RP. BENEDICT THUẬN (Henri Denis)
CHA TỔ PHỤ TRONG TRÁI TIM TÔI
Lời Tự Sự
Cổ nhân thường nói: Biết Cây không gì bằng nếm trái; biết Người không gì bằng nhận biết “tam tài” của người ấy. Vâng, biết Cha Tổ Phụ không gì bằng cảm nghiệm tình yêu thương, hạnh tích của Người. Mà cảm nghiệm thì là một cái gì đó rất riêng tư của mỗi người; vì lẽ đó, sau nhiều ngày sống ơn gọi đan tu chiêm niệm – chiêm ngắm Chúa và những sự thuộc về Chúa – trong đó có tình yêu thương và hạnh tích của Cha Tổ Phụ. Hồn mọn đã mạo muội lưu bút hồng ân bằng văn vần những cảm nghiệm đầy ứ trong tim và đã trào tràn ra trong bài “Cha Tổ Phụ Trong Trái Tim Tôi”, nhằm tỏ lòng ngưỡng mộ, tri ân : một người Cha đầy lòng nhân ái, một bậc Thầy chỉ giáo đường thiêng liêng, một nhà truyền giáo nhiệt thành và là một Đấng Sáng Lập anh minh, sống vị tha quên mình: nên mọi sự cho mọi người.
Mặc dù hồn mọn rất ngưỡng mộ và muốn viết nhiều về Cha Tổ Phụ nhưng có điều chắc chắn là một vài trăm câu Lục Bát thì ắt hẳn chỉ có thể diễn đạt được đôi nét nho nhỏ về tình yêu thương cũng như hạnh tích của Người mà thôi. Dẫu là thế, hồn mọn cũng vẫn muốn làm một cái gì đó để biểu lộ chút lòng thành ngưỡng mộ, hiếu kính với một người Cha, người Thầy, với Đấng sáng lập; Người mà đã làm trỗi đọng trong trái tim hồn mọn những tâm tình, dấu ấn hoài niệm thánh để nhớ, để thương và để sống vui, sống thánh một đời dâng hiến.
Vậy, trong tâm tình đơn thành, hồn mọn lưu bút hồng ân bằng văn vần những cảm nghiệm về tình yêu thương và hạnh tích của Cha Tổ Phụ, với ước mong chia sẻ mà thôi. Nếu trong bài viết có điều gì thiếu xót, xin … thương tình lượng thứ./.
Lặng thầm nhìn ngắm gương Cha
Tim con trỗi đọng bao là mến thương
Trong niềm cảm mến tri ân
Tâm con thi hứng trào tuôn dạt dào
Bao lời giáo huấn Cha trao
Gương lành “Hạnh Tích”đi vào tim con
Phước Sơn in đậm nét son
Một đời thánh hiến vẹn tròn nghĩa ân
Ơn Cha cảm mến vô ngần
Tâm tình ngưỡng mộ kính dâng Cha hiền.
* * * * * * *
NHỚ VỀ THỜI NIÊN THIẾU
Sinh thời trang tuổi thiếu niên
Henri Denis ngoan hiền thông minh
Luôn theo lời dạy thân sinh[1]
Học hành chăm chỉ cầu kinh sớm chiều
Chúa Trời kính uý tin yêu
Nguồn Chân-Thiện-Mỹ chắt chiu từng ngày
Ơn Trời mưa móc vận may
Quý nhân [2] cho gặp phúc thay phận người
Gia đình phấn khởi khôn nguôi
Con vào chủng viện niềm vui ngập lòng
* * *
Sáu năm đèn sách nhọc công
Dùi mài kinh sử hoài mong mai ngày
Dấn thân nhập hội Thừa Sai
Ra đi truyền giáo dựng xây Nước Trời
Ước mơ thầm kín lòng người
Cao xanh thấu tỏ đáp lời nguyện xin …
Thân thưa từ gĩa gia đình
Xa lìa đất Mẹ đăng trình ra khơi [3]
Lênh đênh sóng nước thuyền xuôi
Bình minh đất Việt đón người xa quê
* * *
[1] x. HẠNH TÍCH CHA BENOIT – R.P. HENRI DENIS CỐ THUẬN – Tổ Phụ Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, do Viện Phụ Emmanuel CHU KIM TUYẾN biên soạn, chương I, trang 25 : Ông Denis, thân sinh của Cha tổ phụ, ngay khi Henri Denis còn bé đã hết lòng quan tâm giáo dục, nhất là dạy cho biết kính mến Thiên Chúa luôn.
