Chương 47
PHẢI BÁO GIỜ THẦN VỤ THẾ NÀO?
Ngày 27.3 – 27.7 – 26.11
1 Báo giờ Thần Vụ ngày đêm là trách nhiệm của viện phụ. Chính ngài phải tự đảm nhận hoặc giao việc ấy cho một anh em cần mẫn để mọi sự được chu toàn đúng giờ đã định. 2 Những ai được chỉ định cất xướng Thánh Vịnh hay tiền ca, hãy cất xướng theo thứ tự mình sau viện phụ. 3 Đừng ai tự tiện hát hay đọc, nếu không có khả năng chu toàn phận sự ấy để làm ích cho người nghe. 4 Ai được viện phụ bảo, hãy chu toàn nhiệm vụ này cách khiêm tốn, nghiêm túc và kính cẩn.
Chú giải:
A – Ngày 27.3
Trong chương rất ngắn về việc báo hiệu giờ thần vụ này, danh xưng viện phụ được nhắc tới ba lần! Ngoài một vài cách giải thích có tính hài hước về tương quan giữa chuông hiệu và viện phụ, ta thấy thánh Biển Đức nhấn mạnh tới vai trò của viện phụ ở đây để mời gọi ta ý thức tầm quan trọng của việc phụng sự Chúa, của Thần Vụ.
Ta có thể tóm gọn điều đó trong câu giống như một khẩu hiệu: “Phụng sự Chúa trước hết!”. Đúng vậy, phải phụng sự Chúa trước hết, trước tất cả những gì có thể làm ta sao lãng hay kìm hãm ta lại. “Phụng sự Chúa trước hết”, trước mọi sự và nhất là trước bản thân ta.
Ở nơi khác thánh Biển Đức sẽ nhắc lại điều đó bằng những câu mà ta còn ghi khắc mãi trong tâm trí, như: “Không quí chuộng gì hơn việc Chúa”, “không yêu mến gì hơn Chúa Kitô” (4,21) v.v… Đời sống đan tu là một cuộc sống rất bình thường, nhưng với một sắc thái đặc biệt, một ưu tiên làm thay đổi tất cả.
Quả thực, rất chính đáng khi tìm cách để thành đạt trong cuộc đời bằng việc hành nghề, lập gia đình v.v… Tất cả đều tốt, và rất tốt nữa. Nhưng điều làm cho đời đan tu có tính cách đặc biệt khác với mọi cuộc sống khác đó là ưu tiên dành riêng cho Chúa. Những người vào đan viện vì điều gì khác sẽ luôn luôn bị thất vọng. Những người vào đó để tìm thể hiện bản thân, tìm cho được thành công trong lãnh vực nào đó, sau cùng sẽ trở nên cay đắng và sầu khổ. Làm đan sĩ tức là lấy Chúa làm hơn hết.
B – Ngày 27.7
“Khiêm tốn, nghiêm túc, kính cẩn”. Ba từ này tóm gọn cả một chương trình sống, và giúp ta hiểu được ý nghĩa ơn gọi đan tu của mình. Ba từ này cũng nói với ta nhiều điều về cuộc hoán cải sâu xa nơi bản thân mỗi người và về những thách đố ta phải nêu lên.
Trước hết “khiêm tốn”. Khiêm tốn là ý thức về cái hiện thực, ý thức về những giới hạn cũng như về sự gắn kết của con người vào một môi trường. Một cách nào đó, khiêm tốn là sinh thái học của đời sống thiêng liêng. Khiêm tốn trái ngược với mọi hình thức chủ trương siêu thoát. Chủ trương siêu thoát của người tưởng tượng có thể tự mình lên trời được, và của người coi cái gì cũng đẹp, ai cũng dễ thương cả. Khiêm tốn là chấp nhận thân phận con cháu Ađam của mình.
“Nghiêm túc” phát sinh từ khiêm nhường. Đó là nhận thức được trách nhiệm của ta. Nghiêm túc đến từ phát hiện rất rõ rằng ta chỉ có một cuộc đời để sống và cái chết đang tới gần. Nghiêm túc không đối nghịch với niềm vui, nhưng với tính nhẹ dạ, với thái độ tự do quá trớn. “Gravitas” trong bản la tinh có nghĩa đen là sức nặng, trọng lực. Người “nghiêm túc” là người tìm được trọng tâm của mình và đứng vững tại đó.
“Kính cẩn”, đó là biểu lộ lòng khiêm nhường và sự nghiêm túc. Biết mình là ai, biết mình phục vụ ai sẽ tạo nên nơi ta một thái độ nội tâm và ngoại giới thích hợp. Tôn trọng mình, tôn trọng người khác, tôn trọng sự vật, và tất nhiên kính cẩn đối với Chúa. Theo thánh Biển Đức, kính cẩn là tên gọi khác của sự chăm chú, là thái độ cụ thể khi ở trước Đấng đang hiện diện trước mặt mình. Tóm lại, ba từ khiêm tốn, nghiêm túc và kính cẩn nói lên phẩm chất của sự hiện diện, của chiều sâu tâm hồn ta trước tôn nhan Thiên Chúa.
C – Ngày 26.11
Thánh Biển Đức đặc biệt giao cho viện phụ trách nhiệm về diễn tiến của các giờ thần tụng. Điều ấy chứng tỏ thánh nhân coi giờ kinh quan trọng như thế nào. Viện phụ trước hết không phải là một nhà quản trị hay một quản lý, nhưng nhiệm vụ chính của ngài là hướng dẫn anh em trên đường cầu nguyện. Và điều ấy có nghĩa rằng trọng tâm của cộng đoàn đan tu và của mỗi thành viên là cầu nguyện.
Nhưng thực tế có như vậy không? Thắc mắc này hẳn không vô ích. Thật vậy, ta có thể dần dần đi lệch hướng, làm lệch trọng tâm và thay thế nó bằng đủ thứ gì khác: những mối bận tâm, những tương quan giao tiếp, hay chính cái tôi của mình. Trọng tâm của ta thực sự là ở đâu?
Thật khó mà tự mình giải đáp những vấn nạn kiểu này. Thường thì người khác lại thấy rõ hơn ta. Có vô số những dấu hiệu nho nhỏ, những triệu chứng, cho thấy khuynh hướng thực sự của ta. Và điều này thật quan trọng, vì phần nào ta giống như những chiếc thuyền buồm trên mặt biển, coi như bất động, nhưng càng đi chúng càng có thể lạc hướng.
Chính vì thế mà cộng đoàn giữ vai trò thiết yếu trong cuộc sống của ta. Trong khi giữ đúng hướng, cộng đoàn giúp ta tìm lại được con đường ta phải đi, nếu có khi nào do vô ý hay bất cẩn ta bị lạc đường. Đây đặc biệt là vai trò của các vị cao niên, bằng sự trung tín âm thầm và khoan dung, các ngài dẫn ta trở lại đường ngay nẻo chính, con đường của ơn gọi đan tu đích thực.
Chương 48
VIỆC LAO ĐỘNG CHÂN TAY HẰNG NGÀY
Ngày 28.3 – 28.7– 27.11
1 Ở nhưng là thù địch của linh hồn, thế nên anh em phải có giờ làm việc chân tay, có giờ đọc sách. 2 Cha thiết tưởng có thể xếp đặt thời giờ cho hai việc ấy như sau: 3 Từ lễ Phục Sinh đến ngày 14 tháng 9, từ giờ thứ nhất đến khoảng giờ thứ tư anh em đi làm những công việc cần thiết. 4 Từ giờ thứ tư đến khoảng giờ thứ sáu, anh em đọc sách. 5 Sau giờ thứ sáu, khi đã ăn xong, anh em về giường nghỉ, triệt để giữ thinh lặng. Ai muốn đọc sách thì cứ đọc riêng một mình, miễn sao không làm phiền kẻ khác. 6 Kinh Giờ Chín đọc sớm hơn thường, vào lúc giờ tám rưỡi, rồi anh em lại đi làm cho tới giờ Kinh Chiều. 7 Nếu vì nhu cầu địa phương hay cảnh khó nghèo đòi hỏi mà phải gặt hái thì anh em không nên buồn phiền, 8 vì chỉ khi nào sống bằng thành quả lao động của mình như Cha Ông ta và các Tông đồ, ta mới thật là đan sĩ. 9 Nhưng dù sao trong mọi sự phải giữ chừng mực, vì còn có những anh em yếu sức.
Chú giải:
A – Ngày 28.3
Với thánh Biển Đức, có hai lý do căn bản cho thấy sự quan trọng của lao động trong đời sống đan tu. Lý do thứ nhất, ở câu 1 ngài quả quyết rằng “ở nhưng là thù địch của linh hồn”. Lý do thứ hai, ở câu 8, ngài bảo: “Chỉ khi nào sống bằng thành quả lao động của mình như Cha Ông ta và các Tông Đồ, ta mới thật là đan sĩ”.
Như vậy, lý do thứ nhất xem ra chỉ liên quan tới cuộc sống thiêng liêng của mỗi cá nhân, trong khi lý do thứ hai liên quan tới lãnh vực xã hội của con người. Nhưng có đúng vậy không? Phải chăng có sự khác biệt như thế?
Lý do thứ nhất, được thánh Biển Đức nêu ra trước, liên quan tới cuộc sống nội tâm của đan sĩ. Lao động giúp linh hồn khỏi nghĩ tưởng lung tung và khỏi bị dục vọng lôi cuốn. Khi giúp thân xác và tinh thần nhắm tới một điều thiện trong lúc hoạt động, công việc làm cho con người được ổn định, lòng trí không bị phân tán. Nhưng lao động còn một vai trò khác có lẽ quan trọng hơn.
Khi cho ta cơ hội tiếp xúc với những sự vật, những con người, lao động buộc ta rời bỏ thế giới của mình để đi vào thế giới khác: thế giới vật chất đòi hỏi ta phải thích ứng, và thế giới những con người làm việc với ta. Lao động khiến ta không còn cứ loay hoay với mình nữa, nhưng giúp ta mở rộng lòng để hiệp thông.
Chính vì được mở rộng lòng cho chiều kích căn bản của con người là sự hiệp thông, nhờ tiếp xúc với Chúa Giêsu, mà các Tông Đồ khám phá ra tầm quan trọng của lao động. Lao động mở lòng ta để hiệp thông, ý nghĩa của hiệp thông khiến ta chăm chỉ làm việc, khi đó lao động không còn chỉ đơn thuần là một việc phải làm, một phương tiện kiếm sống, nhưng là biểu hiện tình liên đới sâu xa với mọi người, những anh chị em của ta.
Lao động còn mang chiều kích thần bí khi được liên kết với Chúa Giêsu trong việc ngài hiến dâng mình vì tình yêu cho tới chết trên Thánh Giá.
B – Ngày 28.7
Với thánh Biển Đức, mục đích của lao động không phải chỉ là kiếm sống, như ngài nói ở câu 8: “Họ chỉ là đan sĩ thực sự khi sống bằng công việc do tay mình làm”; nhưng nhất là để chống lại sự nhàn rỗi là thù địch của linh hồn (c.1). Đời sống đan tu và sự nhàn rỗi, ươn lười, chểnh mảng không thể hòa hợp với nhau được.
Nhưng phải cẩn thận kẻo lại làm méo mó tư tưởng của thánh Biển Đức. Ngài không bảo lúc nào cũng phải làm việc để tránh suy nghĩ. Ngài cũng không bảo phải thay thế cơn lốc tư tưởng bằng đủ thứ công việc. Như ngài đề nghị, làm việc không phải đơn thuần là để lấp chỗ trống, để đan sĩ giải khuây; điều đó chỉ càng gây thêm thiệt hại.
Vai trò đầu tiên của lao động, một phương diện cơ bản của con đường thiêng liêng, đó là dậy ta biết ở với chính mình, biết đi xuống tới những giới hạn của thân xác mình, nếu có thể nói được như thế. Lao động đưa đan sĩ từ cái mơ mộng, từ cái ảo tới cái hiện thực.
Nhưng lao động cũng có một chiều kích khác: nó giúp ta phục vụ ích chung, phục vụ người khác. Đó là điều phân biệt cách cơ bản lao động với công việc chỉ làm để tiêu khiển. Lao động không tìm mình, không vì lợi ích riêng, nhưng là phương tiện chắc nhất để ra khỏi mình, để quên mình đi. Lao động là một trong những nơi chốn xác thực nhất để gặp được tha nhân. Khi đưa ta từ cái ảo tới cái thực, và từ sự yêu mình tới tình yêu tha nhân, lao động là một khoa sư phạm thiêng liêng đích thực, một con đường hoán cải tuyệt vời.
C – Ngày 27.11
Đan sĩ là con người lấy việc cầu nguyện làm nghề của mình, và đan viện là cơ xưởng nơi họ thực hiện cái nghề ấy, cũng như họ thực hiện qua những nhiệm vụ khác nhau. Trước hết là việc Chúa mà thánh Biển Đức yêu cầu không được quí trọng gì hơn. Tiếp đến là những sinh hoạt khác, được thánh nhân xếp vào giữa các giờ thần vụ và dệt nên ngày sống của đan sĩ. Những sinh hoạt này được ngài đặt trên cùng một bình diện, là lectio divina và công việc chân tay.
Như vậy, công việc cũng là một kỹ thuật cầu nguyện, giống như lectio. Dù thánh Biển Đức có nhấn mạnh tới phương diện sinh lợi và hữu ích – “họ chỉ thật là đan sĩ khi sống nhờ công việc do tay mình làm” -, đó vẫn không phải là cái đầu tiên ngài nhắm tới.
Với thánh Biển Đức, làm việc trước tiên không phải là để sống, để phục vụ cộng đoàn, cũng không phải làm cho Chúa, nhưng làm việc với Chúa, trước mặt Chúa. Vậy làm sao công việc có thể trở thành trường cầu nguyện, một ngôi trường dạy ta sống trước mặt Chúa? Trước hết làm việc chân tay là sống khổ hạnh trong cái thực tế. Sự vật dậy cho ta nhiều điều, vì chúng đòi buộc ta phải ra khỏi cái thế giới nhỏ hẹp của ta để hòa nhập vào thực tại. Hơn nữa, công việc chân tay là con đường nhập thể. Thực vậy, một cách mâu thuẫn, ta cần phải trở nên xác thịt, phải đứng bằng hai chân trên mặt đất, phải tôn trọng nhịp sống của các hữu thể, các sự vật, phải trở nên con người, phải chấp nhận những giới hạn của con người. Như thế, công việc chân tay là con đường thanh tẩy, đường thinh lặng nội tâm, đường thống nhất thiêng liêng.
Khi vào đan viện, ta phải mất nhiều thời gian mới cảm nghiệm được rằng thần vụ, lectio, công việc, học hành chỉ có một mục đích là giúp ta tìm Chúa. Ngày nay có lẽ ta cần tái khám phá chiều kích thiêng liêng và nội tâm của công việc như con đường dẫn ta đến hiệp nhất với Thiên Chúa.
Ta đã bị ảnh hưởng bởi nền văn minh của thời gian rảnh rỗi, của hiệu quả và lợi nhuận bằng mọi giá, của tốc độ. Có lẽ đó là một trong những thách đố lớn nhất cho ta trong những năm sắp tới? Để thời gian của ta, trọn cả thời gian của ta lại trở thành thời gian của Chúa.
Ngày 29.3 – 29.7 – 28.11
10 Từ 14 tháng 9 đến đầu mùa chay, anh em đọc sách đến hết giờ thứ hai, 11 sau đó đọc kinh Giờ Ba, rồi ai nấy đi làm việc đã chỉ cho đến giờ thứ chín. 12 Khi nghe báo hiệu kinh Giờ Chín lần đầu, mọi người ngưng việc và sẵn sàng khi nghe hiệu lần hai. 13 Dùng bữa xong, anh em đọc sách hay đọc tu luật. 14 Trong mùa chay, từ sáng đến hết giờ thứ ba, anh em đọc sách rồi đi làm việc đến giờ thứ mười. 15 Trong những ngày mùa chay, mọi người lĩnh sách nơi thư viện và tuần tự đọc cho hết, 16 các sách đó được phát từ đầu mùa chay. 17 Giờ đọc sách phải chỉ định một hay hai anh em cao niên đi xem xét, 18 trông chừng kẻo có ai lười biếng không chăm chỉ đọc sách, hoặc ở nhưng, hoặc nói chuyện phiếm, chẳng những thiệt hại cho mình mà còn làm người khác chia trí. 19 Nếu bắt gặp người nào như thế – mong đừng có vậy – thì hãy khiển trách một hai lần, 20 nếu không sửa mình hãy chiếu luật mà nghiêm phạt để người khác sợ. 21 Những giờ cấm anh em không được giao tiếp với nhau.
Chú giải:
A – Ngày 29.3
Chương 48 này không chỉ nói về lao động, nhưng đúng hơn nói về việc luân phiên nhau giữa lao động và đọc sách. Việc luân phiên này có nguồn gốc rất xa xưa, vì đã được thánh Antôn, người Cha của các đan sĩ, truyền lại, khi từ sa mạc đi ra ngài thấy một thiên thần cứ thay đổi luân phiên giữa cầu nguyện và làm việc.
Phải như vậy, vì cầu nguyện liên tục là điều rất khó. Như Cassianô nhận xét trong các bài Thuyết giáo, ngay cả các vị thánh lớn nhất cũng có lúc phải lo đến những việc đời. Chính Chúa Giêsu cũng đã không dành suốt đời chỉ để cầu nguyện với Chúa Cha. Như vậy, không phải vì bất đắc dĩ mà phải thay đổi giữa cầu nguyện và làm việc. Nhưng có lẽ điều này mang một ý nghĩa sâu xa mà ta không nghĩ tới.
Thực vậy, một trong những nguy cơ lớn nhất vẫn rình rập ta, đó là coi mình như những con người thiêng liêng, những bậc thầy về cầu nguyện. Về điểm này, chương 73, chương cuối cùng của tu luật, rất bổ ích. Khi đã giữ trọn tu luật này, ta khám ra mình chỉ là những người mới bắt đầu! Thực vậy, cần phải dành ít ra cả một đời để nhận thấy được mình là những kẻ mới bắt đầu, rằng mình chưa hiểu biết gì cả.
Chỉ những người không có kinh nghiệm, không có chiều sâu mới nghĩ mình đã qua giai đoạn khởi đầu. Dấu hiệu cho thấy sự tiến bộ thiêng liêng trong đời ta, đó là khám phá ra càng ngày càng rõ hơn rằng mình chưa thực sự bắt đầu. Trong một cách ngôn nổi tiếng, vị cao niên kia trả lời đan sĩ trẻ hỏi mình đã tiến bộ nhiều chưa như sau: “Cha bắt đầu mỗi ngày”.
B – Ngày 29.7
“Ai nấy đi làm việc đã chỉ” (c.11). Một trong những đặc điểm của công việc trong đan viện là được chỉ định, nghĩa là được yêu cầu làm chứ không do ta chọn. Điều này có vẻ hiển nhiên và bình thường. Thực vậy, biết bao người trong xã hội không thể chọn công việc theo sở thích. Và nếu ngày nay người ta có khuynh hướng muốn tổ chức thời giờ theo ý mình, sắp xếp công việc như mình thích, thì ta có thể tự hỏi phải chăng thánh Biển Đức cũng sẽ theo khuynh hướng đó, nếu ngài viết tu luật vào thời điểm này.
Truyền thống đan tu đã có kinh nghiệm về điều đó. Mỗi đan sĩ có chương trình riêng về cầu nguyện cũng như lao động, được ấn định theo hướng dẫn của cha thiêng liêng. Nhưng những cộng đoàn như thế đã mau chóng suy tàn và biến mất. Ở Mont Athos, những cộng đoàn ấy được thay thế bằng những cộng đoàn được tổ chức theo một qui luật chung.
Thực ra, chương trình hay thời dụng biểu không phải là điều cơ bản nhất. Vấn đề là ở chỗ muốn sống thân mật với Chúa ta phải không còn bận tâm tới mình, tới những tư tưởng mình có về Chúa, về cầu nguyện, tới những ảo tưởng về bản thân. Khi vận dụng sáng kiến, khi tái tổ chức cuộc sống theo sở thích của mình, thì thường là ta tìm cách tránh giáp mặt với Chúa và với chính mình.
Thánh Biển Đức đưa ra nguyên tắc thiêng liêng cơ bản này dưới những hình thái khác nhau: nhận công việc, lĩnh y phục, đồ ăn thức uống, nhận nhiệm vụ, biết từ bỏ ý riêng, từ bỏ những cái bù trừ chẳng đáng gì để dần dần mở lòng đón hưởng niềm vui của Chúa. Tất cả khoa sư phạm đan tu khởi nguồn từ qui luật đơn giản này: quên mình vì Chúa.
C – Ngày 28.11
Với thánh Biển Đức, lao động trước hết không phải là một bổn phận phải thi hành, nhưng là một thời gian được ấn định, được cân nhắc. Thánh Biển Đức biết rõ không phải ai cũng có khả năng như nhau. Có những người cần trợ giúp, người khác lại không. Mỗi người có khả năng riêng của mình. Và không thể đòi hỏi mọi người đều có thể làm cùng một việc. Trái lại, mọi người đều có thể lao động trong khoảng thời gian ấn định.
Như thế, đối với thánh Biển Đức, lao động trước hết là khoảng thời gian được dành để làm việc. Vấn đề không phải là làm cho thật nhanh để xong trước giờ, hoặc ngược lại cố ý kéo dài thời gian làm việc. Không, vấn đề là thực hiện công việc được yêu cầu, trong thời gian đã định sẵn.
Từ ít lâu nay, trong cộng đoàn, ta đã mất đi ý nghĩa lao động như là một hy sinh thiêng liêng đòi phải tuân theo một thời dụng biểu. Ta thường thấy có những anh em hoặc làm vội vã, hoặc làm cái gì khác. Thiết tưởng điều đó là do hiểu sai giá trị của lao động. Vì, đối với thánh Biển Đức, lao động cũng là làm việc trên chính mình chẳng khác gì như làm trên sự vật.
