THỨ HAI TUẦN V MÙA CHAY (năm C)
(Năm A và năm B theo bài Tin Mừng Chúa Nhật V Mùa Chay năm C)
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 12,44-50
Đức Giê-su lớn tiếng nói rằng: “Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi. Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối. Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì. Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi.”
II. SUY NIỆM
Hôm nay Chúa Giê-su khẳng địng Người là Ánh Sáng cho thế gian. Người là Ánh Sáng xuất phát từ Cội Nguồn Ánh Sáng là Chúa Cha, Người phản chiếu hình ảnh của Chúa Cha. Vì thế, mọi lời nói và công việc của Chúa Giê-su làm là theo điều Người đã thấy nơi Chúa Cha. Thế nhưng, người Do-thái đã dường như cố tình không nhận ra điều đó, bởi chính ánh sáng thật từ Thiên Chúa đã phơi bày mọi tâm can đen tối của con người.
1. Ánh sáng phơi bày những ẩn khuất nơi người Do-thái.
Sự đối lập giữa những người Do Thái ở thủ đô với Chúa Giêsu luôn là đề tài nóng trong cả bốn Tin Mừng. Cũng như ánh sáng không thể chung với bóng tối, bởi ánh sáng sẽ làm tỏ lộ ra tất cả những gì khuất tất. Chúa Giêsu là Ánh Sáng và Sự Thật. Sự xuất hiện của Người tại Giêrusalem đã làm phơi bày ra sự giả hình, ham mê quyền lực và trục lợi của các kinh sư – biệt phái và nhất là giới cầm quyền Do Thái. Chính vì thế mà họ đã tìm cách tẩy chay Chúa Giêsu, tiếc là họ không có lý do đủ mạnh ngoài việc bám víu vào luật Sa-bát, nhưng ngay cả luật này họ cũng bị Chúa Giêsu vạch trần những điều khoản tỉ mỉ do họ thêm vào mà sai lệch ý Thiên Chúa. Điều mà Chúa Giêsu khẳng định, tất cả việc Người làm là theo ý Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu là Ánh Sáng thuần khiết từ Thiên Chúa đi vào tấm lòng đồng trinh thuần khiết của Mẹ Maria. Vì thế mà mẹ đã cưu mang Ngôi Lời mà vẫn đồng trinh, tựa như ánh mặt trời chiếu qua tấm kính trong tinh khiết vào căn phòng rực ánh sáng mà tấm gương không bị ảnh hưởng. Trong khi, ánh sáng ấy chiếu đến sự mục nát xấu xa của giới chức Do Thái đã làm rõ ý đồ đen tối của họ, vì họ như tấm gương bám đầy bụi bẩn trần tục không thể tiếp nhận ánh sáng cho dân chúng, mà còn tìm mọi cách để che khuất và khử trừ Ánh Sáng.
Mọi người chúng ta ngày hôm nay cũng thế, khi chúng ta có tội hay đang theo đuổi những công việc mờ ám, thì chúng ta rất sợ đối diện với sự thật, và tìm cách diệt khẩu những ai có thể làm ý đồ và công việc chúng ta bị phơi bày.
2. Chúa Giê-su nói và làm điều người đã thấy nơi Chúa Cha.
Khác với chúng ta, trong mầu nhiệm Ba Ngôi, Chúa Giêsu có tri thức hưởng kiến và thấu rõ chương trình của Thiên Chúa Cha muốn thực hiện nơi Người. Như Người nói: “Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc. Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý” (Ga 5,19-21).
Như vậy, hai công việc mà Chúa Giêsu hằng làm như Chúa Cha làm chính là: Chúa Cha yêu thương thế nào thì Chúa Con yêu thương như vậy, và Chúa Cha cho kẻ chết sống lại thế nào thì Chúa Con cũng phục sinh ai Người muốn. Chính hai điều này mà Chúa Giêsu không ngại vượt qua những quy định thêm vào khắt khe của Biệt Phái về luật Sa-bát, Người dùng luật yêu thương để cứu chữa bệnh tật thân xác và phục sinh tâm hồn cho những ai tin vào Người: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5,24). Còn những ai không tin vào Chúa Giêsu như những người Biệt Phái kia thì tự loại mình ra, bởi: “Kẻ nào không tôn kính người Con, thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con” (Ga 5,23).