[2] Qúy nhân : đó là Cha Golliot, giáo sư Tiểu chủng viện thành Boulogne, bạn đồng liêu với Cha Eloy, cũng là người làng Wimille, thấy thầy thần học nhỏ của Cha Billot, nết na đức hạnh, trí tuệ thông minh, thì muốn nhận cho đi nhà trường. Cha đến tỏ bày ý kiến với ông bà Denis. Không ngần ngại, ông vui mừng tạ ơn Chúa, ký thác con cho Cha để ngài lo liệu cho nhập Tiểu chủng viện (Hạnh tích Cha BENOIT, chương III, trang 30).
[3] Sau khoa triết lý và thần học, ngày 07- 03-1903, lễ thánh Thomas, giữa cảnh huy hoàng lộng lẫy đền thờ Đại chủng viện Paris, thầy sáu Denis thụ phong linh mục. Sau khi thụ phong linh mục, cha Bề trên đại chủng viện Dòng Sai Paris viết tờ sai cha Denis qua Việt Nam, địa phận Huế. Trước khi lên đường, Cha Denis đã trở về thăm và chào từ biệt gia đình và quý ân nhân, Cha từ giã Marseille, bỏ lại đằng sau quê hương thứ nhất, để trèo sóng chém gió tiến tới quê hương thứ hai là Việt Nam (Hạnh tích Cha BENOIT, chương IV, trang 38).
* * *
* * *
NHỮNG NGÀY ĐẦU TRÊN ĐẤT VIỆT
Từ Đà Nẵng 1 khó chẳng nề
Đường về xứ Huế chân lê lối mòn
Vượt qua bao lũng sườn non
Lăng Cô điểm đến Cố Nhơn 2 đón chào
Đồng hương bùi ngọt sẻ trao
Đồng hành từng chặng 3 ví dầu đường xa
Tông Toà 4 diện kiến Đức Cha5
Niềm vui ba Cố 6 đượm đà tình thân
Đức Cha từ tốn ân cần
Quý danh là Thuận phân trần đặt cho
*****
Xa quê xứ lạ ngẫm lo
Kim Long học tiếng 7 uốn o từng vần
Vì yêu chẳng ngại nhọc thân
Thơ, văn, nói, viết ân cần học chăm
Tình yêu thôi thúc tâm can
Khát mong truyền giáo nên càng tận tâm
Hán văn kiến thức uyên thâm
Tu từ, tiếng Việt âm thầm luyện tinh
Giáo sư Chủng viện An Ninh 8
Nhiệt tình giảng dạy chủng sinh quên mình
* * *
Đa tài khắc kỵ cầu vinh
Một tìm Danh Chúa ẩn mình tu thân
Phúc Âm đọc gẫm chuyên cần
Lửa tình nung nấu tâm thần khát khao
Tin Mừng cất bước truyền rao 9 …
Lòng thành ngưỡng vọng Trời Cao thấu tình
Thi ân thoả nguyện hiền minh
Bài sai nhận xứ 10 đăng trình mút xa…
Địa danh Nước Mặn xứ Cha
Xứ nghèo dân khổ xót xa vô ngần.
* * *
[1] Từ Đà Nẵng: Cha Denis đến Đà Nẵng ngày 31 tháng Đức Bà 1903. Cha vào nhà chung Đà Nẵng nghỉ một ngày, thâu xếp đồ đạc xin “cố” giữ việc gửi ra Huế theo chuyến xà lúp hằng tuần, vì bấy giờ chưa có xe lửa, xe hơi. Hôm sau, Cha khởi hành ra Huế, tháng hè nắng chang chang mà Cha cuốc bộ 40 cây số, vượt qua những thung lũng, những sườn đồi, từ sáng đến tối mới tới Lăng Cô, biên thùy địa phận Huế (x. Sđd chương V, trang 40).
[2] Cố Nhơn (R.P. Mendiboure), là cha sở xứ Lăng Cô, đồng hương của Cha Denis. Sau khi ở lại cùng cố Nhơn độ mươi ngày, thì Cha Denis xin cố Nhơn đưa ra Huế (x. Sđd chương V, trang 41).
[3] Đồng hành từng chặng: Từ Lăng Cô ra Huế hai Cha phải đi dịch độ, tức là phải đi từng chặng, như đến Nước Ngọt ghé thăm Cha Chánh rồi hôm sau mới đi đò từ Cầu Hai ra Huế (x. Sđd trang 41).
[4] Tông Tòa : “Vị Đại diện Tông tòa Huế lúc bấy giờ là Đức Cha Gaspar Lộc, đặt cho cha Denis tên Việt là “Thuận” và gửi Cha đến giáo xứ Kim Long để học tiếng Việt” (Trích TIỂU SỬ CHA BIỂN ĐỨC THUẬN của Viện phụ Lê Văn Đoàn, trang 09).