Làm việc trên chính mình cũng có giá trị ngang với cầu nguyện và đọc Lời Chúa. Vì khi bắt ta phải theo những giới hạn, những bó buộc bên ngoài, lao động giúp ta được tự do đối với những tình cảm, ước muốn và khát vọng của ta. Lao dộng giúp ta gắn bó với thực tại, bén rễ sâu vào mặt đất này. Vì thế, thánh Biển Đức đã dự liệu trước là khi một anh em không thể đọc sách, thì sẽ có công việc gì đó để làm.
Ngày 30.3 – 30.7 – 29.11
22 Ngày Chúa nhật, anh em chuyên lo đọc sách, trừ những người bận công tác đã được chỉ định. 23 Nếu ai chểnh mảng hay lười biếng đến nỗi không thể suy niệm hay đọc sách được, hãy giao cho họ một công việc để khỏi ở nhưng. 24 Với những anh em bệnh hoạn hay yếu sức, hãy giao cho họ một việc hay một nghề gì để khỏi nhàn rỗi, mà cũng không nặng nhọc quá đến nỗi phải lẩn trốn. 25 Viện phụ phải lưu tâm đến sự yếu đuối của những anh em này.
Chú giải:
A – Ngày 30.3
“Viện phụ phải lưu tâm đến sự yếu đuối của những anh em này” (c.25). Trong bản la tinh, từ “imbecillitas” hoặc “imbecillus”, ta dịch là “sự yếu đuối”, được dùng tới trong nhiều chương của tu luật. Trước hết ở chương 35 về phiên giúp bếp hằng tuần, câu 3: “Đối với những anh em yếu đuối, hãy cho người phụ giúp để họ chu toàn công tác mà không buồn phiền”. Ở chương 37, câu 2 về người cao tuổi và trẻ em: “Phải quan tâm đến sự yếu đuối của họ, đừng khắt khe với họ trong việc ăn uống”. Và ở chương 40, câu 3: “Nhưng vì nhân nhượng cho những người yếu đuối, cha nghĩ mỗi ngày một ly rượu cho mỗi người là đủ”.
Khi đặt các trích dẫn đó lại gần nhau, ta có thể nhận ra giáo thuyết của thánh Biển Đức về ý niệm yếu đuối. Giáo thuyết ấy liên quan trước hết đến tuổi tác: người cao niên và người trẻ (ch.73), rồi tới khả năng lao động (ch. 35 và 48), sau cùng là khả năng kiêng khem, sống khổ hạnh (ch. 46). Như thế, đối với thánh Biển Đức, sự yếu đuối là ý thức về giới hạn thể lý hay tâm lý, khách quan hay giả định. Ở điểm này, thánh Biển Đức đẩy lui một chút những giới hạn trong cách ta nhìn và phán đoán.
Thực vậy, trái ngược với điều mà đôi khi ta tưởng, những giới hạn của ta rất thường được liên kết với những nỗi sợ: sợ thiếu sót, sợ không đạt tới được. Thế là ta hoảng hốt, ta bỏ mất hết mọi phương tiện. Và ta lại khó mà chấp nhận những giới hạn này vì chúng không khách quan. Chúng làm ta khó chịu vì chúng cậy nhờ tới những bộ máy vô thức. Khi ấy ta bị cám dỗ nghi ngờ anh em lười biếng, nói dối, trốn tránh nhiệm vụ. Tuy nhiên, đôi khi đó là một yếu đuối rất hiện thực mà cần phải nhiều năm mới nhận ra được. Vì thế thánh Biển Đức yêu cầu viện phụ phải quan tâm.
B – Ngày 30.7
Trong đoạn tu luật ngắn này thánh Biển Đức lại nói tới việc ở nhưng, “thù địch của linh hồn”. Ngài muốn nhắc lại giáo thuyết của Cassianô, so sánh linh hồn như cái cối xay, cần có hạt cho nó xay, bằng không thì đủ thứ tư tưởng xấu sẽ xuất hiện. Điều đó ngụ ý rằng linh hồn không thể chịu được sự trống rỗng. Tự bản tính, con người không thể ở nhưng, không thể không làm gì.
Điều đó trái ngược với việc tìm kiếm cái trống rỗng nội tâm đã làm sinh động nhiều trào lưu linh đạo đông phương. Quả thật, cũng như truyền thống đan tu cổ thời, thánh Biển Đức nghĩ rằng đàng sau mặt ngoài của cái trống rỗng người ta có nguy cơ chỉ gặp được mình, thỏa mãn về mình.
Cũng như linh đạo kitô giáo, linh đạo đan tu được xây dựng trên tương quan với Đấng Khác, trên sự hiển linh của Đấng Khác. Cảm nghiệm sự vắng mặt không phải là cảm nghiệm sự trống rỗng, nhưng là cảm nghiệm sự đợi chờ một Đấng Khác. Cảm nghiệm này giả thiết phải có lòng khát khao nồng nhiệt mà các Linh Phụ Xitô đã nói tới rất nhiều. Sống đời đan tu là sống cuộc hành trình trải dài suốt lịch sử Mạc Khải: Thiên Chúa đi tìm ta và ta đi tìm ngài.
Cái làm cho cuộc sống đan sĩ nên sinh động không hề giống với nhu cầu hoạt động không lành mạnh, chỉ tìm thỏa mãn cho bản thân. Lao động hay đọc sách là để giúp ta tăng thêm lòng khát khao gặp Chúa. Khi không ngừng đề phòng ta khỏi khép kín nơi mình, thỏa mãn với những tư tưởng riêng của mình, thánh Biển Đức tìm cách khơi dậy trong ta lòng khao khát, sự nhiệt thành, tình yêu hứng khởi, thứ “tình yêu ban đầu” mà Thánh Kinh nói tới.
C – Ngày 29.11
Trong bản tiếng latinh của chương này nhiều lần khi nói về việc đọc sách thánh Biển Đức dùng động từ “vacare” mà ta dịch là chuyên lo. Theo từ nguyên, “vacare”có nghĩa là “trống rỗng, làm cho trống rỗng”. Vậy ở đây có thể giải thích “vacare” theo hai mức độ: -trước hết là làm trống rỗng mọi hoạt động, mọi công việc: -và, ở mức độ cao hơn, trở nên trống rỗng để Thiên Chúa tới ngự nơi cái trống rỗng ấy.
Nhưng không phải đương nhiên mà mọi người đều làm được như vậy. Đây là một ơn đặc biệt, một thử thách phải vượt qua. Có nghĩa là cái trống rỗng ấy làm ta sợ, làm ta bỗng dưng cảm thấy mất căn tính. Sự trống rỗng có thể gây nên trong ta một nỗi khắc khoải khủng khiếp, giống như nỗi khắc khoải của người sắp chết vậy.
Trong cái trống rỗng này ta đụng chạm tới nỗi yếu hèn, sự nghèo khó của ta. Trong cái trống rỗng này ta cảm nghiệm được mình chỉ là một hơi thở, một cọng rơm bay theo gió. Điều này xem ra rất khó mà chịu nổi, vì thế thánh Biển Đức dự liệu một công việc không phải để lấp đi cái trống rỗng ấy, nhưng để từ từ làm quen với nó.
Chương 49
VIỆC GIỮ MÙA CHAY
Ngày 31.3 – 31.7 – 30.11
1 Lẽ ra lúc nào đan sĩ cũng phải sống như trong mùa chay. 2 Nhưng ít người có can đảm sống được như thế. Vậy trong mùa chay cha khuyên ai nấy hãy giữ đời sống mình cho thật tinh tuyền. 3 Đồng thời trong những ngày thánh ấy hãy gột rửa những sơ xuất của các mùa khác. 4 Điều đó có thể thực hiện được nếu ta chế ngự mọi tật xấu, tha thiết cầu nguyện, đọc sách, thành tâm sám hối và thực hành chay tịnh. 5 Vậy trong những ngày này, ta hãy thêm đôi chút vào nghĩa vụ thường nhật, như cầu nguyện riêng, bớt ăn uống. 6 Ngoài mức luật định, mỗi người hãy có chút gì tự nguyện dâng lên Thiên Chúa trong niềm vui của Thánh Thần. 7 Chẳng hạn như thân xác bớt ăn uống, bớt ngủ nghỉ, bớt bông đùa để tâm hồn được hân hoan mong đợi lễ Phục Sinh. 8 Tuy nhiên, mỗi người hãy trình bày với viện phụ để ngài chấp nhận và cầu nguyện cho.
Chú giải:
A – Ngày 31.3
“Lẽ ra lúc nào đan sĩ cũng phải sống như trong mùa chay” (c.1). Đối với thánh Biển Đức, đâu là đặc điểm của tinh thần mùa chay, nếu không phải là sống trong sự đợi chờ đại lễ Phục Sinh, trong niềm hoan lạc đến từ khát vọng thiêng liêng (c.7), “trong niềm vui của Thánh Thần” (c.6)?
Như vậy, đối với thánh Biển Đức, đặc điểm cốt yếu của mùa chay không phải là ăn chay hoặc những kiêng cữ, ngay cả những việc lành nhỏ mọn ta dâng lên Chúa. Đặc điểm chính của mùa chay là chờ đợi trong niềm vui của Thánh Thần.
Theo nghĩa đó, mùa chay cũng còn tiếp tục cả trong mùa phục sinh, vì việc Chúa sống lại không chấm dứt thời gian đợi chờ, thời gian khát vọng, nhưng hướng thời gian đó đi xa hơn điều ta có thể tưởng và quan niệm được. Phục sinh không phải là hoàn tất một ước vọng, một sự sung mãn đã đạt được. Nhưng phục sinh là thời gian vượt quá ước vọng, thời gian ước vọng xuất thần ra khỏi chính mình.
Thực vậy, điều làm ta chú ý khi đọc các trình thuật về những lần Đấng Phục Sinh hiện ra, đó là dường như những lần hiện ra ấy muốn dẫn đưa ước vọng của các môn đệ về một hướng khác. Những lần hiện ra ấy giúp những ai đang ước ao gặp lại Chúa Kitô bằng xương bằng thịt biết dần dần nhận ra họ phải đi gặp Chúa Kitô bằng Thần Khí. Phục sinh làm nổ tung những chân trời hạn hẹp của các Tông Đồ, các phụ nữ quây quần bên Chúa Kitô, để mở cho họ những nhãn giới chưa bao giờ được biết đến. Từ nay sẽ chẳng còn gì như trước nữa!
B – Ngày 31.7
Trong tu luật thánh Biển Đức, mùa chay là thời gian vui mừng. Ở chương nói về mùa chay ta vừa đọc, từ “gaudium” (niềm vui) được nhắc tới hai lần, ở câu 6: “trong niềm vui của Thánh Thần”, và ở câu 7: “để tâm hồn hân hoan mong đợi”. Từ này chỉ gặp hai lần nữa ở những chương khác. Ở chương 2, thánh Biển Đức bảo viện phụ sẽ vui mừng vì đoàn chiên tăng số (c.32), và ở chương 7, câu 39 (“họ mừng rỡ tiếp lời”) liên quan tới “những điều cam go trái ý và bất cứ sỉ nhục nào” (c.35).
Với thánh Biển Đức, đây không phải là thứ vui vẻ tầm thường. Nhưng là niềm vui có được nhờ những hy sinh, khổ chế trong mùa chay. Niềm vui này không phải là trái nghịch với đau khổ, nhưng vượt qua đau khổ, siêu thoát trên đau khổ. Niềm vui đích thực, niềm vui của Thánh Thần, không thể bị bất cứ khó khăn nào, bất cứ biến cố đau thương nào dập tắt. Nó không hề giống với thứ hạnh phúc bình thường mà tất cả ta đều trải qua. Niềm vui này đến từ bên kia những khó khăn và khổ cực.
Đó là lý do khiến thánh Biển Đức nhấn mạnh tới niềm vui ngay trong mùa chay: tưởng niệm cuộc Khổ Nạn Chúa trước khi cử hành lễ Phục Sinh (c.7). Vì niềm vui đích thực, niềm vui của Thánh Thần, giả thiết phải có cuộc Vượt Qua: vượt qua cái chết để tới Phục Sinh. Niềm vui là một hồng ân, hồng ân thứ hai của Thánh Thần (Gl 5,22), một hồng ân đòi phải có từ bỏ. Nó đòi phải từ bỏ quyền lực độc đoán, từ bỏ ý muốn bắt cuộc đời, mọi biến cố, mọi người phải như ta mong ước. Chỉ có niềm vui đích thực khi ta chấp nhận đau thương, sẵn lòng từ bỏ mọi sự.
C – Ngày 30.11
Với thánh Biển Đức, cuộc chiến lớn của đan sĩ là cuộc chiến chống lại tính chểnh mảng, phải huy động tất cả sức lực, suốt cả năm, nhưng cách riêng trong những thời kỳ đặc biệt như mùa chay. Không chỉ từ bỏ những con đường không lối thoát mà ta đã đi lạc vào, nhưng còn phải tập trung sức lực, phải quyết liệt vươn lên.
Thực ra, đối với thánh Biển Đức, chểnh mảng là điều trái ngược với “niềm vui thiêng liêng”, cản bước ta trên đường tiến tới niềm vui. Xét cho cùng, ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, với thánh Biển Đức, ý nghĩa tối hậu của mùa chay, cũng như của tất cả đời sống đan tu, chính là khai mở nơi ta những nẻo đường dẫn tới niềm vui.
Quả thực, tất cả ta đều có kinh nghiệm là khi sống theo sự tầm thường, dễ dãi, khi quên đi mất điều gì đã dẫn ta tới đây, ta sẽ mất vui, sẽ buồn bã, u sầu, gắt gỏng. Cuộc sống sẽ ảm đạm và nhàm chán. Ta chẳng còn tha thiết gì nữa.
Vì có một niềm vui, niềm vui sâu xa tự hiến, cho đi tất cả, tiến xa hơn mãi, mỗi lúc mỗi sâu hơn trong việc trao ban chính mình. Đó là con đường ngắn nhất để đi vào niềm vui của khát vọng thiêng liêng. Đó là con đường Đức Maria đã đi. Bài ca Magnificat của Mẹ là bài Thánh Ca của những ai đã đi vào niềm vui của Thiên Chúa.
Chương 50
ANH EM LÀM VIỆC
XA NHÀ NGUYỆN HOẶC ĐI ĐƯỜNG
Ngày 1.4 – 1.8 – 1.12
1 Anh em làm việc quá xa không thể về đúng giờ kinh trong nhà nguyện được 2 và viện phụ cũng nhận thấy thế, 3 thì hãy lấy lòng kính sợ Chúa mà quì xuống tại nơi làm việc để cử hành phụng vụ giờ kinh. 4 Anh em đi đường cũng vậy, không được bỏ các giờ kinh như luật định, nhưng phải cố gắng đọc riêng tùy sức, đừng trễ nải bỏ bổn phận phụng thờ.
Chú giải:
A – Ngày 1.4
Vì bận công việc hay phải đi đường mà đôi khi đan sĩ khó giữ được đầy đủ các giờ kinh. Trong chương này, thánh Biển Đức đưa ra một vài cách giải quyết mà ngày nay vẫn còn có thể áp dụng.
Nếu phải làm việc xa nhà nguyện, thánh Biển Đức đề nghị một cách giải quyết rất đơn giản là hiệp thông với giờ kinh của cộng đoàn bằng việc đọc kinh ngay tại chỗ. Cách giải quyết này chẳng có gì phức tạp và mọi người đều có thể thực hiện ở bất cứ nơi nào. Nếu phải đi đường xa, thánh nhân bảo đừng bỏ đọc kinh, nhưng hãy đọc riêng cách kín đáo.
Đó là những lời khuyên giản dị, rất hợp lý, và nhắc nhở ta rằng thần vụ là bổn phận cốt yếu của đời sống đan tu mà ta luôn luôn có thể chu toàn trong mọi hoàn cảnh, theo những cách thức khác nhau. Nhưng ta cần tự hỏi mình có chu toàn không, có quá mải mê công việc mà bỏ quên không, khi đi đường có dành thời giờ đọc kinh không?
Vì vậy, trong cuộc sống cụ thể, ta cần phải không ngừng nhớ tới ơn gọi sâu xa của mình. Ta vẫn luôn có khuynh hướng giảm bớt những điều phải thực hiện. Nhất là nếu ta lại tự coi mình là những con người thiêng liêng và dầy kinh nghiệm. Cuộc sống dạy cho ta hay rằng chính qua những điều nhỏ nhặt rất đơn giản, rất khiêm tốn đó mà ta được chuẩn bị để có những lựa chọn lớn lao.
B – Ngày 1.8
Với thánh Biển Đức, mắc công việc, ở xa nhà nguyện, đi đường không phải là những lý do để lơ là các giờ kinh thần vụ và cầu nguyện. Trong những trường hợp đó, dù có được giảm bớt, các việc ấy vẫn là cốt yếu trong cuộc sống của đan sĩ.
Cuộc sống đan tu được phân phối nhịp nhàng nhờ các giờ kinh thần vụ. Đó thực sự là những điểm mốc, những điểm tựa Archimède giúp ta nâng được thế giới lên, làm giảm nhẹ sức nặng của ngày sống và của sức nóng mặt trời. Nếu không, tất cả sẽ trở nên nặng nề, nhàm chán, trống rỗng và không thể chịu nổi.
Kinh nghiệm cho hay chính vì không tôn trọng những điểm mốc đó mà cuộc đời đan sĩ bắt đầu sinh ra chểnh mảng. Tiếp theo là mọi sự sẽ bị buông lỏng dần. Nếu sinh ra chán nản, ta sẽ liều mình bị mất thăng bằng từ trong nội tâm, bị chao đảo suốt cả đời.
Thật là khó mà ngừng lại một lúc để đọc kinh trong khi đang đi đường. Có đủ thứ lý do: phải đi cho kịp giờ, phải tránh bị kẹt đường, phải tiết kiệm thời gian. Nhưng chỉ cần thử dừng lại một lần ta sẽ thấy điều mình nhận được từ đó là vô cùng quí giá. Chẳng bao giờ ta bị thua thiệt khi chọn Chúa trước hết. Không phải vì muốn chọn Chúa mà ta tới đây sao?
C – Ngày 1.12
Trong chương ngắn này, nói về các anh em làm việc xa nhà nguyện hoặc đi đường, thánh Biển Đức xử lý một xung khắc giữa các bổn phận xem ra rất thường xẩy đến trong đời sống đan tu: thần vụ và công việc. Có bó buộc phải đi dự thần vụ, mặc dầu đang mắc công việc gấp phải làm cho xong không? Có phải dành ưu tiên cho công việc, để phục vụ cộng đoàn, và đặt thần vụ vào hàng thứ yếu không? Tôi sẽ đi đọc kinh nếu có thể? Ở đây thánh Biển Đức đề xuất hai ý tưởng quan trọng: họ sẽ cử hành giờ kinh tại nơi làm việc, và họ đừng lơ là bỏ qua bổn phận phụng thờ.
Họ sẽ chu toàn việc phụng thờ Chúa ở ngay nơi làm việc. Nếu đan sĩ không thể đến nhà thờ để đọc kinh, thì bất cứ đang ở nơi nào họ vẫn có thể hiệp nhất bằng một cách đặc biệt với cộng đoàn qui tụ trong nhà thờ. Thánh Biển Đức đề nghị họ lấy lòng kính sợ Chúa mà quì gối đọc kinh. Bắt cứ làm công việc gì, hoặc đi đường, đều không được miễn chước cho khỏi cầu nguyện. Ta lưu ý rằng thánh Biển Đức không bó buộc phải theo cách thức nào, nhưng ngài yêu cầu đan sĩ dành thời gian trở về với lòng mình. Vì một trong những lý do hiện hữu của các giở thần vụ là khởi động lại sự chăm chú nội tâm. Với điều kiện này, thiết tưởng công việc có thể thực sự trở thành kinh nguyện, nhưng cũng thực sự phục vụ cộng đoàn.
Quả vậy, chẳng ai không cho rằng làm việc là điều hữu ích. Nhưng phải chăng làm việc luôn luôn là để phục vụ cộng đoàn, và do đó phụng sự Chúa? Phải chăng làm việc là phục vụ? Hay đơn thuần chỉ làm vì phải làm? Không luôn luôn dễ mà phân định, vì khi có trách nhiệm về bất cứ công việc gì, ta khó mà ngưng lại được. Làm sao biết đâu là ranh giới giữa phục vụ và công việc cá nhân? Một lần nữa, thánh Biển Đức đưa ra một tiêu chuẩn để phân định: “nếu viện phụ xét thấy như vậy”. Nếu thực sự tôi phục vụ, tôi sẽ phản xạ như người phục vụ, nghĩa là nghe theo người khác. Nếu tôi nhắm tư lợi, tôi sẽ bị quấy rầy trong công việc tôi đang làm.
Trong đời sống đan tu từ ít năm nay, chúng ta đã nhấn mạnh nhiều đến giá trị kinh tế của công việc (mưu sinh, trợ giúp người nghèo…) và về những ràng buộc của công việc (sự liên đới với những người lao động). Nhưng dường như người ta hay quên mất chiều kích thiêng liêng của công việc, theo chiều kích này công việc là con đường hoàn thiện nội tâm. Cách ta làm việc cũng quan trọng, nếu không hơn thì ít ra như công việc ta làm. Đối với mỗi người chúng ta, công việc có phải là con đường cầu nguyện nội tâm và phục vụ cộng đoàn không?
Chương 51
ANH EM ĐI ĐƯỜNG KHÔNG XA MẤY
Ngày 2.4 – 2.8 – 2.12
1 Anh em đi đường vì một công tác nào đó và hy vọng có thể trở về đan viện trong ngày, thì đừng tự tiện ăn uống ở ngoài, cho dù có ai khẩn khoản mời đi nữa, 2 trừ khi viện phụ cho phép. 3 Ai vi phạm sẽ bị tuyệt thông.