Như vậy, mọi người chúng ta hôm nay muốn làm theo ý Chúa Cha là khi chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô và sống luật yêu thương vượt trên tất cả mọi sự ràng buộc khác.
Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu Ánh Sáng Chúa vào tận nơi sâu thẳm của tâm hồn chúng con, để thánh hóa mọi bí ẩn tâm can và làm cho tâm hồn chúng con được sáng, hầu chúng con sống trọn vẹn giới luật yêu thương của Chúa. Amen.
THỨ BA TUẦN V MÙA CHAY
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 8,21-30
Đức Giê-su lại nói với người Do-thái: “Tôi ra đi, các ông sẽ tìm tôi, và các ông sẽ mang tội mình mà chết. Nơi tôi đi, các ông không thể đến được.” Người Do-thái mới nói: “Ông ấy sẽ tự tử hay sao mà lại nói: “Nơi tôi đi, các ông không thể đến được”? ” Người bảo họ: “Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã nói với các ông là các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết.”Họ liền hỏi Người: “Ông là ai? ” Đức Giê-su đáp: “Hoàn toàn đúng như tôi vừa nói với các ông đó. Tôi còn có nhiều điều phải nói và xét đoán về các ông. Nhưng Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã nghe Người nói.” Họ không hiểu là Đức Giê-su nói với họ về Chúa Cha. Người bảo họ: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu, và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy. Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi cô độc, vì tôi hằng làm những điều đẹp ý Người.” Khi Đức Giê-su nói thế, thì có nhiều kẻ tin vào Người.
II. SUY NIỆM
“Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ sẽ biết Tôi Hằng Hữu”
Sử dụng ngôn ngữ biểu tượng, bài Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo của Chúa Giêsu về cuộc khổ nạn của Người sắp chịu. Khác với ba lần nơi các Tin Mừng Nhất Lãm tiên báo cái chết một cách rõ ràng là Chúa Giêsu sẽ lên Giêrusalem chịu khổ nạn, thì Tin Mừng Thứ IV cũng tiên báo ba lần với cách nói: “Con Người được “giương cao lên” (x.Ga 3,14; 8,28; 12,32).
Con Người được giương cao lên, nghĩa là Chúa Giêsu sẽ phải bị treo lên trên thập giá, để nhờ công ơn Cứu Chuộc qua khổ giá, mà Người nâng mọi người lên cao khỏi thế gian, nâng cao lên cõi Trời với Người.
Theo chiều ngang, với cách nói nơi Tin Mừng Nhất Lãm rằng ai muốn theo Chúa thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo. Còn theo chiều dọc, Tin Mừng Thứ IV lại nói theo chiều đi lên, không chỉ vác mà còn phải được treo lên, nghĩa là phải cùng đóng đinh chính mình vào thập giá như Thầy.
Như vậy, dù “đi theo” hay “treo lên”, thì Kitô hữu cũng chung một phương thế duy nhất là phải qua thập giá mới đạt đến ơn Cứu Độ.
Điều lạ lùng mà Chúa Giêsu nói hôm nay là: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu”. Tại sao lại khi Người bị treo lên khổ giá thì lại là lúc Người “Có”? Có cái gì? Với cách dùng ngôn ngữ biểu tượng, văn chương Gioan khẳng định, Chúa Giêsu chỉ thật sự là hằng hữu khi Người chấp nhận “bị giương cao lên”, Thiên Chúa của người Kitô hữu phải là một Thiên Chúa chịu đóng đinh, “Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Thật vậy, sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu đến là để dùng thập giá mà cứu chuộc thế gian. Đó là niềm hy vọng lớn lao của nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã được sai đến thế gian là để cứu độ thế gian chứ không phải lên án thế gian. Xin cũng sai chúng con đến với mọi người, cho họ sự cứu vớt, chứ không phải đến để lên án đồng loại. Amen.