[5] Diện kiến Đức Cha : cố Nhơn đưa Cha Denis lên chào Đức cha biểu hiệu Đức cha Lộc, dinh thự ngài khi ấy còn ở Phú Xuân (x. Sđd chương V, tr 41).
[6] Ba Cố : đây là Đức Cha Lộc, cố Nhơn và cố Thuận, gặp nhau trong bầu khí hân hoan vui mừng trong Chúa (x. Sđd chương V, trang 41).
[7] Ở Kim Long, Cố Thuận khát mong làm việc tông đồ nên đêm ngày cứ mải miết học tiếng Việt Nam (x. Sđd chương V, trang 41).
[8] Đức cha Lộc (Gaspar) thấy ngài khá tiếng Việt thì bổ đi làm giáo sư chủng viên An Ninh (x. Sđd chương V, trang 42).
[9] Theo chứng thơ các cha gửi đến, thì cha giáo Thuận ước ao đi mở Nước Chúa hơn làm giáo sư chủng viện. Nhất là từ kỳ giải năm 1906, ngài theo Đức cha đi kinh lược miền rừng cho đến Lao Bảo, gặp nhiều người đồng bào Thượng chưa tòng giáo, ngài động lòng thương muốn qui thuận họ về cùng Chúa (x. Sđd chương VI, trang 50).
[10] Chúa thấy cha giáo Thuận nhiệt tâm cứu vãn các sinh linh như vậy không thể cầm mình được, nên chẳng đợi được năm sau, bèn là vừa sang tháng giêng năm 1908, Chúa đã soi lòng cố Chính Ý đang làm bề trên địa phận bấy giờ sai cha Thuận đi coi họ Nước Mặn (Thừa Lưu) (x. Sđd chương VI, trang 52).
* * *
CHỦ CHĂN SỐNG ĐỜI YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ
Khởi đầu mục vụ canh tân
Chia thành ba điểm từng phần thực thi
Một là giáo lý khởi đi
Dân quê chân chất học thì phân tâm
Trong thơ kính gửi song thân
Tỉ tê Cố Thuận phân trần dân con
Đàn ông chuyện thuốc lạt ngon
Đàn bà trầu cốt đỏ lòm… nhổ phun
Vì yêu Cha vẫn kiên trung
Bao người biết Chúa lệ mừng ngấn sa
* * *
Hai là tiếp cận từng nhà
Đường xa vó ngựa lặp là lặp lên
Sáng ngày thăm họ Lập Yên
Tối mai nghỉ tại bên miền Phú Gia
Thân hành thăm hỏi từng nhà
Tinh thần phục vụ thực là vị tha
Cố Tây không chút kiêu xa
Dĩ hoà vi quý bao là mến thương
Tin Mừng hạt giống gieo tuôn
Chứng nhân truyền giáo nêu gương sáng ngời
* * *
Ba là cứu đói cứu người
Thêm phần cứu bệnh trao lời ủi an
Kẻ nghèo túng bấn cơ hàn
Chia cơm sẻ áo của ăn mỗi ngày
Yêu thương khánh kiệt trắng tay
Trí luôn tìm cách hầu xoay kiếm tiền
Giúp người cứu bệnh, cứu chiên
Nhiệt tâm chẳng quản ngại phiền đến thân
Cảnh nào cũng giúp ân cần
Dù cho liệm xác nhiều lần ra tay
* * *
Việc thầm đức ái ai hay
Con tim khối óc bàn tay nụ cười
Hiến dâng phục vụ Nước Trời
Xứ nghèo Nước Mặn xuân thời an vui
Đang tươi bỗng rũ ngậm ngùi
Khi nghe Cố Thuận sụt sùi báo tin
Trở về chủng viện An Ninh
Bao người lương giáo ngẫm tình lệ tuôn
Chia ly nào chẳng sầu muôn
Quý danh là Thuận Cha luôn vâng lời
* * *
1.Phương pháp thứ hai: cha giáo Thuận quen làm để giảng đạo là năng đi thăm viếng các sở. Trong thư ngài kể lại cho cha mẹ: Không khi nào con mắc việc bằng kỳ này, con phải đi thăm các họ, hôm nay ở Lập Yên, tối mai con sẽ ngủ ở Phú Gia (x. Sđd chương VI, trang 55).
2.Họ con nay phải dịch thiên thời thổ tả, chết mất mười người… Người ta thất kinh đến nỗi không ai dám liệm xác kẻ chết, chính tay con phải ôm xác bỏ vào quan tài, đậy nắp đóng đinh rồi bỏ tiền thuê người đem đi chôn (x. Sđd chương VI, trang 56).