Chú giải:
A – Ngày 2.4
Trong chương 50 và 51 thánh Biển Đức nêu lên những lý do khiến đan sĩ phải đi ra ngoài đan viện, hoặc lâu dài hoặc một thời gian ngắn. Khi đan sĩ đi đường xa, thánh nhân muốn họ hiệp thông với cộng đoàn mà đọc kinh vào những giờ đã định. Trái lại, khi đan sĩ vắng nhà trong thời gian ngắn, ngài nhấn mạnh tới một phương diện khác, đó là tham dự giờ cơm chung với anh em.
Hai điểm này: tham dự giờ kinh và tham dự bữa ăn cũng là những điểm thánh Biển Đức nhắm tới khi nói về hình phạt tuyệt thông. Như vậy, đối với thánh nhân, đó là hai sự kiện cốt yếu cho thấy sự hiệp thông của anh em với cộng đoàn.
Thánh Biển Đức yêu cầu anh em không tự tiện dùng bữa bên ngoài đan viện. Yêu cầu này có một ý nghĩa sâu xa: nó cho thấy thế gian không phải là “đồng cỏ xanh tươi” nơi mà đan sĩ có thể “nghỉ ngơi yên hàn”. Khi ra ngoài đan viện, đan sĩ chỉ là kẻ qua đường trong khoảng thời gian cần thiết nào đó, rồi lại mau chóng trở về. Chương 51 chỉ là một nhắc nhở về sự thật hết sức đơn giản đó thôi.
B – Ngày 2.8
Lúc đầu khi mới vào đan viện, người tu sĩ trẻ thường rất để ý xa lánh thế gian, gia đình, bạn hữu. Không biết rõ tại sao, nhưng anh cảm thấy những giao tiếp với bên ngoài có nguy cơ khiến anh mất đi điều gì cốt yếu. Nhưng với thời gian, khi cuộc sống đều đặn trôi, phần đông chúng ta lại tái lập cả một mạng lưới liên lạc với gia đình hoặc với những người khác. Bằng cách nào đó, sự xa vắng đã làm cho những tương quan trước kia trở nên sâu đậm hơn, và ta lại quan tâm hơn trước tới những người ta đã từ bỏ.
Hẳn là có nhiều lý do. Trước hết đời sống đan tu kích thích một hình thức tình cảm nào đó mà những ồn ào náo động của thế gian đã làm tê liệt đi. Khả năng yêu thương và được yêu thương nơi ta thức tỉnh. Khi ấy có thể ta sẽ bị cám dỗ tìm kiếm ở bên ngoài những gì ta không gặp được trong đan viện. Đó là cách dễ dàng để thoát khỏi cuộc sống thanh vắng. Ta nên cẩn thận đề phòng.
Có thể cũng có một lý do khác thuộc một lãnh vực khác hẳn với lãnh vực tình cảm hời hợt. Nếu được sống cách sâu sắc, đời sống đan tu sẽ khơi dậy nơi tâm hồn đan sĩ lòng thương cảm vô bờ bến đối với tất cả tạo thành. Như thể tạo vật cụ thể có được một ý nghĩa sâu xa mới, như thể đan sĩ khám phá ra được tiềm lực thâm sâu của chúng. Đan sĩ nhìn thế giới bằng cặp mắt khác. Lòng họ tan vỡ vì nỗi lầm than đau khổ của con người.
Không dễ mà phân định được điều gì thực sự tác động trên ta, tình cảm hay lòng trắc ẩn? Ta chẳng biết gì về mình. Bởi thế, trong chương 51 này thánh Biển Đức nêu ra cho đan sĩ một tiêu chuẩn: để cho người khác, tức là viện phụ, xét định. Chỉ ai có tâm hồn của người môn đệ mới tìm ra được đường ngay nẻo chính.
C – Ngày 2.12:
Đôi khi ta có cảm tưởng quan niệm của thánh Biển Đức về vâng phục quá chặt chẽ tới độ đi vào những chi tiết nhỏ nhất. Do đó, trong chương này, thánh nhân nói thẳng về đan sĩ tự do ăn uống bên ngoài đan viện mà không có phép, trong khi chẳng xa nhà bao nhiêu.
Để giải thích chương này, người ta đã nhắc tới bối cảnh lịch sử ngõ hầu biện hộ cho thánh Biển Đức. Tuy nhiên, nếu xem xét cách khách quan điều ngài nói, ta đều nhớ đã có những đan sĩ mất ơn gọi vì những tương quan với bên ngoài, hay có cả những cộng đoàn bị phân hóa khi các đan sĩ sống nước đôi.
Như vậy là ta đã hiểu được sự nghiêm khắc của thánh Biển Đức. Một lúc nào đó trong đời đan tu, tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về sức nặng của đời sống chung, và chúng ta mơ tưởng đến một cái gì khác, đến những tương quan khác. Cơ hội không thiếu, và khi ấy rất dễ tìm ra lý do để khỏi phải xin phép. Tóm lại là mình đã trưởng thành rồi!
Trong chương 51 này, thánh Biển Đức đề phòng ta khỏi cái tự do sai lầm, mà thay vì cho ta được tự do đích thực, nó lại chỉ đưa ta xa khỏi mục đích của đời ta. Có những lúc chẳng còn gì giữ ta lại đan viện nữa! Chẳng còn gì, ngoại trừ sợi giây vô hình của một tình yêu mà ta không còn cảm nhận được nữa. Khi ấy, việc xin phép đòi ta phải cố gắng phi thường, nhưng cũng lại là hành vi tự do đẹp nhất ta chưa từng thực hiện.
Chương 52
NHÀ NGUYỆN CỦA ÐAN VIỆN
Ngày 3.4 – 3.8 – 3.12
1 Nhà nguyện phải đúng với danh xưng nhà nguyện, trong đó không được làm gì khác ngoài việc cầu nguyện hay để vật gì không cần thiết cho việc ấy. 2 Giờ Thần Vụ vừa xong, mọi người triệt để im lặng đi ra với hết lòng cung kính Chúa, 3 để anh em nào muốn cầu nguyện riêng khỏi bị phiền hà ngăn trở. 4 Còn những lúc khác, ai muốn cầu nguyện âm thầm một mình, cứ đơn sơ vào cầu nguyện, không lớn tiếng ồn ào, nhưng với nước mắt và lòng chân thành. 5 Vậy, ai không giữ như thế, sẽ không được ở lại nhà nguyện sau giờ Thần Vụ, như cha đã nói, để khỏi làm phiền người khác.
Chú giải:
A – Ngày 3.4
Theo thánh Biển Đức, hai lý do căn bản của thinh lặng nơi nguyện đường là tôn kính Chúa (c.2) và tôn trọng người khác (c.3-5). Như vậy, nếu ta giữ thinh lặng trong nguyện đường ấy là vì ta chú tâm đến Chúa và quan tâm đến anh em. Giữ thinh lặng như thế không phải chỉ là chuyện giữ luật, nhưng nhất là để mở lòng ra với người khác, để có khả năng dẹp bỏ đi những bận tâm nhỏ nhặt của riêng mình nhờ ý thức về sự hiện diện của người khác.
Điều đó không chỉ đúng cho việc cầu nguyện trong nhà thờ. Ta đều biết nhà nguyện hay nhà thờ là để cầu nguyện, và thực ra mọi nơi cũng như mọi sinh hoạt trong đan viện đều có thể trở nên nơi gặp gỡ Chúa, nơi tràn ngập sự hiện diện của ngài. Vì thế cũng phải cẩn thận, đừng làm cho khoảng không gian thánh thiêng này trong cuộc sống của ta trở nên ồn ào và ngổn ngang đủ thứ.
Theo truyền thống thì nhà nguyện hữu hình bên ngoài là hình ảnh của cung thánh nội tâm, nơi mà Chúa Giêsu hứa sẽ đến cư ngụ. Những bức tường của cung thánh này cũng được xây nên bằng sự tôn kính Chúa và tôn trọng người khác.
Ở câu 4, thánh Biển Đức lưu ý rằng có sự liên kết thâm sâu giữa thinh lặng, sự tôn trọng người khác và tâm hồn chăm chú. Sự xáo động, lắm lời không thể nào thích hợp cho việc cầu nguyện. Nhưng thinh lặng bên ngoài không đủ để giúp ta có được thinh lặng nội tâm. Và ta cần tự hỏi thinh lặng có nghĩa gì nếu ta không quan tâm đến Chúa và anh em mình. Vì thinh lặng là việc của tình yêu, của tâm hồn rộng mở để yêu thương, rộng mở để mưu tìm ích lợi cho người khác.
B – Ngày 3.8
“Để khỏi làm phiền người khác” (c.5). Lời thánh Biển Đức nhắc nhở đó, khi nói về nhà nguyện, thực ra áp dụng được cho cả cuộc sống ta. Thoạt tiên, điều đó có vẻ chỉ như là một qui tắc lịch sự sơ đẳng, nhưng khi thấy thánh Biển Đức nhắc đi nhắc lại tới hai lần ta nghĩ ngay là lời nhắc nhở ấy mang một chiều kích khác.
Và thánh Biển Đức không chỉ nhắm tới kẻ gây ngăn trở cho người khác, không để họ cầu nguyện (c.3), nhưng ngài cũng muốn nói tới cả những ai cầu nguyện nhưng lại làm phiền anh em (c.4-5). Trong cả hai trường hợp, dù cầu nguyện hay không thì những người như thế vẫn có điều thiếu sót và gây khó chịu.
Quả thực, trong hai trường hợp ấy, điều thiếu sót đó là thiếu tôn trọng người khác, và điều gây khó chịu là sự lấn lướt của cái tôi ồn ào ba hoa. Ở đây, thánh Biển Đức muốn nhấn mạnh tới việc đề cao mình khiến ta không quan tâm đến người khác nữa, khiến ta tự giam hãm mình nơi bản thân ích kỷ. Và thánh Biển Đức lưu ý rằng điều ấy có thể xẩy ra cho cả những người năng cầu nguyện hay đúng hơn là tưởng mình cầu nguyện.
Ta có thể có lý khi tự hỏi tại sao thánh Biển Đức lại nhấn mạnh tới việc quan tâm đến người khác trong chương nói về nhà nguyện. Ngài có thể làm như thế trong những chương nói về nhà cơm, về lao động hay về việc giữ thinh lặng, và như vậy xem ra hữu lý hơn chứ. Tại sao ngài lại muốn nêu cao tầm quan trọng của người khác khi đề cập tới một việc hết sức cá nhân là cầu nguyện riêng? Và tại sao ngài làm thế ở một chỗ ít ai ngờ tới như vậy?
Thánh Biển Đức làm thế là để nói rằng sự quan tâm, tôn trọng và tình yêu đối với người khác là tiêu chuẩn cho tính xác thực của tiến trình thiêng liêng. Những ứng xử trên đây chứng minh cho thực chất và sự sâu sắc của đời sống thiêng liêng nơi tâm hồn đan sĩ. Và đó là chuyện bình thường, vì, như thánh Gioan Thánh Giá nói: “Ta sẽ bị xét xử căn cứ theo tình yêu”.
C – Ngày 3.12
Thánh Biển Đức bảo: “Nhà nguyện phải đúng với danh xưng nhà nguyện”, nghĩa là nhà cầu nguyện. Nhưng nhà nguyện đầu tiên chính là nhà nguyện nội tâm của ta, là lòng trí ta. Mà biết bao nhiêu chuyện, bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu tiếng động tràn vào phá vỡ sự yên tịnh trầm lắng của ngôi nhà nguyện này còn hơn cả nhà nguyện của đan viện chúng ta nữa.
Đời sống đan tu đòi hỏi ta phải mỗi ngày mỗi làm cho nhà nguyện nội tâm và nhà nguyện bên ngoài, nhà nguyện của đan viện, trở nên đồng hình đồng dạng với nhau. Nhà nguyện bên ngoài giúp ta dần dần biến đổi nhà nguyện nội tâm, biến đổi chiều sâu của tâm hồn ta. Ngày nào đó, lời ta nghe sẽ mở ra một con đường dẫn vào tận nơi sâu thẳm nhất của hữu thể ta. Những cử chỉ, những thái độ, những cách ứng xử bên ngoài sẽ dần dần khai thông những quá tải không thể ngờ trước của trí tưởng tượng. Như thế, sự quan tâm cử hành tốt phụng vụ bên ngoài sẽ kết thúc bằng việc thanh tẩy phụng vụ bên trong.
Đó là ý tưởng lớn được Gioan Cassiano quảng diễn trong bài Thuyết giáo 4. Tội lỗi đã ném con người ra khỏi bản thân họ, họ không còn đến được với Lời ghi khắc trong lòng họ nữa. Khi ấy Thiên Chúa đã ban cho ta điều ngài gọi là “Kinh Thánh viết”, Kinh Thánh bên ngoài, dần dần đưa ta lại với Kinh Thánh bên trong, đẫn ta đi trên con đường ngược chiều với con đường tội lỗi.
Vào một thời điểm nào đó, sẽ là thích hợp khi coi khinh cái bên ngoài để chỉ lo đến đời sống bên trong. Sự khôn ngoan của các bậc cao niên dậy ta rằng đời sống đan tu có mục đích tái tạo sự thống nhất nơi con người. Sự biến đổi bắt đầu từ bên ngoài và kết thúc bằng việc đạt tới nơi sâu thẳm của con tim.
Chương 53
VIỆC TIẾP ĐÓN KHÁCH
Ngày 4.4 – 4.8 – 4.12
1 Mọi khách đến đan viện phải được đón tiếp như Chúa Kitô, vì chính Người đã nói: “Ta là khách và các con đã đón tiếp Ta”. 2 Phải tỏ lòng tôn trọng xứng hợp với từng người, nhất là những người phục vụ Tin Mừng và khách hành hương. 3 Vậy, vừa khi được tin khách đến, bề trên hoặc anh em hãy hết tình bác ái mà mau mắn đi đón khách, 4 hãy cùng nhau cầu nguyện trước đã rồi mới hôn chúc bình an. 5 Cầu nguyện trước khi hôn chúc bình an là để tránh những phỉnh gạt của ma quỷ. 6 Ta hãy hết lòng khiêm tốn chào hỏi khách đến cũng như khách đi. 7 Hãy cúi đầu hoặc phủ phục thờ lạy và đón tiếp Chúa Kitô nơi quý khách. 8 Khi đã đón chào, hãy dẫn khách đi cầu nguyện, sau đó bề trên hoặc người được bề trên chỉ định ở lại tiếp khách. 9 Hãy đọc luật Chúa cho họ nghe để mưu ích cho họ, rồi ân cần tiếp đãi. 10 Vì có khách nên bề trên khỏi giữ chay, trừ phi đó là ngày chay buộc, 11 anh em khác vẫn giữ chay như thường. 12 Viện phụ đưa nước cho khách rửa tay, 13 viện phụ và cả cộng đoàn cùng rửa chân cho khách. 14 Rửa xong thì đọc câu này: “Lạy Chúa, chúng con đã đón nhận lòng thương xót Chúa ngay giữa đền thánh Chúa”. 15 Với người nghèo và khách hành hương, ta phải hết sức ân cần đón tiếp, vì hơn nơi ai khác chính nơi họ mà ta đón tiếp Chúa Kitô. Còn về người giầu, nguyên việc kính nể đã làm ta tôn trọng họ.
Chú giải:
A – Ngày 4.4
Trong chương 53 này, ba lần thánh Biển Đức nói về khách bằng câu: “Nơi họ, ta tiếp đón Chúa Kitô” (c. 1,7,15). Điều này có hai hệ quả: khách phải được đối xử với lòng khiêm tốn thẳm sâu (c.6) và đầy tính nhân bản (c.9). Vì lòng khiêm tốn và tính nhân bản là hoa trái quan trọng nhất phát sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Kitô cách đích thực. Đó là dấu hiệu cho thấy tính xác thực của mọi kinh nghiệm nội tâm.
Trước hết, khiêm tốn là ý thức về thực tại nơi ta, về con người thật của ta, vì việc gặp gỡ Chúa Giêsu sẽ đặt ta vào đúng chỗ của ta. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu sẽ lật ta khỏi tượng đài và giúp ta ý thức được ta là ai.
Tiếp đến, tính nhân bản là kết quả của kinh nghiệm thiêng liêng đích thực: chỉ Thiên Chúa mới nhân bản, chỉ mình ngài biết nhân bản nghĩa là gì, và khi đến nhập thể trong xác thịt ngài không chỉ đến dậy ta biết ngài, nhưng cũng đến tỏ cho ta thấy ta là ai. Không có ngài, ta sẽ luôn xa lạ với chính mình, vì chỉ nơi khuôn mặt Chúa Kitô ta mới có thể khám phá ra căn tính thật của mình.
Như vậy, khách là người mặc khải cho ta con đường của riêng ta. Nhưng, một cách nào đó, tất cả chúng ta đều là khách. Cách ta tiếp đón anh em trong cộng đoàn cũng tỏ cho ta thấy ta là ai. Khách là tấm gương soi để mỗi cá nhân nhìn thấy nơi đó khuôn mặt thật của mình, nhưng cũng là gương soi cho cộng đoàn nữa, vì khách giúp ta thấy được con đường ta còn phải đi để một ngày nào đó ta cũng được tiếp đón vào Nước Trời.
B – Ngày 4.8
Hai lần, ở câu 5 và câu 8 của chương 53 này, thánh Biển Đức nhấn mạnh tới mối tương quan sâu sắc giữa việc tiếp đón khách và cầu nguyện. Trước hết, phải đánh tan những phỉnh gạt của ma quỉ; sau đó, cử chỉ đón tiếp đầu tiên là mời khách đi cầu nguyện.
Ngày nay, các hình thức tiếp đón đã thay đổi. Nhưng dầu sao, những ai đến với ta đều mong được đón tiếp vào một đan viện. Nếu không thì họ đã tìm đến một nhà nghỉ nơi thôn dã, một khách sạn hay một nhà trọ nào đó rồi. Vậy, hãy luôn luôn tâm niệm rằng việc ta tiếp đón khách phải thấm nhuồn tinh thần cầu nguyện, phải được nhào nặn nên bằng cầu nguyện.
Quả thực, điều thánh Biển Đức nói ở câu 5, khi lưu ý rằng cầu nguyện giúp ta “tránh những phỉnh gạt của ma quỉ”, vẫn luôn luôn hợp thời. Và những phỉnh gạt này, trước khi có nơi người khách thì đã có trong lòng ta rồi. Để hãm dẹp nhu cầu muốn lân la tới nhà khách và nói chuyện với khách thì không gì hiệu nghiệm cho bằng cầu nguyện.
Vì một trong những vai trò cốt yếu của cầu nguyện là vạch trần sự dối trá nơi ta, đặt ta trần trụi trước mặt Chúa và cũng trước mắt ta nữa. Cầu nguyện sẽ kéo ta thoát khỏi ảo tưởng hết sức hão huyền là ta có thể làm ích cho người khác, nhất là cho khách tạm trú, mà thực ra ta chỉ lợi dụng họ để làm thỏa nhu cầu của mình.
Khi tự đối chiếu mình với sự thật nơi mình, cầu nguyện sẽ khiến cho con ếch mà mỗi người mang trong mình xẹp xuống. Con ếch này phùng mang lên và nghĩ mình là con bò, một con bò thiêng liêng!
C – Ngày 4.12
Trong chương về việc đón tiếp khách, ba lần thánh Biển Đức nói đón tiếp khách là đón tiếp Chúa Kitô. Ở câu 1: khách được đóp tiếp như Chúa Kitô; ở câu 7: phủ phục dưới đất để thờ lạy Chúa Kitô nơi khách; ở câu 15: hơn nơi ai khác, chính nơi họ mà ta đón tiếp Chúa Kitô.
Khi đọc chương này tự nhiên ta nghĩ ngay tới những người khách đến với đan viện, những người ngoài mà ta tiếp đón. Nhưng có lẽ chương này cũng có thể hiểu về mỗi anh em trong cộng đoàn khi họ giao tiếp với ta.
Thật là khó mà nhận ra được Chúa Kitô đến với ta nơi người anh em. Theo thánh Biển Đức thì đây không phải là vấn đề tự kỷ ám thị, nhưng là biết để ý, là đổi mới cái nhìn. Phải biết nhìn qua cái dáng vẻ bên ngoài của người anh em để nhận ra được Chúa Giêsu đang lặng lẽ, kín đáo và ẩn khuất hiện diện nơi cõi thâm sâu của lòng họ. Điều này đòi ta phải vận dụng đức tin: dám tin nơi người khác hơn cả chính họ tin nơi họ, dám nhìn họ không phải như họ tự nhìn mình, nhưng như Thiên Chúa nhìn họ.
Nhưng chỉ làm được vậy, nếu trước tiên đã cảm nghiệm nơi mình mầu nhiệm hiện đang có trong mỗi người chúng ta. Cảm nghiệm này vừa đau thương lại vừa có sức giải thoát, vì ta phải chấp nhận cái phần tối tăm không thể hiểu được, nhưng cũng cả phần ánh sáng trong ngần đang có nơi ta; phải chấp nhận rằng ta không thể hiểu được chính bản thân mình.
Muốn thay đổi cái nhìn cần phải thanh tẩy con tim. Chúa Giêsu đã nói chỉ con tim trong sạch mới có thể nhận ra ngài, vì “Phúc cho những ai có lòng trong sạch, họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa”.
Ngày 5.4 – 5.8 – 5.12
16 Nhà bếp cho viện phụ và khách phải riêng biệt, để khi bất chợt khách đến sẽ không gây phiền hà cho anh em, vì không bao giờ đan viện thiếu khách. 17 Mỗi năm hãy cử hai anh em có khả năng chu toàn việc phụ trách nhà bếp cho khách. 18 Khi cần thì cho thêm người giúp, để các anh em ấy phục vụ mà không phàn nàn; nhưng khi không bận lắm, các anh em ấy đi làm việc khác như đã chỉ định. 19 Điều này không những áp dụng cho các anh em làm bếp khách mà còn cho mọi công tác khác của đan viện: 20 khi cần, sẽ cho thêm người giúp và khi rảnh thì đi làm việc được định. 21 Phòng khách cũng vậy, phải trao cho một anh em có lòng kính sợ Chúa. 22 Phòng khách phải được trang bị giường chiếu đầy đủ, và nhà Chúa phải có những người khôn ngoan quản trị cách khéo léo. 23 Đừng ai tiếp xúc hay chuyện trò với khách khi chưa có phép. 24 Nếu gặp khách hay trông thấy khách, hãy khiêm tốn chào họ như cha đã nói, và xin họ chúc lành mà đi, hãy nói cho họ biết là mình không được phép truyện trò với khách.
