HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM
Nội san linh đạo đan tu
DÁM ĐỐI DIỆN
Số 9 – Tháng 07 năm 2010
LỜI GIỚI THIỆU
Kính thưa quí độc giả
Chúng ta đang sống trong năm thánh mừng biến cố trọng đại thành lập hàng Giáo Phẩm Việt Nam và 350 các Vị Đại Dỉện Tông Đồ đầu tiên cử đến Đất Việt. Cùng với biến cố trọng đại này, HÁT GIỐNG CHlÊM NIỆM số 9 chọn chủ đề DÁM ĐỐI DIỆN cho TẬP SẢN lần này. Vì có ĐỐI DIỆN mới có khả năng nhận ra con người thực của mình để phát huy những gì tốt đẹp, đồng thời loại trừ những gì khiếm khuyết đang tồn đọng nơi mỗi người cũng như nơi mỗi cộng đoàn để khắc phục, nhằm đem lại hình ảnh mới hình ảnh của Thiên Chúa; Yêu Thương và Hợp Nhất.
Nhớ ĐỐI DIỆN mà ta nhận ra cuộc đời của mình cũng như cộng đoàn giống như dòng sông, có lúc lắng lọng và êm trôi tạo nên bầu khí bình yên cho mọi người nhưng có lúc lại nổi sóng làm cho người ta khiếp sợ. Dòng sông đó đầu phảng lặng hay nổi sóng kiếp đều nằm trên một đòng sống và trôi theo nốm tháng của cuộc đời.
Chủ đề ĐỐI DIỆN của Tập San như là địp để các tác giả có cơ hội chia sẻ những suy tư, cảm nghiệm cũng như những thao thức nơi bản thân, nơi anh chị em trong cộng đoàn.
Với những gì nhỏ bé và tầm thường mà các tác giả muốn chia sẻ, HẠT GIÔNG CHIÊM NIỆM xin kính mời quí độc giả vào xem ngôi vườn khiêm tốn này, để đồng cảm với từng tác giả.
BAN BIÊN TẬP
MỤC LỤC
- Đối Diện Với Sự Thật
(Tác giả: FM.Cao Nguyên) - Hiện Tượng Tương Đối Hóa Trong Đời Tu
(Tác giả: FM.Huy Mỹ ) - Sống Trọn Lời “FIAT” (Xin vâng)
(Tác giả: FM. Duy ân ) - Sống Đối Diện Với Mình, Kinh Nghiệm Của Các Linh Phụ
(Tác giả: FM.Inhaxiô Minh Vương) - Hiện Diện Là Điều Kiện Để Đối Diện
(Tác giả: FM.Dominico Phạm Văn Hiền ) - Khát Vọng, Phương Tiện Để Chấp Nhận “Cái Tôi Là”
(Tác giả: FM.Anselmo Grun ) - Từ Ngoại Cảnh – Qua Bản Thân – Đến Thiên Chúa
(Tác giả: FM.Duyên Thập Tự ) - Sống Với Những Nỗi Đau
(Tác giả: Đồi Dương ) - Biết Cười
(Tác giả: Huyền Trân + Thiêng Giang ) - Hợp Xướng Ba Bè
(Tác giả: Hải Dương + Thiên Giang ) - Thời Gian
(Tác giả: FM. Kolbé Thái ) - Những Hạt Sáng Thức Tỉnh
(Tác giả: Sr. MThiên Triều )
ĐỐI DIỆN VỚI SỰ THẬT
FM.Cao Nguyên
Đối diện với sự thật, một vấn đề luôn khó với bản tính tự nhiên của con người, nhất là khi sự thật ấy làm cho người ta cảm thấy đau đớn,chua chát và cảm giác bị mất mát. Đôi diện với sự thật, đòi hỏi một sự can đảm. Sự can đảm có thể và đôi khi cần phải vượt ra khỏi chính mình. Tuy nhiên, khi có đủ can đảm để đối diện với sự thật và sống theo sự thật, con người sẽ cảm thấy mình được giải thoát và được tự do: “sự thật sẽ giải thoát các ngươi”(Ga 8,32).
Ngôn sứ Giêrêmia, một mẫu người, hay nói đúng hơn, lối sống và cách hành động của Giêrêmia cho thấy ông là một con người dám đối diện với sự thật và sống theo sự thật. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ trong giai đoạn lịch sử suy tàn của chế độ quân chủ. Đời sống tôn giáo và luân lý lúc bây giờ đang xuống cấp. Trong bốĩ cảnh đó, ông đã can đảm chấp nhận đối diện với tất cả: đối diện với chính mình, với Thiên Chúa, với tha nhân và cả những vấn đề của dân tộc, nhất là dám nói lên tiếng nói của công lý và sự thật.
1. Đối diện với chính bản thân.
Kinh nghiệm cho thấy, đối diện với những thử thách từ bên ngoài thì dễ hơn là đối diện với những thử thách từ bên trong con người mình, nhất là sự đối diện ấy dẫn tới một sự chọn lựa mang tính quyết định cho vận mệnh cuộc đời. Giêrêmia trước biến cố trọng đại là được Thiên Chúa gọi làm ngôn sứ cho Người, Ông đã không giấu nổi vẻ sợ hãi, cho đã từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa (x. Gr 1,6). Sự chối từ lời mời gọi không phải vì ông không thích làm ngôn sứ, nhưng có lẽ vì ông phải đối diện với chính thực tế bản thân về khả năng làm ngôn sứ của mình (x. Gr 1,6). Ông vốn là con người sống ở vùng quê, thuộc dòng tư tế ở A-nà-thốt, là con người có tính tình hiền lành và thích yên tĩnh[1] . Có lẽ Giêrêmia cũng ý thức được phần nào việc trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa đòi hỏi nơi ông những gì trong thời đại của ông mà ông đã thấy trước phần nào trong viễn tượng thi hành sứ vụ. Quả thực, viễn tượng ấy đã thành hiện thực trong quá trình ông thi hành sứ vụ (x. Gr 17,8; 17,4; 20,1- 6; 36,26…). Tuy ý thức về sự mỏng manh và kém cỏi của mình, nhưng trước lời mời gọi của Thiên Chúa (x.Gr 1,5) và lời hứa trợ giúp của Người (x. Gr 1,7-8), Giêrêmia đã chấp nhận lãnh lấy sứ vụ mà Thiên Chúa muốn trao phó, cho dù trước đó đã hơn một lần ông từ chối lời mời gọi.
Việc Giêrêmia ý thức về sự hèn kém của mình trước lời mời gọi của Thiên Chúa chưa phải là cao độ của việc ông phải đối diện với chính bản thân ông, đúng hơn, những ý thức đó mới chỉ là khởi đầu của cuộc chiến nội tâm giữa một bên là sứ vụ được trao phó và một bên là những khốn khổ mà ông phải chịu khi thi hành sứ vụ. Giêrêmia phải làm người đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng” (Gr 1,10). Chính vì trung thành với sứ vụ này mà ông bị người ta sỉ vả (x. Gr 20,8b), bị coi như đồ ghê tởm đối với mọi người (x. Gr 20,10a), bị xem như mục tiêu để người ta chống phá và hạ bệ (x. Gr 18,18). Có những lúc ta thấy vị ngôn sứ đã bị ngập tràn trong cơn khủng hoảng về ơn gọi. Lời than thở của Giêrêmia ở các câu 17 và 18 của chương 20 sách Giêrêmia cho ta thây rõ sự khủng hoảng đang xảy ra. Qua hai câu này, ta thấy, đây là những lời vị ngôn sứ thốt ra tự đáy lòng, là chỉ còn biết than phiền về chính cuộc đời mình trước sự kiện những tai họa dồn dập ông phải hứng chịu khi thi hành sứ vụ, sứ vụ mà ông không thể quên nổi cho dù có lúc ông đã cô tình gạt bỏ để đổi lấy một cuộc sông yên ổn (x. Gr 20,9).
Khi đọc Gr 15,10-20, dường như ta thấy ông không tìm ra lối thoát, bế tắc và mất phương hướng. Ngay cả đến Thiên Chúa là thành luỹ duy nhất bảo vệ ông, là Đấng ông đặt trọn niềm tin tưởne và tín thác, thì bây giờ ông cũng cảm thấy nghi ngờ về quyền năng và lòng thành tín của Ngài (x. Gr 15,18b).
Có lẽ không có một bản văn Kinh Thánh nào giống như Gr 11,18- 12,6; 15,10-21; 17,14-18; 18,18-23; 20,7-19. Trong truyền thống Kinh Thánh Do Thái, người ta thấy có tiếng kêu của Môsê trong Xh 17,4, rồi thái độ của Samuel trong lSm 15,11, và có lẽ gần hơn với Giêrêmia là lời than thở của Élia trong 1V 19,4. Nhưng dù sao, những lời tự thuật, những lời than thở, những lời trách móc khi Giêrêmia phải đối diện với chính con người và sứ vụ của ông, vẫn là một hiện tượng đặc biệt trong truyền thống ngôn sứ Do Thái giáo mà người ta chỉ thấy có trong sách Giêrêmia.
Như thế, nơi Giêrêmia, ta gặp thấy một con người bị gằng co giữa những yếu đuối tự nhiên và ơn gọi siêu nhiên. Những yếu đuối lự nhiên đó đôi lúc có vẻ như thắng thế khi nó làm cho vị ngôn sứ mệt mỏi, nản lòng và muốn bỏ cuộc. Tuy nhiên, lòng tín thác vào Thiên Chúa đã cho ông có đủ can đảm và nghị lực để đôi diện với chính mình, đối diện với sứ vụ ngôn sứ và thi hành sứ vụ ấy một cách trung thành trong cuộc đời ông.
2.Đối diện với Thiên Chúa.
Ngôn sứ là người của Thiên Chúa, được Thiên Chúa tuyển lựa và hiến thánh. Sứ vụ ngôn sứ luôn gắn chặt với sự kiện là ngôn sứ ây phải “biết” Thiên Chúa và sống mật thiết với Người, nếu không, vị ngôn sứ sẽ không tài nào có thể thi hành tròn đầy sứ vụ của mình. Là một ngôn sứ, trong môi tương quan với Thiên Chúa của mình, Giêrêmia cũng đã có những cảm nghiệm về Thiên Chúa, về lời của Ngài, về lòng thành tín của Ngài.
* Đối diện với Lời của Thiên Chúa.
Có lẽ cảm nghiệm đầu tiên của Giêrêmia khi ông đối diện với Thiên Chúa đó chính là Lời của Ngài. Chính Lời Thiên Chúa đã kêu gọi yà thánh hiến ông (x. Gr 1,4- 5) để ông trở thành người phục vụ cho Lời. Suốt cả cuộc đời mình, Giêrêmia bị chi phối bởi việc nghe Lời Chúa và chuyển đạt Lời ấy cho dân tộc ông.
Qua sách Giêrêmia, chúng ta thấy Lời Chúa được ông diễn tả rất sống động, mạnh mẽ, quyền năng. Lời Chúa như một hâp lực của sự thiện hảo làm cho Giêrêmia cảm thấy hân hoan, vui sướng trong cuộc đời của ông (x. Gr 15,16). Nhưng cũng chính Lời ấy đã làm cho ông phải hao mòn sinh lực, phải lo m run rẩy đến mức dường như không thể chịu nổi (x. Gr 23,9)[2] . Lời Chúa còn có sức mạnh như ngọn lửa làm cho kẻ mang Lời không thế im hơi lặng tiếng cho dù có cố gắng để nén Lời đó trong lòng (x. Gr 20,9b). Lời Chúa còn có sức mạnh phá huỷ những thứ bất hảo như búa đập tan núi đá (x. Gr 23,29).
Như thế, Lời Chúa mà Giêrêmia đối diện đó là Lời có sức phá huỷ và tác sinh, Lời đem lại niềm hân hoan nhưng cũng gây ra nỗi cay đắng cho ông. Đôi diện với Lời của Chúa, Lời của quyền năng (x. Gr 23,29) và yêu thương (X. Gr 20,7), Giêrêmia đã bị khuất phục bởi Lời và trở thành người mang Lời và chuyển đạt Lời trong suốt cuộc đời ông.
* Đối diện với lòng thành tín của Thiên Chúa
Đối diện với lòng thành tín của Thiên Chúa, với Giêrêmia đó là một thái độ tin tưởng và phó thác, cậy trông và kính sợ. Nhưng có đôi lúc ta cảm thấy vị ngôn sứ như có thái độ nghi ngại và đôi khi sự nghi ngại đó đến mức muốn nổi loạn.
Trước hết, nghi ngại của Giêrêmia về lòng thành tín của Thiên Chúa xuất phát từ lời hứa ượ gúp của Ngài. Thiên Chúa đã hứa hỗ trợ Giêrêmia, Người hứa đồng hành với ông và bảo vệ ông, Nhưng trong thực tế, sự trợ giúp của Thiên Chúa ở đâu ông chẳng thấy mà ông chỉ thấy sự thắng thế của kẻ thù trên ông (x. Gr 12,lb; 15,15). Chính vì thế mà lòng thành tín của Thiên Chúa đôi với Girêmia đã bị đặt vấn đề bởi tính xác thực của nó.
Hơn nữa, sự kiện những lời loan báo của ông hầu như luôn là những tai họa, còn những lời loan báo của các ngôn sứ giả lại nói về một nền hoà bình. Những lời loan báo về tai hoạ của Giêrêmia vẫn chưa được thực hiện (x. Gr 17,15; 18,18), trong khi đó những lời công bố về một nền hoà bình của các ngôn sứ giả xem ra có lý hơn, ít là trong lúc đó, lúc mà ông tuyên sâm về những tai ương. Cho nên Giêrêmia có thể nghi ngại về sự xác thực những lời loan báo của ông và như thế đồng nghĩa với việc Thiên Chúa có thực sự là một Thiên Chúa thành tín hay không khi Người đã sai ông công bố những sấm ngôn đó?
Giêrêmia đã cố gắng trung thành với sứ vụ của ông và niềm hy vọng của ông có lẽ không gì khác hơn, đó là việc Thiên Chúa sẽ sớm thực hiện những lời Người loan báo qua miệng ông. Tuy nhiên, thực tế lại diễn ra không như Giêrêmia suy tính, hay nói đúng hơn, cách thức hành động của Thiên Chúa khiến Giêrêmia không thể hiểu nổi, cho nên ông đã chất vấn Người. Ở đây, chúng ta có thể nhận thấy, Giêrêmia đang phải đối diện vổi một khó khăn rất lớn, khó khăn của “đêm tối đức tin” theo đúng nghĩa. Dù sao, cách thức hành xử của Giêrêmia khiến chúng ta phải thán phục, vì cho dù phải lao đao trong đêm tôi của niềm tin, ông vẫn một niềm tín thác vào lòng trung thành của Thiên Chúa. Cho dù cách hành động của Thiên Chúa làm cho ông khó hiểu, khiến ông phải lên tiếng chất vân Người. Nhưng ông đã không vì thế mà lìa bỏ sứ vụ của mình, trái lại ông vẫn một lòng trung thành với những gì Thiên Chúa muốn ông phải thực hiện.
3. Sự thật về tha thứ
Là ngôn sứ cũng có nghĩa là trung gian giữa Thiên Chúa và Dân. Giêrêmia được Thiên Chúa đặt Lời của Ngài vào miệng ông (x. Gr 1,9) để ông công bố ý định của Ngài cho Dân. Tuy nhiên, công việc chuyển đạt ý định của Thiên Chúa cho Dân không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhất là khi những lời chuyển đạt ấy có nội dung lên án hay trách cứ lối sống của Dân.
Giêrêmia phải thi hành sứ vụ trong một hoàn cảnh không hề xuôi thuận chút nào. về mật chính trị, Israel thời đó đang tàn lụi và dần tới hồi kết. về đời sống tôn giáo cũng như luân lý không tốt đẹp; người ta chạy theo các thần ngoại, sống buông thả và làm những điều trái mắt Thiên Chúa. Trong hoàn cảnh như thế, sứ vụ của Giêrêmia chắc chắn sẽ nặng nề và khó khăn hơn.
*Giêrêmia với thời cuộc nhà Israel.
Giêrêmia bắt đầu sứ vụ dưới thời Giô-si-gia kéo dài cho tới tận cuộc đời đầu năm 587. Thời của Giô-si- gia, Giêrêmia khá may mắn và sứ vụ của ông ít gặp khó khăn. Nhưng bước sang thời của Giô-gia-kim, Giêrêmia đã phải đối diện với những khó khăn chồng chất. Giêrêmia nhận thấy cuộc cải cách bắt đầu dưới thời Giô- si-gia bị đe doạ, phong trào đổi mới bị chặn lại, ông đã không ngần ngại đối lập với Giô-gia-kim[3] . Trước hết, ông lên án những hành vi tội lỗi của vua này (x. Gr 22,13- 19). Ông còn sai Ba-rúc thay ông công bô những lời sấm trong đền thờ với một hy mọng mong manh là dân sẽ cải đổi đời sông. Sự kiện cuôn sách được Ba-rúc công bô trong đền thờ đến tai Giô-gia-kim, sự cải đổi đời sống của Dân ở đâu chưa thấy, mà chỉ thấy vì lý do cuốn sách được công bô đó mà vị ngôn sứ bị Giô-gia-kim truy bắt (x. Gr 36, 26a). Nhưng may thay, ông được Thiên Chúa che chở khỏi sự bắt bớ của Giô-gia-kim (x. Gr 36, 26b).
Bước sang thời Xit-ki-gia, Giêrêmia lại càng gặp nhiều khó khăn hơn. Dầu trong hoàn cảnh như thế, ông đã không ngần ngại nói lên lập trường của mình là: Xit- ki-gia hãy đầu hàng Ba-by-lon để có thể cứu vãn tình hình (x. Gr 38,17-18). Ông khuyên Xit-ki-gia đầu hàng và phản đối cuộc kháng chiến không phải vì ông muốn hùa theo Nabucodonoso, nhưng là vì để giữ phần sót lại của Israel (x. Gr 27,17). Tuy nhiên, chính lập trường cương quyết này đã báo hại ông, ông bị người ta tống giam (x. Gr 37,11-12) và bị bỏ xuống hầm nước cho chết (x. Gr 38,14- 18), nhưng ông lại được cứu thoát khỏi tai họa này.
*Giêrêmia đối diện với đời sống luân lý và tôn giáo của Dân
Nhìn vào đời sống tôn giáo và luân lý của Israel thời đó, Giêrêmia có một thái độ rất cương quyết khi dám vạch trần những lỗi lầm của họ. Trước hết, với hàng tư tế vôn được coi là những người gìn giữ nơi thánh và lề luật, Giêrêmia không ngần ngại đối đầu với họ. Ông đã tố cáo giới tư tế nhà Israel về tội không trung thành với lề luật, bóp méo lời của Thiên Chúa (x. Gr 8,8-9). Ông còn lên án họ, bởi họ đã liên minh với các ngôn sứ giả để mị dân (x. Gr 8,10b-lla), nên tất cả họ sẽ phải gặp tai hoạ, bị gục ngã giữa bao kẻ gục ngã, khi đến thời Thiên Chúa đứng lên xét xử (x. Gr 8,12).
Với các ngôn sứ, Giêrêmia cũng không ngại lên án những tội lỗi của họ. Ông kết án những ngôn sứ ở Samari đã làm nhừng chuyện điên rồ, họ tuyên sấm nhân danh Ba-an (x. Gr 23,13). Còn những ngôn sứ ở Giêrusalem thì sống gian dối (x. Gr 23,14). Tội lớn nhất của các ngôn sứ giả này là đã nhân danh Thiên Chúa mà công bố những lời giả trá, những lời sấm láo, làm cho dân bỏ quên danh Thiên Chúa Tối Cao mà bước theo con đường lầm lạc (x. Gr 23,25-27).
Giêrêmia còn tấn công cả đền thờ vốn được coi là nơi bất khả phạm đến, được coi như nơi bảo đảm sự an toàn cho dân (x. Gr 7,10). Với Giêrêmia, thực ra bất trung với lề luật, với giao ước, thì đền thờ trở nên vô nghĩa [4] . Khi ấy, đền thờ chỉ còn giống như hang ổ của bọn trộm cướp chứ không còn phải là nơi thánh nữa (x. Gr 7,11). Vì thế, số phận của Silô xưa kia thế nào, thì nơi thánh cũng sẽ ra như thế. Thiên Chúa sẽ không còn đưa mắt nhìn đến nơi thánh của Ngài nữa vì những tội lỗi của Dân và Ngài sẽ xử với nơi thánh như Ngài đã xử với Silô (x. Gr 7,12-14). Những lời tuyên sấm đụng chạm tới nơi thánh như thê đã khiến Giêrêmia phải lãnh nhận hậu quả, ông bị tư tê Pat- khua bắt giữ và bị đánh đòn (x. Gr 20,1-2).
Với dân, Giêrêmia tố cáo tội bất trung của họ đã phản bội lại giao ước, lìa bỏ Thiên Chúa mà chạy theo các thần ngoại (x. Gr 7,18). Ông tố cáo họ, vì họ đã dám khẳng định với ông rằng; chính Thiên Nữ Hoàng (danh của vị thần ngoại) chứ không phải là Thiên Chúa, mới là Đấng ban cho họ lương thực và cuộc sống hòa bình (x. Gr 44, 16-18). Ông cho họ biết, Thiên Chúa sẽ giáng phạt tội của họ, Người sẽ dùng hình phạt để cho dân thấy chính Người mới là vị thần duy nhất có quyền trên mọi sự (x. Gr 44, 27-28). Ngay chuyện cắt bì cũng không phải là đặc ân và bảo đảm cho sự an toàn đến từ Thiên Chúa, điều tốt hơn tất cả là phải cắt bì trong lương tâm ( X. Gr 4,4), cho tai biết nghe cái tốt của thánh ý Chúa (x. Gr 6,10).
Như thế, ta thấy Giêrêmia đã từng bước thực hiện sứ vụ của ông, sứ vụ “lật đổ” và “bứng rễ” những bất trung và những sai quấy của dân. Đọc sách Giêrêmia, người ta có cảm tưởng ông là con người hiếu chiến và thường tỏ thái độ bất mãn với hầu hết mọi vấn đề trong thời đại của ông: ông lên tiếng đả phá bộ máy chính quyền, đã phá lối thực hành tôn giáo và đời sống luân lý của dân, một mình đối lập với hàng tư tế và các ngôn sứ thời đó…phải chăng Giêrêmia cảm thây thỏa mãn với những lời lẽ chỉ trích nặng nề mà ông dành cho dân tộc của ông? Thực ra không phải thế, ngay từ đầu chúng ta đã đề cập tới chân dung của ông vốn là một con người hiền lành và ưa hoà bình, ông chẳng sướng gì khi phải công bố những lời sấm có nội dung lên án dân tộc ông (X. Gr 20,8a) nhưng chỉ vì sứ vụ mà ông đã phải chấp nhận đối đầu với tất cả, thậm chí ông phải đối diện với chính cả bản thân ông.
Vâng, ngôn sứ là người được Thiên Chúa sai đến để nói với Dân những điều Người muốn cho họ biết để thi hành. Người được sai ấy có thể không đủ tư cách tự nhiên để làm việc Chúa sai làm, nhử trường hợp Giêrêmia, ông còn quá trẻ và không biết ăn nói. Nhưng với quyền năng của Chúa, Người đã sai ai thì Người có thể cho người ấy có đủ tư cách cần thiết để thi hành sứ mạng. Thiên Chúa biết mọi sự chúng ta phải đối diện, dù hoàn cảnh của chúng ta như thế nào, dù chúng ta thiếu thốn làm sao! Thiên Chúa hiểu và sẽ cùng trải qua với chúng ta điều đó. Người biết nỗi tổn thương của chúng ta, sự khước từ và những áp lực. Nhưng trong Người, chúng ta sẽ có một lốì thoát đầy hy vọng như thánh Phaolò đã xác quyết: “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Giêsu Kitô, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2, 10).
[1]Lm. Nguyễn Ngọc Rao, sách các ngôn sứ, năm 2006, tr.194
[3]X.A. Hari, E. Lafont, A. Rebré, c. Wiéner, M. Wirth, sđd, tr. 181- 182.
[4]X.A. Hari, E. Lafont, A. Rebré, c. Wiéner, M. Wirth, sđd, tr. 184.
HIỆN TƯỢNG
TƯƠNG ĐỐI HÓA TRONG ĐỜI TU
FM.Huy Mỹ
Trong cuốn Thông Điệp Đức Tin Và Lý Trí, linh mục Nguyễn Hồng Giáo cho biết: “Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI, khi còn là hồng y đứng đầu Bộ Giáo Lý Đức Tin đã khẳng định rằng: ‘Vấn đề lớn nhất của thời đại chúng ta là chủ nghĩa tương đôi. Nguyên nhân của chủ nghĩa này là không có chân lý tuyệt đối và phổ quát cho hết mọi người, và nếu có đi nữa thì con người cũng không thể đạt tới được (Thuyết Bất Khả Tri, Agnosticisme)[1] . Quả thực, khi nhìn vào thực tế cuộc sông của con người thời đại hôm nay ở Việt Nam, hình như người ta đã cố tình quên đi và lẩn tránh để khỏi phải lưu tâm thế nào là chân lý tuyệt đối và khách quan, ngựời ta chỉ còn đề cập đến một thứ chân lý “vừa tầm” với mình, nghĩa là hoàn toàn tương đối và con người là thước đo mọi sự, nhất là những năm gần đây, hiện tượng tương đôi hóa được xem là phổ biến trong mọi lãnh vực, kể cả chiều kích linh thiêng. Khi mà tình trạng tương đối hóa như một lối nhìn quen thuộc và thịnh hành trong thời đại, thì chắc chắn trong các dòng tu cũng không thể tránh khỏi những loại vi rút này xâm nhập. Đó là lý do tại sao,trong các cộng đoàn tu trì ngày nay có hiện tượng tương đối hóa. Phải chăng bị ảnh hưởng của trào lưu thời đại và đời sống tâm linh bị héo tàn?
