Thứ Hai, 24 Tháng mười một, 2025

Sách chú giải Tu luật Thánh Biển Đức theo từng ngày

Chương 2
VIỆN PHỤ PHẢI THẾ NÀO

Ngày 10.1 – 11.5 – 10.9

 l Viện phụ, người được coi là xứng đáng lãnh đạo đan viện, phải luôn luôn nhớ đến danh hiệu bề trên của mình và hành động sao cho xứng với danh hiệu ấy. 2 Quả thực, người ta tin tưởng ngài thế vị Chúa Kitô trong đan viện, nên gọi ngài bằng chính danh xưng dành cho Chúa, 3 theo lời thánh Tông Đồ: “Anh em đã nhận lấy Thần Khí nghĩa tử, nhờ đó ta kêu lên Abba, Cha ơi”. 4 Viện phụ không được dậy dỗ, thiết định hay truyền khiến điều gì ngoài huấn lệnh Chúa; 5 trái lại lệnh truyền và giáo lý của ngài phải như men công chính của Chúa gieo vào tâm trí môn đệ. 6 Viện phụ phải luôn luôn tâm niệm rằng giáo lý ngài dạy và sự vâng phục của môn đệ là hai điều ngài sẽ chịu tra vấn trong ngày công phán kinh khủng của Thiên Chúa. 7 Viện phụ phải ý thức rằng điều gì gia chủ thấy kém lợi nơi đoàn chiên thì sẽ quy trách cho chủ chăn. 8 Trái lại, khi đã tận lực săn sóc đoàn chiên ngỗ nghịch và cứng cổ hay đã dùng mọi phương dược cứu chữa bịnh tật chúng, 9 lúc đó chủ chăn mới hết trách nhiệm trước toà Chúa. Ngài có thể cùng ngôn sứ tuyên xưng: “Đức công chính của Chúa, con chẳng giấu nơi đáy lòng con, chân lý và ơn cứu độ của Chúa con đã nói lên. Nhưng chúng cứ coi thường và khinh miệt con ”. 10 Kết cuộc, khi ấy án tử hình sẽ giáng xuống trên bầy chiên bất phục trước sự săn sóc của chủ chăn.  

Chú giải:

A – Ngày 10.1

        Chương hai này không chỉ nói về viện phụ. Quả thực, nếu đọc kỹ ta sẽ thấy ngay viện phụ được đặt trong một tương quan ba chiều: -Viện phụ mang danh hiệu bề trên và đại diện Chúa Kitô (c.1 và 2). -Viện phụ phải giảng dậy và điều khiển các môn đệ (c.4-5).-Viện phụ sẽ phải trả lẽ với một Đấng Khác, là Cha của gia đình (c.6).

Như vậy, với thánh Biển Đức, viện phụ không phải là người thứ nhất trong những người ngang hàng nhau. Điều ấy có thể gây khó chịu cho não trạng dân chủ của thời đại ta, nhưng đúng là như vậy. Để nói về viện phụ, thánh Biển Đức dùng một so sánh ưu thế: lớn hơn (danh hiệu bề trên: danh hiệu của người lớn hơn, nomen majoris, như bản la tinh viết). Viện phụ không phải là lớn nhất, ngài không thể tự coi mình như Thiên Chúa được, nhưng ngài cũng không phải là người thứ nhất trong những người bằng vai với nhau.

Điều đó dẫn tới hai hậu quả: Viện phụ phải giảng dậy và điều khiển, vì đó là nhiệm vụ của ngài, bằng lời nói và nhất là bằng việc làm. Ngài không được lẩn tránh và để mặc cho người khác lo giảng dậy và điều khiển. Vì nếu ngài không làm thì có những người khác sẽ đứng ra làm và khi đó cộng đoàn sẽ tan rã. Viện phụ phải dám đảm nhận và giữ vững vị trí của mình, bởi vì quyền bính là cần thiết cho việc phục vụ mà ngài phải thực thi dù không muốn.

Điều ấy cũng phát sinh một hậu quả từ phía cộng đoàn. Đó là mỗi đan sĩ phải đặt mình vào vị trí của người môn đệ. Nghĩa là chấp nhận rằng mình vẫn còn điều gì đó để học hỏi, rằng mình chưa biết hết mọi sự. Nhưng đan sĩ cũng tin rằng điều được loan truyền cho mình sẽ giúp mình nhận ra con đường Thiên Chúa muốn dẫn mình đi. Và như ta đều biết, tất cả là vấn đề đức tin. Ta sống đời sống cộng đoàn như một trò chơi của quyền lực, của những sức mạnh đối nghịch nhau, hay ta sống đời sống ấy như là nơi Thiên Chúa nói với ta, với mỗi người chúng ta? Đó là câu hỏi thánh Biển Đức gửi đến ta qua chương 2 này.

B – Ngày 11.5

“Đức công chính của Chúa, con chẳng giấu nơi đáy lòng con; chân lý và ơn cứu độ của Chúa, con đã nói lên. Nhưng chúng cứ coi thường và khinh miệt con”. Câu này, được trích từ Thánh Vịnh 39,11 và Isaia 1,2, cho thấy rất chính xác vai trò của viện phụ trong cộng đoàn: nói về chân lý và ơn cứu độ của Chúa.

Vai trò của viện phụ là giúp anh em dần dần phân định được đường lối Chúa trong cuộc đời họ và cả trong những biến cố của cộng đoàn nữa. Vì trong khi suy nghĩ về cuộc đời mình, liên quan tới những gì xẩy đến cho mình, hay khi nhìn những gì xẩy ra nơi cộng đoàn, ta có khuynh hướng đánh giá chúng một cách rất nhân loại: theo những giá trị tâm lý, tình cảm, tùy thuộc vào những động thái của số đông.

Không dễ mà nhận ra được sự hiện diện của Chúa nơi những gì xẩy đến cho ta. Và nếu không để ý, chẳng mấy chốc những suy nghĩ theo kiểu con người, ước muốn thành công, tham vọng quyền lực, ham thích thú vui và tiện nghi sẽ lấn lướt. Ta sẽ có đủ lý do để nhìn mọi sự xẩy đến bằng cặp mắt thuần túy con người.