Chú giải:
A – Ngày 5.4
Thánh Biển Đức qui định một số nguyên tắc đơn giản và luôn luôn thức thời về việc đón tiếp khách. Nguyên tắc thứ nhất đã được nói tới ở đoạn trước, đó là khi tiếp đón khách ta đón tiếp chính Chúa Kitô. Ở đoạn này, thánh Biển Đức nêu hai nguyên tắc nữa có tính cụ thể hơn.
Nguyên tắc thứ nhất trong hai nguyên tắc này có thể được gọi là nguyên tắc tách biệt. Theo nguyên tắc này, phải có nhà ở riêng và bếp riêng cho khách. Rồi khách không đi vào khu vực của đan viện dành riêng cho đan sĩ; cũng thế, các đan sĩ không qua lại khu dành riêng cho khách. Nguyên tắc tách biệt còn đi xa hơn nữa, khi thánh Biển Đức bảo các đan sĩ không tiếp xúc và truyện trò với khách.
Nguyên tắc cụ thể thứ hai là duy một mình viện phụ và những anh em được chỉ định mới lo cho khách, tới độ viện phụ phải thường xuyên dùng bữa với khách, nhưng ngày nay không còn vậy nữa. Như thế, cùng với nguyên tắc tách biệt, thánh Biển Đức thêm nguyên tắc chuyên biệt, tức là chỉ những anh em được chỉ định trong một thời gian nào đó, như thánh nhân nói, mới chuyên lo cho khách. Chứ không có chuyện anh em nào cũng tự ý gặp gỡ truyện trò với khách và săn sóc họ.
Ngày nay ba nguyên tắc căn bản này vẫn còn được áp dụng tại nhà khách chúng ta. Khách được tiếp đón như Chúa Kitô, họ ở nơi riêng biệt và có những anh em được giao nhiệm vụ chuyên lo cho họ. Cứ theo ba nguyên tắc này để biết việc đón tiếp khách có được thực hiện tốt hay không.
B – Ngày 5.8
Kinh nghiệm cho ta thấy không phải luôn luôn dễ dàng có được thái độ đúng đắn đối với khách. Trong chương này, thánh Biển Đức nêu cho ta một số tiêu chuẩn để tránh hai mối nguy rình rập mọi cộng đoàn đan tu: đó là tự khép kín nơi mình hoặc phân tán ra bên ngoài.
Qui luật đầu tiên thánh Biển Đức ấn định như sau: người có trách nhiệm đón tiếp khách chính là viện phụ. Ngài phải quan tâm để khách được đón tiếp đúng theo qui định, nghĩa là viện phụ phải vạch ra những giới hạn và qui cách cho việc đón tiếp.
Theo qui luật thứ hai do thánh Biển Đức ấn định, viện phụ có trách nhiệm đón khách, nhưng không phải ngài tự lo hết mọi sự. Một anh em sẽ được ủy thác công việc nhà khách và có bổn phận chăm sóc khách về vật chất cũng như tinh thần.Và anh em này lại có những anh em khác giúp đỡ.
Sau cùng, qui luật thứ ba được gồm tóm trong ít lời như sau: ai không được viện phụ trao trách nhiệm lo cho khách thì không phải bận tâm đến họ. Vì ơn gọi của ta đòi phải cẩn trọng như thế. Đó là cách làm chứng về Chúa hiệu quả hơn mọi thứ ngôn từ.
C – Ngày 5.12
Tương quan với khách được hiểu theo hai nghĩa. Ở phần thứ nhất của chương này, thánh Biển Đức nhấn mạnh tới việc khách được đón tiếp như Chúa Kitô: “Ta là khách và các con đã đón tiếp Ta”. Sau đó, thánh Biển Đức duy trì một khoảng cách đối với khách: có nhà bếp riêng cho khách; một anh em có lòng kính sợ Chúa được ủy thác việc chăm sóc họ; khách ở một khu riêng biệt; anh em không tiếp xúc và nói chuyện với khách; nếu gặp khách, anh em cúi chào và xin khách chúc lành cho rồi đi, vì không được phép nói chuyện với khách.
Thánh Biển Đức muốn khách được đón tiếp như Chúa Kitô, nhưng không vì họ mà đời sống đan tu bị xáo trộn. Cũng một vấn đề đã được nói đến ở chương 51: thánh Biển Đức không chối bỏ sự thương cảm theo tinh thần Phúc Âm, nhưng ngài không chấp nhận sự kiện có những anh em do chưa làm chủ được tình cảm mà cứ thích lân la trò truyện với khách, để lấp đầy cái trống vắng trong tâm hồn mình.
Vấn đề là phân định được điều gì thực sự tác động trên ta, là tìm biết sự thật về mình. Ở chương 51, thánh Biển Đức cho ta một tiêu chuẩn để phân định, đó là phán đoán của viện phụ. Trong chương này thì qui luật của đan viện chi phối các tương quan với khách. Sẽ luôn luôn có những người viện lẽ nọ lẽ kia để tự biện minh mà chiều theo khuynh hướng của lòng mình. Tuy nhiên, khi giúp ta sống thật với mình, thánh Biển Đức tìm cách làm tăng trưởng điều tốt nhất nơi ta, để dần dần nguồn cảm tính phong phú nơi ta được biến đổi thành ân sủng.
Thánh Biển Đức không hề thích thú muốn kìm hãm ta, nhưng ngài muốn giúp ta khám phá ra con đường tự do của Phúc Âm, một con đường đòi hỏi ta trước hết phải được giải thoát khỏi chính mình. Đó là điều kiện để có tình yêu đích thực.
Chương 54
ĐAN SĨ CÓ ĐƯỢC NHẬN
THƯ TỪ HAY TẶNG VẶT KHÔNG?
Ngày 6.4 – 6.8 – 6.12
1 Không có phép viện phụ, đan sĩ không được nhận hay trao gửi thư từ, quà biếu, hay một tặng vật nhỏ nào, dù là của cha mẹ, của bất cứ ai, ngay cả của anh em đồng tu. 2 Nếu cha mẹ cho gì cũng đừng tự tiện nhận, trừ khi đã trình viện phụ trước. 3 Dù viện phụ cho phép nhận thì ngài cũng có quyền cho ai tùy ý. 4 Anh em được tặng đừng buồn kẻo sinh dịp cho ma quỷ. 5 Ai tự tiện làm thể khác sẽ bị phạt theo luật.
Chú giải:
A – Ngày 6.4
Đức khó nghèo đan tu được diễn tả trọn vẹn trong chương 54 này. Nhân đức ấy hệ tại hai điều cơ bản: nhận và cho. Không nhận, không cho là đủ để giữ gìn ta khỏi chước cám dỗ thu tích của cải, khỏi chước cám dỗ lấp đầy cái trống rỗng mà đời đan tu tạo ra. Dầu vậy, mọi người chúng ta đều cảm thấy thích thú khi cho đi, chẳng hạn một thanh sôcôla nhận được ở nhà cơm, hay tặng một anh em món quà ta cho là quí, hoặc gắn bó với những vật mà người nọ người kia đã làm quà cho ta.
Vì sự vật có giá trị nhiều ít tùy theo mối tương quan nó giúp tạo nên. Sao có thể làm bạn được với ai nếu không trao tặng họ cái gì? Sao có thể chứng tỏ mình quí mến họ nếu từ chối cái họ muốn tặng mình? Xét cho cùng, nhận hay cho đều là những cách hiện hữu trước mặt người khác. Nhưng đó lại gần như là một cách đánh mất mình. Tôi tưởng rằng tôi có giá trước mặt người khác nhờ món quà tôi cho đi hay nhận được!
Nếu thánh Biển Đức không chấp nhận việc đan sĩ cho hay nhận, không phải vì ngài coi thường mối tương quan với người khác. Mà còn trái lại. Ngài cho mối tương quan ấy một giá trị lớn tới nỗi không sự vật nào có thể diễn đạt cho đúng được. Không mua được tình yêu cũng không bán được tình yêu, vì tình yêu là vô giá. Ta có dám tin rằng mình đáng yêu, ngay cả khi không có gì để tặng nhằm mua được thiện cảm của người khác chăng? Ta có biết cách làm cho người khác hiểu rằng ta quí mến họ mà chẳng cần trao đổi tặng vật gì không? Đó là vấn nạn thánh Biển Đức muốn nêu lên cho ta.
B – Ngày 6.8
Thánh Biển Đức kết thúc những chương nói về tương quan với người ngoài đan viện khi đề cập tới vấn đề quà tặng. Ta có thể xét tới một món đồ theo nhiều quan điểm khác nhau. Món đồ tự nó có giá trị căn cứ theo tính hữu ích, ta có thể gọi là giá trị khách quan, và theo chất liệu được dùng để chế tạo ra nó. Ở nơi khác, thánh Biển Đức nói tới giá trị ấy khi nhấn mạnh đến hai nguyên tắc cơ bản: -mỗi người phải nhận được (từ viện phụ) những gì họ cần (tính hữu ích); -nhưng phải bằng lòng với những thứ đơn sơ giản dị (chất liệu).
Đồ vật cũng có thể có giá trị chủ quan, gắn liền với những điều nó gợi lên cho ta: một người, một giai đoạn sống, một nơi chốn đã ghi đậm dấu ấn trong ta. Ở trường hợp này, tính hữu ích hay chất liệu không quan trọng nữa, nhưng là sức nặng tình cảm ta đặt nơi đồ vật. Khi ấy đồ vật có giá trị tượng trưng.
Như vậy, món quà có ba chiều kích: tính hữu ích, chất liệu, sức nặng tượng trưng. Trong chương này, thánh Biển Đức không xét tới tính hữu ích hay giá trị của đồ vật, nhưng tới sức nặng tình cảm ta đặt nơi đồ vật ấy. Nhận hay tặng quà, dù rất nhỏ, đó là một cách hiện hữu trước mặt người khác. Như trong những chương trên, ở đây thánh Biển Đức đụng chạm tới một điểm cốt yếu trong cấu trúc của hữu thể con người, đó là cảm tính. “Có” là dấu hiệu cho thấy con người đang mắc bệnh, dấu hiệu con người đang thiếu thốn. Tất cả chúng ta đều bị thiếu quân bình. Nhưng cần ý thức điều đó. Ý thức này là điều kiện cốt yếu cần thiết để có thể lớn lên. Ai tự biện bạch, tự bịt tai khi nghe các chương tu luật được đọc trong những ngày vừa qua là dấu hiệu cho thấy họ vẫn còn bị giam hãm nơi bản thân mình.
Thánh Biển Đức không muốn tố giác ta, biến ta thành tội phạm, nhưng chỉ muốn giúp ta nhìn ra mình rõ hơn. Tu luật hiến cho ta một phương tiện tốt nhất để nhận ra cách sống của mình, giúp ta phân định được những điểm yếu nơi mình, chứ không che đậy chúng bằng những lời biện bạch. Và một khi đã nhận biết những giới hạn nhỏ bé nơi bản thân, ta sẽ có thể thoát ra để đạt tới con người đích thực của mình.
C – Ngày 6.12
Những tiếng đầu tiên của chương 54 này “nullatenus liceat” (hoàn toàn cấm) giống như một lệnh cấm không thể thay đổi thánh Biển Đức nói với mỗi đan sĩ: cấm nhận bất cứ cái gì. Ta thấy lệnh cấm này có vẻ khắt khe và hơi quá đáng. Thánh Biển Đức sợ gì, xét về mặt tiêu cực? Còn về mặt tích cực, ngài muốn gì?
Bản văn cho thấy khá rõ điều thánh nhân sợ: Trước hết ngài sợ những liên hệ tình cảm (với gia đình hay với một đan sĩ khác) sẽ lấn át những mối liên hệ mới mà đan viện phải gây dựng nên. Thoạt nhìn chuyện ấy có thể chẳng quan trọng gì, nhưng một lúc nào đó ta đều đã hoặc sẽ cảm nghiệm rằng mình được người ngoài hiểu và quí mến hơn anh em trong cộng đoàn. Khi ấy ta rất dễ bị cám dỗ sống trong đan viện mà lòng trí lại để ngoài đời.
Điều thứ hai thánh Biển Đức sợ, đó là có những người nhận được nhiều quà tặng, trong khi những người thuộc gia đình nghèo khó, hay không gia đình bạn hữu, sẽ chẳng nhận được gì. Xét chung thì những người nhận được nhiều sẽ không hiểu họ có thể làm phương hại đến tình liên đới của cộng đoàn như thế nào, nếu họ không biết chia sẻ. Thánh Biển Đức không hề muốn thấy phát sinh những chênh lệch xã hội như vẫn có trong thế gian.
Nhưng nơi thánh nhân, tất cả những nỗi sợ ấy đều là do một trong những cảm thức cơ bản về đời đan tu, đó là mối thông hiệp trong nếp sống cộng đoàn, được xây dựng trên kinh nghiệm về ơn cứu rỗi trong Giáo Hội. Mối giây liên kết các đan sĩ không thuộc lãnh vực thân cận hay vụ lợi, nhưng do cảm nghiệm chung về mối liên hệ con cái. Vì là những người con, trong Chúa Con, mà ta trở nên anh em với nhau. Ta thường hay thích sống theo mức độ thiện cảm hay ác cảm, hoặc vụ lợi. Chia sẻ những gì ta có, những ân huệ vật chất, tinh thần, thiêng liêng v.v. là dấu cho hay ta thực sự là những người con của Thiên Chúa.
Chương 55
Y PHỤC VÀ GIẦY DÉP ANH EM
Ngày 7.4 – 7.8 – 7.12
1 Việc cấp phát y phục cho anh em phải thích hợp với hoàn cảnh và khí hậu địa phương nơi họ ở; 2 vì xứ lạnh cần nhiều hơn, còn xứ nóng cần ít hơn. 3 Viện phụ phải lưu tâm đến vấn đề đó. 4 Còn những miền khí hậu ôn hoà, cha thiết tưởng đan sĩ có một áo thụng và một áo dài là đủ, 5 mùa đông áo dầy, mùa hạ áo mỏng hay cũ; 6 có áo vai để làm việc, cũng phát vớ và giầy dép nữa. 7 Đan sĩ đừng bận tâm đến màu sắc hay vẻ thô sơ của những thứ ấy. Địa phương có sao ta dùng vậy, và thường mua sắm thứ rẻ tiền hơn. 8 Viện phụ hãy để ý đến kích thước sao cho y phục ai dùng thì vừa tầm vóc người ấy, đừng ngắn quá. 9 Khi lãnh đồ mới, luôn luôn phải trả ngay đồ cũ để cất vào phòng áo cho người nghèo. 10 Để thay đổi ban đêm và giặt giũ, mỗi đan sĩ có hai áo thụng và hai áo dài là đủ . 11 Còn gì nữa là thừa, phải bỏ bớt. 12 Giầy dép hay đồ gì cũ đều phải trả lại khi nhận đồ mới. 13 Anh em đi đường đến phòng áo lãnh đồ mặc lót, khi về họ phải giặt sạch rồi trả lại. 14 Tại phòng áo cũng có sẵn áo thụng, áo dài tốt hơn thứ thường để anh em đi đường đến lãnh dùng, khi về thì trả lại.
Chú giải:
A – Ngày 7.4
Thời nào cũng thế, trong đời sống xã hội y phục có nhiều nhiệm vụ khác nhau. Trước hết y phục hữu dụng để bảo vệ ta khỏi sức nóng mặt trời và thời tiết xấu. Đó là điều cốt yếu thánh Biển Đức nói đến ở đầu chương này. Ngài cũng đề cập tới môi trường xã hội, tới phẩm chất, số lượng, mầu sắc y phục và cách thức may. Sau cùng, y phục cần phải vừa vặn hợp với dáng vóc và diễn tả được mối tương quan của ta với thân xác mình. Trong chương 55 này ta thấy ba nhiệm vụ căn bản của y phục: tính hữu dụng, phương thế nhận diện trong xã hội, biểu hiện tượng trưng về tương quan với thân xác.
Dù trong văn hóa hay tôn giáo nào, các truyền thống đan tu đều thấy cần phải có y phục riêng cho đan sĩ để phân biệt họ với những người khác. Ngay từ cội nguồn đan tu trào kitô, các yếu tố y phục đan tu, như viện phụ Pinaphiô và sau đó Cassianô nói đến, đã có một giá trị tượng trưng rất lớn tới độ người ta có thể tự hỏi liệu câu ngạn ngữ bình dân quả quyết rằng “chiếc áo không làm nên thầy tu” có sai lầm chăng.
Đúng là không chỉ mặc áo đan sĩ thôi mà có thể trở thành đan sĩ được, nhưng cũng đúng khi nói y phục đan tu dần dần biến đổi đan sĩ, giống như môi trường ta sống sẽ khuôn đúc ta theo nó. Đón nhận y phục không chỉ là một dấu hiệu về việc gia nhập vào một nhóm người nào đó mà còn hơn thế nữa. Đó là cách chấp nhận để mình được y phục tái thiết và nhắc nhở cho mình về ơn gọi Thiên Chúa ban. Trong một đời sống thiêng liêng lâu dài như cuộc đời chúng ta, chẳng có phương thế nào là nhỏ nhặt đối với ai ý thức được thân phận yếu đuối của mình.
B – Ngày 7.8
Khó mà nhận ra được ranh giới giữa cái dư thừa và cái cần thiết. Thực vậy, ta khó có thể thấy mình bị ảnh hưởng tới mức nào bởi những kiểu hưởng thụ của xã hội chung quanh. Ta có thể để mình sa bẫy mà chẳng hay, cái bẫy “tất cả, ngay lập tức”, hay “hoàn toàn mới, hoàn toàn đẹp”. Nhu cầu thỏa mãn tức thì, nhu cầu chạy theo mẫu mã mới nhất là những động lực chính của xã hội hưởng thụ.
Điều tạo nên ma lực, tạo ra sự mù quáng của một hệ thống xã hội, đó là người ta không thấy được những động lực ẩn sâu trong vô thức. Sự mù quáng có khi còn là điều kiện thiết yếu để những cách sống như thế tồn tại được mãi. Và thật là ngây thơ nếu nghĩ rằng ta có thể dễ dàng thoát khỏi sự mù quáng đó.
Để giúp ta thoát khỏi, thánh Biển Đức đã tiên liệu hai con đường mà ngày nay vẫn còn giá trị. Con đường thứ nhất là thực tại khách quan: bằng lòng với những gì có bán ngoài chợ (c.7). Không chạy xuôi chạy ngược để tìm kiếm những thứ không có. Con đường thứ hai là cặp mắt của anh em và viện phụ. Quả thực, ta cần người khác để ý thức được mình bị giam hãm, bị nô lệ cho những cái nhỏ mọn như thế nào. Vả lại thật là ý nghĩa khi biết ta rất sợ được anh em giúp đỡ, sợ bị đặt trước sự thật về mình. Khi ấy ta sẽ tìm cách làm cho người khác sợ mình để họ khỏi làm phiền mình nữa. Và như vậy là từ chối đi vào con đường tự do được đề nghị với ta.
C – Ngày 7.12:
Thời nào cũng thế, trong đời sống xã hội y phục có nhiều nhiệm vụ khác nhau. Trước hết y phục hữu dụng để bảo vệ ta khỏi sức nóng mặt trời và thời tiết xấu. Đó là điều cốt yếu thánh Biển Đức nói đến ở đầu chương này. Ngài cũng đề cập tới môi trường xã hội, tới phẩm chất, số lượng, mầu sắc y phục và cách thức may. Sau cùng, y phục cần phải vừa vặn hợp với dáng vóc và diễn tả được mối tương quan của ta với thân xác mình. Trong chương 55 này ta thấy ba nhiệm vụ căn bản của y phục: tính hữu dụng, phương thế nhận diện trong xã hội, biểu hiện tượng trưng về tương quan với thân xác.
Dù trong văn hóa hay tôn giáo nào, các truyền thống đan tu đều thấy cần phải có y phục riêng cho đan sĩ để phân biệt họ với những người khác. Ngay từ cội nguồn đan tu trào kitô, các yếu tố y phục đan tu, như viện phụ Pinaphiô và sau đó Cassianô nói đến, đã có một giá trị tượng trưng rất lớn tới độ người ta có thể tự hỏi liệu câu ngạn ngữ bình dân quả quyết rằng “chiếc áo không làm nên thầy tu” có sai lầm chăng.
Đúng là không chỉ mặc áo đan sĩ thôi mà có thể trở thành đan sĩ được, nhưng cũng đúng khi nói y phục đan tu dần dần biến đổi đan sĩ, giống như môi trường ta sống sẽ khuôn đúc ta theo nó. Đón nhận y phục không chỉ là một dấu hiệu về việc gia nhập vào một nhóm người nào đó mà còn hơn thế nữa. Đó là cách chấp nhận để mình được y phục tái thiết và nhắc nhở cho mình về ơn gọi Thiên Chúa ban. Trong một đời sống thiêng liêng lâu dài như cuộc đời chúng ta, chẳng có phương thế nào là nhỏ nhặt đối với ai ý thức được thân phận yếu đuối của mình.