I. MÔI TRƯỜNG THỜI ĐẠI
Ngày nay nhân loại đang sống trong kỷ nguyên phát triển đỉnh cao về khoa học kỹ thuật và một nền kinh tế toàn cầu hóa thịnh hành. Việt Nam sau những năm dài theo đuổi, nay đã sát nhập vào thương mại quốc tế (WTO). Đó là một lợi nhuận không nhỏ cho nền kinh tế Việt Nam và sự văn minh hoá con người. Đất nước chúng ta khi mở cửa giao lưu và hội nhập với thế giới, đã trở thành một thị trường của nền kinh tế toàn cầu, hàng hóa bắt đầu tràn vào Việt Nam từ các nước phát triển, đồng thời, các nền văn minh, văn hóa Âu — Mỹ và các nước tiên tiến trong khu vực cũng nhanh chóng đi vào đời sống của người Việt. Với tốc độ hội nhập và giao lưu này, đã làm cho nền văn minh và văn hóa truyền thông bị héo tàn và chuyển đổi: chuyển đổi từ văn minh nông nghiệp, làng xã sang nền văn minh đô thị hóa, công nghiệp hóa và ngoại hóa.
Việt Nam có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”; “ở ống thì dài, ở bầu thì tròn”. Đó là lý do tại sao, đất nước chúng ta có sự biến chuyển những giá trị đạo đức[2] , và tình trạng xuống cấp của nó [3] . Trước hết trong phạm vi gia đình. Sự linh thiêng và bền vững của hôn nhân gia đình cũng trở nên tương đôi và dễ dàng đổ vỡ. Con cái mất phương hướng sống, buông thả cuộc đời, chạy theo khói trắng và bạo lực…
Trong phạm vi văn hóa, việc du nhập tràn lan phim ảnh, thời trang, đồ dùng, nhất là sùng bái phong cách ngoại dẫn đến tình trạng hàng loạt các vi phạm thuần phong mỹ tục và những giá trị tinh thần căn bản của dân tộc bị đánh mất, ngay cả lãnh vực giáo dục và lương y cũng đang bị suy thoái đạo đức nghiêm trọng [4] .
Lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II như ngọn đuốc chiếu vào thực trạng hôm nay của nhân loại khi lên tiếng rằng: “Ngày nay chúng ta đang trải qua một cơn khủng khoảng văn hóa trong mức độ chưa từng có. Dĩ nhiên nền văn hóa hôm nay chứa đựng nhiều giá trị rất tích cực mà phần lớn là do sự Phúc Âm hóa mang lại. Nhưng đong thời nó cũng đã gạt bỏ những giá trị tôn giáo nền tảng và thu nhập những quan điểm trái ngược với niềm xác tín Kitô Giáo. Sự thiếu vắng những giá trị cơ bản Kitô giáo đó trong nền văn hóa tân tiến không những đã làm lu mờ chiều kích siêu việt mà còn đưa đẩy nhiều người rơi vào trạng thái thờ ơ với đời sống đạo Ngày nay ngoài sự tự do tinh thần do học thuyết Duy Lý mang lại, người ta muốn xây dựng trước hết các giá tri trên những thỏa thiệp chủ quan, là những thỏa thiệp thường dẫn tới những quan điểm trái ngược, cả trong phạm vi luân lý tự nhiên” [5] .
Khi mà não trạng tôn sùng văn hóa ngoại và vật chât hóa lên ngôi, hưởng thụ là thước đo phẩm giá con người, thì tiền bạc là cứu cánh mọi vấn đề, như người ta thường nói:
“Trong tay đã sẵn đồng tiền
Dù lòng đôi trắng thay đen khó gì”,
hay là:
“Tiền là tiên là phật
là sức bật của tuổi trẻ,
là sức khỏe của tuổi già,
là cái đà danh vọng,
là cán cân cộng lý ”.,.
Từ môi trường thời đại đó, vô tình đã uốn con người thành những cây bonsai với những tàn cong là tương đối hóa, hưởng thụ và tôn sùng vật chất. Cây bonsai theo năm tháng lớn lên mà không còn biết đến hình dáng nguyên thủy của mình là gì? Và cũng chẳng cần đặt vấn đề những hình dáng uốn cong mà người ta tạo cho mình có ý nghĩa như thế nào? Khi những cây bonsai đó đi vào trong các cộng đoàn tu trì và mang theo những hình dáng cong queo, khúc khuỷu mà trước đây môi trường xã hội đã tạo cho nó. Trong môi trường tu trì, của cây bonsai cần được trả lại hình dáng nguyên thủy là ngay thẳng: “nhân chỉ sơ tính bổn thiện”, để vươn cao đón nhận “ánh sáng mặt trời”. Nhưng làm sao có thể thẳng được khi tự nó không dám để cho người ta tháo gỡ những chỗ cong và cắt tỉa đi những chỗ cằn cỗi đã trở thành tập quán ăn vào xương máu của đương sự. Một điều không thể phủ nhận rằng, dầu là cây nào đi nữa và dầu ở trong môi trường tu trì, thì nó vẫn bị khiêu khích bởi văn hóa sự chết và chủ nghĩa vật chất cũng như tinh thần tự do thời đại và não trạng tương đối hóa. Nếu cây bonsai đã nỗ lực để trở thành cây ngay thẳng và đã vươn cao để kịp hấp thụ ánh nắng mặt trời là tình yêu Thiên Chúa, thì sẽ vượt qua và đứng vững trước những khiêu khích của trần thế. Còn những cây bonsai nào mãi mãi vẫn là những cây bonsai thì lời khấn cũng chỉ là lời khấn, tâm linh cũng chỉ là tâm linh, mọi sự cũng chỉ là tương đối như quan niệm của thời đại “tương đối hóa mọi sự”.
II. ĐỜI SỐNG TÂM LINH BỊ HÉO TÀN
Có thể nói, tâm linh là chân trời của những ứng xử trong cuộc sống đời thường. Tâm linh là chiều kích siêu việt làm nên chân trời hy vọng của cuộc sông, và con người khám phá ra những gì là bí ẩn của kiếp người để không ngừng vươn lên tìm kiêm những gì là huyền nhiệm và cao siêu đối với vận mệnh song con cua con người; đồng thời biết biện phân đâu là mục đích chính mà con người phải hướng tới, đâu là phương tiện nhằm phục vụ con người.
Khi đời sống tâm linh của con người bị héo tàn, thì mọi sự đều trở nên phẳng lặng và nguy cơ đưa con người đến tình trạng mất chí hướng, không còn động lực để diễn tả khuôn mặt sống động của “nhân linh ư vạn vật”. Nếu cuộc đời con người thiếu hẳn chiều kích tâm linh, thì mọi ứng xử chỉ là bài toán đi tìm đáp số cho lợi ích của riêng mình, một lợi ích của sự thống trị và thỏa mãn những nhu cầu vật chất trần thế, đồng thời mọi con đường đều bị ngăn chặn không thể tiến tới khung trời nhân văn và huyền nhiệm, ngay cả trong tương quan giữa con người vổi nhau cũng chỉ là “tay đôi”, “bạn ra bạn, thù ra thù”. Đặc biệt, khi con người không có đời sống tâm linh, thì đức tin trong người ấy sẽ bị cằn cỗi và héo tàn dẫn đến tình trạng vô thần, không còn biết đâu là cứu cánh của con người, và cuối cùng con người sẽ đi về đâu? Phải chăng nấm mồ là điểm dừng cuối cùng của mọi khát vọng và cắt đứt bao dự phóng của con người? Nếu vậy, thì quả thực đời người thật là bi đát biết chừng nào. Do đó bắt buộc người ta phải quay sang những gì là tạm thời, những gì là vật chất và hưởng thụ. Nhưng thử hỏi, những thứ đó có bao giờ là trường cửu, bất biến và đáp ứng mọi khát vọng cho con người hay không?
Trong đời sống tu trì, giả sử đời sống tâm linh bị khô héo và tàn lụi, thì cuộc đời con người chẳng có gì là bền vững và ý nghĩa cho mọi nỗ lực tìm kiếm, vì Thiên Chúa đâu phải là lý tưởng duy nhất và cùng đích cho mọi khát vọng và động lực để vươn lên; Thiên Chúa cũng chẳng phải là giá trị vĩnh cửu và tuyệt đốì để phó thác. Thử hỏi, người tu sĩ sống như vậy, thì chắc chắn sứ mạng ngôn sứ của đời tu sẽ bị tổn thương và tương đối hóa mọi vấn đề, nhât là làm sao thấy được giá trị và cần sự trung tín, thủy chung với lời khấn hứa khi mà khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục luôn khiêu khích và lôi kéo người tu sĩ “vượt rào”.
Như vậy, tu sĩ chỉ đứng vững, khi có sức sống của nội tâm[6] , vì qua nội tâm mới đem tới niềm hy vọng [7] , và mới có khả năng nhận lấy men nồng từ nơi tinh thần của vị sáng lập dòng, để trình bày một cuộc sống họa lại hình ảnh Đức Kitô khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục. Vì ơn Chúa thì bao la và cao quí có sức biến đổi con người, nhưng lại chứa đựng trong những bình sành dễ vỡ (x. 2Cr 4,7). Những bình sành dễ vỡ đó, nếu được bao bọc bởi những phương tiện tuyệt hảo, là ơn Chúa qua cầu nguyện, ăn chay, hãm mình, nhất là kết hợp với mầu nhiệm Thánh Thể thì sẽ trở thành vững chắc không có gì phá vỡ (x. Rm 8,35), đồng thời là người của hy vọng để nói cho con người thời đại hôm nay biết: “Hiện nay tôi còn sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến và thí mạng vì tôi”(Gl 2,20b). “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với môi lợi tuyệt vời, là được biêt Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi”(Pl 3,8).
III. KHÁT VỌNG CHÂN LÝ
Từ cõi thâm sâu của lòng người luôn khát vọng tìm kiếm chân lý [8] , và cuộc đời con người là những chuỗi ngày khắc khoải những gì liên quan tới ý nghĩa của đời mình: Tôi là ai? Tôi từ đâu tới và dang đi về đâu? Tại sao có đau khổ? Làm sao để có hạnh phúc thật và đâu là ý nghĩa cuối cùng của kiếp người? Vì thế, cuộc sống thật là vô nghĩa, nếu không giúp con người tìm gặp nguồn chân lý được mặc khải nơi Đức Kitô ‘Ta là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6)[9] .
Trong Huấn Thị Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô, Thánh Bộ Đời sống Thánh Hiến Và Hiệp Hội Tông Đồ đã xác định nơi đời sông thánh hiến, là họ không nhằm tìm kiếm sự tôn vinh và tán dương của con người, nhưng họ được đền đáp bằng niềm vui và hạnh phúc khi xả thân không sợ mệt mỏi vì Nước Thiên Chúa. Họ như hạt giống của sự sống đang âm thầm lớn lên, và phần thưởng họ đợi chờ không gì khác ngoài phần thưởng Thiên Chúa hứa ban trong ngày sau hết [10] . Trong khi chờ đợi phần thưởng Thiên Chúa hứa ban, người thánh hiến không ngừng tìm kiếm chân lý mà nó đang ẩn giấu trong cuộc sống hằng ngày. Cuộc sống đó chất chứa bao biến cố vui buồn, khổ đau, bệnh tật và thử thách… Khi họ khám phá ra chân lý nơi thực tại cuộc sống đó, họ sẽ gặp ngay Đức Giêsu: ‘Ta là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6)[11] . Thử hỏi, ai trong cuộc đời không một lần đau thương, ai không một lần bị thử thách. Nhưng chân lý chỉ tìm thấy cho những ai dám hòa trộn mọi biến cố đau thương ấy với những biến cố khổ đau của Đức Kitô [12] , mặc dầu những biến cố đau thương có lúc đi vào tuyệt vọng như tiếng kêu của Đức Kitô trên thập giá: “Sao Ngài bỏ rơi Con” (Mc 15,34), nhưng Ngài đã tìm thấy chân lý bằng một lòng phó thác: “Con phó linh hồn trong tay Cha”(Lc 23,46). Nếu trong cuộc sống, bi đát chỉ là nỗi thất vọng không lối thoát, thì đau khổ của người này sẽ là dịp để trút lên người kia và cứ thê theo năm tháng sẽ chất chồng cao hơn núi và sâu hơn đại dương. Khi mà tu sĩ lúc nào cũng mang “cặp kính đen” của cuộc đời, thì làm sao thấy đời dâng hiến là ánh sáng, là niềm vui, là lý tưỏng để dám đánh đổi cả cuộc đời mà bước theo, trong khi biết bao chân lý tạm thời trong cuộc sống đầy hấp dẫn có sức quyến rũ người tu sĩ chạy theo, đang làm lu mờ chân lý cuộc sống và trệch hướng mục đích của căn tính tu trì.
Có thế nói, trong cuộc sống có nhiều con đường để đi, nhưng chỉ có một con đường duy nhất đưa người ta đến hạnh phúc đích thực, đó là con đường của Đức Kitô và chỉ có Ngài mới là con đường dẫn đến chân lý. Con đường ấy vừa nhỏ hẹp lại vừa khó đi vì người ta sợ hy sinh, sợ mất mát, sợ thiệt thòi, nhưng con đường đó lại thích hợp cho những tâm hồn can đảm, dám từ bỏ tất cả để đổi lây chân lý vì họ đã chuẩn bị hành trang: ‘‘lấy chân lý làm dây thắt lưng, lấy sự công chính làm áo giáp che thân, giày đi là lòng nhiệt thành, thuẫn trong tay là đức tin của mình đê dập tắt mọi tên lửa của ác thần, mũ chiến đội đầu là ơn cứu độ, gươm giáo sắc bén là lời Chúa đế bảo vệ bản thân, luôn tỉnh thức cầu nguyện là thái độ của người chiên sĩ Chúa Kitô ”[13] . Khi tu sĩ đi trên đường Đức Kitô đã đi với hành trang đó, sẽ tìm gặp chân lý từ những gì mộc mạc, giản dị, bình thường, đơn điệu của cuộc sống đời thường, đồng thời nhận ra Đấng Tuyệt Đối trong chiều sâu thẳm của tâm hồn mình[14] , để phân biệt đâu là tuyệt đôi, đâu là tương đối, sẽ không còn tính cào bằng TƯƠNG ĐỐI HÓA mọi sự.
KẾT LUẬN
Trong một thời đại mà của cải vật chất và hưởng thụ là mục tiêu hấp dẫn thu hút con người, cùng với một lôi nhìn tương đôi hóa đang thịnh hành và một nền văn hóa sự chết luôn tấn công không trừ một ai. Đó cũng là một thách đô không nhỏ đang khiêu khích các tu sĩ trong các cộng đoàn tu trì hôm nay. Do đó, đời tu chỉ thực sự đứng vững và trưởng thành, khi người thánh hiến có niềm hy vọng vào lời hứa của Tin Mừng, dám thực thi trách nhiệm ngôn sứ của mình qua việc bước theo và trở nên giống Đức Kitô trinh khiết, khó nghèo, vâng phục, để nói cho nhân loại biết có một cuộc sông vĩnh cửu đang chờ đợi ở phía trước [15] . Khi người thánh hiến tràn trề trong hy vọng, mới có khả năng chiêm ngưỡng khuôn mặt vinh quang của Đức Kitô chịu đóng đinh và làm chứng cho tình yêu của Người trong thế giới hôm nay, đồng thời thể hiện sức mạnh của lời mời gọi của Đức Kitô “Duc in altum” (chèo ra chỗ sâu mà thả lưới), như một trách nhiệm đối với chính mình là trở nên thánh thiện; trách nhiệm đối với cộng đoàn là xây dựng tình yêu huynh đệ, chia sẻ gánh nặng cho nhau; trách nhiệm đối với cả nhân loại là làm cho họ nhận biết Tin Mừng.
Người tu sĩ qua mọi thời đại luôn được mời gọi chấp nhận tiêu hao đời mình như nến cháy đem ánh sáng cho đời, châp nhận mục nát để trổ sinh nhiều bông hạt trong khi chờ đợi mùa lúa chín vàng sẽ tới, nên phía sau những thách đố ấy, lại ẩn giấu một tiếng gọi đích thực của Chúa Thánh Thần mời gọi và khám phá sự phong phú và tiềm năng của lối sống này [16] . Khi sống đức tin trong môi trường tục hóa và tương đối hóa, người tu sĩ không bao giờ đơn độc, vì sự mỏng dòn của chính bản thân tu sĩ sẽ được gìn giữ bởi ân sủng của Thiên Chúa, miễn là người tu sĩ biết chọn Chúa là cùng đích và là cứu cánh duy nhất của đời mình. Khi sống như vậy, tu sĩ sẽ có khả năng định hướng được đời mình và trưởng thành nhân cách trong bước đường dâng hiến theo lý tưởng đã chọn.
[1] ĐGH Gioan – Phaolô II, Thông Điệp Đức Tin Và Chân Lý, Lời Dẫn, tr. 10-11
[8] ĐGH Gioan – Phaolô II, Thông Điệp Đức Tin Và Chân Lý,số 3, tr.25.28.33
[9] x.ĐGH Benedicto XVI, Thông điệp Caritas in Veritate, số 1-3
[10] x. Huấn Thị Xuất Phát lại từ Đức kitô, số 13
[11]x. ĐGH Benedicto XVI, Spe Salvi, 39
[12]x. Huấn Thị Xuất Phát lại từ Đức Kitô, số 23
[13] x. Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Nhớ Nguồn, tr 67 – 68 II X. Ep 6, 13 -16
[15] x. Thánh Bộ Đời sống Thánh Hiến và Hiệp Hội Tông Đồ, Huấn Thị Xuất phát lại từ Đức Kitô, số 8
[16] Đức Gioan Phaolô II, Huấn thị xuất phái lụi từ Đức Kitô 12
SỐNG TRỌN LỜI “FIAT” (XIN VÂNG)
FM. Duy Ân
Sống trọn Lời FIAT-XIN VÂNG là điều quan trọng nhất trong cả cuộc đời.
Đức Mẹ Maria là mẫu gương, đã sống trọn vẹn lời HAT- XIN VÂNG (x. Lc 1,38). Vì thế, chúng ta nguyện cầu Mẹ: “Xin Mẹ dạy con hai tiếng XIN VÂNG, hôm qua, hôm nay và suốt đời…” Nội dung bài thánh ca được triển khai, tập chú vào tình trạng “đường đi trăm ngàn gian khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó…”. Bởi vậy, tìm đến xin Mẹ dạy sống XIN VÂNG, nhất là để được Mẹ phù hộ chở che, là điều thích hợp và cần thiết. Tuy nhiên, chúng ta nên tìm hiểu thếm ý nghĩa lời FIAT- XIN VÂNG trong toàn bộ Nhiệm Cục Cứu Độ của Thiến Chúa. Với tầm nhìn mở rộng, chúng ta có thể nhận thức và thực hiện đầy đủ hơn điều Mẹ dạy sống lời FIAT- XIN VÂNG. Quả thật, đọc Lời Chúa trong bản văn phổ thông (Vulgata) Kinh Thánh bằng La Ngữ, chúng ta ghi nhận một số LỜI FIAT có thể được coi là các mốc điểm quan trọng của Nhiệm cục Cứu độ, trong đó LỜI FIAT của Thiên Chúa và LỜI FIAT của con người đan quyện vào nhau. Trước hêt, phải kể LỜI FIAT, khởi đầu Sách Sáng Thế, là lời Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật (x. St 1,1.3). Bước sang Giao Ước mới, Chuá Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể, đã nói lên LỜI FIAT, chấp nhận hoàn thành chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, qua cuộc Khổ nạn và Phục sinh (x. Mt 26,39; Mc 14,36; Lc 22,42). Nhưng, trước đó, Thiên Chúa đã muốn có LỜI FIAT của Đức Trinh Nữ Maria, mở đường cho “Ngôi Hai xuống thế làm người” (x. Lc 1,38; Ga 1,14), bởi quyền năng Chúạ Thánh Thần. Ngôi Lời Nhập Thể mang thánh danh Giêsu, “vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội” (Mt 1, 21), trao ban cho con người ân phúc nghĩa tử. Vì thế, Chúa Giêsu, Đâng Cứu Thế đã đặt vào lòng và trên môi miệng chúng ta LỜI FIAT trong kinh LẠY CHA. Đây là lời Kinh dẫn đưa chúng ta vào ơn hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng thời kèm theo ơn hiệp nhất trong Nhiệm Thể cửa Đức Kitô là Hội Thánh. Quả thật, đó là những chiều kích liên quan, mở rộng nhận thức để sống nội dung phong phú tiềm ẩn trong LỜI FIAT, theo “Thiên ý nhiệm mầu, kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa ” (x. Ep 1,9).
I.LỜI FIAT TÁC TẠO
Với lời FIAT, Thiên Chúa đã mở đầu công trình tác tạo: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất…Thiên Chúa phán”: FIAT lux, et facta est lux. Phải có ánh sáng, liền có ánh sáng… (St 1,1.3); và như thế, Thiên Chúa đã tác tạo muôn loài, Ngài thấy tất cả là tốt đẹp (x. St 1,10-31). Riêng về con người, đối tượng của lòng Chúa ưu ái, Kinh Thánh kể; “Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta… ”(St 1,26). Và quả thật, “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27 ).
Bởi vậy, “Con người được kêu gọi hiệp thông với Thiên Chúa, là ý nghĩa cao cả nhất của phẩm giá con người”[1] . Vì thế, vinh dự và bổn phận của con người là được vui mừng dâng lên Thiên Chúa lời ca ngợi tri ân: “Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng” (Tv 139,14). Suốt cuộc đời tôi sẽ ca mừng Chúa, sống ngày nào xin đàn hát kính Thiên Chúa của tôi. Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đôi với tôi, niềm vui là chính Chúa ” (Tv 103,33-34). Thánh Âu Tinh coi đó là hạnh phúc Thiên Chúa dành cho con người: “Lạy Chúa, Chúa cao cả và đáng muôn lời ca ngợi: quyền năng Chúa lớn lao và trí tuệ khôn lường… Dù sao, con người, phần nhỏ bé của muôn loài Chúa đã tạo nên muốn ca ngợi Chúa. Chính Chúa thúc giục con người làm như vậy, khi cho họ tìm được sướng vui trong lời ngợi khen Chúa, vì Chúa đã tạo đựng chúng con cho Chúa, và lòng chúng con vẫn khắc khoải bao lâu chưa được nghỉ ngơi trong Chúa”(Tự thuật 1,1,1). Nhận thức về sự lệ thuộc triệt để vào Thiên Chúa từ trong hiện hữu sẽ khơi dậy tâm tình tri ân và khiêm nhượng thẳm sâu: Thánh nữ tiến sĩ Catarina thành Siena ghi lại các Đối thoại với Thiên Chúa, đã dùng thuật ngữ: “Đấng Hằng Hữu nói với Hư không”.Con người được hiện hữu là đo quyền năng và tình thương của Thiên Chúa: “Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17, 28). Như thế, lời FIAT TÁC TẠO của Thiên Chúa không ngừng tác động, luôn tiếp tục vang vọng trong tâm thức con người để nhắc nhớ về hồng ân được hiện hữu và sinh tồn trong Chúa; từ đó dẫn đến kính mến, tôn thờ và cảm tạ Thiên Chúa “vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! Amen” (Rm 11, 36).
II.LỜI FIAT TÁI TẠO
Từ hư không, Tình yêu SÁNG TẠO của Thiên Chúa đã dẫn đưa con người vào hiện hữu, nhưng còn lạ lùng hơn nữa, sau khi bị hư vong vì tội lỗi, con người được Thiên Chúa TÁI TẠO bằng tình yêu cứu chuộc. Quả thật, cũng với LỜI FIAT, Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, chấp nhận tự hiến để cứu độ con người, theo ý định yêu thương của Chúa Cha: “Tinh yêu cốt ở điều nầy: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10). Quả thật, Chúa Giêsu thể hiện tình thương, chấp nhận hiến mạng chịu khổ hình thập giá để cứu độ chúng ta (x. Ga 15,13). Trong thực tế, cuộc Thương khó của Chúa Giêsu đã bắt đầu tại Vườn Cây Dầu. cả ba Tin Mừng Nhất lãm đều ghi lại giờ hấp hối của Chúa tại Getsemani: “Chúa Giêsu bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các môn đệ:Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14, 33). Tin Mừng Luca còn thếm chi tiết: “Lòng xao xuyến bổi hồi, nên người càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người, như những giọt máu rơi xuống đất”(Lc 22, 44). Còn Thánh Matthêu đã ghi lại LỜI FIAT chất chứa yêu thương phó thác của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, nếu con phải uống chén nầy mà không sao tránh khỏi, thì XIN VÂNG Ý CHA, FIAT VOLUNTAS TUA ” (Mt 26, 42).
