những lời chỉ trích, đàm tiếu, ghen tuông, tị hiềm, đố kỵ,… không được phép cư ngụ ở trong nhà của chúng ta”[10] .
Khi bước vào trần gian, Đức Kitô mang đến cho chúng ta ân sủng của Thiên Chúa, tức là khả năng chia sẻ đời sống của Ngài. Do đó, chúng ta được mời gọi tạo mạng lưới huynh đệ, mang dấu ấn hỗ tương, tha thứ, hiến thân trọn vẹn như Thiên Chúa muốn: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35). Nhờ dấn thân trên con đường tình yêu, chúng ta sẽ biết tặng ban chính mình và tự hiến cách vô vị lợi vì điều thiện hảo của anh chị em mình. Từ đó, chúng ta có khả năng đồng cảm, biết lắng nghe những đau khổ cũng như hy vọng của người khác; để rồi cùng với những người khác, chúng ta vững bước tiến về cứu cánh của niềm hy vọng, dưới ánh mắt quan phòng của Thiên Chúa: “Đấng ngự trên mọi người, giữa mọi người và trong mọi người” (Ep 4,6).
b. Vâng phục là phương thế kiến tạo hiệp nhất
“Dầu là con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5, 7-9). Quả thế, các thánh sử xác quyết rằng Chúa Giêsu luôn nói “vâng” trước thánh ý Chúa Cha (x. Mt 11,25), Ngài giữ trọn mọi lề luật và muốn kiện toàn những gì Thánh Kinh đã chép về Ngài (x. Mt 5,17; Mt 26,52); trong khi rao giảng Ngài tuyên bố rằng Ngài không nói, không làm gì ngoài những điều Chúa Cha truyền (x. Ga 9,4; 10,18). Cao điểm của đức vâng phục là cái chết trên thập giá: “Để cho thế gian biết Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền dạy cho Thầy” (Ga 14,31).
Để chu toàn thánh ý Cha, Chúa Giêsu đã khai mở Nước Trời nơi trần gian, mặc khải cho chúng ta mầu nhiệm của Ngài, và thực hiện việc cứu thế bằng sự vâng phục Chúa Cha[11] . Cũng như vì sự bất tuân của một người đưa đến tan rã của gia đình nhân loại, và sự tuân phục của Con Người Mới đã khởi đầu công cuộc tái tạo (x. Rm 5,19), thì thái độ tuân phục sẽ luôn luôn là một sức mạnh thiết yếu cho mọi cuộc sống gia đình[12] . Trong Phúc Âm thánh Gioan, Chúa Giêsu đã đặt đức vâng phục như điều kiện để theo Ngài: “Nếu các con tuân giữ lệnh truyền của Thầy thì các con ở lại trong lòng mến của Thầy” (Ga 15,10). Sách gương Chúa Giêsu cũng nói: “Nếu Cha là Đấng Toàn Năng và Cao Cả đã dựng nên mọi sự từ không mà Cha còn khiêm tốn tùng phục người đời vì con, thế mà con, con chỉ là bụi đất, là hư vô, lại còn lấy việc tùng phục một người vì Chúa làm nặng nhọc sao?”[13] . Trong Tông Huấn Redemptionis Donum, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng nhấn mạnh điểm này: Đức Kitô cứu chuộc nhân loại nhờ vâng theo lời Chúa Cha. Vì vậy, bất cứ ai đi theo Ngài cũng phải dùng phương thế này để cứu rỗi thế gian. Đức Thánh Cha kết luận: “Bất cứ hành động nào của chúng con được thực thi ngoài đức vâng phục đều không có giá trị cứu rỗi”.
Quả thế, Giáo Hội là Mẹ chúng ta vui mừng khi thấy có nhiều con cái nam nữ muốn theo sát gương Đấng Cứu Thế. Họ chấp nhận nghèo khó trong tự do của con cái Thiên Chúa và từ bỏ ý riêng. Hơn cả mức đòi buộc của giới luật, họ tự nguyện vâng phục một con người, vâng phục vì Chúa, trong những gì liên hệ tới sự trọn lành, hầu nên giống Chúa Kitô vâng lời cách hoàn toàn hơn[14] .
Do đó, vâng phục là yếu tố căn bản của đời tu, vì đời tu là một cuộc thánh hiến: “Nhờ khấn giữ vâng lời, các tu sĩ tận hiến ý muốn như của lễ bản thân dâng lên Thiên Chúa”[15] . Thật vậy, vâng phục chính là phương thế tạo hiệp nhất cộng đoàn: “Tu sĩ vâng phục… vì biết mình đang góp công xây dựng thân thể Chúa Kitô theo như ý định của Thiên Chúa”[16] . Trong cộng đoàn, mọi người phải học biết thắng dẹp mọi tham vọng cá nhân, để hòa nhịp với đời sống cộng đoàn qua đức vâng phục.
Như thế, đức vâng phục trong đời tu chẳng những không làm giảm phẩm giá, mà còn giúp nhân vị trưởng thành, nhờ phát triển sự tự do của con cái Thiên Chúa[17] . Nhờ vâng phục, chúng ta được thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành.
c. Tinh thần đối thoại trong đời sống cộng đoàn
Đối thoại là một trong những phương thế để giúp mọi người hiểu biết, tôn trọng và yêu thương nhau hơn. Dĩ nhiên, chúng ta cần phải đối thoại trong tình thân ái và chân thành[18] . Giáo hội cũng mời gọi mỗi người cần sống đơn sơ, vui vẻ, sống hiệp thông trong chiều kích đối thoại để hiểu biết và yêu thương nhau.
Đối thoại là chúng ta trao đổi sự hiểu biết, cảm thông, giúp đỡ nhau khi cần. Tuy nhiên, nếu muốn có đối thoại đích thực thì chúng ta phải biết lắng nghe. Chính khi ta có cơ hội gặp gỡ, chia sẻ và ngồi lại với nhau để tìm ra ý kiến chung là khi cộng đoàn được thăng tiến.
Thật vậy, đối thoại với nhau trong một bầu không khí tin tưởng và cởi mở[19] , trong tình thân hữu và bác ái giúp cảm nghiệm được anh em/ chị em sống chung với nhau dịu ngọt dường nào[20] .Trong bầu khí ấy, mỗi người có thể thấy căn tính của mình được nhìn nhận và phát huy những khả năng sống tương quan[21] . Vì đối thoại chính là dấu chỉ của ý muốn cùng tiến tới sự hiệp nhất toàn hảo trên con đường dẫn đến chân lý và yêu thương[22] .
d. Tính hỗ tương trong đời sống cộng đoàn
Tu luật của mỗi hội dòng dù hình thức áp dụng khác nhau, nhưng đều nhấn mạnh hai điểm: Từ bỏ quyền tư hữu và sẵn sàng để chung mọi sự. Thật vậy, “đặt các tài sản vật chất làm quỹ chung thì chưa đủ; quan trọng hơn nữa là hiệp thông những điều tốt nhất và những khả năng cá nhân, những thiên tài và năng khiếu, những trực giác và cảm hứng, và điều sâu xa hơn nữa và cần phải cổ võ là sự chia sẻ những của cải thiêng liêng”[23] .
Trong Tông Thư gửi tất cả những người tận hiến nhân dịp ‘Năm Đời Sống Thánh Hiến’, Đức Thánh Cha Phanxicô không ngừng mời gọi chúng ta thực hành sự chia sẻ những tài nguyên vật chất và tinh thần. Ngài đã đặt câu hỏi: “Làm cách nào để cho mỗi người có thể biểu lộ chính mình, được đón nhận với những ân ban đặc thù, được hoàn toàn đồng trách nhiệm?”.
Quả thật, những người tận hiến hợp nhau nên “một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4, 32). Để xây dựng tình huynh đệ, tu sĩ cảm thấy trong lòng yêu sách là đặt mọi sự làm của chung: những tài sản vật chất và kinh nghiệm thiêng liêng, những tài năng và cảm hứng, kể cả lý tưởng tông đồ và việc phục vụ bác ái[24] . Đó cũng chính là tư tưởng của thánh Baxiliô, khi ngài nhấn mạnh: “Trong đời sống cộng đoàn, sức mạnh Thánh Thần tác động trong một người, thì cũng được chuyển thông cho hết mọi người… Mỗi người không những chỉ được hưởng những ân ban riêng cho mình nhưng còn gia tăng chúng lên bằng cách thông chia với những người khác, và như thế mỗi người được hưởng những ân huệ của kẻ khác như là những ân huệ của chính mình”.
Vì thế, tính hỗ tương trong đời sống cộng đoàn chính là nền tảng để chúng ta xây dựng tình huynh đệ trong cộng đoàn:“Chúng ta càng chia sẻ những thứ là trung tâm và quan trọng của đời sống, thì mối dây huynh đệ càng chặt chẽ”[25] .
3. Lương thực nuôi sống tình huynh đệ
Trong đời sống cộng đoàn, chúng ta phải xác tín rằng sự hiệp thông huynh đệ không chỉ là một phương tiện giúp thi hành một sứ vụ, mà còn là nơi Thiên Chúa ngự, nơi mà người ta có thể kinh nghiệm được sự hiện diện của Chúa phục sinh (x. Mt 18,20). Điều này được thực hiện nhờ tình yêu hỗ tương của các phần tử trong cộng đoàn, tình yêu nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và Thánh Thể, được thanh luyện nhờ bí tích Hòa Giải và được nâng đỡ nhờ lời nguyện xin hiệp nhất[26] .
Nguồn mạch đầu tiên của mọi linh đạo Kitô giáo chính là Lời Chúa, vì chính Lời Chúa đã quy tụ chúng ta và dân Thiên Chúa chỉ có thể được xây dựng vững vàng trên nền tảng Lời Chúa[27] . Hơn nữa, Lời Chúa nuôi dưỡng người thánh hiến tương quan thân tình với Thiên Chúa hằng sống, với ý định cứu chuộc và thánh hóa của Người. Vì thế, ngay từ buổi khai nguyên của các hội dòng tận hiến, và đặc biệt trong các đan viện, việc suy gẫm Sách Thánh – Lectio Divina – đã được quý trọng. Nhờ việc đọc Kinh Thánh mà Lời Thiên Chúa thấm vào cuộc sống, chiếu dọi ánh sáng của sự khôn ngoan, hồng ân của Thánh Thần. Việc cùng nhau suy niệm Lời Chúa trong Kinh Thánh có một giá trị lớn: khi suy niệm chung với nhau, chúng ta vui sướng chia sẻ cho nhau những kho tàng kín múc từ Lời Chúa, nhờ đó chúng ta cùng tiến lên và giúp nhau bước đi trong đời sống tâm linh[28] . Trong tông hiến Vultum Dei Quaerere, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở rằng: “Lectio Divina chưa thể kết thúc bao lâu nó chưa đưa đến hành động (actio), chưa thúc đẩy người tín hữu biến cuộc sống của mình trở nên quà tặng cho tha nhân trong tình bác ái”[29] . Vì thế, Lời Chúa chính là nguồn mạch đầu tiên của mọi đời sống thiêng liêng và là nguyên lý hiệp thông của các cộng đoàn[30] .
Để thực sự duy trì sự hiệp thông với Chúa và với nhau, phụng vụ thánh hẳn là một phương thế không thể thiếu, đặc biệt là việc cử hành Thánh lễ và các giờ kinh phụng vụ. Thật vậy, “Thánh Thể là bí tích gặp gỡ cao trọng nhất với chính ngôi vị Đức Giêsu, do bí tích này “chứa đựng toàn bộ kho tàng thiêng liêng của Giáo hội là chính Đức Kitô”. Thánh thể là trung tâm điểm đời sống của những người đã chịu phép rửa và những người sống đời thánh hiến, vì thế bí tích này cũng là trung tâm điểm của đời sống chiêm niệm”[31] . Chúng ta phải xác tín rằng: “Trung tâm cộng đoàn là Thánh Thể”[32] . Đây cũng là điều Mẹ Teresa Calcutta nhắn gửi đến các con cái của mẹ: “Thánh Thể đã trở thành nguồn lực sức mạnh chính yếu của các tu sĩ Thừa Sai Bác Ái”[33] . Việc cử hành mầu nhiệm Mình và Máu Chúa củng cố và phát triển sự hiệp nhất tình yêu của những người đã dâng hiến cho Thiên Chúa. Chính xoay quanh bí tích Thánh Thể, được cử hành hoặc tôn thờ “nguồn mạch và đỉnh cao” của mọi hoạt động trong Giáo Hội, ta kiến tạo được sự hiệp thông các tâm hồn, sự hiệp thông này là khởi điểm cho tất cả sự tăng trưởng trong tình huynh đệ[34] . Vì thế “tất cả mọi nền giáo dục về tinh thần cộng đoàn đều phải bắt đầu từ đây”.
Những người tận hiến luôn quyết tâm hoán cải qua bí tích Hòa Giải: “Ước gì việc cử hành thường xuyên bí tích Hòa giải hoặc bí tích Sám hối cá nhân cũng như cộng đoàn có thể trở nên phương tiện đặc biệt để các con chiêm ngắm Đức Giêsu Kitô, dung nhan của lòng thương xót của Chúa Cha, nhờ đó các con có thể đổi mới con tim và thanh luyện mối tương quan của các con với Thiên Chúa trong chiêm niệm”[35] . Trên con đường cùng đi với anh chị em mình, kinh nghiệm hạnh phúc được tha thứ qua bí tích Hòa giải khiến lòng chúng ta được trưởng thành hơn và tiến tới hơn trong lòng trung tín, nhờ thường xuyên gặp gỡ Thiên Chúa[36] .
Cuối cùng, chúng ta hãy nhờ Đức Trinh Nữ Maria làm dây liên kết mỗi người trong cộng đoàn, nhờ Mẹ làm trung gian cho tình huynh đệ của chúng ta bằng cách đổi mới việc kết hợp thiêng liêng với Mẹ, khi cùng Mẹ ôn lại những mầu nhiệm của Con Mẹ và đặc biệt bằng chuỗi Mân Côi.
Kết luận
“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay
Anh em được sống vui vầy bên nhau” (Tv 132,1)
Giáo hội trao phó cho những người sống đời thánh hiến một nhiệm vụ quan trọng: Những người tận hiến được yêu cầu trở thành những chuyên viên hiệp thông và thực hành linh đạo hiệp thông[37] . Nhờ đó, người thánh hiến trở nên những chứng nhân và những người kiến tạo kế hoạch hiệp thông, đỉnh cao của lịch sử nhân loại theo ý muốn của Thiên Chúa.
Quả thật, đời sống hiệp thông trở thành một sức mạnh thu hút người khác tin vào Đức Kitô. Chính vì thế, tình huynh đệ trong cộng đoàn chính là nền tảng để những người tận hiến trở thành những chuyên viên hiệp thông trong cộng đồng Giáo Hội và nhân thế.
Tuy nhiên, trong đời sống hiện nay, do xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế thị trường, thông tin liên lạc, công tác bác ái xã hội… đang khẩn thiết và mang tính thời sự, nên nhiều thành viên trong cộng đoàn chưa cảm nghiệm được giá trị của đời sống huynh đệ, quá đặt nặng nhu cầu của bản thân mà quên đi những người cùng lý tưởng, cùng chung sống và cùng hướng đến một điểm hẹn tình yêu.
Xin Đức Maria – Mẹ của Chúa Giêsu, giúp chúng ta hiểu và sống mọi ngày tình huynh đệ phát xuất từ thánh tâm Con Mẹ, theo cộng đoàn Ba Ngôi hiệp nhất, để chúng con trở thành những con người của sự hiệp thông và đem tình yêu đến cho tất cả mọi người.
[1] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Thư Novo Millennio Ineunte.
[2] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Vita Consecrata, s 51.
[3] Mẹ Teresa Calcutta.
[4] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Mục Vụ, số 24.
[5] Thánh Bộ Tu sĩ, Huấn Thị Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 8.
[6] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Sứ Điệp Gửi Đến Phiên Họp Khoáng Đại Của Bộ Các Hội Dòng Thánh Hiến Và Các Tu Đoàn Tông Đồ, ngày 20-11-1992.
[7] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Vita Consecrata, số 41.
[8] X. Kiến nghị 20 góp ý cho Đức Thánh Cha soạn văn kiện hậu Thượng Hội Đồng.
[9] X. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, số 100.
[10] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông Thư Gửi Tất Cả Những Người Tận Hiến Nhân Dịp Năm Đời Sống Thánh Hiến, ban hành ngày 21/11/2014
[11] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội, số 3.
[12] X. Thánh Bộ Tu sĩ, Huấn thị Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, 53.
[13] Sách Gương Chúa Giêsu, Chương XIII, quyển 3
[14] X. Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội, số 42.
[15] X. Công Đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Về Dòng Tu, số 14.
[16] Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 4.
[17] X. Công Đồng Vaticanô II, Sđd, số 4.
[18] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ,Tông huấn Vita Consecrata, 102.
[19] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Sđd, số 50.
[20] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Sđd, số 101.
[21] Thánh Bộ Tu Sĩ, Huấn Thị Quyền Bính Và Vâng Phục, Số 20.
[22] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II , Sđd, số 101.
[23] Thánh Bộ Tu Sĩ, Huấn Thị Quyền Bính Và Vâng Phục, Số 20.
[24] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Sđd, số 42.
[25] HĐ số 32.
[26] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Sđd, số 42.
[27] X. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Thư Chung 2005: “Sống Lời Chúa”.
[28] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Vita Conserata, số 94.
[29] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông hiến Vultum Dei Quaerere, số 21.
[30] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Sđd, số 22.
[31] CĐ Vaticanô II, Sắc Lệnh Về Chức Vụ Và Đời Sống Linh Mục, số 35.
[32] X. Văn Kiện “Những Yếu Tố Cốt Yếu Trong Giáo Huấn Của Hội Thánh Về Đời Tu”, Số 20.
[33] Mẹ Teresa Calcutta, Con Đường Yêu Thương, tr 79.
[34] Thánh Bộ Tu sĩ, Huấn Thị Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 14.
[35] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông Hiến Vultum Dei Quaerere, số 23.
[36] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Vita Conserata, s 95.
[37] X. Kiến nghị 28 góp ý cho Đức Thánh Cha soạn văn kiện hậu Thượng Hội Đồng.
