Thứ Tư, 25 Tháng 6, 2025

Suy niệm Tin Mừng tuần XXXIII Thường Niên (Hiền Lâm).

 
 
THỨ HAI TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN
 
I. ĐỌC TIN MỪNG: Lc 18,35-43
Khi Đức Giê-su gần đến Giê-ri-khô, có một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. Nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. Họ báo cho anh biết là Đức Giê-su Na-da-rét đang đi qua đó. Anh liền kêu lên rằng: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! ” Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi; nhưng anh càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! ” Đức Giê-su dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đến gần, Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh? ” Anh ta đáp: “Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được.” Đức Giê-su nói: “Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.
 
II. SUY NIỆM
Bài Tin Mừng nay kể chuyện một anh mù được Chúa Giêsu thương chữa lành, nhờ lời kêu xin khẩn thiết và lòng tin của anh ta.
 
1. Sự khao khát của người mù.
– Đám đông ban đầu là những người giúp anh mù biết được có Chúa Giêsu đi qua, nhưng cũng chính đám đông đó quát mắng bắt anh im lặng và ngăn cản anh gặp Chúa.
– Tuy nhiên, lời kêu xin của anh mù vượt qua mọi rào cản, và càng bị ngăn cấm anh càng kêu xin lớn tiếng hơn, cho thấy lòng khao khát được gặp Chúa và được chữa lành.
– Điều đáng nói là ở đây, toàn đám đông là những người sáng mắt, nhưng không ai trong họ nhận ra Đức Giêsu là Chúa, mà chỉ thấy một Đức Giêsu thành Nazareth, nghĩa là một Đức Giêsu trong bản tính nhân loại. Còn anh mù không thấy gì nhưng lại nhận ra một Đức Giêsu “Con Vua Đavid”, nghĩa là một vị Chúa, một Đức Giêsu trong bản tính thần linh.
Như vậy:
• Trong cuộc sống, đôi khi có những người bảo cho ta biết có Chúa, nhưng cũng chính họ cản bước chúng ta đến với Người, qua lời nói và hành động của họ.
• Nhưng dù thuận tiện hay không thuận tiện, để được gặp Chúa và được Chúa chữa lành bệnh tật thể xác hay tâm hồn, chúng ta cần phải có một sự khao khát mãnh liệt, dám vượt qua mọi chướng ngại, mọi khó khăn để đến với Chúa và hết lòng kêu xin Người.
• Có thể chúng ta cũng như đám đông kia, tuy chúng ta sáng mắt, nhưng con mắt tâm linh chúng ta mù tối. Không thấy Chúa hiện diện trong Thánh Thể, trong các Bí Tích, trong tha nhân và trong mọi biến cố của cuộc sống. Đến với anh em, chúng ta chỉ nhìn thấy toàn những sự thấp hèn nhân loại mà không thấy Chúa hoạt động trong họ. Đôi mắt tâm hồn chúng ta vẫn mù nên không thấy được những lần Chúa đi qua đời ta trong những biến cố của cuộc đời.
Vậy, hãy như anh mù trong Tin Mừng, chúng ta cầu xin Chúa cho con mắt đức tin chúng ta được sáng, để chúng ta thấy Chúa hiện diện khắp mọi nơi.
 
2. Lòng tin của anh đã cứu anh.
– Hầu như mọi lần chữa lành bệnh tật cho ai, Chúa Giêsu đều nói đến lòng tin đã cứu họ. Đức Tin là điều kiện đầu tiên để được chữa lành và phép lạ chỉ xảy ra khi thụ nhân tin vào Đấng chữa lành.
– Niềm tin của anh mù là tin nơi con người Đức Giêsu là một “Con Vua Đavid”, là Đấng có khả năng chữa lành. Niềm tin của anh là chỉ có Thiên Chúa mới chữa lành được cho anh sáng mắt mà thôi.
Có lẽ trong đám đông đi với Chúa Giêsu hôm đó không thiếu những người mắc bệnh này bệnh kia, nhưng không có ai trong họ được chữa lành, vì như bài Tin Mừng ghi lại, họ nói là “có Đức Giêsu Nazareth đi qua”, nghĩa là trong mắt họ, chỉ là một con người Giêsu và như một lang y mà thôi.
Như vậy:
* Như thánh Augustino từng nói: “Chúa sáng tạo nên con không cần con, nhưng để cứu chuộc con thì cần có con cộng tác”. Chính đức tin là sự cộng tác với ơn Chúa và phép lạ chữa lành mới diễn ra, ơn cứu độ mới được thực hiện. Chúng ta được cứu độ nhờ tin vào Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải nhờ ỷ thế vào sức mình tuân giữ lề luật.
* Nhờ đức tin mà chúng ta được chữa lành mọi vết thương thiêng liêng trong tâm hồn, và cũng nhờ đức tin mà chúng ta có thể vượt thắng những bệnh tật thể xác.
* Nhờ đức tin thúc đẩy, chúng ta dám khởi công bắt ta vào việc xây dựng cuộc sống cho mình, cho anh chị em mình, rồi Chúa sẽ tiếp tay giúp sức chúng ta bằng quyền năng vô biên của Ngài, để hướng dẫn và biến đổi công việc nhỏ bé của chúng ta trở thành công trình to lớn, vĩ đại, phi thường.
 
