THỨ HAI TUẦN XIII – NĂM LẺ
ĐƯỢC VÀ MẤT
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
St 18,16-33
18,16 Từ nơi đó ba người kia đứng dậy và nhìn xuống phía Xơ-đôm. Ông Áp-ra-ham cùng đi để tiễn khách. 17 ĐỨC CHÚA phán : “Ta có nên giấu Áp-ra-ham điều Ta sắp làm chăng ? 18 Áp-ra-ham sẽ trở thành một dân tộc lớn mạnh và mọi dân tộc sẽ được chúc phúc nhờ nó. 19 Thật vậy, Ta đã chọn nó, để nó truyền cho con cái nó và gia tộc nó sau này phải giữ đường lối của ĐỨC CHÚA mà thực hiện điều công minh chính trực ; như thế ĐỨC CHÚA sẽ làm cho Áp-ra-ham điều Người đã phán về nó.” 20 ĐỨC CHÚA phán : “Tiếng kêu trách Xơ-đôm và Gô-mô-ra thật quá lớn ! Tội lỗi của chúng quá nặng nề ! 21 Ta phải xuống xem thật sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết.”
22 Hai người kia bỏ nơi đó mà đi về phía Xơ-đôm, nhưng ĐỨC CHÚA còn đứng lại với ông Áp-ra-ham. 23 Ông lại gần và thưa : “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao ? 24 Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao ? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao ? 25 Ngài làm như vậy, chắc không được đâu ! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu ! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao ?” 26 ĐỨC CHÚA đáp : “Nếu Ta tìm được trong thành Xơ-đôm năm mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó.”
27 Ông Áp-ra-ham lại nói : “Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa : 28 Giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất năm, vì năm người đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao ?” Chúa đáp : “Không ! Ta sẽ không phá huỷ, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người.” 29 Ông lại thưa một lần nữa : “Giả như trong thành tìm được bốn mươi người thì sao ?” Chúa đáp : “Vì bốn mươi người đó, Ta sẽ không làm.”
30 Ông nói : “Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp : Giả như ở đó có ba mươi người thì sao ?” Chúa đáp : “Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không làm.” 31 Ông nói : Con xin mạn phép thưa với Chúa : “Giả như tìm được hai mươi người thì sao ?” Chúa đáp : “Vì hai mươi người đó, Ta sẽ không phá huỷ.” 32 Ông nói : “Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi : Giả như tìm được mười người thì sao ?” Chúa đáp : “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Xơ-đôm.”
33 Sau khi phán với ông Áp-ra-ham, ĐỨC CHÚA đi, còn ông Áp-ra-ham thì trở về nhà.
Mt 8,18-22
8,18 Thấy xung quanh có đám đông, Đức Giê-su ra lệnh sang bờ bên kia. 19 Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng : “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” 20 Đức Giê-su trả lời : “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”
21 Một môn đệ khác thưa với Người : “Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã.” 22 Đức Giê-su bảo : “Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.”
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Thiên Chúa bắt ta phải có lựa chọn tuyệt đối, dứt khoát. Giữa Thiên Chúa và thế gian. Chọn Thiên Chúa ta phải cam lòng mất tất cả những gì thuộc về trần gian. “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”. Thật là một tâm hồn quảng đại. Yêu mến chân thành. Nhưng Chúa trả lời quyết liệt: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Thật là ghê gớm. Muốn đi theo dù đi đến đâu. Nhưng không có “đâu” để mà theo. Không có nơi đi. Không có nơi đến. Hư vô. Từ bỏ hết. Không có chỗ tựa đầu nữa. Đừng tựa vào gì khác. Chỉ một mình Chúa thôi. Chọn lựa dứt khoát quá. Đau đớn quá. Vì phải từ bỏ cả những mối thân tình rất quý giá như cha mẹ. “Xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã…Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ”. Hãy dứt khoát giã từ cõi chết. Theo Chúa là đi vào cõi sống. Chúa là sự sống. Có sự sống là có tất cả.
Đó là điều tổ phụ Áp-ra-ham đã chứng nghiệm. Lót đã chọn thế gian. Đến cư ngụ tại thành Xơ-đôm phồn vinh. Nhưng rồi mất tất cả. Bà Lót vì tiếc sót của cải. Quay đầu nhìn lại. Nên cũng hoá tượng muối. Đuổi theo hư ảo trần gian. Ta cũng trở nên phù du bọt bèo. Áp-ra-ham chỉ chọn Chúa. Ở đâu cũng được. Miễn là ở trong Chúa. Trong Lời Hứa của Chúa. Ông chọn ở trong sa mạc. Khô khan cằn cỗi. Nhưng vì ở trong Chúa. Nên ông được tất cả. Được trở nên bạn hữu của Chúa. Được tham dự vào chương trình của Chúa: “Ta có nên giấu Áp-ra-ham điều Ta sắp làm chăng? Áp-ra-ham sẽ trở thành một dân tộc lớn mạnh, và nhờ nó mọi dân tộc sẽ được chúc phúc”. Nhờ đó ông cứu được Lót và gia đình khỏi tai hoạ (năm lẻ).