ĐGH Bênêđictô XVI suy niệm về sự kiện nầy, đã có nhận xét đầy ý nghĩa: “Chúa Giêsu hé mở cho chúng ta thấy linh hồn nhân tính của Người và sự kết hợp nhân tính với ý muốn của Thiên Chúa. Tác giả thư Do thái nhìn cuộc phấn đấu nội tâm ở Vườn Cây Dầu như chìa khoá của mầu nhiệm Đức Gíêsu (5,7); rồi từ cái nhìn vào linh hồn của Người, đã giải thích mầu nhiệm này bằng Thánh Vịnh 40: “Chúa không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-6; Tv 40,7-9). Cả cuộc hiện sinh của Đức Giêsu gói trọn trong lời này: “Vâng, con đến để thực thi ý Ngài”[2] . Một Ngôi Vị Thiên Chúa đã chấp nhận chịu khổ nạn vì yêu thương cứu độ con người: “Đau khổ của Thiên Chúa được cụ thể hoá nơi nhân tính của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ”[2] . Trong tình hiệp thông vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô (x.1Pr 4,13; Cl 1,24), Giáo Hội Nhiệm Thể cũng như từng Chi thể đang trải qua cuộc lữ hành trân thế, được mời gọi thông dự vào LỜI FIAT cứu độ, dâng mọi đau khổ thử thách của bản thân và của cả nhân loại cho Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã gánh lấy để xoá tội trần gian (x. Ga 1,29 ) cùng ôm lấy các thử thách và khổ đau của con người (x. 1 Pr 2,24). Như vậy, “Đau khổ của con người trở thành cái máng qua đó năng lực cứu độ của Thập giá Chúa Kitô đươc chuyển cho nhân loại”[3] . Như vậy, được thực hiện điều Thánh Phaolô đã chứng nghiệm: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, đê sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2Cr 4,10). Nhờ đó ơn TÁI TẠO được thực hiện như một hiện hữu mới trong Đức Kitô. Quả thật, “chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được HIỆN HỮU TRONG ĐỨC KITÔ GIÊSU, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em” (1Cr 1,30). Dĩ nhiên, ơn cứu chuộc cũng như thánh hoá được thực hiện qua THẬP GIÁ VÀ PHỤC SINH của Chúa Giêsu: đó là cốt lỗi của đức tin kitô giáo. Tình yêu cứu độ của Đức Giêsu Kitô, một khi được trải nghiệm cách sâu xa, sẽ trở thành thúc bách đòi hỏi thể hiện trong cuộc sống, như Thánh Phaolô đã chia sẻ: “‘Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã thay cho mọi người, thì mọi người đều chết. Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2Cr 5,14-15). Vậy, LỜI FIAT cứu độ của Chúa Giêsu Kitô không dừng tại ở ngày thứ sáu Tuần Thánh nhưng nhất thiết dẫn đến Chúa nhật Phục sinh. Qua hiến tế Vượt Qua của thập giá, sự sống thần linh được trao ban mới là mục tiêu của công trình cứu độ, như Chúa Giêsu đã quả quyết: “Tôi là Mục Tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào ” (Ga 10,11.10). Đó cũng là ý định của Chúa Cha, vì: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời ” (Ga 3,16). Nhờ đức tin, được kết hợp với Chúa Giêsu Kitô qua LỜI FIAT cứu độ, chúng ta có khả năng cùng với Người “hằng làm điều đẹp ý Chúa Çha ” (Ga 8,29), “để hoàn tất công trình của Chúa Cha ” (Ga 4,34). LỜI FIAT của Chúa Giêsu Kitô được thể hiện trọn vẹn theo kế hoạch của Thiên Chúa, vì “mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là “có” nơi Đức Kitô Giêsu. Vì thế cũng nhờ Người mà chúng tôi hô lên “Amen” để tôn vinh Thiên Chúa” (2 Cr 1,20).
III-LỜI FIAT TRONG MẦU NHIỆM NHẬP THỂ
Khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai sứ thần Gabriel đến với Trinh Nữ Maria tại làng Nazaret (x. Lc 1, 26-27). Đáp lại sứ điệp từ trời, Trinh Nữ Maria đã thưa lời FIAT: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói ” (FIAT mihi secundum verbum tuum) (Lc 1, 38). Thánh Bênađô suy niệm về lời FIAT nầy, đã nói lên tầm mức quan trọng liên quan đến số phận của cả nhân loại đang hồi hộp đợi chờ sự chấp thuận của Trinh Nữ. Lời FIAT đã được Trinh Nữ nói lên, sau khi sứ thần truyền tin và đã giải thích đầy đủ: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Trinh Nữ và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Trinh Nữ, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa…. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”(Lc 1,35.37). Như vậy, Trinh Nữ Maria với lời FIAT đã tiếp nhận sứ vụ tham dự vào công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, và đã trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Vậy, được liên kết với lời FIAT Cứu chuộc của Chúa Giêsu, lời FIAT của Đức Maria trở thành lời FIAT Đồng công Cứu chuộc. Lời FIAT của Mẹ Maria cũng mời gọi chúng ta cùng với Mẹ hướng về lời FIAT cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, là Cứu Chúa duy nhất của nhân loại dưới gầm trời nầy (Cv 4,12). Đức Maria không chỉ sinh hạ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, để trao ban cho chúng ta. Mẹ còn mời gọi chúng ta biết cộng tác với Ngài, với lôi căn dặn vô cùng quý giá: Hãy làm theo lời Đức Giêsu chỉ bảo (X. Ga 2, 5). về phần Chúa Giêsu, trườc khi tắt thở trên thập giá, cũng đã chính thức trao ban Mẹ cho chúng ta và phó thác chúng ta cho tình hiền mẫu của Mẹ (X. Ga 19, 26-27). Tất cả các sự kiện ấy được coi là nền tảng cho lộ trình thiêng liêng của chúng ta: “NHỜ MẸ MARIA ĐẾN VỚI CHUA GIÊSU! Per Mariam Ad Jesum”. Chính vì vậy, chúng ta nhận thức được chiều kích Thánh Mẫu của đời sống tâm linh của chúng ta. Trong tình hiền mẫu và sự phù trợ đắc lực của Mẹ Maria, chúng ta được nhờ Mẹ, với Mẹ hoà nhập vào chương trinh cứu độ của Thiên Chúa. Quả thật, với lời FIAT của Mẹ Maria, Ngôi Lời đã NHẬP THỂ; và với lời FIAT của mỗi chúng ta, chúng ta được phúc trở thành Chi Thể của NHIỆM THỂ Đức Kitô là Hội Thánh.
IV.LỜI FIAT TẠO THÀNH NHIỆM THỂ
Giáo Hội liên kết với Chúa Kitô được Kinh Thánh diễn đạt bằng một biểu tượng đặc biệt: “Thiên Chúa đã đặt Đức Kitô làm ĐẦU toàn thể Hội Thánh, mà Hội Thánh là THÂN MÌNH Đức Kitô, là sự viên mãn của Ngài” (Ep 1,22-23). Như vậy, hồng ân Nhập Thể đã dẫn đến ân huệ Nhiệm Thể. Với tư cách là Thượng tế tối cao duy nhất, Chúa Giêsu đã dâng lên Chúa Cha lời KINH HY TẾ (x.Ga 17,1-26 ); trong chức năng là Đầu của Hội Thánh, Ngài đã trao cho Hội Thánh KINH LẠY CHA, trong đó Ngài đưa vào lời FIAT chính Ngài đã nguyện cầu với Chúa Cha (“Fiat Voluntas Tua”, so sánh Mt 6,9- 13 với Mt 26,39). Kinh Lạy Cha quả là “Lời Kinh của Hội Thánh’’ [5] . Vì vậy, Giáo Hội có một cảm thức đặc biệt về Kinh Lạy Cha:” Lời kinh Chúa dạy thực sự là bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng”[6] . Hơn nữa, Kinh Lạy Cha “là tâm điểm của Thánh Kinh: “Cứ đọc hết các kinh nguyện trong Sách Thánh, chúng ta không thể tìm thấy một điều gì không được thâu tóm trong Lời Kinh Chúa dạy” (Thánh Âu Tinh) [7]. Trong Kinh Lạy Cha, lời FIAT của Giáo Hội NHIỆM THỂ liên kết với lời FIAT Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô là ĐẦU, đặc biệt trong cử hành Thánh Thể, với lời tung hô: loan truyền Chúa Kitô chịu chết và tuyên xưng Ngài sống lại. Quả vậy: “Giáo Hội không bao giờ thôi sống lại cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá và sự Phục sinh của Người:đó là nội dung sự sống hằng ngày của Giáo Hội” [8] . Kinh Lạy Cha tất nhiên cũng phải là lời kinh của mỗi chi thể của Nhiệm thể, vì mỗi người nhờ sống LỜI FIAT hoà nhập với nội dung của lời “Kinh Chúa Dạy, Oratio Dominica”, tiếp nhận được hiệu quả của ơn Ngài cứu độ. Để nguyện lời Kinh Lạy Cha cách xứng hợp, nhất thiết phải được thực hiện trong sư kết hợp với Chúa Giêsu Kitô, “Con Một Chí Ái” của Chúa Cha; kê đến là phải đặt mình trong hiệp thông yêu thương với mọi anh chị em, không trừ một ai. Như thế mới tiêp nhận được hiệu quả nhờ sự liên kết giữa LỜI FIAT của Chúa Giêsu với LỜI FIAT của mỗi chi thể, tham gia việc xây dựng Nhiệm Thể. Đây cũng là chiều kích đích thực của lời FIAT CỨU ĐỘ được thực hiện nhờ Chúa Giêsu Kitô, với sự tham dự của Đức Maria và đang được tiếp tục thể hiện nơi Hội Thánh cho đến ngày cánh chung.
V.LỜI FIAT CỦA TỪNG CHI THỂ TRONG NHIỆM THỂ
Kinh Thánh trinh bày con người chúng ta như những chi thể kết thành một thân mình là Nhiệm Thể Đức Kitô:” Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn” (1Cr 12,18). Chính vì thế, để đạt mục tiêu xây dựng thân mình, mỗi chi thể, mỗi người phải đích thực là chính mình trong tính chất độc đáo duy nhất của mình, theo đự phóng của Thiên Chúa. ĐTC Gioan Phaolô II trong thông điệp Đấng Cứu chuộc Con Người, đã đề cập đến “con người thật, con người cụ thể, độc nhất, không tái bản” (unique, unrepeatable)… như là một đơn vị trong bốn tỷ người sống trên hành tinh chúng ta”[9]. Tính chất độc nhất nầy hệ tại ân huệ tự do Thiên Chúa phú bẩm cho mỗi người: “Tự do đích thực là dấu chỉ cao cả nhất của hình ảnh Thiên Chúa trong con người. Bởi vì Thiên Chúa đã muốn con người tự định liệu (X. Hc 15,14), hầu con người tự mình đi tìm Đấng Tạo Dựng và nhờ kết hập với Ngài, con người tiến tới sự hoàn thiện trọn vẹn và hạnh phúc ” [10] .Đây là trách nhiệm đồng thời là vinh dự Thiên Chúa dành cho mỗi người. Ân huệ tự do nguyên thuỷ này, một khi bị tiêu vong vì tội đã phạm được tái lập nhờ ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Đó là “tự do đích thực” (Ga 8,36), “tự do của con cái Thiên Chúa” (Rm 8,21). Quả thật: “Đức Giêsu Kitô đón lấy chúng ta, kéo chúng ta về Người, vào trong Người và trong sự hiệp thông với Người, chúng ta học được ý muốn của Thiên Chúa. Như thế, trong lời cầu xin thứ ba của kinh Lạy Cha (tức lời: Fiat Voluntas Tua), chúng ta khẩn cầu để luôn được gần gủi với Người, để ý muôn của Thiên Chúa lướt thắng được sức lực ích kỷ nặng nề của chúng ta, nâng chúng ta đến nơi mà chúng ta được kêu gọi”[11] . Như vậy, LỜI FIAT CỨU ĐỘ của Chúa Giêsu không chỉ được hiểu là Ngài chấp nhận bị TRAO NỘP để chịu Thương Khó vì chúng ta, nhưng còn có nghĩa là Ngài tự TRAO BAN mình cho chúng ta trong yêu thương để trở thành một TRAO ĐỔI kỳ diệu (admirabile commercium) trong tình mến. Cả hai mục tiêu đều phát xuất từ tình yêu: tình yêu tự hiến của Đức Kitô, dẫn đến tình mến tri ân đền đáp của con người. Với cảm thức đó, thánh Gioan Euđê nói lên lời khuyên bảo rất thiết thực: “Tôi xin anh em hãy coi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là thủ lãnh thật của anh em và anh em là chi thể của Người. Người thuộc về anh em như Đầu thuộc về các chi thể. Mọi sự của Người là của anh em. Tinh thần của Người, trái tim của Người, thân thể của Người, linh hồn và tất cả khả năng của Người. Anh em phải sử dụng những gì của Người như của riêng anh em để phục vụ, ca ngợi, yêu mến và tôn vinh Thiên Chúa. Anh em thuộc về Người như chi thể thuộc về dầu. Cũng vậy, Người ao ước sử dụng tất cả những gì cửa anh em , như thể là của riêng Người để phục vụ và tôn vinh Cha của Người ” (Thánh Tâm Chúa Giêsu 01- 5). Trình bày trên đây cho thấy mỗi người, để sống trọn lời FIAT, trước hết cần tiếp nhận và hoà nhập với lời FIAT của Thiên Chúa, trong kế hoạch yêu thương của Ngài; thứ đên mỗi người có trách nhiệm thể hiện lời FIAT trong cuộc đời mình, theo dự phóng Thiên Chúa dành cho bản thân, như một hữu thể duy nhất độc đáo (unique, unrepeatable), không ai thay thế. Vậy dự phóng Thiên Chúa dành cho mỗi người là gì, nếu không phải là NÊN THÁNH như Ngài kêu gọi?
IV. SỐNG TRỌN LỜI FIAT ĐỂ NÊN THÁNH
Thánh Kinh cho biết: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2, 4), và cụ thể hơn nữa: “Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh” (Th 4,3). Như vậy, ơn được cứu độ cũng là ơn được nên thánh (x. 1Cr 1, 30). Nhưng, nên thánh hệ tại điều gì? Thánh Phê rô khuyên bảo các tín hữu, “để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (1Pr 1,15-16). Mục tiêu nên giống Thiên Chúa là ấn tín đã được gắn liền với con người xuyên qua LỜI fiat ngay khi con người được tạo dựng (x. St 1,27). Chính Thiên Chúa đã thực hiện cho chúng ta một cách cụ thể: “Thiên Chúa ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được THÔNG PHẦN BẢN TÍNH THIÊN CHÚA ” (2Pr 1,4). Vì thế, chúng ta hiểu được tại sao Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta lời mời gọi thật cao cả và lạ lùng: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Bản văn song song của Tin Mừng Luca cho biết “hoàn thiện” đây được hiểu là “tình yêu nhân hậu” (x. Lc 6,36). Quả thật, chúng ta được mạc khải: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8.16). Và cụ thể “Tình Yêu Thiên Chúa đã được thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu” (Rm 8, 39), Đấng đã chuyển đạt cho chúng ta tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa Cha (x. Ga 15,9). Chính vì vậy, Đức Giêsu Kitô đã trao cho chúng ta lệnh truyền mà Ngài gọi là của riêng Ngài: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Tình yêu ấy cần được thể hiện trong cuộc sống, theo mẫu gương của Chúa Giêsu “đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Chính vì thế, Chúa Giêsu tha thiết kêu gọi chúng ta: “Hãy ở lại trong Ngài, trong tình Yêu của Ngài!” ( X. Ga 15,4.9). Đó chính là: “Tình yêu Thiên Chúa tràn đô vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Như vậy đã rõ ràng: bản chất nên thánh hệ tại ơn kết hiệp với Thiên Chúa Tinh Yêu, qua tác động của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: “nhờ ân sủng Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Thiên Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” (2Cr 13,13). Đó là cùng dích con người được mời gọi vươn tới qua việc thể hiện LỜI FIAT Cứu độ của Thiên Chúa, muốn cho con người nên thánh thiện (x. 1Tx 4,3). Bản chất và ơn gọi nên thánh vẫn là một, và chung cho mọi người, nhưng thể hiện trong cuộc sống lại đa dạng và độc đáo nơi mỗi người: “tất cả đều theo đuổi cùng một sự thánh thiện, tuy lối sống và nhiệm vụ của họ có khác nhau. Vì thế, tuỳ theo ân sủng và nhiệm vụ riêng của mình, mỗi người phải nhất quyết tiến bước bằng con đường đức tin sống động, đức tin khơi động đức cậy và hoạt động nhờ đức ái”[12] . Được thánh hoá là hồng ân Thiên Chúa ban; mỗi người được mời gọi tiếp nhận với tất cả “ý thức, tự do và cảm tạ, và biểu lộ trong chính cuộc đời mình”[13] . Liên quan đến việc nên thánh, thiết tưởng cũng cần làm sáng tỏ hai vấn đề thường bị hiểu sai và vì thế, không thể sống đúng, đó là:
1. Thiên Chúa đặt việc nên thánh trong tầm tay của mọi người.
Thiên Chúa không thể trao một mệnh lệnh cho con người mà không có phương thế thực hiện. Quả thật, ý Thiên Chúa là muôn chúng ta nên thánh (x. 1Tx 4,3), và Ngài đã hành động đủ cách, ban ơn trợ giúp chúng ta đủ kiểu để điều đó có thể trở thành hiện thực, vì “Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1Tx 5,23). Nguy cơ là con người không tiếp nhận và hưởng ứng ân huệ và tác động của Thiên Chúa Vì thế, Thánh Phaolô cảnh tỉnh chúng ta rằng: “Anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ (x. 1Cr 1,30). “Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người” (Pl 2,12-13). Tuy vậy, vẫn không thiếu những cách trình bày lệch lạc về việc nên thánh, làm nản chí bao người và vì thế, không thể hiện được ân phúc Chúa muốn trao ban. Vậy chúng ta hãy lắng nghe chứng từ sống động của một vài vị thánh gần chúng ta về vấn đề này. Chân phước Têrêxa Calcutta chia sẻ với chúng ta kinh nghiệm ngài đã sống: “Sự thánh thiện không phải là đồ xa xỉ dành cho thiểu số, chỉ một vài người. Sự thánh thiện cốt dành cho các bạn và cho tôi, cho tất cả chúng ta. Đó chỉ là một bổn phận đơn giản, bởi vì, nếu chúng ta biết yêu thương tức là chúng ta biết nên thánh.”[14]
Còn thánh nữ Faustina, vị Tông đồ của Lòng Chúa Thương Xót, cũng chia sẻ với chúng ta về đời sống thánh thiện: “Lạy Chúa Giêsu của con, nên thánh thật dê dàng biêt bao; tất cả những gì cần thiết chỉ là một chút thiện chí. Nếu Chúa Giêsu nhìn thấy chút thiện chí này nơi linh hồn, Người sẽ vội vã hiến mình cho họ và không gì có thế cản ngăn Người đươc, dù là các khuyết điểm hay sa ngã — tuyệt đối không có gì. Chúa Giêsu nóng lòng giúp đỡ linh hồn, và nếu trung thành với ơn Chúa giúp, họ có thể nhanh chóng đạt đến bậc trọn lành cao nhất mà một thụ tạo trần gian có thể đạt được. Thiên Chúa rất quảng đại và không từ chối ơn Người với bất kỳ ai. Thực vậy, Người ban phát nhiều hơn những gì chúng ta xin. Trung thành với những soi động của Chúa Thánh Thần chính là con đường vắn tắt nhất”[15] . Không thể đề cập nơi đây về các lộ trình nên thánh rất đa dạng; dù vậy, cũng không nên vì thế mà giản lược hoá vấn đề. Mục tiêu nhắm tới ở đây chỉ là ghi nhận: Nên thánh, điều Chúa muôn cho con người là điều thật sự khả thi với ơn Chúa trợ giúp. Đây là ân huệ của Thiến Chúa, nhưng, đồng thời là vinh dự và trách nhiệm của con người trong kiếp sống làm người, được mời gọi trở thành con Thiên Chúa. Nhưng, hỏi rằng phải thể hiện thế nào trong cuộc sống?
2. Việc nên thánh nhất thiết gắn liền với sinh hoạt đời thường.
Sự thật nầy không phải là điều dễ nhận ra. Thiết tưởng lời giải đáp thực tế có tính thuyết phục nhất phải là đời sống của gia đình Nazaret, như Chúa Giếsu, Con Thiên Chúa làm người, cùng với Rất Thánh Trinh Nữ Maria và Thánh Cả Giuse đã từng sống, ĐTC Gioan Phaolô II đã dựa vào sự kiện này, mạnh mẽ xác định:
“Rõ ràng đây là một đường lối thánh hoá cuộc sống thường ngày mà mỗi người phải đạt tới trong trách vạ riêng của mình, theo hình thức khả dĩ đôi với mọi người”[16] . Tuy vậy, không dễ gì nhận ra sự thật này, vì thế Đức cố HY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận coi đó như một khám phá, một mạc khải quan trọng: “Chỉ cần làm bổn phận trong giây phút hiện tại là nên thánh. Một khám phá, một mạc khải đem bình an và phấn khởi cho tâm hồn” (x. Mt 7,21)[17] .
Để thếm xác tín, chúng ta hãy nghe vài vị thánh khác chia sẻ kinh nghiệm. Thánh Phanxicô Salêsio: “Chúa chẳng bao giờ đòi hỏi sự thông thái thời danh hơn cả. Chúa chỉ sợ con không mến Chúa trong các công việc bổn phận tầm thường hằng ngày của con thôi”[18] .
Cuối cùng, đây lời của chân phước GH Gioan XXIII: “Đời sống thánh thiện của các thánh không hệ tại những công việc lớn lao rầm rộ, nhưng do những việc nhỏ bé không tên tuổi, những việc trước mắt người đời bị coi như vô nghĩa “[19] .
Vậy, thực hành việc nên thánh, mỗi người cần với ơn Chúa trợ giúp, thể hiện dự phóng độc đáo Chúa trao, bằng cả cuộc đời mình, như một lời FIAT sống động hoà nhập với lời FIAT cứu độ của Thiên Chúa, trong liên kết với tâm tình của Mẹ Maria và hiệp thông với Hội Thánh, thân mình Đức Kitô. Đó là các chiều kích thực tế để mỗi người sống trọn LỜI FIAT Xin Vâng cùng với Mẹ Maria.
KẾT
LỜI FIAT Sáng tạo và Cứu độ của Thiên Chúa là sợi giây xuyên suốt cả toàn bộ lịch sử loài người, cũng như từng mảnh đời của mỗi người chúng ta, vốn mang theo các dự phóng độc đáo của Thiên Chúa. Mỗi tâm hồn cần “trụ lại” nơi đó để tiếp nhận tận nguồn yêu thương và quyền năng của Thiên Chúa tác động. Dựa theo phân biện của Thánh Âu Tinh, chúng ta không nên chỉ dừng lại ở tiếng FIAT như một âm vang nhưng là nơi chính LỜI FIAT như LỜI CHÚA, phát sinh từ Thiên ý nhiệm mầu chất chứa và chuyển đạt quyền năng và tình thương của Ngài. Bởi thế, tâm hồn cần “trụ lại” nơi LỜI FIAT của Chúa, để từ đó, trải nghiệm được hiệu lực của Tinh Yêu cứu độ và cuối cùng tiến sâu vào tận nguồn mạch là Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, đi vào thực tế, việc “SỐNG TRỌN LỜI FIAT, XIN VÂNG” đòi hỏi một số yếu tố cớ bản, thiết yếu. Để minh hoạ, xin được trích dẫn sứ điệp của Đức Mẹ Maria dành cho Thánh nữ Faustina, như một phương thức chuẩn xác tiêu biểu: “Ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, tôi thấy Đức Mẹ hiện đến mĩm cười với tôi. Ngài bảo tôi: Mẹ muốn con thực hành ba nhân đức Mẹ rất quý và đẹp lòng Chúa hơn cả. Đầu tiên là khiêm nhường, kế tiếp còn là khiêm nhường và một lần nừa, vẫn là khiêm nhường; thứ đến là đức tinh tuyền (số 1779 nói rõ là:Tinh tuyền trong ý hướng, purity of intention); thứ ba là đức mến Chúa. Là con của Mẹ, con phải đặc biệt sáng ngời trong các nhân đức ấy” . Thiết tưởng lời Mẹ dặn bảo chị thánh Faustina cũng thích hợp và cần thiết cho các tâm hồn muốn theo gương Mẹ, sống trọn lời FIAT- Xin Vâng. Theo kinh nghiệm ngàn đời của linh đạo kitô giáo, cả ba điều Mẹ dặn, rõ ràng là những điều không bao giờ có thể miễn chước trong đời sống tâm linh. Đức KHIÊM NHƯỜNG là nền móng tôi cần, được Đức Mẹ đặc biệt lưu ý chúng ta. Khiêm nhường cần để nhận biết Thiên ý (x. Mt 11, 25); khiêm nhường để tiếp nhận được Thiên ân (x. 1Pr 5,5; Gc 4,6); khiêm nhường đem lại khả năng thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa (x. P1 4, 13; Ga M 5). Thứ đến, TINH TUYÊN TRONG Ý HƯỚNG, chính là “lòng trong sạch”, để nhận biết hiện diện của Thiên Chúa (x. Mt 5, 8); là tâm tinh tuyền, nhận ra đâu là ý Thiên Chúa, cái gì đẹp lòng Chúa ” (Rm 12, 2). Được trang bị như thế, chúng ta có thể cùng với Mẹ Maria, tham dự vào LỜI FIAT của Chúa Giêsu, để hoàn tất công trình của Chúa Cha (x.Ga 4, 34). Đó là những điều kiện tiên quyết để ĐỨC MẾN có thể ngự trị và hoạt động. Quả thật, đức mến là căn nguyên và cùng đích của kế hoạch Thiên Chúa. Xuyên qua đức mến, con người lãnh nhận hồng ân hiệp thông với Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở tại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4, 16). Theo đánh giá của Thánh Phaolô, chính đó là “ơn cao trọng nhất trong các ơn huệ của Thiên Chúa, cũng là con đường trổi vượt trên tất cả ”(1Cr 12,31) vì giữa “đức tin, đức cậy, đức mến, cao trọng hơn hết là đức mến” (1Cr 13,13). Kinh nghiệm và xác tín của các thánh về tầm quan trọng của đức mến là những chứng từ sống động được chia sẻ cho chúng ta:
Thánh Âu Tinh: “Hãy yêu mến, rồi cứ làm điều bạn muốn Ama etfac quod vis!”
Thánh Bênađồ: “Tình yêu của bạn là trị giá của chính bạn Amor tuus, pondus tuum.”