CÁC THẾ HỆ TRONG CỘNG ĐOÀN
NỐI KẾT VÀ HIỆP THÔNG
FM. Bênađô Phạm Thanh Bình
Cộng đoàn thánh hiến là một hồng ân của Chúa Thánh Thần, do tình yêu Thiên Chúa đổ tràn đầy tâm hồn chúng ta nhờ Thần Khí. Chính Thiên Chúa đã kêu gọi một số Kitô hữu và qui tụ họ trong một cộng đoàn thánh hiến, giống như một gia đình thực sự[1] . Như thế, cộng đoàn đời sống thánh hiến, tự bản chất sâu xa thuộc về trật tự của ân sủng. Mặt khác, đời sống cộng đoàn thánh hiến cũng là một thực tại xã hội, tuân theo những qui luật phát triển chung của xã hội loài người với những thế hệ khác nhau. Những con người trong các thế hệ khác nhau ấy, mang đầy đủ những ưu khuyết của kiếp nhân sinh. Đời sống cộng đoàn cũng không thể đi ra ngoài qui luật sinh tồn ấy. Đó là sự hỗ trợ, bổ sung và cả những xung đột trong cách nghĩ, cách sống khác nhau giữa các thế hệ trong cộng đoàn khả dĩ làm tổn thương đến sự hiệp thông huynh đệ.
Vì vậy, việc nối kết các thế hệ trong cộng đoàn là một trong những yếu tố thiết yết để xây dựng một cộng đoàn hiệp nhất. Nhưng làm sao để nối kết được các thế hệ trong cộng đoàn? Đó là vấn đề lớn chúng ta cần bàn tới. Chúng ta cần khởi đầu bằng một hướng đi cụ thể, như chính lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Trong bối cảnh xã hội cũng như dân sự, tôi kêu gọi đừng xây tường nhưng hãy xây cầu. Đừng giải quyết cái ác bằng cái ác. Hãy đánh bại cái ác bằng sự thiện, và sự tha thứ”[2] .
1. Những thách đố cho sự hiệp nhất cộng đoàn
a. Thách đố ngoại tại
“Sự bùng nổ thông tin, bắt đầu từ những năm 1960, đã ảnh hưởng đáng kể và đôi khi bi thảm, đến mức độ tổng quát về thông tin, đến nhận thức về trách nhiệm xã hội và tông đồ, đến tính di động tông đồ và phẩm chất của những mối tương quan nội tại, đó là chưa kể đến phong cách sống đặc biệt và bầu khí trầm lặng phải là đặc trưng của cộng đoàn tu trì”[3] . Trong một thực trạng xã hội như thế, không biết thời đại kỹ thuật số và công nghệ thông tin như hiện nay có đủ khả năng nối kết được mọi người trong một cộng đoàn, hay là một chiều hướng ngược lại? Quả thực, chỉ cần trong tay có chiếc điện thoại thông minh, thì các tin tức trên toàn thế giới được cập nhật trong giây lát, kết nối được với hàng ngàn người bạn… Nhưng với những người thân, người anh em bên cạnh chúng ta thì sao? Liệu mỗi chúng ta có làm chủ được điều đó hay không?
Một thực tế, trong đời sống chung không phải lúc nào tình huynh đệ cũng được ấm nồng và xuôi thuận. Có lúc tình huynh đệ cộng đoàn bị tổn thương, đó cũng là những nguy cơ đưa chúng ta chạy theo những đam mê không tốt với phương tiện thông tin hiện đại ấy. Từ đó, có thể dẫn chúng ta đi tìm bù trừ những mối tương giao không mấy tốt đẹp bên ngoài; tìm những thứ thông tin không mấy thích hợp, để như một sự bù đắp cho một tâm hồn trống vắng Thiên Chúa, trống vắng tình yêu thương huynh đệ. Đó là những nguy cơ làm cho đời sống hiệp nhất trong cộng đoàn dễ bị bế tắc và đổ vỡ.
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà chủ nghĩa cá nhân hưởng thụ được đề cao, đó là đặc điểm của hiện tượng tục hóa. Trong khi đó, tinh thần dấn thân của tu sĩ trong đời sống dâng hiến cũng sa sút, kết hợp với sự suy yếu nhận thức đức tin, đã làm ảnh hưởng đến nếp sống tu trì ở nhiều nơi. Những nhân tố này đã thử thách lớn lao với khả năng “chống lại sự dữ” của các cộng đoàn tu trì, ảnh hưởng đến tương giao huynh đệ trong cộng đoàn[4] .
Dĩ nhiên, trong đời sống đan tu, chúng ta cũng phải chịu ảnh hưởng tiêu cực nhất định từ hoàn cảnh xã hội đó. Thực tế cho thấy, gần đây số lượng và chất lượng của những ơn gọi trẻ đến với các đan viện suy giảm. Lý do vì họ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các trào lưu xã hội, những “tiêm nhiễm” các nếp sống đa tạp từ bên ngoài, vì thế khi vào đan viện họ đã thực sự gây nhiều khó khăn cho công tác huấn luyện các ứng sinh. Đức Thánh Cha Phanxicô đặt ra một thách đố cho các cộng đoàn đan tu chính là chất lượng của đan sĩ. Niềm hy vọng tương lai cho một cộng đoàn thánh hiến không thể dựa trên những con số, nhưng ở trên Đấng mà chúng ta đặt lòng tín thác[5] .
b. Thách đố nội tại
Những khác biệt giữa các thế hệ trong cộng đoàn, nhất là cộng đoàn có nhiều độ tuổi, nhiều hoàn cảnh, nhiều môi trường và nếp sống khác nhau, cũng có thể tạo nên những khác biệt trong các sinh hoạt của cộng đoàn. Thật vậy, khi trong một cộng đoàn tồn tại nhiều thế hệ khác nhau, thường dễ có nguy cơ tạo ra những bất đồng trong việc tập luyện hay thực hành nhân đức; những quan điểm đạo đức mà người lớn tuổi đã thủ đắc trong nền giáo dục và cách huấn luyện trước đây có thể trở nên khó thích nghi cho người trẻ; những nhu cầu sống khắc khổ và nghiêm ngặt của các bậc trưởng thượng cũng có thể gây ra những tranh luận nơi người trẻ; sự khác biệt trong những nhu cầu sinh hoạt giữa người già và người trẻ cũng có thể làm tổn thương đến sự hiệp thông.
Vì thế, trong tác phẩm ‘Thăng Tiến Cộng Đoàn’, Jean Vanier đã đưa ra một nhận xét có phần tiêu cực về thực tế trong nhiều cộng đoàn tu trì, khi cho rằng: “Cộng đoàn có thể là một nơi khủng khiếp. Nơi mà những giới hạn và tính ích kỷ của chúng ta được thể hiện. Quả thực, khi chúng ta sống trọn vẹn với người khác trong cộng đoàn, từ đó chúng ta khám phá ra sự nghèo nàn, yếu đuối và bất tài của mình khi xử sự với người chung quanh. Chúng ta gặp những trở ngại về mặt tình cảm và tinh thần, những lo âu về giới tính, những ham muốn dường như vô độ, những thất vọng và ghen tị, kể cả những ước muốn phá đổ cộng đoàn”[6] . Tình yêu, cảm thông, tha thứ là những yếu tố quan trọng xây dựng sự hiệp thông cộng đoàn, đặc biệt trong những cộng đoàn đa thế hệ.
Trong đời sống chung, người ta không dễ yêu, không dễ tha thứ. Theo như Jean Vanier thì trong mỗi chúng ta luôn tồn tại những “con quái vật”, chúng ta nhận ra chúng nhờ một kinh nghiệm đau thương về những giới hạn, yếu đuối và tăm tối. Những “con quái vật” đó chính là cái tôi ích kỷ, kiêu ngạo, tham lam[7] . Trong thực tế, nhiều khi chúng ta chỉ nhận ra những điều tiêu cực, những con ‘quái vật’ nơi tha nhân, nhưng nơi chính bản thân mình thì không, thậm chí có khi chúng ta lại tôn thờ nó. Hệ quả cuối cùng của sự đánh giá sai lệch này là chúng ta thường muốn chạy trốn đời sống cộng đoàn, né tránh các mối tương quan huynh đệ và như thế sự hiệp thông cộng đoàn có nguy cơ bị tổn thương và phá vỡ.
Để tháo gỡ những khó khăn trên, Giáo Hội mời gọi mỗi thành viên trở về nguồn. Đó là sự gặp gỡ sâu xa và đầy đủ hơn với Tin Mừng và đoàn sủng đấng sáng lập. Trong chiều hướng đó, Bộ Tu Sĩ đã đưa ra một chỉ dẫn rất cụ thể như sau: “Cuộc gặp gỡ sâu xa và đầy đủ hơn với Tin Mừng và với bước đột phá của đoàn sủng sáng lập, đã là sức thúc đẩy mãnh liệt để tìm kiếm một tinh thần đích thực làm sinh động tình huynh đệ, những cơ cấu và tập quán phải thể hiện tình huynh đệ ấy cách thích đáng. Ở đâu việc gặp gỡ những nguồn mạch và hứng khởi nguyên thủy này có phần phiến diện hoặc yếu kém, thì ở đó đời sống huynh đệ gặp nguy hiểm và sa sút”[8] .
Tuy nhiên, Giáo Hội cũng nhìn nhận rằng, những phương dược trên đây thật sự khó khăn đối với cả người trẻ và người cao niên hôm nay. Người trẻ thường đề cao chủ nghĩa tự do, coi trọng thành công cá nhân, trong khi những người lớn tuổi lại được thấm nhuần tinh thần vâng phục và từ bỏ, đôi khi có phần khắt khe trái với chủ trương nơi người trẻ. Trong đời sống chung, nếu không có sự hiệp thông, không có sự tự trao hiến của mỗi phần tử, thì cần phải dẹp bỏ ảo tưởng cho rằng mọi sự phải đến từ những người khác; đồng thời cần phải giúp mỗi người khám phá, với lòng biết ơn, về tất cả những gì mình nhận lãnh và thực sự đang nhận lãnh từ tha nhân.
Thật ra ngay từ đầu, người sống đời thánh hiến nhất thiết phải được chuẩn bị để mình không phải chỉ là “khách hàng” của cộng đoàn, nhưng là người xây dựng cộng đoàn. Mỗi thành viên trong cộng đoàn phải là người có trách nhiệm đối với sự thăng tiến của anh chị em trong cộng đoàn mình; những người cởi mở và có khả năng lãnh nhận hồng ân của người khác; những người có thể giúp đỡ và được giúp đỡ, những người có thể thay thế và có thể được thay thế[9] .
2. Tha nhân là một hồng ân
a. Đón nhận anh chị em với lòng biết ơn
Trong sứ điệp Mùa Chay 2017, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã mời gọi mọi thành phần Dân Chúa luôn lắng nghe Lời Chúa, để nhận ra và phụng sự Chúa Kitô trong tha nhân, nhất là những người nghèo khổ. Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy mở lòng ra với tha nhân, nối kết và hiệp thông với tha nhân bằng những sự hiện diện và gặp gỡ. Quả thực, qua dụ ngôn người phú hộ và ông Lazaro nghèo khó (x. Lc 6,1-31) là một bài học lớn lao cho chúng ta. Đức Giáo Hoàng lấy câu chuyện Lazaro trong Tin Mừng để dạy chúng ta. Ngài nói: “Ông Lazzaro dạy chúng ta rằng tha nhân là một hồng ân. Tương quan đúng đắn với con người hệ tại nhìn nhận giá trị của họ với lòng biết ơn. Cả người nghèo nơi cổng nhà người giàu không phải là một điều cồng kềnh gây phiền toái, nhưng là một lời mời gọi hoán cải và thay đổi cuộc sống”[10] . Theo ngài, lời mời đầu tiên trong dụ ngôn này đưa ra là hãy mở cửa lòng chúng ta cho tha nhân, vì mỗi người là một hồng ân, dù là người láng giềng của chúng ta hay là người xa lạ.
Sự hiện diện của mỗi anh chị em trong cộng đoàn đan tu cũng chính là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa. Cho nên, mỗi chúng ta luôn biết mở lòng ra để đón nhận anh chị em, một sự đón nhận không chỉ là bề ngoài “tay bắt mặt mừng”. Nhưng trước hết, chúng ta cần mở rộng con tim đầy lòng yêu mến. Phải có tình yêu chân thực, chúng ta mới thực sự có khả năng đón nhận anh chị em, dù còn đó những giới hạn, những yếu đuối, khiếm khuyết nơi anh chị em mình.
Tha nhân là một hồng ân, anh em xung quanh chúng ta cũng là một hồng ân. Vì thế, tình huynh đệ trong đời sống cộng đoàn không thể chấp nhận một lối sống loại trừ nhau, không thể xây đắp những “bức tường” của sự đố kỵ, ghen tị, thù oán để ngăn cách nhau; nhưng luôn biết bắc những “chiếc cầu” của sự hiệp thông huynh đệ, của tình bác ái yêu thương. Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã khẳng định: “Cái đạo ăn chay, cái đạo đánh tội, cái đạo chầu Thánh Thể, các đạo ấy dễ mà không chắc chi; còn cái đạo yêu thương anh em, đạo ấy chắc là đạo thật”[11] . Đời sống cộng đoàn được kết nối không chỉ bằng những qui luật cứng ngắc, nhưng kết nối bằng những sự tương quan đích thực, từ những “mắt xích”, những “chất keo” của cảm thông chia sẻ, sự nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau, của sự kính trọng và yêu thương. Tương quan đúng đắn trong tình huynh đệ cộng đoàn hệ tại sự nhìn nhận giá trị của mỗi thành viên với lòng biết ơn.
b. Sống các mối tương quan
Điều cốt lõi liên kết trong đời sống tu trì chúng ta là phải sống ba tương quan: với Chúa, với nhau trong cộng đoàn và với thế giới.
– Tương quan với Chúa: Chính tình yêu Chúa giúp chúng ta sống các lời khấn. Việc tuyên giữ các lời khấn chính là sự tự hiến của tình yêu và trong tình yêu, chứ không chỉ là một ràng buộc thuần túy của lề luật.
Qua đời sống cộng đoàn, chúng ta trao hiến cho Thiên Chúa nhờ việc trao hiến cho nhau. Khi chúng ta yêu Chúa bằng tình yêu đích thực, dâng trọn vẹn cho Chúa rồi mọi tình yêu khác đều nhẹ nhàng. Ngược lại, một khi tình yêu với Chúa nhạt rồi, chúng ta sẽ dễ dàng đi tìm “tình yêu khác” bù đắp sự trống vắng trong tâm hồn. Có một thực tế tích cực là khi tình yêu với Chúa nồng nàn, mỗi người chúng ta sống chu toàn các lời khấn và chu toàn lề luật một cách nhẹ nhàng, thanh thản.
– Tương quan giữa các thế hệ với nhau trong cùng một cộng đoàn: Trong đời sống cộng đoàn, thường tồn tại những khó khăn do khoảng cách về tuổi tác và sự khác biệt trong nhận thức giữa các thế hệ. Khoảng cách về độ tuổi có thể gây ra sự khó hòa hợp trong cách nghĩ, cách sống….; khoảng cách về tri thức cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các mối tương quan già trẻ, trước sau, vì mỗi thế hệ thường được đào luyện bởi những cách giáo dục trong các thời điểm khác nhau, nên cũng có những cách hiểu, cách đánh giá, cách thực hành nhân đức không giống nhau. Vì vậy, để nối kết tất cả nên một trong cộng đoàn tu trì, mỗi thành viên của cộng đoàn cần nhìn nhận và đánh giá đúng sự khác biệt và tìm cách tự điều chỉnh sao cho có thể hòa hợp với nhau. Cụ thể, mỗi thành viên hãy biết quên mình đi, không lấy chính mình làm tiêu chuẩn mà luôn đón nhận người khác như là hồng ân của Thiên Chúa. Như thế, chúng ta mới dễ dàng thiết lập tương giao huynh đệ chân thành, giúp cộng đoàn luôn đầy ắp yêu thương hiệp nhất và hiệp thông.
– Tương quan với thế giới: Đan sĩ luôn được mời gọi sống tương quan với tha nhân qua chính đặc sủng của Dòng mình. Đặc sủng đó mời gọi chúng ta, một khi đã hoàn thiện chính mình trong tương quan với Chúa Giêsu qua lời khấn dòng, chúng ta hướng về tha nhân với lòng khao khát “chuyển thông” ơn cứu độ cho họ bằng đời sống cầu nguyện và hy sinh của mình[12] . Sự hy sinh đó chính là tình yêu tự hiến. Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận luôn mong muốn mỗi đan sĩ hướng về cánh đồng truyền giáo bao la tại Việt Nam; trung thành và làm sinh động đặc sủng Đấng Sáng Lập là cách thế tốt nhất để tương quan với tha nhân. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khuyên: “Các con hãy duy trì các đặc sủng cách sinh động, để chúng con được phong phú và thích nghi mà không giảm bớt tính cách độc đáo, với cùng một sức mạnh mà Thánh Linh đã gợi lên, để phục vụ Giáo hội và góp phần vào việc thiết lập nước Thiên Chúa”[13] .
3. Hiệp thông các thế hệ trong cộng đoàn
Sự nối kết các thế hệ trong cộng đoàn không chỉ dừng ở việc thực hiện một ý tưởng cao đẹp về đời sống huynh đệ, nhưng còn nhằm thể hiệc sự hiệp nhất trong mầu nhiệm hiệp thông Ba Ngôi Thiên Chúa. Điều này chỉ được thể hiện rõ nét khi tu sĩ biết thực thi huấn lệnh Chúa truyền là: ‘yêu như Chúa yêu’ (x. Ga 13,34-35). Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Đời thánh hiến là một dấu chứng hiệp thông trong Giáo Hội và dấu chứng hiệp thông đó được thể hiện cụ thể qua những giá trị thường ngày trong đời sống cộng đoàn”[14] .
a. Cảm thông và chia sẻ
Hồn sống của cộng đoàn chính là sự hiệp thông huynh đệ giữa các thành phần với nhau. Để xây dựng tình hiệp nhất đó, thiết tưởng cộng đoàn cần có những những cuộc gặp gỡ và chia sẻ với nhau. Bởi lẽ, nhờ những cuộc gặp gỡ, chúng ta mới có sự hiểu biết lẫn nhau, nảy sinh sự cảm thông, xích lại gần nhau và dễ dàng chia sẻ cho nhau. Tuy nhiên, điều khó khăn nhất trong sự hiệp thông cộng đoàn là lối sống khép kín. Sự khép kín trong tương giao huynh đệ là mối nguy hại dẫn đến nhiều bế tắc khác. Một cộng đoàn khi còn là một nhóm nhỏ, ít người, ít công việc, việc họp mặt thường xuyên xem ra dễ dàng. Nhưng khi cộng đoàn lớn lên và phát triển cả về số thành viên lẫn công việc, hai nguy cơ có thể xảy ra: một là khó có thể quy tụ cộng đoàn – hai là những cuộc gặp gỡ diễn ra thường theo xu hướng tổ chức công việc, giải quyết các vấn đề theo những quy luật hơn là những cuộc gặp gỡ mang tính nhân vị, chia sẻ và đậm chất huynh đệ. Do đó, các thành viên trong cộng đoàn hay viện vào lý do bận công việc nên dần dần né tránh và xa lìa nhau.
