Is 60,1-6; Eph 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12
Thiên Chúa tỏ mình
M. Hiếu Liêm
Truyện: Vị Vua (Đạo Sĩ) Thứ Tư
Hôm nay lễ Chúa Hiển Linh, cũng gọi là lễ Ba Vua. Phúc âm chỉ nhắc đến ba vị vua hay ba đạo sĩ, hoặc ba nhà chiêm tinh (Mt 2,1). Thế nhưng văn sĩ Joergernen, người Đan Mạch lại tưởng tượng ra một vị vua thứ tư. Vị vua này đến triều bái Chúa Giêsu sau ba vị vua kia.
Trước khi lên đường, ông chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của mình, thế những dọc đường ông đã tặng hết cho các nạn nhân mà ông gặp. Người thứ nhất mà ông đã gặp là một cụ già rét run vì lạnh. Động lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông đành lấy viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lính do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Vị vua thứ tư phải rút ra viên ngọc cuối cùng tặng cho người lính để thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác này.
Khi tìm được Hài Nhi Giêsu, vị vua thứ tư chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Ông bối rối và buồn sầu kể lại cuộc hành trình vừa qua của mình. Nghe xong câu chuyện, Vua Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra đón nhận quà tặng của ông. Lễ vật của ông không phải là vàng bạc châu báu, nhũ hương hay mộc dược như ba vị vua kia, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử yêu thương tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh.
Nếu lễ Giáng sinh đem đến những niềm vui mới lạ thì lễ Hiển linh mang lại những niềm vui bất ngờ. Sự mới lạ của niềm vui Giáng sinh là Thiên Chúa tối cao đã Nhập thể làm người để giao hòa trời đất. Nhờ đó, mới có “bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Mới lạ là vì Thiên Chúa cao sang lại hạ sinh nơi hang bò lừa đơn sơ khiêm hạ. Nhờ đó những người nghèo hèn nhất trong xã hội, như các mục đồng mới được diễm phúc thờ lạy Con Chúa giáng trần. Điều mới lạ khiến nhân loại không bao giờ nghĩ tới, đó là Thiên Chúa đã tự đồng hóa mình với con người, nhất là những người bé mọn trên địa cầu này. Còn sự bất ngờ của lễ Hiển linh là Thiên Chúa siêu việt, vượt qua sự hiểu biết của con người, đã tự tỏ mình ra cho nhân loại. Điều bất ngờ là Thiên Chúa toàn năng không chỉ bộc lộ cho những người có đạo, mà còn bày tỏ cho mọi dân nước, để dân ngoại được diễm phúc đón nhận Tin Mừng cứu độ.
Như vậy, với đêm Giáng sinh, “Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta”, để toàn thể nhân loại được hưởng niềm vui mới lạ và ơn bình an qua dung mạo Hài Nhi Giêsu nằm trong máng cỏ nghèo hèn. Với lễ Hiển linh, Thiên Chúa toàn năng, siêu việt không chỉ đến với người Do thái, hay những người có đạo, mà Ngài còn tỏ mình ra cho mọi dân nước, những người ngoại đạo như ba đạo sĩ Phương đông, để họ được diễm phúc nhận biết và thờ lạy Ngài.
Lễ Hiển linh là ngày Chúa tự tỏ mình ra cho tất cả mọi người, đặc biệt là dân ngoại. Tuy nhiên, không phải ai cũng nhận biết và bái lạy Ngài. Đứng trước mặc khải của Thiên Chúa, Tin Mừng thuật lại cho ta biết nhân loại có hai hạng người mang hai thái độ khác nhau. Một bên là thái độ của vua Hêrôđê và giới chức Do thái giáo, đại diện cho những người có đạo. Bên kia là ba nhà đạo sĩ Phương đông, đại diện cho dân ngoại. Cả hai hạng người này đều biết có ngôi sao lạ, nhưng sự nhận biết của họ đưa đến những tâm tình và hành động trái nghịch nhau.