3.Cha bổn sở Nước Mặn đang tiến hành công việc cách tốt đẹp, thì Đức cha cho biết ngài sẽ tái cử cha về chủng viện An Ninh. Trong thư, cố Thuận viết : con sắp đổi nơi, vì Đức cha cho biết ngài sẽ sai con về tiểu chủng viện lại. cố Thuận cho mời chức việc đến và thông báo…Trong một ngày lễ Chúa nhật giáo đân tham dự rất đông. Quá cảm động cha nói không ra lời… (x. Sđd tr 73)
* * *
TRỞ VỀ CHỦNG VIỆN AN NINH
NƠI CỐ THUẬN CƯU MANG Ý TƯỞNG LẬP DÒNG
Ý Trời sâu nhiệm cao vời
Tình quan phòng mãi theo người Chúa thương
Nẻo đường kỳ diệu ngát hương
Đưa vào tận hưởng miên trường phúc vinh
Ai hay chính tại An Ninh
Đan tu hoài bão lửa tình nấu nung
Ý riêng đoạn tuyệt chiều cưng
Bản thân khắc kỷ uốn từng tính hư
Tu tâm dưỡng tính hiền từ
“Luật Dòng Biển Đức” gẫm suy từng lời
* * *
Lập Dòng ý tưởng tuyệt vời
Trải bao giai đoạn ơn Trời hướng đưa
Kể ra biết mấy cho vừa
Bao là chứng cớ chứng thơ hùng hồn1
Khơi nguồn chính Đấng Cao Tôn
Đà thương phù trợ đổ muôn ơn lành
Giúp Người giữ trọn lòng thành
Vượt qua mọi nẻo chông chênh cuộc đời 2
Lập Dòng ý tưởng tuyệt vời
Thánh Thần Thiên Chúa chọn Người khai sinh
* * *
1.Nhật nguyệt thoi đưa, nay đã bước sang năm 1918 các cha minh chứng: từ đây đến tháng bảy là lúc khởi sự lập Dòng, cha giáo Thuận càng ăn ở sốt sắng nhiệm nhặt, khiêm nhường. Ngài tập dậy sớm, xem sách luật dòng thánh Benedicto luôn… (x. Sđd chương X, trang 96). Lại nữa, trong việc xác định ý tưởng lập dòng của cố Thuận, thì ở phần II, chương I, trang 103 đã có lời : “Dám quyết: hẳn không. Vì ý tưởng lập dòng đã hiện tượng trong trí não ngài, ít là từ khi được bài sai sang Việt Nam, rồi từ đó ngài hằng nuôi ý tưởng ấy trong tâm khảm đợi thời giờ Chúa cho xuất hiện ra”.
2.Từ khi cha giáo Thuận mở lời xin phép lập Dòng đến khi Đức cha chuẩn y, phải trải qua một quãng thời gian dài chín năm (x. Sđd phần II, chương I, trang 105).
* * *
LÊN NÚI PHƯỚC LẬP DÒNG
Khởi đầu thư viết đệ trình
Đức Cha Allys thuận tình mừng vui 1
Đồng hành ba Vị thuyền xuôi 2
Cùng lên Núi Phước tìm nơi lập Dòng
Trải bao cơ khổ long đong
Phá rừng đào gộc trọng công nhọc lòng3
Cơ chừng mái ấm tạm xong
Đường lên Núi Phước ngưỡng trông tuyệt vời 4
Vào ngày lễ Mẹ Lên Trời
Cha dâng Thánh lễ khai…đời đan tu
* * *
Phước Sơn giữa chốn hoang vu
Núi rừng lồng lộng vi vu gió ngàn
Dân làng một cõi xa xăm
Mấy ai tri mộ lên đàng tu thân
Thời gian lẳng lặng xoay vần
Cha con khắc kỷ tu thân một niềm
Lòng tin cậy mến trung kiên
Cao Xanh thấu tỏ ơn thiêng đổ tràn
Mệ thuyền 5 con cháu vua quan
Và bao Linh mục hân hoan nhập dòng
* * *
1.Đức cha già Lý (Allys), một vị giám mục nhân đức có tiếng vốn từ lâu những ước ao cho địa phận Huế có một Dòng nam khổ tu chuyên việc nguyện gẫm hãm mình, thấy cha giáo Thuận xin điều ấy , thì ngài rất vui mừng (x. Sđd phần II, chương II, trang 107).
2.Con thuyền bì bõm, nước sông xao. Đò cập bến họ Phước Sơn. Đức cha, cha giáo Thuận và cố Chính đổ bộ ngược lên thăm đất……Thế là Phước Sơn thành hình trong lòng cha giáo Thuận 01 giờ chiều ngày 05-07-1918 (x. Sđd phần II, chương II, trang 111).