Ngày 8.4 – 8.8 – 8.12
15 Đồ trang bị giường ngủ gồm đủ chiếu, chăn, mền, gối. 16 Viện phụ phải năng kiểm soát giường chiếu anh em, để không ai có của gì riêng. 17 Nếu gặp ai có của gì không do viện phụ cấp phát, người ấy sẽ bị trọng phạt. 18 Để nhổ tận gốc thói xấu giữ của riêng, viện phụ phải cấp phát những thứ cần dùng: 19 áo thụng, áo dài, giầy dép, giây lưng, dao, bút, kim, khăn tay, bảng viết… để không ai viện cớ mình còn thiếu. 20 Viện phụ hãy luôn luôn suy niệm châm ngôn này trong Công Vụ Tông Đồ: “Người ta phân phát cho mỗi người tùy nhu cầu của họ“. 21 Vậy viện phụ hãy xét đến sự yếu đuối của những người có nhu cầu, chứ đừng theo ý xấu của kẻ ganh tị. 22 Nhưng trong mọi quyết định, ngài hãy nhớ Chúa sẽ xét xử theo việc ngài làm.
Chú giải:
A – Ngày 8.4
Đối với thánh Biển Đức, khuôn mẫu của đời sống chung chính là cộng đoàn tiên khởi Giêrusalem, như mô tả trong sách Công Vụ Tông Đồ. Và điều thánh nhân ghi nhận từ cộng đoàn này đó là họ để tất cả làm của chung và mỗi người được cung cấp theo nhu cầu. Đấy là những đặc tính cốt yếu của đức khó nghèo đan tu: để làm của chung và nhận theo nhu cầu.
Hiến dâng tất cả để nhận được tất cả, đó là định nghĩa của đức khó nghèo đan tu. Nhưng để dâng tất cả và nhận tất cả, thì một điều kiện cần thiết là phải có lòng tin tưởng. Không tin tưởng thì sau cùng ta sẽ giữ lại chút gì đó, phòng khi bất trắc, như lỡ ra mình bị quên bỏ hay ngại ngùng không dám xin.
Khi nói tới tin tưởng hay thiếu tin tưởng ta có thể cho rằng người khác không đáng tin, rằng lòng tin của ta bị lừa. Vì vậy ta có lý để mà không tin ai nữa, để giữ lại chút gì đó. Tuy nhiên, ai có thể quả quyết rằng sự tin tưởng của mình không bao giờ bị phản bội, hay không bao giờ mình phụ lòng tin tưởng của người khác? Thật là sai lầm khi nghĩ mình có thể cậy dựa vào một người phàm hay vào chính bản thân. Lòng tin tưởng đích thực phải đi xa hơn thế nhiều.
Nơi người Tôi Tớ Chúa trong Isaia (50, 4-7) ta gặp được bí quyết của lòng tin tưởng. Không phải vì thoát được thực tại đau thương khắc nghiệt mà người Tôi Tớ ấy có thể thốt lên: “Có Chúa trợ giúp tôi”. Trái lại, lúc đó chính là lúc ngài đang bị vùi dập giữa muôn vàn sỉ nhục và đau khổ. Ngài vững lòng tin tưởng chỉ nhờ cậy dựa vào Lời Chúa mà thôi. Ngài càng suy niệm Lời Chúa, Lời Chúa càng ở lại trong ngài và biến đổi ngài. Từ nay cuộc đời không còn là một chuỗi những biến cố vui buồn nữa, nhưng đã tràn đầy một sự hiện diện nhiệm mầu mà chỉ Lời Chúa mới giúp ngài nhận ra được.
Sự tin tưởng, giúp đan sĩ mở rộng tay để có khả năng cho đi tất cả và đón nhận tất cả, bắt nguồn từ việc gắn bó thân tình với Lời Chúa. Một ngày nào đó, tất cả chúng ta đều có thể cảm thấy không làm sao mà tin tưởng được, mặc dầu ta rất muốn. Khi ấy, phương dược duy nhất hữu hiệu là suy hiểu thấu đáo và sống trọn vẹn lời sách Công Vụ nói: “Người ta phân phát cho mỗi người tùy theo nhu cầu”.
B – Ngày 8.8
Với đoạn tu luật xem ra không có gì quan trọng này, thánh Biển Đức vạch ra một trong những thành kiến dai dẳng nhất của ta. Quả thực, nếu tu luật quan tâm tới mọi chuyện, ngay cả tới giấc ngủ của đan sĩ, thì điều ấy có nghĩa là không có gì trong cuộc sống phàm trần của ta mà Chúa nhân từ không nhìn đến. Dù ta muốn hay không, tất cả mọi sự đều quan trọng, đều có chỗ đứng của nó trước con mắt Chúa.
Tuy nhiên, con người thời nay than phiền Giáo Hội can thiệp vào những lãnh vực riêng tư. Theo ta nghĩ, đó là những lãnh vực vượt ngoài thẩm quyền Giáo Hội. Cũng thế ta nhân danh tính độc lập cá nhân để sẵn sàng bênh vực những thói quen, những cách ăn ở của mình.
Về vấn đề này, thật là thú vị khi thấy rằng từ vài kỳ tổng công nghị vừa qua, một số viện phụ, nhất là ở Hoa Kỳ, đã đề nghị đưa trở lại Hiến Pháp những điều không còn được giữ nữa. Một số vị yêu cầu lập lại việc kiểm tra phòng các đan sĩ như là quyền và bổn phận của viện phụ. Cốt yếu là ta hiểu rằng trọn cả cuộc đời ta đều phải được Phúc Âm hóa.
C – Ngày 8.12
Ta thấy thánh Biển Đức thật là nghiêm khắc với “thói xấu giữ của riêng”, coi là của mình và cất giữ những gì không phải do viện phụ cấp phát. Ngài nói đi nói lại, như thể tất cả đời đan tu của ta tùy thuộc vào đó, như thể đây là một trong những vấn đề cơ bản nhất của ơn gọi đan tu. Tại sao thánh Biển Đức quan tâm đến chuyện đó nhiều như vậy?
Phân tích sơ qua chương này ta sẽ có thể hiểu được lý do. Để sửa chữa thói xấu giữ của riêng, thánh Biển Đức yêu cầu viện phụ năng kiểm soát phòng ngủ của đan sĩ để xem họ có cất giấu của gì không (c.16). Gắn liền với thói xấu trên là tính gian lận, dối trá. Sau khi ăn trái cấm, Ađam đã đi ẩn mình. Có sự liên kết sâu xa giữa cám dỗ gian lận và mối tương quan với Thiên Chúa.
Hẳn là vì khi thu tích của cải ta tìm cách lấp đầy chỗ trống, lấp đầy lỗ hổng nơi thâm cung lòng ta, một lỗ hổng chỉ Thiên Chúa mới lấp đầy được. Như vậy, điều đáng quan tâm không phải là những đồ vật, tự chúng chẳng tốt cũng chẳng xấu, nhưng là lỗ hổng đó, lỗ hổng ham muốn, nơi mà ơn gọi của ta kêu mời ta ở lại. Thiết tưởng ý nghĩa của sa mạc chính là không ngừng đưa ta trở về lỗ hổng sâu xa nhất của bản thân ta, vì Thiên Chúa đang chờ đợi ta ở đó.
Chương 56
BÀN ĂN CỦA VIỆN PHỤ
Ngày 9.4 – 9.8 – 9.12
1 Viện phụ bao giờ cũng dùng bữa với trú khách và khách hành hương. 2 Những khi ít khách, ngài có thể gọi một vài anh em tùy ngài muốn. 3 Tuy nhiên, luôn luôn phải để một hay hai anh em cao niên ở lại với cộng đoàn để giữ kỷ luật.
Chú giải:
A – Ngày 9.4
Như thánh Biển Đức ấn định, viện phụ không dùng bữa với cộng đoàn, nhưng với khách hay những người hành hương tới đan viện. Khi không có khách, viện phụ mời vài anh em dùng bữa với ngài. Ở chương 53, câu 16 thánh Biển Đức đã nói: “Nhà bếp cho viện phụ và khách phải riêng biệt, để khi bất chợt khách đến sẽ không gây phiền hà cho anh em, vì không bao giờ đan viện thiếu khách”.
Khi đối chiếu câu văn trên đây với chương 56 này, ta dễ nhận ra ý nghĩa của điều thánh Biển Đức đã ấn định. Ngài không muốn nhắm tới một ưu đãi nào dành cho viện phụ. Nhưng ngài muốn đặt viện phụ như gạch nối giữa khách, là những người ở bên ngoài, và anh em, là những người ở bên trong cộng đoàn.
Đối với bên ngoài, viện phụ phải quan tâm để khách được đón tiếp tử tế và không phải thiếu thốn gì. Đối với bên trong, ngài cố gắng liệu sao cho việc đón tiếp khách không gây phiền hà cho cộng đoàn. Ngài bảo vệ cộng đoàn khi nhận lấy cho mình sự phiền hà do việc khách đến khách đi liên tục.
Ngày nay, làm trung gian điều hợp giữa việc cần phải đón tiếp khách và việc duy trì sự bình an cho cộng đoàn vẫn còn là vai trò của viện phụ, qua sự cộng tác của những anh em được chỉ định. Vai trò này được thực hiện vì mục tiêu cơ bản là giúp ta thăng tiến nội tâm, thăng tiến trong cuộc đời chiêm niệm.
Nếu việc đón tiếp khách được thực hiện tốt, thì sự hiện diện của khách có thể là một khích lệ cho đan sĩ. Nhưng phải làm sao để đan viện không quá bận rộn với việc tiếp đón khách khiến đan sĩ không còn làm gì khác được. Vì lợi ích của cộng đoàn cũng như của khách, viện phụ phải bảo đảm và duy trì mức quân bình trong vấn đề này.
B – Ngày 9.8
Mặc dầu ta thấy chương này có vẻ hơi kỳ lạ, nhưng theo Denis Huerre, nó hàm ý về ba điểm trong dung mạo của viện phụ như thánh Biển Đức muốn. Trước hết là đời sống nội tâm của viện phụ, tiếp đến mối liên hệ của ngài với anh em, sau cùng là vai trò của ngài đối với những người ngoài đan viện.
Vai trò đại diện cộng đoàn có liên hệ tới cuộc sống của Dòng, của Giáo Hội và của xã hội dân sự, nhưng cũng liên hệ tới mối tương quan giữa cộng đoàn với những người khách tìm đến đan viện. Ngày nay, vai trò này thường được ủy nhiệm cho các anh em phục vụ nhà khách hay giữ cổng. Họ được trao phó việc cụ thể hóa mối quan tâm đặc biệt dành cho Chúa Kitô nơi những người khách đến với chúng ta.
Mỗi viện phụ có đặc sủng riêng trong lãnh vực này. Nơi một số đan viện, chính viện phụ ra đón khách, chào hỏi và gặp gỡ họ. Nhưng thường thì việc tiếp đón được giao cho những anh em có khả năng. Đây không phải là việc luôn luôn dễ dàng đối với mọi người. Nhưng lại rất quan trọng. Thánh Biển Đức đã nói rất cặn kẽ về nhiệm vụ này.
C – Ngày 9.12:
Chương này là một trong số ít những chương không còn được thực hiện nữa, ít là ở cộng đoàn chúng ta. Viện phụ phải luôn luôn ăn cơm với khách, và tôi tự hỏi nếu ngày nay còn giữ như vậy thì đó lại chẳng là hy sinh lớn nhất tôi phải chịu sao? Các anh em biển đức giải quyết vấn đề bằng cách mời khách dùng bữa ở nhà cơm chung với cộng đoàn. Vì đã có kinh nghiệm về điều đó, nên tôi nhận thấy không dễ chịu lắm cho khách, bởi họ thường được xếp ngồi ở giữa nhà cơm, trước con mắt của cả cộng đoàn. Thú thật, tôi thích theo kiểu của chúng ta hơn.
Tuy nhiên, ta cũng nên thự hỏi tại sao thánh Biển Đức lại xếp đặt như thế. Ngài xếp đặt thế vừa vì vị thế của khách vừa vì nhiệm vụ ngài ủy thác cho viện phụ. Thực vậy, nhièu lần thánh Biển Đức nhấn mạnh đến việc tiếp đón khách như tiếp đón Chúa Kitô. Điều đó cho thấy thánh Biển Đức nghĩ rằng không có phân biệt giữa một thế giới bị cho là xấu xa với một đan viện được coi như thiên đàng rồi. Nếu đan sĩ sống xa cách mọi người, chính là do ý thức về thân phận mình yếu đuối và về sứ mệnh đối với mọi người.
Về phần viện phụ, thánh Biển Đức coi ngài như người đầu tiên có bổn phận tiếp đón khách, cũng như người đầu tiên chăm sóc bênh nhân, lo việc nhà bếp, việc nhà may. Mọi nhiệm vụ trong đan viện đều được ủy thác, có nghĩa là được lãnh nhận, và do đó người được ủy thác nhiệm vụ phải báo cáo lại. Một lần nữa cũng lại Chúa Kitô giữ vị trí trung tâm. Một cách nào đó, chính do sự ủy quyền của Chúa Kitô mà ta tiếp đón Chúa Kitô nơi người khách. Chỉ có Chúa Kitô trong tôi mới có thể đón tiếp Chúa Kitô trong người khác.
Chương 57
NHỮNG ANH EM THẠO NGHỀ
TRONG ĐAN VIỆN
Ngày 10.4 – 10.8 – 10.12
1 Nếu trong đan viện có anh em thạo nghề, họ hãy hành nghề với tất cả lòng khiêm tốn, miễn là viện phụ cho phép. 2 Nếu ai trong họ kiêu căng cậy mình biết nghề, tưởng mình làm lợi cho đan viện, 3 người ấy sẽ bị ngưng việc, không được làm nữa, trừ khi đã khiêm tốn và viện phụ bảo làm lại. 4 Nếu phải bán sản phẩm của các anh em hành nghề, những ai lo việc này hãy ý tứ đừng gian tham. 5 Luôn nhớ tới Anania và Saphira, sợ rằng cái chết mà vợ chồng này đã chuốc vào thân xác, 6 thì những anh em ấy và những ai gian lận tài sản của đan viện phải mang lấy nơi linh hồn. 7 Còn về giá cả, đừng để tật xấu hà tiện chi phối, 8 nhưng luôn luôn bán hạ giá hơn người đời một chút, 9 để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh.
Chú giải:
A – Ngày 10.4
“Nếu có ai sinh kiêu căng vì tưởng đã làm lợi cho đan viện”. Câu này gồm hai phần: phần một nói về tình trạng thiêng liêng của người anh em: tính kiêu căng; phần hai về cái cớ khiến anh ta kiêu căng: đã làm lợi cho đan viện do khả năng của mình. Vậy phải chăng để tránh kiêu căng thì tốt hơn không nên có khả năng gì?
Thánh Biển Đức không nói đến lý do, nhưng nói đến cái cớ. Theo Cassianô, kiêu căng không đến từ bên ngoài, nhưng từ bên trong. Đó là căn bệnh sâu xa nhất của tâm hồn: nại cớ bên ngoài để kiêu căng tự phụ. Cái cớ bên ngoài không gây nên tính kiêu căng, nhưng biện minh cho tính xấu ấy.
Như thế, kiêu căng là căn bệnh trầm trọng nhất của linh hồn, vì đó là căn bệnh của con rắn, của con quỉ kiêu ngạo. Tính kiêu căng lợi dụng tất cả để phình to lên và sau cùng sẽ nhận chìm hết những gì là tốt đẹp và lành mạnh trong ta, sẽ làm ô nhiễm cả tới điều tốt nhất nơi tâm hồn ta. Thánh Biển Đức quá biết điều đó và ngài đề nghị một cách chữa trị tận căn ở chương 57 này. Ngài bảo phải cất đi cái cớ làm cho tính kiêu căng bùng lên, nếu không thể diệt trừ ngay được thói xấu đó.
Nơi những người khác, ta dễ dàng nhận ra rằng tính kiêu căng khiến người ta dần dần sẽ nghĩ là mình cần thiết đến độ không thể không có mình, hoặc tưởng mình chẳng được ai hiểu, tự coi mình như một thiên tài không được biết đến. Con người ta thật mù quáng về mình!
Trong chương 57 này, thánh Biển Đức đưa ra một cách thức đơn giản để nhận ra mình có rơi vào thói kiêu ngạo hay không, đó là coi xem mình có nghĩ đã làm lợi gì cho đan viện không, hay nói cách khác, coi xem mình có nghĩ đan viện cung cấp cho mình ít hơn là mình đóng góp cho đan viện không. Nếu tưởng nghĩ như thế thì thật là quá sức ảo tưởng, nhưng lại thường xẩy ra!
B – Ngày 10.8
Tất cả chúng ta đều bị cám dỗ cho là của mình những kết quả do công việc mình làm, thuộc lãnh vực vật chất, tri thức hay thiêng liêng. Nhu cầu thành công, có được kết quả, hài lòng về mình đâu phải là điều xấu. Ai trong ta lại không cảm thấy một chút hãnh diện sau khi đã hoàn thành mỹ mãn một công việc.
Nhu cầu sở hữu có thể gắn kết cả với sự kiện chẳng có gì. Thật là cực kỳ mâu thuẫn! Với thánh Biển Đức, đó là một trong những khuynh hướng cơ bản của con người, cái nhu cầu có để hiện hữu. Nhưng toàn bộ tu luật đòi hỏi ta đảo ngược lại điều đó: Hiện hữu để có.
Đó là thách đố cơ bản của cuộc sống đan tu, đi từ có để hiện hữu đến hiện hữu để có. Và bước đi này luôn luôn phải vượt qua cái vô hữu. Đó là bước đi nguy hiểm nhất, cam go nhất, nếu không nói là không thể thực hiện được. Vì đó là phải chết thực sự, phải bỏ mất chính mình, như Phúc Âm đòi hỏi.
Nhưng đó lại là điều kiện để được sống thật. “Nếu hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, sẽ không trổ sinh được”. Lời Chúa Giêsu nghe cứng cỏi, nhưng lại rất đúng. Và cả cuộc đời ta là một chuỗi nối tiếp những bước đi nhỏ, những lễ vượt qua nhỏ, chuẩn bị ta mừng lễ Vượt Qua đích thực. Và khi ấy, ngài thế nào ta sẽ thấy ngài như vậy, vì ta sẽ được nên giống như ngài.
C – Ngày 10.12
Mối nguy rình rập người có năng khiếu, người thạo nghề, chính là kiêu ngạo. Thánh Biển Đức còn nêu rõ thứ kiêu ngạo nào: đó là tưởng mình làm lợi cho đan viện. Đây là một mối nguy thực sự. Vì tự căn bản, thái độ của đan sĩ là đón nhận. Đan sĩ là người tới đan viện để tìm ơn cứu rỗi, là người sống trong tư thế một kẻ nghèo, một kẻ đi xin. Khi nghĩ mình có cái gì, khi tưởng mình làm lợi được cái gì ta liền bỏ mất phẩm tính người đan sĩ, đi lạc khỏi con đường đích thực của ơn gọi đan tu.
Qua thái độ này, khuôn mặt con người nội tâm của ta sẽ bộc lộ nơi công việc ta làm. Thánh Biển Đức đưa ra hai dấu hiệu như là hai tiêu chuẩn giúp ta nhận biết mình có rơi vào thói kiêu ngạo không. Dấu hiệu thứ nhất là cho rằng không thể không có mình. Thực vậy, một số người chỉ cần thay đổi chức vụ là tức khắc bị khủng hoảng ngay. Điều này cho thấy cuộc đời họ không được xây dựng trên nền tảng là Chúa Kitô, nhưng trên những gì họ làm. Dấu hiệu thứ hai là tính hà tiện. Hà tiện có thể biểu lộ bằng hai cách: theo nghĩa đen và theo nghĩa bóng. Theo nghĩa đen đó là kiếm tiền nhiều bao nhiêu có thể. Hà tiện cũng biểu lộ theo nghĩa bóng và thường dùng đến cách đe dọa: có vậy thôi, tôi chẳng làm gì nữa. Cách đe dọa này có thể minh nhiên qua lời nói, hay mặc nhiên qua sự chống đối thụ động.
Những hình thức thoái hóa trên đây chỉ có một phương chữa trị mà ta thấy trong chương 57 này qua lời thánh Biển Đức nhắc nhở tại sao ta vào đan viện, đó là “để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh”. Và có lẽ thỉnh thoảng ta phải có can đảm tự hỏi mình: ta có sống để Thiên Chúa được tôn vinh trong mọi sự không, hay chỉ sống cho mình, để mình được mãn nguyện?
Chương 58
CÁCH THỨC NHẬN ANH EM
Ngày 11.4 – 11.8 – 11.12
1 Ai mới đến xin tu, không nên dễ dàng nhận ngay. 2 Nhưng theo lời thánh Tông Đồ: “Hãy nghiệm xét các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa không”. 3 Vậy nếu người đến xin tu kiên nhẫn gõ cửa, chịu đựng những sỉ nhục và khó khăn để xin vào, sau bốn năm hôm, vẫn kiên tâm nài xin, 4 bấy giờ mới nhận và cho ở nhà khách ít ngày.
5 Sau đó dẫn vào nhà tập, nơi họ sẽ suy niệm và nghỉ ngơi, ăn uống. 6 Hãy đặt một vị lão thành có khả năng thu phục lòng người để chăm chú quan sát, 7 xem họ có thực tâm tìm Chúa, có mộ mến thần vụ, yêu thích vâng lời và ham chuộng sỉ nhục không. 8 Nói trước cho họ biết tất cả mọi cực khổ cam go, nhờ đó họ mới đến được với Chúa. 9 Nếu họ hứa kiên trì bền đỗ, sau hai tháng, tuần tự đọc trọn luật này cho họ nghe, 10 hãy nói với họ: đây là luật mà con muốn theo để chiến đấu, nếu có thể giữ được con hãy vào, nếu không con cứ tự do rút lui. 11 Nếu họ còn kiên vững, lúc ấy hãy dẫn họ về nhà tập và bằng mọi cách lại thử lòng kiên nhẫn của họ. 12 Sau một kỳ sáu tháng, lại đọc luật cho họ nghe, để họ biết mình vào Dòng làm gì. 13 Nếu còn kiên vững, sẽ đọc luật này cho họ nghe thêm một kỳ bốn tháng nữa.