Một trong những nhiệm vụ cốt yếu của viện phụ là khai mở một viễn cảnh siêu nhiên cho những cái xem ra chỉ đơn thuần thuộc lãnh vực nhân loại. Quả thật, nếu bỏ mất ý nghĩa nội tâm của viễn cảnh ấy, ta sẽ thấy mọi sự đều là tầm thường và vô vị, khi ấy, do kiêu căng, ta sẽ khinh thường con người đang cố gắng khai quang tầm nhìn bị sương mù vây phủ trong tâm hồn ta.

C – Ngày 10.9

Mối tương quan giữa anh em trong cộng đoàn với viện phụ không hề giống với tương quan phẩm trật mà ta thấy khắp nơi trong đạo cũng như ngoài đời. Thánh Biển Đức có thể định nghĩa mối tương quan ấy theo kiểu mẫu những tương quan khác như cha gia đình, tướng lãnh quân đội, giám đốc xí nghiệp v.v. Nhưng ngài đã không chọn theo một kiểu mẫu nào như thế. Điều này chứng tỏ tương quan giữa viện phụ và anh em thuộc một lãnh vực hoàn toàn khác.

Với thánh Biển Đức, trong đan viện, viện phụ được đặt giữa một hợp lưu các tương quan. Viện phụ đại diện Chúa Kitô. Có nghĩa là viện phụ được đặt giữa hai mối tương quan. Một tương quan làm con đối với Chúa Cha, từ nơi ngài xuất phát mọi tình cha, và một tương quan làm cha đối với anh em.

Như thế, viện phụ được mời gọi sống tương quan làm con đối với Chúa Cha. Như Chúa Giêsu, viện phụ đã lãnh nhận chăm sóc những con chiên mà Chúa Cha trao cho ngài. Ngài phải ý thức điều đó. Vì thế ngài không được chểnh mảng việc dẫn dắt họ. Nhưng dẫn họ đến với ai?

Không dẫn đến với mình. Khác hẳn với tư cách làm cha lệch lạc cứ muốn lôi cuốn về cho mình tình cảm và sự quan tâm của môn đệ, tư cách làm cha của Chúa Giêsu rất trong sáng, chỉ dẫn dắt, lôi kéo về với Chúa Cha. Đó là tư cách làm cha tự xóa mình đi để tỏ cho thấy Chúa Cha, một tư cách làm cha hướng ta về lại với cõi vô biên vô tận.

Như thế, tư cách làm cha của viện phụ đòi hỏi rất cao, như thánh Biển Đức cho thấy khi trưng dẫn Thánh Vịnh 39: “Đức công chính của Chúa con chẳng giấu nơi đáy lòng, chân lý và ơn cứu độ của Ngài con đã nói lên”. Đòi hỏi nhất là đối với chính viện phụ, vì ngài phải dám nói và nhắc nhở không được chán. Vấn đề của viện phụ là phải giữ đúng vai trò của mình giữa hai mối tương quan đó. Hướng môn đệ về Chúa Cha chứ không giữ lại cho mình; không tìm làm hài lòng mọi người, nhưng khơi dậy nơi mỗi người tiếng kêu gọi từ trong thâm tâm mời tham gia vào tiến trình phụ tử này. Nếu viện phụ phải trả lẽ về giáo huấn của ngài và về sự vâng phục của môn đệ, như thánh Biển Đức nói ở câu 6, thì đặc biệt là về sự vâng phục tiếng gọi của Thiên Chúa mà mỗi người phải học cho biết lắng nghe trong cuộc sống hằng ngày.

Ngày 11.1 – 12.5 – 11.9

 11 Thế nên, ai đã nhận danh hiệu viện phụ, phải biết hướng dẫn môn đệ bằng hai hình thức giáo hoá: 12 nghĩa là lấy việc làm hơn là lời nói mà chỉ cho họ tất cả những gì lành thánh. Vậy, với những môn đệ có khả năng nhận thức, ngài dùng lời nói mà giảng dạy lề luật Chúa; còn với những môn đệ cứng lòng hoặc chất phác, ngài hãy lấy việc làm mà bày tỏ huấn lệnh Chúa. 13 Tất cả những gì ngài dạy cho môn đệ biết là trái, ngài hãy lấy việc làm mà chỉ cho họ thấy là không được làm, kẻo giảng cho người mà chính ngài lại bị luận phạt, 14 sợ rằng có ngày Thiên Chúa sẽ khiển trách ngài như một tội nhân: “Giới luật của Ta, sao ngươi hằng nhắc nhở, miệng ngươi công bố lời giao ước của Ta, nhưng chính ngươi lại chán ghét điều sửa dạy, lời Ta truyền đem vất bỏ sau lưng”? 15 Lại rằng: “Sao ngươi thấy cái rác trong mắt người anh em, còn cái xà trong mắt ngươi thì lại không thấy?”

Chú giải:

A – Ngày 11.1

Với thánh Biển Đức, viện phụ không chỉ giảng dậy bằng lời nói, nhưng bằng cả lời nói lẫn việc làm. Thánh Biển Đức hy vọng rằng ai không chịu nghe lời sẽ được cảm hóa nhờ gương sáng. Nhưng phải làm sao đây khi một đan sĩ không muốn nghe cũng chẳng muốn nhìn? Vì trong một cộng đoàn lúc nào cũng có thể có những đan sĩ không chịu nghe cũng chẳng chịu nhìn. Họ cứ sống theo cách của họ, bất chấp cộng đoàn nơi họ đang ở.

Người ta có thể nhắc nhở, dù xem ra như quá khắt khe, vậy mà ngay sau đó họ vẫn cứ như thường. Trái lại, có những người khác do óc chống đối mà làm ngược lại điều được yêu cầu, giống như con trẻ mới lớn muốn chứng tỏ mình khi đập phá đồ đạc. Khi ấy viện phụ có thể trở nên cứng cỏi, như một thứ cảnh sát, hoặc ngược lại, chán nản, buông xuôi và bỏ mặc.

