Thứ Hai, 12 Tháng 5, 2025

Suy niệm Tin Mừng tuần XIII Thường Niên (Hiền Lâm)

 
THỨ HAI TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN
 
I. ĐỌC TIN MỪNG: Mt 8,18-22
Thấy xung quanh có đám đông, Đức Giê-su ra lệnh sang bờ bên kia. Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Đức Giê-su trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”
Một môn đệ khác thưa với Người: “Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã.” Đức Giê-su bảo: “Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.”
 
II. SUY NIỆM
Khác với những chưởng môn hay đạo trưởng khi chiêu tập môn sinh thường đưa ra những hứa hẹn cho tương lai xán lạn, Chúa Giê-su trong Tin Mừng hôm nay lại đưa ra những đòi hỏi quyết liệt và dứt khoát cho những ai muốn bước theo Người.
Chúa Giê-su đã trả lời cho hai trường hợp đến xin theo Người cùng chung một điều kiện là “từ bỏ”, từ bỏ những tìm kiếm mang tính trần thế và từ bỏ cả những vương vấn tình cảm, thậm chí là liên hệ ruột thịt.
Thánh Mát-thêu kể ra hai trường hợp: một kẻ “xin nhập tu” và một “người đang tu thì xin về phép thăm gia đình” (khác với thánh Lu-ca kể thêm trường hợp thứ ba là “cầm cày còn ngoảy lại sau” – nghĩa là kẻ tu mà đứng núi này trông núi nọ, bắt cá hai tay và vẫn tơ tưởng hoa thơm cỏ lạ bên đường – x. Lc 9,57-62).
Với trường hợp “tìm hiểu” thì Chúa Giê-su xác định điều kiện theo Người là lo tìm Chúa chứ không tìm được tiện nghi và quyền lực; còn trường hợp “xin về phép” thì Chúa Giê-su dạy tu thì lo tu chứ đừng vương vấn lo lắng chuyện gia đình nữa.
 
1. Từ bỏ quyền lực.
Một kinh sư tiến đến thưa Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Đức Giê-su trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8,19-20).
Nhiều người khi nghe câu Tin Mừng này, thường giải thích theo nghĩa “khó nghèo” và cho rằng Chúa Giê-su nghèo đến mức thua cả con chồn con cáo, vô gia cư và ăn bờ ngủ bụi. Nhưng thực ra, Chúa tuy nghèo đấy nhưng Chúa có nhà cửa và khi Chúa chịu chết và Phục Sinh thì Mẹ Maria vẫn còn sống, vả lại các Tin Mừng vẫn kể chuyện Chúa đưa các môn đệ về ở nhà với Người (x. Ga 1,39).
Đúng hơn, Chúa Giê-su xác định cho ai muốn bước theo Người phải từ bỏ việc tìm kiếm quyền lực trần thế. Điều này được kể là tìm kiếm đầu tiên của các môn đệ và Chúa đã phải rất nhiều lần cảnh báo các ông hiểu lầm về sứ mạng của Người (các ông mong khi Chúa làm lớn thì các ông cũng được chức này quyền nọ, vinh thân phì gia), Gioan và Giacôbê thì đòi ngồi bên hữu bên tả, thậm chí đến khi Chúa sắp chịu Tử Nạn mà các ông vẫn còn lo cãi nhau ai sẽ làm làm lớn làm nhỏ; khi Chúa sống lại các ông còn hỏi là Thầy sắp lập vương quốc chưa?
Thật ra, đây là kiểu nói ẩn dụ mà Thánh Kinh thường sử dụng. Chồn cáo là loài rình rập trong bóng tối, ám chỉ Hê-rô-đê (x. Lc 13,32); trên cờ hiệu của lính Rô-ma (Phi-la-tô) có hình mỏ chim đại bàng. Hê-rô-đê và Phi-la-tô là đại diện cho hai thứ quyền lực bản địa và thực dân thời bấy giờ. Khi nói “chồn có hang, chim có tổ”, Chúa Giê-su muốn nói trước với kẻ xin theo Người rằng: Theo Hê-rô-đê tuy bù nhìn nhưng còn có quyền lực và danh vọng, theo Phi-la-tô còn có quyền công dân Rô-ma và thế giá mẫu quốc; còn theo Chúa Giê-su thì đừng mong gì quyền lợi thế trần, nhưng là hạ mình xuống phục vụ anh chị em mình.
Tin mừng kể rõ người đến xin theo Chúa ở đây là một kinh sư, chúng ta không biết là sau khi Chúa ra điều kiện từ bỏ, ông này có còn dám theo hay không, chỉ biết rằng trong Nhóm Mười Hai cũng có Bartolomeo là kinh sư.
Xét về giai cấp xã hội và tôn giáo Do-thái, tuy giới kinh sư không có thực quyền, nhưng họ có một chỗ đứng rất lớn về mặt tôn giáo trong việc giải thích Thánh Kinh và được mọi người kính trọng, một số thỏa hiệp với Rô-ma để có được những quyền lợi nhất định. Giới kinh sư không thiếu những người thích ăn mặc trịnh trọng, muốn được ăn trên ngồi trốc và muốn được mọi người chào hỏi… Và có lẽ chính vì vậy mà khi “vị kinh sư” này đến xin “đi tu” thì Chúa Giê-su xác định ngay từ đầu điều kiện “từ bỏ tư tưởng tìm kiếm quyền lực trần gian”.
Không riêng gì những người xin theo Chúa ngày xưa, ngày nay cũng không thiếu những người tìm theo Chúa, cách riêng trong ơn gọi tu trì, họ tìm gia nhập các dòng tu hay tu hội với mong muốn được đổi đời, được làm làm ông này bà nọ, để được kính trọng gọi là cha là soeur… phần vì ưa danh vọng phần vì áp lực gia đình dòng họ muốn đã đi tu thì phải làm cha hay làm chức gì đó có tiếng tăm, để rồi không thiếu những người đã tìm mọi cách, thậm chí dùng cả những thủ đọn thấp hèn để đạt mục đích.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức hơn chức vụ trong Hội Thánh là để phục vụ và hi sinh truyền giáo, chứ không phải để được kính nể trọng vọng. Nếu không, chúng ta cũng chẳng hơn gì những kinh sư giả hình xưa kia mà Chúa Giê-su từng lên án.
 