3.Tiên vàn là phải khai phá rừng, xẻ rú, đào gộc, đổ nền… Cha con phá rú năm bảy ngày, ngọn đồi xem đã quang quẻ đẹp mắt, bớt sợ hùm cọp, thì mới làm cái rạp để nhân công tạm trú… Ngày 12 tháng 08, một căn nhà hai gian, hai chái, mái tranh, vách đất đã xuất hiện: đó là ngôi nhà tiên khởi của dòng Đức Bà Việt Nam trên núi Phước, như nôi tre tróng sậy mẹ sắm để đặt con (x. Sđd phần II, chương III, trang 115).
4.Xong nhà, thì ngày 14 tháng 08, cha giáo Thuận với người môn đệ đầu tiên, thu xếp đồ đạc lên Phước Sơn khai mạc cuộc đời mới (x. Sđd tr 115).
5.“Mệ Thuyền” là cháu vua Minh Mệnh, chính danh là Hường Thuyền song gọi là mệ Thuyền bởi lẽ: nguyên vì đời Hiếu Vũ hiếm con trai, hễ sinh hoàng nam thì kiêng cữ không được gọi là “ông” mà phải gọi như là con gái. Vậy, con các Ông Hoàng Bà Chúa thì kêu là “mệ”(x. Sđd tr 119).
* * *
THOẠT ĐẦU CỦA CỘNG ĐOÀN TIÊN KHỞI
Bình minh Núi Phước rực hồng
Càng ngày ơn gọi càng đông bội phần
Có người tu tác tự tâm
Có người thiếu nhẫn dấn thân nửa vời
Ai tìm được Chúa thì vui
Đầy tràn nhiệt huyết lên ngôi cuộc đời
Còn ai gặp khó buông xuôi
Bể đời trôi dạt nhắt nhơi phận người
Đường lên Núi Phước xa xôi
Ai thời bền đỗ cuộc đời vinh thăng
* * *
Thời gian thấm thoát trôi nhanh
Nương vườn Núi Phước xanh xanh đẹp mầu
Phân lô ruộng lúa vườn dâu
Vườn cây ăn trái…hoa mầu tốt tươi [1]
Trào dâng sức sống tuyệt vời
Cộng đoàn sớm tối vang lời tụng ca
Xuân-thu nối tiếp hạ qua
Niềm vui Núi Phước như là thêm duyên
Khi Cha Tổ Phụ được tin
Đón mừng Cha Giáo Nhơn lên nhập dòng
* * *
Đời tu Cha hiểu cảm thông
Giúp anh em sống theo dòng thời gian
Chuyển từ nếp sống nuông thân [2]
Đi vào Tu Luật canh tân cuộc đời
Bấy lâu chuyện vãn nói cười
Vô tư hút thuốc nằm ngồi tự do
Bây chừ Tu Luật quy vô
Từng điều sinh hoạt phải lo chu toàn
Thầy dòng phong cách nghiêm trang
Bao lời giáo huấn Cha hằng thương trao
* * *
Đời tu thánh hiến thanh cao
Ao dòng y phục đi vào đời chung
Ao dòng tu phục đặc trưng
Biểu dương dấu chứng nội dung tu hành
Vì nghèo vui sống thanh bần
Cha chưa may đặng áo dòng như mong
Ngờ đâu Thiên Chúa quan phòng…
Quý nhân gửi tặng thoả lòng ước ao [3]
Cố Hoà chủ sự lễ trao [4]
Niềm vui thánh hiến dạt dào nghĩa ân
* * *
[1] Khi ấy vườn đã làm nhiều, trồng đủ thứ : khoai, đậu, bắp mít, cà phê, đậu phụng.v.v…(x. Sđd phần II, chương IV, trang 124).
[2] Cha đã khởi sự giữ luật từ ngày 01 tháng 11 năm 1918. Song sự giữ miệng làm thinh còn hơi rộng: Nghĩa là hằng ngày còn được nói chuyện nửa giờ, Chúa nhật hai lần, lễ trọng ba lần đó là một phép rộng cha Benoit chế giảm vào luật Xitô cho hợp với tính tình non yếu của đệ tử lúc dòng mới sơ khai (x. Sđd phần II, chương VIII, trang 191).
[3] Ngay từ đầu năm 1920, cha giáo Thuận chuẩn bị cách riêng để lĩnh áo thánh. Ngài viết thơ xin Nhà Kín (Huế) giúp lời cầu nguyện, không những họ vui lòng, còn xin kiểu áo để may cho đủ bộ dâng cho ngài (x. Sđd phần II, chương V, trang 144).