Thánh Biển Đức mở ra cho ta một nhãn giới khác qua trích dẫn Thánh Kinh ở câu 15. Đó là bản văn Mt 7,3 trong dụ ngôn cọng rơm và cái xà. Chúa Giêsu không nói: con không thể làm gì được cho người anh em đâu vì con chưa hoàn hảo. Bởi như thế sẽ mâu thuẫn với đoạn Phúc Âm khác khi ngài bảo nhắc nhở người anh em có lỗi, trước hết riêng mình với họ, rồi có thêm người làm chứng. Không, Chúa Giêsu không bảo cứ để mặc, nhưng ngài lưu ý tới thái độ tâm hồn của người có trách nhiệm nhắc nhở. Phải chăng họ sẽ làm như người pharisiêu muốn bắt kẻ khác giữ luật? Hay như người môn đệ Chúa muốn cho anh em mình thăng tiến, muốn cho cộng đoàn nên hoàn hảo hơn? Yêu thương vẫn khó hơn là áp dụng kỷ luật. Nhưng tình yêu cũng không kém đòi hỏi. Và, như ta biết, vấn đề thực sự là vấn đề con tim. Vì chỉ con tim mới có thể nói với con tim và đánh động được con tim người khác.

B – Ngày 12.5

Khi phác họa khuôn mặt viện phụ, thánh Biển Đức nêu bật những nét có thể áp dụng cho mỗi người trong ta, dù người ấy ở vị trí nào trong cộng đoàn. Mỗi người đều có thể trở thành cha, có thể truyền ban sự sống bằng sự hiện diện của mình. Trong mọi cộng đoàn đều có những ông thầy âm thầm trao chuyển lại những gì quí nhất của truyền thống đan tu, bằng sự hiện diện của họ.

Vì, một cách nào đó, phương thế duy nhất để trao chuyển những giá trị của đời đan tu đó là sống những giá trị ấy trước để cho người khác cũng thích sống như mình. Đây không phải là muốn làm gương, nhưng đúng hơn là để cho cuộc sống mình dần dần tỏa sáng.

Cách thế duy nhất học sống đời đan tu không phải là học hỏi, đọc sách vở thật nhiều để am hiểu mọi vấn đề của đời sống này, nhưng là sống theo gương các bậc tiền bối của ta.

Đặc trưng của đời đan tu đó là đời sống này không phải là một tri thức, một minh triết, một khoa học thực nghiệm. Học hỏi sống đời đan tu là thụ huấn với một vị thầy, dành hết thời gian cho thực tập để lời nói và hành động dần dần ăn khớp với nhau.

C – Ngày 11.9

Bổn phận của viện phụ có thể được tóm lại chỉ bằng một từ: “praeesse”, mà ở câu 11 dịch là “hướng dẫn”: “viện phụ phải hướng dẫn anh em bằng hai hình thức giáo hóa”. Tiếng “prae-esse” theo từ nguyên có nghĩa là “ở trước”. Và ở trước bằng hai hình thức: nói và tỏ cho thấy. Thánh Biển Đức yêu cầu viện phụ hành động cho hợp với lời nói, phải làm như đã nói.

Nhưng phải chăng như thế là quá đòi hỏi đối với một con người yếu đuối và có giới hạn, một con người mà ai cũng nhìn thấy những khuyết điểm? Viện phụ đâu phải Thiên Chúa! Đúng là thánh Biển Đức muốn thế sao? Do kinh nghiệm ta đều biết rằng chẳng mấy chốc người ta sẽ không chịu nổi những con người hoàn hảo. Sự thánh thiện không phải là thứ hoàn hảo hình thức dồn nén viện phụ vào vai trò khuôn mẫu hàng đầu về đời sống đan tu. Vì thế thánh Biển Đức sẽ đi xa hơn.

Thực vậy, nếu viện phụ phải “prae-esse”, “ở trước” anh em thì trước hết không phải bằng sự hoàn thiện, nhưng bằng sự khiêm tốn. Ngài phải biết rằng cái xà trong mắt mình còn lớn hơn cọng rơm ngài thấy trong mắt anh em (x.c.15). Vì nhiệm vụ, ngài phải sửa chữa, khích lệ anh em, nhưng chỉ ai không đưa mình ra làm gương mẫu cho người khác mới có thể sửa chữa và khích lệ anh em mình. Vì thế, viện phụ không bao giờ nên sợ những giới hạn, những khuyết điểm của mình. Những cái đó chẳng hề là chướng ngại vật, nhưng thật sự là ân sủng, vì chúng s ẽ cho ta có được kinh nghiệm mà thánh Phaolô nói tới ở thư 1 Tm 1,15-16, rằng chính Thiên Chúa hoạt động chứ không phải ta.

Điều đó không chỉ đúng cho viện phụ mà còn cho mỗi người chúng ta. Nhận biết những khuyết điểm, những sai lầm chẳng hề giảm uy tín của ta, nhưng trái lại khiến ta xứng đáng hơn với sự tin tưởng của anh em. Vì như thế họ có thể cảm nghiệm được rằng nếu đan viện đứng vững chính là do bởi Thiên Chúa giữ gìn.

Ngày 12.1 – 13.5 – 12.9

 16 Trong đan viện, viện phụ đừng thiên vị ai. 17 Đừng thương người này hơn người nọ, trừ khi nhận thấy kẻ ấy trội hơn về các việc lành và sự vâng phục. 18 Không được ưu đãi người tự do hơn người đến từ giai cấp nô lệ, trừ khi có lý do chính đáng. 19 Nhưng nếu vì lẽ công bằng mà viện phụ xét là cần phân biệt như thế thì ngài cứ làm, bất kể người được ưu đãi thuộc giai cấp nào; ngoài ra, ai nấy cứ giữ thứ vị của mình. 20 Vì dù nô lệ hay tự do, tất cả chúng ta là một trong Chúa Kitô, cùng chiến đấu để phụng sự một Chúa, vì Thiên Chúa không thiên vị ai. 21 Mà nếu Chúa có phân biệt, thì chỉ tùy theo sự hơn kém về việc lành và lòng khiêm tốn. 22 Vì thế, viện phụ phải thương yêu mọi người như nhau, áp dụng một quy tắc chung cho mọi người, tùy theo công trạng của họ.