2. Từ bỏ những liên hệ tình cảm.
Một môn đệ khác thưa với Người: “Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã.” Đức Giê-su bảo: “Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.” (Mt 8, 21-22).
Trường hợp thứ hai này là một môn đệ, nghĩa là người đã đi theo Chúa rồi, chứ không phải mới đến xin “nhập tu” nữa.
Hôm nay môn đệ này đến xin Chúa Giê-su để “về phép”, có thể là muốn phụng dưỡng cha già mẹ yếu của mình cho đến khi cha mẹ chết rồi mới “vào tu tiếp”, mà không nhận ra được tính khẩn thiết của việc loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa, đi tu nhưng vẫn coi công việc gia đình cao hơn sứ vụ Chúa giao phó. Cũng có thể đó là một cái cớ người môn đệ này vịn để thoái thác; những bổn phận ấy của anh có lẽ chẳng qua là bổn phận thuộc về thế giới của “kẻ chết”.
Khi nghe lời quả quyết cách dứt khoát của Chúa Giê-su theo kiểu Người không thể mất thời giờ với những môn đệ không biết sẵn sàng hi sinh tất cả vì Tin Mừng, có lẽ không ít chúng ta cho rằng Chúa Giê-su đòi hỏi quá khắt khe chăng?
Thật ra, không phải Chúa Giê-su xem nhẹ đạo hiếu, nhưng Người muốn cho những ai đã chọn bước theo Chúa cần có sự siêu thoát, tự do lựa chọn chứ không ai ép buộc. Người muốn môn sinh phải ưu tiên cho việc Chúa hơn những tương quan khác. Đã chọn sứ vụ rao giảng Tin Mừng thì phải giảm thiểu tối đa những vương vấn gia đình.
“Kẻ chết chôn kẻ chết”. Với cách diễn đạt của Tin Mừng, khi chọn theo Chúa là đang bước vào cõi sống, được Chúa làm gia nghiệp là đạt đến sự sống đời đời; còn không theo Chúa là vẫn đang bị giam giữ dưới quyền lực sự chết phần linh hồn. Vì thế, cứ để thể gian lo chuyện sống chết thể lý, còn người theo Chúa lo rao giảng Tin Mừng về sự sống đời đời cho những ai còn đang ở trong bóng tối sự chết ấy.
 
Tóm lại, không ai làm tôi hai chủ được, nghĩa là đã chọn theo Chúa Giê-su cùng với sứ vụ rao giảng Tin Mừng đòi hỏi phải từ bỏ một cách dứt khoát những đam mê danh vọng quyền lực và những liên hệ vương vấn tình cảm – kể cả tình cảm gia đình ruột thịt, để toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp Nước Chúa.
 
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con là những người đã chọn theo Chúa trong ơn gọi làm Ki-tô hữu, cách riêng những ai sống đời thánh hiến, luôn ý thức về quyền bính là để phục vụ; đồng thời luôn biết ưu tiên việc Chúa là trên hết mọi thứ liên hệ thế gian. Amen.
 
 
THỨ BA TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN
 
I. ĐỌC TIN MỪNG: Mt 8,23-27
Đức Giê-su xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người. Bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ. Các ông lại gần đánh thức Người và nói: “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất! ” Đức Giê-su nói: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin! ” Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ.
Người ta ngạc nhiên và nói: “Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? “
 
II. SUY NIỆM
Câu chuyện thầy trò Chúa Giê-su và các môn đệ vượt biển từ bên miền đất Do-thái sang lãnh địa dân ngoại đã gặp phải cuồng phong đe dọa, cho chúng ta hình ảnh một Đức Giêsu Con Thiên Chúa đầy quyền năng trừ phong dẹp vũ, trong một con người Giêsu mệt mỏi nằm ngủ trên thuyền sau một ngày làm việc vất vả.
Câu chuyện này gợi lại hình ảnh được nói tới trong Thánh Vịnh 78:
“Bấy giờ Chúa như người đang ngủ,
như tướng hùng đã thấm men say,
bỗng tỉnh giấc, đánh cho quân thù quay lưng chạy,
phải thảm thê nhục nhã muôn đời”.
(Tv 78,65-66).
 