Lạy Chúa Giê-su,
Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con và xin mở con mắt tâm hồn đang mù lòa của chúng con, để chúng con nhận ra Chúa nơi mọi người, để sống tình tương thân tương ái với họ, hầu giúp nhau gặp được Chúa. Amen.
 
 
THỨ BA TUẦN XXXIII THƯỜG NIÊN
 
I. ĐỌC TIN MỪNG: Lc 19,1-10
Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. Ở đó có một người tên là Da-kêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông! ” Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ! ” Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”
 
II. SUY NIỆM
Bài Tin Mừng hôm nay lại một lần nữa cho ta thấy, Chúa luôn sẵng sàng đón nhận bất kỳ ai trở về với Người. Điều quan trọng là phải tìm gặp Người, đón Người vào nhà, bỏ lại quá khứ và cải hoá đời sống. Câu chuyện Giakêu trong Tin Mừng cho ta thấy rõ điều đó.
 
1. Tìm gặp Chúa và biến đổi.
Một trong những tội bị ghét nhất từ cổ chí kim là “cõng rắn cắn gà nhà”, hay là “nối giáo cho giặc”, vì họ cộng tác với ngoại bang để làm khổ anh em đồng bào của mình. Là nhân viên thuế vụ, Giakêu làm việc cho Rôma đang cai trị dân tộc Dothái, sưu cao thuế nặng, ức hiếp dân lành và làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của dân. Người Do Thái thời ấy coi kẻ thu thuế là vừa phản đạo vừa phản quốc và coi họ đứng hàng ngang với gái điếm, phải bị bị loại trừ bằng vạ tuyệt thông cách ly. Không ai thèm chơi với họ. Họ chỉ chơi với quân xâm lược La mã và những tín đồ cặn bã của các Hội đường. Giakêu biết tất cả những điều ấy nhưng ông vẫn bất chấp, vì đổi lại ông được chức vụ rất hấp dẫn, đem lại của cải giàu sang.
Thế rồi, một ngày kia, Giakêu bỗng tò mò muốn thấy Chúa Giêsu là người thế nào mà được nhiều người luôn vây kín để nghe Người nói chuyện. Kẹt cho ông là ông quá lùn, mà người vây quanh Chúa Giêsu lại đông, hơn nữa ông lại mặc cảm vì nghề nghiệp bị mọi người dị nghị , nên ông có sáng kiến là trèo lên nấp trên cây sung để nhìn lén Chúa.
Như thế, điều kiện đầu tiên để được Chúa đón nhận, trước hết là phải tìm gặp Người, điều kiện thứ hai là phải vượt qua sự mặc cảm của quá khứ, đặc biệt là vượt qua mọi thứ ngăn cản mình đến với Chúa.
Chúa nhận ra Giakêu và Người đã gọi ông, ông vui mừng, vượt qua mọi mặc cảm, ông đón người vào nhà mở tiệc khoản đãi. Rồi ông đã đứng lên hứa với Chúa sẽ dùng nửa gia tài để phân phát chia sẻ cho người nghèo, và đền trả những gì thiệt hại mà ông đã gây ra cho kẻ khác. Lạ thật, gặp được Chúa, có Chúa đến trong nhà mình, ông Giakêu từ một con người chỉ biết tham lam vơ vét của cải, bây giờ lại biến đổi 180 độ, trở lành con người bác ái yêu thương.
Như vậy, khi đã gặp được Chúa và đón rước Chúa vào tâm hồn, con người được biến đổi hoàn toàn.
 