[4] Ngày vui mừng đã đến, song chữ vui mừng không được tròn, vì Đức cha lâm bệnh phải cử cố Bề trên Hòa làm đại diện. Ngài chính thức chủ sự lễ mặc áo cho “thầy dòng tiên khởi”của Tu Viện Thánh Mẫu Việt Nam trên núi Phước (x. Sđd phần II, chương V, trang 145).
* * *
NHỮNG THAO THỨC,
TRĂN TRỞ CỦA ĐẤNG SÁNG LẬP
Và đường hướng dẫn tu thân
Cha như khởi sự từ tần số không
Vì thư ngỏ, đợi, mong trông
Khước từ không thể… héo hon tấc lòng
Cha đành nhập cuộc khởi công
Lòng thành ngưỡng vọng ngửa trông Thánh Thần
Dủ tình dìu dắt khai ân
Khơi nguồn sáng láng cho dân con Ngài
Đường đời thánh hiến chông gai
Chông chênh trăm ải mấy ai am tường
* * *
Trời thương ý hướng trào tuôn
Tâm hồn Tổ Phụ sáng nguồn đan tu
Tiên vàn nhìn ngắm Giêsu
Tinh thần chiêm niệm học từ Thánh Gia
Môi trường thanh vắng quả là
Cái nôi gặp gỡ giữa ta với Ngài
Như xưa thoát khỏi Dân Ai
Đi vào sa mạc It-riên gặp Ngài
Môi trường thinh lặng quý thay
Giúp hồn chiêm niệm thấm say tình Ngài
* * *
SỐNG CHIÊM NIỆM, LAO ĐỘNG VÀ CẦU NGUYỆN
Đời chiêm niệm sống từng giây
Lời Thiêng lắng đọng gương bày trong tim
Chính Cha đà sống anh minh
Niệm suy Lời Chúa tận tình thực thi
Bề Trên không cứ việc gì
Dọn nhà…chặt củi việc chi cũng mần [1]
Hài hoà tương trợ tương thân
Vui trong lao động tinh thần hiệp thông
Bình minh Thánh lễ cao dâng
Sớm chiều Thần vụ cử hành nghiêm trang
*****
[1] Việc thường nhật quanh năm, bất luận việc chi hễ anh em làm là cha không bao giờ bỏ như xay lúa, giã gạo, cuốc đất, gánh phân, đi rú.v.v… (x.Sđd trang 201). Nhất là việc vô cùng cực khổ hèn hạ, mà cha đã giữ cho mình lâu năm, đó là việc quét dọn vệ sinh (x. Sđd trang 203).
*****
LỜI GIÁO HUẤN CHA THƯƠNG TRAO
Đông tàn én báo xuân sang
Phước Sơn nắng ấm mai vàng bên song
Lời Cha thanh thót rót lòng
Dạy đàng đức hạnh luật dòng đan tu
Ngọt ngào như tiếng mẹ ru
Nhủ rằng tiết chế khổ tu không là
Kiêng khem thịt rượu tránh xa
Đêm đêm canh thức đủ ba canh tròn
Song là sống trọn tình con
Ngôn hành đoan chính tác phong thầy dòng
* * *
Chiều chiều Núi Phước bên sông
Lặng lờ con nước xuôi dòng êm trôi
Bên đồi chim chóc im hơi
Cộng đoàn tụ hội nghe lời Cha trao…
Cận thân cần tránh ồn ào
Giữ lòng thanh tịnh đi vào nội tâm…
Dầu Cha trầm mặc bản thân
Song Cha thương hiểu cảm thông cộng đoàn
Đưa vào hiến pháp Hội Dòng
Nửa giờ giải trí hằng tuần được vui [1]
* * *
[1] Cha Tổ Phụ đã thăm dò ý kiến cộng đoàn: khi khấn rồi có muốn nói chuyện mỗi tuần nửa giờ hoặc giữ miệng làm thinh nhặt, dầu lễ Phục sinh cũng không được nói. Kết quả là 14 phiếu xin giữ nhặt, còn 7 phiếu xin nói chuyện mỗi tuần nửa giờ… (x. Sđd trang 192).