Kẻ thù ở đây là biển cả cuồng phong. Theo não trạng người Do-thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Mỗi ngày, biển cũng nhắc mọi người nhớ lại thời hỗn mang nguyên thủy: tại đây hải thần thủy quái vẫy vùng và chỉ có một mình Thiên Chúa Toàn Năng mới thách thức và chế ngự được chúng. Khi Chúa Giêsu thức dậy “ngăm đe gió và biển” như khi Người truyền cho ma quỷ ( x. Mc 1,25), cho thấy Chúa Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.
Chúa Giêsu chứng minh sức mạnh và sự phát triển không có gì chống lại được của Nước Thiên Chúa. Người chứng tỏ điều này bằng một dấu chỉ quyền năng là phép lạ dẹp tan sóng gió trước khi đi vào miền đất dân ngoại, nghĩa là chiến thắng của Tin Mừng trên ma quỷ vượt ra ngoài biên giới Israel.
 
Khi đối mặt với mọi hình thức sự dữ đang tấn công con người trong các trận cuồng phong nó gây nên, đôi khi chúng ta tự hỏi: Phải chăng Thiên Chúa đang ngủ?
Thật vậy, cảm nhận của con người giữa biển đời lắm khi như Thiên Chúa ẩn mình hay vắng bóng. Và rồi giữa phong ba bão tố cuộc đời, con người lựa chọn đương đầu ít nhất với 3 cách:
– Dùng sức mình để vật lộn với sóng gió để rồi thất bại tuyệt vọng,
– Chạy đến với Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc nên không bao giờ sợ hãi,
– Gặp khi khó khăn mới chạy đến kêu cứu Chúa, nghĩa là coi Chúa chỉ như một phương thế giải quyết tức thời, mà thiếu đi đức tin thật sự và lòng yêu mến nồng nàn.
Trường hợp thứ ba này là trường hợp của dân Do-thái xưa, sách Xuất Hành và đặc biệt là sách Thủ Lãnh là một câu chuyện lặp đi lặp lại khi dân bị quân thù ức hiếp thì kêu cứu Chúa, Chúa giải cứu rồi lại tiếp tục phản nghịch Ngài…
Và có thể nói, đây cũng là thái độ của các môn đệ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, khi họ chưa có niềm tin và lòng yêu mến Thầy cho đủ, đến nỗi ngay khi chứng kiến phép lạ rồi vẫn ngỡ ngàng không hiểu Thầy là ai. Thầy Giêsu đang ở trên thuyền nhưng có vẻ như không có Người hiện diện, cho đến khi sóng gió bủa vây mà kinh nghiệm chống đỡ của dân làng chài như mấy ông đã bất lực mới chạy đến cầu cứu Thầy.
 
Đó cũng là cách sống và giữ đạo của không ít người trong chúng ta ngày nay. Khi an vui hạnh phúc chúng ta quên mất sự hiện diện của Thiên Chúa, đến khi gặp khó khăn thất bại mới tìm về cầu cứu Chúa. Sống đạo như thế là hời hợt, thiếu niềm tin đích thật và thiếu lòng lòng mến Chúa Giêsu. Cũng không thiếu những người ỷ lại vào khả năng mình mà thiếu đi lòng tín thác vào Chúa nên khi gặp sóng gió đã dễ ngã lòng kêu trách Người.
 
Xin Chúa cho mọi người chúng con luôn tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa trên con thuyền cuộc đời chúng con giữa biển đời sóng gió. Để chúng con không bao giờ nao núng vì Chúa đã chiến thắng nên chúng con cũng sẽ chung phần chiến thắng và cập bến Nước Trời. Amen.
 
 
THỨ TƯ TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN
Ngày 29/06: THÁNH PHÊ-RÔ và PHAO-LÔ TÔNG ĐỒ
Lễ trọng
 
A. LỄ VỌNG
1. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 21,15-19
Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không? ” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” Người lại hỏi: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không? ” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không? ” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không? ” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy.”
 
2. SUY NIỆM
Chúng ta vẫn thường nói với nhau rằng, sở dĩ Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô “con có yêu mến Thầy không?” tới 3 lần là vì trước đó thánh nhân đã chối Chúa tới 3 lần. Điều này không sai, nhưng có lẽ không chỉnh lắm, vì việc chối Chúa là điều nghịch với đức tin, trong khi ở đây Chúa Giêsu đang hỏi thánh Phêrô về đức mến.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta không nhằm bàn chuyện 3 lần chối tương đương 3 lần yêu, mà điều quan trọng là Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta: điều kiện đứng đầu trong các điều kiện của vai trò mục tử là lòng yêu mến Chúa.
 
Khi thiết lập người đứng đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu lại đặt một vị đã từng 3 lần chối Chúa. Nếu xét theo cách nhìn của chúng ta thì có lẽ Phêrô không xứng đáng và không đủ tiêu chuẩn làm mục tử. Nhưng dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, Người không nhìn Phêrô của ngày hôm qua mà là bắt đầu từ lúc này và hướng về tương lai. Phêrô từng lầm lỡ và khiêm tốn ăn năn để đứng lên, nên cũng chính Phêrô cảm thông được với những con chiên mà Chúa Giêsu trao phó cho ngài. Thiên Chúa đi tìm con chiên lạc thay vì ở nhà với 99 con chiên không lạc. Thiên Chúa cũng chọn một vị mục tử đã từng lạc lối, nhưng điều quan trọng là: “này Phêrô, một khi anh đã trở lại, anh hãy làm cho anh em vững tin”.
 