2. Chúa kêu gọi người tội lỗi.
Một nhà thương mà chỉ nhận săn sóc cho người mạnh khỏe thì quả thật là một nhà thương tồi tệ, bởi người khoẻ mạnh thì không cần đến bác sĩ… Cũng thế, Chúa Giêsu không còn là Ðấng Cứu Thế nữa, nếu Người chỉ muốn tiếp xúc với những con người tự phụ cho mình là công chính không cần đến Thiên Chúa.
Luật Do Thái coi ai tiếp xúc với kẻ thu thuế là đồng loã với tội lỗi và bị nhiễm uế, Chúa Giêsu vượt trên tất cả, Ngài đến đồng bàn trong bữa tiệc “tạ ơn”, “giải nghệ” và “chia tay đồng nghiệp” của Giakêu.
Người Do Thái coi người thu thuế, một hạng người được coi làm tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Ðế Quốc La Mã thời đó, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi và không tốt. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật luôn nghĩ xấu cho người khác. Chúa nói với họ: “Ta đến không để gọi những người công chính mà là gọi những người tội lỗi” và “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần “.
Đến với người thu thuế không có nghĩa là đồng loã với họ. Đến với họ, để mở cho họ con đường trở về.
Còn bạn, nếu lúc này, bạn đang sống trong tội, hãy mau “trèo lên cao” rũ bỏ quá khứ mà tìm gặp Chúa, đón Chúa vào căn nhà tâm hồn mình, để được Chúa ban ơn giúp bạn biến đổi nên con người mới.
Bạn cũng hãy học theo Chúa với cái nhìn bao dung và không thành kiến với mọi người. Để rồi bạn không ngần ngại đến với những người tội lỗi và đem họ về với Chúa…
 
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa luôn sẵng sàng đón nhận bất kỳ ai trở về với Chúa, xin cho chúng con luôn tìm gặp Ngài và đón Ngài vào tâm hồn, để rồi nhờ ơn Chúa, chúng con bỏ lại quá khứ và cải hoá đời sống hầu xứng đáng trở nên người môn đệ của Chúa. Amen.
 
 
THỨ TƯ TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN
 
I. ĐỌC TIN MỪNG: Lc 19,11-28
Khi dân chúng đang nghe những điều ấy, thì Đức Giê-su lại kể thêm một dụ ngôn, vì Người đang ở gần Giê-ru-sa-lem và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi. Vậy Người nói: “Có một người quý tộc kia trẩy đi phương xa lãnh nhận vương quyền, rồi trở về. Ông gọi mười người trong các tôi tớ của ông đến, phát cho họ mười nén bạc và nói với họ: “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến.” Nhưng đồng bào ông ghét ông, nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng: “Chúng tôi không muốn ông này làm vua chúng tôi.
“Sau khi lãnh nhận vương quyền, ông trở về. Bấy giờ ông truyền gọi những đầy tớ ông đã giao bạc cho, để xem mỗi người làm ăn sinh lợi được bao nhiêu. Người thứ nhất đến trình: “Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén. Ông bảo người ấy: “Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành. Người thứ hai đến trình: “Thưa ngài, nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén. Ông cũng bảo người ấy: “Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành.
Rồi người thứ ba đến trình: “Thưa ngài, nén bạc của ngài đây, tôi đã bọc khăn giữ kỹ. Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo.Ông nói: “Hỡi đầy tớ tồi tệ! Tôi cứ lời miệng anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo. Thế sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng? Có vậy, khi tôi đến, tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời chứ! Rồi ông bảo những người đứng đó: “Lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén. Họ thưa ông: “Thưa ngài, anh ấy có mười nén rồi! -“Tôi nói cho các anh hay: phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi.
“Còn bọn thù địch của tôi kia, những người không muốn tôi làm vua cai trị chúng, thì hãy dẫn chúng lại đây và giết chết trước mặt tôi.”
Nói những lời ấy xong, Đức Giê-su đi đầu, tiến lên Giê-ru-sa-lem.
 