Tiên tri A-mốt nhắc lại cho dân biết chân lý quan trọng này. Khi họ chọn Chúa. Họ được tất cả. Thắng quân đội Ai-cập. Chiếm đất E-mô-ri: “Chính Ta đã đem các ngươi lên khỏi đất Ai-cập, dẫn các ngươi đi trong sa mạc bốn mươi năm trường để các ngươi chiếm đất của người E-mô-ri”. Dù người E-mô-ri “cao lớn như cây hương nam và hùng mạnh như cây sồi”. Nhưng giờ đây dân đã phản bội. Chọn thế gian chứ không chọn Chúa. “Tội của Ít-ra-en đã lên tới cực độ…Vì chúng bán người công chính để lấy tiền, bán kẻ nghèo khổ với giá một đôi giày. Vì chúng đạp đầu kẻ yếu thế xuống bùn đen và xô người khiêm hạ ra khỏi đường lộ..Và rượu của người bị nộp phạt, chúng đem uống tại đền thờ Thiên Chúa”. Vì thế Chúa sẽ phạt họ. Họ sẽ mất tất cả. “Vậy này đây, ta sắp cán lên các ngươi như chiếc xe chất đầy lúa cán lên mặt đất”. Mọi người sẽ chết. Họ sẽ mất tất cả (năm chẵn).
Bỏ tất cả để chọn Chúa. Ta sẽ được tất cả. Bỏ Chúa để chọn tất cả. Ta sẽ mất tất cả. Vì Chúa là tất cả.
THỨ BA TUẦN XIII – NĂM LẺ
THIÊN CHÚA LÀ CHÚA TỂ
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
St 19,15-29.4,11-12
4,11 Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra. 12 Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất.” 19,15 Khi hừng đông ló rạng, các sứ thần giục ông Lót rằng : “Đứng lên ! Đưa vợ và hai con gái ông đang ở đây đi đi, kẻo ông phải chết lây khi thành bị phạt.” 16 Ông còn đang chần chừ thì hai người khách nắm lấy tay ông, tay vợ ông và tay hai người con gái ông, vì ĐỨC CHÚA muốn cứu ông ; các ngài đưa ông ra và để bên ngoài thành.
17 Khi đưa ông ra ngoài rồi, một vị nói : “Ông hãy trốn đi để cứu mạng sống mình ! Đừng ngoái lại đằng sau, đừng dừng lại chỗ nào cả trong cả Vùng. Hãy trốn lên núi kẻo bị chết lây.” 18 Ông Lót nói với hai người khách : “Thưa ngài, xin miễn cho ! 19 Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ lòng thương lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất ! 20 Kìa, có một thành khá gần, có thể trốn vào đấy được, thành ấy lại nhỏ. Xin cho tôi trốn vào đó -thành đó nhỏ mà- để tôi được sống.” 21 Người nói với ông : “Được, vì nể ông một lần nữa, tôi sẽ không phá đổ thành mà ông nói. 22 Ông hãy mau trốn vào đó, vì tôi không thể làm gì trước khi ông vào đó.” Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Xô-a.
23 Khi mặt trời mọc lên trên mặt đất thì ông Lót vào Xô-a. 24 ĐỨC CHÚA làm mưa diêm sinh và lửa từ ĐỨC CHÚA, từ trời, xuống Xơ-đôm và Gô-mô-ra. 25 Người phá đổ các thành ấy và cả Vùng, cùng với toàn thể dân cư các thành ấy và cây cỏ trên đất. 26 Bà vợ ông Lót ngoái lại đằng sau và hoá thành cột muối.
27 Sáng hôm sau ông Áp-ra-ham dậy sớm, đến chỗ ông đã đứng trước mặt ĐỨC CHÚA. 28 Ông nhìn xuống phía Xơ-đôm, Gô-mô-ra và cả Vùng, ông thấy khói từ đất bốc lên như khói một lò lửa !
29 Như vậy, khi Thiên Chúa phá huỷ các thành trong cả Vùng, Thiên Chúa đã nhớ đến ông Áp-ra-ham và đã cứu ông Lót khỏi cuộc tàn phá, khi Người phá đổ các thành nơi ông Lót ở.
Mt 8,23-27
8,23 Đức Giê-su xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người. 24 Bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ. 25 Các ông lại gần đánh thức Người và nói : “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất !” 26 Đức Giê-su nói : “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin !” Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển : biển liền lặng như tờ.