Khi đặt Phêrô làm mục tử chăn dắt Giáo Hội hoàn vũ, Chúa Giêsu chắc chắn không dựa trên tiêu chuẩn: thông minh, tài giỏi, oai phong, lợi khẩu… mà là lòng yêu mến. Chúa Giêsu chọn Phêrô vì thánh nhân đã yêu mến nhiều. Phêrô yêu mến nhiều là vì “ngài đã được tha thứ nhiều” (x.La 7,47).
Và vì yêu mến là tiêu chuẩn Chúa chọn mục tử, thì đòi hỏi mục tử cũng phải biết chăn dắt chiên bằng lòng yêu mến, chứ không phải bằng sự độc tài, quyền thế và chiếm hữu.
Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì yêu mến đoàn chiên, thì đến lượt mục tử Phêrô cũng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên như Thầy: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,18-19).
 
Mục tử có thể thiếu thiếu những tiêu chuẩn khác như thông minh hay lợi khẩu, nhưng mục tử không thể thiếu lòng yêu mến; có làm được mọi sự phi thường, nhưng không có lòng mến thì vô ích. Cảm nghiệm được điều này, thánh Phaolô đã nói: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi (1Cr 13,1-3).
 
Người Do-thái không dùng thể so sánh tuyệt đối, nhưng dùng sự lặp lại 3 lần để chỉ điều tuyệt đối. Vì thế, khi lặp lại 3 lần sự tuyên xưng yêu mến thì có nghĩa là mức độ yêu mến của mục tử là trên hết và là điều kiện quan trọng nhất trong mọi điều kiện. Cuộc đối thoại hôm nay giữa Chúa Giêsu và thánh Phêrô nói rõ cho biết làm Kitô hữu có nghĩa là gì. Mỗi ngày, Chúa Giêsu cũng hỏi chúng ta có yêu mến Người một các đặc biệt và ‘trên hết mọi sự’ hay không: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Cũng như thánh Phêrô, chúng ta trả lời “có”, mặc dù chúng ta đầy những yếu đuối; và Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta bước theo Người vì tình yêu (x.Ga 19), và cùng với Người gánh vác Dân Thiên Chúa.
 
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chọn thánh Phêrô làm người chăn dắt Giáo Hội vì thánh nhân đã yêu mến Chúa. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng, tất cả mọi quyền bính trong Giáo Hội đều khởi đi từ lòng yêu mến, và đức mến là đồng phục của mọi Kitô hữu, để chúng con giữ trọn điều răn Chúa là: “Trước yêu mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy” Amen.
 
B. LỄ CHÍNH NGÀY
I. ĐỌC TIN MỪNG: Mt 16,13-20
Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai? ” Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.” Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? ” Ông Si-môn Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Đức Giê-su nói với ông: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.
 
II. SUY NIỆM
“GIÁO HỘI BỀN VỮNG”
Hôm nay chúng ta mừng kính hai vị đại thánh là cột trụ của Giáo Hội Công Giáo: Một vị được chọn khi Chúa Giê-su còn sống trên trần gian, vị kia được kêu gọi khi Chúa đã về trời. Vị này là Tông Đồ thuộc Nhóm Mười Hai, vị kia mang danh Tông Đồ dân ngoại. Vị này rao giảng về những gì đã nghe và cảm nhận được khi cùng sống và cùng ăn cùng uống với Chúa Giê-su, vị kia rao giảng những gì được Chúa dạy dỗ và cảm nhận trong thời gian sa mạc. Vị này có một quá khứ đã từng chối Chúa, vị kia từng truy tìm bắt bớ các môn đệ của Chúa. Vị này xuất thân từ làng nghèo chài lưới, vị kia có quyền công dân của Rô-ma và được học hành chu đáo bởi Galmaliel. Nhưng rồi, cả hai cùng rao giảng một Chúa Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh và phục sinh. Cả hai đã cũng đem Tin Mừng đến Rô-ma và đã cùng đổ máu đào để làm chứng cho đức tin vào hai thời điểm khác nhau: Phê-rô chịu đóng đinh và Phao-lô chịu chém đầu. Từ đó Rô-ma thắm máu của hai Đấng và Giáo Hội được xây nên bởi hai cột trụ Phê-rô và Phao-lô cách bền vững cho đến ngày hôm nay.
 
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu kể lại việc Chúa Giêsu trao quyền mục tử tối cao cho thánh Phêrô để chăn dắt đoàn chiên – lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ – sau khi nghe lời tuyên xưng thật đúng đắn của thánh nhân. Điều này cho thấy chỉ có ở nơi Giáo Hội mới có lời tuyên xưng đúng đắn nhất về thiên tính của Đức Giêsu Kitô, vì Giáo Hội đã sống với Người và được mặc khải từ Thiên Chúa.
 