Những sinh hoạt thường ngày trong đời sống cộng đoàn đan tu diễn tả rõ nhất sự gặp gỡ và hiệp thông huynh đệ là các giờ kinh phụng vụ và thánh lễ, các giờ cơm chung và giờ hội chung của cộng đoàn. Thế nhưng, một khi tổ chức của cộng đoàn quá thiên về cơ cấu tổ chức, về công việc, về sự phát triển vật chất… mà thiếu tình hiệp thông huynh đệ, yêu thương và chia sẻ, cộng đoàn đó sẽ rất bế tắc và có nguy cơ đổ vỡ; không còn là một cộng đoàn huynh đệ đích thực. Một cộng đoàn huynh đệ đích thực, cần mỗi thành viên có một trái tim nhân hậu và cảm thông, một tâm hồn quảng đại và cởi mở, một tinh thần nhạy bén và mới mẻ.
b. Nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau
Điều quan trọng trong đời sống cộng đoàn là sự kết hợp những khác biệt giữa mỗi cá thể riêng biệt theo từng thế hệ đã được sinh ra và lớn lên trong nhiều hoàn cảnh. Cho nên, những xung đột xảy đến trong đời sống cộng đoàn như là một hệ quả của định luật tự nhiên. Vì vậy, mỗi thành viên cần có đức tính nhẫn nại, chịu đựng nhau và luôn sẵn sàng tha thứ cho những thiếu sót, những yếu đuối của nhau. Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu Êphêsô là: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4,2), và “Phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau” (EP 4,32).
Sự nhẫn nại, chịu đựng là điều rất cần thiết trong đời sống cộng đoàn để xây dựng những mối tương quan trong sự khác biệt và mang tính phức tạp nơi đời sống chung. Đó như là thứ “dược liệu” nhằm xoa dịu những căng thẳng, bất hòa giữa các cá nhân với nhau. Nhờ đó, các tu sĩ có thể hướng đến tình yêu hiệp nhất trong mầu nhiệm Ba Ngôi với sự kính trọng và yêu thương. Đó cũng là cách thức mà mỗi tu sĩ có thể mang gánh nặng cho nhau như thánh Phaolô mời gọi để giữ trọn luật Đức Kitô (x. Gl 6,2).
c. Kính trọng và yêu thương nhau
Sự tồn tại các thế hệ khác nhau trong cộng đoàn tu trì sẽ tạo nên sự phong phú nhất định cho đời sống chung. Tuy nhiên, để duy trì và phát huy sự phong phú đó, các thành viên cần có những đóng góp tích cực của mình theo những đòi hỏi của nền văn hóa và cả những kỷ luật tu trì nữa. Đó là sự kính trọng, nhường nhịn theo “lễ nghĩa gia phong”; đó là tình bác ái huynh đệ Tin Mừng. Nghĩa là những bậc cao niên luôn yêu thương và nêu gương cho những người trẻ trong đời sống, còn những người trẻ thì tôn trọng và biết ơn người già. Thánh Phụ Biển Đức đã đưa ra một sự quân bình cần thiết và thiêng liêng hóa tương quan này. Ngài đề nghị mỗi thành viên trong cộng đoàn luôn phải kính trọng và yêu thương nhau. Tuy nhiên, sự kính trọng và yêu thương đó luôn hướng về một khuôn mẫu tuyệt đối và đích điểm là Đức Giêsu Kitô. Trong Tu luật ở chương 63, Thánh Biển Đức nhắc nhở rằng: “Đàn em hãy tôn kính đàn anh, đàn anh hãy yêu thương đàn em. Về việc xưng hô, không ai được phép gọi suông tên người khác, nhưng đàn anh hãy gọi người dưới là ‘em’, còn đàn em phải xưng đàn anh là ‘cha’, để tỏ lòng tôn kính họ như cha. Vì tin Viện phụ là đại diện Chúa Kitô, nên ta hãy xưng ngài là Đức Viện phụ, không phải vì ngài tự gán cho mình tước hiệu đó, nhưng vì chúng ta tôn kính và yêu mến Chúa Kitô”[15] . Trong chương nói về sự vâng phục nhau, thánh Biển Đức còn dạy thêm: “Không những mọi người phải bày tỏ sự tốt lành của đức vâng phục đối với viện phụ, mà anh em còn phải vâng lời nhau”[16] .
Hơn nữa, khi nói về lòng nhiệt thành tốt lành mà các đan sĩ phải có, thánh Biển Đức còn đề cao sự kính trọng và yêu thương huynh đệ giữa các anh em với nhau: “Thứ nhiệt tâm mà đan sĩ phải say mê tập luyện: phải ân cần tôn kính lẫn nhau, hết sức nhẫn nại chịu đựng những yếu đuối xác hồn của nhau; thi đua vâng lời nhau; đừng ai chạy theo tư lợi, nhưng tốt hơn hãy mưu ích cho tha nhân, yêu thương nhau trong tình huynh đệ thanh khiết, kính sợ Chúa trong đức ái, kính yêu viện phụ trong tình mến chân thành và khiêm tốn”[17] .
Quả thực, cộng đoàn trở thành “Schola Caritatis” – ‘Trường Dạy Đức Ái’ cho người trẻ cũng như cho người cao niên. Trong trường học này, cả người trẻ và người cao niên đều phải học biết yêu mến Thiên Chúa, và yêu thương anh chị em chung sống với mình. Ngài còn nhắc các đan sĩ phải yêu mến đồng loại, những người đang rất cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa và tình liên đới huynh đệ[18] . Như vậy, một trong những yếu tố quan trọng giúp nối kết tình hiệp thông huynh đệ giữa các thế hế trong cộng đoàn thánh hiến là sự kính trọng, quan tâm giúp đỡ nhau, luôn tha thứ và giúp nhau hàn gắn những vết thương. Đồng thời, mỗi thành viên cũng phải biết tự chữa lành, luôn cộng tác với nhau trong tinh thần và trách nhiệm để xây dựng cộng đoàn cách toàn diện.
Khi quan sát để đánh giá một cộng đoàn có hiệp nhất hay không, thì cần xem xét đến sự thể hiện giữa các mối tương quan huynh đệ với nhau. Khi các thế hệ trong cộng đoàn thực sự giàu lòng yêu mến và kính trọng nhau, chúng ta có thể khẳng định được đó là một gia đình thực sự, sống hiệp nhất với nhau và luôn có Chúa hiện diện.
Kết luận
Qua những gì đã trình bày ở trên, chúng ta chân nhận rằng sự hiện diện của nhiều thế hệ trong cộng đoàn thánh hiến, tuy có những khó khăn trong việc hòa hợp giữa các thế hệ, nhưng sự hiện diện này cũng đem lại những lợi ích nhất định khi giữa họ lan tỏa những gương sáng và sự trợ giúp hỗ tương. Trong những năm chuẩn bị đón mừng “Bách Chu Niên” ngày cha Tổ Phụ lập Dòng, chúng ta có cơ hội nhìn lại quá khứ để cảm tạ những hồng ân Chúa ban qua cha Tổ Phụ và các thế hệ cha anh đi trước; nhìn lại gia sản các ngài để lại là tinh thần và nếp sống đan tu thật trân quý. Đồng thời, chúng ta cũng cần nhìn thẳng vào thực tại, để chấp nhận những thách đố của đời sống cộng đoàn, bao gồm cả sự bất hòa hợp giữa các thế hệ. Quả thực, dù đời sống cộng đoàn thánh hiến đan tu được dệt bằng chính ân sủng Chúa Thánh Linh, nhưng mỗi con người làm lên cộng đoàn đó đều mang những giới hạn của thân phận con người. Sự hiệp thông giữa các thế hệ trong cộng đoàn sẽ họa theo mẫu gương hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Để được như thế mỗi người luôn cần sự cảm thông, nhẫn nại, chịu đựng, tha thứ cho nhau. Đó là những “dưỡng chất” tạo nên sự sinh động và kết nối giữa các thế hệ trong cộng đoàn. Nhờ đó, chúng ta tiếp tục vững bước hướng về tương lai với một niềm tin tưởng, hy vọng và cậy trông vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa và sự bảo tồn di sản các bậc cha anh để lại. Đó cũng chính là điều Đức Thánh Cha Phanxicô tha thiết mời gọi, mà chúng ta đã được lắng nghe ngay từ đầu bài viết này: “Trong bối cảnh xã hội cũng như dân sự, tôi kêu gọi đừng xây tường nhưng hãy xây cầu. Đừng giải quyết cái ác bằng cái ác. Hãy đánh bại cái ác bằng sự thiện, và sự tha thứ”.
[1] X. Vaticano II, Sắc Lệnh Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu, s15.
[2]Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Buổi Tiếp Kiến Chung Tại Sảnh đường Phaolô VI, Vatican, ngày 8/2/2017.
[3] Bộ Tu Sĩ, Huấn Thị Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, ban hành ngày 15/01/1994, số 4.
[4] X. Bộ Tu Sĩ, Sđd, số 4đ.
[5] X. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông Thư Năm Đời Sống Thánh Hiến 2015, số I.3
[6] Jean Vanier, Thăng Tiến Cộng Đoàn, (Bài: Một trái tim, một tâm hồn, một tinh thần), tr.10.
[7] X. Jean Vanier, Sđd, tr.11.
[8]Bộ Tu Sĩ, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, 15/01/1994, số 1b.
[9] X. Bộ Tu Sĩ, Sđd, số 24.
[10] X. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Sứ Điệp Mùa Chay, 2017.
[11] Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, Lời Giáo Huấn, số 6.
[12] X. Hiến Pháp Hội Dòng Xitô Thánh Gia, số 2.
[13] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Thư Los Caminos Del Evangelio, gửi các tu sĩ nam nữ Mỹ Châu Latinh, nhân dịp 5 năm truyền giảng Tin Mừng tại thế giới mới (29-6-1990), số 26.
[14] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Vita Consecrata, số 42.
[15] Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 63, 10-13.15.
[16] Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 71,1.
[17] Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 72, 4-10.
[18] Bộ Tu Sĩ, Huấn Thị Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 25.
TÌNH BẠN THIÊNG LIÊNG
TRONG ĐỜI TU
FM. Anrê Dũng Lạc Phạm Văn Phong
Sống trên đời mấy ai không có bạn. Tình bạn như là hơi thở của cuộc sống và tiến triển theo thời gian. Manzoni thật có lý khi nói: “Một trong những hạnh phúc lớn của đời sống là tình bạn và một trong những hạnh phúc lớn của tình bạn là có người gửi gắm một bí mật, một tâm tư”[1] . Thế giới từng chứng kiến những tình bạn tuyệt vời như: Đavit – Gionathan, Lưu Bình – Dương Lễ, Tử Kỳ – Bá Nha. Tình bạn chân thành chấp cánh cho những ước mơ của chúng ta bay xa và là bệ phóng đưa chúng ta tiến dần lên Đấng Vĩnh Cửu.
Trong đời tu cũng thế, nhiều lúc cũng cần đến tình bạn để giúp các tu sĩ dấn thân theo Chúa qua hành vi trao ban và dấn thân phục vụ; ngay cả những lúc cảm thấy thử thách, cô đơn, thất vọng vẫn có người để chia sẻ, cảm thông và nâng đỡ. Con đường nên thánh hay sống viên mãn đời tu sẽ dễ dàng hơn khi có nhiều người bạn bên ta giúp đỡ ta, cùng nắm tay ta bước qua những gian nan vất vả của đời sống thánh hiến. Hơn nữa, trong đời sống thánh hiến: “Tình bạn là trường học yêu thương, ở đó chúng ta nhận thức được chúng ta là ai và tương quan của chúng ta với người khác thế nào, nhờ đó chúng ta biết cách để tương quan với người khác tốt hơn”[2] .
Với chủ đề: “Noi Gương Cha Tổ Phụ, Sống Huyền Nhiệm Hiệp Thông”, người viết xin được trình bày các điểm sau: tình bạn trong Kinh Thánh – những yếu tố căn bản của tình bạn trong đời tu – sống huyền nhiệm tình bạn trong đời sống cộng đoàn.
I. TÌNH BẠN TRONG KINH THÁNH
Kinh Thánh diễn tả đời sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa như là đời sống sẻ chia của tình bạn. Từ niềm hiệp thông Ba Ngôi này, Thiên Chúa tạo nên con người và cho họ đặc ân là được kết bạn với Thiên Chúa. Segundo Galilea đã nói: “Kinh Thánh là cuốn sách về tình bạn, và có thể được xem như một bộ sưu tập thư từ Người bạn tới những người bạn. Tình bạn của Thiên Chúa là chân trời của đời sống chúng ta”[3] . Vậy, chúng ta sẽ tìm hiểu xem cuốn sách này viết gì về tình bạn?
1. Cựu Ước
E. Frethiem viết: “Thiên Chúa đã không chọn tương quan với con người từ nơi xa thẳm, nhưng bước vào thế giới và liên hệ với mọi loài thọ tạo như là bạn”[4] . Theo Cựu Ước, mối thân tình giữa Thiên Chúa và Apbraham là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa không bỏ rơi con người, cho dù con người có tội lỗi thế nào đi nữa. Kinh Thánh đã diễn tả Thiên Chúa đã gọi Apbraham là bạn của Ngài khi nói: “Ta có nên giấu Abraham điều Ta sắp làm chăng?” (St 18,17). Môse người được Thiên Chúa tuyển chọn lãnh đạo để đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập, và lang thang trong sa mạc bốn mươi năm trường. Ông là một con người có đời sống thân tình với Thiên Chúa và được Ngài coi như người “bạn”: “Đức Chúa đàm đạo với ông Môsê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11).
Nói đến mối tình bạn hữu đẹp trong Kinh thánh thì không thể bỏ qua hai nhân vật Gionathan và Đavit. Trong tình bạn thâm sâu của mình, Gionathan và Đavit luôn ý thức có Thiên Chúa ngự giữa họ (x.1Sm 2,42). Thiên Chúa ngự giữa thì tình bạn mới chân thành, trong sáng và vô vị lợi, không bả vinh hoa phú quý nào đánh đổi được, kể cả ngai vàng của Gionathan. Tác giả Maclaren đã viết: “Không có trang sử hoặc thơ ca nào đẹp hơn trong chuyện tình say đắm của người thừa kế ngai vàng dành cho nhà vô địch trẻ, người mà Gionathan có khá nhiều lý do để xem như là kẻ thù”[5] .
Mặt khác, Cựu Ước còn trả lời cho chúng ta câu hỏi: làm cách nào để trở nên bạn hữu của Thiên Chúa? Câu trả lời là: “Đức Khôn Ngoan là kho báu vô tận cho con người. Chiếm được Đức Khôn Ngoan là được nên bạn hữu với Thiên Chúa, và được Người tin cậy, vì đã tiếp nhận những lời dạy dỗ bảo ban” (Kn 7,14). Sách Huấn ca diễn tả kinh nghiệm này: “Người bạn trung thành là nơi nương tựa vững chắc, ai gặp được người bạn như thế là gặp được kho tàng. Người bạn trung thành thì vô giá” (Hc 6,14).
2. Tân Ước
Trong Tân Ước, danh từ bạn hữu được thánh Gioan trình bày sáu lần như: Bạn của chú rể (3, 29); Lazaro bạn của Chúa Giêsu và các môn đệ (11,11); bạn của Đức Giêsu (15,13-15); bạn của Xeda (19,12)[6] . Tình bạn trong Tin Mừng Gioan diễn tả nhiều mối quan hệ bằng hữu khác nhau, nhưng các mối tương quan bằng hữu này đều liên quan đến Đức Giêsu. Và cũng chỉ trong Tin Mừng Gioan, chính Chúa Giêsu xác quyết các môn đệ là bạn hữu của Ngài: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy, Thầy đã nói cho anh em biết” (Ga 15,15).
Ở đây, các môn đệ trở thành “bạn hữu của Đức Giêsu”, nhưng không làm cho các môn đệ trở nên ngang hàng với Thầy mình. Bởi lẽ, các môn đệ là cành nho trong tương quan với cây nho. Cành nho phải ở trên cây nho để sinh hoa trái và sống còn, như Đức Giêsu nói: “Không có Thầy anh em không thể làm gì được” (Ga 15,5). Bạn hữu của Đức Giêsu là kẻ được Người chọn: “Không phải anh em chọn Thầy nhưng chính Thầy chọn anh em” (Ga 15,16).
Đối với Chúa Giêsu, tình bạn đặt nền tảng trên tình yêu: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Thánh Gioan lấy lại truyền thống cái chết cho tình bạn của người Hy Lạp để diễn tả huyền nhiệm giữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Chúa Giêsu đã chết trên thập giá cho các bạn của mình, vì thế họ sống tình thương này và được tràn đầy. Hành vi đơn phương này làm cho các môn đệ trở thành bạn của Chúa, liên kết họ lại bằng tình thương giữa Chúa và họ, và giữa họ với nhau[7] .
Tóm lại, trong Tin Mừng Gioan: mặc khải về tình bạn giữa Đức Giêsu và các môn đệ đánh dấu một tương quan mới mẻ và độc đáo. Cùng với các tương quan khác trong Tin Mừng: tương quan Thầy – trò, thân nho – cành nho (15,13-15), các môn đệ được bước vào tương quan mới: trở thành bạn hữu của Chúa Giêsu, nghĩa là bước từ thân phận “tôi tớ” sang “bạn hữu”.