Thánh Ignatiô Loyola kết thúc kinh dâng hiến với lời nguyện: “Xin Chúa dùng con theo Thảnh Ý Ngài. Xin ban Tinh Yêu và Ân Sủng Chúa. Còn thánh nữ tiến sĩ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, Ngài đã hoan hỉ xác định như một khám phá tuyệt vời: “Sứ mệnh của tôi, tôi đã tìm gặp, đó là tình yêu Tình yêu phát xuất từ nguồn mạch Thánh Tâm Chúa Giêsu với mọi chiều cao, sâu, dài, rộng (x. Ep 3,18). Tình Yêu dẫn đến ân huệ Hiệp thông và Hiệp nhất. Hiệp thông nhiệm mầu với Thiên Chúa , bởi vì “cùng đích của toàn bộ nhiệm cục của Thiên Chúa là đưa các thụ tặo vào sự kết hợp trọn vẹn với Ba Ngôi diễm phúc” (Ga 17, 21-23) . về tình yêu Hiệp nhất này ĐHY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận phân tích thật rành mạch: “Không ghét ai chưa đủ, thương người chưa đủ, giúp người chưa đủ. Hiệp nhất n trong tình yêu và hành động mới đủ. Chúa Gỉêsu cầu xin: Xin Cha cho chúng nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” . Quả thật, Lời FIAT cứu độ của Chúa Giêsu đã được bao gồm trong Lời nguyện NÊN MỘT của Ngài, phải là nguồn động lực cho Lời FIAT đáp ứng của mọi kitô hữu trong toàn bộ cuộc sống, theo xác tín của ĐGH Gioan Phaolô II “Đối với tất cả và từng người, lời nguyên tha thiết của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly: “Xin cho tất cả nên một!” phải trở thành một chương trình khẩn thiết và tất yếu cho cuộc sống và hoạt động mỗi ngày” . Hồng ân NÊN MỘT trong Tình Yêu là cùng đích đạt tới, để “FIAT VOLUNTAS TUA! Ý CHA THỂ HIỆN DƯỚI ĐẤT CŨNG NHƯ TRÊN TRỜI” (Mt 6,10), nhằm liên kết giữa Trời và Đất (x. Ep 1,10), giữa Thiên Chúa và con người, xuyên qua tác động của LỜI FIAT yêu thương quyền năng phát xuất từ Thiên Chúa và LỜI FIAT tiếp nhận tri ân của con người. Tất cả là hiệu quả kỳ diệu Thiên Chúa thực hiện nơi các tâm hồn nhờ Mẹ Maria, với Mẹ SỐNG TRỌN LỜI FIAT XIN VÂNG”, để được cùng với Mẹ hát bài ngợi ca Magnificat tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh bây giờ và mãi đến muôn đời.
[2] Đức Giêsu Thành Nazaret. Tr. 149
[3] ĐGH Gioan Phaolô II, TĐ Dominum Vivificantem, 39
[4] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Thư Salvifici Dolores 24G
[11] ĐTC Gioan Phaolô II, TĐ Đấng Cứu Chuộc loài người, n.7
[12] Redemptor hominis, n. 13.
[14] ĐGH Bênêđictô XVI. Đức Giêsu Thành Nazaret. Tr. 149
[16] Chức vụ và đời sống Linh Mục, 2
[17] CP Têrêxa Calcutta, (1001 Danh ngôn các Thánh. Tr.125. n 560)
[18] Thánh Faustin, (1001 Danh ngôn các Thánh.Tr.130, n 590)
[21] 1001 Danh Ngôn các Thánh, số 792
[23] Nhật ký, số 1415; xem thêm số 1779
[26] Tông Huấn Christifideles Laici 1988, số 64
SỐNG ĐỐI DIỆN VỚI MÌNH,
KINH NGHIỆM CỦA CÁC LINH PHỤ
FM.I-Nhã Minh Vương
Nói đến “đối diện” thì tất yếu phải có đối tượng. Cũng như nói đến “đối thoại” thì hiểu ngay phải có hai chủ thể độc lập, riêng biệt có thông giao với nhau.
Như vậy, phải chăng kiểu nói “đối diện với chính mình” là muốn ám chỉ trong mỗi người có hai cái tôi riêng biệt? Thưa không, vì mỗi người chỉ có một bản ngã duy nhất. Kiểu nói đối diện với chính mình là nói lên một trong những khả năng kỳ diệu của con người, đó là biết “phản tỉnh”. Chẳng hạn như khi người đang viết nhưng vẫn có khả năng phản tỉnh để ý thức rằng mình đang viết và ý thức cả nội dung mà mình trình bày. Trí óc con người có khả năng làm việc đó một cách nhanh nhạy đến mức tưởng chừng như nó xẩy ra cùng một trật. Jasper nói: “Tôi chỉ làm cái tôi là và tôi chỉ là cái tôi làm”. Ta chú ý đến vế thứ hai “tôi chỉ là cái tôi đã làm” là muốn nhắm đến toàn bộ quá khứ đã hình thành nên con người tôi với tất cả truyền thống, văn hoá, giáo dục và những trải nghiệm của cuộc đời. Vậy khi tôi đối diện với chính mình là đặt con người hiện tại của tôi đối diện với cái tôi là, tức toàn bộ quá khứ đã làm nên tôi.
Nhưng thử hỏi, đối diện với chính mình để làm gì? Thưa, đó là để biết mình. Biết mình là một vấn đề xưa trên trái đất nhưng vẫn còn hiện sinh cho cuộc sống hôm nay và chắc chắn trong tương lai con người vẫn còn phải quan tâm bàn đến. Và dĩ nhiên, đây cũng là vấn đề mà các Linh phụ Xitô bàn đến một cách sâu sắc.
1. Những lý do khiến người ta thường ít khi đối diện với chính mình.
Do kiêu căng: xấu hổ cũng là một hình thức của kiêu ngạo, không dám nhìn nhận sự thật về mình mà luôn tìm cách che đậy. Linh phụ Isaac Etoile viết: “Ôi, Adam, bạn ở đâu? Có thể còn trong bóng tối, để không thấy chính bạn, bạn thu lượm những chiếc lá của hư ảo để che đậy sự ô nhục của bạn… hãy nhìn vào bên trong để thấy chính bạn: đó là nơi còn tìm thấy những gì ô nhục hơn”[1] . Trái lại, “hạnh phúc thay sự khiêm hạ của hối nhân, ôi, sự cậy trông của những người thú nhận khiếm khuyết của mình, vì bạn đã mau chóng làm cho chiến thắng người bất khả chiến bại, đã biến đổi một vị quan toà đáng sợ nên một người cha đầy tình âu yếm vô biên” [2] .
Do đam mê: người ta thường phân biệt hai thứ đam mêm là đam mê lành mạnh và đam mê bất chính. Lẽ dĩ nhiên những đam mê bất chính, nó như sóng cuồn thác lũ lôi kéo người ta ra thật xa mình và xa Chúa, xa đến độ “Chúa phải la to, Chúa phải kêu lên, Chúa phải la vang như sấm để chống lại sự điếc lác của con người”[3] . Nhưng cũng có những thứ đam mê khác được xem là lành mạnh hơn cũng có nguy cơ lôi kéo người ta xa rời chính mình. Chẳng hạn như quá đam mê một thứ nghệ thuật nào đó… Nhưng cuối chỉ có thứ đam mê cầu nguyện, đam mê tìm biết Chúa và tìm biết mình mới chắc chắn giúp ta nhận ra mình cách trung thực nhất.
Do biếng nhác: nhiều khi cũng có những tâm hồn xem ra chẳng kiêu căng, cũng chẳng có đam mê vào một thứ gì nhưng lại cảm thấy mình luôn ở trong trạng thái bận rộn đủ mọi thứ chuyện hoặc là có những trường hợp “chẳng làm việc gì ra trò mà việc gì cũng muốn xen vào”. Linh phụ Isaac Etoile đưa ra giải pháp cho tình trạng này: “Những kẻ hay càm ràm ở đâu, những người hay kêu trách, nguội lạnh, lười biếng phải kéo và lôi họ lên thập giá, vào nếp sống khắc hổ của Dòng đền tội của chúng ta mà chính họ đã tuyên hứa liên kết”[4]
Do sợ đối diện với những nỗi đau, những cảm xúc rất thật: Theo bản tính tự nhiên, con người có khuynh hướng tìm đến những gì là dễ chịu, thoải mái và thường tránh né những gì là phiền toái khổ đau như thánh Benado đã viết: “Người ta nói với tôi: “Đừng khóc!” Trái tim tôi đã bị cắt lìa mà người ta lại nói với tôi: “Đừng cảm thấy”…” [5].Trong thực tế, bao lâu ta chưa thật sự biết mình và đón nhận mình như mình là thì những sự dễ chịu, thoải mái mà chúng ta đang tìm kiếm sẽ không vững bền. Linh phụ Baudouin de Ford chia sẻ: “Vâng, vào những ngày mà tôi vui chơi và cười ha hả trong lễ hội trần gian, ngày tôi vỗ tay reo vui về những thành công của trần thế, tôi đã muốn tránh khổ đau và phiền muộn, nhưng rồi tôi lại quá cảm nghiệm thấy nỗi đớn đau đến nỗi phải la hét lên” [6] Trái lại, một khi đã sống với cái mình là, Linh phụ Giêrico đã có thể “ngủ và yên nghỉ trong sự hiệp nhất của bình an”[7]
2. Đâu là chỗ đứng của tôi khi đối diện với chính mình?
Đây là điều rất quan trọng, vì tuỳ vào chỗ đứng của mình mà tôi nhìn thấy tôi như thế nào và sẽ dẫn đến kết quả cụ thể, riêng biệt. Nietzsche đặt vị trí của mình ở trót đỉnh của sự cao ngạo nên thấy mình là người hùng, từ đó ông kêu gọi “hãy giết Thiên Chúa”. Còn J.P.Sartes đặt mình ở tư thế bất cần đời nên thấy cuộc đời mình là “nôn mửa, là phi lý”.
Vậy đâu là vị trí tốt nhất để con người đối diện với chính mình? Linh phụ Giêricô có thể là mẫu gương cho chúng ta khi ngài chia sẻ về chỗ đứng của mình trong cộng đoàn: “Tôi không có khả năng làm đầu người khác hay ở giữa họ, vậy tôi phải chọn vị trí nào đây, nếu không phải là chỗ rốt bét và là chỗ an toàn nhất, khi chọn cho mình ở dưới mọi người hay sao?” [8]
Tương tự như thế, Linh phụ Jean de Ford cũng chia sẻ về thái độ khi đến dự tiệc cưới: “tôi cũng nhớ lại lời cảnh tỉnh của Chúa trao cho tôi, tôi canh chừng để đừng chiếm chỗ nhất, vì sợ rằng sẽ làm sốn mắt của người đã mời tôi, nên tôi chọn mình hèn hạ, hay đúng hơn chỗ cuối hết trong phòng tiệc cưới…” [9]
Quả thật, khi chúng ta chọn vị trí thấp nhất để đối diện với chính mình thì sự thật về mình được phô bày ra dù có thế nào đi nữa, chúng ta cũng dễ dàng đón nhận mình như mình là, không lẫn trốn, không thất vọng, không kiêu căng tự mãn.
3. Khám phá sự thật khi đối diện với chính mình.
Sự thật đôi khi làm mất lòng người khác và sự thật nhiều khi cũng làm đau lòng chính mình. Sự thật nhiều khi cũng rất phủ phàng nhưng dù sao sự thật vẫn luôn là sự thật. Chân lý thì trường cửu. Chính Chúa Giêsu đã dạy: “sự thật sẽ giải thoát anh em” (…..). Bởi đó trên đường nhận biết sự thật về mình phải trong niềm xác tín rằng có Thiên Chúa đang trợ giúp ta. Ngài thích yêu, thích tha thứ hơn là trừng phạt. Giuda đã không tin điều đó nên khi nhận ra sự thật về mình, ông đã tuyệt vọng và tự vận. Đối với các Linh phụ Xitô, chính thái độ khiêm hạ, trong niềm phó thác vào lòng nhân lành của Chúa, các ngài nhìn nhận sự thật về mình một cách thanh thản, bình an. Vì thế, các ngài đã không ngần ngại chia sẻ với chúng ta những điều sâu thẳm nhất từ lòng mình: Linh phụ Aelredo chia sẽ: “con đã buôn ba khắp thế gian và tất cả những gì trong đó, đúng như một con người đã biếtđ những bí ẩn của Chúa đã nói, tất cả những gì trong thế gian là dục vọng của tính xác thật, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của (1Ga 2,16). Con đã đi tìm sự nghĩ ngơi cho tâm hồn khốn nạn của con trong ba điều đó, nhưng chỉ thấy khắp nơi toàn là khổ đau và rên xiết, đau khổ và tan nát cõi lòng” [10].Ngài còn nhìn nhận mình như một tội nhân chẳng khác nào những gái điếm và những người thu thuế. Ngài chia sẻ tiếp: “con đã nằm bẹp dưới đống bùn nhơ, quần áo rách bươm, bị cột trói và tù đầy, bị cột chặt vào thứ keo dính chắc là sự gian ác của con, tủi nhục dưới gánh nặng của những cố tật thâm căn cố đế. Khi ấy, con nhìn lại chính mình con, con là ai, con đang ở đâu. Lạy Chúa, con chạy giật lùi ghê tởm. Hình ảnh con làm con khiếp đảm. Con đã chán ngán chính con, bởi vì Chúa, Chúa đã yêu mến con” [11]
Quả thật, chỉ trong khiêm hạ và trong niềm tin tưởng vào Thiên Chúa luôn yêu thương và thứ tha mà con người mới có thể đi vào chính mình, nhận ra sự thật về mình mà không hoang mang, tuyệt vọng “như người cha ôm cổ đứa con hoang đàng và hôn lấy hôn để. Khi người cha tuôn đổ trên nó tình yêu của mình, thì ngài còn kiếm tìm gì qua những sự ôm ấp và những nụ hôn, nếu không phải là làm cho nó đi vào chính mình” [12]
4. Nhận biết mình để vươn lên.
Một khi đã biết mình nhưng không đón nhận mình như mình là thì không thể không có sự vươn lên đích thực. Một toà nhà không xây dựng trên đá tảng vững chắc thì nó sẽ có nguy cơ sụp đổ bấp cứ lúc nào. Cũng thế, một khi đã đón nhận mình nhưng lại bằng lòng với chính mình thì cũng chẳng thể vươn lên cao được. Chúng ta thường hay nghe kiểu nói: “tôi là thế đó, ai chấp nhận hay không thì tuỳ, lập trường của tôi là vậy, ai theo hay không theo mặc kệ”. Quy luật của biện chứng đòi buộc muốn vươn lên, muốn đổi mới thì phải phủ định cái cũ đi. Linh phụ Gilbert de Hoiland đã viết: “Ôi trái tim chai cứng, quá ư chai cứng, đã bao nhiêu lời như thế ngỏ với ngươi mà chẳng làm ngươi bị thương. Quả vậy, thật là dại khờ khi con tim không nghiệm thấy một cách sâu xa sức mạnh về lời mời gọi của Chúa” [13]. Đã hẳn, với thân phận mỏng dòn yếu đuối ta đã nhiều lần té ngã trong hành trình theo Chúa đến độ muốn buông xuôi bỏ cuộc. Nhưng linh phụ Giêrico khuyên ta: “Khi bạn không thể làm khác được, hãy đi con đường của bạn, té ngã, đứng dậy và luôn kêu lên Đấng mà bạn muốn đi theo và theo đến cùng: xin cũng cố chân con trong đường lối Chúa, để chân con bước đi vững chãi (Tv 16,5)” [14].
Chấp nhận mình nhưng không được bằng lòng với chính mình. Lời khấn canh tân đòi buộc đan sĩ phải đổi mới mình mỗi ngày, và thậm chí ngay cả khi ta cảm thấy hình như Chúa không hiện diện, hoặc thậm chí cảm thấy Ngài như bỏ rơi ta rồi. Linh phụ Giêrico khuyên chúng ta hãy cứ chủ động tìm kiếm Thiên Chúa bằng cách: “Chúng ta không chỉ mời Ngài, mà còn lôi kéo Ngài bằng vũ lực của cầu nguyện và cường độ mạnh mẽ của lòng sốt mến” [15]. Và một khi có được Chúa rồi, hãy tìm cách “tự nuôi dưỡng Chúa Giêsu hiện diện trong tâm trí”, đó là đích điểm của tiến trình thiêng liêng khởi đi từ sự biết mình. Phần thưởng được bù đắp cho bao gian khổ của cuộc hành trình là chính Chúa.
Tóm lại: Dám đối diện với chính mình là khởi đầu cho một tiến trình nhận ra dung mạo đích thực của mình, đồng thời được xem là một hành động anh hùng, vì nó đòi hỏi người ta can đảm và kiên trì theo năm tháng. Khi đối diện là dám đón nhận mình như mình là với thái độ khiêm tốn và cậy trông vào tình thương của Thiên Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ cho chúng ta nhận ra sự hiện diện của Ngài một cách sống động, đến độ giường như chúng ta đã sờ chạm đến Ngài. Đó chính là đích điểm của tiến trình thiêng liêng mà mọi tâm hồn, từ trong sâu thẳm, đều khát mong đạt tới. Câu nói của Linh phụ Giêricô có thể thay thế cho tất cả những gì đã trình bày trên đây: “Nếu Chúa Giêsu còn sống, tôi thoả mãn lắm rôi” [16].
[1] Vp. LêVăn Đoàn, Giáo trình linh đạo đan tu II, tr 186.
[2] Linh Phụ Gierico, sđd, tr 152.
[3] Linh Phụ Aelredo, sđd. Tr 163.
HIỆN DIỆN
LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐỐI DIỆN
FM. Dominico Phạm Văn Hiền
Chủ đề của “Hạt giống chiêm niệm” kỳ này là “Dám đối diện”. Nhưng làm sao dám đối diện, nếu chính chủ thể không hiện diện với đối tượng? Vậy hiện diện là gì? Felix Gaffiot trong cuốn Dict.Illustré Latin – Francais định nghĩa chữ PRAESENS (hiện diện): “Qui est là personnellement” (ai ở đó như một ngôi vị). Nói đến ngôi vị, ta nghĩ ngay đến một chủ thể có ý thức. Sự hiện diện của một người khác sự chiếm chỗ của một hòn đá. Hòn đá có đó, nhưng không biết mình đang có đó, ở đó với ai và để làm gì? Trái lại, sự hiện diện của con người nói lên một sự tập trung có ý thức, một khả năng đối thoại, một ý chí dấn thân phục vụ.
Chúng tôi sẽ theo 3 nghĩa ấy để triển khai sự hiện diện của tu sĩ trong lòng Giáo Hội và xã hội.
1. Hiện diện là khả năng tập chú
Khi dùng chữ Tập Chú, chúng tôi muốn nói đến sự huy động toàn bộ khả năng nơi con người: giác quan, lý trí, ý chí, tình cảm. Sự huy động này càng toàn diện, khả năng “làm người” càng lớn: Suy nghĩ thêm sâu sắc, yêu mến thêm đậm đà, quan sát thêm chính xác, hoạt động thêm kiến hiệu. Cái bệnh trầm trọng nhất thời đại chúng ta là bệnh khiếm diện, và thường xuyên hơn cả là khiếm diện với chính mình. Ong Lương Hữu Định trong bài “Chuyện mùa đông: Kinh tế và văn hóa”, sau khi nêu lên những điểm tích cực của nhịp sống kinh tế hiện nay, đã không quên cảnh giác về một loại văn hóa cao tốc: “Nhạc phải giật gân, phim phải bạo lực, xe gắn máy phải đua với xe hơi trên xa lộ… Kết quả là thần kinh luôn đòi những cảm giác mạnh hơn, mới hơn. Do đó, thần kinh sẽ căng thẳng (stress). Từ stress có thể đi đến đột tử như đã xuất hiện tại Nhật Bản. Sau những giờ quay cuồng kéo dài, sẽ nảy sinh một khoảng trống vắng, nên người ta sẽ lại tiếp tục lao vào một vòng xoay mới nhanh hơn, mạnh hơn, lôi cuốn họ đi mãi” [1].
Trong tình trạng ấy, đương nhiên con người bị phân tâm hơn bao giờ hết và khả năng hiện diện với chính mình bị giảm thiểu. Là con người, nhưng người ta lại ít “làm người” hơn, bởi lẽ họ trở thành những chiếc máy vi tính suốt ngày chỉ biết nhập dữ kiện, xử lý và quyết định thật nhanh.
Hậu quả sẽ như thế nào?
Ông Lương Hữu Định trả lời: “Con người lo tiếp nhận thông tin nên giảm mất thời giờ suy nghĩ, họ sẽ như cánh bèo trên dòng sông văn hóa” [2]. Tôi xin phép thêm: “Cả trên dòng sông đạo đức và tu trì nữa”. Vì đời sống đạo và tu hành đâu ở trên cung trăng, nhưng giữa lòng xã hội. Thế mà xã hội như vậy đó, làm sao không ảnh hưởng trên nếp sống tu? Ai trong chúng ta cũng phải thành thật thú nhận rằng, khả năng tập chú của mình bị giảm thiểu rất nhiều trong khi học hành, trong giờ kinh nguyện và cũng khó kiên trì trong công việc, hiệu quả sẽ là sự hời hợt và trống vắng trong đời tu. Vậy phải làm gì?
Ở Tây Phương, sự trống vắng ấy đôi khi dẫn thanh thiếu niên đến chỗ tuyệt mạng hay sống buông lỏng, hoặc may mắn hơn, họ tìm đến những trung tâm thiền, mà theo báo cáo của một số Việt kiều, ngày càng mọc lên nhiều hơn. Điều ấy chứng minh: con người cần sự an tĩnh để rồi hiện diện với Thiên Chúa và với tha nhân. Đánh mất sự hiện diện này con người kể như bị tha hóa.
Chúng ta đây, dứt khoát không chấp nhận sự tha hóa, trái lại phải nỗ lực thực hiện cho bằng được một sự hội nhập toàn vẹn (une intégration totale), vì đó là nét căn bản của một con người trưởng thành. Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần đề xuất một vài phương cách cụ thể giúp thực hiện sự tập chú này?
A. Phương cách 1
Các nhà tâm lý thường sử dụng (từ thời Socrate) là tự đặt cho mình những câu hỏi, ví dụ: tôi là ai, tôi đang làm gì và khi làm tôi nhằm mục đích chi?
Tôi là ai? Câu hỏi này làm ta liên tưởng đến thuật “chính danh” của Khổng giáo: “Quân quân, thân thân, phụ phụ, tử tử” (vua cho ra vua, tớ cho ra tớ, cha cho ra cha, con cho ra con): Một người sống đúng danh tánh của mình.
Tôi đang làm gì? Câu hỏi này nhằm kéo tôi về với hiện tại và nơi đây; tôi sẽ huy động mọi khả năng, lý trí, ý chí, tình cảm, giác quan… để thực hiện cách kiến hiệu công việc trước mắt.
Tôi nhằm mục đích chi? Triết lý có câu: “Omne AGENS agit propeter finem” (mọi tác nhân hành động theo một mục đích). Con người trưởng thành luôn có định hướng khi hành động. Lệch hướng đi là cả một nguy cơ, khác nào chiếc ôtô đang chạy vùn vụt trên xa lộ, mà tay lái bị lệch! Ta hãy tự đặt cho mình những câu hỏi:
* Nếu Chúa Giêsu ở đây, Ngài sẽ làm như thế nào công việc này?
* Nếu công việc này, giờ nguyện kinh này là giờ cuối cùng của đời tu của tôi, tôi sẽ làm như thế nào?
Còn nhiều câu hỏi khác, ta có thể đặt cho mình để giúp ta tập chú. Tuy nhiên, chừng ấy cũng tạm đủ để minh chứng rằng phương thế này tuyệt hảo, vì cả những bậc thầy thiêng liêng như thánh Bênađô hay Ignatio Loyola cũng đã sử dụng.
B. Phương cách tọa thiền
Trong chiều hướng hội nhập văn hóa, chúng ta có thể sử dụng phương pháp tọa thiền. Hiệu quả của phương pháp này hiện rõ trong phong thái ôn hòa, nhã nhặn, vui tươi của các tăng ni mà chúng ta có dịp gặp tại chùa chiền Phật Giáo. Điều khó khăn là phải thực tập như thế nào vì đây không phải là chuyện tự học qua sách vở, nhưng phải thụ huấn với những ai đã kinh qua một quá trình tập luyện… nỗ lực tập chú để mình có thể hiện diện với bản thân là bận tâm số một của những ai sống đời thánh hiến, vì làm sao đối thoại với Thiên Chúa và tha nhân nếu chúng ta chưa thực sự hiện diện với chính mình. Như Đức Gioan Phaolo II quả quyết, chúng ta phải chấp nhận một sự lột xác và thanh luyện trong thử thách [3].
2. Hiện diện là khả năng đối thoại với Thiên Chúa
Nói đến đối thoại, tôi nghĩ ngay đến cuộc đối thoại triền miên giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Gioan viết: “Từ khởi đầu đã có Lời, và Lời vẫn hướng về Thiên Chúa” (Ga 1,1). Căn cứ vào câu này các nhà thần học gọi sự hiện hữu của Chúa Ba Ngôi là “hiện hữu hướng về” (esse ad). Mầu nhiệm Ba Ngôi, do đó được gọi là mầu nhiệm mở (le mystère ouvert). Nhưng Lời hướng về Cha để làm gì nếu không phải để đối thoại? Minucius Felix, một văn hào Trung cổ, đã gọi Thiên Chúa Cha là một Lời Gọi, Chúa Con là một Lời Đáp. Lời Gọi và Lời Đáp ấy không diễn tả bằng ngôn từ nhân loại, nhưng bằng chính sự hiện hữu của mỗi Ngôi. Nói một cách rốt ráo, mỗi Ngôi sẽ không còn là ngôi vị, nếu không có đối thoại, vì đối thoại tạo nên nơi Ba Ngôi tương quan tình yêu, và tình yêu lại là Thiên Chúa (x. 1Ga 4,8), nên cuộc đối thoại của Thiên Chúa thật thâm sâu và gắn bó, đến nỗi Đức Kitô phải sử dụng kiểu nói “Ta với Cha là một” để diễn tả (Ga 10,30).
Kitô hữu, đặc biệt tu sĩ, qua bí tích Rửa Tội, đã được nên đồng hình dạng với Ngôi Lời Nhập Thể (x. Rm 6,3-6). Vì thế họ cũng được đặt vào trong một cuộc đối thoại thần linh. Cơ sở của cuộc đối thoại này là tương quan thụ tạo và Tạo Hóa; tương quan con và Cha trên trời.
Là thụ tạo, chúng ta cũng như bất cứ tạo vật nào, đều mang trong mình một lời mời gọi: làm đồng hồ thì phải chỉ đúng giờ; làm đóa hoa thì phải có sắc có hương; làm người, phải sống cho ra người… Thomas Merton có lý khi gọi một đóa hoa là thánh, bởi lẽ nó phô sắc khoe hương như Tạo Hóa muốn.
Là con cái Thiên Chúa, ta được mời gọi hiệp thông với Giáo hội, và qua Giáo Hội, chúng ta hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con (x.1Ga 1,3). Nhưng hiệp thông làm sao được, nếu chúng ta chưa thực sự hiện diện với Thiên Chúa? Sự hiện diện này trong lãnh vực tình yêu mang tên mới: cảm nghiệm hay kinh nghiệm. Đức Gioan Phaolo II, trong Tông huấn Vita Consecrata, coi sự cảm nghiệm tình yêu nhưng không của Thiên Chúa là điều kiện tiên quyết của một đời thánh hiến thành công. Đức Thánh Cha viết: “Kinh nghiệm về tình yêu nhưng không của Thiên Chúa là một kinh nghiệm thâm sâu và mạnh mẽ đến nỗi người ấy hiểu rằng mình phải đáp trả bằng việc hiến dâng cuộc đời vô điều kiện, bằng cách trao dâng cho Người ngay bây giờ và trong tương lai” [4] .