1. Lời tuyên xưng đức tin đúng đắn.
Tin Mừng thuật lại những ghi nhận của những người Do-thái về Chúa Giêsu thật ra không phải là sai, nhưng chưa đủ, mà chỉ nói lên được một khía cạnh trong sự tròn đầy của khuôn mặt Đức Giêsu là Chúa:
– Là Êlia (một ngôn sứ quyền năng, làm phép lạ…)
– Là Giêrêmia (một ngôn sứ bị bắt bớ và đầy đau khổ)
– Là Gioan Tẩy Giả (rao giảng sự sám hối và sống khắc khổ)
– Là một ngôn sứ nào đó (đời sống chứng nhân và rao giảng).
Riêng thánh Phêrô, dù lúc này ngài chưa hiểu hoàn toàn về con người và sứ vụ của Chúa Giêsu, nhưng do mặc khải của Chúa Cha mà thánh Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Vâng, “Con Thiên Chúa” này bao gồm trọn vẹn mọi hình ảnh trên, là một Đức Giê-su Ki-tô Tử Nạn và Phục Sinh để cứu độ con người.
Tuyên xưng vào Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống là tuyên xưng một Đức Giêsu là Chúa, nghĩa là Đức Giêsu quyền phép chữa lành bệnh tật và uy thế trước thế quyền (Êlia), một Chúa Giêsu đau khổ nơi người bất hạnh (Giêrêmia), một Đức Giêsu rao giảng ơn sám hối (Gioan Tiền Hô), một Đức Giêsu chứng nhân và rao giảng (các ngôn sứ)…
Như vậy, tính “Tông Truyền” của mọi sự tông truyền chính là Giáo Hội phải tuyên xưng và sống điều mà thánh Phê-rô đã tuyên xưng vào một Đức Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống đã tử nạn và phục sinh. Chỉ như vậy, Giáo Hội mới tồn tại và bền vững.
 
2. Giáo Hội bền vững.
“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18).
Theo truyền thống Cựu Ước, khi Thiên Chúa đặt tên cho ai là để chuẩn bị cho họ một sứ vụ, thì đây, Chúa Giêsu ngay từ đầu đã đổi tên Simon thành Phêrô, nghĩa là đá. Đá ở đây không phải vô tri vô giác, nhưng nói lên một kết cấu nguyên khối và bền vững. Để rồi, trên tảng đá Phêrô, Chúa Giêsu xây Giáo Hội của Người một cách duy nhất và kiên vững, hầu quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.
Chúa Giêsu đã từng ví dụ về sự khôn ngoan hay khờ dại giống như người xây nhà mình trên đá hay trên cát. Nhà xây trên đá thì dù mưa sa nước chảy, gió thổi bão lay cũng không sao. Đó là hình ảnh Giáo Hội Chúa Kitô trải qua bao thế kỷ, gặp bao nhiêu thử thách, yếu đuối, bách hại và phải đương đầu với bao thể chế, lý thuyết, ý thức hệ, ly lạc giáo, sự tục hoá… thì trên nền đá Phêrô, Giáo Hội vẫn kiên cường bảo vệ đức tin và chuẩn mực đạo lý Kitô giáo cho mọi dân tộc.
 
3. Năng quyền Giáo Hội.
“Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời” (Mt 16,19).
Chìa khóa, theo Thánh Kinh, là biểu tượng của sự tin tưởng, uy quyền, và trách nhiệm. Chúa đã tin tưởng thánh Phêrô, trao cho người quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Giáo Hội trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở.”. Đây là một quyền hành thật cả thể. Vì bản chất của quyền hành ở đây theo từ ngữ chuyên biệt trong tiếng Do-thái có thể chỉ đến việc cầm buộc ma quỉ trong khi trừ quỉ, trong việc hành luật liên quan đến vạ tuyệt thông và trong những vấn đề phán quyết đức tin và luân lý.
Việc Chúa Giêsu trao chìa khoá Nước Trời cho thánh Phêrô cũng được hiểu như là biểu tượng Giáo Hội gìn giữ kho tàng ơn thánh và ơn cứu độ được đem đến qua Giáo Hội. Quyền này chỉ có nơi Chúa Giêsu, nhưng Người đã ban lại cho Giáo Hội qua quyền bính của vị đại diện Người. Ơn Cứu Độ từ Đức Kitô qua Giáo Hội của Người, bởi chỉ có Giáo Hội mới được mặc khải tròn đầy của Chúa Cha về Chúa Kitô (x.Mt 16,17), và chỉ có Giáo Hội mới nhận biết đúng đắn nhất về Chúa Kitô: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Theo nghĩa rộng, chìa khóa Nước Trời còn là hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí Tích Rửa Tội giúp mọi Kitô hữu mở cửa bước vào kho tàng ân đức của Chúa nơi các bí tích. Sự đóng hay mở phụ thuộc vào việc bác ái hay khép kín của lòng người.
 
Từ cổ đến kim, nhiều lạc giáo đã tìm cách chối bỏ năng quyền này của Giáo Hội và bất phục với các đấng kế vị thánh Phê-rô, nghĩa là họ chối bỏ lời Chúa Giê-su dạy trong Tin Mừng hôm nay. Quá khứ bao nhiêu lạc giáo đã tự suy tàn, nhưng hiện tại đang manh nha có nhiều thứ lạc giáo mới, chung quy lại cũng đều truyền bá việc bất phục Đức Thánh Cha và các mục tử trong Giáo Hội, chúng đã lập ra những website và group facebook để lôi kéo các thành viên. Điều đáng tiếc là nhiều thành viên Công Giáo đã bị chúng mê hoặc. Chính vì thế, nhân lễ thánh Phê-rô và Phao-lô hôm nay, chúng ta cùng ý thức mình và cầu nguyện cho những ai lầm lạc biết hoán cải.
 
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã xây dựng Giáo Hội trên nền đá là thánh Phêrô, Chúa cũng trao cho các đấng kế vị thánh Phêrô quyền bảo vệ đức tin, mối dây hiệp nhất và hướng dẫn đoàn chiên Chúa. Xin cho mọi người chúng con luôn biết quy phục Đức Thánh Cha, nhiệt thành xây dựng và làm phát triển Giáo Hội bằng đời sống chứng nhân theo phận vụ của mình, để Nước Chúa ngày một lan rộng khắp nơi. Amen.
 