Cái biết của Hêrôđê và giới lãnh đạo Do thái là bối rối, hoang mang, sợ hãi và khước từ. Họ cũng nhờ ánh sao lạ để tìm kiếm Hài Nhi Giêsu, nhưng không phải để bái lạy mà là tìm cách giết Ngài. Con Vua Trời mới hạ sinh đáng lẽ phải được toàn dân thành Giêrusalem chào đón như Vị Cứu Tinh được mong đợi, nhưng lạ lùng thay, họ không chỉ xôn xao mà còn muốn loại trừ Ngài. Hêrôđê, vị vua giả đã sai người đi tìm kiếm Hài nhi Giêsu, nhưng không phải để triều bái mà là sát hại Ngài. Độc ác hơn nữa, không phải chỉ giết hại một mình Ngài, mà ông còn cho bóp chết tất cả những trẻ em từ hai tuổi trở xuống để bảo vệ ngai vàng của mình. Ngay cả những người được coi là có quyền cao chức trọng trong đạo Do thái như các thượng tế, kinh sư và kỳ lão cũng loại trừ Ngài. Họ là những người có đạo, nên dựa vào Kinh thánh, họ biết Vua dân Israel sẽ sinh ra tại đâu, nhưng họ không đến thờ lạy mà khước từ Vị Vua chân thât. Cũng vậy, là kitô hữu, đạo gốc, nhưng đôi khi chúng ta giữ đạo một cách thờ ơ, lạnh nhạt và vô tình. Nói một cách mỉa mai là chúng ta chỉ giữ “đạo gốc cây” và “đạo ghế đá”. Là người tu hành, nhưng đôi khi chúng ta cũng có thái độ gian xảo và độc ác như Hêrôđê. Chúng ta đi tìm Chúa, đến với Chúa nhưng không phải để thờ lạy mà trục lợi hoặc loại trừ Ngài bằng nhiều hình thức khác nhau…
Ngược lại với thái độ loại trừ trên là cái biết thành tâm của ba nhà đạo sĩ (ba vua). Nhận ra ánh sao lạ, các ngài hân hoan lên đường đi tìm Con Vua Trời mới hạ sinh. Ba nhà đạo sĩ từ phương xa, là người không có đạo, nhưng lại dõi theo ánh sao lạ đi tìm Con Thiên Chúa để tôn thờ. Khi tìm được Vua Hài Nhi, ba đạo sĩ sấp mình bái lạy và dâng tiến Ngài vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba lễ vật tượng trưng cho vương quyền: vàng là kim loại quý dùng để dâng tiến cho vua, nên vàng là biểu tượng ám chỉ Hài Nhi là vua thật; người ta xông hương là để tôn kính các vị thần linh, nên nhũ hương ảm chỉ Hài Nhi là Thiên Chúa thật; mộc dược là hương liệu được dùng để tẩm liệm, điều này nói lên nhân tính đích của Hài Nhi. Như vậy, Hài Nhi Giêsu là Con Thiên Chúa đã Nhập thể làm người để hiến dâng mạng sống làm chuộc muôn người.
Hôm nay, Thiện Chúa đã bộc lộ mình cho nhân loại. Nhưng ai đã nhận biết và tôn thờ Hài Nhi Giêsu, Đức Vua cao cả? Chính các mục đồng và các đạo sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Họ là những người đại diện cho những ai thành tâm thiện chí đi tìm chân lý và khao khát bình an. Họ đã nhận ra thân phận Hài Nhi yếu đuối nằm trong máng cỏ chính là Vua Cả Trời Đất, Đấng phải đến thế gian để đem lại công lý và hoà bình cho dương thế.