THỨ TƯ TUẦN V MÙA CHAY
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 8,31-42
Vậy, Đức Giê-su nói với những người Do-thái đã tin Người: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông.” Họ đáp: “Chúng tôi là dòng dõi ông Áp-ra-ham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do? ” Đức Giê-su trả lời: “Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do. Tôi biết các ông là dòng dõi ông Áp-ra-ham, nhưng các ông tìm cách giết tôi, vì lời tôi không thấm vào lòng các ông. Phần tôi, tôi nói những điều đã thấy nơi Cha tôi; còn các ông, các ông làm những gì đã nghe cha các ông nói.” Họ đáp: “Cha chúng tôi là ông Áp-ra-ham.” Đức Giê-su nói: “Giả như các ông là con cái ông Áp-ra-ham, hẳn các ông phải làm những việc ông Áp-ra-ham đã làm. Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi, là người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Áp-ra-ham đã không làm. Còn các ông, các ông làm những việc cha các ông làm.”
Đức Giê-su bảo họ: “Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi.
II. SUY NIỆM.
Tự do khỏi lề luật, tự do khỏi tội và tự do khỏi chết là 3 chiều kích cứu độ học trong các thư tín của thánh Phaolô. Một cách tương tự, Văn Chương Gioan cũng lần lượt khai triển về ba chiều kích này mà Chúa Giêsu thực hiện. Hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với người Do-thái là: “Ai phạm tội thì nô lệ cho tội…nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do” (Ga 8,34.36). Nghĩa là Chúa Giêsu giải thoát nhân loại để họ được tự do khỏi tội.
Đối tượng mà Chúa Giêsu giảng dạy hôm nay được Tin Mừng ghi rõ là “những người Do-thái đã tin Đức Giêsu”. Như thế, dù đã tin, nhưng tội vẫn còn đó khi chưa được Chúa Giêsu cứu chuộc thì vẫn bị tội lỗi giam giữ.
Thông thường, nô lệ được hiểu như là một người làm tôi tớ phục vụ một ông chủ, hoàn toàn lệ thuộc ông chủ, không còn quyền lợi gì trên mình kể cả mạng sống. Người Do-thái cũng nghĩ như thế, khi họ nói, chính họ nói họ không làm nô lệ cho ai cả. Thế nhưng, hiểu rộng hơn là, khi chúng ta bị lệ thuộc điều gì thì chính chúng ta đang nô lệ cho điều đó. Chẳng hạn người ham tiền bạc thì nô lệ cho tiền bạc, kẻ sống theo dục vọng thì bị lệ thuộc bởi xác thịt…
Thời chế độ chiếm hữu nô lệ, thì nô lệ như một món hàng để mua bán, ông chủ có nhiều tiền thì mua được nhiều nô lệ về làm công. Nô lệ thì vĩnh viễn là nô lệ, không có tài sản, không có quyền lợi, và mất hết tự do, thậm chí còn hèn kém hơn cả một vật nuôi trong nhà. Trừ khi có một ai đó đến trả một giá đắt mà chuộc lại họ và cho họ được tự do.
Khi tội lỗi xâm nhập trần gian, con người đắm chìm trong tội, nô lệ cho mọi khuynh hướng xấu, bị giam hãm trong tội nguyên tổ, sự xuống cấp của một luân lý suy đồi “tội trần gian” và làm tôi cho ma quỷ. Tự sức con người không thể tự giải thoát mình, nên cần đến ơn Cứu Độ, Chúa Giêsu đã phải trả giá đắt để chuộc con người và đưa con người trở nên con cái tự do.
Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi” (Ga 8,35). Các ông chủ mua bán nô lệ với nhau, và người nô lệ rời khỏi chủ này lại bị buộc làm nô lệ chủ khác và thậm chí còn thê thảm hơn; còn Chúa Giêsu, Ơn Cứu Chuộc của Người có đó, nhưng để cho con người sự tự do lựa chọn, vì từ ngày sáng tạo, Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do. Sau khi giải phóng con người, Chúa Giêsu không bắt họ phải làm nô lệ Thiên Chúa, mà là phục hồi cho họ quyền làm con, mà làm con thì được tự do hưởng quyền thừa tự và ở mãi trong nhà Cha mình.