II. TÌNH BẠN TRONG ĐỜI TU
1. Tình bạn là ân sủng
Anselm Grun viết: “Trong thần học, người ta gọi quà tặng mà tình bạn thể hiện là một ân huệ. Thường thường chính các người bạn họ cũng không hiểu vì sao họ trở thành bạn của nhau, cũng không hiểu lúc nào tình bạn được nảy sinh. Sự nảy sinh ra tình bạn vẫn còn là một sự bí ẩn. Bỗng một ngày, tình bạn đã có. Đối với người này, Thiên Chúa đã mở cánh cửa của lòng tôi”[8] . Tình bạn là một ân huệ Thiên Chúa ban cho con người. Theo thánh Âu Tinh, Thiên Chúa là tác giả của tình bạn và chính Ngài ban tặng tình bạn cho ta, vì thế, tình bạn được thánh nhân coi là một ân huệ. Ngài viết trong cuốn Tự Thuật: “Chỉ tình bạn chân thực khi Thiên Chúa thắt chặt con người với nhau bằng sợi dây ràng buộc của đức mến được đổ đầy trong tâm hồn chúng con, nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần được ban cho chúng con”[9] . Thiên Chúa thắt chặt tình bạn bằng ân sủng của Ngài. Với cái nhìn đức tin, sẽ không có tình bạn chân chính, nếu tình bạn đó không do Chúa kết nối nhờ tác động của Chúa Thánh Thần mà chính Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.
2. Những đòi hỏi của tình bạn trong đời tu
2.1 Yêu bạn
Sydney Smith đã viết như thế này: “Tình bạn giúp cuộc sống thêm bền vững. Yêu thương và được yêu thương là niềm hạnh phúc lớn lao nhất thế gian này”[10] . Bất kỳ một tình bạn nào trên trần gian này được cho là tốt thì phải có tình yêu trong đó. Ai không yêu bạn thì không làm điều tốt cho bạn được. Tình yêu là chất xúc tác và điều kiện cần có để tình bạn thăng hoa, khiến cho cả hai trở nên tri kỷ và thấu hiểu nhau. Yêu bạn không cần phô trương và không cần bạn phải đền đáp lại, chỉ cần bạn hạnh phúc là mình mãn nguyện. Triết gia Aristote cũng nói: “Chúng ta có thể trở thành bạn tốt của một người khi luôn muốn những điều tốt đẹp đến với người ấy, đặt lợi của người ấy lên trên lợi ích của mình, luôn nhường nhịn hết lòng vì người ấy”[11] .
Ngoài ra, yêu bạn trong Kitô giáo còn đòi hỏi một điều cần thiết này nữa như lời thánh Âu Tinh nói: “Ai thực sự yêu bạn mình là người yêu Thiên Chúa ở trong người bạn của mình, bởi vì Thiên Chúa sống trong người ấy hoặc vì người ấy sống trong Ngài” (Bài giảng 361,1).
Tình yêu Thiên Chúa phải trở thành nguồn mạch và nguyên lý cùng đích của tình bạn. Khi chúng ta tâm niệm rằng Thiên Chúa ở trong con người bạn thì chúng ta sẽ không dám xúc phạm đến bạn, không làm điều gì xấu khiến bạn buồn, không lấy bạn làm công cụ để hưởng lợi hay sử dụng bạn như con cờ để hạ bệ người khác. Tình yêu dành cho bạn mình phải đánh tan mọi dị biệt, sự hiểu lầm và luôn ước mơ tình bạn bền vững. Yêu bạn thực sự là yêu Thiên Chúa trong con người của bạn. Đây là điểm đặc biệt của tình bạn Kitô giáo và nâng tình bạn lên một tương giao mới chứa đầy tinh thần bác ái và vị tha.
Mặt khác, tình bạn chân thành hệ tại ở việc chúng ta luôn cầu nguyện cho nhau. Vì chỉ qua lời cầu nguyện, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những khó khăn vượt sức con người để Thiên Chúa toàn năng thể hiện uy quyền. Tình bạn chân thật sẽ đưa nhau tới Thiên Chúa, nhưng ta không thể đến với Ngài bằng sức riêng của mình được. Cho nên, cầu nguyện là điều cần thiết cho tình bạn. Cầu nguyện trở thành phương thức thanh luyện, tăng cường và đào sâu tình bạn đích thực.
2.2 Tin tưởng lẫn nhau
Trong tương quan bạn hữu, ngoài tình yêu dành cho nhau thì yếu tố tin tưởng lẫn nhau là điều rất đỗi cần thiết để xây dựng tình bạn vững bền. Paul J. Wadell đã nhận định: “Tin tưởng và trung thành là nhân đức chính yếu đối với tình bạn và không gì tổn thương tình bạn hơn là sự phản bội và bất trung”[12] .
Một tình bạn tốt lành được duy trì trong sự tín nhiệm nhau. Người bạn sẽ không đặt ra thử thách không cần thiết cho bạn mình, nhưng tín nhiệm vào người ấy. Thánh Âu Tinh viết: “Tin tưởng là tôn kính sự hiện diện của Thiên Chúa cư ngụ trong trái tim của người bạn” (De civ. Dei, 19,8). Theo quan điểm của Âu Tinh, tin tưởng vào người bạn của mình vượt qua ngưỡng cửa thông thường của nhân bản để trở nên một nhân đức. Bởi vì, một Kitô hữu tốt lành luôn đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, và khi tin tưởng có Thiên Chúa hiện diện thì không ai dám làm điều xấu bao giờ.
Yêu bạn là yếu tố để tình bạn thêm sâu đậm, nhưng tin tưởng là yếu tố để duy trì tình bạn lâu dài. Tuy nhiên, tình bạn sẽ ở bên bờ vực thẳm của sự chia rẽ, thậm chí trở thành thù địch nếu người ta nghi ngờ nhau. Do đó, hành trình đi đến sự tin tưởng đòi hỏi những người bạn phải chân thành với nhau.
2.3 Chân thành với nhau
Nếu tin tưởng là từ ngữ đầu tiên của tình bạn, thì từ ngữ tiếp theo là sự chân thành. Trong tình bạn, chúng ta chấp nhận một sự quấy rầy khi cần thiết. Tình bạn chân thật, không phân biệt cấp bậc, không có sự ngăn cách giàu nghèo, nông thôn hay thành thị. Hơn nữa, chân thành là chấp nhận chính con người của bạn: bạn xấu hay đẹp, thông minh hay dốt nát thì bạn vẫn là bạn. Trong con người đó luôn có những nét đẹp riêng mà người khác không thể có được và chân thành tôn trọng nét độc đáo của bạn. Do đó, chân thành với bạn là tôn trọng sự thật. Thánh Âu Tinh đã nói: “Không ai là bạn của người khác nếu không là bạn của sự thật”.
Mặt khác, tình bạn phải được sửa lỗi bằng sự dịu dàng và thấu hiểu nhau; lòng chân thành sẽ tìm thấy những cách thức thuận lợi để giúp người bạn sửa chữa lỗi lầm. Chân thành với bạn hữu cũng có nghĩa là trung thực với bạn bè, không giấu diếm bạn điều gì, không lừa dối bạn, vì lừa dối bạn là lừa dối chính mình và chính Thiên Chúa.
2.4 Dành thời gian cho nhau
Khi dành thời gian cho nhau, chúng ta dành cho người ấy có chỗ trong trái tim mình. Bởi vì, nếu không có những giờ khắc dành cho nhau, thì làm sao chúng ta có thể nghe được nỗi lòng của nhau, cảm được giọt mồ hôi và nước mắt của nhau! Việc gặp gỡ và dành thời gian cho nhau sẽ là chất keo nối kết hai tâm hồn lại với nhau; thiếu chất keo này, tình bạn có thể trở nên ơ hờ, nhạt nhẽo[13] .
Khi là bạn của nhau, người ta thường hướng về nhau, tạo điều kiện để gặp gỡ nhau; tình bạn sẽ phai nhạt, không được nuôi dưỡng, một khi thời gian gặp gỡ này thưa dần và tắt hẳn. Linh mục Thái Nguyên viết: “Tình bạn là cái gì mật thiết, nên cần có thời giờ ngồi bên nhau để chia sẻ những khó khăn, ưu tư, nguyện vọng, cũng như những trăn trở, thao thức về những vấn đề trong cuộc sống của nhau. Cần nhạy bén nắm bắt những tâm tư của nhau hơn là những lời lẽ bên ngoài. Ngoài việc đồng cảm với nhau, còn phải tìm ra những phương thức hành động hữu hiệu để trợ lực cho nhau. Điều này phải hy sinh thời giờ và công sức rất nhiều, quảng đại và dấn thân rất lớn. Nhưng rồi ta sẽ gặt những gì mình gieo khi biết sống tình bạn như vậy”[14] .
III. TÌNH BẠN TRONG CỘNG ĐOÀN
1. Với Bề trên
Câu hỏi đặt ra trong trường hợp này là: có tình bạn giữa Bề trên và bề dưới không, khi mà mỗi thành viên trong cộng đoàn đều công khai trước mặt Thiên Chúa và mọi người hứa vâng phục Bề trên? Giữa lời khấn vâng phục và tình bạn có chồng chéo nhau không? Câu trả lời hay nhất vẫn là nhìn vào con người Đức Giêsu Kitô trong tương quan với các môn đệ, khi Người vẫn gọi các môn đệ là bạn hữu: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15). Nhìn vào gương Chúa Giêsu, chúng ta thấy sẽ không có khó khăn gì khi Bề trên và các thành viên trong cộng đoàn trở thành “bạn hữu” với nhau.
Tuy nhiên, nhiều cộng đoàn khi một người vào gặp Bề trên chỉ là để xin phép hay để bàn công việc, ngoài ra không còn gì nữa. Bề trên và bề dưới hầu như chỉ có tương quan công việc mà bỏ qua chiều kích tình cảm trong tương giao bạn hữu. Trách nhiệm hay vị thế của Bề trên đôi khi cũng là rào cản để bề dưới khó tiếp xúc thoải mái: Bề trên phải giữ cái uy của Bề trên, bề dưới có cái rụt rè của bề dưới. Đàng khác, quyền bính và nghĩa vụ của Bề trên khiến cho tương quan thân thiết giữa Bề trên và bề dưới khó khăn. Vì thế đôi khi, “những vị lãnh đạo tối cao trong một cộng đoàn luôn cảm thấy cô đơn. Thậm chí nếu có ban cố vấn, thì chính họ sẽ phải đưa ra những quyết định. Sự cô đơn này là thập giá cho họ, nhưng đồng thời nó cũng là sự bảo đảm cho sự hiện diện, ánh sáng và sức mạnh của Thiên Chúa”[15] .
Bề trên trong một cộng đoàn cũng giống như một người cha trong gia đình, vừa đóng vai trò dạy dỗ con cái, nuôi nấng, chăm lo cho nó từ cái ăn cái mặc và trở thành một người bạn khi con cái gặp rắc rối về tình cảm, học hành, tâm linh. Quyền bính hay sự vâng lời chỉ có tính chất pháp lý để người tu sống tốt hơn, chứ không phải là yếu tố chính để cản trở tương giao thân tình giữa vị lãnh đạo và bề dưới. Hiểu một cách chính xác: “Quyền bính giúp mang lại tự do và làm thăng tiến cá nhân. Đây là công việc của tình yêu. Cũng giống như Thiên Chúa đã quan tâm săn sóc con cái của Người để nhìn thấy nó lớn lên trong tình yêu và chân lý thế nào, thì những vị hữu trách cộng đoàn cũng phải phục vụ Thiên Chúa và mọi cá nhân sao cho họ cũng có thể trưởng thành trong tình yêu và chân lý như vậy”[16] .
Những điều đòi hỏi Bề trên trong hình thức đồng hành và đối thoại cũng là điều đòi hỏi bề dưới, vì chỉ khi đến với vị lãnh đạo của mình với sự cộng tác thì tinh thần đối thoại mới triển nở được. Hành trình đối thoại là hành trình mở rộng của hai con tim, hai lối suy nghĩ biết lắng nghe nhau. Họ phải tôn trọng Bề trên của mình, mặt khác, họ xem Bề trên như là người để họ chia sẻ những vướng bận của đời tu, của công tác mục vụ hay kể cả những chuyện khó khăn mà họ vấp phải với ngài. Thái độ khiêm nhường và biết lắng nghe ý kiến người dưới giúp bề trên trở thành người bạn đồng hành hơn là vị chỉ huy nghiêm khắc, chỉ biết ra lệnh. Sống được chiều kích đối thoại và thấu hiểu nhau như thế, đời tu sẽ nở hoa và nên dấu chỉ cho người ta thấy Thiên Chúa hiện diện trong cộng đoàn.
2. Với anh em cao niên
Tuổi già là một ân ban của Thiên Chúa cho cộng đoàn. Tuy nhiên, tuổi già vẫn còn mang những giới hạn như: bệnh tật, nỗi cô đơn và cả cái chết nữa. Do đó, tuổi già cũng cần đến những người bạn để giúp các vị sống thoải mái, an tâm và thăng hoa trong việc kết hợp với những đau khổ của Đức Kitô.
Hành động hiếu nghĩa với người già, đau ốm là hành động nhân ái và có sức thuyết phục mọi người nhất. Hành động ấy có khả năng chữa lành những căn bệnh thể lý và tinh thần anh chị em. Người bạn chân thành và gần gũi với các vị cao niên trước tiên phải là anh chị em trong cộng đoàn. Chúng ta sống với nhau cả một đời người, nên có thể hiểu nhau và biết người anh chị em đang cần gì để giúp đỡ trong lúc tuổi già bệnh tật. Hơn nữa, cộng đoàn chính là gia đình về mặt thiêng liêng, nhưng cũng có thể hiểu về mặt thể chất nữa: chúng ta sát cánh bên nhau chia sẻ mọi niềm vui nỗi buồn.
Khi một thành viên bước vào ngưỡng cửa ranh giới mong manh yếu đuối của tuổi già, của sự lãng trí là lúc người ấy đối diện với cái gì đó khốc liệt nhất của phận người; nó có thể là đêm tối đức tin hoặc mây mù của sự thử thách. Vì thế, Jean Vanier đưa ra chỉ dẫn sau: “Vào những ngày u tối, cần tìm đến một người bạn để được trợ lực. Lúc cảm thấy bị “kiệt quệ”, bị hơi chán ngấy rồi thì một lá thư nhận được từ một người bạn ở xa có thể đem lại bình an và tin tưởng. Bạn hữu là nơi ẩn náu. Chúa Thánh Thần dùng những cái nhỏ nhặt để an ủi và tăng lực”[17] . Một hành động xem ra có vẻ nhỏ nhặt và chứa đầy sự an ủi thuần tuý con người, nhưng là công việc của Chúa Thánh Thần có khả năng giúp bậc cao niên dấn bước miệt mài hết cuộc đời tận hiến. Ngài biến những dòng chữ, những lời an ủi, sự cử chỉ thân tình thành liều thuốc bổ có sức biến đổi tâm hồn. Thánh Bênađô Clairvaux xác quyết điều này khi ngài viết thơ cho một người bạn: “Trong lúc tôi viết thơ này thì bạn hiện diện với tôi, cũng như tôi sẽ hiện diện với bạn lúc bạn đọc lá thư này. Chúng ta mệt mỏi viết thư cho nhau, nhưng Thần Khí không bao giờ mệt mỏi yêu thương phải không? Chúng ta được nghỉ ngơi nơi người chúng ta yêu mến và chúng ta trở nên điểm nghỉ ngơi cho ai yêu mến chúng ta. Thư từ có thể là lương thực thật”[18] . Đừng bao giờ hà tiện một nụ cười, một lời an ủi với người già, vì đó có thể là cách Thiên Chúa biến nó thành niềm vui khích lệ anh chị em trong lúc tuổi già và bệnh tật.
3. Tình bạn giữa anh chị em trẻ với nhau
Trong đời sống cộng đoàn, chiều kích sống tình bạn giữa anh chị em trẻ có lẽ dễ dàng hơn với bề trên và với anh chị em cao niên. Hơn nữa, họ là những người trẻ với tâm hồn và nhiệt huyết hăng say, họ có thể vứt bỏ những cản trở để trở thành bạn thân với nhau. Tâm lý cũng cho thấy, tâm sự với một người bạn cùng lứa tuổi thì dễ hơn với một người quyền cao chức trọng hay một người khác biệt về tuổi tác hay ý thức hệ. Điều này không phủ nhận cũng có những tình bạn vượt ra biên giới của tuổi tác, quyền lực và khoảng cách địa lý. Người trẻ thường có những điểm tương đồng về suy nghĩ, hành động và tâm thức, nên dễ cảm thông và chia sẻ với nhau.
Trong đời sống thánh hiến, Bề trên hay vị phụ trách có nhiệm vụ hướng dẫn các ứng sinh sống viên mãn những đòi hỏi của đời tu, nhưng bên cạnh đó cũng cần đến sự sát cánh của anh chị em đồng tu. Trong đời sống chung, nhiều khi những anh chị em trẻ thấu hiểu nỗi lòng của nhau hơn các vị lãnh đạo.
Tuy nhiên, tình bạn cho dù thân thiết như thế nào đi nữa cũng phải dành cho bạn mình khoảng trời riêng tư. Tình bạn cần đến với nhau trong sự tự do: điều gì bạn mình không muốn thổ lộ hay muốn giữ bí mật thì đừng bao giờ can thiệp vào. Anh chị em trẻ có thể hòa đồng với nhau nhưng không vì thế mà coi thường hay đánh mất sự tôn trọng lẫn nhau. Mặt khác, tình bạn trong cộng đoàn thánh hiến không chấp nhận mọi hành vi độc chiếm, muốn anh chị em đó là của riêng mình. Tình bạn được khuyến khích giữa anh chị em với nhau, nhưng không khuyến khích sự tách bè tách nhóm hay thương riêng với những mối quan tâm lệnh lạc. Linh mục Thái Nguyên viết: “Tình bạn không bị ràng buộc, không bị độc chiếm… Mình sống cuộc đời của mình và mình biết rằng mình có người thương yêu. Những gì mình làm cho bạn là làm với tất cả tự do và yêu thương, không bị áp lực bởi bất cứ lý do nào”[19] . Theo John W. Crossin: “Tình bạn cốt lõi của việc phát triển nhân đức của chúng ta – trưởng thành đạo đức và thiêng liêng của chúng ta… Chúng ta chia sẻ mức độ đa dạng về tình bạn suốt cuộc đời chúng ta và trong những điều này chúng ta cần những tình bạn thiêng liêng giúp đỡ chúng ta nên thánh”[20] . Sức ảnh hưởng của một người bạn trên chúng ta là điều không thể bàn cãi. Vì thế, chúng ta cần phân định để chọn cho mình một người bạn đồng hành, để giúp nhau sống thánh thiện trong ơn gọi thánh hiến đan tu.