Ba đạo sĩ đã tin vào ánh sao lạ để nhận ra Vị Cứu Tinh trong thân phận nghèo hèn của kiếp người nơi hang đá Belem. Mặc dù ánh sao lạ có lúc vụt tắt, đó là những lúc cuộc đời đầy thử thách gian truân, phải bước đi trong đêm tối đức tin, nhưng ánh sao ấy lại xuất hiện và chiếu soi chứ không biến mất. Bài hát sinh hoạt thiếu nhi “Đếm sao gọi người”, đã sánh ví mỗi người là một ánh sao tương ứng với một vì sao trên trời: Có ánh sao xanh, có ánh sao trắng và ánh sao hồng. Nhưng không có ngôi sao nào là ngôi sao đen. Bởi vì công dụng của sao là toả sáng, là soi dẫn, thế nên ngôi sao phải tỏa chiếu sắc màu lung linh. Nếu là vì sao đen giữa bầu trời đêm tối thì chẳng có tác dụng gì cho con người.
Ánh sao lạ từ trời cao hôm nay vẫn chiếu soi nhân thế. Do đó, sứ điệp của ngày lễ Hiển linh hôm nay vẫn là lời mời gọi mỗi người hãy là một ánh sao đức tin chứ đừng là ngôi sao lạc. Hãy là một ánh sao tỏa sáng cho nhau. Ánh sao ấy là ý Chúa mà con người phải thực hiện. Ánh sao ấy là tiếng nói lương tâm mời gọi con người sống ngay lành, đừng làm điều dữ, đừng sống quanh co giả dối, mưu mẹo như Hêrôđê. Đồng thời cũng hãy trở thành vị vua thứ tư chiếu tỏa ánh sáng tin yêu, hy vọng, khoan dung, nhân hậu, bác ái và yêu thương mọi người. Ánh sáng ấy cũng cần tỏ hiện trong từng gia đình và trong mỗi cộng đoàn chúng ta, nơi đó các thành viên phải là ánh sao để dẫn dắt nhau đi tìm niềm vui bình an và hạnh phúc đích thực mà Con Thiên Chúa giáng trần đã ban tặng cho nhân loại. Các đạo sĩ đã theo ánh sao lạ tìm đến bái lạy Chúa Hài Đồng, dâng tiến Người vàng, nhũ hương và mộc dược. Vị vua thứ tư đã dâng cho Vua Hài Nhi tấm lòng vàng. Vậy chúng ta có gì để dâng tiến Hài Nhi Giêsu? Ước gì mỗi người chúng ta cũng là vị vua thứ tư đến thờ lạy Người với tất cả tấm lòng thành. Amen
Chúa Nhật Chúa Hiển Linh: Tại sao gọi là Lễ Ba Vua?
Hôm nay phụng vụ kính lễ Hiển linh. Tuy nhiên nhiều người vẫn quen gọi là lễ Ba vua? Danh xưng nào chính xác hơn?
Thế còn tại sao gọi là lễ Ba Vua?
Như vừa nói, trong lễ Hiển linh (epiphania), phụng vụ mừng ba biến cố mà Chúa Giêsu xuất hiện cho nhân loại. Tuy nhiên, biến cố thứ nhất (nghĩa là tỏ hiện cho các đạo sĩ) thu hút sự chú ý của dân gian hơn, bởi vì gắn liền với lễ Giáng sinh, mang theo hình ảnh của hài nhi Giêsu sinh ra tại hang đá Bê-lem. Bên cạnh tượng Thánh nhi nằm trong máng cỏ giữa con bò và con lừa, người ta đặt tượng Đức Mẹ, thánh Giuse; xa hơn chút nữa là các mục đồng được các thiên thần gọi đến hang đá. Mãi hơn 10 ngày sau, người ta mới thêm một tốp nữa gồm có ba vua từ phương xa đến thờ lạy Chúa, mang theo lễ phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vì thế gọi là “lễ ba vua”.
Ba ông là Vua của những nước nào vậy?