* * *
CHỌN QUAN THẦY: “THÁNH GIA”
Bình minh chim hót không ngơi
Rạng đông Núi Phước hoa cười bên nương
Gia đình hai tiếng thân thương
Cộng đoàn huynh đệ tứ phương tụ về
Mỗi người mỗi cảnh xa quê
Cùng chung mái ấm tràn trề phúc ân
Gia đình nghĩa thiết tình thân
Lời Cha Tổ Phụ thương phân giãi bày
Noi gương ba Đấng tuyệt thay
Hội Dòng Cha chọn quan thầy Thánh Gia
* * *
NIỀM VUI NGÀY CHA TỔ PHỤ TUYÊN KHẤN TRỌN ĐỜI
Thời gian thấm thoát trôi qua
Hồng ân thánh hiến đợi đà ba năm [1]
Thân Cha rộn rã tâm can
Tiếng chuông Tu Viện ngân vang núi rừng
Nguyện đường náo nức tưng bừng
Tim Cha hồ hởi vui mừng xiết bao
Từ nay hồn xác dâng trao
Thuộc về Thiên Chúa xuân nào vui hơn
Rừng thiêng núi biếc Phước Sơn
Chứng đời thánh hiến sắt son một niềm
* * *
[1] Qua ba năm khấn tạm, nay ngày tận hiến trọn đời đã đến. Hôm ấy, ngày lễ thánh Benedicto (21-03-1926). Đúng tám giờ sáng, một hồi chuông ngân vang báo hiệu giờ lễ, mọi người tề tựu tại Nguyện đường Tu viện. Cố chính Giáo, đại diện Đức cha làm chủ tế nhận lời khấn. Sau bài Phúc Âm, Cha Tổ Phụ Dòng Xitô Việt Nam tiến lên trước vị đại diện Chúa, lớn tiếng tuyên thệ lời tận hiến toàn thiêu, trong bầu khí trang nghiêm và thánh thiện (x. Sđd phần II, chương X, trang 209).
* * *
XUỐNG NÚI CHỨNG ĐỜI ĐAN TU
Hừng đông vầng thái dương lên
Xua tan bóng tối sáng trên nương đồi
Tâm Cha thao thức khôn nguôi
Dấn thân truyền bá phúc đời đan tu
Bộ hành muôn dặm âm u
Đường ra Bắc Việt sương mù giăng giăng [1]
Trình làng quảng diễn uyên thâm
Bao người ngưỡng mộ theo chân Cha về…
Đan tu ai biết si mê
Trèo lên Núi Phước thoả thuê tấc lòng
* * *
[1] Cuối năm 1927 sang năm 1928, cha ra Bắc để giới thiệu bản Dòng. Tới Hà Nội cha vào nhà thờ chánh tòa, mấy bà đầm rất đỗi ngạc nhiên trước dung mạo một cố Tây thân hình gầy guộc, ăn mặc vải thô nghèo khó đi chân không… Cuộc giới thiệu đã mang lại kết quả đẹp, nhiều người đã xin gia nhập bản dòng (x. Sđd phần II, chương X, trang 211).
* * *
QUYẾT THEO “TIÊU-CHÍ” XITÔ
Tâm Cha mở rộng mênh mông
Khơi mào hiệp nhất ước mong ngập lòng
Luật dòng soạn thảo dầy công
Đặt nền hiến pháp theo Dòng Xitô
Con đường gia nhập nhiêu khê
Xitô nhặt phép ngắt nghê thỉnh cầu [1]
Hướng về chung phép Xitô
Đệ đơn gia nhập ước mơ đã thành
Thời Bề Trên cả Janssens
Tin vui Cha nhận anh em reo mừng
* * *
[1] Khi được thơ dòng Trappe trả lời không nhận, thì ngày 04-03-1930, ngài hội anh em làm đơn xin nhập Xitô Chung Phép, nhận được đơn cha Bề trên cả Janssens vui lòng chấp thuận và bảo gửi cho ngài bản Hiến Pháp, ngài sẽ cử một Viện phụ sang tuần viếng khám xét công việc, rồi chờ Đại Hội quyết định (x. Sđd trang 216).