II. SUY NIỆM
Một vài gợi ý suy niệm:
– Một ông chủ đi xa trao lại cho các đầy tớ gìn giữ những nén bạc của ông. Nghĩa là khi dựng nên chúng ta, Thiên Chúa trao cho chúng ta một ân huệ tuỳ khả năng từng người, rồi Người ban cho chúng ta sức khoẻ, thời giờ, tài năng, để chúng ta làm sinh lợi cho Ngài.
– Người nhận hai nén hay năm nén hoặc một nén là tuỳ khả năng mà ông chủ tín nhiệm giao cho. Điều ông chủ muốn là sinh lời chứ không phải chôn giấu tiền bạc của ông chủ để chờ khi ông về trả lại. Cũng vậy, Thiên Chúa ban cho ta ơn đức tin qua Hội Thánh, chúng ta cần làm cho đức tin lớn mạnh qua việc thực thi đức ái Kitô Giáo, chứ không phải cứ lấy lý do “đạo tại tâm” rồi không làm gì cả.
– Người nhận hai nén và năm nén đã sinh lợi gấp đôi, nghĩa là những ai biết dùng ơn Chúa để hoàn thiện bản thân và mưu ích cho tha nhân, cho cộng đoàn, giáo xứ và Giáo Hội.
– Người nhận một nén đã chôn giấu đi, nghĩa là dù mang trên mình ấn tích rửa tội nhưng đã không sống đạo, đã để cho hạt giống đức tin bị chôn vùi và không sinh hoa trái gì cho đời sống thiêng liêng.
– Cái khác nhau ở chỗ là: người làm sinh lợi là người tin tưởng và yêu mến ông chủ nên đã tự nguyện làm việc nên đáng được ông chủ thưởng công; còn người sợ ông chủ và nghĩ xấu về ông chủ là người hà khắc nên đã sợ sệt đem chôn giấu nén bạc. Chúng ta cũng vậy, khi chúng ta tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa mà sống đạo, thì tự sự yêu mến sẽ sinh hoa kết quả; còn khi chúng ta làm vì sợ Chúa phạt thì không đem lại công phúc gì.
 
– Cuối cùng kẻ có được cho thêm, còn kẻ không có thì ngay cả cái đang có cũng sẽ bị lấy đi, nghĩa là Chúa ban cho chúng ta tài năng, cơ hội…, nếu chúng ta không chuyên cần cố gắng trau dồi, thì tự nó sẽ thui chột đi.
 
Lạy Chúa,
Chúa ban cho chúng con khả năng và thời giờ để tiếp nối công trình tạo thành và cứu chuộc của Chúa, xin cho chúng con biết dùng ân huệ đó mà phụng sự Chúa và phục vụ anh em, chứ không phải giữ lại cho riêng mình và không làm sinh lợi gì cho nước Chúa và phần rỗi đời đời của chúng con. Amen.
 
 
THỨ NĂM TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN
 
I. ĐỌC TIN MỪNG: Lc 19,41-44
Khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương mà nói: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm.”
 