Chúng ta cần phải phân biệt đâu là nền tảng Kinh thánh, và đâu là truyền kỳ dân gian. Bản văn Tin mừng theo thánh Matthêu 2,1 nói rằng: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bê-lem, miền Giuđê, thời vua Hêrôt trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem”. Bản văn nói đến các nhà “chiêm tinh” chứ không phải là “vua”, và cũng không xác định con số là bao nhiêu vị. Nhiều bức hoạ cổ thời vẽ hai, bốn, sáu, tám, và thậm chí có nơi tăng đến số 12 (có lẽ cho cân xứng với 12 chi tộc Israel). Tuy nhiên, vào thế kỷ III, ông Origène đã nói đến 3 vị, và truyền thuyết này dần dần lan rộng trở thành phổ thông từ thế kỷ V.
Con số 3 có ý nghĩa gì không?
Số 3 có thể giải thích vừa theo nghĩa đo lường toán học, vừa theo nghĩa biểu tượng. Trước tiên là theo nghĩa toán học. Thánh Matthêu (chương 2 câu 10) nói đến 3 lễ phẩm mà các ông mang đến: vàng, nhũ hương, mộc dược. Người ta suy đoán rằng nếu có 3 lễ phẩm thì hẳn là phải có ba người: nếu ít hơn thì cồng kềnh (không lẽ một ông phải vác ba món quà?), nhiều hơn thì cũng kỳ (chẳng lẽ có người đi tay không!). Theo nghĩa biểu tượng. Trong Cựu ước, người ta nói đến ba thiếu niên cương quyết không chịu bỏ đạo mặc dù bị vua Nabucođonosor doạ bắt bỏ trong lò lửa. Ba nhà chiêm tinh của chúng ta cũng thế: họ can đảm lên đường đi tìm vua dân Do thái, bất chấp những khó khăn của hành trình, và kể cả nguy cơ bị vua Hêrôt ám sát.
Thánh Matthêu nói đến các nhà chiêm tinh, tại sao ba nhà chiêm tinh lại biến thành ba vua?
Theo các nhà chú giải Kinh thánh, các nhà “chiêm tinh” không phải là các ông thầy bói đâu, nhưng có thể so sánh như các nhà thiên văn, và cách riêng ở bên Ba-tư, họ thuộc hàng ngũ tư tế, làm cố vấn cho nhà vua về y khoa và thiên văn. Truyền thống dân gian gọi họ là “các vua” bởi vì móc nối với các lễ phẩm được nói ở thánh vịnh 72 câu 10 “Từ Tharsis và hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống. Cả những vua Ả-rập, Saba, cũng đều tới tiến dâng lễ vật. Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự”. Thực ra thánh vịnh 72 nói đến các vua chúa Ả-rập và Saba đến yết kiến vua Salomon vì khâm phục tài trí khôn ngoan của ông. Nhưng các Kitô hữu áp dụng cho các vua từ tứ phương đến thờ lạy Chúa Giêsu.
Làm sao mà có chuyện “tứ phương thiên hạ”, đang khi mà thánh Matthêu chỉ nói đến những nhà chiêm tinh đến từ phương Đông?
Trong tư tưởng thánh Matthêu, phương Đông chắc chắn không phải là Trung Hoa Việt Nam, mà chỉ là những nước nằm ở bên kia bờ sông Giorđanô, và các giáo phụ cho rằng có thể là từ Ba tư hoặc Ả-rập. Thánh Augustinô đã giải thích các đạo sĩ từ phương Đông như là “hoa trái đầu mùa của muôn dân sẽ được lãnh ơn cứu độ” (Sermo 200,1: PL 38,1028). Nhưng mãi đến thế kỷ XIII mới phát sinh truyền thống nói đến ba vua tượng trưng cho ba châu lục Âu, Á, Phi, thuộc ba dòng dõi của ông Noe: Sem, Cam, Japhet (St 10,1). Từ đó ta thấy ông vua da trắng, da vàng, da đen. Tưởng cũng nên biết là khi mới khám phá châu Mỹ, người ta cũng muốn thêm một ông vua da đỏ nữa, nhưng tục lệ này không được phổ biến cho lắm.