14 Sau khi đã suy nghĩ chín chắn, nếu họ hứa giữ mọi điều và tuân theo tất cả các lệnh truyền, bấy giờ họ mới được gia nhập cộng đoàn, 15 họ phải biết rằng, do luật buộc, từ nay họ không được ra khỏi đan viện nữa, 16 cũng không được trút bỏ ách lề luật mà họ đã có thể từ chối hay chấp nhận sau một thời gian suy xét lâu dài như vậy.
Chú giải:
A – Ngày 11.4
Với thánh Biển Đức, tiến trình gia nhập cộng đoàn chỉ có một mục đích duy nhất là giúp cho ứng sinh tìm đến đan viện ý thức rằng “đường đi về với Chúa” là đường “cực khổ cam go”. Nhưng điều đó không chỉ đúng cho người mới đến xin nhập tu. Trải qua năm tháng, chính ta cũng thường dễ quên mất con đường cực khổ cam go ấy rồi đâm nản khi giáp mặt với những khó khăn xẩy đến mỗi ngày.
Thánh Biển Đức không tin tưởng lắm nơi những tập sinh chẳng hề gặp trắc trở, mà chỉ thấy mọi sự trong đời đan tu đều trơn tru dễ dàng, nhẹ nhàng thoải mái. Ngài muốn cho tập sinh ngay từ đầu đã kinh nghiệm được thế nào là khô khan, nặng nhọc và thất bại ê chề. Vì chỉ khi đó, Chúa mới có thể nắm quyền điều khiển cuộc đời họ.
Mối nguy đích thực không phải là người anh em bị trật đường rầy, không còn kiểm soát được cuộc sống mình nữa. Nhưng trái lại, nguy cơ lớn nhất là anh ta muốn nắm quyền điều khiển mọi sự, nên không còn khả năng để cho ơn thánh làm việc nơi mình nữa. Điều đáng sợ nhất không phải là tội lỗi, nhưng là từ chối thú nhận tội lỗi, là không còn khả năng nhìn ra thực trạng của mình.
Những gắng công vất vả ta phải trải qua trong thời gian tập viện chính là để dẹp bỏ những dáng vẻ bên ngoài mà ta tưởng có thể dùng để che mắt người khác, che mắt cả Thiên Chúa nữa. Bởi vậy, thời gian tập không phải là thời gian dễ dàng. Do đó, ta có bổn phận cầu nguyện cho những người mới vào, và với lòng nhân từ bác ái ta giúp họ vượt thử thách ban đầu của đời đan tu. Ta cũng phải cám ơn họ đã nhắc nhở ta rằng ta cũng là những con người mỏng dòn yếu đuối.
B – Ngày 11.8
Khi đọc chương này, người ta không thể không nghĩ rằng thánh Biển Đức đã viết với tất cả kinh nghiệm của ngài. Từ đó ta hiểu được ngài cực kỳ khôn ngoan trong việc nhận thành viên mới vào cộng đoàn. Tựu trung, ngài sử dụng ba nguyên tắc cơ bản của phân định: thời gian, thử thách, nhắc đi nhắc lại những yêu sách của đời đan tu.
Trước hết là thời gian. Thánh Biển Đức đòi phải có thời gian. Thiên Chúa không vội vàng. Nếu thực sự được Chúa dẫn dắt, thỉnh sinh sẽ không nản lòng vì phải chờ đợi. Trái lại, nhờ thế anh sẽ dần dần từ bỏ ý riêng để đi theo Chúa.
Tiếp đến là thử thách. Thánh Biển Đức muốn xác minh rằng thỉnh sinh thực sự được Chúa mời gọi chứ không bị ước muốn riêng thúc đẩy. Thử thách giữ vai trò cơ bản trong đời sống đan tu. Khi dần dần loại bỏ khỏi lòng ta những lý do sai lầm khiến ta muốn làm đan sĩ, thử thách giúp ta nhận ra rằng không phải ta chọn đời tu, nhưng ta đã được chọn dù chẳng hay biết.
Yếu tố sau cùng của phân định đó là nhắc đi nhắc lại những yêu sách của đời đan tu. Dù đã khấn trọng thể, ta vẫn cần được nhắc đi nhắc lại ta đã cam kết sống đời đan tu để làm gì và tại sao. Điều tệ hại hơn cả là quên mất ý nghĩa và định hướng của đời mình. Vì khi đó ta sẽ là những đan sĩ vô dụng, lãng phí cuộc đời khi chạy theo các ảo tưởng.
C – Ngày 11.12
Nếu có điều gì thánh Biển Đức không thể chấp nhận, thì đó là sự dễ dãi. Cách ngài tiếp nhận thỉnh sinh chẳng hề giống với khuynh hướng “khuyến mãi” đôi khi phổ biến trong Giáo Hội ngày nay. Ta còn có thể nói ngài tìm cách làm cho ứng sinh nản lòng, khiến họ phải bỏ cuộc. Tại sao ngài làm thế, trong khi ở nơi khác ngài lại mong cho viện phụ được vui mừng vì đoàn chiên tăng số?
Thật ra, thánh Biển Đức muốn giúp ta nhạy bén trước một thực tại hết sức cốt yếu, đó là cộng đoàn được xây dựng trên nền tảng là Chúa Kitô, chứ không trên ảo tưởng. Mà không gì giúp ta loại trừ ảo tưởng cho bằng biết rõ sự thật về mình.
Không phải cứ làm cho đời đan tu trở nên dễ dãi mà ta có thể giúp được ai có nhận định chính xác. Ngược lại, khi tránh cho họ những khó khăn, là ta ngăn cản họ giáp mặt với câu hỏi đích thực, câu hỏi duy nhất đáng được đặt ra: “tại sao tôi đến đây?”
Trước kia cha tập sư của tôi đã bảo tôi người ta không bao giở ở lại vì những lý do đã đưa người ta đến. Vì cùng với những ảo tưởng, hình ảnh sai lạc về mình sẽ tiêu tan. Điều này đôi khi thật cam go, thật đau đớn, nhưng lại là phương thế duy nhất để ta có thể nghe được tiếng nói âm thầm từ nội tâm đã hướng dẫn ta mà ta chẳng hay biết.
Nói chung thì các vị cao niên không giải thích được tại sao đã vào đan viện và càng không giải thích được các ngài đã làm cách nào để ở lại. Các ngài biết rằng đó là do phép lạ, và phép lạ thì không giải thích được.
Ngày 12.4 – 12.8 – 12.12
17 Người được nhập cộng đoàn sẽ hứa: bền đỗ, canh tân và vâng phục, trước nhan Thiên Chúa và các thánh của ngài, trong nhà nguyện, trước mặt mọi người, 18 để sau này nếu có lúc nào họ hành động thể khác, thì họ hãy biết rằng Ðấng mà họ nhạo báng sẽ luận phạt họ. 19 Về lời khấn này, họ phải viết tờ khấn nhân danh các thánh có hài cốt tại đó và có viện phụ hiện diện. 20 Chính đương sự phải tự tay viết lời khấn; nếu không biết chữ thì nhờ người khác viết thay rồi khấn sinh ký tên và đích thân đem đặt trên bàn thờ. 21 Sau đó, khấn sinh xướng ngay câu này: “Lạy Chúa, xin đón nhận con theo lời Chúa để con được sống và con sẽ không thất vọng vì đã trông đợi Chúa”. 22 Toàn thể cộng đoàn lặp lại ba lần và hát tiếp “Vinh Danh”. 23 Tiếp theo, khấn sinh đến phủ phục dưới chân từng người để xin cầu nguyện cho mình. Và từ giờ ấy họ được kể là thành phần của cộng đoàn.
24 Nếu có của cải gì, thì trước đó hoặc phân phát cho người nghèo, hoặc long trọng dâng cho đan viện, không giữ lại chút gì cho mình, 25 vì khấn sinh nên biết rằng từ ngày ấy mình không có chủ quyền ngay cả trên bản thân mình nữa.
26 Ngay sau đó, tại nhà nguyện hãy cởi thường phục họ đang mặc và mặc cho họ y phục đan viện. 27 Y phục họ cởi ra hãy giữ lại trong nhà may 28 để nếu khi nào họ theo ma quỷ dụ dỗ mà bỏ đan viện – mong đừng xảy ra như thế – bấy giờ hãy cởi y phục đan viện và cho họ đi. 29 Còn tờ khấn mà viện phụ đã nhận từ bàn thờ, họ không được xin lại nhưng phải lưu giữ trong đan viện.
Chú giải:
A – Ngày 12.4
Câu 17 đề cập tới ba lời khấn ta tuyên hứa ngày khấn dòng. Ba lời khấn này nói lên tất cả yếu tính của đời sống đan tu: bền đỗ, hoán cải và vâng phục. Khi chấp nhận lắng nghe, mở tai ra (vâng phục) ta có thể phân định được con đường hoán cải Chúa vạch cho ta, mà không tháo lui khi gặp trắc trở (bền đỗ).
Tuy nhiên, ta hãy nói tới một khía cạnh khác của câu 17 này. Đó là động từ thánh Biển Đức dùng để diễn tả điều mà người được nhận vào cộng đoàn thực hiện: “promittat”, “họ sẽ hứa”. Người cam kết sống đời đan tu nói lên một lời hứa, và đồng thời ta thấy tất cả sự long trọng của lời hứa này, do địa điểm, các chứng nhân, các nghi thức và những lời kinh đi kèm, sau cùng là do những hậu quả của lời hứa ấy.
Trong Thánh Kinh, chính Thiên Chúa hứa. Chính ngài đã hứa với tổ phụ Abraham và miêu duệ ông. Thiên Chúa của Thánh Kinh là Thiên Chúa của lời hứa. Tất cả Thánh Kinh là lời hứa này được bày tò bằng chữ viết. Bản lời khấn mà đan sĩ ký tên trong ngày khấn cũng là một bản văn được viết trên giấy, như thánh Biển Đức nói rõ ở câu 19 và 20.
Như vậy, bằng việc khấn dòng, đan sĩ trở nên con người của lời hứa, trước nhan Thiên Chúa của lời hứa. Không phải con người của dự phóng, nhưng con người của lời hứa, con người tự đặt mình trước mặt Thiên Chúa, như Thiên Chúa hiện diện trước mặt mình. Người ấy chẳng biết gì đến tương lai. Cuộc đời đan tu không phải là một dự phóng, nhưng là cuộc gặp gỡ giữa hai lời hứa, giữa hai sự trung thành.
B – Ngày 12.8
Nghi thức khấn mô tả ở phần hai của chương 58 này xác định vị trí và vai trò của mỗi người. Nơi diễn ra nghi thức là nhà nguyện. Người tham dự là “tất cả” anh em (c.17), “Thiên Chúa và các thánh” (c.18). Hành vi thực hiện là một “lời hứa” (c.19) “nhân danh các thánh có hài cốt tại đó và nhân danh viên phụ hiện diện” (c.19). Sau cùng, tờ khấn do ứng sinh viết (c.20) và mang đặt trên bàn thờ sau khi đã ký tên (c.20).
Tất cả những yếu tố này: nơi khấn, những người được mời, sự long trọng, làm cho việc khấn hứa đan tu có tính cách hoàn toàn đặc biệt. Như ta thấy, tất cả những yếu tố này đều có trong cử hành Thánh Thể. Nhưng của lễ hiến dâng là trọn bản thân khấn sinh chứ không phải là Chúa Kitô. Vì thế, ở câu 25, thánh Biển Đức xác định: “Kể từ ngày ấy, họ biết rằng họ không còn quyền ngay cả trên bản thân mình nữa”.
Chiều kích Thánh Thể của đời sống chúng ta, được biểu lộ nơi nghi thức khấn dòng, giúp ta hiểu rõ hơn ý nghĩa thâm sâu của đời đan tu. Như Thiên Chúa muốn làm nên Thân Xác của Con ngài từ tấm bánh nhỏ, thì, nếu có thể nói, ngài cũng muốn làm cho ta nên những “Kitô khác” khi dần dần biến đổi ta nên giống hình ảnh của Con ngài.
Việc khấn hứa đan tu mời gọi ta thay đổi tận gốc cách nhìn cuộc sống của mình. Vấn đề chính là “Chúa Kitô phải lớn lên, còn tôi thì nhỏ lại”. Vấn đề là ngài đến ở với ta trong từng giây phút, từng công việc, từng bữa ăn. Vấn đề là ta biểu lộ được phần nào sự hiện diện và lòng nhân ái của ngài. Nhưng có được vậy không? Trong cử hành Thánh Thể mỗi ngày, khi linh mục dâng bánh và rượu, ta hãy nhớ rằng bánh và rượu đó cũng chính là bản thân ta nữa. Và khi hiệp lễ ta hãy tự nhủ như thánh Augustinô: “Hãy trở nên điều tôi lãnh nhận”.
C – Ngày 12.12
Thánh Biển Đức đã tiên liệu một con đường dài cho việc hội nhập vào cộng đoàn, từ thời gian thỉnh tu tới lúc khấn trọng thể. Nhưng, đối với ngài, con đường hội nhập này cũng là con đường từ bỏ và siêu thoát. Ta có thể ngạc nhiên khi thánh nhân đòi hỏi việc hội nhập phải qua nhiều giai đoạn. Tuy thế, ta cũng hiểu rằng không thể làm tất cả trong một ngày.
Thực vậy, chỉ sau những tháng ngày dài trong cuộc sống đan tu ta mới nhận ra những dính bén, những ràng buộc. Đôi khi phải mất nhiều thời gian để đi từ lý tưởng mình mơ ước tới thực tại cam go của thân phận con người. Với thánh Biển Đức, thời gian tập sự lâu dài này chính là giai đoạn nhân bản hóa. Ta tái khám phá sự thật về bản thân mình.
Chính qua thời gian chuẩn bị này, ta sẽ lại nhận ra được điều cấu tạo nên ta, điều mà ta thường quên lãng. Ta cứ tưởng đã dễ dàng quên bỏ những người ta quí mến, căn nhà ta đã ở, những điều ta bận tâm, những cách ta suy nghĩ, thế mà bỗng nhiên tất cả lại xuất hiện nơi lòng trí ta. Thời gian chuẩn bị này là lúc tái khám phá con người thật của mình.
Điều ấy có thể làm nảy sinh hoài nghi, lo lắng, chán nản và đôi lúc muốn thoái lui. Đó là chuyện bình thường, và sẽ còn xẩy ra suốt cuộc đời đan tu của ta. Nhưng đó lại là phương tiện duy nhất giúp ta nhận ra Chúa và cộng đoàn quan tâm chăm sóc ta tới mức nào, gần như vượt quá ước muốn của ta. Công thức kết thúc việc tuyên khấn, ở câu 21, không phải là một lời hứa, nhưng là một lời cầu xin: “Lạy Chúa, xin đón nhận con theo lời Chúa để con được sống, và con không phải thất vọng vì đã cậy trông nơi Ngài”.
Chương 59
NGƯỜI QUÍ PHÁI HAY NGƯỜI NGHÈO
DÂNG CON CHO CHÚA
Ngày 13.4 – 13.8 – 13.12
1 Khi có ai thuộc hàng quý phái dâng con cho Chúa trong đan viện, nếu con trẻ còn ít tuổi, thì cha mẹ làm đơn xin, như cha đã nói trên. 2 Họ lấy khăn bàn thờ bọc tờ đơn và tay con trẻ cùng với của lễ mà dâng. 3 Còn về tài sản, hoặc làm đơn thề hứa không bao giờ tự mình, hay nhờ trung gian, hay dùng cách nào mà cho con trẻ vật gì, hay tạo dịp cho nó có của, hoặc nếu họ không làm như thế mà muốn dâng cúng cho đan viện đôi chút để trả ơn, 5 thì cứ dâng tùy ý, và nếu muốn dành lại cho mình quyền hưởng hoa lợi cũng được. 6 Như thế là chặn mọi lối làm dịp cho con trẻ có thể sa vào cạm bẫy mà hư đi – mong đừng xảy ra như vậy -, đó là điều cha đã học qua kinh nghiệm rồi. 7 Những người nghèo hơn cũng làm như thế. 8 Còn ai tuyệt đối không có của gì, chỉ cần làm đơn và dâng con mình cùng với của lễ trước mặt các chứng nhân.
Chú giải:
A – Ngày 13.4
Ở chương này thánh Biển Đức đề cập tới một trong những vấn đề khó khăn nhất của đời đan tu. Đó là vấn đề kiên trì, trung tín. Giải pháp ngài nêu ra để giải quyết vấn đề này có thể làm ta ngạc nhiên, và có lẽ khiến ta bị sốc nữa. Nhưng cũng nên suy nghĩ một chút về giải pháp này.
Thánh Biển Đức khởi đi từ một nhận xét. Nếu những bước đầu đời đan tu dễ dàng, thì với thời gian khó khăn sẽ đến. Và chính khi đó những của cải chẳng hạn, mà cả những ơn huệ đặc biệt về tri thức, thiêng liêng, nghệ thuật có thể trở thành một cám dỗ thực sự. Trước cái buồn tẻ vô vị của cuộc sống, trước những vỡ mộng, trước sự thờ ơ vô cảm, có những điều mà xưa kia lúc tình yêu còn nóng bỏng ta chẳng hề quan tâm, nay lại trở thành những cám dỗ, những chướng ngại có nguy cơ khiến ta vấp ngã.
Mỗi người chúng ta đều bị cám dỗ lấy lại những gì mình đã hiến dâng, công khai hay thầm kín thu hồi những cái mình đã từ bỏ khi khấn hứa làm đan sĩ. Thánh Biển Đức cho rằng của cải vật chất là những kẻ thù nguy hiểm nhất, vì khi cho ta được một chút tự lập nào đó, chúng lại xúi dục ta bỏ qua những điều “cực khổ cam go” dẫn ta tới Thiên Chúa.
Chính vì vậy, thánh Biển Đức muốn cắt đứt tận gốc mọi cám dỗ, khi cấm tìm lại bất cứ cái gì đã từ bỏ, những củ hành củ tỏi bên Ai Cập. Ta được tự do không phải để lúc nào cũng có thể quay lại đàng sau, nhưng để có thể vượt qua sóng gió. Một cuộc đời không thể cứ liên tục tới rồi lui mãi được. Có những lúc ta không thể nào quay lại đàng sau lại là lúc cứu vớt ta. Vì cái không thể đó giúp ta giáp mặt với những nỗi sợ hãi và vượt qua chúng như những quái vật náu ẩn trong ta.
B – Ngày 13.8
“Như thế là chặn mọi lối làm dịp cho con trẻ có thể sa vào cạm bẫy mà hư đi” (c.6). Có lẽ đây là một câu rất lạ tai đối với ta. Làm sao chấp nhận được là tự do của con người lại có thể gây hại cho họ? Tuy nhiên, ta đều đã kinh nghiệm, một lúc nào đó trong cuộc đời, Thiên Chúa phong tỏa ta, vây hãm ta, ngài ngăn chặn hết mọi con đường ta hy vọng có thể chạy thoát khỏi ngài. Ta bị mắc bẫy!
Ngày nào đó ta bị mắc bẫy, qua thất bại, bệnh tật, tai nạn hoặc đôi khi qua cả thành công nữa. Ta đụng chân tường, rơi vào cô đơn khủng khiếp. Chẳng còn lối thoát nào cả: con lạc đà buộc phải chui qua lỗ kim thôi. Con lạc đà chính là ta đó!
Tauler đưa ra lời khuyên sau đây cho ai lâm vào tình cảnh ấy: “Hãy ở yên, đừng chạy trốn. Hãy chịu đựng đến cùng và đừng tìm gì khác. Không phải như những người chỉ lo tìm cái mới để tránh khỏi bị hành hạ vừa khi họ rơi vào cảnh nghèo khổ nội tâm này. Hoặc họ đi than phiền và tham vấn các ông thầy, điều đó lại khiến họ lạc đường hơn nữa. Hãy ở yên trong tình trạng hiện thời. Sau bóng đêm, ngày sẽ lại sáng, mặt trời sẽ rực rỡ chói chang”.
Vì nếu Chúa dồn ta vào ngõ bí như vậy, thì không phải để làm hại ta, nhưng để mở cho ta đi vào tự do mới, vô cùng quí giá. Và đôi khi phải bị gò ép một chút vì những biến cố, những hoàn cảnh để mà đứng vững, vì nếu chỉ hơi có thể thoát khỏi tình cảnh bĩ cực đó, có lẽ ta sẽ bỏ trốn ngay. Nhưng làm thế, ta sẽ mất hết cả!
C – Ngày 13.12
Đọc chương này ta có thể ngạc nhiên và lấy làm khó chịu. Dường như thánh Biển Đức muốn dùng mọi cách để ngăn ngừa người anh em trở về đời khi họ bị cám dỗ. Ngài bảo phải cắt đứt mọi phương tiện, đặc biệt là tiền bạc. Ngài nhắc lại kinh nghiệm về vấn đề này đối với người khác, nhưng cũng có thể đối với cá nhân ngài nữa. Ta nên nhớ thánh Biển Đức thuộc một gia đình giầu có.
Như mỗi người chúng ta, vào một lúc nào đó, thánh Biển Đức hẳn đã biết tới cái vực thẳm của đời đan tu mà ta phải giáp mặt với sự trống rỗng kinh khủng chiếm cứ tâm hồn mình. Khi ấy ta tưởng chỉ mình ta phải chịu, ta thấy mình vô cùng đơn độc và bị bỏ rơi. Trước nỗi thất vọng trào lên từ cõi thâm sâu của lòng mình như thế, những điều quyết tâm, những nhân đức thường chẳng giúp ta được gì nhiều. Và nếu không được ngăn chặn, ta sẽ liều mình bỏ cuộc. Nhưng đó sẽ là điều vô cùng tai hại, như thánh Biển Đức nói ở câu 6.