Chú giải: 

A – Ngày 12.1

“Viện phụ phải yêu thương mọi người như nhau”. Chỉ thị này ở câu 22 xem ra khó mà dung hòa được với điều thánh Biển Đức nói ở câu 32: “Ngài phải tùy theo tính tình và sự hiểu biết của họ mà thích ứng sao cho phù hợp với mọi người”. Làm sao xử với mọi người như nhau mà vẫn thích ứng được với từng người? Làm sao giữ được sự công bằng trong khi vẫn quan tâm tới sự khác biệt về tính khí? Viện phụ phải làm một điều không thể thực hiện được sao?

Khi Thánh Biển Đức bảo phải âu yếm với người này và dùng roi vọt với người kia thì thoạt tiên có vẻ như ngài bỏ qua nguyên tắc về công bằng tuyệt đối. Nhưng có đúng vậy không? Khi tôi hoán cải trở về với đời sống đạo, để ôn lại đức tin, tôi đã dậy giáo lý trong vòng một năm cho bọn trẻ hay phá phách thuộc các thành phố mỏ. Trong các học trò của tôi có một đứa rất ngỗ nghịch, nó không bao giờ học bài và phá tới độ thường bị phạt ngồi góc nhà hay ngoài cửa lớp. Thế mà vào ngày sau cùng khi tôi kết thúc khóa học thì em ấy là người duy nhất đã đến tặng quà cho tôi.

Thực ra, thánh Biển Đức có lý. Có những người cần xử mạnh tay, có những người lại phải êm ái nhẹ nhàng, nhưng luôn luôn vẫn chỉ bằng cùng một tình yêu thương. Sửa dậy, khiển trách, khích lệ, như thánh Phaolô nói, là dấu hiệu của tình thương, dấu hiệu cho thấy rằng mỗi người đều có giá trị của họ, rằng mọi người đều đáng giá như nhau. Cách làm có thể khác nhau, nhưng tình thương vẫn chỉ là một. Đôi khi, nhìn những cách xử sự khác nhau như thế người ta có thể hoài nghi. Nhưng có lẽ phải cần đến một trái tim con trẻ để nhận ra được tình thương đích thực.

B – Ngày 13.5

“Tình yêu không bị ép buộc”. Vậy mà hình như thánh Biển Đức muốn đòi viện phụ phải dẹp bỏ những tình cảm riêng và hoán cải khả năng yêu thương của ngài. Điều đáng cho viện phụ quan tâm không phải là những đức tính của anh em hay thiện cảm đối với họ, nhưng là cách họ sống. Thánh Biển Đức nói tới điều đó ở câu 21: “Nếu Chúa có phân biệt thì chỉ tùy theo sự hơn kém về việc lành và lòng khiêm tốn”.

Việc hoán cải tình cảm yêu thương đó, thánh Biển Đức không chỉ đòi nơi viện phụ mà còn cả nơi mỗi người chúng ta nữa. Trong đời đan tu, ta phải được hướng dẫn bằng sự ham thích điều thiện, bằng vẻ đẹp của cuộc sống được biến đổi nhờ việc tìm kiếm Chúa, chứ không phải bằng những nét hấp dẫn hay tình cảm. Nhưng chỉ cần nhìn vào cách ứng xử, vào những mối thiện cảm tự nhiên của ta để thấy rằng ta còn xa hay rất xa với điều đó.

Việc hoán cải tình yêu: yêu vì Chúa chứ không vì mình, không phải là việc dễ thực hiện. Nó đòi hỏi một nỗ lực nội tâm thực sự. Thế giới của tình cảm, của cảm xúc là một trong những thế giới kín nhiệm và huyền bí nhất. Một thế giới mà người ta ít có được sự sáng suốt. Tục ngữ đã chẳng nói tình yêu làm cho mù quáng đó sao? Sự mù quáng này ta dễ thấy, nhất là nơi người khác. Hiếm có người ý thức được mình bị tình cảm hướng dẫn. Chính vì thế, một trong những nỗ lực lớn nhất của đan sĩ là làm sáng tỏ mọi thứ oán ghét và mọi thứ yêu thương ẩn khuất nơi lòng mình.

C – Ngày 12.9

Thật là bình thường khi viện phụ cần đến một số anh em để giúp ngài thi hành nhiệm vụ. Ngài không có khả năng chuyên môn về mọi lãnh vực, cũng không có thời giờ và phương tiện để giải quyết hết những gì xẩy ra. Thánh Biển Đức không phủ nhận điều đó, mà còn đặt một số vị hữu trách để giúp viện phụ: như viện phó, quản lý, tập sư, người tiếp khách, y tá, người giữ hiệu, người giữ cổng v.v.

Nhưng điều ấy có thể gây ra một khó khăn như thánh Biển Đức nêu lên trong đoạn tu luật này, đó là khó khăn trong việc tuyển chọn người. Quả thực, khó mà biết được viện phụ phải chọn người theo tiêu chuẩn nào cũng như người anh em được tín nhiệm phải có những khả năng nào và tới mức độ nào. Về vấn đề này thánh Biển Đức tỏ ra rất minh bạch.

Đối với ngài, điều đáng kể không phải là khả năng chuyên môn hay sự thông minh, cũng không phải kết quả đạt được trong công việc ủy thác. Nhưng là phẩm chất con người, như thánh Biển Đức nói tới hai lần ở câu 17 và câu 21. Ngài bảo: người nào tốt hơn nhờ các việc lành và sự vâng phục (c.17); và người nào trổi vượt hơn về việc lành và lòng khiêm tốn (c.21).

Chỉ có một lý do khiến đan sĩ được vinh dự, chỉ có một căn cứ để viện phụ có thể chuộng anh em này hơn anh em khác, đó là sự vâng phục và lòng khiêm tốn, chứ không phải tài năng, uy tín, hiệu quả công việc hay nổi nang gì. Nếu viện phụ làm khác đi, ngài sẽ sai lầm và có nguy cơ khiến cộng đoàn bị lạc hướng.