Ba vua không chỉ tượng trưng cho ba châu lục, mà còn có tên riêng nữa phải không?
Đúng thế. Từ thế kỷ VII, ba ông được đặt tên là Balthasar vua Ấn độ, Melchior vua Ba tư, Gaspar vua Ả-rập. Ta thấy các tên này không có màu sắc gì của châu Á và châu Phi cả! Chưa hết đâu, lưu truyền dân gian còn muốn rằng sau khi đã thờ lạy Chúa Giêsu, ba ông trở về Ba Tư. Về sau khi thánh Tôma tông đồ đi truyền giáo, ngài đã gặp lại ba ông và đã tấn phong giám mục cho họ, và cử họ đi loan báo Tin mừng. Cả ba được phúc tử đạo, thi hài được tôn kính ở Ba tư, rồi sau đó chuyển về Milanô (Italia), và từ cuối thế kỷ XII được hoàng đế Federicô I đem qua nhà thờ chánh toà Colonia (Đức).
Như vậy phần lớn chuyện ba vua là do truyền thống dân gian dựng nên. Còn thánh Matthêu muốn nói gì khi kể chuyện các nhà chiêm tinh đến thờ lạy Chúa?
Thánh Matthêu gói ghém nhiều sứ điệp trong đoạn Tin mừng mà phụng vụ công bố trong ngày lễ Hiển Linh. Như đã nói, thánh sử không nói đến các vua đến thờ lạy Hài nhi Giêsu, nhưng là các nhà chiêm tinh đi tìm thờ lạy Đức Giêsu là vua, như câu hỏi mà các ông đã đặt ra cho triều đình Hêrôđê: “Đức Vua của dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Ngài”. Các ông đi bái lạy Đức Giêsu như là Vua. Các giáo phụ giải thích ý nghĩa của 3 phẩm vật dâng tiến – vàng, hương, mộc dược – như là việc tuyên xưng ba phẩm tính của Người: vàng vì là vua, hương vì là Thiên Chúa, mộc dược như là con người hay chết. Tuy nhiên có lẽ thánh Matthêu không đi xa như vậy. Điểm chính mà thánh sử muốn nhắm tới đó là cho thấy rằng các dân ngoại từ phương xa đã biết nhìn nhận đức Giêsu là vua Mêsia, đang khi mà dân Do thái thì thờ ơ lãnh đạm, thậm chí còn muốn tìm cách thủ tiêu Người nữa.
Nhưng vua Hêrôđê đâu có giết được Chúa Giêsu?
Đúng vậy. Thánh Matthêu cho chúng ta biết rằng một thiên sứ đã hiện ra báo tin cho ông Giuse, và ông đã đưa Đức Mẹ và hài nhi Giêsu lánh nạn sang Ai cập. Tuy nhiên, điều xảy ra vào lúc giáng sinh ra như đã tiên báo số phận tương lai của Đức Giêsu: Ngài sẽ bị dân tộc của mình tẩy chay (Mt 21,42-43), nhưng các dân ngoại sẽ chấp nhận Tin mừng. Mặt khác, ra như thánh sử cũng biện minh phần nào thái độ của dân Do thái, đó là sự hiểu lầm của họ. Vua Hêrôđê nghe nói có một vị vua mới sinh ra, và ông lo ngại cho ngai báu của mình sẽ bị lung lay. Nhưng Đức Giêsu không phải là Vua theo nghĩa chính trị đâu. Ngài làm Vua theo nghĩa khác, vua Mêsia.
Làm sao các nhà chiêm tinh biết được có vua Mêsia giáng trần?