Có thấy lấy ví dụ minh họa rằng: Tội nguyên tổ như một quả bom pha chế bằng thuốc kiêu ngạo rơi xuống cắt đứt con đường nối nhân loại với Thiên Chúa tạo nên một cái hố sâu ngăn cách, từ đó bên phía nhân loại không làm sao vượt qua cái hố sâu để đến với Thiên Chúa được nữa. Chúa Giêsu đã dùng cây thập giá như cây cầu bắc qua cái hố sâu đó, cây cầu làm bằng gỗ khiêm tốn. Tuy nhiên, cây cầu đã có đó, nhưng nhân loại có tự do, họ có quyền chọn lựa bước qua cầu để về bên kia, hay đã quá quen và an phận trong tội mà ở lại…
Tóm lại, ơn cứu độ của Chúa Giêsu đến giải thoát nhân loại chúng ta khỏi bị nô lệ cho tội lỗi nhữa, mà được làm con cái Thiên Chúa và thừa kế gia nghiệp với Chúa Giêsu trong nước Cha của Người.
Lạy Chúa Giêsu, đã gần đến ngày tưởng niệm mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa, xin cho chúng con ý thức thân phận làm con của chúa, để nếu chúng con đang yếu đuối trong tội lỗi, thì mau mắn chạy đến với toà cáo giải xưng thú hết mọi lỗi lầm, hầu được Chúa phục hồi lại ân sủng quyền làm con. Amen.
THỨ NĂM TUẦN V MÙA CHAY
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 8,51-59
Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết.”
Người Do-thái liền nói: “Bây giờ, chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ ám. Ông Áp-ra-ham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy; thế mà ông lại nói: “Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết.
Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Áp-ra-ham sao? Người đã chết, các ngôn sứ cũng đã chết. Ông tự coi mình là ai? ” Đức Giê-su đáp: “Nếu tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của tôi chẳng là gì cả. Đấng tôn vinh tôi chính là Cha tôi, Đấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông. Các ông không biết Người; còn tôi, tôi biết Người. Nếu tôi nói là tôi không biết Người, thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông. Nhưng tôi biết Người và giữ lời Người. Ông Áp-ra-ham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ.”
Người Do-thái nói: “Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Áp-ra-ham! ” Đức Giê-su đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu! “
Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giê-su lánh đi và ra khỏi Đền Thờ.
II. SUY NIỆM
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục diễn từ của Chúa Giêsu về chiều kích cứu độ. Những ngày qua, chúng ta đã suy niệm về chiều kích tự TỰ DO KHỎI LỀ LUẬT và TỰ DO KHỎI TỘI, hôm nay chúng ta suy niệm về chiều kích thứ ba là TỰ DO KHỎI CHẾT.
Để được tự do khỏi lề luật cần phải lấy luật yêu thương làm trọng (vượt qua cả sabát), để được tự do khỏi tội thì cần phải sống theo Sự Thật, và hôm nay để được tự do khỏi chết thì cần tuân giữ Lời của Chúa Giêsu.
Như thế nào là tự do khỏi chết?
Có lẽ trong chúng ta cũng không ít người có chung thắc mắc như người Do-thái xưa rằng: “Ông Áp-ra-ham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy; thế mà ông lại nói: “Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết?”.
Có lẽ để giải thích vấn đề này, mọi người chúng ta sẽ nghĩ ngay rằng đó là Chúa Giêsu nói đến cái chết linh hồn, nghĩa là không được vào cõi vĩnh hằng.
Điều đó đúng, nhưng cách mà Chúa Giêsu nói hôm nay, mang một ý nghĩa biểu tượng gần hơn với tương lai xa mà chúng ta suy nghĩ. Khi giải thích: để được tự do khỏi tội thì cần sống trong sự thật vì sự thật sẽ giải phóng anh em, Chúa Giêsu cũng tuyên bố Người chính là Sự Thật. Thì nay khi giải thích để được tự do khỏi chết thì cần giữ Lời, mà Lời đó chính là Chúa Giêsu, là Logos, là Ngôi Lời và Lời chính là Sự Sống.
Với cách viết ảnh hưởng của triết học Hi-lạp về Logos, Tin Mừng thứ IV dùng chữ Logos (Lời) để chỉ Chúa Giêsu, nhưng Logos ở đây là một ngôi vị đồng bản tính với Thiên Chúa. Như vậy, nhiệm ý của câu nói: “Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết?”, nghĩa là ai có Lời thì không chết, hoặc ai có Chúa Giêsu thì được sống vì chính Người là Sự sống.