Đức Thánh Cha còn minh định thêm về phương cách cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa: Đó là hãy nhìn vào ánh mắt của Đức Kitô, vì “nơi ánh mắt ấy ta đọc ra chiều sâu của một tình yêu vĩnh cửu và vô biên” [5] . Nhưng chúng ta bắt gặp được ánh mắt của Đức Kitô ở đâu? Thưa trong Tin Mừng, trong bí tích Thánh Thể và trong cõi thinh lặng nội tâm.
Ánh mắt Đức Kitô trong Tin Mừng
Tin Mừng là Đức Kitô [6], nên đọc Tin Mừng đương nhiên sẽ gặp được ánh mắt của Đức Kitô. Tuy nhiên, cần phân biệt ba thứ con mắt: mắt giác quan, mắt lý trí, mắt của lòng (x. Ep 1,18). Với đôi mắt giác quan và mắt của lý trí, ta mới dừng lại ở văn bản và ý nghĩa của mặt chữ; muốn tiến xa hơn trong sự hiểu biết, ta không thể nào bỏ qua con mắt lòng. Đức Cha Phaolo Maria Nguyễn Minh Nhật, trong một buổi nói chuyện với các vị cao niên trong Hội Dòng Xitô Thánh Gia tại Bãi Dâu, đã đề xuất một cách đọc Lời Chúa theo hướng này: Hãy khám phá trong mỗi câu chuyện hay Lời của Đức Kitô tình thương mà Ngài muốn gói ghém.
Ánh mắt của Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể
Một điều làm ta bỡ ngỡ là trong các tu hội đời, người ta thường nhấn mạnh đến vai trò của Chúa Giêsu Thánh Thể trong đời thánh hiến. Thành viên của các tu hội dành tối thiểu mỗi ngày một giờ để sống với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm tình thương. Trong Tông huấn về đời thánh hiến, Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh: “Chuyên cần chiêm ngắm lâu giờ Chúa Giêsu hiện diện trong Thánh Thể, cho ta sống phần nào kinh nghiệm của thánh Phêrô khi thấy Chúa Giêsu hiển dung: Chúng con ở đây thật là tốt! Và khi cử hành mầu nhiệm Mình và Máu Chúa, sự hiệp nhất và tình mến của người thánh hiến được củng cố và phát triển” [7].
Ánh mắt Đức Kitô được khám phá trong chính sự thầm lặng nội tâm.
Tông huấn Vita Consecrata viết: “Phải tuyên xưng rằng chúng ta cần thứ im lặng đầy ắp sự hiện diện của Đấng khác (Thiên Chúa)… Có thinh lặng, chúng ta mới hiểu được Lời Ngài” [8].
Ở đây chúng ta hiểu ra lý do tại sao thánh Giuse chẳng nói câu nào trong Tin mừng, tại sao Đức Maria “hằng suy niệm trong lòng”, hay tại sao thánh Đaminh dốc quyết “chỉ nói với Chúa và về Chúa mà thôi”. Sở dĩ các ngài ít nói hay không nói, vì ý thức rằng chính trong thinh lặng, các ngài mới bắt gặp được Lời Hằng Sống.
Nói tóm, đời tu không chấp nhận cô đơn và trống vắng, nhưng đời tu cũng không thể tràn đầy hạnh phúc, nếu thiếu sự hiện diện của Đấng, mà danh xưng là Tình yêu. Tình yêu ấy, chúng ta khám phá cách sung mãn trong Lời Chúa, trong bí tích Thánh Thể và trong đáy sâu thầm lặng của tâm hồn. Chính nguồn tình yêu ấy thúc bách chúng ta, để “từ nay chúng ta không sống cho mình nữa…” (2Cr 5,15).
3. Hiện diện là dấn thân phục vụ anh em
Sự hiện diện với Thiên Chúa không cản trở ta hiện diện với tha nhân, trái lại giữa hai sự hiện diện có quan hệ mật thiết. Tin Mừng thánh Marco minh chứng điều ấy, khi nêu lên sự kiện Đức Kitô cầu nguyện trên núi một mình, nhưng đồng thời Ngài thấy các môn đệ đang vật lộn với sóng gió trên biển hồ Ghen-nê-xa-ret (x. Mc 6,45-49).
Hẳn thật, khi cầu nguyện thị quan của ta như được khuyếch đại, vì Thiên Chúa khác nào một écran cực đại, trong đó hiện lên mọi người, mọi vật, cùng với mọi tâm tình và cảm nghĩ của họ… Chính vì quan niệm như thế, đan tu thời xưa quen gọi người cầu nguyện là “chiêm nhân” (voyant). Nhưng thấy để làm gì? Thưa để phục vụ. Trong Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến, Đức thánh Cha liên kết hai nhiệm vụ lên núi và xuống núi như hai mặt của một sứ mệnh [9] .
Sứ mệnh ấy mang tính phổ quát, nên không miễn chước cho ai (s.72), mặc dù mỗi tu hội thể hiện sứ mệnh ấy một cách:
– Các tu hội hoạt động thực hiện sự hiện diện ấy “bằng cách hiến mình cho Thiên Chúa trong những hoạt động tông đồ khác nhau, hầu phục vụ dân Chúa” (s 9).
– Các tu hội đời: “Hiện diện như men trong thúng bột. Họ tìm cách biến đổi bộ mặt của thế giới từ bên trong bằng sức mạnh của Bát Phúc” (s.10).
– Các dòng chiêm niệm hiện diện như dấu chỉ cánh chung, vì họ “làm chứng về quyền chủ tể của Thiên Chúa trên lịch sử, họ tiền dự vào vinh quang tương lai” (s.8). Như thế, họ làm cho Giáo hội diện diện một cách viên mãn (s.78).
Chúng ta cần lưu ý đến kiểu nói “sự hiện diện của Giáo hội”. Không phải mỗi tu hội hiện diện, nhưng chính Giáo hội hiện diện qua các tu hội dưới nhiều hình thức khác nhau, và hình thức nào cũng cần thiết và đáng trân trọng.
Nội dung của sự hiện diện ấy không gì khác hơn là TÌNH YÊU. Vì thế có thể nói: mỗi tu hội diện diện trong mức độ diễn tả tình yêu của Giáo hội đối với nhân loại. Thế giới hôm nay khao khát tình yêu ấy biết bao! JOHN WU, một nhà luật học nổi danh quốc tế, đã tâm sự như sau: “Trọn đời, tôi đi tìm một người Mẹ và tôi đã gặp người mẹ ấy, đó là Giáo hội Công giáo. Hơn nữa, tôi đã nhận được một món quà do bà mẹ ấy trao tặng, đó là tình yêu”. Tình yêu mà John Wu (Trịnh Xuân Vũ) nói đây chắc không phải một thứ tình cảm hời hợt, nhưng là một con tim năng động, đầy sáng kiến và kiên trì. Chính qua ba đặc tính ấy tu sĩ nói lên sự hiện diện của mình cách triệt để.
Con tim năng động: Xác tín rằng “đức tin được củng cố khi nó được chia sẻ” [10] . Người tận hiến hăng say thi hành sứ mệnh, vì chính sứ mệnh mang lại cho họ “một nguồn hăng say mới và những hành động mới, đồng thời đòi hỏi họ phải trung thành” [11]. Nhìn vào lịch sử dòng tu, ta thấy xuất hiện biết bao mẫu gương sáng chói! Và gần chúng ta nhất có mẹ Têrêsa Calcuta. Với tấm thân gầy còm, tuổi tác già nua, nhưng có lẽ không ai năng động trong sứ mệnh bằng Mẹ. Tính năng động vượt mức ấy là một chứng từ hùng hồn về sự hiện diện của Thánh Linh, Đấng được coi như hồn sống của Giáo hội [12]
Tình yêu của tu sĩ phải đầy sáng kiến
Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II viết: “Lịch sử nhiều vị thánh nam nữ cho thấy sức mạnh ngôn sứ của đời thánh hiến … Các ngài đã biết trầm mình vào thời đại các ngài mà không bị tràn ngập; trái lại các ngài còn vạch ra những con đường mới cho thế hệ các ngài. Một kiểu sống Tin Mừng là một nguồn cảm hứng quan trọng cho một nền văn hóa mới” [13]. Dĩ nhiên, nếu ta muốn theo gương các ngài mà đề xuất những sáng kiến mới, ta phải “có một bản lĩnh vững chắc, một sự sáng suốt của các thánh… Đồng thời biết biện phân và táo bạo, đối thoại và chấp nhận thách thức của Tin Mừng” [14] .
Tình yêu của tu sĩ phải trung kiên.
Đặc tính trung kiên này cần nhấn mạnh cách đặc biệt, vì đã có biết bao tu sĩ ban đầu hăng say, nhưng đã sớm bỏ cuộc vì phải đối đầu với những bất trắc. Timaher Toth đã nhận xét như sau: “Trên mặt đại dương của cuộc đời, lềnh bềnh những xác chết. Họ là những người có nhiều khả năng, nhưng chỉ thiếu can đảm, ý chí, bền gan. Trong khi đó, những người khác kém tài trí hơn, nhưng với ý chí dẻo dai, bền bỉ đã thuận buồm xuôi gió để cập bến”. Pasteur, nhà bác học về vi sinh học cũng đã thú nhận khi được mọi người ca ngợi về những thành công của ông: “Công trạng duy nhất của tôi là làm việc chuyên cần, không có tài năng nào khác hơn ngoài sự bền gan trong cố gắng”.
Ba đức tính trên không thể thiếu đối với một chiến sĩ muốn thí thân cho đại cuộc. Họ được Thiên Chúa mời gọi đi vào cánh đồng truyền giáo với quyền năng của Thánh Thần, làm sao có thể sống èo uột được? (x. 2Tm 1,7).
Tình yêu do Thánh Thần trao ban mang tính tế nhị và khôn ngoan, sẽ giúp tu sĩ sống đúng chữ THỜI với nhiều sáng kiến. Tuy nhiên, họ không xu thời, trái lại, một khi được ánh sáng Tin Mừng soi dẫn, họ trung kiên dấn bước trên con đường phục vụ như một người luôn thức tỉnh để có thể HIỆN DIỆN với tha nhân bất cứ lúc nào và ở đâu.
Hiện diện là điều kiện chi phối mọi tương quan: với Chúa, với mình và với tha nhân. Sống mà luôn khiếm diện với chính mình là dấu chỉ của một tâm hồn bất ổn và tha hóa. Trái lại, khả năng tập chú càng cao, mức trưởng thành của ta càng lớn, vì nơi ta đã có sự hội nhập kể như thập toàn, khi mọi khả năng được ta huy động để sống, để yêu và để hoạt động. Sự hiện diện này cho phép ta đối diện với Thiên Chúa như một Ngôi Vị, nghĩa là như một chủ thể có ý thức. Hẳn Thiên Chúa không muốn đối thoại với tôi như một tảng đá hay như với con mèo, nhưng như với một con người.
Dĩ nhiên, khi đi vào cuộc đối thoại thần linh với Thiên Chúa, sự hiện diện của một con người suông chưa đủ. Nó phải được “nâng cấp” do Thánh Thần, khi Ngài đổ tràn tình yêu vào lòng ta (x. Rm 5,5). Nhờ Chúa Thánh Thần, ta nhận rõ hơn sự hiện diện của Thiên Chúa, và cuộc sống thân tình giữa tôi với Ngài trở nên sống động hơn. Thánh nữ tiến sĩ Têrêxa Avila viết: “Để đối thoại với Thiên Chúa, ta chẳng cần bay lên trời, cũng chẳng cần phải nói to cho Người nghe, vì Người rất gần ta… Chúng ta chỉ cần đóng cửa lòng lại mà tâm sự”.
[1] Nguyệt San CG&DT số 36, tr.54-55.
[3] Đức Gioan Phaolo II, Đời sống thánh hiến, số 79.
[10] Đức Gioan Phaolo II, Redemptoris missio, n.2.
[11] Đức Gioan Phaolo II, Vita Consecrata, số 78.
KHÁT VỌNG,
PHƯƠNG TIỆN ĐỂ CHẤP NHẬN “CÁI TÔI LÀ”
Trính tác phẩm:
HÃY MỞ GIÁC QUAN BẠN CHO THIÊN CHÚA,
Nxb Phương Đông 2009
Tác Giả:FM. Anselmo Grun
Nhận biết khát vọng của mình, không có nghĩa là chạy trốn thực tại đời mình. Trái lại, khi ta ý thức được nơi ta một khát vọng về Thiên Chúa, một khát vọng siêu phàm, khát vọng một thế giới trổi vượt hơn thế giới hạn hẹp của ta, đôi khi quá tầm thường của đời mình. Và chúng ta sẽ không thất vọng, nếu người yêu chưa thỏa mãn được cơn khát tình yêu tuyệt đối: Ta đừng đòi hỏi “ai đó”, những gì mà chỉ Thiên Chúa mới thật sự cho ta được. Tôi thường gặp những người chờ đợi người yêu chữa lành, giải cứu họ, bằng cách cho đời họ một ý nghĩa ! Đây là những mong chờ mà không loài thụ tạo nào có thể đáp ứng được. Loại khát vọng này, khi ta công nhận rằng nó chẳng có thể thỏa mãn được bởi con người, thì nỗi trông chờ của ta sẽ được tương đối hóa. Nó cũng giúp ta cư xử cách “người” hơn với mọi người. Và để họ là cái họ là, thay vì luôn sánh họ với Thiên Chúa, điều sẽ chẳng bao giờ sánh bằng được.
Những thất vọng là một phần của cuộc sống. Gia đình thất vọng vì tôi. Nghề nghiệp làm tôi thất vọng. Tôi còn thất vọng về chính bản thân mình. Ta thường ảo tưởng về mình và người khác, tự lừa dối mình, và cũng rất đau lòng khi nhận ra điều đó. Nhiều người lẩn tránh cái sự thật đau buồn này. Vì thế cứ không ngừng trốn chạy chính mình, và không bao giờ tìm được sự nghỉ ngơi thoải mái. Nhưng nếu chúng ta biết đón nhận cách tích cực những khát vọng của mình, thì rồi ta cũng có thể chấp nhận được rằng, mình sẽ không thể được thỏa mãn bởi những khát vọng đó. Như thế ta được đồng thuận với chính mình, chấp nhận những sai trái, yếu đuối của mình. Chúng ta đâu cần phải tự cho mình là đủ ! Vì khát vọng luôn vượt lên trên những gì ta làm, và cả những gì “ta là” nữa. Khát vọng nhắm tới Thiên Chúa, nên chỉ Ngài mới lấp đầy khát vọng cho ta được. Khát vọng tương đối hóa những gì ta làm. Nó cũng giải tỏa mọi xu hướng mê say tích lũy mọi thứ thành tích để được nổi tiếng. Nó cứu ta thoát khỏi áp lực, dồn ép mà ta thường tự chuốc vào thân.
Tôi cũng ghi nhận có nhiều người thường không hiện diện với chính họ, mà lại với những người khác, tuy rất bận, họ vẫn đáp ứng mọi nhu cầu của những ai đòi hỏi họ. Và tất nhiên là họ đã tự đặt mình dưới áp lực. Thật ra khát vọng còn tỏ lộ cho ta biết mình là ai. Khi tôi chấp nhận khát vọng của mình, là tôi hài hòa và hiện diện với bản thân tôi, đến nỗi mọi người chung quanh, với những mong chờ của họ, không hề ảnh hưởng đến tôi. Khát vọng giúp tôi tránh được ý muốn thoái lui trước những thất bại trong cuộc sống. Và ngược lại, thất bại giữ cho khát vọng của tôi luôn tỉnh thức.
Cách đây khoảng 30 năm, tôi đã theo một khóa học về cách “huấn luyện tình cảm”. Khóa học này đã giúp tôi ý thức một số nhu cầu thời thơ ấu không được thỏa mãn. Một cơn khủng hoảng bộc phát. Tôi cảm thấy mình bị tổn thương. Sau đó, trong một kỳ nghỉ hè, tôi có dịp ngắm nhìn mặt hồ, một sự bình an thật sâu xa thâm nhập toàn thân. Bỗng chốc tôi thản nhiên chấp nhận được tất cả những nhu cầu đã bị từ chối thời trẻ thơ đó. Tôi tự nhủ: “May mà tôi đã không được thỏa mãn. Nhờ thế tôi còn linh động, tỉnh thức và cởi mở trước ơn Chúa. Nếu không, có thể tôi đã thành kẻ “trưởng giả” tự đắc về cuộc sống của mình, và chẳng bao giờ tôi khám phá ra được Ơn gọi của mình”. Tôi coi ơn gọi như động lực để giữ cho khát vọng của tôi luôn sống động và tỉnh thức, nhờ đó tim tôi cụ thể mở ra cho Thiên Chúa và cho mọi người. Một con tim rộng rãi tất luôn cởi mở chứ không quyết đoán. Nó có kinh nghiệm về một cuộc sống với những thất bại, vỡ mộng, và chấp nhận cuộc đời thăng trầm như thế. Nó không bị thu hẹp lại, vì ngay cả những thất bại, đã trở thành lực đẩy cho những bước nhảy tới vô cùng của Thiên Chúa. Chính vì nó đã biết thành thật chấp nhận tình huống riêng của mình, nên khát vọng trong tôi không ngừng tăng trưởng. Khát vọng đã làm cho khả năng cởi mở của con tim phát triển thêm mãi.
Tất cả đều có thể trở thành kinh nghiệm về Thiên Chúa, một khi tôi dự kiến mọi nhu cầu, được thỏa mãn hay không, trong ánh sáng của khát vọng. Người yêu thích tôi cũng trở thành lời nhắc nhở cho tôi về tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu của họ cho phép tôi cảm nhận được chút gì đó, tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Tôi không còn đòi hỏi người ấy phải yêu tôi đến vô tận. Tuy nhiên, không phải chỉ tình yêu của họ, mà cả nỗi thất vọng của tôi khi thấy người yêu không hiểu được mình, hay khi tôi không cảm nhận được tình yêu của họ nữa. Tất cả đều có thể trở thành chất liệu để tôi có kinh nghiệm về Thiên Chúa. Vì chính nỗi thất vọng về con người đã hướng tôi đến với Thiên Chúa.
Thay vì than trách sự cứng cỏi của người khác, tôi có thể vì sự khó khăn ấy mà đào sâu khát vọng đối với tình yêu Thiên Chúa. Ta chỉ có thể sống với người khác, nếu nhìn ra nguyên lý đời mình nơi Thiên Chúa, chứ không nơi con người. Cả về phương diện nghề nghiệp. Ta chỉ có thể xử lý cách đúng đắn những thành công cũng như thất bại của mình, nếu ta tìm ra nơi nương tựa cuối cùng của mình ở nơi Thiên Chúa. Tôi không chỉ sống với sự thành công của mình, mà còn với một thực tại khác nữa. Nếu tôi nhìn cuộc sống hàng ngày trong ánh sáng của niềm khát vọng, điều đó giúp tôi ngụp lặn trong Thiên Chúa. Như thế tôi không ra ngoài thực tại thường ngày, mà nhìn thấy trong đó những sự việc luôn qui hướng tôi đến với Thiên Chúa. Trong một cuộc phỏng vấn dịp sinh nhật thứ 90 của triết gia vô thần Ernst Bloch, ông nói: “Kinh nghiệm cuộc đời làm tôi khám phá ra rằng, khát vọng là cái giá trị trung thực duy nhất của con người”. Con người có thể nói dối về mọi sự. Cái không xác thực và dối trá len lỏi vào mọi nơi. Tình yêu có thể là giả hình, và lịch sử chỉ là vấn đề giáo dục. Sự giúp đỡ thường dựa trên những lý do ích kỷ. Nhưng khát vọng tránh thoát được tất cả những thao tác tiêu cực đó. Con người là chính khát vọng của mình.
Tôi thường gặp những người tự cho là bị bắt buộc phải “tô điểm” mọi việc làm của họ. Khi kể về những cuộc nghỉ hè của họ: tất cả đều tuyệt vời ! Khi họ theo những khóa học, đều là những kinh nghiệm đẹp nhất đời. Tôi nghi ngờ họ đã “tô hồng” lên mọi sự để che giấu những thất bại của mình. Thật ra cuộc đời họ chỉ là tầm thường. Trong lúc nghỉ hè, vợ chồng họ đã không thông cảm được với nhau. Nhưng cứ phải tỏ ra xuất chúng, để mọi người thấy rằng anh ta lúc nào cũng đúng. Kỳ thật thì sau cái bề ngoài được tô điểm ấy, thực tế lại khác hẳn !
Khát vọng cho phép tôi nhìn đời mình cách trung thực. Phóng đại quả là vô ích. Tôi chẳng cần chứng tỏ cho người khác mức sâu xa về những kinh nghiệm của tôi. Cũng như tầm quan trọng của sự tiến bộ nội tâm của tôi. Tôi chấp nhận “mình là mình”” tầm thường, nhưng trên đường tìm kiếm, có thắng lợi hay không, nhạy cảm hay không, sâu sắc hay hời hợt, nhưng luôn phấn đấu. Tôi có thể nhìn đời mình bằng tất cả sự thật như thế đó, vì khát vọng luôn đưa tôi vượt lên trên cuộc đời. Sống niềm khao khát, tôi không tô điểm thêm. Vì đâu có sự khát khao, đấy mới có sự sống thật. Chỉ khi đón nhận nỗi khao khát của mình, tôi mới tiến tới trên con đường sự sống.
Khi tĩnh tâm, tôi thường tự hỏi, và cũng hay đặt câu hỏi với những người tham dự: “Khát khao lớn nhất của bạn là gì?”. Tôi không luôn luôn tìm ra câu trả lời ngay. Nhưng khi đặt câu hỏi như thế, tôi không còn tự tra tấn mình, “làm sao để trở nên tốt lành hơn?”. Những thứ thường quấy rầy tôi như thế trở nên vô ích. Tôi bắt đầu đối thoại với chính mình, với lòng mình, với ý nghĩa đời tôi. Thật sự “tôi là ai?” Sứ mạng tôi là gì? Tôi muốn để lại vết tích gì cho trần gian? Cái gì làm tôi thỏa mãn khát vọng của tôi? Phân tích cuối cùng vẫn đưa tôi đến Thiên Chúa. Những câu hỏi kia không chỉ đưa tôi đến Thiên Chúa, nó còn đưa tôi đến với câu trả lời cho khát vọng mà Thiên Chúa dành cho tôi. Vì thật ra Thiên Chúa cũng khát khao tôi nữa, các nhà thần bí vẫn nói thế.
Mechtilde de Magdebourg đã nói với Chúa thế này: “Ôi Chúa, Thiên Chúa nóng bỏng trong khát vọng của Ngài!” Thiên Chúa khao khát yêu con người. Khi tự hỏi mình về nỗi khát khao sâu thẳm nhất, tôi phát giác ra câu trả lời mà tôi mong muốn đem lại cho niềm khao khát của Thiên Chúa đối với tôi, cho tình yêu của Ngài dành cho tôi: Đó sẽ là hoàn toàn mở rộng cho tình yêu, cho lòng nhân hậu, lòng nhân từ và thương xót của Chúa, không chút méo mó bởi tính ích kỷ, cũng không che phủ bởi bệnh háo danh, háo thắng, bệnh thành tích của mình.
Thiên Chúa các sinh linh,
Con yêu kính Chúa.
Thiên Chúa của niềm vui, của sự sống,
Hồn con luôn khao khát Ngài.
Thiên Chúa đang tìm, đang gọi,
Đang đến gặp con tận nơi đây.
Thiên Chúa ẩn thân, nơi sâu thẳm lòng con,
Thiên Chúa, Đấng gìn giữ mọi sinh linh,
Đấng tác tạo nên mỗi cuộc đời.
Chính Ngài vực thân con dậy.
Ôi Chúa, Ngài ở đó vì con.
Ôi Chúa, Thiên Chúa nóng bỏng
Trong khát vọng của Ngài.
TỪ NGOẠI CẢNH –
QUA BẢN THÂN –
ĐẾN THIÊN CHÚA
FM.Duyên Thập Tự
Hình ảnh cha Biển Đức Thuận mà chúng ta thường thấy là tấm ảnh chụp cộng đòan Phước Sơn có lẽ vào năm 1925, từ đó được tách ra làm thành hình chân dung cá nhân và di ảnh của ngài. Đó là hình ảnh một đan sĩ Xitô khiêm nhường cúi mặt xuống đất, trong tư thế của người tuân giữ bậc khiêm nhường thứ mười hai trong tu luật Thánh Biển Đức.
Hình ảnh đó cho chúng ta có cảm tưởng cha Biển Đức Thuận là một con người cam chịu, sẵn sàng đón nhận vô điều kiện những gì xảy ra cho mình và cho công cuộc mình gầy dựng. Thái độ cam chịu như mang tính thụ động, bạc nhược và đánh mất mọi sáng kiến, mọi tìm kiếm. Phải chăng thái độ đó phản ảnh tâm hồn của ngài? Nếu chấp nhận là ngài thuộc loại người cam chịu, thì phải hiểu sao về thái độ này?
Trong số nội san này với chủ đề DÁM ĐỐI DIỆN, tôi cố gắng tìm ra trong cuộc đời của cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận một vài dấu tích trực tiếp hoặc gián tiếp, để từ đó hiểu thêm một chút tâm hồn sâu xa của ngài. Tôi sẽ trình bày việc ngài dám đối diện từ bên ngoàn đến tận sâu thẳm bên trong, nghĩa là từ hoàn cảnh bên ngoài, qua bản thân, cho đến tận Thiên Chúa.
1.Đương đầu với ngoại cảnh
Chúng ta đã biết cuộc đời cha Biển Đức Thuận được chia làm ba giai đoạn :
23 năm đầu đời tại nước Pháp (1880-1903) là thời gian huấn luyện chuẩn bị cho sứ vụ tông đồ truyền giáo.