 
THỨ NĂM TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN
 
I. ĐỌC TIN MỪNG: Mt 9,1-8
Đức Giê-su xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi! ” Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: “Ông này nói phạm thượng.” Nhưng Đức Giê-su biết ý nghĩ của họ, liền nói: “Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy? Trong hai điều: một là bảo: “Con đã được tha tội rồi”, hai là bảo: “Đứng dậy mà đi”, điều nào dễ hơn? Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội – bấy giờ Đức Giê-su bảo người bại liệt: “Đứng dậy, vác giường đi về nhà! ” Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà. Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền năng như thế.
 
II. SUY NIỆM
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu chữa bệnh cho một người bất toại, chữa lành vì lòng tin của các thân nhân và không những chữa lành phần xác mà còn tha thứ tội lỗi cho bệnh nhân.
 
1. Vai trò trung gian
Hình ảnh những người thân nhân khiêng người bất toại đến với Chúa, mong được Chúa chú ý đến sự khốn khổ của họ, cho thấy niềm tin vào quyền năng của Chúa Giêsu và lòng yêu thương dành cho người anh em đang phải khốn khổ vì bệnh tật. Lòng tin của họ đã được Chúa Giêsu ghi nhận (x. Mc 2,5) và ra tay chữa lành.
Điều này cho thấy tính tương giao trong niềm tin và lời cầu nguyện. Thật vậy, không thiếu những người thân chúng ta, nhữnng người cần đến sự kêu cầu của chúng ta với Chúa. Họ bất lực vì nhiều lý do không thể đến với Chúa để được chữa lành, nhất là phần linh hồn. Chính vì thế, họ cần chúng ta là những Kitô hữu, là những người con của Chúa “khiêng” (nâng họ lên) đưa họ đến với Chúa, giúp họ vượt qua những bức tường ngăn cách của đám đông hay tường nhà (rào cản mặc cảm tội lỗi), để họ được chữa lành.
Chúa Giêsu không chỉ thấy sự đau khổ của người bất toại, mà còn thấy lòng tin của những người khiêng anh ta đến. Tin Mừng nói rõ rằng, thấy lòng tin của ‘họ’ như vậy, Người đã chữa lành… Đó là một sự khích lệ lớn cho chúng ta khi chúng ta cầu xin cho một ai đó, khi chúng ta trở thành trung gian nối dài tính trung gian của Đức Kitô đem Chúa đến cho họ.
 
2. Quyền tha tội
Khác với mọi người đến nghe giảng và được chữa lành, mấy bác kinh sư lại đến để bắt bẻ; mọi người chỉ thấy kính phục và ca ngợi quyền năng Thiên Chúa, còn mấy ông “kinh” kia lại chỉ thấy đó là một sự phạm thượng. Theo quan niệm của họ, bệnh tật là do tội mà ra, có thể do chính đương sự phạm tội, cũng có thể do đời cha hay đời ông của đương sự phạm tội mà nay đương sự phải chịu phạt. Chúa Giêsu tuy không chấp nhận quan niệm này, nhưng có lẽ hôm nay, Người dùng chính cách nghĩ của họ để chữa bệnh, người tha tội cho người bất toại nghĩa là trị tận gốc căn cơ của bệnh.
Thật ra, theo như lời khẳng định: “…để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội”, Chúa Giêsu muốn mọi người chân nhận chủ quyền của Thiên Chúa, khẳng định Ngài là Đấng có quyền tha tội và hành động chữa lành cho người bất toại là một hành động của Thiên Chúa.
Quyền tha tội đó đã được Chúa Giêsu ban cho các Tông Đồ và lưu truyền từ đời này qua đời khác trong Giáo Hội; quyền được Chúa ban qua linh mục nơi toà giải tội khi linh mục đọc: “Vậy, cha tha tội cho con…”. Như vậy, nếu còn những ai nghi ngờ về năng quyền này, hãy đọc lại Lời Chúa (Ga 20,23).
 
Lạy Chúa Giê-su,cách này hay cách khác, chúng con cũng đang bị bệnh bại liệt tâm hồn, xin cho chúng con biết mau chạy đến toà cáo giải để được Chúa tha thứ tội lỗi và chữa lành bệnh tật thiêng liêng cho chúng con. Amen.
 
 
THỨ SÁU TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN
 
I. ĐỌC TIN MỪNG: Mt 9, 9-13
Đức Giê-su đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi! ” Ông đứng dậy đi theo Người.
Khi Đức Giê-su đang dùng bữa tại nhà ông ấy, có nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu nói với các môn đệ Người rằng: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy? ” Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”
 
II. SUY NIỆM
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc tới cách chọn gọi của Chúa Giêsu luôn xảy đến tại nơi người được gọi đang sinh sống và đồng bàn với những người tội lỗi để cứu độ họ. Chúa gọi các tông đồ nơi bờ biển, dưới cây vả… và hôm nay gọi Mátthêu khi ông còn ngồi nơi bàn giấy thu thuế, rồi sau đó về nhà tiệc tùg với “tân môn đệ”:
 