II. SUY NIỆM
Toàn bộ các Tin Mừng, chỉ thấy nhắc tới hai lần Chúa Giêsu khóc, nhưng không phải khóc cho chính Người lúc giáng sinh hay khi chịu tử nạn, mà là khóc cho số kiếp của một người bạn (Lazarô) và khóc cho số phận của một dân thành đã không nhận ra giờ Chúa viếng thăm.
Hôm nay khi vừa nhìn thấy thành Giêrusalem, Chúa Giêsu đã khóc thương nó, vì thấy trước viễn cảnh sụp đổ bình địa của thành, vì dân thành đã không tin vào Người.
Chúa Giêsu đã khóc, vì dường như bất lực trước sự cứng lòng của dân Do Thái thành Giêrusalem, Người làm được mọi sự, nhưng đối với sự cứng lòng của người Do Thái, Người không thể làm gì trước tự do của họ. Có thể nói, Thiên Chúa dường như bất lực trước sự tự do mà Người đã ban cho con người. Người Do Thái là dân Chúa chọn nên họ đáng hưởng nhiều đặc ân, nhưng thực tế họ không được gì. Bởi Chúa đã giáng sinh nơi quê hương họ để cứu chuộc họ, nhưng họ đã không đón nhận.
Lịch sử dân Do Thái được ghi lại trong toàn bộ Thánh Kinh là: Khi họ trung thành tin tưởng vào Chúa thì họ được an cư lạc nghiệp, và ngược lại, lúc họ bỏ Chúa thì tai ương ập đến và phải làm nô lệ cho ngoại bang. Những lần dân Do Thái biết nghe lời các ngôn sứ mà quay trở về với Chúa thì Chúa sẽ gửi một vị lãnh đạo đến giải thoát họ khỏi quân thù. Thế nhưng, giờ này họ đang bị áp bức bởi đế quốc Rôma, Chúa Giêsu đến kêu gọi họ ăn năn sám hối và tin vào sứ điệp Tin Mừng của Người, Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem lần cuối cùng này để thực hiện cuộc Vượt Qua đem lại ơn cứu rỗi, hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau. Ðây là giờ Thiên Chúa viếng thăm, giờ mang đến ơn cứu rỗi. Tuy nhiên, những vị lãnh đạo Do thái tại Giêrusalem không những từ chối, mà còn xách động dân chúng chối bỏ Chúa, yêu cầu quan Philatô ra lệnh đóng đinh Chúa vào thập giá. Chính vì sự khước từ của họ, nên vào năm 70 thành thánh Giêrusalem đã bị Rôma phá hủy bình địa và dân Do Thái tản mác khắp địa cầu.
Ngày nay người Do Thái vẫn còn đến bên bức tường đổ nát của cổ thành Giêrusalem để than khóc cho số phận của đất nước và tiếp tục chờ mong Đấng Messia như họ muốn. Nhưng trớ trêu thay lúc Đấng Messia thật đến viếng thăm họ thì họ đã chối từ và xử tử ! Tại vì họ đã không nhận biết giờ họ được Chúa viếng thăm.
Ðiều xảy ra cho thành Giêrusalem cũng có thể xẩy đến cho mỗi người ở mọi thời: mỗi người đều có những giây phút hồng phúc được Chúa viếng thăm đem đến ơn lành. Theo quan niệm Kinh Thánh, giây phút Thiên Chúa viếng thăm là giây phút Người thực hiện lòng nhân từ. Chỉ có một lý do cho cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, đó là thể hiện lòng nhân nghĩa đối với những người được Người viếng thăm. Do đó, nếu không đón nhận giờ Chúa viếng thăm, con người sẽ mãi mãi mất đi cơ hội được hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa.
Giờ Chúa viếng thăm bất kỳ lúc nào trong mọi biến cố xảy đến cho từng người, nên cần sự tỉnh thức để nhận ra ý Chúa. Đặc biệt, như lần cuối cùng Chúa Giêsu lên Giêrusalem xưa và dân Do Thái đã mất đi cơ hội cuối cùng, thì này giờ Chúa viếng thăm cuối cùng trong cuộc đời dương thế của mỗi người, nếu không đón nhận Người thì sẽ vĩnh viễn đi vào cõi diệt vong.
 
“Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi”. Đó cũng là lời Thánh Vịnh đầu tiên chúng ta đọc mỗi sáng “Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người và đừng cứng lòng nữa” (Tv 94). Lời này mỗi ngày nhắc nhở chúng ta “nhận biết” tiếng Chúa nói với chúng ta suốt ngày, và chúng ta đừng cứng lòng như thành Giêrusalem xưa.
 
Lạy Chúa, Chúa đã khóc thương Giê-ru-sa-lem trước viễn tượng thành thánh bị hoang tàn đổ nát. Xin cho con cũng biết thương cảm thân phận tội lỗi, yếu hèn của chính mình mà đón nhận ân sủng của Chúa đã trao ban qua các Bí tích và Hội Thánh của Người; nhờ đó con biết thật lòng ăn năn sám hối và sống theo Tin Mừng của Chúa, để thời gian sống: ngày giờ năm tháng có ý nghĩa hơn trong cuộc viếng thăm của Người. Amen.
 
 
THỨ SÁU TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN
 
I. ĐỌC TIN MỪNG: Lc 19,45-48
Đức Giê-su vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán và nói với họ: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp! “
Hằng ngày, Người giảng dạy trong Đền Thờ. Các thượng tế và kinh sư tìm cách giết Người, cả các thân hào trong dân cũng vậy. Nhưng họ không biết phải làm sao, vì toàn dân say mê nghe Người.
 
II. SUY NIỆM
Tin Mừng hôm nay kể về việc Chúa Giêsu lên Đền Thờ Giêrusalem, Người đã nổi giận xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ. Qua sự kiện này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta biết tôn trọng nơi thánh, đồng thời tôn trọng thân xác và tâm hồn chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự.
 