Ngày 13.1 – 14.5 – 13.9

 23 Trong việc giáo huấn, viện phụ phải luôn luôn theo mẫu mực thánh Tông Đồ đề ra: “Hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ ”. 24 Nghĩa là phải tùy cơ ứng biến: dung hòa lời dịu dàng với giọng răn đe, khi tỏ vẻ như thầy nghiêm nghị, lúc lại âu yếm như cha hiền. 25 Nghĩa là với những người vô kỷ luật và quấy rồi, ngài phải nặng lời khiển trách; còn với những ai vâng phục, nhu mì, nhẫn nại, ngài hãy khuyến khích họ tiến tới; còn những kẻ ươn lười ngạo mạn, cha khuyên ngài hãy quở phạt, sửa chữa.

26 Ngài chớ bao che tội lỗi của phạm nhân, nhưng vừa khi thấy chớm mọc, ngài phải hết sức tiêu diệt tận căn. Ngài hãy nhớ tới thảm họa xẩy đến cho tư tế Hêli tại Silô. 27 Với những ai tế nhị và thông minh, ngài chỉ cần nhắc nhở một hai lần là đủ. 28 Nhưng với những kẻ xấu nết, ngoan cố, kiêu căng, bất phục, ngài hãy dùng roi vọt mà trừng trị, hoặc những hình phạt thể xác mà trấn át ngay lúc tật xấu vừa phát sinh, vì có lời chép: “Người ngu không thể lấy lời nói mà sửa dạy được”. 29 Lại rằng: “Hãy dùng roi mà sửa phạt con cái ngươi, để cứu linh hồn nó khỏi chết”.

Chú giải:

A – Ngày 13.1

“Để cứu linh hồn nó khỏi chết” (Cn 23,14). Khi trích dẫn lời sách Châm ngôn để kết thúc đoạn tu luật ta vừa đọc, thánh Biển Đức đưa ra định hướng cho hành động của viện phụ. Nếu viện phụ khiển trách, khích lệ, răn đe, tỏ ra vừa dịu dàng vừa nghiêm khắc, sửa phạt người chểnh mảng và quanh co, thì không phải vì sự ổn định của đan viện, cũng không vì muốn duy trì kỷ cương, nhưng để làm nảy sinh và tuôn trào sự sống đích thực.

Vì có một con đường dẫn tới cái chết, và một con đường dẫn tới hạnh phúc cũng như tới sự sống. Đó là hai con đường Thiên Chúa đã truyền cho Môsê loan báo cho dân: sự sống và hạnh phúc, sự chết và bất hạnh. Chỉ có một con đường dẫn tới sự sống, và theo cách của mình, thánh Biển Đức hiện thực hóa kinh nghiệm trải dài qua toàn bộ Thánh Kinh. Con đường ấy ta không dễ dàng nhận ra được, chính vì vậy mà phải khuyến khích, nhắc nhở, sửa dậy, bởi lẽ yêu thích sự sống không phải là điều đơn giản.

Những nẻo đường dẫn tới cái chết thì dễ đi và rộng rãi. Và đôi khi ta bị lôi cuốn bởi một thứ bản năng muốn chết. Lời mắng nhiếc của bà vợ ông Gióp là một thí dụ: “Hãy nguyền rủa Thiên Chúa rồi chết đi!” Nhưng ông Gióp chọn sự sống, ông chọn đối diện với Thiên Chúa, ông muốn trở thành một người sống khi thân thưa với Thiên Chúa của những người sống, Thiên Chúa của các tổ phụ Abraham, Isaác, Giacóp. Vì Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Con đường dẫn tới sự sống đòi ta phải chịu nhiều đau khổ, nhưng Thiên Chúa lại chờ đợi ta trên con đường này để ta trở nên những kẻ sống.

B – Ngày 14.5

Với thánh Biển Đức, nhiệm vụ giáo huấn của viện phụ bao gồm ba điểm chính được thánh nhân nêu lên khi nhắc lại lời thánh Phaolô trong thư thứ hai gửi Timôthê (4,2): “khiển trách, khích lệ, đe loi”. Tất cả đoạn tu luật này là một bài chú giải ba từ đó. Tôi muốn dừng lại ở một chi tiết nơi câu 26, có nhắc đến Hêli, tư tế ở Silô (1 Sm 2-4).

Câu truyện của tư tế Hêli được thuật lại từ chương 2 đến chương 4 sách 1 Samuel. Câu truyện này thường được coi như trình thuật về ơn gọi của Samuel. Hêli là người đã nhận ra ơn gọi của Samuel và giúp cậu biết nghe tiếng Chúa (1 Sm 3). Nhưng ông lại để cho tình cảm chi phối tới độ không còn khả năng dậy cho các con ông biết nghe tiếng Chúa nữa. Khi ấy một người của Chúa, một tiên tri, tới quở trách ông (ch. 2), vì hai người con của ông đã lạm dụng chức vụ tư tế.

Ông Hêli đã biết nhận ra tiếng Chúa nói với Samuel, nhưng lại không nhận ra tiếng Chúa nói với ông và các con ông. Đó là cái mâu thuẫn lớn của trình thuật này. Chương 4 sách 1 Samuel sẽ thuật lại cho ta cái chết của các con ông Hêli và cái chết của chính ông. Ý tưởng nổi bật của đoạn Kinh Thánh này là ông Hêli đã không thể giúp các con ông lớn lên, vì ông không biết mình có tự do thật không.

Một trong những nguy cơ lớn rình rập viện phụ cũng như mỗi người chúng ta, đó là muốn làm cho mình được yêu quí bằng mọi giá, ngay cả phải hy sinh sự thật và thiện ích của người khác. Chọn sự thiện luôn luôn là điều khó khăn, vì điều đó thường đòi ta phải giáp mặt với một bức tường, với sự chống cự của con tim chai đá và bướng bỉnh (c.28). Như vậy, dám yêu không phải là chuyện dễ. Thánh Phaolô thường nhắc lại điều đó trong các thư của ngài.