Sớm hay muộn, tình trạng trên đây sẽ xẩy đến cho ta. Nếu ta chạy trốn, nó sẽ đuổi theo và bắt kịp ta ở ngã ba đường kế tiếp. Sách Gióp mô tả tình trạng này dưới những dáng vẻ hết sức bi thảm. Chẳng có cách nào thoát khỏi ngoài việc kiên trì tiếp tục, vì sẽ có một ngày, một buổi mai bình minh ló rạng, ánh dương bừng sáng, trời đất lại vui ca. Như Thomas Merton nói, khi ấy đan sĩ sẽ cảm nghiệm được rằng không chi gần kề thất vọng cho bằng hy vọng, như bông hoa tươi nở vào sáng sớm Phục Sinh.
Chương 60
NHỮNC LINH MỤC
MUỐN GIA NHẬP ĐAN VIỆN
Ngày 14.4 – 14.8 – 14.12
1 Nếu có ai trong hàng linh mục xin nhập đan viện, thì đừng chấp thuận ngay. 2 Nhưng nếu ngài cứ một mực xin, ngài nên biết mình phải giữ mọi khoản trong tu luật, 3 không được chuẩn miễn, như đã viết: “Này bạn, bạn đến đây làm gì? ”. 4 Tuy nhiên, hãy đặt ngài đứng sau viện phụ, và ngài chúc lành hay cử hành Thánh lễ theo như viện phụ bảo; 5 nếu không, ngài đừng tự tiện làm gì. Ngài hãy biết mình phải tuân giữ luật chung và nêu gương khiêm nhường hơn nữa cho mọi người. 6 Khi có vấn đề bổ nhiệm chức vụ hay công tác gì trong đan viện, 7 ngài cứ giữ thứ tự ngày vào Dòng, chứ không theo thứ vị người ta dành cho mình vì kính chức linh mục. 8 Nếu ai trong hàng giáo sĩ cũng có nguyện vọng muốn gia nhập đan viện, hãy dành cho họ chỗ trung bình, 9 với điều kiện họ hứa giữ tu luật và bền đỗ.
Chú giải:
A – Ngày 14.4
Thoạt tiên ta thấy trong chương này thánh Biển Đức có giọng nói nhẹ nhàng đối với các linh mục từ nơi khác đến và mong muốn gia nhập cộng đoàn. Nhưng nếu đọc kỹ hơn, đặc biệt nếu so sánh với chương 58 về việc đón nhận anh em vào tập viện, thánh nhân cũng dùng cách nói chung chung như nhau. Tuy thế vẫn có một khác biệt nhỏ: -Với tập sinh, ngài nhấn mạnh tới việc phải bảo đảm rằng họ thực tâm tìm Chúa (hăm hở phụng sự Chúa, vâng lời và chịu đựng xỉ nhục). Yêu sách này không thấy nói đến trong chương 60. Vì nếu một linh mục xin gia nhập đan viện chính là bởi họ thật lòng tìm Chúa.
Vấn đề ở đây là lòng khiêm tốn. Thánh Biển Đức nhấn mạnh rất kỹ. Tại sao vậy? -Có lẽ vì sau khi đã dầy dạn kinh nghiệm với cuộc sống bên ngoài, đã đi khắp đó đây và đảm nhận nhiều trách vụ người ta có thể nghĩ mình biết nhiều, hiểu nhiều và đã tiến rất xa hơn là một tập sinh non trẻ mới vào tu. -Thế mà, trong đời đan tu, chỉ có một chiều kích cốt yếu, đó là chiều kích thời gian, chiều kích của sự tiêu hao thời gian. Người ta, ngay cả tập sinh, có thể rất mau có những kinh nghiệm đặc biệt về cầu nguyện, về thinh lặng nội tâm… Người ta có thể nghĩ mình đã tới đích, người ta có thể tưởng mình đã biết hết cả.
Nhưng cần phải kiên nhẫn lâu dài trước nhan Thiên Chúa, cần phải thực hiện nhiều giờ cầu nguyện (như người tập lái thực hiện nhiều giờ bay) để có thể bắt đầu biết sử dụng từng đà vươn lên nhỏ nhất, biết luồn vào từng hơi gió nóng để lợi dụng mà bay lên, nhưng cũng để biết nhẫn nại bay là là trên mặt đất khi chẳng có gì giúp mình lên cao được. Và nhẫn nại thì không gì có thể thay thế. Nhưng cứ nhìn các vị cao niên, ta sẽ biết Thiên Chúa có thể ban cho ta ơn nhẫn nại, nếu ta chịu dành thời gian luyện tập.
B – Ngày 14.8
Khi một linh mục xin vào đan viện, thánh Biển Đức tỏ ra hết sức khôn ngoan. Ngài còn dùng cả đến lời Chúa Giêsu nói với Giuđa khi bị ông này phản bội để hỏi linh mục: “Này bạn, bạn tới đây làm gì?” (Mt 26,50). Và Phúc Âm nói với ta ở những câu trước đó rằng Giuđa dùng cái hôn để nộp Con Người.
Câu hỏi trên đây được nêu ra trong suốt cả truyền thống đan tu, ngay từ những buổi đầu, không những cho các linh mục, mà còn cho mỗi đan sĩ. Trong sa mạc Ai Cập, viện phụ Arsen có thói quen tự hỏi mình: “Tại sao ngươi đến đây?” Còn thánh Bênađô, như ta biết, ngài thường nhắc nhớ mình bằng câu hỏi: “Bênađô, ngươi đến đây làm gì?”
Có lẽ ta cũng nên tự đặt cho mình câu hỏi ấy. Ta vào đời đan tu để tìm cái gì? Tại sao ta tới đây? Điều gì đã khiến ta hăng say dấn bước? Và hiện nay thế nào?
Có hai nguy cơ rình rập đan sĩ. Nguy cơ thứ nhất là tự cho phép mình làm đủ mọi chuyện mà mình cho là không quan trọng. Nguy cơ thứ hai là nghĩ mình đã hoàn hảo, tưởng tượng như mọi sự đều tốt đẹp. Giải pháp giúp đan sĩ tránh được hai nguy cơ này chính là lời viện phụ Pambô: “Tôi đi về với Chúa mà như thể tôi vẫn chưa bắt đầu phụng sự ngài” (Cách ngôn viên phụ Pambo, 8).
C – Ngày 14.12
Nài xin, kiên trì, chấp nhận. Ba cụm từ này tóm gọn tiến trình ơn gọi của những ai xin gia nhập đan viện. Nhưng không nên nghĩ khấn trọng thể rồi là xong. Thực ra, suốt cuộc đời ta vẫn phải trải qua ba giai đoạn thánh Biển Đức đặc biệt đề cao trong chương 60 này.
Thỉnh cầu, gõ cửa đan viện, là kết quả cụ thể của một ước mong, một đợi chờ. Nếu ta thỉnh cầu, nếu ta mong ước, chính là vì ta được thúc đẩy từ trong thâm tâm. Chứ ta không tự ý mình làm điều đó. Đúng là ta đến gõ cửa đan viện, nhưng ta không phải là nguồn gốc của ước muốn đã khiến ta làm như vậy.
Vì thế, giai đoạn hai trong tiến trình này, như thánh Biển Đức dự kiến, là kiểm chứng nguồn gốc phát sinh ước muốn kia. Kiểm chứng này được thực hiện căn cứ theo sự kiên trì. Thực vậy, khi mọi lý do sai lầm bị phát hiện, mọi nguyên do đạo đức tàn lụi đi, mà ước muốn vẫn còn, thì ước muốn ấy không do từ nơi ta, nhưng đến từ nơi khác.
Khi ấy sẽ là gian đoạn thứ ba: chấp nhận cho ước muốn ấy đưa ta đến nơi mà có lẽ ta đã không chọn để đi tới. Bằng lòng để được gọi, hầu như ngoài ý mình. Thiên Chúa thử thách ta bằng một ước muốn lớn lao hơn ta, và kêu mời ta từ bỏ những gì có thể cản trở tiếng gọi của ngài. Ta phải học cho biết ước muốn điều ngài ước muốn.
Chương 61
ĐÓN TIẾP ĐAN SĨ KHÁCH NHƯ THẾ NÀO?
Ngày 15.4 – 15.8 -15.12
1 Khi có đan sĩ lạ từ xa đến, nếu họ muốn trú ngụ tại đan viện 2 và bằng lòng sống theo tập tục ở đó, không yêu sách kiêu kỳ làm rối đan viện, 3 nhưng đơn sơ gặp sao ưng vậy, thì hãy tiếp nhận họ vào ở bao lâu tùy ý. 4 Nếu vì bác ái khiêm nhường, họ có phê bình hay chỉ bảo điều gì hợp lý, viện phụ hãy khôn ngoan cứu xét, biết đâu vì lý do đó mà Chúa sai họ đến. 5 Nếu về sau, họ muốn xin vĩnh cư thì đừng từ chối vì trong thời gian cư trú ta đã thẩm định được hạnh kiểm họ thế nào.
Chú giải:
A – Ngày 15.4
Nếu tỏ ra sẵn sàng đón nhận một đan sĩ khách muốn tới sống trong đan viện, thánh Biển Đức cũng đòi một điều kiện, một điều kiện duy nhất thôi, để coi họ có thể ở lại và bền đỗ được không. Ngài nhắc lại hai lần, ở đầu câu 2 và câu 3: -nếu họ bằng lòng với cách sống ở đó; -và nếu họ hài lòng cách đơn sơ.
Điều kiện duy nhất và cơ bản để một đan sĩ từ nơi khác đến có thể gia nhập cộng đoàn, đó là họ có được tâm trạng của người đan sĩ mà bậc thứ sáu đức khiêm nhường ở chương 7 nói tới: “bằng lòng”. Đây không phải chỉ là khả năng thích ứng, nhưng qua khả năng ấy, đây là trạng thái cốt yếu của tâm hồn.
Như vậy thánh Biển Đức nhấn mạnh tới việc bằng lòng với những gì hiện có, chứ không muốn thay đổi tất cả theo cách thức và sở thích riêng. Trạng thái này am hợp với một trạng thái nội tâm sâu xa hơn nhiều: để được đón nhận, phải biết đón nhận những gì không hợp sở thích mình.
Khi cảm thấy không được đón nhận, có cảm tưởng bị loại bỏ và không được yêu thương, ta có khuynh hướng khép kín nơi mình và buộc tội người khác. Hẳn không vô ích nếu tự hỏi phải chăng khi ta cảm thấy như bị từ chối thì điều đó lại không phản ánh tâm trạng không biết đón nhận nơi ta.
B – Ngày 15.8
Với thánh Biển Đức, tiêu chuẩn để biết “đan sĩ từ nơi xa đến” có ở được với ta không đó là họ “bằng lòng sống theo tập tục” của ta, “đơn sơ gặp sao ưng vậy”. Chắc hẳn vì thế mà thánh Biển Đức nhắc lại điều ấy tới hai lần, ở câu 2 và 3.
Với từ “bằng lòng”, thánh Biển Đức đưa ta trở lại chương 7 về đức khiêm nhường. Từ này được dùng ở bậc khiêm nhường thứ sáu, đó là “Đan sĩ bằng lòng với tất cả những gì hèn kém và tồi tệ nhất. Trong mọi công việc được giao, họ tự coi mình là một công nhân vụng về và bất lực”. Như ta thấy, ý nghĩa khuất ẩn của từ này còn sâu xa hơn là một sự hài lòng đơn thuần.
Với thánh Biển Đức, tâm trạng “bằng lòng” đòi phải vượt qua cái vỏ bên ngoài của sự việc và nỗi khắc khoải, không thỏa mãn kinh niên thúc đẩy ta chạy theo hết mọi thứ ảo tưởng. Chỉ có thể “bằng lòng” khi đã khám phá ra hay ít là cảm nhận được nơi nương tựa vững chắc như đá tảng sau sự thay đổi thất thường của những sự việc, những ước muốn, những mãn nguyện.
Để khám phá ra điều đó thì phải nắm vững được lòng mình. Nhưng việc này lại đòi ta phải chấp nhận bị hụt chân, phải bằng lòng không kiểm soát cuộc sống của mình nữa. Chỉ ai đã trải qua kinh nghiệm này mới ở lại được trong đan viện. Chỉ ai không dừng ở những dáng vẻ bên ngoài hay thay đổi mới ở lại được.
C – Ngày 15.12
“Với lòng bác ái khiêm nhường” (c.4). Theo thánh Biển Đức, không có cách nào khác để sửa chữa những gì chưa hoàn chỉnh trong cộng đoàn. Sự phê bình, dù chính đáng đi nữa, cũng thất bại và có nguy cơ bị phản bác nếu không phát xuất từ “lòng bác ái khiêm nhường”. Ta đều có thể có kinh nghiệm về điều ấy vào một lúc nào đó trong cuộc sống đan tu của mình.
Đôi khi, chỉ nói một lời đơn giản cách khiêm nhường và bác ái đã đủ để sửa chữa những lạm dụng mà bao nhiêu lời khiển trách cũng chẳng thay đổi gì được. Nhưng tại sao? Đâu là sức mạnh của “lòng bác ái khiêm nhường” mà ta thường coi như biểu hiệu của một tâm hồn yếu đuối?
Trong phần đầu của chương 61, thánh Biển Đức nêu lên đặc điểm cốt yếu của “lòng bác ái khiêm nhường”. Và lòng bác ái này không chỉ liên quan tới đan sĩ từ nơi khác đến. Đặc điểm thứ nhất là bằng lòng với những gì hiện có. Thánh Biển Đức nhắc lại tới hai lần, ở câu 2 và câu 3: “contentus” (bằng lòng), “simpliciter contentus” (đơn sơ bằng lòng). Nhiều hay ít, tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi tính hay oán hận, hay chỉ trích. Và một trong những dấu hiệu cho thấy có tiến bộ thiêng liêng đó là khi những tiếng cằn nhằn kêu trách trong lòng ta dịu lại, khi ta giữ được thinh lặng trong nội tâm. Dù điều đó không biểu lộ ra bên ngoài, nhưng người khác vẫn cảm nhận được.
Đặc điểm thứ hai của “lòng bác ái khiêm nhường” được thánh Biển Đức gọi là “hợp lý” (c.4). Quả thực, thường khi những lời phê bình dù chính đáng đi nữa đã chẳng mang lại kết quả chỉ vì quá gay gắt. Người ta có cảm tưởng như người phê bình mất tự chủ và bình an. Và tức khắc người ta tự hỏi: “anh ta muốn nói gì?” Rõ ràng anh ta thiếu cái “hợp lý” hay cái “lý trí lành mạnh”, thiếu sức khỏe tinh thần giúp anh ta nhìn sự việc xẩy ra cách sáng suốt. Khi ấy có đáp lại lời phê bình của anh ta cũng chỉ đưa tới bế tắc mà thôi.
Ngày 16.4 – 16.8 – 16.12
6 Nếu trong thời gian cư trú thấy họ hay yêu sách và xấu nết thì không được cho gia nhập đan viện 7 mà còn phải nhã nhặn mời họ đi, để kẻ khác khỏi lây nhiễm sự bất hạnh của họ. 8 Nhưng nếu thấy không đáng loại, thì chẳng những nên cho gia nhập đan viện nếu họ xin, 9 mà còn nên thuyết phục họ vĩnh cư để nêu gương cho kẻ khác. 10 Vì ở đâu ta cũng phụng sự một Chúa và chiến đấu cho một Vua. 11 Hơn nữa, nếu thấy xứng đáng, viện phụ có thể nâng họ lên chỗ cao hơn một tí. 12 Vả lại, không những đan sĩ mà cả các linh mục và các giáo sĩ đã nói trên đây, viện phụ có thể cất nhắc lên chỗ cao hơn lúc mới vào đan viện, nếu thấy họ xứng đáng. 13 Nhưng viện phụ nên thận trọng, đừng bao giờ nhận một đan sĩ của một đan viện quen biết vào ở nhà mình khi không có sự đồng ý hoặc thư giới thiệu của viện phụ của đan sĩ ấy. 14 Vì có lời chép: “Điều con không muốn kẻ khác làm cho con, thì con đừng làm cho họ”.
Chú giải:
A – Ngày 16.4
Thánh Biển Đức khởi sự viết chương 61 này từ một nhận xét rất đơn giản: nỗi bất hạnh của một người có thể làm hư hỏng mọi người, và sự thánh thiện của một người có thể giúp cả cộng đoàn thăng tiến. Sau đó ngài nêu lên một nguyên tắc căn bản của mọi thứ ơn gọi kitô: tiếng mời gọi cá nhân luôn luôn mang chiều kích Giáo Hội, chiều kích cộng đoàn.
Thánh Phaolô diễn tả ý tưởng này qua hình ảnh thân xác. Tất cả chúng ta đều là những chi thể của một thân xác. Nếu một chi thể bệnh, toàn thân cùng chịu khổ. Một chi thể được vinh dự, toàn thân cùng được vui. Điều áp dụng được cho Giáo Hội cũng có thể nói về Giáo Hội nhỏ là cộng đoàn đan tu: chúng ta là những chi thể của nhau và đan viện là một thân thể (c.6), như thánh Biển Đức kết luận.
Tuy nhiên, ta cần biết rằng trong mọi cuộc sống đan tu có những lúc ta không còn thấy được sự hài hòa giữa hai chiều kích (cá nhân và cộng đoàn) trên đây nữa, nhưng chúng lại làm nảy sinh nơi ta sự căng thẳng. Hai chiều kích ấy có thể trở nên nguồn phát sinh đau khổ cho ta.
Khi ấy ta rất có thể bị cám dỗ giải quyết căng thẳng hoặc bằng cách tìm đi nơi khác hoặc bằng cách nhẫn nhục chịu đựng. Thế nhưng, sự căng thẳng ấy có thể trở nên một hồng ân, một hồng ân lớn lao, nếu ta dám sống theo tiếng Chúa mời gọi: “Hãy đến theo Ta”.
B – Ngày 16.8
Với thánh Biển Đức, có thể có hai giải pháp. Hoặc “nhã nhặn mời họ đi để kẻ khác khỏi lây nhiễm sự bất hạnh của họ”, hoặc “thuyết phục họ ở lại để nêu gương cho kẻ khác”. Không có giải pháp trung gian, giữa cái tốt và cái xấu. Như thánh Bênađô nói, “ai không tiến là lùi”. Và có nguy cơ họ lôi kẻ khác ngã theo họ.
Sự thăng tiến thiêng liêng không phải là việc riêng tư của mỗi người, chỉ liên quan tới người ấy thôi. Với thánh Biển Đức, ngoài trách nhiệm về cuộc đời mình, khi vào đan viện ta còn có một phần trách nhiệm về anh em mình nữa. Và với tiềm lực nội tâm, anh em nhỏ nhất trong ta có thể lôi kéo cả cộng đoàn.
Không phải tự nhiên mà ý thức được trách nhiệm này đối với người khác. Quả thật, ta thường có cảm tưởng rằng thế gian hay cộng đoàn vẫn rất tốt đẹp mà chẳng cần đến ta, và ta sống thế nào, tốt hay xấu, chẳng ảnh hưởng gì tới những người chung quanh. Thế nhưng, ở một tầm mức sâu xa hơn, con mắt không nhìn thấy, mà tâm hồn mới cảm nhận được, có một sự hiệp thông liên kết ta với anh em, với Giáo Hội, với thế giới, dẫu rằng ta không nhận ra.
Ý thức về điều đó đã biến đổi tâm hồn các thánh. Vì cuộc chiến của ta không phải là một cuộc chiến riêng rẽ, nhưng được hội nhập vào cuộc chiến lớn được mô tả trong sách Khải Huyền. Một cuộc chiến huy động toàn thể lực lượng trên trời dưới đất. Trong cuộc chiến vũ trụ này có phần tham chiến của ta, một phần tham chiến có thể thay đổi dòng lịch sử thế giới, cuộc sống cộng đoàn cũng như cuộc đời ta. Như thế, ta đi vào một thế giới bao gồm nhiều chiều kích trong đó mỗi người phải giữ vai trò của mình.
C – Ngày 16.12
Trong chương nói về các đan sĩ khách, thánh Biển Đức nêu lên một thực tế thiêng liêng mà ta ít để ý tới, và không chỉ có ý nghĩa đối với đan sĩ khách. Có thể tóm lược như sau: “Cách sống phóng túng của một đan sĩ có nguy cơ làm hư hỏng những đan sĩ khác, và ngược lại, cách sống chính trực của một người có thể xây dựng cho những người khác”. Điều này đúng đối với đan sĩ khách muốn xin gia nhập cộng đoàn, nhưng cũng đúng đối với mỗi người chúng ta. Như vậy, mỗi người đều mang một trách nhiệm lớn đối với chính mình, nhưng cũng còn phải chịu trách nhiệm về ảnh hưởng tốt hay xấu mình gây ra cho cộng đoàn, dù mình ở vị trí nào đi nữa.
Vấn đề là nếu ta thường rất sáng suốt về cách sống của người khác thì lại chẳng thấy rõ mình sống ra sao, và luôn luôn sẵn sàng chữa mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không khoan nhượng với những kẻ giả hình chỉ nói mà không làm, họ giống như những nấm mộ tô vôi và lôi cuốn những người bé nhỏ sa ngã theo họ. Nhưng nếu có thể có những kẻ khuyến khích người ta làm điều xấu để che đậy nỗi bất hạnh của mình và để tự bào chữa , thì cũng có những người lôi cuốn cộng đoàn vươn lên.
Trong cộng đoàn chúng ta, sự thánh thiện vẫn đang triển nở. Có những anh em đang cho thấy điều đó bằng cuộc sống của họ cách hùng hồn hơn những lời giáo huấn, những bài giảng ta thường được nghe. Những anh em ấy là những người cha thiêng liêng đích thực trong cộng đoàn, vì họ làm nảy sinh trong lòng anh em sự ham thích tìm Chúa, sự dịu ngọt của Thánh Thần.