1. Đừng biến Nhà Cha Ta thành hang ổ trộm cướp.
Đền thờ Giêrusalem được nói đến đây là đền thờ thứ ba được vua Hêrôđê Cả xây dựng (đền thờ đầu tiên do vua Salômon, đền thờ thứ hai thời Esdra-Nơkhemia đã bị tàn phá) có ba phần bao gồm Nơi Cực Thánh, Nơi Thánh và Sân Chư Dân. Hằng năm, các dịp lễ lớn, người Do-thái từ khắp nơi về dự lễ, có cả những kiều bào và dân các thành khác.
Xung quanh đền thờ, người ta đã lập các kios đổi tiền, buôn bán chiên bò và bồ câu, nhằm đáp ứng nhu cầu những người từ xa về dự lễ khỏi phải mang theo những thứ cồng kềnh. Họ đổi ngoại tệ để nạp thuế đền thờ, đổi tiền lẻ để dâng cúng; người giàu thì mua chiên hay bò, người nghèo thì mua chim gáy hoặc bồ câu để dâng lễ.
Giới tư tế đã nhân cơ hội chiếm dụng cả khuôn viên Chư Dân để lập ra các dịch vụ cho dòng tộc buôn bán trục lợi, làm cho nơi trang nghiêm thành ra chợ búa, nháo nhác tiếng dê kêu bò rống, la lối tranh cãi và có cả quân móc túi…
Chúa Giêsu nhìn thấy cảnh lộn xộn của quân buôn và ô uế của súc vật, vì lòng nhiệt thành, Người đã xua đuổi chúng và nói: “Đừng biến nhà Cha Ta thành chợ búa”.
Sự kiện này là bài học cho chúng ta, chúng ta ý thức đền thờ là nơi thánh không? Chúng ta có những chiếm dụng trái phép của thánh không? Chúng ta đã thật sự giữ trang nghiêm khi bước vào nhà thờ? Chúng ta có dành riêng nơi thánh để chỉ làm việc thờ phượng Chúa, hay là dễ dàng dùng nhà thờ để tổ chức những sinh hoạt khác không thích hợp?
 
2. Thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa ngự.
Đền thờ là nơi Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau cách đặc biệt qua các cử hành phụng vụ, và là không gian thích hợp nhất cho việc cầu nguyện và lắng nghe tiếng Chúa.
Chúa Giêsu đã từng nói: “Cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây lại”. Nghĩa là Người muốn ám chỉ về thân xác của Người bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ phục sinh.
Và cũng từ những chứng từ này, thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô đã nói: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em”
Như vậy, chính chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự, và hằng ngày khi làm Dấu Thánh Giá, chúng ta vẫn tuyên xưng điều đó.
Chúng ta hãy lo trang hoàng đền thờ chúng ta bằng các nhân đức việc lành để xứng đáng cho Thiên Chúa ngự. Chứ đừng để cho “thần tài” ngự hoặc “súc vật” làm ô uế như người Do-thái xưa đã làm cho Giêrusalem.
Lại nữa, như lời thánh Phaolô dạy, không ai có quyền phá huỷ thân xác mình hay thân xác kẻ khác. Tự huỷ hoại thân xác mình hay làm hại người khác đều là tội giết người.
Cuối cùng, vì lòng nhiệt thành với Chúa, chúng ta không sợ kẻ giết thân xác mình, vì xác tín rằng, đền thờ thân xác chúng ta sẽ được Chúa xây dựng lại trong ngày chung thẩm.
 
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con ý thức trang nghiêm mỗi khi bước vào nhà thờ, ý thức sự hiện diện của Chúa để sốt sắng cử hành phụng vụ thánh. Xin cũng cho chúng con biết quý trọng thân xác và tâm hồn mình là đền thờ của Chúa Ba Ngôi hiển ngự, để chúng con luôn giữ mình trong sạch và biết trang hoàng đền thờ tâm hồn bằng những nhân đức thánh thiện. Amen.
 
 
THỨ BẢY TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN
 
I. ĐỌC TIN MỪNG: Lc 20,27-38
Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ? “
Đức Giê-su đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham,Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.”
 