1. Chúa gọi ta ngay nơi ta đang làm việc.
Một trong những tội bị ghét nhất từ cổ chí kim là “cõng rắn cắn gà nhà”, hay là “nối giáo cho giặc”, vì họ cộng tác với ngoại bang để làm khổ anh em đồng bào của mình. Là nhân viên thuế vụ, Mátthêu làm việc cho Rôma đang cai trị dân tộc Do-thái, sưu cao thuế nặng, ức hiếp dân lành và làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của dân. Người Do-thái thời ấy coi kẻ thu thuế là vừa phản đạo vừa phản quốc và coi họ đứng hàng ngang với gái điếm, phải bị loại trừ bằng vạ tuyệt thông cách ly. Không ai thèm chơi với họ. Họ chỉ chơi với quân xâm lược La-mã và những tín đồ cặn bã của các hội đường. Mátthêu biết tất cả những điều ấy nhưng ông vẫn bất chấp, vì đổi lại ông được chức vụ rất hấp dẫn, đem lại của cải giàu sang.
Thế rồi, một ngày đẹp trời hôm nay, Chúa Giêsu đi ngang qua, Ngài nhìn ông, ông đang lo đếm tiền, ngước mặt lên ông định nhắc Ngài là “vô gia cư và lang thang không nghề nghiệp thì miễn thuế”… Nhưng không, Chúa Giêsu nhìn thẳng vào ông và gọi cách dứt khoát: “Anh hãy theo tôi”. Bất ngờ quá, bỏ lại tất cả, không kịp bàn giao sổ sách, ông mời luôn cả nhóm về nhà “làm tiệc tạ ơn”.
Câu chuyện ơn gọi của Matthêu lại một lần nữa khẳng định, Chúa Giêsu gọi ai thì Ngài không quan trọng đến thời điểm nào, lý lịch ra sao mà trên hết tất cả là Ngài nhìn thấy nơi họ có dám sẵn sàng bỏ hết tất cả để theo Chúa không?
Ngày hôm nay, nếu bạn đang ngồi nơi bàn giấy quyền cao lương hậu, đang vui thích với công việc đầy lợi nhuận… nếu Chúa gọi bạn bước theo ơn gọi tu trì, bạn có dám bỏ lại để theo Ngài không?
Khi phải lựa chọn giữa một bên là đức tin và lề luật Công Giáo và một bên là danh lợi vật chất, bạn có dám chọn Chúa không? Hay là đành “bỏ đạo” để không mất chức…?
Ngày hôm nay, Chúa cũng đang mời gọi bạn làm tông đồ cho Chúa. Thế nhưng, bạn có đáp lại lời mời gọi của Chúa cách thành tâm, thiện chí hay không, dám từ bỏ không, hay còn đang vướng víu bởi những của cải vật chất làm cho tâm hồn tôi trở nên nặng trĩu trước lời kêu gọi?
Một số người được Chúa mời gọi khi còn niên thiếu, số khác được Chúa tỏ cho biết ơn gọi khi đã lớn khôn. Chúa dùng những đồng nghiệp, những liên hệ gia đình, hoặc các liên lạc xã hội để tỏ ra mục đích của Người. Chúa gọi thì không phân biệt quá khứ bạn là ai, nhưng chỉ thấy bạn từ lúc bạn bắt đầu bước theo. Cùng với ơn soi sáng cho bạn nhìn thấy ơn gọi, điều quan trọng là bạn không mặc cảm với quá khứ, mau mắn đáp trả, bỏ lại mọi sự và bước theo Chúa.
 
2. Kêu gọi người tội lỗi.
Một bệnh viện mà chỉ nhận săn sóc cho người mạnh khỏe thì quả thật là một nhà thương không thể nào chấp nhận được; người khoẻ mạnh thì không cần đến bác sĩ… Cũng thế, Chúa Giêsu không còn là Ðấng Cứu Thế nữa, nếu Ngài chỉ muốn tiếp xúc với những con người tự phụ cho mình là công chính không cần đến Thiên Chúa.
Luật Do Thái coi ai tiếp xúc với kẻ thu thuế là đồng loã với tội lỗi và bị nhiễm uế, Chúa Giêsu vượt trên tất cả, Ngài đến đồng bàn trong bữa tiệc “tạ ơn”, “giải nghệ” và “chia tay đồng nghiệp” của Mátthêu.
Người Do Thái coi người thu thuế, một hạng người được coi là làm tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Ðế Quốc La Mã thời đó, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi và không tốt. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người.
Biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật luôn nghĩ xấu cho người khác. Chúa nói với họ:” Ta đến không để gọi những người công chính mà là gọi những người tội lỗi và “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần “.
 
Đến với người thu thuế không có nghĩa là đồng loã với họ. Đến với họ, để mở cho họ con đường trở về.
Còn bạn, bạn hãy học theo Chúa với cái nhìn bao dung và không thành kiến với mọi người. Để rồi bạn không ngần ngại đến với những người tội lỗi và đem họ về với Chúa…
 
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nhìn người lầm lỡ bằng ánh mắt của Chúa. Để yêu thương và giúp nhau đến với Chúa và hòa nhập với cộng đồng. Amen.
 
 
THỨ BẢY TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN
 
I. ĐỌC TIN MỪNG: Mt 9,14-17
Bấy giờ, các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng: “Tại sao chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay? ” Đức Giê-su trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay. Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai.”
 