Đến đây ta có thể hiểu được hạn từ “chết” và “sống” mà Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng hôm nay: Khi con người không có Lời trong mình, thì con người không có Sự Sống và không có Tình Yêu, mà không có sự sống thì cũng có nghĩa là chết. Sống đối lập với chết. Con người bị cái chết trói buộc khi nằm yên trong tội, khi không có lòng yêu thương, khi không phát triển đạo đức, không rao giảng Lời… Một cái xác chết thì nằm một chỗ bất động, thì người nằm yên một chỗ và không có sự tiến tới trong nhân đức, không dấn thân, khư khư giữ lấy mặt chữ của luật đã lỗi thời, ngủ yên trong tội thì có khác gì đã chết. Trái lại, người có Lời là Lời Sự Sống và Tình Yêu thì sống động, tiến tới và dấn thân theo luật Tin Mừng để đến với tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa thì sống động, có Chúa trong tâm hồn thì chúng con nên sáng láng, sống động và vui tươi, còn không có Chúa thì chúng con chỉ là cái xác chết tối tăm và bất động. Xin cho chúng con biết mở rộng lòng để Chúa đến ở trong và ở với chúng con, để chúng con thật sự sống và sống động trong tình yêu dành cho Chúa và tha nhân. Amen
THỨ SÁU TUẦN V MÙA CHAY
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 10,32-42
Người Do-thái lại lấy đá để ném Đức Giê-su. Người bảo họ: “Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà các ông ném đá tôi? ” Người Do-thái đáp: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa.” Đức Giê-su bảo họ: “Trong Lề Luật các ông, đã chẳng có chép lời này sao: “Ta đã phán: các ngươi là những bậc thần thánh”? Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ, thì tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian, làm sao các ông lại bảo tôi: “Ông nói phạm thượng! vì tôi đã nói: “Tôi là Con Thiên Chúa”? Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha.”
Bấy giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ.
Đức Giê-su lại ra đi, sang bên kia sông Gio-đan, đến chỗ trước kia ông Gio-an đã làm phép rửa, và Người ở lại đó. Nhiều người đến gặp Đức Giê-su. Họ bảo nhau: “Ông Gio-an đã không làm một dấu lạ nào cả, nhưng mọi điều ông ấy nói về người này đều đúng.” Ở đó, nhiều người đã tin vào Đức Giê-su.
II. SUY NIỆM
Mở đầu Bài Tin Mừng hôm nay nhắc ngay đến việc người Do-thái lượm đá ném Chúa Giêsu, vì họ cho rằng Người phạm thượng khi dám coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Luật Do-thái cho phép ném đá sau khi toà tuyên án tử hình cho phạm nhân. Còn đây, những người nghe Chúa Giêsu đã ném đá trực tiếp vào Người mà không cần xét xử, điều này cho thấy sự phẫn nộ của họ đã lên tới cực đỉnh. Họ coi việc phạm thượng đến Thiên Chúa như một tội tiền kết, đủ chứng cớ để tử hình mà không phải xét xử nữa.
Đối với Do-thái giáo, Thiên Chúa là Đấng duy nhất và không có thần nào khác ngoài Người. Giới răn thứ nhất và thứ hai trong thập điều dạy thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất và danh Thiên Chúa là chí thánh đến nỗi không được gọi danh Người. Cho nên ai dám xưng mình là ngang hàng Thiên Chúa thì là một trọng tội trên hết mọi tội trọng khác.
Có thể nói, người Do-thái không sai khi phản ứng lại mầu nhiệm đồng bản tính với Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng, vì toàn văn Thánh Kinh Cựu Ước (Luật và các Ngôn Sứ) không có một mặc khải minh nhiên nào về Thiên Chúa duy nhất Ba Ngôi. Thật vậy, mầu nhiệm “Một Chúa Ba Ngôi” chỉ được Chúa Giêsu là Đấng đến từ trời mặc khải cho nhân loại. Chính vì vậy, mà ở đây chúng ta không nói gì để lên án người Do-thái là cứng lòng tin, nhưng điều cần suy niệm hôm nay là ý thức nguồn gốc “con Thiên Chúa” của mình để sống sao cho xứng đáng, đồng thời tin tưởng vào Thiên Chúa qua những kỳ công Người thực hiện trong vũ trụ, trong con người và trong mỗi cuộc đời chúng ta.
