THỨ 3 TUẦN XXVI TN
CON ĐƯỜNG ĐAU KHỔ
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Dcr 8,20-23
8,20 ĐỨC CHÚA các đạo binh phán thế này : Các nước và dân cư trong các thành phố lớn vẫn còn tuôn đến. 21 Dân thành này sẽ đến thành khác mà nói rằng : “Nào ta cùng đi làm cho nét mặt ĐỨC CHÚA dịu lại và tìm kiếm ĐỨC CHÚA các đạo binh ;cả tôi nữa, tôi cũng đi !” 22 Các dân đông đảo và các nước hùng cường sẽ đến tìm kiếm ĐỨC CHÚA các đạo binh ở Giê-ru-sa-lem và làm cho nét mặt ĐỨC CHÚA dịu lại.
23 ĐỨC CHÚA các đạo binh phán thế này : Trong những ngày ấy, mười người đàn ông thuộc mọi ngôn ngữ trong các dân tộc sẽ níu lấy áo của một người Giu-đa mà nói : “Chúng tôi muốn đi với anh em, vì chúng tôi đã nghe biết rằng Thiên Chúa ở với anh em.”
Lc 9,51-56
9,51 Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. 52 Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. 53 Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. 54 Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng : “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không ?” 55 Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. 56 Rồi Thầy trò đi sang làng khác.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Chúa Giê-su rao giảng tại Ga-li-lê. Người lên Giê-ru-sa-lem để hoàn tất quãng đời dương thế. Đó là cao điểm. Lu-ca nói Người đi về trời để được vinh quang. Da-ca-ri-a đã loan báo trước vinh quang của Chúa. Mọi dân tộc sẽ nhận biết Chúa. Sẽ trở về với Chúa. Sẽ đi theo con đường của Chúa: “Các nước và dân cư trong các thành phố lớn vẫn còn tuôn đến. Dân thành này sẽ đến thành khác mà nói rằng: “Nào ta cùng đi làm cho nét mặt Đức Chúa dịu lại và tìm kiếm Đức Chúa các đạo binh; cả tôi nữa, tôi cũng đi!…Trong những ngày ấy, mười người đàn ông thuộc mọi ngôn ngữ trong các dân tộc sẽ níu lấy áo của một người Giu-đa mà nói: “Chúng tôi muốn đi với anh em, vì chúng tôi đã nghe biết rằng Thiên Chúa ở với anh em”(năm lẻ).
Nhưng con đường vinh quang phải trải qua đau khổ. Đau khổ lớn lao chưa từng có ai chịu nổi. Đau khổ không ai có thể chịu đựng được. Chúa bị phản bội, bị bỏ rơi bởi các môn đệ. Bị xét xử nhiều lần. Bị kết án. Bị nhục mạ. Bị đánh đòn. Bị vác thánh giá. Bị đóng đinh. Chết giữa những tên trộm cướp. Đau đớn nhất là Người cảm thấy như bị Chúa Cha ruồng bỏ. Thánh Gióp là người chịu đau khổ phần nào giống Chúa. Ông trong sạch. Ông trung thành thờ phượng Chúa. Nhưng ông bị thử thách. Mất hết của cải, con cái. Bản than bị lở loét, sâu bọ đục khoét. Vừa đau đớn vừa hôi thối. Nhưng đau đớn hơn nữa ông bị bạn bè kết án. Và nhất là người vợ thân thương cũng khinh khi miệt thị. Và nhất là ông cảm thấy như bị Chúa ruồng bỏ. Nên ông đau buồn than khóc. “Bấy giờ, ông Gióp mở miệng nguyền rủa ngày ông chào đời. Ông Gióp lên tiếng nói: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời…Sao lại ban ánh sang và sự sống cho kẻ chẳng biết mình đi đâu, cho kẻ bị Thiên Chúa giam hãm tư bề?”(năm chẵn).