15 năm đầu tiên tại Việt Nam (1903-1918) là thời gian hoạt động của vị thừa sai.
15 năm tiếp theo (1918-1933) là thời gian sống đời đan tu.
Khi bàn tới việc cha Biển Đức Thuận “đương đầu với ngoại cảnh”, chúng ta muốn nêu lên một số môi trường và hòan cảnh ngài đã đương đầu.
a.Môi trường
Chúng ta chỉ đề cập nơi đây kinh nghiệm của Cố Thuận, một vị thừa sai ở giữa người Việt-Nam.
Ngày bước chân xuống tàu để đến giáo phận Bắc Đàng Trong, cha Henri Denis [1] mang tất cả những gì ngài đã hấp thụ nơi quê hương xứ sở ngài. Một khi đặt chân lên vùng đất mới, chắc chắn ngài phải đối diện với biết bao thử thách. Chính khi đối đầu với những thách đố đó, khi phải cọ sát với thực tế cuộc sống trên vùng đất truyền giáo, nhân cách ngài sẽ bộc lộ và được tài bồi. Vấn đề thứ nhất mà ngài phải đối diện là vấn đề vệ sinh công cộng. Sự thiếu vệ sinh là nguồn gốc của đủ mọi thứ bệnh tật. Sinh sống trong một môi trường như thế, Cố Thuận phải đương đầu với tất cả những gì là ghê tởm đối với một người Âu Châu. Hơn thế nữa, những nông dân sống giữa đồng quê, họ thiếu mọi thứ cần thiết, nên dễ bị nhiều thứ vi-rút tấn công và gây nên những bệnh truyền nhiễm và bệnh dịch tả. Trong thư tín gửi cho song thân, Cố Thuận kể cho cha mẹ biết là ngài phải kiêm nhiệm luôn công việc của một thầy thuốc chữa bệnh cho các chủng sinh và mọi người đến xin ngài giúp đỡ. Hơn một lần ngài đã cho biết là đủ thứ mùi hôi thối xông ra từ những vết thương lở loét của các bệnh nhân. Một người Pháp sống trong môi trường như thế, thử hỏi có dễ không?
Một khía cạnh khác liên quan đến môi trường sống, là thời tiết khắc nghiệt. Tại một đất nước nhiệt đới như Việt-Nam, thời tiết luân phiên giữa mùa mưa và mùa nắng làm khổ rất nhiều cho những người Châu-Âu. Thời tiết nóng bức hay những cơn mưa không dứt, quả là một thứ khí hậu giết người. Qua thư tín, Cố Thuận đã cho cha mẹ ngài thoáng thấy ngài đã phải chịu đựng khí hậu này như thế nào. Đúng là phải có một sức khỏe dẻo dai, rắn chắc mới có thể chịu đựng nổi một thứ khí hậu như thế này. Đã rất nhiều vị thừa sai, sau một thời gian hoạt động, đã cần nghỉ ngơi ở nơi khác để lấy lại sức. Sống trọn cả cuộc đời trên đất nước Việt-Nam luôn là một thách đố lớn đối với người Pháp. Cần phải có một ý chí sắt đá. Cố Thuận thuộc hạng những con người kiên cường đó.
Cùng với những khó khăn trên, còn có cảm giác bất an. Những con hổ lượn quanh rừng rú, sẵn sàng giết chết những kẻ đi đường thiếu cẩn thận. Những con rắn độc, ẩn trên cây, trong bụi rậm, sẵn sàng cắn bất cứ ai đụng chạm tới chúng. Qua thư từ, Cố Thuận kể cho cha mẹ biết là ngài đã từng có những cuộc gặp gỡ bất ngờ với những con vật nguy hiểm trên. Ngoài những con vật nguy hiểm trên, thì muỗi, vắt, cũng không tha cho bất cứ ai và sẵn sàng chích, đốt, hút máu, gây lở loét, dị ứng khó chịu. Sống trong một hoàn cảnh như thế quả không phải là một điều dễ dàng. Để bền bỉ cho tới cùng trên mảnh đất Việt-Nam chắc hẳn cần phải biết kiên trì chịu đựng!
b.Hoàn cảnh chính trị
Chúng ta cũng cần xét đến hoàn cảnh chính trị, để hiểu rõ hơn những thách đố mà Cố Thuận phải đối diện và đương đầu.
Thời gian bắt đạo đã qua rồi, nhưng trong lòng nhiều người Việt-Nam, đặc biệt các quan chức Việt-Nam, vẫn có một sự hiềm khích và có cái nhìn không thiện cảm với các kitô hữu, đặc biệt với các vị thừa sai ngoại quốc.
Cùng với mối ác cảm đó là chính sách cai trị của các quan thống đốc hay các quan Khâm sứ thuộc Hội Tam Điểm hoặc có khuynh hướng bài giáo sĩ. Họ sử dụng báo chí để tấn công Giáo Hội, các thừa sai và các tín hữu. Trong nhiều trường hợp, các quan chức người Pháp cấu kết với các quan chức hoặc các chức sắc Việt-Nam để cản trở Kitô giáo phát triển. Chúng ta hãy lắng nghe các vị Đại Diện Tông Tòa giáo phận Bắc Đàng Trong tường trình:
Đức cha Caspar Lộc viết:
“Cần phải nói rằng sự ác cảm đầy tính hiềm thù của người ngoại đạo luôn gặp được sự thông đồng của những người đại diện chính quyền Bảo Hộ, bởi họ dễ dàng chấp nhận các mối quan hệ với các viên chức Phật giáo để chống lại các tân tòng, bởi họ tỏ ra cực kỳ nghiêm khắc đối với những người mới trở lại đạo, và từ chối lắng nghe các thừa sai do ảnh hưởng hợp đạo lý của các ngài khiến họ e ngại; họ xem các ngài như những kẻ bóc lột đê tiện”[2] .
Đức cha Allys Lý đã tâm sự như sau:
“Nhà cầm quyền Bảo Hộ, tuy không công khai tỏ thái độ thù nghịch với công giáo, nhưng họ chỉ thi hành công lý với giáo dân chúng tôi khi họ không thể làm cách nào khác. Còn quan lại, bằng những thủ đoạn tinh vi, thường khiến các quan chức bảo hộ bức tức với các kitô hữu. Trong những tình huống như thế, nhiệm vụ của các thừa sai thật tế nhị”[3].
“Tỉnh Quảng Trị, sau những ngày quang đãng với những vụ mùa bội thu, nay bị kẻ thù giấu mặt phá hoại, đến mức mỗi năm phải khó khăn lắm mới có được mươi người trở lại đạo” [4] .
Một khía cạnh khác của bối cảnh chính trị làm cho công việc của các vị thừa sai thêm khó khăn; đó là nghĩa vụ đóng thuế cho chính quyền bảo hộ. Trong suốt thời gian Bảo Hộ, người dân Việt Nam đã phải đóng nhiều thứ thuế, và hầu hết rất nặng nề. Chính vì lý do đó nhiều cuộc biểu tình với qui mô lớn đã diễn ra vào năm 1909 để yêu cầu giảm hoặc bãi bỏ các khoản thuế. Trong thời gian làm cha sở Nước Mặn, Cố Thuận phải trực diện với vấn đề này, như cha đã báo cáo cho đức cha Allys Lý trong thư đề ngày 8 tháng tư năm 1908:
“Ông quan huyện Phú Hội đến thăm con. Ông yêu cầu con giúp ông ta xoa dịu dân chúng hiện đang muốn nổi loạn vì vấn đề thuế má. Ông ta đặc biệt xin con vui lòng báo cho ông biết những gì về các cuộc hội họp trong làng hoặc là các cuộc diễn tập có tổ chức ít nhiều. Ông ấy nói với con rằng: “Tôi chăm lo cho người ngoại đạo, còn cha lo cho giáo dân và mọi sự sẽ êm xuôi thôi” [5] .
Một vài khía cạnh của bối cảnh chính trị giúp chúng ta hiểu những tình huống của Cố Thuận khi sinh sống và truyền giáo và những thách đố mà ngài phải trực diện hằng ngày. Đó mới chỉ là những hoàn cảnh bên ngoài. Bây giờ chúng ta đi tiếp một bước nữa trong việc Cố Thuận đối diện với cuộc sống mới tại Việt Nam.
c.Tâm tính người Việt Nam
Thách đố lớn nhất tại Việt Nam là sự giao tiếp với người dân bản xứ! Việc gặp gỡ với người dân bản xứ buộc vị thừa sai phải biết nói ngôn ngữ của họ và hiểu biết tính nết của họ. Thật vậy, rất hiếm người Pháp khắc phục được rào cản ngôn ngữ: nhiều người không bao giờ vượt qua nổi chướng ngại này, dù họ đã cư ngụ lâu tại Việt Nam và đã có nhiều cố gắng.
Còn về tính nết của người Việt Nam, chúng ta hãy nghe những gì Christine dAinval viết :
“Đại đa số người Pháp đều đánh giá cao tính nết người Việt-Nam: phẩm chất đầu tiên mà họ nhận thấy là sự thông minh rất tinh tế, thứ đến là sự hăng say làm việc và sự ân cần tử tế. Tật xấu ư? Đó là tính giả dối, tính khoe khoang, và có khuynh hướng ăn cắp. Hơn nữa, nhìn chung, họ nhận thấy phụ nữ hơn đàn ông: phụ nữ tận tụy hơn và trung thực hơn. Còn một tật xấu khác nữa, đó là thú cờ bạc…” [6]
Về phần Cố Thuận, trong các thư gửi cho song thân cũng như cho đức cha Allys Lý, ngài kể lại những kinh nghiệm cá nhân khi tiếp xúc với người Việt Nam. Đã rất nhiều lần ngài bị lừa tiền vì những lý do khác nhau, hoặc lấy cớ theo đạo, hoặc bị người ta đem đi đánh bạc…
Những phân tích về hoàn cảnh trong đó Cố Thuận thi hành nhiệm vụ truyền giáo cho chúng ta thấy phần nào tâm trạng của ngài. Chắc hẳn ngài đã cảm thấy cô đơn dưới nhiều khía cạnh. Đây là tình trạng cô đơn khi đối diện với cuộc sống mới mẻ với bao thử thách. Tuy nhiên, đây mới chỉ là sự cô đơn đến từ bên ngoài. Vẫn còn nỗi cô đơn khác lớn hơn và sâu hơn.
2.Đối diện với những thương tổn nơi bản thân
Chúng ta tiến thêm bước nữa trong việc tìm hiểu những đối tượng mà Cố Thuận phải đối diện. Đối tượng chúng ta sắp nói đến không nằm bên ngoài như ngoại cảnh vừa được bàn đến, mà ở ngay chính con người của ngài.
a.Những nghi ngờ về tính tình thay đổi
30 năm Cố Thuận sống tại Việt Nam được chia đều cho hai giai đoạn chính: 15 năm hoạt động truyền giáo với tư cách một thừa sai (1903-1918), 15 năm sống đời đan tu (1918-1933). Nhiều biến chuyển công tác và nội tâm trong hai giai đoạn này: những chuyển biến đó được một số các linh mục thừa sai người Pháp đọc và hiểu như hậu quả của một thứ tính tình thay đổi, bất nhất. Chúng ta đọc lại những gì mà viện phụ Emmauel-Triệu Chu Kim Tuyến trình thuật trong cuốn hạnh Tích Cố Thuận lời của đức cha Hồ Ngọc Cẩn.
“[…] Vậy tôi đã nghĩa thiết với cố Thuận từ khi ngài ở Nước Mặn, đổi ra làm giáo sư An-Ninh năm 1913, và từ đó ở cùng nhau đến khi ngài xuất thân lập dòng. Ngài vui miệng một khi nói về mình, lại tôi đã tai nghe mắt thấy thì cũng biết được ít nhiều điều về ngài. Thế thường nhân vô thập toàn, nơi cha Benoit cũng vậy. Tôi hân hạnh tán dương tài đức cha, song cũng không ngại nói mấy điều khiếm khuyết của ngài. Chính ngài cũng thú nhận với tôi điều ấy rằng: “Mấy điều khuyết điểm tôi đã phương trở tôi nhiều trong việc lập dòng.” Ngài còn nói mạnh mẽ hơn: “Nết xấu tôi đã làm nhiều cố bớt tin tôi, muốn cản trở tôi trong việc lập dòng. Họ in trí tôi có tính hiếu kỳ, hay thay đổi.” Tôi hỏi sao vậy? Ngài đáp: “Bởi tôi đang làm giáo sư nhà trường, nghe các cố đi dạy chầu nhưng mở nước Chúa, thì thích lắm. Xin đi. Cố Chính liền cho tôi đi Nước Mặn. Bởi hăng nồng theo tuổi trẻ, lại chưa quen tính chầu nhưng, vì khi mới qua Việt-Nam làm cha phó ở Kim Long, toàn bổn đạo dòng; khi không biết chi về bổn đạo mới, tôi quá tin các chúng, có bao nhiêu tiền bạc thì đổ ra hết, sau khốn nỗi chẳng hiệu quả gì, lại xảy ra việc này việc khác, nên tôi thua buồn xin đức cha cho khỏi chầu nhưng. Đức cha già Lý lại dạy tôi về tiểu chủng viện. Có vậy mà họ in trí tôi thay đổi. Nếu tôi không bị in trí, thì đã được lập dòng tại đất nhà chung ở Ba Trục, gần Thanh Tân. Khi ấy cố Soái (R.P. Chaiget) làm cha sở Thanh Tân, quản thủ cả Ba Trục, ngài sợ tôi lập dòng bất thành nên ngăn trở đức cha không cho lập tại đó. Cố Kính (R.P. Bonnin) cũng hợp tính với tôi và thương tôi lắm, năng cho bạc tiền khi nhiều khi ít, song khi tôi được phép lập dòng đến xin giúp, thì ngài không cho, lại rằng: “Thì là làm chi đặng tê nê”. Đức cha Hồ lại tiếp: “Ấy,điều khuyết điểm nơi cha Benoit là tính hay thua buồn, mà thua buồn thì sinh chán ngán muốn đổi việc, nên mang tiếng hay thay đổi, Tính ấy rất nghịch cùng bậc tu sĩ, vậy mà ngài đã toàn thắng, vững chí lập dòng cho đến thành công, thì làm cho ngài vang hiển hơn nữa”[7].
Và đây là chứng thư của cha Lê Hữu Luyến:
“Ngày sau hết các chú lên chào, cha con thầy trò cùng nhau từ giã, thì ngài buồn và nói: đức cha nói với cha rằng: “Cho phép lập dòng, có được thì hay, nếu bất thành, thì phải để nơi ấy cho địa phận, rồi đi Lào hay đi mô thì đi”. Và tác giả sách Hạnh Tích viết thêm: “Nghe đức cha và nhiều đấng ban lời cay cực như thế, tự nhiên cha giáo Thuận phải buồn, sinh tủi phận; nếu không ơn Chúa, thì ngài chán nản ngã lòng” [8] .
Một vài dòng chứng từ hé mở cho chúng ta về những thương tổn tâm lý mà Cố Thuận phải đối diện. Ngài xác tín vào công cuộc lập dòng, ngài tin tưởng phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa và Mẹ Maria; nhưng, về phương diện con người, những thái độ và lời nói nghi ngờ về công việc sắp được khởi sự như là những gáo nước lạnh tạt vào nhiệt tâm nóng cháy của ngài.
Chúng ta thử hỏi, đã có lần nào ngài hoang mang và nghi ngờ về lựa chọn của mình, về con đường sắp bước vào? Đã có lần nào ngài giao động trước những phản ứng của người khác chống đối kế hoạch lập dòng, dù việc khởi đầu rất là đơn giản? Có bao giờ ngài hoài nghi về thành quả của công cuộc này? Chúng ta không biết, vì chẳng bao giờ ngài nói lên nỗi lòng của mình, dù rằng vẫn cảm thấy “khá buồn tủi”. Một cách chủ quan, tôi nghĩ rằng những câu hỏi trên ít nhất cũng một lần đã xuất hiện trong tâm tư của Cố Thuận. Dưới một hình thức nào đó, những thái độ và lời nói như chối từ thiện chí của Ngài đã tạo nên một loại áp lực tâm lý nào đó và trở thành cơ hội cho cuộc chiến nội tâm của ngài.
Thật vậy, làm sao một công cuộc quan trọng như việc thành lập một nếp sống hoàn toàn mới lạ – đời đan tu chiêm niệm cho những nam giới người Việt Nam – lại không phải là một cuộc chiến với những chọn lựa và những sức lực tác động trên ngài. Một đàng, ý thức tầm quan trọng của nếp sống đan tu cho người Việt-Nam và tầm ảnh hưởng trong xứ truyền giáo; đàng khác, cảm nhận chân thành những giới hạn của bản thân để có thể tiến hành một công cuộc như thế: hai ý thức đó tác động trên ngài và hình thành một áp lực, một cuộc chiến nội tâm. Điều quan trọng là ngài dám đối diện với sự thật này: ngài không chạy trốn trước giới hạn của mình và cũng không đầu hàng trước khó khăn. trái lại, ngài đã “lớn lên” thêm và dấn bước vào hành trình cam go. Chính sự can đảm đối diện với bản thân đã thêm sức cho ngài để từng bước tiến tới thành công. Dám đối diện với mình, khám phá những giới hạn của bản thân, phải là chặng đường quan trọng để có thể cộng tác với ơn Chúa, đưa “đại cuộc”, “dự phóng” của Chúa tới chỗ hiện thực.
Nhưng đối diện với chính mình, với những thương tổn tâm lý cũng mới là một giai đoạn trong hành trình tìm gặp thực sự “nơi sâu kín nhất” của vết thương tình ái.
3.Dám trực diện với Thiên Chúa
Như đã nói trên, tôi cảm nhận rằng cuộc đời của cha Biển Đức Thuận mang dấu ấn của một cuộc chiến. Trong ba mươi năm sống tại Việt Nam, nhất là trong mười lăm năm đầu với sứ vụ truyền giáo, ngài không ngừng chiến đấu để tiến tới điều ngài mong ước, điều mà Thiên Chúa hướng dẫn ngài đi tới mà ngài không biết.
Đọc lại một số thư ngài gởi đức cha Allys Lý cũng như phân tích vài tâm tư ngài bôc bạch – mà tôi đã đề cập trong những bài viết trước -, chúng ta đã và còn sẽ khám phá ra có điều gì đó đang đeo bám ngài, không để ngài ngơi nghỉ, mà thôi thúc ngài tiến xa hơn, để đưa ngài vào một cuộc phiêu lưu mới. Ngài cảm nhận trong thể xác lẫn tâm hồn một cuộc chiến dai dẳng để thực hiện ước mơ – đúng là một ước mơ, từ ngữ được lập đi lập lại nhiều lần. Ngài cảm nhận cần phải vâng phục bề trên, đặc biệt là giám mục sở tại. Tuy nhiên, đức vâng phục này không thể làm dịu bớt những ước mơ cháy bỏng trong ngài. Vì thế ngài phải chiến đấu với chính mình, với người khác và với chính Thiên Chúa.
a.Đơn độc
Dù bận rộn với bao công việc, Cố Thuận đã dành rất nhiều thời gian để sống một mình: đó là những khoảnh khắc sống trong nhà nguyện để tâm sự với Chúa. Nhưng cũng không ít lần ngài phải sống đơn độc để đối diện với cuộc sống, với dự phóng, với tương lai hoạch định. Tại sao lại có những thay đổi, mưu tìm một con đường khác với con đường đang đi? Tại sao lại đi tìm kiếm một phương cách khác, một kế thuật mới để rao giảng Tin Mừng cho dân tộc Việt nam? Bản thân ngài còn cần điều gì nữa, khi đã dốc hết nhiệt tâm cho việc truyền giáo? Ngài có thấy con đường mình sẽ đi không?
Cố Thuận quả thực đơn độc trước những thách đố như thế và chúng trở thành những bóng tối cho ngài. Chúng ta hãy tưởng tượng ngài đã phải trải qua bao đêm thức trắng để suy nghĩ về tương lai. Ngài bước đi trong bóng tối. Chúng ta cũng có thể mường tượng ngài đã phải đối diện với những câu hỏi không dễ gì tìm ngay ra câu trả lời. Liệu có bàn tay Thiên Chúa trong mọi sự việc đã xảy ra? Nếu như Thiên Chúa đã khơi gợi trong ngài những ước muốn, những ước mơ như thế, thì giải thích làm sao đây việc chúng không được nhanh chóng thực hiện? Mình có lầm chăng trong những chọn lựa này?
b.Trong đêm tối
Sau bao nhiêu hoạt động, kinh qua thành công cũng như thất bại trong công cuộc truyền giáo, ngài dự định một con đường là bỏ lại đàng sau tất cả. Nếu như đối với cố Thuận, Thiên Chúa là mối quan tâm duy nhất của ngài, nếu từ nay cuộc đời ngài chỉ tập trung vào một mình Thiên Chúa, thì chúng ta có thể thấy rằng ý tưởng sống đời đan tu sẽ là giải pháp duy nhất cho phép ngài thực hiện kỳ vọng ấy. Bởi vì ngài khám phá ra rằng điều quan trọng không phải là hoàn thành những công việc của Thiên Chúa, mà là sống với chính Thiên Chúa. Bằng những cách thức và biện pháp khác nhau, Thiên Chúa đã thanh luyện Cố Thuận, để chuẩn bị ngài tiến sâu hơn vào trong sâu thẳm huyền nhiệm Tình Yêu. Thiên Chúa đến, Người hiện diện ngay giữa cuộc thanh luyện ấy. Khi ấy đêm tối sẽ trở thành ánh sáng chói chang. Đức tin trong đêm tối sẽ trở thành đức tin rực rỡ rạng ngời. Thực vậy, Thiên Chúa xuất hiện cùng với ánh sáng thần hoá của Người. Cố Thuận đã nhận biết Thiên Chúa hiện diện ngay trong đêm tối của mình. Ngài đã nhận biết và đối diện với dung mạo của Thiên Chúa : một Thiên Chúa tỏ mình trong kín ẩn. Thiên Chúa đã đến băng bó và chữa lành những vết thương của Cố Thuận và từ nay ngài có thể vững tin thực hiện dự phóng của chính Thiên Chúa trong đời ngài.
c.Dấu chứng tình yêu
Cố Thuận tiếp tục cuộc hành trình, cuộc mạo hiểm để thực hiện “đại cuộc” của Thiên Chúa. Từ nay ngài phó thác tất cả cho Thiên Chúa, phó thác đời mình cho sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Kể từ nay, ngài chỉ còn tìm thấy sức mạnh nơi một mình Thiên Chúa. Hơn bao giờ hết, ngài xác tín rằng ước mơ của ngài phát xuất từ Thiên Chúa và duy một mình Thiên Chúa mới có thể biến ước mơ ấy trở thành một hiện thực hoàn hảo. Nếu Thiên Chúa khơi gợi cho Cố Thuận một ước mơ như thế, tức ước mơ sống một mình với một mình Thiên Chúa, và giúp tha nhân chuyên chú vào một mình Thiên Chúa thì chúng ta có thể tin rằng Thiên Chuá hiện diện trong chính ước mơ của ngài. Mà ước mơ đầy ân phúc này, chính là dấu chứng của Tình yêu Thiên Chúa; vì kết hiệp với Thiên Chúa là cội nguồn hạnh phúc.
d.Không phải một Thiên Chúa “lấp đầy chỗ trống”
Dù rằng xác tín vào con đường Thiên Chúa dẫn đưa và phó thác vào quyền năng yêu thương của Thiên Chúa, Cố Thuận luôn là con người hành động cùng với Thiên Chúa. Mặc dù Thiên Chúa là một Đức Chúa hành động, kiến tạo công trình của Người ngay trong cuộc sống con người, nhưng Người không phải là người thay thế. Trái lại, Người để con người được tự do. Người hiện diện ở đấy, nhưng một cách ẩn mặt. Nếu Thiên Chúa để con người hành động một mình, là để họ được lớn lên. Và việc lớn lên này là lớn lên trong Thiên Chúa. Nhưng con người cũng cần được Thiên Chúa chinh phục để Thiên Chúa lớn lên trong họ.
Trong cuộc đời của Cố Thuận cũng thế. Ngài phải đương đầu với bao chướng ngại trên đường đi. Ngài đã vận dụng hết mọi năng lực để chiến đấu nhằm đạt được ước mơ. Ngài hành động như thể đơn độc lèo lái con thuyền cuộc đời tới bến. Thiên Chúa không thay thế những chọn lựa, những định hướng mà Cố Thuận nhắm đến. Khi ban cho ngài sức mạnh để chiến đấu cho tới cùng, Thiên Chúa ẩn mặt trong đêm tối, trong huyền nhiệm của Người.
Một hình ảnh như thế về Thiên Chúa là Đấng không bao giờ “lấp đầy chỗ trống”, tạo cho Cố Thuận một cảm nghiệm quan trọng. Cảm nghiệm này đưa dẫn ngài tới một sự trưởng thành tâm linh. Nếu Thiên Chúa dành cho con người một không gian tự do, chính là để cho việc con người chọn lựa Thiên Chúa đích thực là một sự lựa chọn tự nguyện và phát xuất từ tình yêu. Để chọn Thiên Chúa một cách ý thức và tự nguyện, con người cần phải đối diện và chiến đấu với chính mình, với những quyền lực bên ngoài và với chính Thiên Chúa nữa.
KẾT
Khi nghiên cứu về Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, nhiều lần tôi tự hỏi tại sao ngài cố gắng tìm cách thay đổi: thay đổi hoạt động từ một giáo sư chủng viện chuyển sang một thừa sai, thay đổi nếp sống từ một thừa sai trở thành một đan sĩ. Quả thức, đàng sau những đổi thay bên ngoài đó được thúc đẩy bởi lòng khát khao nồng cháy, thì có Ai Đó đang ẩn mặt phía sau.
Cha Biển Đức Thuận đã DÁM ĐỐI DIỆN với Đấng Ẩn Kín đó để từng bước tìm ra con đường tương lai. Việc đối diện với Thiên Chúa đã làm chao đảo cuộc đời của ngài, vì Thiên Chúa, một khi đã có một dự phóng trên cuộc đời của người nào đó, thì Người không để họ ở yên. Người thúc đẩy tiến lên, lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng và lên đường. Chúng ta có thể nói được rằng Thiên Chúa đã đánh động tâm hồn cha Biển Đức Thuận, một tấm lòng luôn khao khát những điều vĩ đại hơn, cao cả hơn, thiện hảo hơn.