C – Ngày 13.9

Để hiểu ý nghĩa của đoạn tu luật này, cần thiết phải nhớ lại bầu khí thiêng liêng hàm ẩn trong câu trưng dẫn ngay ở đầu đoạn văn: “khiển trách, răn đe, khuyên nhủ”, được trích từ thư 2 Timôthê (2 Tm 4,2). Timôthê còn trẻ, sức khỏe yếu kém, không phải là một con người tài giỏi, một siêu nhân. Nhưng ông đã nhận được một hồng ân, một hồng ân Thiên Chúa ban, và hồng ân này không phải vì lợi ích cho bản thân ông, nhưng ông đã lãnh nhận vì người khác. Dầu sao, ông vẫn không được nản chí, không được đầu hàng. Ông phải chu toàn sứ vụ.

Có lẽ cũng khó khăn, cũng đau khổ cho viện phụ khi thi hành tác vụ, cũng như cho anh em khi chấp nhận được phục vụ. Một điều kiện cần duy nhất, đó là đức tin. Vì nếu ta chỉ coi tác vụ ấy như việc phải làm để giữ gìn kỷ luật, bảo tồn trật tự, nếu đó chỉ là vấn đề quyền bính, thì tất cả sẽ sụp đổ. Đức tin cần thiết cho người thi hành tác vụ cũng như cho người được phục vụ.

Thật là mâu thuẫn, khi ở câu 29, thánh Biển Đức trưng dẫn sách Châm Ngôn (23,14): “Hãy dùng roi mà sửa phạt con cái ngươi để cứu linh hồn nó khỏi chết”. Có lẽ điều ấy diễn tả đúng nhất ý nghĩa sâu xa của tác vụ mà viện phụ phải thi hành. Quả thực, viện phụ cũng như anh em không được quên rằng mục đích thiết yếu của đời đan tu là giúp cho mình được giải thoát và đạt tới tự do nội tâm. Ta chỉ có thứ tự do này sau khi đã được giải thoát khỏi sợ hãi, dối trá, khỏi tất cả những gì ngăn cản ta thực hiện định mệnh cao cả mà Thiên Chúa mời gọi ta đạt tới.

Vì nếu ta vào đan viện thì không phải là để làm công kia việc nọ, để thu tích hàng đống những đồ vặt vãnh mà ở ngoài đời ta sẽ dễ dàng có được. Nếu ta đến đây thì không phải là để sống nước đôi, sống giả vờ. Nhưng chính bởi vì ta cảm thấy, mỗi người theo cách của mình, rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới làm ta mãn nguyện, và nếu không có Chúa mọi sự khác đều chẳng đáng gì.

Thiết tưởng thừa tác vụ của viện phụ trước hết là khơi dậy trong lòng anh em hồng ân họ đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa, khơi dậy niềm khát khao to lớn hơn chính bản thân họ và ngăn ngừa họ khỏi tự mãn với những thành công của mình.

Ngày 14.1 – 15.5 – 14.9

 30 Viện phụ hãy luôn nhớ mình là ai, mang danh hiệu gì. Ngài phải biết rằng kẻ được ủy thác nhiều sẽ bị đòi hỏi nhiều. 31 Ngài hãy ý thức rằng ngài đã lãnh nhận một nhiệm vụ khó khăn và cam go biết bao, tức là việc hướng dẫn các linh hồn và phục vụ bá tánh. Quả thế, phải dịu dàng với người này, khiển trách người nọ, thuyết phục người kia. 32 Ngài phải tùy theo tính tình và sự hiểu biết của họ mà thích ứng sao cho phù hợp với mọi người, để không những khỏi phải buồn vì đoàn chiên được ủy thác bị thiệt thòi, mà còn vui mừng vì đoàn chiên lành tăng số.          

Chú giải:

A – Ngày 14.1

        Thánh Biển Đức nhắc lại câu ngài đã nói ở đầu chương 2 này: “Viện phụ hãy luôn nhớ mình là ai”. Động từ “nhớ” sẽ còn trở lại một lần nữa ở cuối chương.

Ta có thể tự hỏi tại sao thánh Biển Đức lại nhấn mạnh nhiều như thế đến việc viện phụ phải nhớ đến danh hiệu của mình. Như ta đã biết, danh hiệu ấy nói lên một ơn gọi mà thánh Biển Đức xác định bằng hai động từ trong bản văn tiếp theo: -viện phụ phải “quản trị” (bản la tinh là “regere”, từ này có gốc là “rex” nghĩa là vua); -viện phụ phải “phục vụ” (bản la tinh là “servire”, có gốc là “servus” nghĩa là nô lệ, tôi tớ).

Hai từ này, vua và tôi tớ, diễn dịch hoàn hảo ý tưởng được khai triển ở đầu chương: “Trong đan viện, người ta tin ngài đại diện Chúa Kitô, đấng mà ngài mang danh hiệu”. Danh hiệu này chính là “vua và tôi tớ”.

Ở đây ta thấy có sự mâu thuẫn giữa hai từ này. Ta dễ hình dung được thế nào là một ông vua và thế nào là một tôi tớ. Nhưng đây lại là một ông vua tôi tớ của mọi người? Sự mâu thuẫn này nhắc ta nhớ đến Chúa Kitô, chỉ duy mình ngài là Vua và Tôi Tớ đích thực.

Khi tỏ mình ra là tôi tớ hơn cả chính là lúc Chúa Kitô mạc khải cho ta vương quyền của ngài. Đó là nghịch lý lớn lao của Mạc khải: vinh quang và thập giá. Nơi nghịch lý này ta thấy được trọn vẹn quyền bính trong Giáo Hội. Trái với quyền bính trong thế gian, được xây dựng trên sức mạnh, uy thế và giầu sang, quyền bính trong Giáo Hội xây dựng trên việc từ bỏ chính mình. Thánh Phaolô diễn tả điều đó khi quả quyết: “Chính khi tôi yếu là lúc tôi mạnh”. Như vậy là “quản trị” và “phục vụ” đã trở nên đồng nghĩa với nhau.