Việc người Sa-ma-ri không đón tiếp Chúa chỉ là bắt đầu. Rồi Chúa sẽ chịu nhiều đau khổ nhục nhã lớn lao hơn nữa. Cho đến chết. Các tông đồ muốn trừng phạt họ. Nhưng Chúa mắng các ông. Vì các ông không hiểu. Chính Chúa tự nguyện đi vào con đường đau khổ để được vinh quang. Chấp nhận chịu bạc đãi để đem lại yêu thương. Chấp nhận thân phận tội lỗi để qui tụ muôn người về với Chúa Cha. Chấp nhận chết đi để được sống lại.
Các môn đệ tuy chưa hiểu. Nhưng vì yêu mến Chúa, các ngài sẵn sang đi vào con đường của Chúa. Xin cho chúng ta cũng biết noi gương các ngài. Gắn bó với Chúa. Đi theo Chúa. Cùng chịu đau khổ để cùng vinh quang với Chúa. Cùng chịu chết để được sống lại với Chúa.
THỨ 4 TUẦN XXVI TN
CHÚA KI-TÔ LÀ TẤT CẢ
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Nk 2,1-8
2,1 Vào tháng Ni-xan, năm thứ hai mươi đời vua Ác-tắc-sát-ta, vì nhiệm vụ chước tửu, tôi lấy rượu hầu vua. Chưa bao giờ tôi buồn rầu trước mặt vua. 2 Vua nói với tôi : “Sao mặt khanh buồn rầu thế ? Khanh có đau ốm gì đâu ! Hẳn trong lòng phải có chuyện chi buồn lắm !” Tôi vô cùng sợ hãi, 3 bèn tâu vua : “Đức vua vạn vạn tuế ! Sắc mặt của thần không buồn sao được, khi mà thành đô, nơi tổ tiên của thần an nghỉ, đã ra hoang tàn, và cửa thành bị thiêu huỷ.” 4 Vua bảo tôi : “Vậy khanh muốn gì ?” Tôi cầu xin Thiên Chúa các tầng trời, 5 rồi thưa với vua : “Nếu đẹp lòng đức vua và nếu bề tôi của ngài là người vừa ý ngài, thì xin cử thần đi Giu-đa, đến thành có phần mộ của tổ tiên thần để xây dựng lại.” 6 Lúc ấy có hoàng hậu ngồi bên vua ; vua hỏi tôi : “Khanh đi bao lâu ? Bao giờ mới trở lại ?” Vua bằng lòng cử tôi đi và tôi xin hẹn với vua một kỳ hạn. 7 Tôi thưa với vua : “Nếu đẹp lòng đức vua, thì xin hạ lệnh cấp chiếu thư cho thần đem tới các trưởng Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, để họ cho phép thần đi qua đó đến tận Giu-đa. 8 Cũng xin một chiếu thư cho ông A-xáp, quản đốc ngự lâm, để ông cấp gỗ cho thần làm khung cửa đồn luỹ ở sát Đền Thờ, làm tường thành và làm nhà cho thần đến ở.” Vua ban cho tôi như thế, vì bàn tay nhân lành của Thiên Chúa tôi che chở tôi.
Lc 9,57-62
9,57 Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng : “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” 58 Người trả lời : “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”
59 Đức Giê-su nói với một người khác : “Anh hãy theo tôi !” Người ấy thưa : “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” 60 Đức Giê-su bảo : “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.”
61 Một người khác nữa lại nói : “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” 62 Đức Giê-su bảo : “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trong đời thường có những giá trị cao quí. Như lòng yêu mến tôn kính ông bà tổ tiên. Lòng gắn bó với quê cha đất tổ. Đó là những giá trị văn hoá dân tộc rất đáng khích lệ. Những người có lý trí đều trân trọng những giá trị này. Chính vì thế, khi thấy Nơ-khê-mi-a buồn phiền vì phần mộ tổ tiên bị hoang phế. Quê hương bị điêu tàn. Vua Ác-tắc-sát-ta, một vị minh quân, đã cho phép ông trở về tái thiết quê hương và phần mộ tổ tiên. Thực ra Nơ-khê-mi-a mượn cớ xây mộ tổ tiên để tái thiết Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Và ông thờ kính Thiên Chúa hơn cả ông bà tổ tiên. Nên trước khi cầu xin vua trần gian, ông đã “cầu xin Thiên Chúa các tầng trời”. Và ông biết “Vua ban cho tôi như thế, vì bàn tay nhân lành của Thiên Chúa tôi che chở tôi” (năm lẻ).