27 Người ta ngạc nhiên và nói : “Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?”
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Đời sống được ví như con thuyền vượt biển. Luôn tràn đầy sóng gió. Có rất nhiều khó khăn thử thách. Nhưng Thiên Chúa là Chúa Tể muôn loài. Vận mệnh chúng ta ở trong tay Thiên Chúa. Mọi thế lực trần gian phải tùng phục Thiên Chúa. Vì thế nếu ta ở trong Chúa. Ở với Chúa. Ở bên Chúa. Ta sẽ bình an vô sự. Nếu có hiểm nguy Chúa cũng sẽ giúp ta vượt qua. Hôm nay các tông đồ vượt biển. “Bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền”. Các tông đồ sợ hãi. Nhưng Chúa Giê-su nói: “Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin! Rồi Người trỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển lặng như tờ”. Thiên nhiên tùng phục Chúa. Sóng và biển phải vâng lệnh Chúa. Chúa cứu thoát chúng con. Vì Chúa là Chúa Tể muôn loài.
Nhưng khi con người phạm tội, Chúa phải trừng phạt. Đó là trường hợp Xơ-đôm và Gô-mô-ra. “Đức Chúa làm mưa diêm sinh và lửa từ Đức Chúa, từ trời, xuống Xơ-đôm và Gô-mô-ra. Người phá đổ các thành ấy và cả Vùng, cùng với toàn thể dân cư các thành ấy và cây cỏ trên đất”. Vì khi phạm tội họ ra khỏi Chúa. Chống lại Chúa. Không có Chúa họ phải chết. Áp-ra-ham luôn ở trong Chúa. Ở bên Chúa. Ở với Chúa. Nên Chúa nghe lời ông cầu nguyện. Cứu ông Lót là cháu ông Áp-ra-ham> “Như vậy , khi Thiên Chúa phá huỷ các thành trong cả Vùng, Thiên Chúa đã nhớ đến ông Áp-ra-ham và đã cứu ông Lót khỉ cuộc tàn phá”. Ai ở trong Chúa sẽ được cứu. Ai ở ngoài Chúa sẽ điêu tàn. Vì Chúa là Chúa Cả Trời Đất (năm lẻ).
Đó là điều A-mốt nhắc nhở cho dân Ít-ra-en. Thiên Chúa là Chúa Tể. “Giả như tai hoạ xảy ra trong thành, lẽ nào lại không do Đức Chúa? Vì Đức Chúa là Chúa Thượng không làm điều gì mà không bày tỏ kế hoạch của Người cho các ngôn sứ, tôi tớ của Người được biết”. Ít-ra-en đã được cứu thoát. Cần phải nhớ thân phận mong manh bọt bèo của mình. “Các ngươi khác nào thanh củi được rút khỏi đống lửa cháy; thế mà các ngươi vẫn không chịu trở về với Ta”. Đã được cứu thoát khỏi Ai-cập. Nhưng họ không ý thức. Cãi lại lệnh Chúa. Nên họ sẽ bị trừng phạt. “Ta đã làm cho các ngươi phải sụp đổ như chính Thiên Chúa đã làm sụp đổ thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra; các ngươi khác nào thanh củi được rút khỉ đống lửa cháy; thế mà các ngươi vẫn không chịu trở về với Ta”(năm chẵn).
Xin cho con luôn ở với Chúa. Ở trong Chúa. Ở bên Chúa. Để con không còn sợ hãi. Vượt qua mọi sóng gió của cuộc đời. Lạy Chúa là Thiên Chúa, Vua cai trị lòng con.
THỨ TƯ TUẦN XIII – NĂM LẺ
THOẢ HIỆP
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
St 21,5.8-20
21,5 Ông Áp-ra-ham được một trăm tuổi khi sinh được người con là I-xa-ác. 8 Đứa trẻ lớn lên và cai sữa. Ông Áp-ra-ham làm tiệc lớn ngày I-xa-ác cai sữa. 9 Bà Xa-ra thấy đứa con mà Ha-ga, người Ai-cập, đã sinh ra cho ông Áp-ra-ham, đang cười giỡn, 10 liền nói với ông Áp-ra-ham : “Ông hãy đuổi hai mẹ con đứa nữ tỳ này đi, vì con trai đứa nữ tỳ không được thừa kế cùng với I-xa-ác, con trai tôi.” 11 Ông Áp-ra-ham rất bực mình vì lời ấy, bởi đó là con ông. 12 Nhưng Thiên Chúa phán với ông Áp-ra-ham : “Đừng bực mình vì chuyện đứa trẻ và người nữ tỳ của ngươi. Tất cả những gì Xa-ra nói với ngươi, cứ nghe, bởi vì chính nhờ I-xa-ác mà ngươi sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. 13 Còn con trai của người nữ tỳ, Ta cũng sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn, vì nó là dòng dõi ngươi.” 14 Sáng hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy sớm, lấy bánh và một bầu da đựng nước đưa cho Ha-ga. Ông đặt đứa bé lên vai nàng và bắt nàng phải đi.