B – Ngày 15.5

Hướng dẫn các linh hồn là một nghề khó khăn, ngay cả không sao làm nổi nữa, vì, như Thánh Kinh nói, chỉ mình Thiên Chúa mới biết được lòng con người. Bởi vậy, dù viện phụ có là tâm lý gia giỏi nhất, hay nhà ngoại giao khéo léo nhất, hoặc cổ động viên linh hoạt nhất cũng không đủ. Nhiệm vụ của ngài khác hẳn nhiệm vụ của những người như thế.

Những khả năng tài giỏi, khéo léo có thể cho ta cảm tưởng là ngài nắm được cộng đoàn. Tuy nhiên, Thần Khí muốn thổi đâu thì thổi, người ta không biết Thần Khí từ đâu tới và đi đâu. Điều đó làm cho nhiệm vụ của viện phụ vừa rất phức tạp vừa rất đơn giản. Thực vậy, chỉ cần đi theo Chúa từng bước một, chấp nhận ở lại trong sương mù, bằng lòng sống theo kế hoặch của Chúa hơn là đòi theo kế hoặch riêng. Tựu trung là rất đơn giản.

Nhưng chính vì đơn giản mà hóa ra phức tạp, bởi lẽ điều đó đòi phải chấp nhận không tự mình tác động trên các biến cố, các tâm hồn. Và như vậy thì cần triệt để hoán cải. Hoán cải, tự do nội tâm, cởi mở trước tác động của Thần Khí là những điều cộng đoàn cần hơn hết, là những điều cộng đoàn đợi chờ nơi viện phụ.

Viện phụ phải chấp nhận không bao giờ biết được lời ngài nói có hiệu quả không, có đánh động tâm hồn anh em không. Ngài phải hành động như thể mọi sự tùy thuộc nơi mình, trong khi vẫn biết rằng mọi sự đều là hồng ân. Thiên Chúa làm việc qua viện phụ, và không nhất thiết mang lại hiệu quả như viện phụ nghĩ. Nếu viện phụ bằng lòng chấp nhận, điều ấy có thể giúp ngài được hết sức tự do và tăng trưởng về đàng thiêng liêng, cũng như giúp cho cộng đoàn tươi trẻ lại trong Thánh Thần.

C – Ngày 14.9

“Viện phụ hãy luôn nhớ mình là ai, mang danh hiệu gì”. Ta có thể giải thích câu 30 này theo hai cách khác nhau. Hoặc coi phần thứ hai của câu như là để xác định cho phần thứ nhất: “nhớ mình là ai, có nghĩa là nhớ mình mang danh hiệu gì”; hoặc coi phần thứ hai như thêm vào một yếu tố mới: “một đàng nhớ mình là ai, đàng khác nhớ mình mang danh hiệu gì”. Giải thích theo cách thứ hai sẽ giúp ta hiểu rõ hơn điều thánh Biển Đức muốn nói.

Thực vậy, tất cả ơn gọi của viện phụ có thể tóm gọn trong việc chọn lựa giữa điều ngài là và ơn gọi ngài đã lãnh nhận. Ta có thể giải quyết việc chọn lựa này bằng hai cách hoàn toàn trái ngược nhau. Cách thứ nhất hệ tại ở chỗ tự đồng hóa với nhiệm vụ, tưởng mình là cái mình được mời gọi lãnh nhận. Khi ấy ta sẽ cho mình là cần thiết, không thể thay thế được. Hoặc, ngược hẳn lại, viện phụ ý thức rõ sự chênh lệch giữa hiện trạng của mình với điều mình phải là, khiến ngài đâm ra nản lòng, buông xuôi.

Thật ra, giải pháp đích thực nằm ở giữa hai cách giải quyết đó. Đây là một cách chọn lựa tốt, dù khó thực hiện, vì là nguồn mạch phát sinh mọi tiến bộ thiêng liêng. Chính khi ý thức mình chẳng đáng gì, và cả đến mỗi ngày mỗi thấy mình yếu kém hơn, mà viện phụ có thể khám phá ra rằng cái chẳng đáng gì ấy lại có thể làm được nhiều chuyện, nếu ngài nương tựa vào Chúa.

Càng thấy mình chẳng là gì, viện phụ càng nhận ra mình có thể làm được tất cả. Vì sức mạnh của Thiên Chúa được biểu lộ trong sự yếu hèn. Sự yếu hèn, dòn mỏng của ta không phải là một trở ngại, nhưng là điều kiện cần thiết để ta có thể khám phá ra rằng Thiên Chúa làm được mọi sự. Vấn đề là để cho sức mạnh của Chúa hoạt động qua bản thân ta, chứ không cầm giữ lại cho mình.

Ngày 15.1 – 16.5 – 15.9

 33 Trước hết, ngài đừng sao lãng hoặc coi nhẹ phần rỗi các linh hồn Chúa ủy thác mà quá bận tâm đến của cải thế tục mau qua chóng tàn. 34 Nhưng ngài phải xác tín ngài đã nhận việc hướng dẫn các linh hồn, thì tất nhiên phải trả lẽ về các linh hồn ấy. 35 Để khỏi viện cớ tài chính eo hẹp, ngài hãy nhớ lời Thánh Kinh: “Trước hết, hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho”. 36 Và có lời: “Kẻ kính sợ Người chẳng thiếu thốn chi”.

37 Ngài nên biết rằng ai đã nhận hướng dẫn các linh hồn thì phải sẵn sàng trả lẽ. 38 Số anh em thuộc quyền ngài săn sóc, dù là bao nhiêu, ngài hãy nhận thức chắc chắn rằng đến ngày công phán ngài sẽ phải trả lẽ với Chúa về các linh hồn ấy và dĩ nhiên cả linh hồn mình nữa. 39 Vì trong khi ngài sợ Chúa sẽ tra vấn chủ chăn về các con chiên đã được ủy thác, trong khi lo trả lẽ về người khác thì ngài cũng biết lo cho chính mình. 40 Và trong khi khuyên người khác tu sửa, thì chính ngài cũng tự sửa mình.

Chú giải:

A – Ngày 15.1

Trong đoạn ngắn này bốn lần thánh Biển Đức nhắc nhở viện phụ trước hết phải quan tâm đến “phần rỗi các linh hồn” (c.33,34,37,38), kể cả linh hồn mình. Với thánh Biển Đức, trong cuộc sống thường nhật, phần rỗi các linh hồn phải được chăm lo hơn mọi thứ bận tâm khác.