1. Nguồn gốc thần linh.
Chúa Giêsu nhắc lại lời Thánh Vịnh 82 rằng: “Hết thảy các ngươi đây, đều là bậc thần thánh, là con Đấng Tối Cao” (Tv 82,6). Nói lên nguồn gốc con người có nguồn gốc thần linh, là con của Thiên Chúa. Mà đã là con thì không phải mang kiếp nô lệ.
Ở đây, ta không nhất thiết phải hiểu làm con theo kiểu “con vua thì lại làm vua”, nhưng cũng không sai, vì Chúa Giêsu đã cứu chuộc và cho con người được đồng thừa kế và hiển trị với Người.
Lại nữa, theo cách chú giải của thánh Augustino: “Chúa đã làm người để con người làm chúa”. Thánh nhân sử dụng chữ Domini và domini vừa có nghĩa là Chúa (viết hoa) vừa có nghĩa là ông chủ (viết thường). Như thế, nhờ công ơn cứu chuộc mà con người lãnh nhận, họ trở thành “vương đế”, nghĩa là làm chủ được chính mình trước tội lỗi, thế gian và ma quỷ.
2. Tin vào công việc Chúa làm.
Chúa Giêsu nói: “dù các ông không tin Tôi, ít ra cũng hãy tin các việc Tôi làm”.
Có vẻ như chính Chúa Giêsu cũng thừa nhận rằng, người Do-thái không thể tin được Người là một ngôi vị đồng bản thể với Thiên Chúa Cha, vì trong niềm tin của người Do-thái là độc thần, nên Người đành phải nại đến cớ “xem quả để biết cây” – nhìn những công việc Người thực hiện mà nhận ra quyền năng thiên tính của Người, mà cụ thể là chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền và phục sinh kẻ chết. Đặc biệt cách thực hiện của người không như các lang y, mà là ra lệnh cho mọi quyền lực ma quỷ, sự chết và tội lỗi phải tuân lệnh. Ngài dùng Lời sáng tạo để phục hồi: “hãy chỗi dậy, hãy sáng mắt, hãy ra khỏi người này…” giống như ngay từ lúc sáng tạo, Thiên Chúa phán: “hãy có ánh sáng,hãy có tinh tú…” và tức khắc xảy ra như vậy.
Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ, chính Chúa Giêsu đã khẳng định, con người chỉ biết có Thiên Chúa hiện hữu qua công trình sáng tạo, qua muôn kỳ công của Người, sự quan phòng của Người, và đặc biệt Người được mặc khải tròn đầy qua Chúa Giêsu Kitô. Người ta cũng nhận biết có Thiên Chúa qua Hội Thánh và qua các chứng nhân: vũ trụ sẽ ra sao nếu không có sự an bài của một quyền năng thượng trí sắp đặt, sự khôn ngoan ở đâu khi những con người ít học như các Tông Đồ mà lại trở nên lợi khẩu và làm những việc phi thường…
Với người vô thần thì tất cả chỉ là ngẫu nhiên và là những sự trùng hợp nào đó, đến nỗi những phép lạ hiển nhiên nơi Phatima, Lộ Đức… cũng chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên. Họ không tin có Thiên Chúa đã đành, họ cũng tìm cách chống chế những gì tốt đẹp mà Giáo Hội và mỗi người Công Giáo đã thực hiện.
Còn không ít người Công Giáo thì lại thích tin theo những cái “được coi là mạc khải tư” nào đó hơn là tin vào Chúa Giêsu là mặc khải tròn đầy về Thiên Chúa được ghi lại trong Thánh Kinh và kho tàng đức tin nơi Giáo Hội.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con hôm nay biết ý thức vai trò làm con Thiên Chúa để sống cho xứng đáng là con thảo của Cha trên trời. Đồng thời luôn nhận ra Chúa hiện diện trong mọi kỳ công của vũ trụ, trong thế giới, trong con người và trong mọi biến cố cuộc đời. Amen.
THỨ BẢY TUẦN V MÙA CHAY
ĐẠI LỄ THÁNH CẢ GIUSE – BỔN MẠNG GIÁO HỘI VIỆT NAM
I. ĐỌC TIN MỪNG: Mt 1,16.18-21.24a
Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.
Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy
II. SUY NIỆM.
Bài Tin Mừng trong Lễ thánh cả Giuse hôm nay, chúng ta được thánh sử Matthêu giới thiệu cho chúng ta về thánh cả Giu-se là người cha “pháp lý” của Chúa Giê-su trong sự kiện nhập thể, giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Giê-su.
Bản văn Tin Mừng hôm nay được coi như là một trong ba bản văn Thánh Kinh Tân Ước tường thuật về các cuộc truyền tin, mà đây là cuộc truyền tin dành cho thánh Giuse. Thiên Chúa sai thiên thần đem đến cho thánh Giuse sứ điệp nhận lấy sứ mạng làm cha nuôi Chúa Cứu Thế và giữ gìn Đức Trinh Nữ Maria.
Thánh ký Matthêu khi tường thuật cuộc truyền tin, cũng đồng thời giới thiệu cho chúng ta tước hiệu của thánh cả Giuse – người công chính – và vai trò đặc biệt của ngài trong tư cách người cha pháp lý của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người. Đó cũng là hai ý tưởng chính mà chúng ta cùng suy niệm hôm nay:
1. Thánh Giuse – Người Công Chính.
Trong thời Cựu Ước, xuất hiện một vĩ nhân có tên là Giu-se (con của tổ phụ Gia-cóp, bị bán qua Ai-cập), người được mệnh danh là “người công chính” khi từ chối thoả mãn xác thịt với bà vợ của một vị quan trong triều đình, và chấp nhận án oan rồi bị tống giam; rồi sau khi giải mộng cho vua Pha-ra-ô, Giu-se được cất nhắc lên chức tể tướng và quản lý lương thực của Ai-cập; để rồi khi dân đói đến kêu xin vua Pha-ra-ô thì vua bảo: “Hãy đến cùng Giu-se”.
Danh hiệu “người công chính” gán cho ông Giu-se thời Cựu Ước, nay được thánh ký Mát-thêu dành cho thánh cả Giu-se, và câu nói của vua Pha-ra-ô “hãy đến cùng Giu-se” xưa cũng được Người Công Giáo xưa nay dành cho thánh cả Giu-se, khi làm biểu ngự đặt dưới chân tượng thánh Giu-se: “Ite ad Joseph”.
Tuy nhiên, trong sự kiện mà bài Tin Mừng hôm nay tường thuật, câu “Giu-se là người công chính” (Mt 1,19) phải hiểu như thế nào?
Có người vì đạo đức đã suy tư rằng, vì thánh Giu-se cảm thấy mình không xứng đáng với Đức Mẹ và Chúa Ngôi Hai nên đã tìm cách rút lui. Điều này rất không chính xác, ai giải thích như thế là không đọc Tin Mừng cho đầu đuôi, cắt lấy một cái ngọn rồi chú giải sai.
Bởi vì, đọc tiếp Tin Mừng, sẽ thấy chuyện Giuse muốn dùng kế “đào vi” để “rút êm” khi chưa được thiên thần báo mộng cho biết bào thai từ lòng Đức Mẹ là do đâu. Cho đến khi được thiên thần giải thích: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Khi biết được rõ ràng cái bào thai không do “tác giả” nào khác, mà là do quyền năng Chúa Thánh Thần, thánh Giuse đã đón Đức Mẹ về (không biết có làm đám cưới không nữa?).
Chuyện như thế, tại sao, thánh sử Mát-thêu lại gọi thánh Giu-se là người công chính?
Tin Mừng giải thích rằng: “Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).
Để giải thích, chúng ta cần biết rằng, Tin Mừng nói rõ mẹ Maria đã thành hôn với ông Giu-se (x. Mt 1,18), dù chưa về chung sống, nhưng nếu Maria có thai với “ai khác” thì bị kết vào tội ngoại tình, mà theo luật Do Thái, tội ngoại tình sẽ bị đưa ra giữa thanh thiên bạch nhật và bị ném đá chết. Có lẽ đây là một dằn vặt lớn nhất cho thánh Giuse, bởi nếu tố cáo thì chắc chắn Maria sẽ bị ném đá chết. Thế rồi, Giu-se chọn cách rút êm, sẵn sàng nhận cho mình “án oan vô trách nhiệm” không thừa nhận đứa con và người vợ, chấp nhận chịu tiếng xấu của người đời, chứ không tố cáo vợ để Maria phải chịu tử hình ném đá. Khi tìm hiểu đến đây, chúng ta thấy phảng phất lại hình ảnh của Giuse-“người công chính” trong Cựu Ước đã chấp nhận án oan, chứ không tố cáo người khác. Đấy là cách mà thánh sử Mát-thêu khôn khéo so sánh.