Nàng đi lang thang trong sa mạc Bơ-e Se-va. 15 Khi nước trong bầu da đã cạn, nàng vất đứa bé dưới một bụi cây, 16 rồi đi ngồi đối diện, cách xa khoảng tầm cung bắn. Nàng nói : “Sao cho tôi đừng nhìn thấy đứa bé chết !” Nàng ngồi đối diện và bật tiếng khóc. 17 Thiên Chúa nghe thấy tiếng đứa trẻ và từ trời sứ thần Thiên Chúa gọi Ha-ga và nói : “Sao thế, Ha-ga ? Đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng đứa trẻ, ở chỗ nó nằm. 18 Đứng lên ! Đỡ đứa trẻ dậy và ôm nó trong tay, vì Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn.” 19 Thiên Chúa mở mắt cho nàng, và nàng thấy một giếng nước. Nàng đi đổ nước đầy bầu da, rồi cho đứa trẻ uống. 20 Thiên Chúa ở với đứa trẻ, nó lớn lên, sống trong sa mạc, và trở thành người bắn cung.
Mt 8,28-34
8,28 Khi Đức Giê-su sang bờ bên kia, và đến miền Ga-đa-ra, thì có hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Người ; chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy. 29 Chúng la lên rằng : “Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông ? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ chúng tôi sao ?” 30 Khi ấy, ở đàng xa, có một bầy heo rất đông đang ăn. 31 Bọn quỷ nài xin Người rằng : “Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi nhập vào bầy heo kia.” 32 Người bảo : “Đi đi !” Chúng liền ra khỏi hai người đó và nhập vào bầy heo. Thế là tất cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống biển và chết đuối hết. 33 Các người chăn heo chạy trốn vào thành, kể lại mọi sự, và những gì đã xảy ra cho những người bị quỷ ám. 34 Bấy giờ, cả thành ra đón Đức Giê-su, và khi gặp Người, họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Tại sao ma quỷ vẫn còn hiện diện. Và tiếp tục hoành hành? Vì sự thoả hiệp của ta. Ma quỷ như loài ký sinh trùng. Chỉ sống được nhờ vào cơ thể người khác. Cơ thể đó trở thành đau bệnh. Như hai người bị quỷ ám ở Ga-đa-ra. Họ mất hết nhân tính. Hung hăng như loài thú dữ. Họ ở trong mồ mả. Vì họ thuộc thế giới kẻ chết. Và sẽ phục vụ đắc lực để mở rộng thế giới chết chóc đang phát triển trong chính bản thân họ. Chúa Giê-su đến cứu con người. Xua đuổi ma quỷ. Cho con người trở lại nhân tính. Trở lại sự sống. Bắt ma quỷ phải trở về nơi của chúng. Đó là súc vật. Là dơ bẩn. Là chết chóc. Nhưng buồn thay. Thay vì đón nhận Chúa để xua đuổi ma quỷ. Họ đón nhận ma quỷ nên từ chối Chúa. Họ chấp nhận con cái phải chết. Để bảo vệ được tài sản. Ma quỷ vẫn còn đất dung thân. Vì họ đã thoả hiệp với chúng.
Không thoả hiệp. Đó là điều A-mốt luôn cảnh báo dân. “Hãy tìm điều lành chứ đừng tìm điều dữ”. Tại sao? Vì hai lý do: “Rồi các ngươi sẽ được sống và như vậy Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh sẽ ở cùng các người”. Và làm điều lành, theo A-mốt, là thực thi công lý: “Hãy ghét điều dữ và chuộng điều lành, nơi cửa công, hãy thiết lập công lý”. Ghét điều dữ. Tìm điều lành. Ở với Thiên Chúa. Như thế mới có sự sống. Thoả hiệp. Sẽ không có Chúa. Sẽ chết. Ma quỷ đang làm điều dữ. Đó là bất công. Gian ác. Hãy làm cho công lý toả rạng. Có Thiên Chúa. Có sự sống (năm chẵn).
Thoả hiệp. Đó là điều ta thường làm. Như tổ phụ Áp-ra-ham. Khi đã có I-xa-ác rồi vẫn muốn giữ Ít-ma-en ở trong nhà. Xa-ra không chịu vì ghen tức. Nhưng Thiên Chúa cũng không chịu thái độ thoả hiệp đó. Vì hai lý do. I-xa-ác đến từ lời hứa của Thiên Chúa. Ít-ma-en là toan tính của con người. I-xa-ác là con của người vợ chính thức trong hôn nhân tự do. Ít-ma-en là con của người nô lệ trong dục vọng của con người. Thiên Chúa dạy Áp-ra-ham phải để Ít-ma-en ra đi. Đó là tôn trọng Thiên Chúa và tin tưởng vào lời hứa của Người. Đó là tách bạch rõ ràng tự do và nô lệ, con chính thức và con ngoại hôn. Không thoả hiệp nhập nhằng. Ý định của Thiên Chúa không thể pha trộn dục vọng của con người. Con cái tự do không thể sống chung với con cái nô lệ (năm lẻ).