Kết luận
“Anh em hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng Đức Kitô” (Cl 2,7). Đáp lại tiếng gọi tình yêu của Đức Giêsu Kitô, chúng ta trở thành những người bạn của Thiên Chúa với tâm tình tri ân và cảm mến. Nhờ đó, chúng ta nhiệt tâm xây dựng đời sống chung ngày một triển nở trong tình yêu Chúa và sự quan tâm của anh chị em. Tình yêu làm nên sự hoàn thiện nhất thiết bao hàm sự tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Sự tuân phục như thế sinh hoa trái nơi việc tuân giữ các điều luật của Thiên Chúa, là sự diễn đạt thánh ý của Ngài cho chúng ta[21] .
[1] Maria Vũ Thị Thu Thủy, Tình Bạn Trong Cộng Đoàn Thánh Hiến, NXB Phương Đông, Tp. HCM, năm 2014, tr.12.
[2] Maria Vũ Thị Thu Thủy, Sđd, tr.73.
[3] Maria Vũ Thị Thu Thủy, Sđd, tr.74.
[4] Maria Vũ Thị Thu Thủy, sđd, tr. 78.
[5] Maria Vũ Thị Thu Thủy, sđd, tr. 78.
[6] Lê Minh Thông OP, Tình Yêu Và Tình Bạn Trong Gioan 15, 9 -17, Trung Tâm Học Vấn Đa Minh 2009, tr. 182.
[7] Anselm Grun, Một Chút Suy Gẫm Về Huyền Nhiệm Tình Bạn, An Thuyên dịch, Nxb: Anton & Đuốc Sáng, tr. 82.
[8] Anselm Grun, Sđd, tr. 12.
[9] Tự Thuật IV, 4, 7.
[10] Alan Loy Mcginnis, Sức Mạnh Tình Bạn, Việt Khương & Thế Lâm biên dịch, NXB Trẻ, Tp. HCM 2012, tr.9
[11] Những Bài Học Về Tình Bạn Và Lòng Trung Thành, Thu Sao và Khôi Nguyên tổng hợp & biên soạn, Nxb: Từ Điển Bách Khoa, 2012, tr. 8.
[12] Maria Vũ Thị Thu Thủy, Sđd, tr. 120.
[13] X. Quốc Văn. Op, Tình Bạn Trong Đời Sống Thiêng Liêng, https/wed/facebook.com/giaoxupuxuan/posts.
[14] Thái Nguyên, Những Cánh Hoa Tâm Linh 2, Nxb: tôn giáo Hà Nội, năm 2011, tr. 222-223.
[15] Giuse Đỗ Văn Thụy, Tân Phúc Âm Hóa Đời Sống Cộng Đoàn, NXB: Tôn Giáo Hà Nội, 2014, tr. 69.
[16] Giuse Đỗ Văn Thụy, Sđd, tr. 69.
[17] Jean Vanier, Sđd, tr. 224.
[18] Jean Vanier, Sđd, tr. 224.
[19] Nguyễn Thái Nguyên, Sđd, tr. 224.
[20] John W. Crossin, O.S.F.S, Sđd, tr. 77.
[21] Jordan Aumann, OP, Lịch Sử Linh Đạo Công Giáo, Lm Lê Công Đức chuyển ngữ, NXB: Phương Đông, TP. HCM, 2013, tr. 473.
MẪU SỐ CHUNG
FM. An Tâm
Hội dòng Xitô Thánh Gia đang sống trong bầu khí “huyền nhiệm hiệp thông”, do đó, chủ đề “mẫu số chung” làm vang lên âm hưởng sự hiệp thông: hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với con người. Điều làm nền tảng cho hiệp thông là tương quan hiệp nhất giữa các ngôi vị: ngôi vị thần linh và nhân vị. Điều này đã được từ điển Công giáo giải thích rõ cho chúng ta rằng: “Ngôi vị là bản thể cá biệt có lý tính. Ngôi vị là một hữu thể tự lập có lý trí, có ý trí và tự do, hiện hữu nơi chính mình, không phân chia trong chính mình, phân biệt khỏi mọi sự vật khác. Tuy nhiên, ngôi vị chỉ tồn tại và luôn tồn tại trong mối tương quan thiết yếu với những gì khác với mình”[1] .
Từ khác biệt căn bản này, mỗi người khi lớn lên được hun đúc bởi môi trường sống: văn hóa vùng miền, giáo dục gia đình góp phần làm nên con người với những khác biệt. Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Vì vậy, yêu sách hiệp nhất vẫn luôn ở trong con người. Là đan sĩ sống trong cộng đoàn thánh hiến, chúng ta không ngừng đào sâu sự hiệp nhất giữa các anh chị em mình.
Trong bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa như là mẫu số chung cho phẩm giá con người, tiến tới việc xây dựng công ích, góp phần hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa trong đời sống thiêng liêng.
1. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
Yếu tố chính yếu làm nên sự hiệp thông chính là tình yêu; một tình yêu khởi đi từ Thiên Chúa. Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan đã khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). Nói đến tình yêu là nói đến tương quan giữa hai hay nhiều con người; giữa hai hay nhiều ngôi vị. Trong mầu nhiệm Ba Ngôi, chính tình yêu đã nối kết từng Ngôi Vị lại với nhau. Nói cách khác, chính tình yêu làm nêu sự hiệp thông trong Ba Ngôi, một sự hiệp thông được thiết lập do tình yêu, một sự hiệp thông sâu sắc, trọn vẹn và tuyệt đối.
Giữa Ba Ngôi Thiên Chúa luôn tồn tại một sự hiệp thông sâu xa, đến nỗi tuy Ba Ngôi nhưng chỉ là một; nghĩa là Ba Ngôi đã ở trong nhau, thuộc về nhau và trao hiến cho nhau, không còn giữ lại gì cho riêng mình. Trong một bài tham luận bàn về Giáo Hội Hiệp Thông theo Mô Hình của Ba Ngôi, Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc đã chia sẻ: “Ba ngôi Thiên Chúa là “sự Hiệp thông Tình yêu” sâu xa đến nỗi không còn là Ba, mà là Một. Chúng ta chỉ có một Thiên Chúa, là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Các Ngôi vị hướng về nhau, đến với nhau, gắn bó với nhau, tự hiến cho nhau, ở trong nhau và nên một với nhau”[2] .
Còn trong Kinh Thánh, từ những trang đầu, đã khẳng định cho chúng ta thấy rằng con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, cho Thiên Chúa và quy hướng về Ngài (x. St 1,27tt). Vì vậy, sự hiệp nhất giữa con người phải quy về ‘mẫu số chung’ là sự hiệp nhất và hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Từ mẫu số chung trong Ba Ngôi Thiên Chúa, chúng sẽ có cơ sở để tìm xem mẫu số chung trong tương quan hiệp thông giữa con người.
2. Phẩm giá con người
Dù ở địa vị hay vai trò nào, mỗi người luôn có một phẩm giá nhất định. Phẩm giá không ai có thể lấy đi. Vì “phẩm giá con người bắt nguồn trong việc con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Được phú bẩm một linh hồn thiêng liêng và bất tử, lý trí và ý chí tự do, con người được quy hướng về Thiên Chúa và được mời gọi hạnh phúc vĩnh cửu cả hồn lẫn xác”[3] . Chính “phẩm giá người” này, làm cho mọi người ngang bằng với nhau, không phân biệt màu da, giai cấp và ngôn ngữ. Tuy nhiên, trong thực tế hàng ngày, có người không nhìn đến phẩm giá thiết yếu của con người, nhưng chỉ nhìn đến những điều phụ tạp, những điều hào nhoáng bên ngoài.
Thật vậy, kinh ngiệm trong cuộc sống cho thấy rằng con người thường đánh giá nhau bằng sự giàu sang, quyền thế, danh vọng,…. Chính vì thế, họ có xu hướng lập những băng nhóm, những câu lạc bộ, những người cùng ‘đẳng cấp’ với nhau (nhóm xe sang, nhóm hàng hiệu), những nơi đó chắc chắn không thể có chỗ cho người nghèo.
Ảnh hưởng từ trào lưu đó, các tu sĩ, các cộng đoàn tu trì, nếu không cảnh giác, cũng sẽ dễ lây nhiễm não trạng ‘ban nhóm’ hoặc cũng có thể dẫn đến khuynh hướng “hiệp thông cục bộ”. Nghĩa là chỉ ‘hiệp thông’, chỉ ‘chơi’ với những người “đồng môn, đồng phái” với nhau mà không hề nghĩ đến mẫu số chung được chính Thiên Chúa đặt để nơi mỗi người khi tạo dựng nên họ: đó là phẩm giá người, bản chất người, ngôi vị người. Vì vậy, để thiết lập sự hiệp thông giữa con người với nhau, chúng ta phải xác tín và tôn trọng: phẩm giá con người như là nền tảng chính yếu và duy nhất cho mỗi người.
3. Công ích
Một mẫu số chung tiếp theo mà chúng ta cần có để xây dựng sự hiệp thông trong đời sống xã hội nói chung và đời sống trong các cộng đoàn tu trì nói riêng chính là công ích. Theo Thông Điệp Laudato Si, thì công ích là “tổng thể những điều kiện xã hội của đời sống cho phép các nhóm xã hội và các thành viên cá thể đạt đến sự thành toàn của họ một cách tương đối hoàn hảo và dễ dàng”[4] .
Về vấn đề này, Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo còn cho biết: “Công ích không chỉ đơn thuần là tổng số các thiện ích riêng của mỗi người trong một thực thể xã hội. Dù là thuộc về mọi người và mỗi người, công ích vẫn là và mãi mãi là ích lợi “chung”, vì nó không thể phân chia được và khi cùng chung như thế người ta mới có thể có được nó, mới phát triển và bảo vệ được hiệu quả của nó, với tầm nhìn hướng về tương lai”[5] .
Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, trong Thông Điệp Pacem in Terris còn chỉ rõ: “Công ích là yếu tố làm nên ý nghĩa, là lý do hiện hữu của xã hội và các tổ chức.”[6]
Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI, trong Tông Thư Octogesima Adveniens cũng nói: “Công ích liên quan đến mọi thành phần trong xã hội, không ai được miễn cộng tác vào việc thực hiện và phát huy công ích, tùy theo khả năng của mỗi người.”[7]
Như thế, dựa vào Giáo Huấn của Giáo Hội, chúng ta nhận thấy rằng một mặt công ích giúp mỗi người đạt đến sự hoàn thiện; mặt khác công ích đòi hỏi mỗi người góp phần của mình cho sự hoàn thiện của xã hội, cũng như của người khác. Có thể nói, công ích cũng là lợi ích chung và là yếu tố sống còn của xã hội và của mỗi người, xét như là thành phần của xã hội ấy. Mặt khác, như chúng ta đã nói đến trên đây, hiệp nhất không thể và không bao giờ đến từ một phía, mà hiệp nhất luôn là tương quan qua lại giữa hai hay nhiều người.
Vì vậy, sẽ rất dễ dàng để có được sự hiệp nhất với nhau khi tất cả mọi thành viên của xã hội hay cộng đoàn cùng có chung một mục đích, cùng nhắm đến lợi ích chung. Lợi ích nói ở đây không chỉ là lợi nhuận vật chất, những giá trị trần thế, nhưng lợi ích lớn nhất là phẩm giá con người được tôn trọng, được đánh giá đúng mức.
Trong thực tế, sự hiệp nhất và hiệp thông thường gặp một số khó khăn là bởi vì người ta đặt lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm trên công ích. Vì thế, việc tôn trọng, nhìn nhận và xây dựng công ích không chỉ là yếu tố sống còn của một tập thể, nhưng còn là yêu tố không thể thiếu của sự hiệp nhất trong trong cộng đoàn và xã hội.
Tất cả những điều vừa kể trên là mẫu số chung, là nền tảng liên quan trực tiếp đến con người nói chung và đến sự xây dựng hiệp thông trong đời sống tu trì nói riêng. Nhưng vấn đề được đặt ra là: làm sao để chúng ta đồng tình và đồng ý về mẫu số chung nào?
4. Tìm về mẫu số chung để hiệp thông
Con người luôn có hai chiều kích: hướng lên và hướng ra. Hướng lên vì con người mang phẩm giá con Thiên Chúa; hướng ra vì con người tương quan với nhau. Vậy để hiệp thông với nhau, trước hết con người cần hiệp thông với chính nguồn là Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính Thánh Biển Đức cũng đã chỉ cho các môn đệ hai phương thế là: nguyện gẫm và luôn sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa[8] .
Tác giả Dom Bélorge trong cuốn “Dưới ánh nhìn của Thiên Chúa”, đã nói về việc sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa với ánh nhìn của Chúa Cha, Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần, trước ánh nhìn của Đức Mẹ và các thánh. Tác giả diễn tả đời sống hiệp nhất với Thiên Chúa, chính là luôn ngắm nhìn Thiên Chúa và luôn để Thiên Chúa ngắm nhìn. Cùng một ý trên, Cha Biển Đức Thuận diễn tả rất bình dân “sự sống bề trong”[9] . Đó là sống với Chúa, với Đức Mẹ và các thánh như sống với anh em trong nhà. Sống kết hợp một lòng một ý với Chúa, Đức Mẹ và các thánh[10] .
Để sống dưới ánh nhìn của Thiên Chúa, hay sống liên lỉ cầu nguyện kết hợp với Chúa, cha Henri Nouwen trong quyển “Chỉ Có Một Điều Cần Thôi, Sống Đời Cầu Nguyện” nói đến những kỷ luật thiêng liêng rất cần thiết cho cuộc hành trình dài hướng về căn nhà đích thật và vĩnh viễn của chúng ta. Chính vì thế, khi còn là con người yếu đuối với những chia trí và lo ra, chúng ta cần tuân giữ những kỷ luật thiêng liêng để luôn hiệp nhất và hiệp thông với Thiên Chúa, yêu Chúa trọn vẹn.[11]
Kết luận
Con người được Thiên Chúa tạo dựng và ban cho họ một ngôi vị độc nhất và độc lập, nên mỗi người mang những khác biệt, thậm chí là cá biệt trên mình. Nhưng đồng thời Thiên Chúa lại đặt con người trong những tương quan thiết yếu: tương quan với Thiên Chúa và tương quan với người khác. Vì vậy, con người luôn được mời gọi đi vào trong sự hiệp thông với Tạo hóa và với nhau. Mẫu số chung cho sự hiệp thông thiết yếu đó chính là Thiên Chúa Ba Ngôi, phẩm giá con người và công ích của họ.
Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống, con người thường gặp những khó khăn nhất định cho sự hiệp thông, do những nguyên nhân khác nhau, trong đó có tình trạng thiếu đời sống nội tâm, thiếu niềm tin vào Đấng Tạo Hóa, thiếu lòng tin và sự tôn trong lẫn nhau. Cùng với đó là những tin đồn, thành kiến, đóng khung người anh em của mình vào một góc tối của cuộc sống. Để giải quyết vấn đề này, con người cần những chất liệu để hiệp nhất trong cùng một Cha. Mẫu số chung cho mỗi người trong từng hoàn cảnh cụ thể để tiến tới hiệp nhất chính là tình yêu, một tình yêu xuất phát từ Thiên Chúa, một tình yêu nối kết vào Thiên Chúa và nối kết với anh chị em đồng loại nói chung và những anh chị em đồng tu nói riêng.
[1] HĐGMVN, Từ mục “Ngôi Vị”, Từ điển Công giáo, Nxb: Tôn Giáo, TP Hồ Chí Minh, 2016, tr.623.
[2] Bài tham luận của Đức TGM Phao lô Bùi Văn Đọc- Giáo Hội Hiệp Thông theo Mô Hình của Ba Ngôi. X. http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20101123/7604. Tra ngày 8/6/2017.
[3] X. GLHTCG, số 1699 – 1715.
[4] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Thông Điệp Laudato Sí, số 156.
[5] Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Ủy ban Bác Ái Xã Hội, Tóm lược Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo, Nxb: Tôn Giáo, số 164.
[6] X. Thánh Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in Terris, năm 1963, số 272.
[7] Chân Phước Phaolô VI, Tông thư Octogesima Adveniens, 46: AAS 63 (1071), 433-435.
[8] X. Tu Luật Thánh Phụ Biển Đức, Lời Mở, chương 7
[9] Di Ngôn Cha Biển Đức Thuận, số 107, 127, 141.
[10] X. Dom Godefroid Bélorgey, Dưới Ánh Nhìn Của Thiên Chúa, dịch giả: Phạm Thanh Toàn O.Cist, Mục Hai, Phương Thế Chính Yếu, tr. 77.
[11] X. Henrry M. Nouwen, Chỉ Có Một Điều Cần Thôi Sống Đời Cầu Nguyện, Lm Đaminh Nguyễn Đức Thông CSsR, dich, Chương 7, Tr. 89.
PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG
FM. Mai Vương An
Trong thế giới ngày nay, chúng ta đã thấy sự phát triển không ngừng của một nền truyền thông công nghệ kỹ thuật số. Nền công nghệ kỹ thuật này đã tạo ra các dòng sản phẩm về phương tiện truyền thông (Nokia, Samsung, Iphone…) giúp con người xích lại với nhau dù ở bất cứ nơi đâu trên thế giới. Trước đây, thư từ hay điện tín nó luôn tạo cho con người sự khó khăn nhất định trong việc liên hệ, giao thương với nhau…, nhưng khi ngành công nghệ kỹ thuật số ra đời song hành với thế giới mạng Internet, dường như đã biến những điều khó khăn ấy trở nên đơn giản hơn, biến cái dường như không thể thành có thể. Vậy sự phát triển không ngừng của thế giới công nghệ kỹ thuật trong việc truyền thông, có đem lại lợi ích cho con người không? Đâu là ưu điểm và khuyết điểm của nó?
Để trả lời cho câu hỏi này, người viết xin trình bày ý nghĩa và mục đích của phương tiện truyền thông trong việc xây dựng cho sự hiệp thông qua đề tài: “Phương tiện truyền thông – cánh cửa mở ra cho hiệp thông”.