* * *
NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI
CỦA CHA TỔ PHỤ
Xa xa vọng tiếng nhạc rừng
Vầng ô khuất bóng sau lưng rặng đồi
Mai-Sen xưa dẫn Dân Người
Đến kề đất hứa… theo lời quy tiên
Nay Cha Tổ Phụ sốt liên
Bệnh tình biến chứng nơi miền đất xa
Trải qua bao nỗi xót xa
Những ngày nhập viện thực là bi thương
Dù đời nghiệt ngã trăm đường
Nhưng Cha vẫn chịu can trường tin yêu
* * *
Hoàng hôn Núi Phước tịch liêu
Muông tru, vượn hú, quốc kêu thêm sầu
Thân Cha đôi mắt lõm sâu
Bên trong phủ tạng quặn đau từng phần
Không hề trách phận than thân
Một bề vui chịu hiến dâng trọn tình
Bệnh nhay nhéo nhắt coi khinh
Vui trong đau khổ quên mình lo toan
Tương lai phần phúc cộng đoàn
Tình Cha vun vén vẹn tròn yêu thương
* * *
Hoa hồng quyện gió đưa hương
Vườn nương Núi Phước đọng sương lá ngàn
Thân Cha còn chút hơi tàn
Không quên trối lại lời vàng nhủ khuyên (Di Ngôn)[1]
Đường nhân đức theo ý Trên
Mà theo ý Chúa phải tuân Luật Dòng
Nhủ rằng tình Chúa bao dong
Thương Cha thương cả các con vô vàn
Tâm Cha thư thái bình an
Chờ ngày diện kiến Thánh Nhan Chúa Trời
* * *
Vầng dương vừa nhú bên đồi
Phước Sơn cảnh vật bồi hồi héo hon
Cha đau hấp hối từng cơn
Trải qua ải chết dập dồn tâm can
Hướng về con cái cộng đoàn [2]
Kêu xin cầu giúp…vững vàng ra đi
Ngước trông Mẹ lúc sinh thì
Xuôi tay mạch đứng biệt ly cộng đoàn
Đi trong hương thánh dâng tràn
Một đời trung hiến vẹn tròn nghĩa ân
* * *
[1] Trước khi từ giã cõi trần, cha Tổ Phụ đã gọi thầy y tá kêu cha Anselmo đến lấy giấy bút ghi lại những lời mà cha đọc cho viết để tối đọc cho anh em cả nhà nghe kẻo cha không gặp chung cả nhà được nữa…(x. trang 230).
[2] Thấy các con tới, Ngài kêu: “Cha đau đớn lắm chúng con ôi! Hãy cầu nguyện cho người hấp hối, vì kẻ đã bị rồi thì không trở về được mà nói lại, đau đớn lắm các con ơi”Tay cha cứ với ảnh Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng lành… (x. Sđd phần II, chương X, trang 234).
* * *
NÚI PHƯỚC LẶNG SẦU THƯƠNG
Nắng chiều vàng vọt trước sân
Én bay thơ thẩn tủi thân lặng sầu
Mất Cha Núi Phước chùng sâu
Cộng đoàn tâm trạng niềm đau nghẹn lời [1]
Nhưng rồi chân lý bừng khơi
Có gieo hạt giống chôn vùi… đơm hoa
Nhớ thương hình ảnh người Cha
Một Nhà sáng lập vị tha quên mìmh
Đan tu bám rễ thành hình
Trong lòng Dân Việt phúc vinh trọn niềm
* * *
[1] Một bầu khí u uất bao trùm cảnh vật. Các cha, các thầy nhìn nhau ứa lệ… (x. Sđd trang 235).
* * *
CỘNG ĐOÀN TIÊN KHỞI
TRONG NIỀM THƯƠNG TIẾC CHA TỔ PHỤ
Nhớ thương hình ảnh Cha hiền
Một Nhà truyền giáo trung kiên nhiệt tình
Vì chiên vì Chúa quên mình
Xả thân nhóm ngọn lửa tình mến yêu…
Nhớ khi nhà bị hoả thiêu
Cha quỳ như Job không kêu nửa lời
Một lòng tín thác Chúa Trời
Qua cơn bĩ cực tới hồi thới lai
Hình Cha mãi mãi không phai
Cộng đoàn Núi Phước nhớ hoài trong tim
* * *
NÚI PHƯỚC NHỚ CHA HIỀN
Vầng trăng toả ánh lung linh
Trên dòng sông vắng sáng tình quê hương
Phước Sơn còn mãi vấn vương
Khắc sâu dấu ấn tình thương Cha hiền
Bậc Thầy chỉ giáo thiêng liêng
Tận tình hướng dẫn nhủ khuyên bao người
Hướng về phần rỗi đời đời
Nhiệt tâm vui sống từng lời chứng nhân
Tình Cha trong sáng vô ngần
Cộng doàn Núi Phước tri ân ngàn đời
* * *
KẾT DÂNG
Mải mê suy ngắm tình Người
Hồn con lắng đọng bao lời ngọt sa
Tâm con ngời sáng gương Cha
Vui đời thánh hiến, lánh xa hồng trần
Đường thiêng vững chí tiến lên
Một niềm tin tưởng ơn trên Cha cầu
Lòng con hoài tưởng ân sâu
Tình Cha sáng mãi đẹp mầu trong con
Tài hèn sức mọn trí non
Tình thơ vụng kết kính dâng Cha hiền ./.
—–* *** *—–
Lưu bút hồng ân 02. 07. 2015
Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Thuỷ
Đan sĩ: Maria Luca NGUYỄN VĂN BÌNH