II. SUY NIỆM
Trong thời đại Chúa Giêsu, dân tộc Do Thái tồn tại hai “đảng phái” xem ra luôn đối lập nhau và có ảnh hưởng nhất cả về tôn giáo lẫn chính trị. Đó là nhóm Pha-ri-siêu và nhóm Sa-đốc (ngoài ra còn một vài nhóm nhỏ như Essenien và Jelos không đáng kể).
Nhóm Pha-ri-siêu có tiền thân là những người Has-si-đim, đã hình thành nên phongtrào Ma-ca-bê. Nhóm này chủ trương giữ lề luật, thậm chí sẵn sàng chết vì giữ luật như trong bài đọc I (sách Ma-ca-bê) tường thuật việc có bảy mẹ con chết vì tuân giữ lề luật Môi-sê. Họ tin có sự sống lại và Thiên Chúa sẽ thưởng công xứng đáng cho những ai trung thành và dám chết vì lề luật của Người.
Còn nhóm Sa-đốc là của những người theo thượng tế Sa-đốc. Họ chủ trương không có sự sống lại, nên chỉ tìm kiếm những sự đời này; họ thoả hiệp với ngoại bang để được chức tước và bổng lộc. Họ chỉ minh nhiên chân nhận bộ Ngũ Kinh là Thánh Kinh, còn những sách Giáo Huấn và sách Ngôn Sứ chỉ là phụ thuộc.
Chúa Giê-su không theo một đảng phái nào cả, Người chỉ trích phái Sa-đốc tham quyền cố vị, người Pha-ri-siêu giữ luật giả hình. Chính vì thế mà cả hai nhóm này đều tìm cách bắt bẻ gài bẫy Chúa Giêsu. Nhóm Pha-ri-siêu thường hỏi Chúa Giê-su về những gì liên quan đến luật và nộp thuế, còn nhóm Sa-đốc lại thắc mắc liên quan đến quyền bính và vấn đề kẻ chết sống lại.
Hôm nay nhóm Sa-đốc đến hỏi Chúa Giê-su. Họ trích đoạn Thánh Kinh trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 25,5): “Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình”. Rồi bịa ra một câu chuyện “sát phu” là có bảy người anh em trai thay thế nhau lấy một cô gái, nhưng “tướng sát phu” của cô này làm chết cả, cuối cùng cô ta cũng chết. Vậy khi sống lại, cô ta là vợ của ai trong bảy người kia?
Qua cách thắc mắc, ta dễ nhận thấy rằng quan niệm và niềm tin của nhiều nước, nhiều tôn giáo trên thế giới vẫn tin rằng thế giới “bên kia” cũng tổ chức và sinh hoạt như thế giới chúng ta đang sống, và cụ thể là vẫn cưới vợ gả chồng. Tuy nhiên, cái chủ đích mà người Sa-đốc nhắm tới để gài bẫy ở đây là nhằm phủ nhận sự sống lại. Chúa Giêsu đã trả lời cách khẳng định cho họ hai điểm chính yếu sau đây:
 
1. Có sự sống lại thật.
Chính vì nhóm Sa-đốc chỉ nhận bộ Ngũ Kinh là Thánh Kinh, nên Chúa Giêsu trích chính sách Xuất Hành là một trong Ngũ Kinh đó để trả lời: “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-sa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (Xh 3,1-6) và không thể nào Thiên Chúa lại là Thiên Chúa của kẻ chết, cho nên Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp vẫn đang sống.
Sự sống lại và sự sống đời đời là chân lý quan trọng cho đời sống đức tin. Nếu không có sự sống lại và sự sống đời đời thì đức tin của chúng ta là vô ích, và công việc nhập thể cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, không còn ý nghĩa nữa. Ðây là chân lý quan trọng nhưng khó tin bởi lý trí con người lập luận theo đường lối tự nhiên không thể lĩnh hội được. Niềm tin vào sự sống lại được xây dựng trên nền tảng sự sống lại của Đức Giêsu, mà các tông đồ là những người đã thấy tận mắt, đã sẵn sàng chịu đau khổ và chết để làm chứng. «Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng» (Cv 2,32; x. Cv 10,41). Đây là một trong những niềm tin căn bản nhất của người Kitô hữu, đến nỗi có thể nói ai không tin vào sự sống lại thì không phải là người Kitô hữu.
 