1. Mục đích và phương tiện truyền thông
Mục đích của truyền thông chính là sự kết nối giữa những con người với nhau, giữa người này với người kia theo từng cấp độ và tính chất riêng cho mỗi đối tượng và từng công việc… hay chính sự kết nối giữa các quốc gia, các vùng miền để trao đổi những thông tin, chia sẻ cho nhau những thành quả công việc và thể hiện tình liên đới hiệp thông.
Bên cạnh đó, hạn từ truyền thông trong Tiếng Anh là “Communication”, hạn từ này có ý nghĩa là quá trình chia sẻ thông tin, theo đó ở dạng đơn giản, thông tin được truyền từ người gửi tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin trao đổi liên kết người gửi và người nhận. Phát triển truyền thông là phát triển các quá trình tạo khả năng để một người hiểu những gì người khác nói (ký hiệu, hay chữ viết), nắm bắt ý nghĩa của các thanh âm và biểu tượng, và học được cú pháp của ngôn ngữ.
Truyền thông thường bao gồm ba yếu tố: nội dung, hình thức, và mục tiêu. Nội dung thông tin bao gồm các chương trình hành động trình bày kinh nghiệm, hiểu biết, đưa ra lời khuyên hay mệnh lệnh, hoặc câu hỏi. Các chương trình hành động này được thể hiện qua nhiều hình thức như động tác, bài phát biểu, bài viết, hay bản tin truyền hình… Mục tiêu có thể là cá nhân cụ thể, một tổ chức hay một cộng đồng.
Có nhiều hình thức truyền thông, trong đó truyền thông không bằng lời, truyền thông bằng lời và truyền thông biểu tượng. Truyền thông không lời thực hiện thông qua biểu hiện trên nét mặt và điệu bộ. Truyền thông bằng lời được thực hiện khi chúng ta truyền đạt thông điệp bằng ngôn từ tới người khác. Truyền thông biểu tượng là những thứ chúng ta đã quy định sẵn một ý nghĩa và thể hiện một ý tưởng nhất định. Ví dụ: Quốc huy của một quốc gia, bảng chỉ đường, luật đường bộ.
Sự hội thoại giữa các cá nhân hay cộng đồng, trong đó thông điệp được truyền từ người gửi đến người nhận qua một kênh thông tin. Ở cấp độ lớn nhất, truyền thông đại chúng chuyển các thông điệp tới một lượng rất lớn, các cá nhân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Qua đó, chúng ta thấy rằng mục đích của truyền thông, các phương tiện truyền thông, kênh thông tin là thể hiện sự kết nối của những con người với nhau, tùy cấp độ và lĩnh vực riêng biệt hay với một cộng đoàn cần được chia sẻ thông tin.
2. Phương tiện truyền thông – cánh cửa mở ra cho hiệp thông
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng mang tính tích cực của các phương tiện truyền thông cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội khi ngài đề cập trong Tông Huấn ‘Giáo Hội Tại Á Châu’, số 48 như sau: “Trong thời đại toàn cầu hoá, “những phương tiện truyền thông xã hội đã trở nên quan trọng đến nỗi đối với nhiều người, nó trở thành những phương tiện chính để thông tin và giáo dục, hướng dẫn và tác động trên cách cư xử cá nhân, gia đình và xã hội. Đặc biệt, giới trẻ đang lớn lên trong một thế giới bị điều kiện hoá bởi truyền thông đại chúng”. Ta thấy xuất hiện trên thế giới một nền văn hoá mới “xuất phát từ sự kiện có những cách thức thông tin mới, với ngôn ngữ mới, kỹ thuật mới và tâm lý mới“. Vai trò đặc biệt mà các phương tiện truyền thông xã hội nắm giữ trong việc hình thành thế giới, các nền văn hoá và những cách suy nghĩ của nó, đã đưa tới những thay đổi mau lẹ và lan rộng trong các xã hội tại Á Châu.
Chắc chắn, sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội cũng chịu ảnh hưởng sâu xa do tác động của truyền thông đại chúng. Bởi vì truyền thông đại chúng có một ảnh hưởng càng ngày càng lớn mạnh tại Á Châu dẫu cả ở những vùng xa xôi, nó có thể góp phần rất lớn vào việc rao giảng Tin Mừng cho mọi hang cùng ngõ hẻm của lục địa. Tuy nhiên, “việc dùng truyền thông để phổ biến sứ điệp Kitô giáo và giáo huấn đích thực của Giáo Hội thì chưa đủ. Cần phải hội nhập sứ điệp này vào trong ‘văn hoá mới’ do những phương tiện truyền thông hiện đại tạo ra”. Để đạt được mục đích này, Giáo Hội cần khám phá những cách thế hội nhập hoàn toàn truyền thông đại chúng vào kế hoạch và hoạt động mục vụ của mình, để nhờ cách dùng hiệu năng của chúng, quyền năng của Tin Mừng có thể tác động tới các cá nhân và toàn bộ các dân tộc, và những giá trị Nước Trời thấm nhập vào các nền văn hoá Á Châu”.
Kinh nghiệm thực tế từ nhiều năm nay cũng cho thấy những giá trị tích cực của các phương tiện truyền thông khi người ta biết khai thác nó trong ý hướng ngay lành; đồng thời cũng cho thấy cả những hậu quả đáng tiếc cho những trường hợp sử dụng phương tiện truyền thông cách tùy tiện hay với mục đích xấu. Chúng tôi muốn đề cập ở đây một vài khía cạnh mà phương tiện truyền thông đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự hiệp thông của các thành viên trong những cộng đoàn hiện nay và về thái độ cũng như cách thức họ sử dụng các phương tiện truyền thông.
Như đã nói ở trên, mục đích chính yếu của phương tiện truyền thông là nhằm cung cấp những điều kiện khả dĩ giúp cho sự mở mang và phát triển con người toàn diện. Nhưng thế nào là phát triển con người toàn diện? Trong thư gửi cho tín hữu thành Thexalônica, Thánh Phaolô đã xác định rõ hình ảnh của một con người toàn diện, khi ngài dâng lên Thiên Chúa Cha lời cầu nguyện: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an thánh hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm” (1Tx 5,23). Nói cách khác, giá trị và ích lợi của phương tiện truyền thông tuỳ thuộc vào thái độ, nhận thức và cách sử dụng của những tác nhân truyền thông (người truyền thông và người được truyền thông) một cách toàn diện: đời sống thể chất, tinh thần và thiêng liêng được phát triển tốt nhất.
a) Phương tiện truyền thông mở ra cho một đời sống thể chất lành mạnh. Sống trong thời đại bùng nổ thông tin, chỉ một phát minh ở mãi tít phương trời nào thì chúng ta cũng có thể nhận được sau vài giây. Nhờ sự nhanh nhạy của những thông tin mà người ta sẽ đón nhận và sử dụng chúng cho lợi ích của bản thân, đó là những phát minh trong y khoa, những kỹ thuật bảo dưỡng hay bảo vệ sức khỏe. Là tu sĩ, chúng ta cũng cần vận dụng những tinh hoa, những phát minh ấy để cải thiện sức khỏe thể chất của mình hầu có thể tham gia vào những sinh hoạt chung của cộng đoàn và thi hành sứ vụ tốt hơn. Chính vì thế mà Juvenal đã nói: “Một tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện”[1] . Thật vậy, khi sức khỏe thể chất được bảo đảm thì đời sống tinh thần và thiêng liêng cũng sẽ triển nở cách tốt nhất.
Tuy nhiên, những phương tiện truyền thông đôi khi cũng phản bội lại người sử dụng chúng khi họ sử dụng sai phương pháp, sai mục đích. Đó là trường hợp của những người sử dụng phương tiện thông tin cho những mục đích xấu, với ý đồ đen tối hoặc sử dụng chúng mà không có được sự biện phân rõ ràng: xì ke ma túi, nghiện ngập… là những hậu quả đáng thương cho những trường hợp này.
b) Phương tiện truyền thông giúp mở ra cho một đời sống tinh thần phong phú và lành mạnh. Cánh cửa truyền thông sẽ mở ra cho sự hiệp thông giữa các tương quan con người trong xã hội, khi mà nội dung của nó mang lại sự đồng cảm, những tâm tình được chia sẻ cho nhau, hoặc những lời khuyên, lời khích lệ, lời chỉ bảo… Nhờ đó, nó làm cho đối tượng của truyền thông có thêm sáng kiến, có thêm ý tưởng sáng tạo.
Tuy nhiên, truyền thông sẽ là cánh cửa khép lại đối với sự hiệp thông khi nội dung truyền thông gây xáo trộn, bất an, nghi ngờ tình bạn, tình vợ chồng, tình đồng nghiệp. Điều này dẫn đến hậu quả thật khôn lường: Có thể thanh toán lẫn nhau, gia đình chia rẻ, tình bạn tổn thương, con người co cụm lại trong chính mình, cổ vũ cho chủ nghĩa cá nhân. Jaron Lanier, một người tiên phong trong ngành “thực tế ảo” (virtual reality) đã phát hiện một mâu thuẫn nội tại của truyền thông, đó là nó có nguy cơ đe dọa đời sống riêng tư cá nhân, bởi chính tính nặc danh của nó [2].
Vậy truyền thông tốt hay xấu cho đời sống tinh thần của chúng ta? Cũng không thể kết luận rõ ràng rằng “thế giới ảo”[3] là tốt hay xấu: Nó có cả hai mặt, vừa tăng năng suất trong công việc, vừa làm cho con người lệ thuộc vào chúng. Điều quan trọng là chúng ta có thể làm chủ và tìm cách cân bằng giữa “đời sống ảo” và “đời sống thật”
c) Phương tiện truyền thông giúp cho đời sống thiêng liêng được vững vàng hơn. Trong bài viết ‘Các Phương Tiện Truyền Thông Với Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng’, cha Phan Du Sinh đã có một nhận xét rất tích cực khi cho rằng: “Mạng xã hội là cửa ngõ của chân lý và đức tin; không gian mới để loan báo Tin Mừng”[4] . Theo cha Phan Du Sinh, phương tiện truyền thông (mạng xã hội) đã đóng góp rất nhiều cho việc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội trong những năm gần đây. Nghĩa là nhờ mạng xã hội, Tin Mừng được chuyển thông, được loan truyền từ người này tới người kia, từ nơi này đến nơi kia, một cách dễ dàng và nhanh chóng. Nói cách khác, đang khi và sau khi Tin Mừng được loan truyền thì giữa hai chủ thể ấy, dù muốn hay không, đã tạo nên một sự hiệp thông: hiệp thông thiêng liêng. Sự hiệp thông ấy sẽ làm cho đời sống của tâm hồn họ được chắc chắn và bền vững, giúp dễ dàng cho sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Có thể nói, phương tiện truyền thông được ví như cánh cửa rộng mở cho sự hiệp thông trong đời sống thiêng liêng của con người, khi chúng trở nên phương tiện tốt để “chuyên chở Tin Mừng Cứu Độ đến với mọi người ở mọi nơi”[5] . Đức cố Hồng Y Đáng Kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận cũng có một kinh nghiệm rất đáng được nêu lên nơi đây: “Ở giữa trần gian, nhưng không do trần gian, mà cho trần gian, với những phương tiện của trần gian”. Câu nói đó như nhắc nhở chúng ta hãy nhận ra rằng đời sống tinh thần đóng một vai trò quan trọng trong đời sống đức tin của chúng ta.
Nhưng đàng khác, chúng ta cũng không thể phủ nhận những ảnh hưởng tiêu cực của các phương tiện truyền thông khi người ta sử dụng chúng để bóp méo sự thật, làm cho Tin Mừng của Chúa có nguy cơ biến chất: lạm dụng Tin Mừng vì những mục đích phàm tục. Ngoài ra, một thực tế không mấy tích cực là nhiều người còn sử dụng phương tiện truyền thông để nói xấu người khác hay làm mất thanh danh của họ. Điều này đã ảnh hưởng rất tiêu cực trong đời sống thiêng liêng của các tín hữu nói chung và tu sĩ nói riêng.
Chính từ chiều hướng đó, Giáo Hội luôn mời gọi con cái mình là mỗi một Kitô hữu, nhất là những ai có bổn phận tiếp xúc thường xuyên với những phương tiện truyền thông phải biết nhìn, biết đánh giá và biết sử dụng các phương tiện truyền thông như là sự chia sẻ mang tính hiệp thông trong tinh thần Tin Mừng và với mục đích xây dựng con người toàn diện trong thánh ý của Đấng Tạo Hóa[6] .
3. Để cùng “lớn lên”
Truyền thông và phương tiện truyền thông hướng tới sự hiệp thông giữa những con người, gặp nhau trong sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Vậy đan sĩ hôm nay có đồng cảm với Giáo Hội để sứ mạng chung này được tăng trưởng mỗi ngày hay không?
Nếp sống của đan sĩ là sống đời ẩn dật, chiêm tu trong tinh thần lao động, cầu nguyện và hy sinh khổ chế nhằm cầu xin Chúa ban muôn ơn lành xuống trên Giáo Hội lữ hành, để Giáo Hội thực thi sứ mạng loan truyền tình yêu cứu độ của Đức Giêsu.
Nhưng ngày nay, thế giới tục hóa lan rộng và ăn sâu vào chính đời sống của Giáo Hội, và các đan sĩ cũng không thể tránh khỏi điều này. Chính vì lẽ đó, khi sống trong ngôi nhà chung của thế giới với các phương tiện khoa học kỹ thuật số, chúng ta không thể bàng quan với các phương tiện truyền thông hiện đại. Chúng ta sẽ làm gì để đáp lại yêu sách của Chúa Giêsu: sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian (x. Ga 15, 19)?
Một cách cụ thể, người viết xin lược dẫn phần đúc kết chia sẻ thực hành cá nhân của các đan sĩ trong việc sử dụng phương tiện truyền thông, trong bài tham luận của các đan sĩ Xitô trong chương trình gặp gỡ huynh đệ Biển Đức – Xitô như sau[7] :
– Nguyên tắc luân lý: Không phải dùng mục đích để biện minh cho phương tiện nên phải xin ơn cẩn trọng và khôn ngoan.
– Tự nhủ với lòng: Nếu mình không biết khai thác chúng (các phương tiện truyền thông) thì chúng sẽ quay lại khai thác mình.
– Cần cầu nguyện trước khi tiếp cận với các phương tiện truyền thông.
– Có thể dùng câu Kinh Thánh hay hình ảnh đạo đức làm nền cho máy tính.
– Luôn nhớ rằng, cám dỗ không trừ ai dù ở tuổi nào hay địa vị nào để khiến ta trở nên đam mê chúng.
– Cũng nên biết rằng, Internet không chỉ là nguồn gợi hứng các đam mê mà còn phải tin mình luôn có sẵn các đam mê nên rất dễ có khuynh hướng sử dụng chúng để thỏa mãn.
– Nếu có thể, phải liệt kê tất cả những gì mình cần để tra cứu hay tham khảo và nhất định chỉ tìm những vấn đề đó thôi.
Thay lời kết
Với kinh nghiệm bản thân, người viết nhận thấy các phương tiện truyền thông hiện đại như con dao hai lưỡi, có thể sát hại đan sĩ bất cứ lúc nào. Nó có thể làm cho chúng ta trở nên khôn ngoan và trung thành với Chúa trong việc tìm hiểu về các chân lý trong Đạo Thánh Chúa. Nhưng bên cạnh đó, nó cũng rất dễ đưa đan sĩ đi xa căn tính đời đan tu, dễ vượt ra lũy cấm của “nội vi tâm hồn”, nơi mà đan sĩ vốn muốn vươn lên tới Chúa là đỉnh cao của đời chiêm niệm. Vì vậy, đan sĩ phải biết tự chủ và cậy nhờ ơn Chúa giúp vượt qua cơn thử thách lớn lao của thời đại văn minh này. Lúc đó, chúng ta mới có thể biến các phương tiện truyền thông trở nên dụng cụ đắc lực cho sự kết nối tình hiệp thông huynh đệ trong cộng đoàn và trong công cuộc truyền giáo của Giáo Hội hôm nay và mai sau.
Lạy Chúa! Chúng con đang bước đi trên nền văn minh với các tiến bộ của khoa học trong việc truyền thông. Xin Chúa ban ơn trợ lực cho chúng con, để chúng con biết cách sử dụng các phương tiện truyền thông như ân ban của Chúa hầu kiến tạo sự kiệp thông huynh đệ, kết nối yêu thương và tham gia sứ vụ loan báo Tin Mừng. Amen.
[1] Mens sana in corpore sano
[2] Các thông tin dù ‘đúng hay sai’ về đời tư, về quá khứ của một người đều có thể bị ai đó tung lên Internet). X. Jaron Lanier, You Are Not a Gadget – A Manifesto, New York: Vintage 2011. Xem Ron Rosenbaum, “What Turned Jaron Lanier Against the Web?”, Smithsonian Magazine,giêng 2013.
[3] Theo ngôn ngữ hiện đại, người trẻ thích dùng kiểu nói “thế giới ảo” thay cho cụm từ Internet ám chỉ đến phương tiện truyền thông hiện đại.
[4] LM. Phan Du Sinh, Loan Báo Tin Mừng Bằng Các Phương Tiện Truyền Thông – FMM, Việt Nam.
[5] LM. Phan Du Sinh, Sđd.
[6] X. “Sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội để truyền giáo”, web:http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GiaoHoiVN/TruyenGiaoTaiVN/13SuDungCacPhuongTien.htm của tác giả Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
[7] Xem. Đan sĩ với các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội, Gặp gỡ huynh đệ Biển Đức Xitô 2014, tr 15
HIỆP THÔNG TRONG TÌNH YÊU
Sr.M. Gerardo Trần Thị Hợp
Chúng ta biết rằng linh hồn của đời sống đan tu chiêm niệm chính là nguyện gẫm, gặp gỡ Chúa thân tình như Cha – con; ý thức sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn mình khi chúng ta thinh lặng hằng giờ trong cô tịch và thanh vắng. Dĩ nhiên, chúng ta cũng có thể gặp được Thiên Chúa qua công trình sáng tạo của Ngài khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên: trời đất trăng sao hay cây cỏ hoa lá.