Chúng ta sẽ sống thế nào. Chọn Thiên Chúa. Chấp nhận thiệt thòi vật chất. Hay chọn vật chất. Sống chung với ma quỷ. Để Thiên Chúa ra đi?
THỨ NĂM TUẦN XIII – NĂM LẺ
TỰ DO
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
St 22,1-19
22,1 Sau các việc đó, Thiên Chúa thử lòng ông Áp-ra-ham. Người gọi ông : “Áp-ra-ham !” Ông thưa : “Dạ, con đây !” 2 Người phán : “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác, hãy đi đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho.”
3 Sáng hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo. 4 Sang ngày thứ ba, ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa. 5 Ông Áp-ra-ham bảo đầy tớ : “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia ; chúng tôi làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh.”
6 Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi. 7 I-xa-ác thưa với cha là ông Áp-ra-ham : “Cha !” 8 Ông Áp-ra-ham đáp : “Cha đây con !” Cậu nói : “Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu ?” Ông Áp-ra-ham đáp : “Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ.” Rồi cả hai cùng đi.
9 Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói I-xa-ác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. 10 Rồi ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
11 Nhưng sứ thần của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông : “Áp-ra-ham ! Áp-ra-ham !” Ông thưa : “Dạ, con đây !” 12 Người nói : “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó ! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa : đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc !” 13 Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Áp-ra-ham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. 14 Ông Áp-ra-ham đặt tên cho nơi này là “ĐỨC CHÚA sẽ liệu.” Bởi đó, bây giờ có câu : “Trên núi ĐỨC CHÚA sẽ liệu.”
15 Sứ thần của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa 16 và nói : “Đây là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA, Ta lấy chính danh Ta mà thề : bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, 17 nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. 18 Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta.”
19 Ông Áp-ra-ham trở lại với các đầy tớ của ông ; họ đứng dậy và cùng nhau đi đến Bơ-e Se-va. Ông Áp-ra-ham sống ở Bơ-e Se-va.
Mt 9,1-8
9,1 Đức Giê-su xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. 2 Người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt : “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi !” 3 Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng : “Ông này nói phạm thượng.” 4 Nhưng Đức Giê-su biết ý nghĩ của họ, liền nói : “Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy ? 5 Trong hai điều : một là bảo : “Con đã được tha tội rồi”, hai là bảo : “Đứng dậy mà đi”, điều nào dễ hơn ? 6 Vậy, để các ông biết : ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội – bấy giờ Đức Giê-su bảo người bại liệt : “Đứng dậy, vác giường đi về nhà !” 7 Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà. 8 Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền năng như thế.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Người bại liệt bị bệnh tật trói buộc. Không thể cử động chân tay, hoặc di chuyển theo ý muốn. Anh không có tự do. Đó là hình ảnh một tâm hồn tội lỗi. Tội lỗi là sợi dây trói buộc khiến con người mất tự do. Không thể làm điều mình muốn. Giải phóng thể xác thì dễ. Giải phóng tâm hồn thật khó. Giải phóng tâm hồn là khai thông bế tắc giữa con người với Thiên Chúa. Trong Chúa con người mới có tự do. Mới có thể làm được điều tốt. Theo thánh ý Chúa. Như người bại liệt có thể tuân lệnh Chúa. Khi Chúa truyền cho anh: “Đứng dậy, vác giường mà đi về nhả”. Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà”.
A-mốt là một người tự do. Ông không sợ nhà vua. Cũng không sợ tiên tri giả A-mát-gia. Thẳng thắn tuyên án phạt với nhà vua Gia-róp-am. “Gia-róp-am sẽ chết vì gươm, và Ít-ra-en sẽ bị đày biệt xứ”. Và lệnh trừng phạt tiên tri giả A-mát-gia. “Vợ ngươi sẽ làm điếm trong thành phố, con trai con gái ngươi sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, lãnh thổ ngươi sẽ bị phân chia từng mảnh, còn ngươi, ngươi sẽ chết trên một miền đất ô uế”. Ông chỉ biết vâng lời Thiên Chúa. “Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta”. Ông tự do vì ở trong Chúa. Vì có thể làm theo thánh ý Chúa bất chấp những chướng ngại (năm chẵn).
Tổ phụ Áp-ra-ham là một con người hoàn toàn tự do. Ngài có thể làm theo ý Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tin vào Chúa không đòi điều kiện nào. Tin vô điều kiện. Tin đến độ sẵn sàng tuân hành thánh ý trong cả những hoàn cảnh khó khăn nhất. Đó là sát tế I-xa-ác, người con duy nhất. Dù trong lúc tuổi già, không còn hy vọng sinh con. Dù lời hứa của Chúa cho một dòng dõi đông đúc như cát biển sao trời. Ngài hoàn toàn tự do vì luôn ở trong Chúa. Ý chí của ngài hoà hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Vì thế nên ngài được đầy ân sủng. “Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta” (năm lẻ).