[2] Báo Cáo Hội Thừa Sai, 1889, tr. 225.
[3] Báo Cáo Hội Thừa Sai, 1903, tr. 205.
[4] Báo Cáo Hội Thừa Sai, 1910, tr. 192.
[6] C. dAINVAL, Les belles heures de lIndochine Française, Perrin, Paris, 2001, Pharisêu. 110.
[7] Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, Hạnh Tích Cha Benoit Cố Thuận, tái bản 1998, tr. 100-102.
SỐNG VỚI NHỮNG NỖI ĐAU
Đồi Dương
“Nếu biết rằng yêu là đau khổ, thà dương gian đừng có chúng mình”. Thử hỏi cuộc sống này có ai tránh được khổ đau, vì đau khổ luôn gắn liền với cuộc đời của con người. Và người ta thường nói, sống là phải chiến đấu, chiến đấu để tồn tại. Không chiến đấu là thụt lùi, đi tới chỗ hủy diệt chính mình. Chiến đấu với những khó khăn của kiếp nhân sinh, chiến đấu với những gì làm băng hoại cuộc sống. Có lẽ ngày nay hơn bao giờ hết, người ta ước mơ một cuộc sống thật yên ổn, nhàn nhã, thật hạnh phúc, một cuộc sống không đau khổ cũng không mang mầm đau khổ. Như vậy, ta phải làm gì trước vấn đề đời là bể khổ và làm sao để sống chung hòa bình với đau khổ?
1. ĐỜI LÀ BỂ KHỔ
Chắc hẳn mỗi người trong chúng ta ai cũng có kinh nghiệm về đau khổ không ít thì nhều. Đã làm người, có lẽ không ai chối cãi giáo lý của nhà Phật “Đời là bể khổ”. Con người ngay từ khi chào đời đã cất tiếng khóc như báo hiệu cho một cuộc đời dang dở và đau thương bắt đầu, cho đến khi lìa đời giữa tiếng khóc của bao người thân luyến tiếc.
Đời là bể khổ không trừ một ai, nó làm bạn với tất cả mọi người: từ vua chúa ngồi trên ngai vàng, đến anh cùng đinh khố rách áo ôm đều phải mang lấy kiếp khổ của thân xác và tinh thần. Đau khổ về thể xác có thể khắc phục được nhờ y khoa, khoa học, kỹ thuật. Nhưng cũng không hẳn như thế. Vì thực tế, y khoa tiến triển nhưng người ta vẫn chết vì biết bao thứ bệnh tật…. Đau khổ về tinh thần thì lại càng khó biết chừng nào, đòi hỏi người ta phải nỗ lực biết bao. Một tình yêu dù có đẹp đến mấy, cũng có những khắc khoải, lo âu, mong chờ, hờn dỗi. Muốn yêu mà không được yêu cũng khổ…
Ngay cả trong nội tâm của con người cũng đã thấy có gì xung đột nhau rồi, như thánh Phaolô đã cảm nghiệm: “Tôi làm điều tôi không muốn, và muốn điều tôi không làm” (Rm 7,19). Đời người là vậy, ai lại không ước mơ điều tốt lành cho mình, nhưng thực tế lại ngược lại “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, điều may lành thì hiếm khi mới có, còn những gì hoạn nạn thì liên miên xẩy đến. Nếu chỉ biết ngồi đó mà than phiền về cuộc đời, oán trách với đời thì đời vẫn là vậy. Đau khổ cũng chẳng tránh né ai, cũng chẳng bao giờ biến khỏi trần đời. Nếu có ai đòi hỏi một cuộc đời không có đau khổ thì quả là một điều phi lý và ảo tưởng.
Còn người đan sĩ thì sao? Họ cũng là người như bao nhiêu người khác, cũng phải trải qua nỗi đau và giới hạn của kiếp nhân sinh. Nhưng kinh nghiệm về thử thách và đau khổ của mỗi người lại mỗi cách khác nhau. Người thì cả thời gian dài chiến đấu trên giường bệnh; người thì phải chiến đấu khi gặp khó khăn trong đời sống chung, phải tương quan với người trái tính trái nết, thay đổi theo thời tiết bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Đau khổ đến với con người cũng có cấp độ khác nhau. Đối với người nhạy cảm, chỉ cần một liếc mắt, một cái nhìn hờ hững của người khác cũng đã đau lắm rồi. Đan sĩ còn có những khó khăn trong các lời khấn, nỗi đau tím người khi phải bỏ ý riêng để vâng phục bề trên. Thật là khó khăn khi phải từ bỏ mọi quyền sử dụng, hưởng thụ ngay cả những cái cần chính đáng, không dính bén người nào, vật nào cả. Rồi lại phải chiến đấu với con tim cô đơn, cứ rung rinh hoài, muốn chiếm đoạt hoặc muốn làm nô lệ ai đó. Có những nỗi đau nhớ nhà, muốn bay nhảy chỗ này nơi kia nhưng không được, phải bó gối ở nhà dòng. Lại có những khổ chế buộc người đan sĩ phải thực hành. Có lúc phải đối diện với những giới hạn, chán nản, trống rỗng, khủng hoảng và nhiều khi bị sụp đổ vì cuộc đời đen tối của một giai đoạn nào đó trong đời tu…
Xem ra đời này chỉ thấy toàn đau khổ. Vậy thì bi quan quá. Phải chăng con người ngại ngùng, thua cuộc trước những chướng ngại cuộc đời, hay còn có gì đáng giá hơn, cao hơn?
2. SỐNG HÒA BÌNH VỚI ĐAU KHỔ
Đau khổ có ý nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta? Người ta có lý khi nói “Không hề có giông bão, cũng không hề có mảnh xám trong cuộc sống, đó là một cuộc đời vô nghĩa”. Những người yêu đời sẽ coi khó khăn là một cơ hội rèn luyện, chiến đấu để sống tốt hơn. Có những người khuyết tật, dám đối diện với những nỗi đau thân xác cũng như tinh thần, cố gắng rèn luyện để đạt chức vô địch về bơi lội, đạp xe, chạy marathon… Còn biết bao người nữa, họ gặp nhiều nỗi ngặt nghèo trong cuộc sống, kém cỏi về nhiều mặt nhưng đã biết vượt lên trên nỗi đau của số phận và đã thành công. Một tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện là điều bình thường, nhưng một tinh thần mạnh mẽ trong một thân xác yếu đau mới là điều phi thường.
Khi muốn sáng tạo, tiến triển, thương yêu chắc chắn người ta không tránh được đau khổ. Để có một đứa trẻ chào đời, người mẹ phải mang nặng đẻ đau. Muốn có một tác phẩm văn chương, nghệ thuật, một công trình xã hội…, các nghệ nhân, các nhà khoa học, chính trị … đã phải đầu tư biết bao chất xám, sức lực mới có thể cho ra đức con tinh thần của mình được “mẹ tròn con vuông”. Để trở thành một lực sĩ có hạng, cầu thủ bóng đá nổi tiếng, một nghệ sĩ đờn piano tài danh, người ta đã phải đổ bao nhiêu mồ hôi, kiêng cữ, rèn luyện với ý chí kiên vững mới mong có được huy chương chiến thắng. Cha mẹ muốn tương lai của con cái mình ngày mai tươi sáng, đã chấp nhận suốt ngày lăn lộn trên đồng ruộng “bán lưng cho trời, bán mặt cho đất”, hoặc chấp nhận với những gánh hàng rong giữa trời nắng cháy. Anh chàng thanh niên, với đồng lương quèn, phải nhịn quà sáng nhiều ngày mới có tiền mua quà cho người yêu nhân ngày sinh nhật…
Tục ngữ, ca dao Việt Nam có câu rất hay “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Không đau khổ, người ta sẽ ngủ mê; không hy vọng, không ý thức vươn lên, cuộc sống sẽ nhạt nhẽo, con người sẽ đánh mất tự do; không đau khổ, người ta sẽ tự hào mình sở hữu được hạnh phúc rồi, cần gì phải nỗ lực, vươn lên. Có người chỉ bừng tỉnh sau khi gặp rủi ro và thực sự vui sướng sau khi đã chịu đau khổ, họ tin rằng “sau cơn mưa trời lại sáng”. Có thể nói, đời người có trải qua đau khổ thì mới thấy giá trị của niềm vui. Đau khổ càng lớn thì niềm vui càng tăng. Không có khả năng chịu đau khổ thì cũng khó có khả năng hưởng hạnh phúc. Triết gia lạc quan Lavelle đã phải thốt lên “Đau khổ là điều thiết yếu của cuộc đời”.
Để có được hạnh phúc, đương nhiên ta phải đánh đổi bằng một hy sinh nào đó, mà đã hy sinh ắt phải có đau khổ. Chúa Giêsu, dù biết trước cái chết đang chờ đợi ở phía trước, nhưng Ngài vẫn hiên ngang dẫn đầu các môn đệ lên Giêrusalem (x. Mc 10,33), và chủ động trong việc hiến tế: “mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,18). Trong nỗi đau đớn, cô đơn cùng cực, Ngài cảm thấy như cha của Ngài cũng bỏ rơi, nhưng Ngài không chùn bước, không chạy trốn mà một lòng can đảm đi đến cùng con đường của khổ đau. Ngay cả cuộc đời công khai rao giảng của Ngài, biết bao đau khổ vây quanh Ngài: bị chống đối, khinh khi nhưng Ngài vẫn chấp nhận sống chung với nó.
Trong đời sống tu trì, đau khổ không thiếu, nhưng người tu trì có can đảm đối diện hay chạy trốn? Khi ngắm hoa hồng, nữ hoàng của các loài hoa mà lại vặt hết gai thì còn ý nghĩa gì để thưởng thức. Là đan sĩ, chúng ta chỉ còn cách là theo gương Đức Kitô sống chung với đau khổ và chấp nhận nó như của lễ dâng lên Thiên Chúa nhằm cứu rỗi các linh hồn, và đem lại lợi ích thiêng liêng cho mọi người cũng như cho cộng đoàn…Khi chấp nhận sống hòa bình với đau khổ là đan sĩ đã chấp nhận đi con đường của Đức Kitô, con đường qua đau khổ để vào vinh quang. Bài thơ của tác giả Điệp Lan Đình có một câu rất hay: “Xin cho con biết yêu cả hai chiều thánh giá”. Đó cũng là ý nghĩa mà thánh Phaolô đã cảm nghiệm: “những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24).
KẾT
Chị thánh Têrêsa Hài Đồng là gương mẫu cho đan sĩ chúng ta, dù trong đau khổ, cô đơn cùng cực, chị vẫn xin thêm đau khổ vì yêu Chúa và vì các linh hồn. Chị vui sướng chịu đau khổ vì ý thức sứ vụ cao cả của mình trong lòng Giáo Hội. Chị muốn nên giống người yêu của mình là Đức Kitô trong đau khổ.
Đời là bể khổ, nhưng làm sao người ta có thể cảm nghiệm được hạnh phúc nếu không dám bước qua khổ đau. Là đan sĩ, chúng ta đón nhận đau khổ như thế nào? Phải chăng với thái độ bi quan yếm thế, chịu vậy hay là thái độ phản kháng bất cần đời? Trước những khổ đau như vậy, làm sao đan sĩ có nội lực để sống chung hòa bình với đau khổ?
Khi người đan sĩ yêu Chúa, sống với Chúa và yêu thương mọi người, đồng thời thấy được trách nhiệm của mình trong lòng Giáo Hội, thì đầu cuộc đời có phải trải qua ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh, mười hai gập ghềnh cũng không thể làm sờn lòng, không chạy trốn nhưng dám đối diện.
Nhưng cũng phải khẳng định rằng, đời tu, chỉ có ơn Chúa thì mới giúp đan sĩ đứng vững vượt qua mọi biến cố thăng trầm trong cuộc sống. Không có Chúa, ta không thể làm gì được dầu kêu một tiếng “Abba”. Do đó, đan sĩ phải cầu xin ơn Chúa luôn trợ giúp để có thể nói được như thánh Phaolô rằng: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết”; “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10) với một xác tín sâu xa “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr 12,9).
TÔI YÊU THẬP GIÁ
Tôi yêu thập giá đời tôi
Mỗi giây hiện hữu như nôi hành trình
Thập giá dấu chứng hy sinh
Thập giá thể hiện cuộc tình đỉnh cao
Dẫu cho thập giá thế nào
Cũng là thách đố đi vào đời tôi
Mỗi ngày phải cố gắng thôi
Mỉm cười tiến bước lên đồi Can-vê.
Ôi thánh giá Chúa vỗ về
Chông gai sỏi đá chẳng nề “xin vâng”
Vì Chúa là Đấng cậy trông
Con yếu đuối, nhưng hồng ân trào trề
Cho dầu thánh giá nặng nề
Một lòng yêu Chúa,con thề trung kiên
Dầu đời gặp khổ triền miên
Xin dâng cho Chúa trọn niềm tri ân
Ôi thánh giá là hồng ân
Đồng hành với chữ Hiến Dâng trọn đời.
BIẾT CƯỜI
Huyền Trân – Thiên Giang
Nụ cười là món quà quý giá Thiên Chúa ban cho con người. Cười, chúng ta không mất gì, nhưng được lợi rất nhiều và cần thiết cho cuộc sống. Nụ cười được mệnh danh là “sứ giả thiện chí” của cuộc sống. Nhưng phải chăng cười chỉ là chuyện riêng của răng và môi? Vì có nhiều kiểu cười rất khác nhau, ẩn chứa những tâm tình và thái độ khác nhau: có nụ cười tiếp thị, chào đón: có cái cười gượng, cười phạt; có cái cười nhêch mép, hăm doạ; có cái cười vô hồn. Đó cũng là những nụ cười nhưng không phải người mang tiếng là người đó đã biết cười. Người ta chỉ biết cười khi nụ cười ấy xuất phát từ trái tim yêu thương, cảm thông từ lòng tin yêu cuộc sống. Chúng ta tự hỏi: nhưng ta cười với ai? Có ba đối tượng mà ở đây nụ cười của chúng ta sẽ gởi đến là Thiên Chúa, bản thân và tha nhân.
1. Cười trong cung lòng Thiên Chúa
Người ta cười khi trao ban niềm vui và đón nhận niềm vui, hoặc cười vì cảm nhận được một điều gì đó từ Thiên Chúa. Kinh nghiệm của nụ cười vui thỏa trong cung lòng Thiên Chúa được vị linh sư Ấn Độ kể lại qua các giai đoạn tu luyện của ông như sau:
– Đầu tiên, ta được Thiên Chúa cầm tay dẫn đến xứ sở của hoạt động. Ta ở lại đó nhiều năm.
– Tiếp đó, Ngài trở lại đưa ta tới xứ sở của đau khổ. Tại đây, trái tim ta sẽ được thanh tẩy khỏi mọi dính bén với của cải trần thế.
– Sau đó, Ngài dẫn ta đến miền đất của cô đơn. Ở đó mọi ti tiện nhỏ bé của bản thân ta đều bị thiêu hủy hết, và ta đã có thể đi vào xứ sở của thinh lặng. Trước mắt ta, mầu nhiệm của sự sống và của sự chết đều được tỏ bày.
– Rồi một ngày nọ, Thiên Chúa nói: “lần này Ta đưa con vào thẳm cung của đền thánh, để con được đi vào cung lòng của Ta. Thế là ta đã đến xứ sở của nụ cười”[1].
Thánh Phanxicô Salêsio nói: “Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn”. Phải chăng niềm hoan lạc, sự vui tươi luôn là nét cốt yếu trên khuôn mặt các vị thánh? Bởi các ngài nắm bắt được Thiên Chúa là niềm vui, “Đấng làm hoan lạc tuổi xuân con”. Đi vào cung lòng Thiên Chúa là tìm được nụ cười muôn thủa của niềm hân hoan đó.
Với Thiên Chúa, ta không thể mỉm cười để chờ Người đáp lại bằng cái cười thể lý. Nhưng với niềm tin, người Kitô hữu cũng như người Đan sĩ luôn nhìn thấy Đấng mình tôn thờ, và có Chúa là đủ cho ta rồi. Ở nơi Người, chúng ta có trào tràn niềm vui, hoan lạc, hạnh phúc viên mãn. Đây là điều làm cho tâm hồn Mẹ Maria đã hân hoan nhảy mừng trong niềm vui cứu độ của Thiên Chúa qua bài ca Magnificat.
Đức Giêsu đã đến loan báo Tin Mừng của tình yêu, niềm vui hân hoan và hy vọng, sự sống bên kia thánh giá và cái chết. Trong Ngài, những hạt giống chúng ta âm thầm gieo vãi trong mùa đông cuộc đời, sẽ thức giấc nở rộ tràn ngập muôn cánh hoa rực rỡ khi xuân về. Vì vậy, cười không chỉ biểu hiện của niềm vui nhưng còn là một thách thức trong những hoàn cảnh bi đát, đau thương của cuộc đời. Bên kia những vất vả thử thách, những thất bại khổ đau, chúng được mời gọi khám phá những ngôi sao của niềm vui, hy vọng mà Chúa Thánh Thần đang dọi sáng trong cuộc đời chúng ta.
Sách Công Vụ Tông Đồ 5,41 thuật lại: “Các tông đồ ra khỏi Thượng hội đồng, lòng đầy hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì Danh Đức Kitô”. Nụ cười ấy không phát xuất từ cái tự nhiên của thể lý, nhưng là lòng tin tưởng sâu xa, lòng cậy trông phó thác. Chính lòng tin tưởng và yêu mến đó đã khiến cho rất nhiều vị thánh sống trong đau khổ nhưng luôn mỉm cười. Các ngài không cất tiếng cười cách bất mãn, ngạo đời, nhưng là tiếng cười của niềm hân hoan cảm tạ vì được mang vào mình những đau khổ, để nên giống Đấng mình yêu mến.
Chúa Giêsu chính là nụ cười của Thiên Chúa gởi tặng cho chúng ta. Trong Ngài, chúng ta tìm được ý nghĩa của cuộc sống, tìm được niềm vui, hy vọng trong những thất bại, đau khổ, những thua thiệt mất mát và ngay cả trong những đêm tối cuộc đời. Và không gì đẹp cho bằng nở một nụ cười thật tươi với Chúa Giêsu.
2. Cười với chính mình
Đức cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận sống 13 năm trong tù với nhiều nỗi cực nhọc, bệnh tật, khốn khó về mọi phương diện thể lý và tinh thần. Thế mà ngài đã vượt qua, chỉ vì ngài biết chấp nhận nó như những chấm nhỏ trên đường hy vọng. Không có gì làm ta thôi mỉm cười ngoại trừ chính bản thân mình không chịu biết mỉm cười. Chúng ta cần biết cười, vì không ai có thể cho ta niềm vui ngoại trừ ta. Buồn bực cũng do ta mà ra. Tại sao ta lại không cười với mình? Người ta ước tính trẻ con cười 400 lần mỗi ngày, trong khi người lớn chỉ có 20 lần. Phải chăng đấy là lý do khiến ta luôn thấy sự hồn nhiên vui tươi, hạnh phúc rạng ngời trên khuôn mặt trẻ thơ.
Con người ngày nay biết dùng nụ cười để cổ võ cho hiệu năng, tiền tài, danh vọng, nhà cao cửa đẹp, tiện nghi đa năng. Nhưng trong đan viện, đan sĩ cần một tiếng nói khác của nụ cười, tiếng nói của niềm vui cho một cuộc sống cao đẹp hơn, niềm vui đưa ta lội ngược dòng. Thật không dễ khi mọi chuyện như muốn mời gọi ta đi trên con đường thoải mái, con đường có nhiều người đi, đang khi chúng ta là những đan sĩ vẫn ở một mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Làm sao chúng ta có thể bước đi trong niềm vui ân sủng khi chúng ta chưa biết cười với chính mình? Cười với cả những yếu đuối, bất toàn và lầm lỗi của ta.
Sách Sáng Thế 18,9-15, chúng ta thấy nụ cười của bà Sara, một nụ cười dí dỏm hài hước. Ta không thể nói đến bà mà không tự mình nở một nụ cười vui cho tâm hồn trẻ trung của bà. Phải đặt mình vào tuổi của bà, chúng ta mới cảm nghiệm được ý nghĩa và sức sống của một nụ cười, có một chút gì đó tinh nghịch và hài hước với chính mình. Khi được Thiên Chúa cho biết: ngày này sang năm bà sẽ có con trai.
Còn cha tổ phụ Xitô Thánh Gia luôn nói “vạn tuế cho sự vui”, “ai không vui thì ở trong nhà dòng này không được”[2] . Nụ cười của những con người thoát mọi ràng buộc đối với tạo vật để sống hoàn toàn cho Thiên Chúa. Thiên Chúa thường khơi dậy những nụ cười như thế.
Chính nhờ biết cười mà chúng ta có khả năng nhìn đời với ánh mắt lạc quan, đồng thời mở ra mối tương quan với người khác một cách tốt đẹp hơn. Chẳng hạn khi ta đang bế tắc cuộc đời, thì nụ cười là động lực kích lệ vượt qua; khi ta lầm lỗi, nụ cười là tình yêu thương tha thứ; khi bị hiểu lầm, nụ cười là phương thế giúp giải tỏa lòng mình…
Do đó ta cũng có thể nói rằng, khi cười cũng là lúc những hạt giận và hạt cay đắng sẽ không còn cơ hội mọc lên, vì nụ cười là niềm hy vọng và sức mạnh cho mọi người chung quanh và vơi đi những nỗi buồn của tâm hồn mình. Qua đó, ta có thể trải nghiệm được yêu thương với mình, với người, và tỏa rạng niềm vui với cộng đoàn, với thế giới chung quanh. Mỗi ngày, chúng ta có nhiều đau khổ nhưng lại có biết nhiều niềm vui đang chờ đón. Những niềm vui mới mở ra với ân sủng từ những điều bình dị hằng ngày. Có Chúa Kitô, chúng ta sẽ vượt lên trên những đau khổ để đón nhận niềm vui được trao ban từ tấm lòng, từ bàn tay, từ nụ cười của Thiên Chúa yêu thương và tiếp tục trao tặng lại cho tha nhân…
3. Cười với tha nhân
Khi những người đến thăm Mẹ Têrêsa Calcutta và ngỏ ý xin một lời khuyên, Mẹ liền bảo họ:
“Quý vị hãy về và cười với nhau. Hãy cười với vợ của ông. Hãy cười với chồng của bà. Hãy cười với con cái của ông bà. Hãy cười với mọi người, bất luận người đó là ai. Cười như thế quý vị sẽ lớn lên trong tình yêu hỗ tương”[3] . Sống trong đan viện, một cuộc sống đều đều mỗi ngày như mọi ngày, chúng ta rất cần có những nụ cười ý nhị như những lời thăm hỏi thân thương ta trao cho nhau, như một làn gió mát thổi qua những lao khổ đời người. Chúng có khả năng nâng dậy, đưa mùa xuân về với anh chị em và với chính mình. Một cái mỉm cười giúp người khác cảm thấy ấm áp hơn và tin tưởng hơn. Nụ cười ở đây không còn là việc của răng và môi nữa, nhưng phát xuất từ một trái tim nhạy cảm và biết yêu thương. “Nụ cười không chỉ là chìa hàm răng, căng vành môi nhưng bao gồm cả một thái độ của con tim” [4]
Chúng ta thấy Đức Giêsu khóc thương bên mồ Lazarô, thì chắc chắn hơn ai hết Ngài cũng đã vui cười hạnh phúc vì thấy Chúa Cha mạc khải cho những người bé mọn (x. Lc 10,21), cười vui bên các trẻ thơ (x. Lc18, 15-17), cười vui nơi tiệc cưới Cana, cười vui với người mù được thấy, người què đi được (x. Lc 7,11-17), hay chia vui với bà góa thành Naim có người con trai được Ngài cho sống lại (x. Lc 15), và vui sướng vì bao người tội lỗi được nghe loan báo Tin Mừng cứu độ… Có thể nói, Ngài là Con Thiên Chúa làm người, sống rất người. Ngài có tâm hồn rất nhạy cảm và chạnh lòng thương trước những niềm vui, nỗi buồn của con người.
Sống đời dâng hiến như vịnh gia cảm nghiệm: “Chúa là niềm vui, là hạnh phúc của con”. Nhưng để có được điều này, chúng ta cần trải lòng mình ra với tha nhân. Hẳn lúc đó ta sẽ cảm nhận cuộc sống thật vui, nở nụ cười hồn nhiên trong sáng với mọi người. Nhưng tiếc rằng, không phải bao giờ người ta cũng hiểu được sức mạnh của nụ cười, của niềm vui. Trong cuộc sống, ngay cả trong những lãnh vực giao tế, chúng ta vẫn gặp không ít người đẹp có gương mặt “lạnh như tiền”, khó đăm đăm, hoặc nhăn “như khỉ ăn mắm”.
Thánh Phaolô khuyên chúng ta “vui với người vui, khóc với người khóc”. Trong đời sống cộng đoàn, có thể chúng ta dễ khóc với người khóc mà không dễ vui với người vui, không dễ nở nụ cười với niềm vui hạnh phúc của người khác. Chúng ta sống bên anh chị em mình, làm mọi việc, giữ luật lệ như mọi người, làm tròn bổn phận mà không bao giờ bừng lên niềm vui. Và ở một nơi nào đó, lúc nào đó giữa bàn tiệc cuộc đời, Chúa sẽ vui ở đó, còn tôi, “tôi như người anh cả của người em hoang đàng, làm đúng mọi chuyện nhưng lòng không vui”. Chúng ta cần tìm lại nụ cười vui giữa những bất toàn của mình, của anh chị em chung quanh thì ta mới thực sự trở nên ý nghĩa cho đời, cũng như trở nên sợi dây lối kết các thành phần trong cộng đoàn thành một thân thể duy nhất của Thiên Chúa.
Kết:
Trên đường lữ hành trần thế, con người chẳng thể tìm nơi đâu một chốn bình yên cho cõi lòng khắc khoải để có thể nở được nụ cười trọn vẹn. Nên trong muôn ngàn những cảnh huống của đời thường, biết cười là một nghệ thuật sống. Nụ cười đưa người ta lên một tầm mức cao hơn của niềm tin, của hy vọng, của yêu thương. Chúng ta cần biết cười một cách hào phóng như món quà vô giá để trao tặng mọi người. Đừng bao giờ dè sẻn và giữ cho riêng mình. Vì nụ cười là điều kỳ diệu nhất cho cuộc sống”.