Thiên nhiên luôn là một bức tranh sống động đầy ý nghĩa, trầm lắng và tỏa sáng bằng sự hòa tan của những sắc màu. Tất cả đất trời, sông núi, khí hậu… đều lan tỏa sức sống cùng với khả năng nuôi dưỡng của nó, là nơi con người khao khát sống thật cuộc đời mình, cảm nhận sự hòa điệu tuyệt vời của tâm hồn mình với thiên nhiên.
Cùng chung nhịp đập với con tim Hội Dòng Xitô Thánh Gia đang sống huyền nhiệm hiệp thông, chúng ta được mời gọi ‘chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên’ như cuốn sách mở ra cho thấy vẻ đẹp của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo của Ngài. Đồng thời, nhắn nhủ chúng ta có trách nhiệm cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo tồn môi trường sống ngày một lành mạnh hơn[1] .
1. Vẻ đẹp thiên nhiên nâng tâm hồn lên Chúa
Khi để hồn lắng hòa vào thiên nhiên, chúng ta sẽ thấy rằng: cái đẹp trong thiên nhiên là chìa khoá mở cửa mầu nhiệm và là tiếng gọi mời con người nâng tâm trí lên cao hơn, tới một thực tại vô hình mà người tín hữu Kitô gọi Ngài là Đấng Tạo Hóa. Đó cũng là lời mời gọi con người xây dựng và cảm nếm cuộc sống hiên tại; đồng thời cũng mở ngõ và mời gọi họ tiến về tương lai. Chính vì thế, vẻ đẹp trong hiện tại của thụ tạo trong vũ trụ không bao giờ có thể làm cho con người cảm thấy thỏa mãn. Bởi vì, khi sáng tạo và trang điểm cho vũ trụ, có vẻ Thiên Chúa chưa muốn mạc khải toàn bộ vẻ đẹp như nó “là”, mà còn “cất giữ” lại một phần nét đẹp như để kêu mời con người cộng tác vào công trình sáng tạo của Người; hơn nữa khi đã sáng tạo vũ trụ, Thiên Chúa còn tiếp tục chăm sóc và điều khiển qua việc quan phòng của Ngài.
Thật là kỳ diệu biết bao khi con người cộng tác vào công trình của sáng tạo ấy qua việc tiếp tục tìm kiếm và khám phá những bí ẩn của cảnh sắc thiên nhiên, thì cũng là lúc con người nhận ra vị trí, vai trò và ý nghĩa của thân phận thụ tạo của mình mà vịnh gia đã nói: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân: Nào chiên bò đủ loại, nào thú vật ngoài đồng, nào chim trời cá biển, mọi loài ngang dọc khắp trùng dương” (Tv 8,6-9). Thánh Augustino cũng cảm nhận được vẻ đẹp này và ngài đã thốt lên: “Con yêu Chúa quá muộn màng, ôi vẻ đẹp rất xưa mà rất mới; con yêu Chúa quá muộn màng”. Như thế, chúng ta có thể quả quyết rằng, nẻo đường đầu tiên dẫn con người đến cuộc khám phá, chiêm ngưỡng và hiệp thông với Thiên Chúa chính là thiên nhiên hùng vĩ do Ngài sáng tạo.”
* Đôi mắt đẹp
Ở đây chúng ta không nói đến một đôi mắt đẹp theo nhãn quan của mỹ thuật, nhưng nói đến “đôi mắt đẹp” theo nhãn quan của người sống đức tin khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Thiên Chúa qua vạn vật. Với đôi mắt đức tin, con người sẽ dễ dàng nhận ra vẻ đẹp tình yêu Thiên Chúa nơi các thụ tạo của Người qua đời sống nội tâm. Nhờ đôi mắt đức tin, chúng ta có thể thanh tẩy con tim của mình hầu giúp chúng ta nhìn thấy cái đẹp, cái hay trong vẻ huy hoàng vinh quang của Thiên Chúa (x. 2Cr 4,6). Bởi vì, với Thiên Chúa mọi sự đều tốt đẹp, và Chúa hằng vui thích với công trình của Người (x. St 1). Ngài đã kiến tạo trời đất trong sự khôn ngoan (x. Kn 3,19), các thụ tạo tuy khác nhau nhưng đều phản ánh vẻ đẹp ấy ngay trong sự hiện hữu của riêng mình như Thiên Chúa muốn[2] . Cùng với con người, mọi thụ tạo sẽ nhìn và hát lên bài thánh ca về sự hiện hữu của “thụ tạo” để ca tụng Thiên Chúa (x. Tv 148,3-5). Việc ngắm nhìn thiên nhiên với “đôi mắt đẹp” giúp chúng ta đọc ra được nơi các thụ tạo những thông điệp của Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta[3] . Vì vậy, ngày sống của chúng ta cần có hồn chiêm niệm, để chiêm ngưỡng kỳ công của Thiên Chúa.
* Hồn chiêm niệm
Chúng ta cần nhạy cảm với lời thì thầm linh thiêng của bầu trời trong xanh, của biển cả và sông núi… Thế nhưng trên thực tế, con người thường có nguy cơ bị cuốn hút vào những náo động ồn áo của một thế giới có vẻ như đang hoảng loạn vì sự khai thác vô độ của nó, thế giới mà trong đó: khả năng dừng lại của con người để chiêm ngắm trong chiều sâu thẳm của chính lòng mình và đọc được niềm khao khát về cái vô hạn, đang bị hủy hoại tới mức báo động. Trong khi những ai mang nơi mình một tâm hồn chiêm niệm sẽ dễ dàng bắt gặp được điều họ mong đợi.
Trong ý định của Thiên Chúa, thiên nhiên không bao giờ là một mớ hỗn mang vô định; trái lại, khi tạo dựng thế giới, Thiên Chúa đặt vào đó một ý định, một chương trình cụ thể. Vì thế, khi con người càng hiểu biết về thế giới, càng khám phá những cơ chế tuyệt vời của thế giới thiên nhiên, lúc đó, con người sẽ nhận thấy một ‘bản thiết kế kỳ diệu’ của Đấng Tạo Thành. Sách Giáo Lý Hội Thánh khẳng định: “Cùng việc mở ra với chân lý và với cái đẹp, cùng với cảm thức của mình về điều thiện luân lý, cùng với sự tự do của mình và tiếng nói lương tâm, cùng với sự hứng thú với cái vô hạn và với niềm hạnh phúc, con người sẽ tự vấn về sự hiện hữu của Thiên Chúa”[4] .
Thế giới không tự nó mà có, nhưng được sáng tạo như một ân huệ Thiên Chúa trao ban cho con người. Vì thế, con người không được hủy diệt nó, nhưng phải cộng tác, góp sức mình biến nó thành ‘khu vườn’ của Thiên Chúa và con người. Tuy nhiên, “khu vườn” này trải qua dòng lịch sử đã dần dần bị che khuất và đang quằn quại rên xiết, và một sự chờ đợi được giải thoát và đạt tới vẻ huy hoàng của nó như Thiên Chúa muốn (x. Rm 8,22).
Chính trong tâm hồn chiêm niệm, con người có khả năng nhìn thấu được sự trong suốt và trong sáng của thiên nhiên như là tình yêu mà Thiên Chúa trao tặng. Vì thế, tự bản chất thiên nhiên luôn có một sự thân mật cùng Thiên Chúa, một sự gần gũi với con người và diễn tả sự khôn ngoan của chính Thiên Chúa[5] . Được như thế, trong thinh lặng của thiên nhiên, con người có thể nghe tiếng nói của Thiên Chúa ngỏ với lòng mình.
2. Lành mạnh hóa môi sinh
Nếu chúng ta thực sự muốn xây dựng một môi trường sinh thái, tái lập lại những gì chúng ta đã hủy hoại, thì không gì bằng cho việc con người phải quay về với Đấng Tạo Hóa. Tại sao? Bởi khi lìa xa Đấng Tác Tạo nên mình, con người dễ rơi vào những khủng hoảng ngay chính trong nội tại của họ, để rồi biểu lộ những khủng hoảng đó ra bên ngoài: là thái độ dửng dưng, sự lãnh đạm đối với nhu cầu thiêng liêng và coi nhẹ luân lý để chạy theo một lối sống hưởng thụ của cải vật chất và khoái lạc. Chính điều đó làm cho con người quên đi trách nhiệm của mình, mà Thiên Chúa đã đặt để họ quản cai thế giới (x. St 2,5-15). Đó cũng là điều thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Khi con người quay lưng lại với những kế hoạch của Đấng Tạo Hóa, con người gây ra những rối loạn, và sự rối loạn này dẫn đến những hậu quả nơi nhân loại”. Từ việc con người quay lưng với Thiên Chúa, họ sẵn sàng hy sinh vẻ đẹp phong phú mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại. Chính vì thế, họ đã khai thác thiên nhiên một cách bất hợp lý để thỏa mãn sự thèm khát chiếm hữu và thống trị. Với thái độ đó, con người cho thấy rõ sự trống rỗng nội tâm, khi họ không ý thức sự hiện diện của Người.
Đứng trước những khủng hoảng đó, con người phải làm gì để có thể tái lập trật tự thiên nhiên qua việc làm lành mạnh hóa môi sinh? Trước hết và trên hết, chính chúng ta cần nhận ra và giúp người khác nhận ra dung nhan Thiên Chúa trong vạn vật. Chỉ khi có khả năng nhận ra dung nhan Thiên Chúa nơi thiên nhiên vạn vật, con người mới có thể tôn trọng và ngợi ca những kỳ công vẻ đẹp mà Người đã ban tặng. Vì tất cả muôn loài hiện hữu trên trái đất không có nghĩa là để con người khai thác cách tùy tiện, nhưng là để chăm nom, bảo tồn và phát triển chúng theo ý định của Thiên Chúa. Đó là cách thức chúng ta góp phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
3. Mái nhà chung
Thông điệp Laudato Si đã quả quyết rằng thiên nhiên là “ngôi nhà chung” nối kết con người trên mọi lục địa lại nhau và qua đó gián tiếp mời gọi con người nối kết với Thiên Chúa. Trong sứ điệp cho ngày thế giới hòa bình 2010, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI dạy rằng: “Trách nhiệm đối với môi trường phát sinh từ nghĩa vụ đối với chính bản thân mình và liên đới với các người khác”[6] . Thiên nhiên là quà tặng của Đấng Tạo Hóa và là tài nguyên chung dành cho hết mọi người, chứ không chỉ dành riêng cho một ai; cũng không chỉ dành riêng cho thế hệ hiện tại mà còn cho cả thế hệ tương lai.
Khi dựng nên con người, Thiên Chúa cho con người cộng tác vào công trình sáng tạo và bảo vệ môi sinh: làm cho thiên nhiên được bảo tồn và phát triển, canh tác vườn tược và bảo vệ súc vật… Vì thế, chúng ta phải tôn trọng trật tự tự nhiên mà Thiên Chúa đã thiết lập khi tạo dựng chúng và không được làm sai lệch trật tự trong tự nhiên do Ngài sáng tạo. Chúng ta đón nhận thiên nhiên vạn vật như là quà tặng của Thiên Chúa để qua đó Thánh Ý của Ngài được thể hiện. Thế nhưng trong thực tế, nhiều khi con người lại quên mất điều đó và khai thác thiên nhiên một cách bừa bãi, tự đặt mình làm trung tâm vũ trụ, thu mình vào sự khai thác thiên nhiên cách ích kỷ riêng tư. Con người đã quản lý nơi mình ở với các lựa chọn có nguy cơ làm tổn hại cả sự tồn tại của mình. Trong thực tế, nơi ở của con người đòi hỏi sự tôn trọng và bảo vệ không chỉ những người sống trong đó mà còn phải bảo vệ cả các thế hệ mai sau để họ cũng cần một trái đất trong lành.
Khi học tập để tôn trọng môi trường thiên nhiên thì đồng thời con người nhận ra mình có bổn phận phải biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính bản thân mình. Giáo lý của Kitô giáo luôn đặt trọng tâm lên thiên nhiên và xem thiên nhiên khả ái như một thực tại mang tính giáo dục cho con người. Đó cũng chính là điều mà Vịnh Gia đã nhận ra, khi nói: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8,4-5). Do đó, mọi người đều có trách nhiệm và nghĩa vụ phải tôn trọng, gìn giữ và bảo vệ thiên nhiên là chính môi trường sống của mình và cũng là của mọi người trong cộng đồng dân tộc và trong toàn thế giới hôm nay[7] .
Kết luận
Chúng ta vừa trải qua khoảnh khắc ấn tượng khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên để nâng tâm hồn lên tới Chúa. Qua đó, chúng ta thấy trách nhiệm phải lành mạnh hóa môi sinh để bảo vệ và xây dựng thế giới, ngôi nhà chung của nhân loại.
Là những người sống đời thánh hiến đan tu, chúng ta ý thức rằng khi thiên nhiên hòa điệu với tâm hồn như bài ca cuộc sống, sẽ góp phần làm nên các giá trị cuộc đời. Với ý thức này, chúng ta nhận ra mình là thụ tạo nhỏ bé, nhưng đóng vai trò quan trọng trong ngôi nhà chung của thế giới, nơi Thiên Chúa đã chuẩn bị nơi ở cho chúng ta. Do đó, chúng ta phải có trách nhiệm về việc chăm sóc bảo vệ thiên nhiên một cách sáng tạo và không ngừng kiến tạo sự hiệp nhất trong toàn thể gia đình nhân loại, để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh.
[1] X. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Thông Điệp Laudato Sí, số 12 và 85.
[2] X. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato Si, số 16.
[3] X. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Sđd, số 85.
[4] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 33.
[5] X. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato Sí số 65
[6] ĐGH Bênêđictô XVI, Sứ Điệp Cho Ngày Thế Giới Hòa Bình, năm 2010.
[7] Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Lá thư Mục Tử Tổng Giáo Phận Sài Gòn, ngày 28.5.2009.
TẢN MẠN ĐỒNG TIỀN
FM. Arnold Janssen Thái Bá Đại
Người ta thường nói đùa với nhau về tiền bạc qua những câu vè: “Tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý”. Trong thực tế, những câu vè mang tính đùa cợt pha lẫn một tí châm biếm này, đã phản ảnh phần nào cách sống và quan niệm về đồng tiền của con người trong xã hội hôm nay. Đồng tiền đã khẳng định được sức mạnh và vai trò quan trọng của nó, gần như trong mọi lãnh vực của đời sống từ sức khỏe, đến danh vọng, và phủ luôn cả cán cân công lý. Đồng tiền có thể mang lại sự giàu sang, phú quý cho con người, vì đồng tiền có thể tậu được nhà cửa, xe cộ, đất đai, ruộng vườn, bên cạnh những nhu cầu thường ngày như thực phẩm, giải trí, du lịch và nhiều nhu cầu hưởng thụ khác. Trong cái nhìn tiêu cực, đồng tiền có thể giúp người ta mua được bằng cấp, danh vọng và thăng quan tiến chức. Đồng tiền có thể bưng bít, che giấu sự thật, đảo lộn thị phi, làm ô dù che chở cho người ta nhúng tay vào tội lỗi, đồng tiền ở đâu thì cán cân công lý nghiêng về ở đó và sẵn sàng thay trắng đổi đen. Như cụ Nguyễn Du đã từng than thở:“Trong tay sẵn có đồng tiền, dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì.” Chính vì đồng tiền có sức mạnh và quyền năng như thế mà người ta không ngại bỏ thời gian, công sức, bất chấp mọi thủ đoạn, thậm chí bán rẻ lương tâm, đạo đức để theo đuổi mục đích là kiếm cho thật nhiều tiền. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, trong nhiều trường hợp, tiền bạc mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Nhưng cũng không ít tình huống, chính nó đã cướp đi niềm vui, hạnh phúc, và ngay cả mạng sống của con người. Có nhiều người vì quá bận tâm kiếm tiền, mà quên đi những giá trị khác của cuộc sống, thậm chí sẵn sàng đánh mất bản thân vì đồng tiền.
1. Đồng tiền – Người bạn tốt nhưng là ông chủ xấu
Không ai phủ nhận sự ra đời của đồng tiền là một phát minh vĩ đại, đánh dấu sự tiến bộ của loài người. Đồng tiền đã làm thay đổi bộ mặt thế giới, vì nó kéo con người lại gần với nhau, không phân biệt chủng tộc, quốc gia, văn hóa, hay ngôn ngữ, và nó giữ vai trò trung gian giúp con người thỏa thuận với nhau trong việc mua bán, giao dịch và trao đổi hàng hóa. Nhờ đồng tiền, mọi giao dịch được thuận lợi, sản xuất phát triển, con người giao lưu với nhau dễ dàng[1] .Vì thế, bản chất nguyên thủy của đồng tiền là rất tốt, và không quá lời nếu ai đó ví đồng tiền là người bạn tốt. Thế nhưng, do sự tham lam, ích kỷ và dối trá của con người, họ đã dần dần thao túng và làm biến đổi bản chất tốt đẹp của đồng tiền. Do việc đặt sai vị trí của đồng tiền, thay vì xem nó là phương tiện để phục vụ và giúp con người có một cuộc sống tốt đẹp hơn, thì nhiều khi con người đã xem chúng là mục đích, là cứu cánh, là công cụ vạn năng. Đồng tiền có thể trở nên ông chủ bất lương vì nó có khả năng điều khiển con người và buộc con người làm bất cứ việc gì, miễn là tìm được nhiều lợi nhuận mà không cần phân biệt tốt, xấu, đúng, sai.
a. Đồng tiền trong Truyện Kiều
Đối với người dân Việt Nam nói riêng, sức mạnh đồng tiền và sự ảnh hưởng của nó đã được phản ảnh rất nhiều và rất xa xưa qua những câu chuyện cổ tích như “Đồng Tiền Vạn Lịch”, những câu Ca Giao Tục Ngữ như “Đồng tiền liền khúc ruột”, và cả những tác phẩm văn chương như “Truyện Kiều“. Đại thi hào Nguyễn Du, qua tác phẩm “Truyện Kiều” nổi tiếng của ông, đã diễn tả sức mạnh của đồng tiền trong xã hội phong kiến đương thời. Bằng ngòi bút khéo léo và sinh động, thi hào Nguyễn Du đã đề cập đến cả hai mặt tốt – xấu của đồng tiền, qua nếp sống của các nhân vật chính diện và phản diện. Nguyễn Du đã mạnh mẽ vạch trần bọn quan lại và những người vì đồng tiền mà bán rẻ lương tâm, vu oan, cướp bóc, đàn áp và hà hiếp dân lành. Đó là tên quan xử án, luận tội nhưng chẳng biết phải trái, thực hư, chỉ cần khảo tra cho ra tiền: “Có ba trăm lạng việc này mới xong“. Mã Giám Sinh một tên buôn người chuyên lừa gạt, đểu cáng, mượn danh nghĩa đi cưới vợ: “Cò kè bớt một thêm hai, giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm“. Một mụ Tú Bà – chủ lầu xanh, chuyên kiếm tiền trên thân thể, nhân phẩm của người phụ nữ. Đối với mụ, lúc nào cũng nghĩ đến tiền, ngày ngày mụ cứ nơm nớp lo sợ Kiều bỏ trốn, và nếu điều đó xảy ra thì đồng tiền thu nhập của mụ sẽ giảm đi. Thêm vào đó là một tên ma cô Sở Khanh tráo trở, vô liêm sỉ, chỉ vì tham tiền mà sẵn sàng làm tay sai cho Tú Bà để lường gạt Thúy Kiều, buộc nàng phải tiếp khách làng chơi.