Xin cứu con khỏi ách nô lệ tội lỗi. Xin cho con được tâm hồn tự do. Trong sạch. Hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Để con được sự sống đời đời.
THỨ SÁU TUẦN XIII – NĂM LẺ
DÒNG DÕI ÁP-RA-HAM
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
St 23, 1-4.19; 24, 1-8.62-67
23,1 Bà Xa-ra sống được một trăm hai mươi bảy tuổi : đó là những năm bà Xa-ra đã sống. 2 Bà Xa-ra qua đời tại Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, trong đất Ca-na-an. Ông Áp-ra-ham đến làm lễ chôn cất bà và than khóc bà.
3 Ông đứng dậy, để người chết đó và nói với con cái ông Khết rằng : 4 “Tôi là ngoại kiều và là người khách ở giữa các ông. Xin các ông nhượng cho tôi một miếng đất riêng làm phần mộ ở giữa các ông, để tôi đem người chết của tôi đi chôn.” 19 Sau đó, ông Áp-ra-ham chôn bà Xa-ra, vợ ông, trong hang của cánh đồng Mác-pê-la, đối diện với Mam-rê, tức là Khép-rôn, tại đất Ca-na-an. 24,1 Ông Áp-ra-ham đã già nua tuổi tác, và ĐỨC CHÚA đã chúc phúc cho ông Áp-ra-ham trong mọi sự. 2 Ông Áp-ra-ham bảo người lão bộc sống lâu năm nhất trong nhà ông, và cũng là người quản lý mọi tài sản của ông : “Chú hãy đặt tay dưới đùi tôi, 3 và tôi xin chú nhân danh ĐỨC CHÚA là Chúa trời đất, mà thề rằng chú sẽ không cưới cho con trai tôi một người vợ trong số con gái xứ Ca-na-an, nơi tôi đang sống. 4 Nhưng chú sẽ về quê tôi, đến với họ hàng tôi, mà cưới vợ cho con tôi là I-xa-ác.” 5 Người lão bộc thưa với ông : “Có thể người đàn bà ấy không chịu đi theo tôi về đất này ; vậy tôi có phải đưa cậu con trai ông về đất mà từ đó ông đã ra đi không ?” 6 Ông Áp-ra-ham bảo người ấy : “Coi chừng, đừng có đưa con trai tôi về đó ! 7 ĐỨC CHÚA là Chúa Trời, Đấng đã đưa tôi ra khỏi nhà cha tôi, khỏi quê hương tôi, Đấng đã phán với tôi và thề với tôi rằng : “Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này”, chính Người sẽ sai sứ thần Người đi trước mặt chú, để từ nơi đó chú cưới vợ về cho con tôi. 8 Nếu người đàn bà không chịu đi theo chú, thì chú không còn buộc phải giữ lời thề với tôi nữa. Nhưng dù sao, cũng đừng đưa con tôi về đó.” 62 Khi ấy cậu I-xa-ác đã bỏ vùng giếng La-khai Rô-i, và đang ở trong miền Ne-ghép. 63 Cậu I-xa-ác ra ngoài đồng dạo mát lúc chiều tà. 64 Ngước mắt lên, cậu thấy một bầy lạc đà đang tiến đến. Ngước mắt lên, cô Rê-bê-ca thấy cậu I-xa-ác, cô bèn từ trên lưng lạc đà nhảy xuống 65 và hỏi người lão bộc : “Người đang đi ngoài đồng tiến về phía chúng ta là ai đó ?” Người lão bộc trả lời : “Chủ tôi đấy !” Cô bèn lấy chiếc khăn che mặt.
66 Người lão bộc thưa lại với cậu I-xa-ác tất cả những gì ông đã làm. 67 Cậu I-xa-ác đưa cô Rê-bê-ca vào lều của bà Xa-ra mẹ cậu ; cậu lấy cô làm vợ, cậu yêu thương cô và khuây khoả được nỗi buồn mất mẹ.
Mt 9, 9-13
9,9 Bỏ nơi ấy, Đức Giê-su đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông : “Anh hãy theo tôi !” Ông đứng dậy đi theo Người.
10 Khi Đức Giê-su đang dùng bữa tại nhà ông ấy, có nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. 11 Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu nói với các môn đệ Người rằng : “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy ?” 12 Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói : “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. 13 Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này : ‘Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Áp-ra-ham là người trung tín với lời Chúa hứa. Chúa đã hứa cho ông một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Ông không dám chung đụng với dân ngoại. Vì thế phải tìm vợ cho I-xa-ác trong dòng họ của ông. Thật là một sự trung tín đáng trân trọng. Ông vẫn nghĩ dòng dõi Chúa hứa là theo phương diện huyết thống thể lý. Nhưng ông cũng đã hiểu phải có một dòng dõi mới sống theo Lời Chúa Hứa. Nên bằng mọi cách phải đưa cô dâu đến. “Coi chừng, đừng có đưa con trai tôi về đó” (năm lẻ).