Phải chăng khi biết cười giữa cuộc đời bể dâu, với niềm tin yêu phó thác nơi Thiên Chúa và vui với anh chị em giữa đời thường, là chúng ta đang nếm hưởng niềm hoan lạc của Thiên Chúa ngay trên cõi đời này đó sao?
[1] D.WAHRHEIT, Nụ cười trong cung lòng Thiên Chúa, tr.11.
[2] Lời Giáo Huấn của cha tổ phụ, 44
[3] D. WAHRHEIT, nụ cười trong cung lòng Thiên Chúa, tr. 207
[4] TRẦN DUY NHIÊN, thư gởi em, tr. 67.
HỢP XƯỚNG BA BÈ
Hải Dương- Thiên Giang
Người ta thường nói “bá nhân bá tánh”, nhưng bá tánh đó lại làm nên một cộng đoàn mà sự hợp nhất là đều cần thiết không thể thiếu cho đời sống chung. Cộng đoan được ví như một bản nhạc, ba bè tuy ba cung dọng đối ngược nhau những lại bổ túc cho nhau thành một bản hợp xướng có giá trị làm quyến rũ lòng người. Sự đa dạng của các thành phần trong cộng với nhiều đặc tính khác nhau, ngay cả trong mỗi một người, tính tình cũng đã thất thường, sớm nắng chiều mưa. Trước những khác biệt như vậy, thì sự hợp nhất là điều không dễ.
Vậy, phải chăng sự hiệp nhất trong cộng đoàn chỉ có được khi mọi thành phần chấp nhận và đón nhận sự đa dạng phong phú của cuộc sống; đa dạng trong mầu nhiệm thân thể; đa dạng giữa các văn hóa địa phương Bắc – Trung – Nam, nhất là sự khác biệt giữa các thế hệ.
1. Tính đa dạng trong một thân thể:
Thân thể có sức sống và hoạt động là nhờ sự nối kết nên một giữa các chi thể, mặc dầu các chi thể đó khác biệt nhau. Tương tự, cộng đoàn là một Giáo Hội thu nhỏ được qui tụ bởi những con người từ khắp nơi trên mọi miền đất nước, để cùng nhau chung sống làm thành một gia đình mà Đức Kitô là đầu, là chủ nhà, là người cha, là người anh… Ngài nối kết các thành phần khác biệt nhau thành một nhờ Thần Khí của Ngài. Thần Khí đó chính là tình yêu (x. 1Ga 4,16).
Trong cộng đoàn sự khác biệt của mỗi người chỉ thực sự hợp nhất, an vui, hạnh phúc khi biết sống yêu thương hòa hợp với người khác và biết mình cũng yếu đuối và bất toàn như bao người khác. Nhờ đức mến, ta mới có khẳ năng đón nhận ân sủng của Thiên Chúa nơi mỗi người một cách khác nhau; có yêu mến thì đời sống đức tin sẽ trở nên sung mãn, vì trong người có ta và trong ta có người.
Nhưng trong thực tế, sự khác biệt đó như bàn tay vô hình đã tạo nên những bức tường ngăn cách và trở ngại để mọi người đến với nhau. Chỉ có Chúa là người anh, là người thầy, là người bạn mới có thể làm cho những khác biệt nơi các thành phần trong cộng đoàn được hòa hợp với nhau, như thánh Phao lô đã xác tín khi nói với cộng đoàn Ga-lát: Đức Kitô là sợi dây nối kết hai bên thành một, và phá bỏ bức tường ngăn cách giữa người Do thái và Hy lạp, nô lệ và tự do, tất cả chúng ta chỉ là một trong Kitô (x. Gl 3,27-28), và cùng kêu lên “Abba, Cha ơi!” (x. Gl 4,6).
2. Cộng đoàn Đan tu- bản hợp xướng Bắc Trung Nam.
Mỗi người luôn mang trong mình tâm thức (tinh thần) của một nền văn hóa địa phương. Nên sự khác biệt là bản sắc riêng của mỗi người là đáng trân trọng, nhưng cần xuyên qua sự khác biệt đó để đón nhận những cái hay, cái đẹp nơi mỗi người. Nhìn vào một bài hát ta thấy gì? Ngoài những nốt đen, nốt trắng, dấu lặng … còn có những nốt nhạc chồng lên nhau trong khuông nhạc. Có bài một bè, hai bè, ba bè, bốn bè và cả năm, sáu bè cũng có. Ba nốt nhạc tên khác nhau nhưng cùng một thang âm, một khi được phát ra làm cho người nghe có cảm giác phấn khởi, vui tươi hay buồn buồn. Tên của chúng khác nhau nhưng không làm rối bản nhạc, mà còn hòa hợp làm cho bản nhạc sinh động đi vào lòng người.
Với cộng đoàn đan tu thì sao? Chắc hẳn còn đa dạng và phong phú hơn, bởi được qui tụ từ mọi miền đất nước. Bắc, Trung, Nam mỗi miền có một vẻ, nhưng mỗi người được mời gọi hiệp nhất từ những sự khác biệt, để cùng nhau xây dựng một cộng đoàn yêu thương, an hòa. Biết rằng sống chung trong một cộng đoàn gồm cả ba miền: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, miền nào cũng có cái “kỳ”, nhưng hòa hợp với nhau sẽ làm nên điều kỳ diệu, kỳ quan của Thiên Chúa. Và khi bản hợp xướng cất lên, người nghe sẽ không còn phân biệt đâu là Bắc, Trung, Nam nữa. Vì tất cả những khác biệt đã được bổ túc cho nhau và làm phong phú cho nhau.
Nốt nhạc tình yêu, nốt nhạc cảm thông, nốt nhạc bác ái, … đã được Thiên Chúa đan xen vào dòng nhạc cuộc đời mỗi người. Từ đây, không đơn thuần là hợp âm đô trưởng: đô – mi – sol nữa, nhưng đã được nâng lên “đô trưởng tình yêu”. Thường khi chúng ta nhìn bên ngoài, cộng đoàn đan tu xem có vẻ im im lặng lặng, thực ra không phải thế, … cứ đến mà xem, bạn sẽ ngỡ ngàng ngay. Nhịp sống vẫn thế nhưng những con người được quy tụ từ Bắc-Trung- Nam, mỗi người là một nét chấm phá trong bức tranh của cộng đoàn, là một nốt nhạc trong bản hợp xướng. Từ ngôn ngữ, cách sinh hoạt, nghệ thuật, ẩm thực khác nhau, có cái hay, có cái dở; nhưng quan trọng hệ tại ở việc tôn trọng những khác biệt và đón nhận nhau. Yêu và được yêu, được người khác chấp nhận “như mình là” là một khát vọng tiềm ẩn trong lòng mỗi người, là một nhu cầu rất tự nhiên của con người. “Hòa nhi bất đồng”, làm sao để không mất gốc nhưng vẫn hiểu nhau và yêu thương nhau hơn. Điều cần nhất là mọi người hòa hợp nên một trong Đức Kitô, luôn “tái tạo bản chất thiên thần, ánh sáng và nét đẹp cho ơn gọi”[1].
3. Khác biệt giữa các thế hệ trong cộng đoàn.
Trong cộng đoàn thường có nhiều thế hệ: người cao niên – trung niên và dưới trẻ. Thế hệ này làm đà cho thế hệ kia. Vẫn biết mỗi người là một ân huệ Chúa ban cho cộng đoàn, nhưng trong đời sống chung, giữa các thế hệ và văn hóa khác biệt đôi khi rất khó dung hòa và nối kết lại với nhau thành một bản hòa tấu … Vì thế rất cần phải có một ai đó điều khiển tốt, người đó không ai khác hơn chính là Chúa Thánh Thần, Đấng canh tân đổi mới mọi sự, Đấng hoạt động trong tâm hồn mỗi người và trong cộng đoàn. Mỗi người chỉ đón nhận sự hiệp thông cách trọn vẹn khi nhận ra vị trí, vai trò của mình nơi cộng đoàn.
Quan sát thực tế trong cộng đoàn ta thấy: những bậc lão thành có bề dày kinh nghiệm của đời tu, có đời sống nội tâm sâu xa, được biểu hiện qua thái độ, cử chỉ bên ngoài thích trầm lặng an hòa, hay kể chuyện về Chúa, các thánh, chuyện đời xưa … cho nên không lấy làm thích thú khi nghe chuyện thời nay. Đối với thế hệ trung niên, tuổi gió heo may đã có phần kinh nghiệm nội tâm, cũng điềm đạm hơn. Còn với thế hệ trẻ thì sao? Được sống trong buổi giao thời giữa thế kỷ XX và XXI, tuổi trẻ nhận thấy mình phải làm thế nào để theo đuổi kịp thời đại, nên hăng say, nhiệt thành, dấn thân vào công việc nhưng cũng bồng bột dễ đổ, dễ ngã. Khó lòng chấp nhận những gò bó, khuôn phép của quy luật chung. Sống dưới một mái nhà làm sao dung hòa đây? Thật khó từ lối suy nghĩ đến hành động, đến cả những sinh hoạt của đời thường. Xin đan cử một việc nhỏ để làm sáng tỏ hơn. Trong khâu ẩm thực, người lớn tuổi có nhu cầu theo tuổi tác cần dùng thực phẩm nóng, mềm, người trẻ thì thích giòn giòn, cưng cứng, … như vậy, người đầu bếp phải biết nắm tâm lý của người già, người trẻ để người người đều vui.
Thực ra, nếu chúng ta ý thức mỗi con người là một tác phẩm được Thiên Chúa ban cho ta nơi người anh em, chị em, thì chúng ta mới dễ dàng nắm bắt điều hay từ những khác biệt đó để bổ túc cho cuộc sống chúng ta.
4. Phương thế để hòa hợp những khác biệt
Ân sủng luôn nối kết mọi khác biệt để tạo nên một sức mạnh tinh thần. Còn tội lỗi, bản ngã luôn có khuynh hướng làm cho phân tán trong tương quan.
Làm sao xóa bỏ não trạng phân biệt giữa các thế hệ, các miền văn hóa, trí thức, …để trở nên một cộng đoàn trong ấm ngoài êm, dấu chứng sự hiện diện của Thiên Chúa. Trước hết, chúng ta cần thấy được dấu vết của tội nơi con người mình. Chính nó là nguyên nhân của sự hay phân biệt cao thấp, hơn kém… về vật chất cũng như tinh thần, dẫn đến sự ghen tỵ, tranh chấp, so đo tính toán để tìm sự an toàn lợi thế cho mình, muốn hơn người về mọi mặt, nên người ta thường bảo vệ nó dưới nhiều lớp mặt nạ khác nhau.
Ngoài ra nguyên nhân của những nỗi bất hạnh nơi con người còn do không biết chấp nhận tư tưởng, hành động và cách sống của nhau. Ai cũng muốn người khác phải suy nghĩ, hành động và sống như mình. Khi ý thức và chấp nhận những giá trị của người khác là con đường dẫn đưa đến hòa hợp an vui, thì mối tương giao giữa ta với tha nhân được thông suốt.
Còn một điểm khác nữa là ai cũng muốn tránh sự quấy rầy của người khác, “hãy để cho tôi yên!”. Nhưng một trong những điều kiện để có bình an nội tâm thực sự chính là đón nhận tha nhân, là tạo được sự hài hòa với tha nhân. Nếu không, sự ở yên đó chỉ là ốc đảo, dần dần từ “mỏ than” này dẫn đến “mỏ than” khác làm cho tinh thần và ý chí của mình yếu đuối dễ đưa tới nguy cơ sống buông thả.
Trong đời sống đan tu, nền tảng gắn kết, hòa hợp những khác biệt của mỗi người là Tình yêu Thiên Chúa theo gương Chúa Kitô tự hạ yêu người như yêu ta (Lc 10,27). Ngài đã chấp nhận hiến tế chính mình cho mọi người được sống. Vậy khi ta tham dự Thánh Thể là chúng ta đón nhận hy tế của Đức Kitô vào cuộc đời mình để cùng với Ngài chịu nghiền nát nên tấm bánh bẻ ra cho anh chị em. Mỗi ngày chúng ta có chết đi cho cái tôi nhỏ bé của mình, thì chúng ta mới có khả năng lớn lên với anh em, chị em trong Đức Kitô.
Khi biết hài hòa với những khác biệt của người khác, là chúng ta mới có thể khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa, đồng thời mới có khả năng hoàn thiện đời mình. Và cũng chỉ có tâm hồn nào thanh thoát, không dính bén tư lợi mới thực sự sống bình an và đem lại hòa thuận an vui cho mình, cho người, cho đời.
KẾT
Trong lịch phụng vụ, Giáo Hội dành tuần thứ hai của mùa thường niên để mời gọi cầu cho sự hiệp nhất giữa các kitô hữu. Là một cộng đoàn đan tu thì lời mời gọi này cần được thực hiện cách triệt để hơn. Tại sao lại quan trọng như vậy? Thưa, hợp nhất thì không có chia rẽ, không có chia rẽ thì không có chỗ cho sa tan ngự trị. Đời sống chung như bản hòa âm, mọi người cùng quy hướng về Đức Kitô, dâng lên Thiên Chúa Cha lời ca ngợi, cùng một lòng một ý được gắn kết với nhau bằng tình yêu của Chúa Thánh Thần. Đòi hỏi mỗi người nhận ra và sống đúng nốt nhạc, đúng bè của vị trí mà mình đang đứng, nhằm góp phần làm cho cộng đoàn ngày càng tốt đẹp hơn, mỗi người sống chan hòa với nhau hơn như vịnh gia đã diễn tả:
“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
Anh em được sống vui vầy bên nhau
Như dầu quí đổ trên đâu
Xuống râu xuống cổ, áo chầu Aron.
Như sương từ đỉnh Khêmon
Tỏa trên đồi núi Sion lan tràn,
Nơi đây ân huệ Chúa ban,
Chính là cuộc sống chứa chan muôn đời”(Tv 132)
[1] Ronald Rolheiser, OMI. Giấc mơ thân thiết, dịch giả Nguyễn Kim An, tr. 78-81.
THỜI GIAN
FM. Kolbé Thái
1. Khái niệm
Thời gian theo hiện tượng vật lý là những con số của giây, phút, giờ, ngày, tháng, năm, những con số đó không ngừng nối tiếp nhau thành một chuỗi liên tục không bị gián đoạn và xoay vòng như một cái trục. Trục thời gian sẽ được xoay qua các chu kỳ của ngày, tháng, năm, mùa một cách trật tự mà không ai có thể cầm giữ, hay ngăn chặn lại được. Qua đó người ta mới có sự phân chia thời gian theo hiện tại, quá khứ, tương lai, và các chu kỳ ngày, đêm, mùa,… một cách có hệ thống và khoa học.
Thời gian dưới khía cạnh tâm lý là những vấn đề, hiện tượng, sự kiện,…mà người ta có thể nắm bắt, khắc ghi, tạo dấu ấn, cảm nghiệm qua khả năng nhận thức của tâm trí để tích luỹ, khắc ghi… Người ta gọi đó là thời gian tính, hay lịch sử tính nơi mỗi người.
Vì thời gian luôn đi tới và để lại đàng sau tất cả những sự kiện làm nên dấu ấn lịch sử, nên thời gian luôn cần tới không gian và ngược lại không gian cũng cần đến thời gian. Nhờ không gian mà người ta xác định rõ thêm thời gian, cũng như nhờ thời gian mà người ta hiểu không gian như thế nào. Chúng luôn đi đôi với nhau và mang tính vừa hữu hình vừa vô hình. Chẳn hạn, người ta có thể nhìn thấy ánh sáng, không gian, nhưng không có thể sờ mó, đụng chạm, hoặc người ta có thể cảm nghiệm bằng giác quan về thời gian qua các sự kiện, không gian ngày đêm. Do đó, để xác định được thời gian thì cần có không gian và nơi chốn, cũng như những qui ước của những con số.
Như vậy thời gian luôn gắn liền với cuộc sống, nhưng để thấy được ý nghĩa của cuộc đời thì cần phải đối diện, hay đối mặt với nó mới có khả năng nhận ra con người thật của mình. Vì con người nhiều lúc cũng thích treo mặt nạ để nấp vào trong những vấn đề, công việc, mà quên thực tại của thời gian mình đang sống.
2. Thời gian và cuộc sống
Cuộc sống con người không ai bị tách ra khỏi thời gian. Chính thời gian đưa con người qua những giai đoạn của cuộc sống: sinh ra – trưởng thành và chết để sang thế giới bên kia. Nhưng cuộc sống không mấy người dám đối diện hay bận tâm đến thời gian mình đang sống, để thấy được giá trị mà thời gian đem lại. Thời gian như là cơ hội để con người tìm lại căn tính của mình trong hành trình làm người cũng như trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.
Khi ta tương quan với nhau chỉ chạy theo thời gian tâm lý, nghĩa là trao cho nhau những kiến thức, những sự kiện, kinh nghiệm, những lời nói sáo ngữ, những ý tưởng mang nhiều màu sắc, thì không thể có một cuộc gặp gỡ đích thực giữa hai con người thật với nhau. Vì tương quan đó luôn có những hàng rào che chắn của những lý do, lập trường, ý tưởng để bảo vệ cho lý do sống của mình dẫn tới mạnh ai lấy sống. Khi cuộc sống mà người ta tương quan với nhau như vậy, thì dễ dẫn tới tình trạng đánh mất chính mình, vì người ta luôn tạo cho mình một khoảng cách an toàn đối với người khác.
Vì vậy, muốn cuộc sống con người thực sự được gần nhau trong sự hiệp thông, chia sẻ, gắn bó, liên đới, tự do và trách nhiệm, thì cần phải giác ngộ với thời gian tâm lý của mình, để trở về sống tinh thần trẻ thơ, tinh thần của Tin Mừng, của niềm tin.
Mặc khác, người ta cần giải thoát khỏi thời gian tâm lý như: lo lắng, sợ hãi, tội lỗi, tham vọng, những phán đoán lệch lạc,… Những thứ đó làm cho người ta phải đau khổ, mất tự do. Nhưng một khi con người giải thoát được thời gian tâm lý của mình như đã nêu trên, thì sẽ bước vào cuộc sống tự do của niềm tin. Vì không ai Sống Tự Do và yêu mến Thiên Chúa mà còn ghét anh em mình.
3. Thời gian dưới cái nhìn đức tin
Thời gian là nhu cầu để sống và làm việc. Ai cũng muốn kéo dài thời gian để tận hưởng cuộc đời, thay vì sợ phải đối diện với cái chết như một bi kịch. Con người luôn tìm mọi lý do, khả năng của khoa học, và những ước nguyện đối với Chúa để được kéo dài thêm sự sống. Vì ai cũng thích sống và muốn sống, cho dù cuộc sống có nhiều khó khăn và đau khổ… Mặc dù thế,đa số người ta vẫn sợ đối diện với cái chết và thời gian sống chân thực của mình.
Lý do khiến người ta cảm thấy nuối tiếc cuộc đời, có thể là vì người ta không dám đối diện với con người thật của mình và với những qui luật của thời gian mà Thiên Chúa đặt để trong vũ trụ. Khổng Tử nói: “Ai không biết sống thì cũng không biết chết”. Đúng vậy, sống và chết nơi con người không phải là hai thực tại bị thời gian tách rời nhau, nhưng cùng ở trong một thời gian duy nhất.
Thời gian là của Chúa, và đó là ân huệ Chúa ban cho mỗi người tuỳ theo ngày giờ năm tháng, nếu biết tận hưởng thì sẽ tìm được niềm an vui hạnh phúc. Chúng ta tin thời gian nơi cuộc sống trần thế mỗi người đều có khởi đầu và kết thúc. Nhưng thời gian trong Chúa thì đời đời và vô tận. Và trong thời gian, Thiên Chúa không ngừng sáng tạo vạn vật cũng như con người, đồng thời Ngài kiện toàn công trình sáng tạo của Ngài cho đến thời con người đạt đến sự viên mãn trong Chúa.Chính Chúa Giêsu cũng đã tiếp nối công trình sáng tạo của Chúa Cha nơi trần gian khi Ngài nói: “cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc,thì Tôi vẫn làm việc”(Ga 5,17).
Như vậy, thời gian không còn là khoảng cách trong tương quan sống, mà thời gian đó được nối kết trong sự hiệp nhất, sáng tạo trong lòng mến: “Như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”(Ga17,21). Thời gian lúc này không còn là khoảng cách được qui định theo qui ước, hay là một khoảng cách nào đó mà con người cảm thấy vô nghĩa, trống rỗng trong tâm hồn. Mà nó là một phương thế, cơ hội giúp ta sống tương quan cách mật thiết và nên một với Thiên Chúa và tha nhân, đồng thời nó cũng sẽ trở thành nhu cầu sống đích thực không thể tách rời cuộc sống con người với Thiên Chúa, như cây nho và cành nho.
Khi chúng ta nhìn thời gian dưới một góc độ như vậy, thì chúng ta sẽ biết tận dụng thời gian sống như là cơ hội Chúa ban cho mình để phát triển tài năng, làm việc thiện, sống với Chúa, thi hành điều Chúa muốn, kiện toàn cuộc sống của mình và mọi người trong sứ vụ Chúa trao. Vì con người không ai vừa sinh ra lại trở nên hoàn hảo ngay lập tức về thể lý cũng như tinh thần, mà mỗi người đều cần đến thời gian để phát triển, kiện toàn, thanh luyện cuộc sống để trở nên tốt hơn trong Thiên Chúa. Lời vịnh gia cầu nguyện với Chúa rằng: “xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90,12).
Nhưng làm sao để nhận ra thời gian đó như một ân huệ Chúa ban để mình sinh hoa kết trái. Dụ ngôn cây vả, khi chủ nhà ra vườn tìm trái mà không có, đã được người làm vườn xin khất thêm thời hạn một năm nữa để vun xới và chăm bón, hy vọng năm tới sẽ có (x. Lc13,6-9). Hình ảnh cây vả nhắc cho biết cuộc sống cần phải tỉnh thức để đối diện với thời gian khỏi ngủ mê, hay chủ quan trong đời sống của mình kẻo như người đầy tớ không biết đợi chủ trở về sẽ phải nhận lấy hậu quá đau thương.
Kết Luận:
Thời gian luôn gắn liền với cuộc sống con người, không ai sống mà không cần đến thời gian. Thời gian giúp cho con người lớn lên, kiện toàn cuộc sống, nhưng thời gian cũng làm cho người ta đánh mất chính mình, đánh mất hình ảnh của Thiên Chúa.
Thời gian không chỉ mang một giá trị tự nhiên, mà nó còn mang một ý nghĩa siêu nhiên của lịch sử tính, lịch sử cứu độ. Cho nên, thời gian không ngừng được soi sáng bởi niềm tin, nếu không thời gian chẳng có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin.
Trong hành trình trần thế, mỗi người mỗi cách sử dụng thời gian, có người thành công, và cũng có người thất bại, tuỳ vào cái nhìn và quan niệm nơi mỗi người.
NHỮNG HẠT SÁNG THỨC TỈNH
Sr. M.Thiên Triệu
Xin giới thiệu đến quý độc giả những cảm nghiệm của đan phụ AGATHON về đời sống nội tâm sâu xa mà ngài đã để lại. Xin trích lại một số tư tưởng để chúng ta nghiền ngẫm và áp dụng vào cuộc sống:
1.Dù trong bất cứ trường hợp nào, đan sĩ cũng đừng để lương tâm phải quở trách mình điều gì.
2.Nếu không chịu giữ các giới răn của Thiên Chúa, người ta không thể nào thăng tiến, dù chỉ một nhân đức.
3.Có người thắc mắc với đan phụ Agathon: “Khổ chế thân xác và có một tinh thần tỉnh thức, điều nào tốt hơn?” Vị hiền lão đáp: “con người giống như một cây xanh, khổ chế thân xác là tán lá, còn tinh thần tỉnh thức là hoa trái. Theo lời Thánh Kinh: “Cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi mà quăng vào lửa” (Mt 3,10), như vậy tất cả chú tâm của chúng ta rõ ràng là nhắm đến hoa trái, tức là tinh thần tỉnh thức; nhưng tán lá, tức là việc khổ chế thân xác, cũng cần được bảo vệ và giữ cho xum xuê”.
4.Các đan sĩ còn hỏi thêm: “trong tất cả các việc lành, nhân đức nào đòi phải nỗ lực nhất?” Vị hiền lão trả lời: “Bỏ quá cho cha nhé, cha cho rằng không gì đòi phải nỗ lực cho bằng việc cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Mỗi lần người ta cầu nguyện, thì các địch thù, các quỉ dữ, đều muốn cản trở, vì chúng biết nếu làm cho người ta phế trễ việc cầu nguyện, thì chúng mới có thể cản ngăn đường tiến của họ. Các việc lành người ta làm, dù là việc gì đi nữa, cũng có lúc nghỉ ngơi. Còn cầu nguyện là cuộc chiến cho đến hơi thở cuối cùng”.
5.Một đan sĩ thưa với vị hiền lão: “Con đã nhận một lệnh truyền, nhưng trong đó có liên hệ đến một cám dỗ. Con muốn chu toàn lệnh truyền, nhưng con sợ một nguy hiểm như thế”. Vị hiền lão trả lời: “Nếu như ở vào trường hợp của con, ta cứ việc chu toàn lệnh truyền, và nhờ đó mà thắng lướt được cám dỗ”.
6.Đan phụ Agathon kể lại: “Tôi chưa bao giờ lỗi đức yêu thương; đối với tôi, việc cho và nhận là một hành vi yêu thương, vì thế, tôi coi hành vi tốt của anh em tôi như một hành vi hiến tế”.
7.Khi thấy trong đầu mình muốn xét đoán, đan phụ Agathon thường tự nhủ: “Này Agathon, cái đó không phải là việc của ngươi”. Và nhờ vậy, tinh thần của ngài lúc nào cũng bình lặng.
8.Đan phụ Agathon còn nói: “Một người giận dữ, cho dù có làm cho kẻ chết sống lại đi nữa, cũng không đẹp lòng Chúa”.