Mọi quyền năng trên đời thuộc về Chúa. Đó là điều các thánh tổ phụ hằng tin tưởng. Đặc biệt thánh Gióp, bị thử thách, vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa. Vì Người nắm giữ vận mạng phàm nhân và vũ trụ: “Người chuyển núi dời non mà chúng không hay… Người ra lệnh là mặt trời không mọc…Duy mình Người trải rộng các tầng trời, đạp lên trên ba đào biển cả”. Chính vì thế thái độ duy nhất đúng là vâng phục và xin Chúa xót thương: “Chẳng lẽ tôi lại tranh cãi, hay tìm lý để chống đối Người sao? Cho dù tôi có lý, tôi cũng không tranh cãi, nhưng sẽ xin Đấng xét xử tôi thương xót” (năm chẵn).
Đến thời Chúa Giê-su, chân lý này được minh nhiên công bố. Chúa Ki-tô là tất cả. Nhưng để đạt tới Người ta phải siêu thoát khỏi những dính bén trần tục. Người là quê hương. Đi theo Người là đi về quê hương đích thực. Người là gia đình đích thực. Vì nơi Người có Thiên Chúa là Cha của mọi người cha. Và là gia đình rộng lớn. Vì bất cứ ai nghe và giữ Lời Chúa đều là anh em với nhau. Người là tình yêu. Mọi tình cảm trên đời đều phát nguồn từ nơi Người.
Người là tất cả. Nên khi ta từ bỏ tất cả trần gian vì Người, ta lại được lại tất cả. Ở trần gian Người không có chỗ tựa đầu. Nhưng khi trần gian tan biến hết thì Người vẫn tồn tại và Người có cả vũ trụ là nhà. Ta bỏ tình cảm gia đình vì Chúa. Nhưng trong Chúa tình gia đình lại càng sâu xa bền chặt hơn. Vì chính Chúa là tình yêu sẽ làm cho tình yêu tầm thường của ta thành vĩnh cửu.
THỨ 5 TUẦN XXVI TN
TRIỀU ĐẠI THIÊN CHÚA
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Nk 8,1-4a.5-6.7b-12
8,1 Bấy giờ, muôn người như một, tụ họp ở quảng trường trước cửa Nước. Họ xin ông Ét-ra là kinh sư đem sách Luật Mô-sê ra. Đó là Luật ĐỨC CHÚA đã truyền cho Ít-ra-en. 2 Hôm ấy là ngày mồng một tháng thứ bảy, ông Ét-ra cũng là tư tế đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. 3 Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật.
4 Kinh sư Ét-ra đứng trên bục gỗ đã đóng sẵn để dùng vào việc này. Bên cạnh ông, phía tay mặt, có các ông : Mát-tít-gia, Se-ma, A-na-gia, U-ri-gia, Khin-ki-gia và Ma-a-xê-gia ; phía tay trái, có các ông : Pơ-đa-gia, Mi-sa-ên, Man-ki-gia, Kha-sum, Khát-bát-đa-na, Dơ-khác-gia và Mơ-su-lam. 5 Ông Ét-ra mở sách ra trước mặt toàn dân, vì ông đứng cao hơn mọi người. Khi ông mở sách ra thì mọi người đứng dậy. 6 Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng : “A-men ! A-men !” Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy ĐỨC CHÚA. 7 Các thầy Lê-vi là Giê-su-a, Ba-ni, Sê-rếp-gia, Gia-min, Ắc-cúp, Sáp-thai, Hô-đi-gia, Ma-a-xê-gia, Cơ-li-ta, A-dác-gia, Giô-da-vát, Kha-nan, Pơ-la-gia, giải thích Lề Luật cho dân, trong khi dân vẫn đứng tại chỗ. 8 Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc.