Quan niệm đó dần dần được Thiên Chúa thanh luyện. Khi dân Do thái không trung thành với Lời Chúa, lời hứa theo phương diện huyết thống thể lý mất hiệu nghiệm. A-mốt cho thấy dân phạm tội nên đánh mất lời hứa. “Chúng sẽ thất thểu từ biển này qua biển nọ, từ phương bắc đến phương đông, chúng sẽ lang thang để kiếm tìm lời Đức Chúa mà không gặp được”. Lòng họ trở nên thửa đất bờ ruộng, nơi chim trời đến tha mất Lời Chúa. Lòng họ trở nên gai góc sỏi đá bóp nghẹt Lời Chúa (năm chẵn).
Chúa Giêsu đến mở ra một chân trời mới, thiết lập dòng dõi mới của Áp-ra-ham. Biệt phái và Luật sĩ, Kinh sư tự hào mình là dòng dõi Áp-ra-ham nhưng lại đóng chặt cửa lòng không nghe Lời Chúa. Những kẻ tội lỗi lại mở lòng đón nhận. Một lời kêu gọi, lập tức Lê-vi chỗi dậy theo Chúa. Bỏ bàn thu thuế đầy tiền bạc. Bỏ nghề thu thuế nhiều lợi nhuận. Bước theo Chúa vào con đường phiêu lưu vô định.
Đây quả là dòng dõi mới của Áp-ra-ham. Biệt phái, Luật sĩ, Kinh sư tự hào là con cháu Áp-ra-ham nhưng không nối tiếp truyền thống thiêng liêng của tổ phụ. Chính Mát-thêu và những người tội lỗi nối tiếp truyền thống này. Như Abraham vừa nghe Lời Chúa đã từ bỏ quê hương, gia đình, tài sản, Lê-vi vừa nghe Lời Chúa đã từ bỏ tiền của, nghề nghiệp. Như Áp-ra-ham lên đường đến miền đất Chúa hứa, Lê-vi và các bạn lên đường theo Chúa Giê-su. Như Áp-ra-ham chỉ biết vâng lời Chúa không tính toán so đo, kể cả sát tế I-xa-ác dâng hiến Chúa, Lê-vi không tính toán, theo Chúa mà chẳng có gì thủ thân. Đây đích thực là dòng dõi mới của Áp-ra-ham. Dòng dõi theo đức tin chứ không còn theo huyết thống.
Tôi thuộc dòng dõi cũ hay dòng dõi mới của Áp-ra-ham? Tôi khép kín hay mở rộng tâm hồn lắng nghe, đón nhận và thực hành Lời Chúa?
THỨ BẢY TUẦN XIII – NĂM LẺ
BẦU DA MỚI
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
St 27,1-5.15-29
27,1 Ông I-xa-ác đã già, mắt ông loà không trông thấy nữa. Ông bèn gọi Ê-xau, con trai lớn của ông, ông nói : “Con ơi !” Cậu thưa : “Dạ, con đây.” 2 Ông nói : “Con thấy không, cha già rồi, không biết chết ngày nào. 3 Bây giờ con hãy lấy khí giới của con, ống tên và cây cung của con, ra đồng săn thú cho cha. 4 Con hãy làm cho cha một món ăn ngon như cha thích, rồi đem đến cho cha ăn, để cha đích thân chúc phúc cho con trước khi chết.” 5 Đang khi ông I-xa-ác nói với Ê-xau, con trai ông, thì bà Rê-bê-ca nghe được. Ê-xau đi ra đồng để săn thú mang về.
15 Bà Rê-bê-ca lấy áo của Ê-xau, con trai lớn của bà, áo sang nhất mà bà có ở nhà, và mặc cho Gia-cóp, con trai nhỏ của bà. 16 Bà lấy da dê non mà bọc lấy tay và phần cổ nhẵn nhụi của cậu. 17 Rồi bà đặt món ăn ngon và bánh đã làm vào tay Gia-cóp, con bà.
18 Cậu vào với cha và thưa : “Cha ơi !” Ông đáp : “Cha đây ! Con là đứa nào đấy con ?” 19 Gia-cóp thưa với cha : “Con là Ê-xau, con trưởng của cha ; con đã làm như cha bảo. Mời cha ngồi dậy xơi món thịt rừng của con, để cha đích thân chúc phúc cho con.” 20 Ông I-xa-ác hỏi con : “Con ơi ! sao con tìm được mau thế ?” Cậu thưa : “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha, đã cho con gặp được may mắn.” 21 Ông I-xa-ác bảo Gia-cóp : “Con ơi, lại gần đây, để cha rờ con, xem con có đúng là Ê-xau, con cha, hay không.” 22 Gia-cóp lại gần ông I-xa-ác, cha ông ; ông rờ cậu và nói : “Tiếng thì tiếng Gia-cóp, mà tay là tay Ê-xau.” 23 Ông không nhận ra cậu, vì tay cậu lông lá như tay Ê-xau, anh cậu ; thế là ông chúc lành cho cậu. 24 Ông hỏi : “Con có đúng là Ê-xau, con cha không ?” Cậu thưa : “Vâng, chính con.” 25 Ông nói : “Con ơi, bưng lại cho cha ăn món thịt rừng, để cha đích thân chúc phúc cho con.” Cậu bưng lại cho ông, ông ăn ; rồi cậu đem rượu đến, ông uống. 26 Ông I-xa-ác, cha cậu, bảo : “Con ơi, lại gần đây và hôn cha đi !” 27 Cậu lại gần và hôn ông. Ông hít mùi áo cậu và chúc phúc cho cậu rằng :
“Kìa, mùi thơm con tôi
như mùi thơm cánh đồng ĐỨC CHÚA đã chúc phúc.