Qua tác phẩm của mình, Nguyễn Du đã lớn tiếng tố cáo một xã hội tàn bạo, một nhóm người tán tận lương tâm, là những tên nô lệ của đồng tiền và chúng là những kẻ: “Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền“. Nguyễn Du đã mổ xẻ, phanh phui bằng lời thơ căm giận: “Trong tay sẵn có đồng tiền, dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì!“.
b. Đồng tiền và chữ hiếu
Sức mạnh của đồng tiền được thi hào Nguyễn Du diễn tả trong tác phẩm Truyện Kiều thật khủng khiếp. Đồng tiền đã làm cho gia đình Thúy Kiều tan tác. Đồng tiền đã đẩy cha và em của Thúy Kiều vào cảnh tù tội. Đồng tiền đã chia rẽ mối tình duyên đẹp đẽ giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, để rồi Thúy Kiều phải chịu đọa đày suốt mười lăm năm trời oan ức. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã không có cái nhìn hoàn toàn tiêu cực về đồng tiền. Ông phân định rõ ràng rằng: nếu đồng tiền ở trong tay kẻ ác thì vô cùng xấu xa, nhưng ở trong bàn tay của người lương thiện thì đồng tiền luôn thể hiện tính chất tích cực. Điển hình là Thúy Kiều, trước cảnh hoạn nạn của gia đình, cha và em bị bắt, nhà cửa bị tàn phá, Thúy Kiều đã lo lắng và suy nghĩ tìm cách nào để cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội. Trong đám nha dịch có người họ Chung đã mách nhỏ: “Có ba trăm lạng việc này mới xong“. Nhưng lấy đâu ra tiền bây giờ? Không còn cách nào khác, Thúy Kiều đành quyết định bán mình để chuộc cha. Đó là một quyết định hết sức khó khăn, nhất là đối với một người con gái nết na đức hạnh như Thúy Kiều. Đó cũng là một quyết định được đong đầy chữ tâm, chữ tình và chữ hiếu. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử văn chương Việt Nam, một nhà thơ đã ca ngợi một cô gái biết hy sinh tình yêu, hy sinh tuổi trẻ để bán mình kiếm tiền cứu cha, cứu em, cứu gia cảnh trong cơn hoạn nạn.
Thúy Kiều là nạn nhân của đồng tiền, nhưng Thúy Kiều cũng biết quý trọng đồng tiền khi đồng tiền giúp nàng đền ơn đáp nghĩa cho những người đã cưu mang mình trong cơn hoạn nạn. Thúy Kiều đã trân trọng đáp nghĩa ân tình với Thúc Sinh trong dịp báo ân: “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân, tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là“. Vì thế, cái nhìn của Nguyễn Du về vai trò đồng tiền trong xã hội là cái nhìn rất nhân văn. Nhà thơ lên án đồng tiền khi nó bị kẻ xấu làm cho biến chất, nhưng lại trân trọng những đồng tiền tình nghĩa trước sau. Nhà thơ căm thù những kẻ táng tận lương tâm, vì tiền mà sẵn sàng chà đạp lên đạo lý, nhưng trân trọng những người như Thúy Kiều, biết dùng đồng tiền vào việc cứu cha, cứu em và đền đáp ơn nghĩa.
2. Đồng tiền và sức mạnh
Ngay cả hôm nay, với nền kinh tế thị trường, đồng tiền vẫn tồn tại song song hai mặt tích cực và tiêu cực. Đối với người lao động lương thiện, đồng tiền là mồ hôi nước mắt, là chén cơm manh áo. Đối với xã hội, đồng tiền là động lực thúc đẩy lao động sản xuất, là phương tiện trao đổi hàng hóa, là món quà giúp đỡ lẫn nhau trong lúc ngặt nghèo, hay trong cơn hoạn nạn. Nhưng đối với những thành phần bất hảo, đồng tiền là lẽ sống của họ, nó có sức cuốn hút, gây mê và chi phối toàn bộ cuộc sống của họ. Họ mải mê kiếm tiền và chạy theo lợi nhuận của đồng tiền, dễ dàng quên đi tình nghĩa, để đổi lấy sự tàn nhẫn, lạnh lùng, vô cảm và bất chấp đạo lý. Họ tự biến mình trở thành những kẻ nô lệ của đồng tiền. Đồng tiền vốn không xấu vì nó là phương tiện trao đổi trong cuộc sống, là kết quả lao động của những con người chân chính. Nhưng những kẻ kiếm tiền bằng hành động bất chính thì đó là đồng tiền tội lỗi. Quan niệm về đồng tiền của Nguyễn Du nhắc nhở mọi người hãy suy nghĩ kỹ càng về cách kiếm tiền và sử dụng đồng tiền thế nào cho đúng nghĩa.
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu đời sống ngày càng cao, thì đồng tiền càng có sức mạnh và sự cuốn hút. Hầu như mọi thứ trong đời sống hôm nay đều có thể đánh đổi bằng tiền, thậm chí đồng tiền có thể mua được bằng cấp, địa vị, quyền lực, danh vọng, và cả sự trọng vọng của xã hội. Có những thứ mà một thời được xem là giá trị tinh thần và thiêng liêng tuyệt đối, chẳng hạn như “tình mẫu tử”. Nhưng hôm nay, vì đồng tiền người ta sẵn sàng ký hợp đồng “mang thai hộ”, một dịch vụ thuê mướn như bao nhiêu dịch vụ “thuận mua vừa bán” khác. Để rồi sau khi sinh nở, “mẹ đường mẹ – con đường con”. Tuy cũng mang nặng đẻ đau, cũng bầu bì chín tháng mười ngày, nhưng dĩ nhiên ý nghĩa của “cù lao chín chữ” và “lòng mẹ bao la như biển thái bình” sẽ không được thể hiện trong tình mẫu – tử kiểu này. Do đồng tiền hôm nay có sức mạnh quá lớn và can thiệp hầu hết trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Vì thế, người ta đã ví von sức mạnh của đồng tiền đến mức gần như sùng kính: “Tiền là Tiên, là Phật”.
3. Đồng tiền và sự giới hạn
Đồng tiền không phải là tất cả, bởi vì có nhiều thứ trên đời mà chúng ta không thể mua hay đánh đổi bằng tiền. Trong đời sống thực tế, đồng tiền có thể mua thực phẩm, thuốc men, nhưng không mua được sức khỏe hay mạng sống con người. Đồng tiền có thể mua các dịch vụ giải trí, du lịch, thú tiêu khiển nhưng không mua được sự an vui trong tâm hồn. Tiền bạc có thể mua được nhà cửa, biệt thự nhưng không thể mua được tổ ấm gia đình. Đồng tiền có thể mang lại cho con người sự giàu sang phú quý nhưng chưa hẳn đã mua được hạnh phúc. Có tiền dễ dàng để kiếm được vợ đẹp nhưng không hẳn là có được tình yêu. Có tiền dễ dàng kiếm được bạn nhưng không dễ mua được sự trung thành. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc sinh thời đã từng than thở: “Còn tiền còn bạc còn đệ tử, hết tiền hết bạc hết ông tôi”[2] . Tiền sẽ giúp người ta có đời sống tiện nghi, nhưng chưa hẳn có được sự thảnh thơi thoải mái. Đồng tiền có thể giúp người ta trốn tránh pháp luật, thoát cảnh tù tội, nhưng không thể giải thoát họ khỏi sự giày vò của lương tâm. Vì thế, cá nhân, tập thể, hay quốc gia muốn phát triển vững mạnh thì phải phát triển toàn diện, chứ không chỉ tập trung về lợi nhuận kinh tế hay đồng tiền.
4. Đồng tiền và lời khấn khó nghèo
Trong một xã hội, khi con người đang nỗ lực tìm kiếm tiền bạc và đề cao giá trị vật chất, thì đời sống tu trì lại mời gọi tu sĩ sống lời khấn khó nghèo triệt để. Thật vậy, hơn bao giờ hết, tu sĩ trong thế giới hôm nay được mời gọi sống hội nhập để loan báo Tin Mừng, để làm chứng cho niềm tin và những giá trị Kitô giáo. Các tu sĩ được mời gọi để từ bỏ những quyến rũ vật chất, từ bỏ lối sống hưởng thụ, để dấn thân một cách trọn vẹn và quyết liệt hơn cho mầu nhiệm Nước Trời, và để bước theo sát Đức Kitô hầu đạt đến đức ái trọn hảo. Tuy nhiên, trong thực tế, có không ít tu sĩ đã bị cuốn vào vòng xoáy của đồng tiền, của vật chất và lối sống thực dụng. Xét về mặt tự nhiên mà nói, thì có lẽ không mấy ai trong chúng ta muốn sống nghèo, nhất là trong bối cảnh xã hội hôm nay, khi mà người ta đang đề cao tiền bạc, hưởng thụ và cái nghèo bị coi là điều bất hạnh. Các tu sĩ dù muốn hay không cũng dễ bị cám dỗ và cuốn hút bởi vòng xoáy vật chất tiền bạc và đây là một thách đố. Về mặt lý thuyết, tu sĩ tự nguyện sống nghèo và sống giản dị. Tuy nhiên, do tác động của ngoại cảnh, tu sĩ sẽ bị chi phối và ảnh hưởng với một mức độ nhất định nào đó. Hằng ngày, thông qua các phương tiện truyền thông, chúng ta chứng kiến đủ loại sản phẩm và vô số hình thức quảng cáo, tiếp thị, khuyến khích con người hưởng thụ những tiện nghi vật chất. Từ những tác động hết sức bình thường đó, người tu sĩ ngày qua ngày có thể rơi vào những cám dỗ về phương tiện vật chất lúc nào mà mình không biết. Ban đầu, các tu sĩ có thể biện minh rằng: chiếc “Iphone 7” chỉ là một cái điện thoại di động bình thường thôi mà, nó chỉ là một tí qùa tặng nhân ngày sinh nhật. Thế rồi “mưa dầm thấm đất”, xin một cái máy vi tính xách tay hiệu Apple, 30 triệu đồng, nhân ngày “bổn mạng” cũng là hợp lý. Rồi đến chiếc xe honda tay ga, món quà của người chị “tinh thần” Việt kiều ở xa về thăm nhân dịp Tết Nguyên Đán sẽ là phương tiện để đi mục vụ đường xa. Những tài sản có được do khéo léo “ngoại giao – xin xỏ” thì ai cũng muốn giữ cho riêng mình, không thích chia sẻ với anh chị em. Cứ thế, các tu sĩ bị bao phủ bởi những vật chất có được, và khó lòng từ bỏ. Rồi từ đó, Lời Khấn Khó Nghèo trở nên nặng nề và khó giữ hơn.
5. Chúa Giêsu và đời sống khó nghèo
Tin Mừng cho chúng ta biết, Chúa Giêsu đã chọn một cuộc sống nghèo khó. Kể từ giây phút được sinh ra từ lòng mẹ, Chúa đã chọn kiếp sống vô gia cư, sinh ra trong cảnh “không nhà – không cửa”. Và giây phút cuối cùng của kiếp người, Ngài đã chọn cái chết trần trụi đúng nghĩa trên thập giá. Chúa Giêsu thường lên án những người đam mê tiền bạc mà quên mất Thiên Chúa và linh hồn của mình. Ngài nói: “Không ai có thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền bạc được” (Lc 16,13). Nơi khác, Ngài lại nói: “Đồ gốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng người, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12,20). Ngài cũng căn dặn chúng ta về việc sử dụng tiền của: “Hãy dùng tiền của đời này mà mua lấy bạn hữu” (Lc 16,9). Đồng thời, Ngài nhắc nhở chúng ta hãy thu tích cho mình một kho tàng thiêng liêng ở trên trời, nơi mà trộm cắp không thể lấy đi và mối mọt không thể gậm nhấm. Chúa Giêsu khẳng định: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì” (Mt 16,26). Với chàng thanh niên giàu có, Chúa nói: “Nếu con muốn trở nên trọn lành, hãy về bán tất cả những gì con có, phân phát cho người nghèo, rồi hãy đến mà theo Ta” (Mt 19,21). Chúa Giêsu luôn tỏ ra thương xót những kẻ nghèo hèn và Ngài luôn cảnh giác các môn đệ của Ngài về sự giàu có: “Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19,24). Ngài còn kể cho các môn đệ dụ ngôn: “Người phú hộ giàu có và người nghèo Lazarô” (Lc 16,19-31). Tuy nhiên, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu không ít lần đề cập đến tiền bạc và giá trị của nó. Ngài thừa nhận những giá trị tích cực của đồng tiền. Ngài nói đến người đàn bà đánh mất đồng bạc, thắp đèn quét nhà để tìm kiếm, kiếm được rồi vội chạy khoe với hàng xóm. Ngài kể về người đầy tớ biết làm lợi từ những nén bạc chủ giao, và ông chủ đã khen người đầy tớ đó là tốt lành và trung tín. Chúa đã khen tấm lòng quảng đại của bà góa nghèo, khi dâng cúng tất cả những đồng tiền bà có vào đền thờ. Hơn ai hết, Chúa Giêsu hiểu rất rõ tính chất hai mặt của đồng tiền. Ngài đã gián tiếp khen người tôi tớ tốt lành và trung tín, vì đã vâng lời ông chủ mà làm lợi được nhiều nén bạc từ số vốn được trao. Rồi chính Chúa đã cảm nghiệm được mặt trái của đồng tiền khi đối diện với sự phản bội của người môn đệ. Vì tiền mà Giuđa đã phản bội Chúa. Chúa Giêsu cũng là nạn nhân của đồng tiền, vì Giuđa đã bán Ngài với giá ba mươi đồng bạc.
Lời kết
Của cải, vật chất, tiền bạc là phương tiện cần thiết của cuộc sống, nhưng những thứ đó không phải là tất cả. Ai cũng cần tiền để sống, nhưng để sống xứng đáng với nhân phẩm của mình, con người phải biết nói không với mua gian bán lận, tham lam, với tham nhũng, với chiếm đoạt hoặc với bất cứ sự thu nhập bất chính nào. Đồng tiền, tự nó không phải là xấu, nhưng vẫn luôn là con dao hai lưỡi. Nếu được sử dụng như một phương tiện tốt, đồng tiền sẽ giúp cho con người làm được nhiều việc tốt. Trái lại, nếu xem đồng tiền là ông chủ, là mục đích và cứu cánh mà quên mất những giá trị khác trong cuộc sống, thì thật là nguy hiểm và tai hại. Nó có thể đem lại một đời sống tiện nghi về vật chất, nhưng thiệt hại về đời sống tâm linh. Cuộc đời của mỗi người dù giàu hay nghèo, sang hay hèn đều đang đi dần về điểm chấm hết. Vậy câu hỏi quan trọng cho mỗi người là khi nhắm mắt rồi, số phận đời đời của chúng ta sẽ ra sao? Tiền bạc trần gian có giúp chúng ta tìm được hạnh phúc bất diệt hay lôi kéo vào chỗ trầm luân?
Chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với đồng tiền nói riêng và vật chất nói chung. Là những tu sĩ đang nỗ lực đi tìm Chúa và làm chứng về nước Chúa, chúng ta phải dứt khoát khước từ mọi sở hữu bất chính, mọi thỏa hiệp gian dối thiếu minh bạch. Chúng ta hãy sống quảng đại, mở rộng quả tim để chia sẻ và cảm thông với mọi người, như thánh Phaolô khuyên dạy: “Họ tích trử cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai” (1Tm 6,19). Với nhu cầu của cuộc sống hiện đại, đồng tiền vô tình trở nên một áp lực rất lớn cho con người và nó trở thành tâm điểm buộc con người phải xoay quanh nó. Người ta xem tiền bạc như yếu tố chính của sự sinh tồn. Vì thế, nó là nguyên nhân dẫn đến tham nhũng, chiếm đoạt bất chính, trộm cướp, gian lận, và bao nhiêu hành động phi đạo đức khác. Bản thân đồng tiền không có tội, chỉ vì sức ảnh hưởng của nó quá lớn đến độ che khuất cả tầm nhìn của con người. Vì thế, các tu sĩ ngày nay cần phải sáng suốt hơn bao giờ hết để nhìn ra được những dấu chỉ và nhu cầu của thời đại. Các tu sĩ cần tìm ra ý Chúa qua những biến cố của xã hội. Nếu người đời không thể sống thiếu tiền, thì tu sĩ cũng không thể sống thiếu Lời Chúa: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Nhờ Lời Chúa, các tu sĩ biết thánh hóa bản thân và cần thực hiện ba điểm chính yếu của đời tu, đó là: tìm kiếm Thiên Chúa, sống tinh thần hiệp thông huynh đệ và phục vụ người khác. Trong một thế giới không còn ý thức mạnh mẽ về sự hiện diện của Thiên Chúa, thì các tu sĩ phải trở thành chứng nhân đầy sức thuyết phục về một Thiên Chúa Tình Yêu và về đời sống vĩnh cửu mai sau. Sống nghèo khó, giản dị, xem nhẹ đồng tiền, và từ bỏ sự quyến rũ của vật chất tiền bạc là lời chứng hùng hồn nhất trong bối cảnh ngày nay.
[1] x. https://www.facebook.com/permalink.
[2] Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thói đời.