Mối bận tâm đầu tiên liên quan tới “của cải thế tục mau qua chóng tàn” (c.33). Thánh Biển Đức nhắc nhở rằng trong cuộc sống đan viện có một trật tự về các giá trị khác nhau. Và ngài bảo viện phụ phải cẩn thận kẻo lại đảo lộn trật tự đó mà thực tình chẳng hay biết. Có thể xẩy ra thảm trạng là trong đan viện người ta sao lãng điều cốt yếu: tìm Chúa, để bận tâm đến cái phụ thuộc: tìm của cải trần gian và những thực tại đời này. Như thế, trong những điều phải lựa chọn, thuộc lãnh vực cộng đoàn hay cá nhân, điều phải chọn trước hết là lợi ích các linh hồn.

Mối bận tâm thứ hai có thể gây tổn hại cho lợi ích các linh hồn không thuộc phạm vi vật chất nữa nhưng thuộc cách sống. Viện phụ không mong gì sửa dậy được người khác nếu ngài không tự sửa mình (c.39-40). Và đó là một điểm cốt yếu khác trong trách nhiệm của viện phụ: ngài không mong dẫn dắt anh em mình trên đường ngay nẻo chính được nếu ngài lại không đi vào đó.

Như vậy, trong việc hướng dẫn cộng đoàn, viện phụ phải làm hai điều. Trước hết là chú tâm tới trật tự các giá trị trong cuộc sống cụ thể hằng ngày của cộng đoàn, sau đó chính ngài phải đi vào con đường ngài muốn dẫn anh em đi. Nói về cầu nguyện, về việc đọc sách thiêng liêng, về khó nghèo, thinh lặng v.v mà chính mình lại không thực hiện thì đó là cái bẫy nguy hiểm nhất cho một cộng đoàn đan tu. Muốn nâng đỡ anh em thì trước hết phải coi xem mình có sống như mình nói không.

B – Ngày 16.5

Ở cuối chương 2 này, thánh Biển Đức đặt một ưu tiên tuyệt đối: điều đáng kể trước hết là các linh hồn chứ không phải sự vật. Ngài nhắc lại chân lý đó nhiều cách khác nhau, bằng những trích dẫn Thánh Kinh, bằng lời đe loi hay thuyết phục.

Hướng dẫn các linh hồn thì khác biệt và phức tạp hơn lo đến những chuyện vật chất. Về vật chất ta có thể phần nào an tâm, có thể dự liệu trước. Còn với các linh hồn thì luôn luôn bất ngờ, phức tạp, bấp bênh, đôi khi làm ta thất vọng, nhưng cũng thường gây ngạc nhiên nữa. Như vậy, chấp nhận chăm sóc các linh hồn, chấp nhận coi con người hơn sự vật đòi hỏi ta phải thực sự hoán cải.

Con người không bao giờ am hợp khít khao với nhãn hiệu họ mang, không bao giờ theo đúng thời dụng biểu đã định. Người ta chẳng sao biết được tất cả những động cơ thầm kín của tâm lý học và phân tâm học, người khác vẫn luôn luôn là người khác. Đấy mới là điều khó khăn.

Con người là một mầu nhiệm. Giáp mặt với cái thấp hèn và độc ác, cũng như cả với sự cao cả và sự khiêm tốn quên mình có thể khiến ta sợ hãi. Nhận trách nhiệm chăm sóc các linh hồn là chấp nhận giáp mặt với một mầu nhiệm. Nhưng tất cả chúng ta lại đều bị cám dỗ coi người khác như một đối tượng đã quen thuộc rồi.

C – Ngày 15.9

Trong đoạn tu luật ta vừa nghe, bốn lần thánh Biển Đức nhấn mạnh tới việc viện phụ có trách nhiệm về anh em và về chính mình. Điều ấy có hai ý nghĩa: trước hết bổn phận viện phụ là phục vụ người khác, hai là không thể phục vụ người khác mà lại không quan tâm đến mình.

Như thế, bổn phận viện phụ là phục vụ người khác. Người khác là trước hết, nhất là trước những của cải vật chất, trước hiệu quả kinh tế. Với thánh Biển Đức, đó là vấn đề nguyên tắc: linh hồn bất tử trước mọi cái tạm thời và mau qua (c.33). Nhưng người khác, đó là người khác với mình, người mà mình không ngừng phải thích ứng với.

Nhưng, để quan tâm đến người khác, cần thiết viện phụ phải biết mình. Trước khi đoán xét người khác, “ngài phải lo đến chính mình” (c.39). Cũng thế, “trong khi khuyên người khác tu sửa, thì ngài cũng tự sửa mình” (c.40). Như vậy, không thể giúp người khác, nếu không ý thức rằng mình cũng phải lo tiến tới.

Hai phương diện: trợ giúp người khác và biết mình không thể tách rời nhau khi thực thi bất cứ quyền bính nào trong đời sống đan tu. Dù muốn hay không ta vẫn luôn được biến đổi rất sâu xa do nhiệm vụ ta nắm giữ. Khi đột nhập vào cuộc sống ta, người khác buộc ta phải ý thức những giới hạn, những thiếu sót, những nghèo nàn của ta. Nếu chấp nhận điều đó, ta sẽ được lớn lên.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

BÀI VIẾT MỚI

spot_imgspot_img

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Chúa biết điều gì là tốt cho chúng ta

    CHÚA BIẾT ĐIỀU GÌ LÀ TỐT NHẤT CHO CHÚNG TA Tác giả: Lm Phêrô Trần Mạnh Hùng, STD Người ta kể lại một câu chuyện, có...

Tu Luật Cha Thánh Biển Đức – Hiến Pháp – Thói lệ Hội dòng Xi-tô Thánh Gia

1. Tu Luật Cha Thánh Biển Đức  - Muốn xem, xin click vào đây: Tu Luật 2. Đây là bản Hiến Pháp Hội dòng Xi-tô Thánh...