28 Xin Thiên Chúa ban cho con,
sương trời với đất đai màu mỡ, và lúa mì rượu mới dồi dào.
29 Các dân phải làm tôi con, các nước phải sụp xuống lạy con.
Con hãy làm chủ các anh em con, và các con của mẹ con phải sụp xuống lạy con.
Kẻ nguyền rủa con sẽ bị nguyền rủa,
kẻ chúc phúc cho con sẽ được chúc phúc.”
Mt 9,14-17
9,14 Bấy giờ, các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng : “Tại sao chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay ?” 15 Đức Giê-su trả lời : “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay. 16 Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. 17 Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt : rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới : thế là giữ được cả hai.”
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Thiên Chúa luôn bất ngờ. Vì luôn yêu thương. Luôn đi bước trước. Luôn có sáng kiến. Bất ngờ vì vượt quá sức tưởng tượng của con người. Bất ngờ vì luôn yêu thương, tha thứ. Và nhất là sửa chữa lại những sai lầm của con người một cách trổi vượt. Kế hoạch đầu tiên trao gửi cho bà E-và đã thất bại. Lập tức Chúa có sáng kiến tuyển chọ Áp-ra-ham để thiết lập một dân riêng. Dân tộc mà Chúa yêu thương tuyển chọn luôn thay lòng đổi dạ, phản bội Chúa. Họ lãnh lấy hậu quả thảm khốc. Mất nước. Thành quách xiêu đổ. Dân bị lưu đầy. Đất đai thuộc về đế quốc nên phải nộp hoa màu cho kẻ xâm lược. Nhưng sau một thời trừng phạt, Chúa lại yêu thương phục hồi họ. “Ta sẽ đổi vận mạng của Ít-ra-en dân Ta: chúng sẽ tái thiết những thành phố điều tàn và định cư ở đó; chúng sẽ uống rượu vườn nho mình trồng, ăn thổ sản vườn mình canh tác” (năm chẵn).
Nhưng khi cần Chúa sẵn sàng làm ra những con người mới. Để có thể hoàn thành kế hoạch của Chúa. Vua Sa-un không vâng lời Chúa. Lập tức Chúa tuyển chọn Đa-vít. E-sau thất bại vì đã ham ăn mà bán chức trưởng nam. Chúa lập tức tuyển chọn Gia-cóp. Và Gia-cóp trở thành tổ phụ được hưởng mọi phúc lành. “Xin Thiên Chúa ban cho con sương trời với đất đai màu mỡ, và lúa mì rượu mới dồi dào. Các dân phải làm tôi con, các nước phải sụp xuống lạy con” (năm lẻ).
Kế hoạch sau cùng vô cùng tuyệt hảo. Đó là Con Một Chúa xuống thế làm người ở với chúng ta. Đó là một sáng kiến vô cùng mới mẻ. Cao siêu vượt quá trí khôn loài người. Chúa lập ra đạo mới vượt xa đạo cũ. Đạo cũ chuyên chăm giữ luật. Đạo mới sống với Chúa trong tình yêu. Chúa lập ra một dân mới thay thế dân cũ. Dân cũ căn cứ vào huyết thống Áp-ra-ham. Dân mới căn cứ vào đức tin của Áp-ra-ham. Đạo mới là tấm áo mới may bằng vải mới. Là chất rượu mới thơm tho mãnh liệt. Con người vì thế phải đổi mới để thích hợp. Phải trở thành áo mới. Không thể vá áo cũ. Phải trở thành bầu da mới. Để chứa đựng rượu mới nồng nàn. Không đổi mới sẽ như manh áo cũ rách tả tơi. Như bầu da cũ nổ tung khi gặp rượu mới. Phải đổi mới. Như Gia-cóp có thể thay thế E-sau. Như Đa-vít trổi vượt Sa-un. Như các môn đệ vượt qua các kinh sư và biệt phái.
Xin cho con không ngừng từ bỏ con người cũ. Không ngừng đổi mới. Để con trở thành bầu da mới. Chứa đựng được rượu mới của Chúa.