Chương 10
ĐỌC KINH ÐÊM
TRONG MÙA HẠ THẾ NÀO?
Ngày 12.2 – 13.6 – 13.10
1 Từ lễ Phục Sinh đến đầu tháng 11, giờ Kinh Đêm cũng đọc đủ số Thánh Vịnh như đã nói trên, 2 ngoại trừ các bài đọc, vì lẽ đêm ngắn; nhưng thay vào đó, chỉ đọc thuộc lòng một bài Cựu Ước, theo sau là đáp ca. 3 Phần còn lại vẫn giữ như trên, nghĩa là ngoài Thánh Vịnh 3 và 94, không bao giờ đọc dưới mười hai Thánh Vịnh.
Chú giải:
A – Ngày 12.2
“Vì lẽ đêm ngắn”. Một trong những nét thiên tài của thánh Biển Đức đó là khả năng thích ứng với những trường hợp khác nhau, như về thời gian, nơi chốn, trang phục, đồ ăn thức uống v.v. Ngài thể hiện khả năng ấy chẳng những khi qui định về thần tụng như trong chương 10 này, mà còn cả khi đề cập tới việc may mặc là dùng thứ vải dễ dàng sắm được trong vùng, hay tới những bữa ăn thích hợp cho từng mùa, và thức uống thì không luôn luôn phải có rượu, hoặc tới công việc đồng áng khi đan sĩ phải tham gia v.v.
Về thần tụng, thánh Biển Đức quan tâm đến nhiều chi tiết khác nhau. Như ở chương này, ngài để ý tới thời gian dài ngắn ban đêm, nhưng cũng tới cả việc anh em ở gần hay xa nhà nguyện khi báo hiệu giờ kinh, hay khi anh em đi đường hoặc ở xa đan viện. Viện phụ cũng phải có khả năng thích ứng để xét tới tính khí và tư chất mỗi anh em.
Thánh Biển Đức đề nghị phải luôn luôn giữ thế quần bình giữa qui luật và việc thích ứng qui luật vào thực tế. Ngài nêu cho ta hai thái cực cần phải tránh. Một đàng, áp dụng tu luật như một cùng đích, điều ấy có thể đưa tới chủ trương quá nghiêm ngặt. Đàng khác, áp dụng luật theo thị hiếu hay sở thích nhất thời, điều ấy có thể dẫn tới chủ trương quá dễ dãi. Hai thái cực này là triệu chứng của hai thứ bệnh tâm hồn mà Chúa Giêsu đã phải chống lại.
Phúc Âm cho thấy Chúa Giêsu vừa chống lại những người pharisiêu chuyên bắt bẻ những chuyện liên quan đến các chi tiết nhỏ nhặt, vừa chống lại Hêrôđê, những người phái sađốc, các con buôn trong Đền thờ, tất cả đều sẵn sàng đồng lõa với tinh thần thế tục. Hai thái cực ấy đã cấu kết với nhau để gây nên cái chết của Chúa Giêsu, vì chúng không thể chịu được thái độ của ngài, một thái độ vừa tuyệt vời tự do vừa rất mực trung thành với lề luật. Đó là điều mà Cassianô gọi là con đường vương giả, vì là con đường Chúa Giêsu đã đi.
B – Ngày 13.6
Khi thánh Biển Đức nói về cầu nguyện, ta thấy một chi tiết có thể khiến ta bị sốc, đó là ngài nhấn mạnh tới số lượng. Ở đây là số lượng Thánh Vịnh trong giờ Kinh Đêm. Trong khi đó thì ngày nay người ta để ý tới chất lượng hơn. Nhưng phải xác định chất lượng như thế nào? Khi chọn theo tiêu chuẩn số lượng thánh Biển Đức không chiều theo sự dễ dãi, nhưng ngài muốn lưu ý ta về hai phương diện cốt yếu của cầu nguyện.
Phương diện thứ nhất, đó là chất lượng của cầu nguyện không lệ thuộc vào tình cảm chủ quan của ta. Việc cầu nguyện đích thực được diễn ra từ trong tâm hồn, mà hiếm khi ta ý thức được. Đó là công việc của Thần Khí nơi ta, họa chăng mới có lúc ta nhận thấy. Nhưng không phải vì thế mà ta không cầu nguyện và không được biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện. Thần Khí vẫn hằng cầu nguyện trong ta.
Như vậy, phương diện thứ hai là chất lượng của cầu nguyện có liên hệ với tâm trạng thích hợp, sự kiên trì và siêu thoát nội tâm của ta. Điều ta cần làm là dẹp đi những trở ngại trong tâm trí, con tim và cuộc sống, để việc cầu nguyện hoạt động được nơi ta. Và nếu ta để mình được biến đổi thì toàn thân ta, cộng đoàn ta và Giáo Hội cũng biến đổi theo.
Như vậy, đối với thánh Biển Đức, cầu nguyện là công việc lâu dài cần phải có những qui định về số lượng. Ta có thể sánh ví với việc phơi nắng. Muốn có làn da rắn rỏi, cần phải phơi nắng trong nhiều giờ. Chỉ có điều khác nhau là chưa bao giờ nghe nói có ai bị “cảm vì cầu nguyện”, còn “cảm nắng” thì vẫn thường xẩy ra.
C – Ngày 13.10
Khi thế gian say ngủ và khi những cuộc chiến như bớt ác liệt trong chốc lát, thì đan sĩ vẫn có mặt, như một người canh đêm, để cừ hành điều mà thánh Biển Đức gọi bằng một cụm từ rất đẹp “kinh ca ngợi ban đêm”. Vì cả ban đêm, đan sĩ cũng ca ngợi Chúa.
Đó là ban đêm theo nghĩa thông thường, và đó là nghĩa mà chương mười này muốn hiểu. Nhưng có lẽ, theo nghĩa biểu tượng, cũng có thể hiểu là đêm của nghi nan, thử thách, bệnh tật và yếu đuối. Và người ta thường bị cám dỗ co cụm lại với những thử thách, những khó khăn mà quên mất phải ca ngợi Chúa.
Ca ngợi Chúa khi ta hoàn toàn thoải mái, khi cộng đoàn nao nức nhiệt tình, khi các ơn gọi đông đảo, khi Tin Mừng xem ra mang lại nhiều hoa trái, thì thật là dễ dàng. Ta chỉ việc để tâm hồn bay bổng lên cao theo lời ca tiếng hát.
Nhưng ca ngợi Chúa khi mọi sự xem ra bất trắc, khi nghi nan, mệt mỏi đè nặng trên ta, khi cộng đoàn dường như muốn tan rã, khi tương lai mù mịt, theo cái nhìn của con người… thì chẳng khác nào một cuộc mạo hiểm, một trò đánh cược đáng sợ.
Tuy nhiên, suy nghĩ cho rốt ráo, ta sẽ thấy ca ngợi Chúa ban đêm là hành vi đức tin tinh tuyền nhất, đó là dám tin rằng từ những hòn đá kia Thiên Chúa có thể làm nẩy sinh con cái cho Abraham. Nhưng đó cũng là tin tưởng cách điên rồ rằng “ngài sẽ đến”, “ngài sẽ xuất hiện như bình minh”, và ngài yêu thương ta vô cùng thắm thiết hơn ta có thể tưởng. Và bởi vì trót cuộc đời ta không phải là do con người tạo nên, nhưng là công trình của ngài. Thế thì ta còn sợ chi? Hãy nghe theo tiếng ngài mời gọi, hãy ca ngợi ngài ban đêm. Đừng sợ nữa.