9 Bấy giờ ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, nói với họ rằng : “Hôm nay là ngày thánh hiến cho ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc.” Sở dĩ ông nói thế là vì toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật. 10 Ông Ét-ra còn nói với dân chúng rằng : “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của ĐỨC CHÚA là thành trì bảo vệ anh em.” 11 Còn các thầy Lê-vi thì trấn an mọi người như sau : “Anh em đừng khóc nữa, vì hôm nay là ngày thánh ! Anh em chớ phiền muộn làm gì !” 12 Bấy giờ toàn dân đi ăn uống, rồi gửi các phần ăn, và liên hoan tưng bừng, vì họ đã hiểu rõ lời lẽ mà người ta vừa cho họ biết.
Lc 10,1-12
10,1 Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. 2 Người bảo các ông :
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. 3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. 4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. 5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói : “Bình an cho nhà này !” 6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy ; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. 7 Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. 8 Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. 9 Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ : “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” 10 Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói : 11 “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này : Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” 12 Thầy nói cho anh em hay : trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó.”
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Triều đại Thiên Chúa. Đó là điều muôn đời ngàn dân trông đợi. Vì đời sống trần gian khổ cực đau thương. Chưa hề có triều đại nào đem lại hạnh phúc cho người dân. Chưa có chế độ nào hoàn toàn được tín nhiệm. Chưa có hệ thống ý thức hệ nào thực sự tạo nên thiên đường.
Dân Ít-ra-en cảm nhận được tất cả những nỗi khổ đau, nhục nhã khi bị lưu đầy. Nên khi được trở về. Được thờ phượng Chúa. Được nghe Lời Chúa. Lòng họ tràn đầy niềm vui. “Ông Ét-ra mở sách … Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen!” Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa….Các thầy Lê-vi thì trấn an mọi người như sau: “Anh em đừng khóc nữa, vì hôm nay là ngày thánh!…” Bấy giờ toàn dân đi ăn uống, rồi gửi các phần ăn, và liên hoan tưng bừng”. Họ sống một cuộc sống hạnh phúc vì tuân theo Lề Luật. Vì Thiên Chúa hướng dẫn họ.
Chúa Giê-su là Đấng phải đến. Quả thực Triều đại Thiên Chúa đã đến. Đó là tin vui lớn lao. Cần loan báo cho cả địa cầu. Vì thế Chúa không chỉ sai 12 tông đồ. Mà còn sai 72 môn đệ đi loan báo. Triều đại được chứng nghiệm bằng việc xua trừ ma quỉ. Chữa lành bệnh tật. Giải phóng con người khỏi mọi ách nô lệ ràng buộc của ma quỉ và sự dữ. Và đem bình an cho mọi người. Tuy nhiên chính người loan báo phải chứng tỏ Triều đại Thiên Chúa bằng một thái độ siêu thoát: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”. Sứ điệp quan trọng. Thời giờ cấp bách. Nên “đừng chào hỏi ai dọc đường”. Tập trung vào sứ mạng. Không chú ý đến những gì phụ thuộc ở đời này như ăn uống, ngủ nghỉ: “người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó”. Khi người môn đệ siêu thoát, nghèo khó, chính Thiên Chúa ngự trong họ sẽ làm việc. Họ sẽ có sức mạnh của Thiên Chúa.
Chính vì hi vọng Triều Đại Thiên Chúa đến mà thánh Gióp, trong cơn đau khổ cùng cực, vẫn hi vọng tin tưởng đợi chờ. Luôn gắn bó với Chúa: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa… Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (năm chẵn).
Phần chúng ta hãy làm cho Triều Đại Thiên Chúa mau đến ngay trong bản thân mình. Bằng đời sống siêu thoát. Bằng tin tưởng vượt qua mọi gian khổ như thánh Gióp. Và bằng lời loan báo tin vui cho mọi người.
THỨ 6 TUẦN XXVI TN
CHỐI TỪ SỰ SỐNG
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Br 1,15-22
1,15 Sau đây là nội dung :
Đức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, quả là Đấng công minh ;còn chúng tôi, những người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem, 16 các vua và thủ lãnh, tư tế và ngôn sứ cũng như các bậc cha ông, chúng tôi phải hổ ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng, 17 vì tất cả chúng tôi đã phạm tội trước nhan Đức Chúa, 18 đã bất tuân, không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không vâng theo các mệnh lệnh Đức Chúa đã đề ra trước mắt chúng tôi. 19 Từ ngày Đức Chúa đưa cha ông chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập cho tới ngày nay, chúng tôi vẫn bất tuân đối với Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, vẫn làm ngơ không chịu nghe tiếng Người. 20 Cho nên, như sự việc xảy ra hôm nay đây, những bất hạnh và lời nguyền rủa vẫn đeo đuổi chúng tôi, đúng như Đức Chúa đã tuyên bố với ông Mô-sê tôi tớ Người, ngày Người đưa cha ông chúng tôi ra khỏi Ai-cập để ban cho chúng tôi miền đất tràn trề sữa và mật. 21 Chúng tôi đã không vâng nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi. 22 Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục dịch các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi.