Qua dấu của ngôi sao. Nói cho đúng, chuyện một ngôi sao lạ như là điềm của một vĩ nhân giáng trần không phải là xa lạ trong lịch sử các dân tộc. Tuy nhiên, có lẽ thánh sử Matthêu không dựa vào lịch sử các tôn giáo cho bằng dựa vào chính truyền thống của dân Do thái. Từ đoạn văn sách Dân số (24,17) nói đến “một ngôi sao sẽ xuất hiện từ nhà Giacóp và vương trượng từ Israel”, các rabbi đã chú giải trong sách Targum như thế này: “Một vị vua sẽ chỗi dậy từ nhà Giacóp, và một vị cứu tinh từ nhà Israel”. Vào thời Tân ước, nhiều người gọi Đấng Mêsia như là ngôi sao nhà Đavít, như chúng ta thấy vết tích nơi sách Khải huyền chương 22,16. Trong lịch sử Kitô giáo, đã có nhiều cuộc tranh luận về bản chất của ngôi sao xuất hiện cho các nhà chiêm tinh: phải chăng đó là một sao chổi, hay một ngôi sao nào khác thường? Phải chăng ngôi sao trên bầu trời, hay chỉ là ngôi sao trong tâm hồn của các nhà chiêm tinh (nghĩa là hiểu theo nghĩa bóng)? Thánh sử Matthêu không nói rõ điều đó, mà chỉ ghi nhận rằng: các nhà chiêm tinh từ phương xa đã nhìn nhận Đức Giêsu là vị cứu tinh, và họ lên đường đi tìm kiếm để thờ lạy; còn chính các luật sĩ sống ở Giêrusalem cầm Kinh thánh trên tay, biết rằng Đức Mêsia sẽ giáng sinh tại Belem, nhưng họ không bận tâm tìm kiếm thờ lạy. Hình như bài học này vẫn còn giá trị cho cả chúng ta: chúng ta tự hào vì mình đã tin Chúa, biết Chúa, nhưng chẳng buồn tìm kiếm thờ lạy yêu mến Ngài; đang khi những người ngoại đạo thì lại gần gũi Chúa hơn bởi vì họ không ngừng tìm chính đạo và tuân giữ.
nguồn: Đaminh VN
Nếu chỉ phân tích từ ngữ Hán Việt, thì quả thực là khó nói. “Hiển linh” là gì? Trong Từ điển tiếng Việt do Viện Ngôn Ngữ học xuất bản, “Hiển linh” (động từ) được định nghĩa là: “thần thánh tỏ rõ sự linh thiêng, theo mê tín”. Từ điển Việt Nam do ông Thanh Nghị xuất bản năm 1958 cho rằng “hiển linh” là tĩnh từ, có nghĩa là: “linh thiêng, rõ ràng”. Xem ra đó cũng là ý kiến của ông Lê Thanh, tác giả cuốn Tiếng nói nôm na (1999): hiển linh là “rất linh thiêng, thiêng liêng lộ rõ ra bằng sự thật”. Dù hiểu “hiển linh” như động từ hay tính từ đi nữa, thì chẳng qua cũng là dịch bởi danh từ gốc Hy-lạp epiphania, có nghĩa là sự “hiện ra, bày tỏ”. Tân ước dùng từ này để nói đến việc Thiên Chúa đã xuất hiện (tỏ lộ, mặc khải) cho nhân loại ở nơi Đức Giêsu (Lc 1,79; Tt 2,11; 3,4), hoặc là việc Đức Kitô sẽ xuất hiện trong vinh quang ngày tận thế (2Tm 4,8; Tt 2,13). Phụng vụ (cách riêng là bên Đông phương) nói đến ba cuộc tỏ hiện của Chúa Giêsu: thứ nhất cho các đạo sĩ; thứ hai tại sông Hòa giang; thứ ba tại tiệc cưới Cana. Dù ba biến cố cách xa nhau hơn 30 năm trường, nhưng đều nhằm bày tỏ thiên tính của Đức Giêsu, đặc biệt vào chặng đầu của mầu nhiệm Nhập thể. Cả ba biến cố đều được ghi lại trong Phúc âm, và được tóm lại trong Điệp ca Magnificat Kinh chiều lễ Hiển linh.