2. Đời sống thiên thần (vita angelica)
Câu trả lời của Chúa Giê-su cho ta biết trật tự, cách tổ chức, sinh hoạt, cách thế hiện hữu trong cuộc sống mai hậu không giống như cuộc sống đời này. Không thể lấy kinh nghiệm hiện hữu của cuộc sống này để áp dụng vào việc suy đoán cách hiện hữu của cuộc sống mai hậu. Đời này có lấy vợ gả chồng chỉ là chuyện sinh, lão, bệnh, tử, nên cần phải có người giúp đỡ, phục vụ và nối dõi. Khi con người đã trở thành bất tử, họ không còn sống phụ thuộc vào không gian và thời gian nữa, vì thế, họ cũng không cần phải lấy vợ gả chồng. Họ sẽ bước vào cuộc sống thần thiêng như các thiên thần, cuộc sống của họ lúc này là trường sinh bất tử, sung mãn, trọn vẹn và tồn tại muôn đời với Đấng Hằng Hữu. Công việc của họ chính là ca ngợi Chúa trong vinh quang Nước Trời như các thiên thần, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa.
Chúa Giê-su nhắc đến đời sống đến thiên thần, nghĩa là bậc mà lẽ sống là thờ lạy, chúc tụng và vâng lời Thiên Chúa. Ở đời sau con người sẽ hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và quy hướng về Người. Và theo quan niệm Do Thái, sự sống của Thiên Chúa và con cái Người thì khác; còn sự sống của loài người và con cái thế gian thì khác. Một đàng vĩnh cửu nên không cần truyền sinh, đàng kia vắn vỏi nên cần cưới vợ lấy chồng. Những kẻ có phần trong sự sống lại này “sẽ giống như các thiên thần”, không phải về mọi phương diện mà về trạng thái bất tử của họ. Trong một ý nghĩa rộng rãi hơn, họ sẽ là “con cái Thiên Chúa” và là “con cái của sự sống lại, vì sự chết đã mất uy lực trên họ.”
 
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con khao khát đời sống vĩnh cửu, để chúng con biết lo giữ mình trong sạch, sống phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân, ngày đêm ca ngợi Chúa và sống dưới sự hiện diện của Chúa như các thiên thần. Nhờ đó, chúng con đã nếm hưởng niềm vui thiên quốc ngay ở cuộc sống trần gian này.
 
Hiền Lâm.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

BÀI VIẾT MỚI

spot_imgspot_img

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Thứ Tư Tuần XII, Thường niên, Mt 7,15-20 Kitô hữu – Người sinh quả tốt trong đời

Thứ Tư Tuần XII, Thường niên, Mt 7,15-20 Kitô hữu – Người sinh quả tốt trong đời Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist. Trong một thế giới ngày...

Thứ Hai, Tuần XII, Thường niên, Mt 7,1-5: Đừng xét đoán – Đừng lấy cái rác trong mắt anh em

Thứ Hai Tuần XII, Thường niên, Mt 7,1-5 Đừng Xét Đoán – Đừng Lấy Cái Rác Trong Mắt Anh Em Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist. Một câu...

Thứ Bảy, Tuần XI Thường Niên (Mt 6,24-34): Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính

Thứ Bảy Tuần XI Thường Niên (Mt 6,24-34) Tìm Nước Thiên Chúa và Sự Công Chính Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist “Trước hết, hãy tìm kiếm Nước...

Thứ Sáu, Tuần XI Thường Niên (Mt 6,19-23): Đi tìm kho tàng bất diệt

Thứ Sáu Tuần XI Thường Niên (Mt 6,19-23) Đi Tìm Kho Tàng Bất Diệt Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist. Từ ngàn xưa đến nay, con người vẫn...

Thứ Năm, Tuần XI Thường Niên (Mt 6,7-15): Tình con thảo đối với Cha

Thứ Năm, Tuần XI Thường Niên (Mt 6,7-15) Tình Con Thảo Đối Với Cha Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist. Khi lần giở Tin Mừng, chúng ta ngạc...

Thứ Tư, Tuần XI Thường Niên (Mt 6,1-6.16-18): Làm việc phúc đức với thái độ nào?

Thứ Tư, Tuần XI Thường Niên (Mt 6,1-6.16-18)  Làm việc phúc đức với thái độ nào? Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist. “Khi làm việc lành phúc đức,...