II. SUY NIỆM
Ăn chay, cầu nguyện và làm phúc bố thí là ba sinh hoạt chính trong đời sống đạo đức của Do-thái Giáo. Họ có một cuộc“đại chay” bắt buộc nhân ngày lễ xá tội. Đồng thời họ cũng có những cuộc chay tịnh khác mang tính cách tập thể, chẳng hạn vào các ngày tổ quốc gặp hoạn nạn. Ngoài ra, những người đạo đức còn ăn chay vì lòng sốt sắng, như các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt Phái, họ thường ăn chay mỗi tuần hai lần. Chung quy lại, ăn chay đối với Do-thái Giáo bao gồm ba ý nghĩa chính:
– Để tỏ lòng sám hối và xin ơn.
– Đợi chờ Đấng Cứu Thế đến giải phóng dân khỏi ách đô hộ ngoại bang.
– Lòng đạo đức.
 
Từ đó, chúng ta có thể hiểu, những người thắc mắc về việc ăn chay trong bài Tin Mừng hôm nay là ăn chay bởi sự nhiệt thành đạo đức. Bởi vì, ngay trong lời thắc mắc của họ: “Tại sao môn đệ của Gioan và Biệt Phái ăn chay, còn môn đệ Thầy thì không?”
Theo trình tự của Tin Mừng, đây không phải là dịp xá tội để giữ chay theo mùa, đây cũng không phải việc cố ý thắc mắc vì không tin Đấng Cứu Độ đã đến, vì chính Gioan Tiền Hô (bao gồm các môn đệ của ngài) đã tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế.
Qua câu trả lời của Chúa Giêsu: “Các ông có thể bắt các bạn hữu đến dự tiệc cưới, ăn chay, đang khi tân lang còn ở với họ chăng?” Nghĩa là Chúa Giêsu có ý nói trong thời gian hiện tại khi Đấng Cứu Thế (là chính Người) đã xuất hiện là thời gian của sự vui mừng. Chúa Giêsu còn lấy ví dụ về “miếng vải mới không thể vá vào áo cũ”, nghĩa là Người lên án về việc người Do-thái muốn dùng cái đạo đức của mình để áp đặt cho người khác, họ muốn dùng cái bình luật cũ để đổ rượu giao ước mới vào.
 
Như vậy, qua việc chất vấn của người Do-thái, Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này, dạy chúng ta những bài học sau:
– Đừng học đòi những người bắt bẻ môn đệ Chúa Giêsu về việc ăn chay bởi vì họ xét đoán người khác, bắt người khác làm theo ý của mình, bắt người khác phải giống như họ, tạo ra một khuôn mẫu để bắt người khác phải chiều theo ý mình.
– Trở thành môn đệ Chúa Giêsu, ta phải thay đổi cách sống cũ, từ suy nghĩ đến hành động, để mặc lấy cách suy nghĩ, cách hành động, cách sống mới cho phù hợp với Tin Mừng.
– Vải vá áo, rượu trong bình là hình ảnh diễn tả đời sống của tôi. Chúa muốn tôi buớc theo Chúa thì cần phải thay đổi cách sống cho phù hợp với Tin mừng. Thay đổi tư tưởng, lời nói và hành động Thay đổi để trở nên giống như Chúa Giêsu, hiền lành, khiêm nhượng, yêu thương phục vụ, khoan dung tha thứ…
 
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức rằng, ăn chay là một việc lành hữu ích khi biết dùng nó để chế ngự thân xác trong sự yêu mến Chúa, chứ không phải để phô trương lòng đạo đức hay để xét nét người khác hoăc câu nệ lề luật mà thiếu đi tình người. Amen.
 
Hiền Lâm.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

BÀI VIẾT MỚI

spot_imgspot_img

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Thứ Bảy Tuần III Phục Sinh, Ga 6,51.60-69 “Đây là mầu nhiệm đức tin”

Thứ Bảy Tuần III Phục Sinh, Ga 6,51.60-69 “Đây là mầu nhiệm đức tin” Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist Tại hội đường Caphacnaum, Chúa Giêsu tuyên bố:...

Thứ Sáu Tuần III Phục Sinh, Ga 6,52-59: Chúa và con nên một

Thứ Sáu Tuần III Phục Sinh, Ga 6, 52-59 Chúa và con nên một Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist Tại hội đường Caphacnaum khi Chúa Giêsu tuyên...

Thứ Năm Tuần III Phục Sinh, Ga 6,44-51 “Tôi là bánh trường sinh”

Thứ Năm Tuần III Phục Sinh, Ga 6,44-51 “Tôi là bánh trường sinh” Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist Đọc Tin Mừng Nhất Lãm và Thư thứ I...

Thứ Tư Tuần III Phục Sinh, Ga 6,35-40 “Ai đến với tôi, không hề phải đói…”

Thứ Tư Tuần III Phục Sinh, Ga 6,35-40 “Ai đến với tôi, không hề phải đói...” Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist Dù sống giữa thế giới có...

Thứ Ba Tuần III Phục Sinh, Ga 6,30-35 Cuộc sống bất tử cần “bánh trường sinh”

Thứ Ba Tuần III Phục Sinh, Ga 6,30-35 Cuộc sống bất tử cần “bánh trường sinh” Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist Người Việt Nam ta thường dùng...

Thứ Hai Tuần III Phục Sinh, Ga 6,22-29: Khát vọng Tuyệt Đối

Thứ Hai Tuần III Phục Sinh, Ga 6,22-29 Khát vọng Tuyệt Đối Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist Tin Mừng cho thấy có nhiều người tìm đến với...