Lc 10,13-16
10,13 “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din ! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì từ lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi. 14 Vì thế, trong cuộc Phán Xét, Tia và Xi-đôn sẽ được xử khoan hồng hơn các ngươi. 15 Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư ? Không, ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ !
16 “Ai nghe anh em là nghe Thầy ; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy ; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.” “Hãy mừng vì tên anh em được ghi trên trời”
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Chúa Giê-su buồn phiền. Vì chính những nơi được nghe rao giảng Tin mừng, được chứng kiến nhiều phép lạ, lại không ăn năn sám hối. Chúa đặt Ca-phác-na-um làm trung tâm rao giảng Tin mừng. Chúa thường xuyên đi lại Kho-ra-din và Bết-xai-đa. Tại Bết-xai-đa có vài môn đệ theo Chúa. Nhưng đa số dân chúng cứng lòng không tin. Trong khi đó tại vùng dân ngoại Tia và Xi-đôn có người phụ nữ, dù bị Chúa xua đuổi, vẫn kiên trì tin tưởng. Chúa buồn không phải vì người ta chối từ Chúa. Nhưng vì người ta chối từ Chúa Cha. Chối từ tình yêu thương vô cùng sâu thẳm và bao la của Chúa Cha. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người”. Còn tình yêu nào lớn lao hơn thế. Còn tấm lòng nào quan tâm hơn thế. Nhưng buồn là buồn cho chính họ. Chúa Cha là nguồn mạch sự sống. Khi chối từ nguồn mạch sự sống, họ đánh mất sự sống. Họ đi vào chỗ chết.
Đó chính là điều tiên tri Ba-rúc thú nhận. Trong thời kỳ lưu đầy, Ít-ra-en nhà tan cửa nát. Phải lưu đầy biệt xứ. Phải làm nô lệ. Vừa khổ cực vừa nhục nhã. Nhưng vị tiên tri phải thú nhận dân Ít-ra-en bị như thế là xứng đáng. Vì họ đã chối từ Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa sức mạnh. Thiên Chúa ban sự sống. “Chúng tôi, những người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem, các vua và thủ lãnh, tư tế và ngôn sứ cũng như các bậc cha ông, chúng tôi phải hổ ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng, vì tất cả chúng tôi đã phạm tội trước nhan Đức Chúa, đã bất tuân , không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không vâng theo các mệnh lệnh Đức Chúa đã đề ra trước mắt chúng tôi” (năm lẻ).
Chúa là nguồn mạch sự sống của toàn thể vũ trụ cũng như con người. Chúa đã chất vấn thánh Gióp. Và thánh Gióp không thể trả lời: “Có bao giờ ngươi đã đến tận nguồn biển cả và lang thang ở đáy vực sâu? Có ai từng mở cho ngươi lối vào âm phủ và ngươi thấy được cửa dấn tới âm ty? Có khi nào ngươi hiểu mặt đất rộng chừng nào? Nếu ngươi biết hết mọi điều đó thì cứ nói đi”. Và thánh Gióp chỉ biết thưa lại: “Vâng, con đây tầm thường bé nhỏ, biết nói chi để trả lời Ngài?” Thánh Gióp chỉ biết vâng theo ý Chúa. Chính vì thế ngài được Chúa yêu thương ban muôn hồng phúc (năm chẵn).
Chúng ta hãy noi gương thánh Gióp nhận biết Thiên Chúa là sự sống và là tất cả của chúng ta. Để luôn biết đón nhận Người. Đón nhận mệnh lệnh Người. Để chúng ta được sống.