Như vậy, biệt danh công chính của thánh cả Giu-se, bắt đầu từ việc chấp nhận phần thiệt cho mình để cứu người khác, dĩ nhiên cả cuộc đời của thánh cả Giu-se là một Đấng Công Chính rồi.
2. Thánh Giuse – người cha pháp lý của Chúa Giê-su.
Quan niệm Phương Đông, việc đặt tên cho con trẻ nói lên quyền pháp lý của một người cha hợp pháp, chịu trách nhiệm dưỡng dục và khai sinh cho con từ dân sự đến tôn giáo.
Xét theo Thánh Kinh và nòi giống lưu truyền trong nhân loại, Chúa Giê-su nhập thể “làm người”, Người cần có một gia phả trong gia đình nhân loại. Đồng thời, để lời các ngôn sứ được ứng nghiệm nguồn gốc vương đế thuộc dòng tộc Đa-vít, mà trong đó, chính thánh Giu-se là con cháu của vua Đa-vít.
Xét theo tính pháp lý, Chúa Giê-su cần một sự hợp pháp trong việc khai sinh, mẹ Maria cần có một người chồng pháp lý về mặt dân sự, nếu không sẽ bị khai trừ khỏi đời sống tôn giáo lúc bấy giờ và bị người đời khinh miệt.
Lại nữa, Chúa Giê-su và mẹ Ma-ri-a cần một mái ấm và một nơi nương tựa, cần được bảo vệ và chăm sóc, nhất là trong thời kỳ thơ ấu của Chúa Giê-su.
Như vậy, vai trò của thánh Giu-se thật cao cả, dù chỉ là cha nuôi, nhưng thánh nhân đã chu toàn trách nhiệm dưỡng dục bảo vệ tính hợp pháp cho “bản tính nhân loại” của Chúa Giê-su, cũng như trở nên nơi nương tựa tuyệt vời cho mẹ Maria và Chúa Ngôi Hai.
Cuối cùng, một điều rất đặc biệt của thánh Giuse mà có lẽ tác giả viết Tin Mừng cũng chào thua là không tìm được một lời nào của thánh Giuse cả dù trong khi tường thuật về một cuộc truyền tin quan trọng như thế. Được thiên thần hiện ra tỏ tường giữa ban ngày mà Giacaria còn vặn hỏi, mẹ Maria còn đối đáp, còn thánh Giuse thì toàn bộ Thánh Kinh không tìm được lời nào của ngài. Điều này cho thấy, thánh Giuse là một con người của niềm tin và sự chiêm ngắm kết hiệp với Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc, thậm chí nhận ra cả ý Chúa trong giấc mơ. Ngài tin tưởng tuyệt đối vào ý định của Thiên Chúa, và từ đó tin tưởng người bạn đời là Đức Maria. Niềm tin thể hiện bằng hành động, khi ngài vui vẻ đón nhận mẹ Maria và tận tuỵ lo cho gia đình Thánh Gia được êm ấm.
Tóm lại, bài Tin Mừng nhân ngày Đại Lễ kính thánh cả Giuse, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngưỡng tấm gương thánh cả Giuse, là một người công chính, một người gia trưởng mẫu mực và là một con người của niềm tin luôn sống theo thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho mọi người chúng con biết noi gương thánh cả Giuse,sống công chính thánh thiện trước mặt Thiên Chúa, tận tuỵ phục vụ tha nhân, và đặc biệt khi gặp hó khăn nguy khốn cũng biết chạy đến cùng thánh Giuse, để được ngài hướng dần bầu cử cho chúng con.
HÃY ĐẾN CÙNG GIUSE – ITE AD IOSEPH – Amen.
Hiền Lâm