Đúng là mọi cộng đoàn đều có nguy cơ suy thoái, nhưng cũng đúng là nơi anh em ta mỗi ngày Thiên Chúa vẫn ban cho ta chứng tá về cuộc sống được Thần Khí biến đổi. Có lẽ một số trong chúng ta chỉ nhìn thấy điều xấu và than phiền: “Hỏng hết cả, thật là khủng khiếp, chẳng ai làm điều thiện!”, trong khi một số khác lại nhận ra được Thiên Chúa đang hiện diện giữa cộng đoàn.
Chương 62
CÁC LINH MỤC CỦA ĐAN VIỆN
Ngày 17.4 – 17.8 – 17.12
1 Nếu viện phụ muốn xin phong chức linh mục hay phó tế cho đan viện mình, ngài cứ chọn trong anh em người nào xứng đáng thi hành chức vụ ấy. 2 Còn người được tiến chức, phải giữ mình cho khỏi tự phụ kiêu căng 3 và không tự tiện làm gì ngoài điều viện phụ bảo, vì biết rằng mình phải tuân giữ kỷ luật cặn kẽ hơn. 4 Ngài đừng ỷ chức linh mục mà quên vâng giữ luật lệ và kỷ cương, nhưng càng phải tiến hơn lên trong Chúa. 5 Ngài cứ giữ thứ vị ngày gia nhập đan viện, 6 trừ khi phục vụ bàn thờ hoặc được cộng đoàn chọn và viện phụ muốn nhắc lên cao hơn, vì thấy ngài nhiều công lao đức hạnh. 7 Tuy nhiên, ngài nên nhớ mình phải giữ quy luật đã ấn định cho các trưởng nhóm và các vị phụ trách.
8 Nếu hành động cách khác, ngài sẽ bị coi như kẻ phiến loạn chứ không phải linh mục nữa. 9 Nếu được cảnh cáo nhiều lần mà không hối cải, thì xin Đức Giám Mục xác nhận cho. 10 Nếu đến thế vẫn không hối cải, tội lỗi đã hiển nhiên, 11 mà còn cố chấp không muốn phục tùng, không vâng theo tu luật thì hãy loại ra khỏi đan viện.
Chú giải:
A – Ngày 17.4
Điều thánh Biển Đức sợ đó là phục vụ lại trở thành đặc ân. Ngài sợ cho viện phụ, quản lý và mọi chức vụ trong đan viện; nhưng ngài cũng sợ cho các linh mục nữa. Vì thế ngài đã viết lên chương 62 này.
Quả thực, ai trong chúng ta, một lúc nào đó, lại không bị cám dỗ lợi dụng chức vụ để tự cho mình quyền nọ quyền kia, đặc ân này đặc ân khác? Ai lại đã không bị cám dỗ đòi hỏi quyền lợi, đòi được kính trọng, nể vì, hay thu tích của cải gây thiệt hại cho lợi ích chung?
Lúc đầu, một đòi hỏi nào đó có thể coi như chính đáng, nhưng sẽ mau chóng vượt quá giới hạn. Rốt cuộc, ta sẽ lẫn lộn nhiệm vụ với thứ bậc, bổn phận với công việc phục vụ phải chu toàn. Dần dần ta sẽ để mình bị cuốn hút theo khuynh hướng tự cao, ta sẽ nhìn người khác với con mắt kẻ cả. Nguy cơ là thế!
Thánh Biển Đức không khinh thường chức linh mục và người đã lãnh nhận chức thánh này, nhưng ngài nhắc nhở ta rằng lãnh nhận chức linh mục là để phục vụ. Là hình ảnh của đấng đã không đòi phải được coi ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng trái lại đã tự hạ, thừa tác viên Chúa Kitô cũng phải ứng xử như vậy, phải trở nên người tôi tớ.
Trong đan viện không có người lớn kẻ nhỏ, không có chủ và tớ, không có người thông thái kẻ thất học. Không, trong đan viện chỉ có những người anh em, kẻ cao niên người trẻ tuổi. Và có viện phụ đại diện Chúa Kitô Tôi Tớ. Đó là những tước hiệu vinh quang mà ta có thể đòi hỏi cho mình. Ngoài ra tất cả chỉ là kiêu căng, là hư ảo!
B – Ngày 17.8
Trong cộng đoàn, người nào được biệt cách thì luôn luôn bị cám dỗ bởi “tự phụ kiêu căng” (c.2). Ở đâu cũng vậy, dù đối với chức linh mục hay với một chức vụ nào khác. Chuyện này chẳng có gì là mới cả. Trong Thánh Kinh ta thấy Israel không ngừng kiêu hãnh vì được tuyển chọn.
Tuy nhiên, trong Phúc Âm nhiều lần Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rằng được chọn, được gọi chẳng mang lại cho ta đặc quyền nào khác ngoài đặc quyền ở chỗ rốt hết, đặc quyền của kẻ phục vụ. Ta vẫn không thể quên lời Chúa Giêsu nhắn nhủ: “Thủ lãnh các dân thì…, phần các con thì không phải thế”. Và chính ngài đã thực hiện lời nhắn nhủ đó khi trong bữa tiệc ly ngài rửa chân cho các môn đệ của mình.
Nếu cộng đoàn đan viện được xây dựng trên tinh thần Phúc Âm, thì đấy là cách ta phải sống. Ơn gọi của ta là ơn gọi làm tôi tớ. Ta có thể dịch câu “Hãy coi họ thương mến nhau chừng nào!” thành câu “Hãy coi họ phục vụ nhau tận tình biết mấy!”.
Ai quên điều đó thì sớm hay muộn cũng sẽ có thể chống đối tu luật và ngay cả cuộc sống đan tu, như thánh Biển Đức kết luận ở câu 11. Khi ấy dù linh mục hay không họ sẽ chẳng còn được ở lại trong cộng đoàn nữa.
C – Ngày 17.12
Trong chương này, thánh Biển Đức nói về linh mục trong đan viện theo hai phương diện khác nhau. Phương diện thứ nhất liên quan tới những nguy cơ của chức linh mục, trong khi phương diện thứ hai nhắm tới tiếng gọi mà những nguy cơ ấy có thể gợi lên trong tâm hồn đương sự.
Những nguy cơ nói đây ta dễ dàng nhận ra, đó là hư danh và kiêu ngạo (c.2), qua những việc như tự cho mình có quyền làm những điều mà viện phụ không bảo (c.3), nại cớ là linh mục để quên giữ tu luật (c.4) và tự nâng mình lên cao hơn vị trí của mình (c.5). Những chuyện đó có thể tóm gọm bằng đề tựa một bài ngụ ngôn của La Fontaine: “Con ếch muốn làm lớn như con bò”.
Để chống lại những nguy cơ ấy, thì có ân sủng được ban kèm theo với sự kiện được gọi lên chức linh mục, và thánh Biển Đức tóm gọn trong một câu khác nào như một viện ngọc quí, ở giữa chương, và cuối câu 4: “ngài càng phải tiến hơn lên trong Chúa”. Ân sủng này làm nên đối trọng với thói hư danh và tính kiêu ngạo, là những nết xấu khiến ta bất tuân, chống đối và thờ ngẫu tượng.
Đó là ý nghĩa sâu xa của chức linh mục đan tu. Không đưa mình lên, không tìm chỗ nhất, không tự miễn chước bất cứ điều luật nào. Đàng khác, lời nguyện truyền chức bao hàm một lần nữa những lời khấn thanh khiết và vâng phục. Nhưng vấn đề là “phải tiến hơn lên trong Chúa”, trao ban sự sống, trở nên người cha theo ý nghĩa sâu xa của từ này, bằng cách chính mình đi vào con đường sự sống, không phải bằng những những bài diễn thuyết hùng hồn, những bài giảng hay, nhưng bằng sự rao giảng hay nhất có thể: là chính cuộc đời của mình.
Đối với mỗi người chúng ta, nhất là đối với mỗi linh mục, chương này có thể là cơ hội giúp ta đọc lại cuộc sống của mình, nhìn lại cách chân thành và sáng suốt điều ta đang thực sự tìm kiếm. Ta có thuộc số những người chỉ ước ao “tiến hơn lên trong Chúa” không? Hay thuộc số những người đòi hỏi quyền lợi, tìm kiếm lý do để đi đường tắt?
Chương 63
THỨ VỊ TRONG ĐAN VIỆN
Ngày 18.4 – 18.8 – 18.12
1 Trong đan viện, mọi người hãy giữ thứ vị của mình, được quy định theo ngày vào dòng hoặc theo công đức hay theo viện phụ ấn định. 2 Tuy nhiên, viện phụ đừng gây xáo trộn trong đoàn chiên đã được ủy thác cho mình và chớ tự tiện định đoạt điều gì bất công. 3 Ngài hãy luôn tâm niệm mình sẽ phải tường trình với Chúa về mọi phán đoán và hành vi của mình.
4 Vậy anh em hãy cứ theo thứ vị viện phụ đã ấn định, hoặc đã nhận được lúc vào dòng mà lên lãnh bình an, rước lễ, xướng Thánh Vịnh và đứng trong ca toà. 5 Bất luận ở đâu cũng đừng theo tuổi mà quy định thứ vị 6 vì Samuel và Đaniel tuy còn là thiếu niên mà đã xét xử cả những bậc lão thành.
7 Bởi thế, ngoại trừ những ai được viện phụ nhắc lên vì lý do chính đáng hay có đủ lẽ hạ xuống như đã nói trên, còn mọi người khác hãy giữ chỗ mình theo thời gian nhập dòng. 8 Ví dụ người tới đan viện vào giờ thứ hai, dù tuổi tác hay danh phận thế nào, cũng phải tự coi là đàn em của người đến vào giờ thứ nhất. 9 Tuy nhiên, đối với trẻ em, trong bất cứ việc gì, mỗi người hãy lo cho chúng tuân giữ kỷ luật.
Chú giải:
A – Ngày 18.4
Không phải tuổi tác hay địa vị ấn định thứ tự trong cộng đoàn, nhưng là thời điểm gia nhập đan viện. Viện phụ phải cẩn thận đừng thay đổi qui luật này mà không có lý do. Vì điều xây dựng nên cộng đoàn đan tu, trước hết đó là tiếng gọi của Thiên Chúa, tiếng gọi riêng tư Thiên Chúa gửi đến mỗi người vào một lúc rõ rệt trong cuộc đời. Nhưng cũng là lời đáp lại của con người, vì được gọi thôi thì chưa đủ, còn phải hướng chiều theo ân sủng Thiên Chúa ban cho ta nữa.
Như vậy, thứ tự trong cộng đoàn là kết quả của sự phối hợp giữa ân sủng Thiên Chúa, đấng kêu gọi và tự do của con người, kẻ đáp lại. Ta có thể thắc mắc cách chính đáng rằng có khi việc đáp trả không ngang tầm với tiếng gọi. Trong trường hợp này thì cho lùi xuống thứ vị thấp hơn có lẽ là điều hợp lý. Vả lại thánh Biển Đức đã tiên liệu việc một anh em bị hạ thứ vị vì những lý do chính đáng (c. 7). Nhưng đó chỉ là ngoại lệ.
Khi nhấn mạnh tới thứ vị trong cộng đoàn, thánh Biển Đức muốn ta hiểu sức mạnh phi thường của lời kêu gọi không thể thu hồi mà Thiên Chúa gửi đến ta. Dù ta đáp lại như thế nào, Thiên Chúa vẫn yêu thương ta. Ngài không bao giờ bỏ ta. Một ngày nào đó, đôi khi mãi tới cuối đời, ta sẽ chịu quyết tâm đi theo ngài. Chúa nhẫn nại, như chỉ có tình yêu là biết nhẫn nại, bởi vì ngài đã chia sẻ thân phận yếu hèn của ta, cho tới tận cùng.
B – Ngày 18.8
Có nhiều cách xếp đặt thứ vị. Những tiêu chuẩn để xếp đặt có thể là tuổi tác, sức lực, trí thông minh, sự giầu có, sắc đẹp, năng lực, sức lôi cuốn v.v. Thứ vị mỗi người trong xã hội, trong công việc sẽ tùy thuộc sự phối hợp các tiêu chuẩn này. Đó là những tiêu chuẩn được sử dụng trong mọi xã hội con người, nhưng có thể thay đổi tùy theo thời đại, cách thế, nhận thức.
Tuy nhiên, thánh Biển Đức không căn cứ theo những tiêu chuẩn ấy, ngài coi chúng chỉ có vai trò hoàn toàn phụ thuộc. Nhưng ngài muốn thứ vị được ấn định theo ngày vào đan viện hay theo sự xếp đặt của viện phụ. Ta có thể ngạc nhiên về điều đó, vì qua kinh nghiệm ta biết rằng không phải vào đan viện lâu hơn mà thánh hơn. Tại sao thánh Biển Đức theo những tiêu chuẩn ấy?
Những tiêu chuẩn nêu ra ở trên kia, những tiêu chuẩn xác định vị trí trong xã hội, tất cả đều có cùng một khuyết điềm, đó là chúng không bền. Có nghĩa là không vị trí nào dựa theo những tiêu chuẩn ấy mà được bảo đảm, bởi vậy phải phấn đấu để duy trì nó. Khi ấy con người sẽ chỉ lo tìm kiếm và duy trì vị trí của mình. Với thánh Biển Đức, những chuyện như thế chỉ là uổng phí sức lực, vì ngài nghĩ rằng đan sĩ còn nhiều việc quan trọng hơn phải làm, nên ngài chọn một tiêu chuẩn không thể thay đổi được nữa.
Thực vậy, để đan sĩ có thể tập trung sức lực vào điều cốt yếu, thánh Biển Đức đã tránh cho họ khỏi lâm vào cuộc chiến kiếm tìm và duy trì địa vị, một cuộc chiến gây tổn thất biết bao nghị lực nơi người đương thời. Nhưng ngài không làm thế để khiến ta sống ươn ái trong một cuộc sống tầm thường. Trái lại, khi làm thế, ngài muốn ta được tự do mà dồn tất cả nghị lực vào cuộc chiến thiêng liêng.
C – Ngày 18.12
Một trong những ân huệ lớn của đời đan tu là ta không cần phải đi tìm một chỗ đứng cho mình, và không cần phải chiến đấu để bảo vệ nó. Ta chẳng cần chứng mình gì với ai cả. Nguyên việc gia nhập đan viện đã cho ta được ở giữa cộng đoàn rồi. Và dầu có chuyện gì xẩy ra thì đó vẫn là chỗ của ta cho tới chết.
Quả thực, chính ngày ta vào đan viện, ngày ta ngỏ lời xin và được chấp nhận, chính ngày đó sẽ vĩnh viễn ấn định chỗ của ta, thứ vị của ta giữa anh em. Dù công trạng và khả năng ra sao, dù có nhận chức vụ gì, ta sẽ lại trở về chỗ của mình sau khi kết thúc nhiêm vụ.
Ở một thời đại mà người ta phải không ngừng phấn đấu để chiếm được một vị trí và duy trì nó, điều ấy có thể khiến ta ngạc nhiên. Nhưng thánh Biển Đức không muốn đan sĩ phải hao tốn sức lực vì chuyện đó. Khi dành cả một chương để nói về thứ vị trong cộng đoàn, hẳn thánh nhân muốn nhắn nhủ ta một điều gì.
Thực vậy, nếu ngài giải tỏa cho ta khỏi nỗi bận tâm kiếm tìm địa vị, chính là để ta hướng sức lực tới một mục đích khác cốt yếu hơn. Chẳng có gì phải chứng minh, phải bảo vệ nên ta có thể dốc toàn lực để chuyên lo phục vụ và sốt sắng nguyện cầu. Khi ấn định vị trí của ta một lần dứt khoát cho cả cuộc đời, thánh Biển Đức giúp ta được hoàn toàn tự do để sống lý tưởng đan tu mà ta đã chọn lựa. Lợi dụng được tự do ấy hay không là tùy ở ta.
Ngày 19.4 – 19.8 – 19.12
10 Vậy đàn em hãy kính trọng đàn anh, đàn anh hãy yêu thương đàn em. 11 Về việc xưng hô, không ai được phép gọi suông tên người khác. 12 Nhưng đàn anh hãy gọi người dưới là “em”, còn đàn em phải xưng đàn anh là “cha”, để tỏ lòng kính trọng họ như cha.
13 Vì tin viện phụ là đại diện Chúa Kitô, nên ta gọi ngài là cha viện phụ, không phải vì ngài tự gán cho mình danh hiệu đó, nhưng vì ta tôn kính và yêu mến Chúa Kitô. 14 Còn riêng ngài, ngài hãy ý thức điều đó và sống sao cho xứng đáng với danh dự ấy.
15 Anh em gặp nhau bất cứ ở đâu, đàn em phải xin đàn anh chúc lành cho. 16 Khi đàn anh đi qua, đàn em hãy đứng lên nhường chỗ cho đàn anh ngồi, và đừng tự tiện ngồi khi đàn anh chưa bảo ngồi, 17 hầu giữ đúng như lời đã chép: “Anh em hãy ân cần tôn kính lẫn nhau”.
18 Trẻ em và thanh niên hãy giữ thứ vị của mình ở nhà nguyện cũng như ở nhà cơm. 19 Còn ở ngoài những nơi ấy và bất cứ ở đâu, phải trông coi sửa dạy chúng cho tới khi đến tuổi khôn.
Chú giải:
A – Ngày 19.4
Với thánh Biển Đức, danh xưng là một ơn gọi. Vì thế viện phụ phải “tỏ ra xứng đáng với danh xưng của mình” (c.14). Nhưng với mỗi thành viên trong cộng đoàn cũng thế. Danh xưng “anh” hoặc “cha” của mỗi người chúng ta tự nó đã là một chương trình sống, là sự nhắc nhở về ơn gọi đã được ban cho ta.
Quả thực, ta được gọi để trở nên anh em của anh em ta, của mỗi người trong các anh em ta. Nếu suy nghĩ một chút ta sẽ thấy điều đó có nhiều hệ quả. Trước hết, để trở nên anh em, phải trở nên con cái đã. Mỗi ngày, và nhiều lần trong ngày ta đọc kinh Lạy Cha. Trở nên anh em tức là cuộc sống ta phải bắt nguồn từ ơn làm nghĩa tử Thiên Chúa.
Điều ấy có nghĩa là ta liên kết với nhau trong tương quan huynh đệ không do thiện cảm hay sở thích, nhưng vì ta thuộc về Thiên Chúa là Cha chúng ta. Trở nên anh em của anh em ta là dấu hiệu đích thực về cuộc sống nội tâm của ta: càng là con của Cha ta sẽ càng là anh em với nhau. Tình huynh đệ đan tu là tình huynh đệ phát xuất từ trên, chứ không phải từ dưới.
Sau ơn gọi làm anh em, thánh Biển Đức nói tới ơn gọi làm “cha”. Đối với ngài, đan sĩ nào cũng đều là bậc cao niên của một hay nhiều anh em khác, những người đến sau họ. Ơn gọi làm cha không tùy thuộc một đặc sủng nào, nhưng có tính thiết định của ơn gọi đan tu, là truyền ban sự sống qua các thế hệ nối tiếp nhau. Tất cả chúng ta đều là những mắt xích thiết yếu và sống động trong tiến trình truyền ban sự sống ấy. Tất cả chúng ta đều tham gia vào trách nhiệm lớn lao là chuyển giao, trong những chiếc bình bằng đất, kho tàng đã nhận được từ Thiên Chúa. Ta phải sống thế nào hai ơn gọi làm “anh em” và làm “cha”? Ta phải sống thế nào trách nhiệm này?
B – Ngày 19.8
Cách xưng hô tiến hóa theo thời, ý nghĩa của chúng cũng thay đổi do ảnh hưởng của não trạng hay khái niệm của thời đại. Nhưng điều đó không hề thay đổi thực tại sâu xa mà thánh Biển Đức muốn diễn tả. Thực tại này có thể tóm lại trong ba ý tưởng cơ bản nói lên những mối tương quan trong đan viện.
Ý tưởng thứ nhất, đó là ý tưởng về tình huynh đệ. Khi vào đan viện, vào cộng đoàn, ta được mời gọi trở nên anh em của những người anh em. Ta được mời gọi làm anh em của nhau. Không phải bạn hữu hay bạn bè, nhưng là anh em.
Ý tưởng thứ hai, đó là ý tưởng về việc sinh hạ. Ta sinh vào đời đan tu nhờ được các vị đi trước cưu mang. Đến lượt mình, ta phải cưu mang những anh em đến sau ta để họ sinh ra và lớn lên trong đức tin.
Sau cùng, ý thưởng thứ ba là ý tưởng về vị trí của viện phụ, người “giữ vị trí Chúa Kitô” trong cộng đoàn. Điều này mang hai ý nghĩa. Trước hết, đó là Chúa Kitô ở trung tâm cộng đoàn, viện phụ chỉ “đại diện” cho ngài. Sau là cuộc đời ta được xây dựng trên Thập Giá, nghĩa là ta có mặt nơi đây vì phần rỗi thế gian.
C – Ngày 19.12
Nếu đọc lướt qua, có lễ đoạn luật chỉ như là bản hướng dẫn những cách ứng xử trong đời sống đan tu. Đọc lướt qua sẽ không thấy được điều thánh Biển Đức muốn, vì ta mới chỉ đọc theo mặt chữ thôi. Điều thánh Biển Đức muốn nói ở đây còn sâu xa hơn mặt chữ nhiều.
Thực vậy, đâu là những khuynh hướng tự nhiên, những khuynh hương thế tục mà ta dễ dàng chiều theo? Có thể thể tóm lại trong hai điểm. Thứ nhất là ta chỉ tôn trọng và yêu quí một số người, một nhóm nhỏ được ta chọn lựa; thứ hai là cho những người khác cảm thấy họ không thuộc về phe ta. Theo ngôn từ của Phúc Âm, ta có thể nói đối với thánh Biển Đức thì “giữa chúng ta không được như vậy”.
Cộng đoàn đan viện không xây dựng trên nguyên tắc loại trừ hay kén chọn hoặc khinh thị ai. Nhưng xây dựng trên việc triệt để xét lại cách ta phán đoán và ứng xử. Phải kính trọng người cao niên không phải vì họ đáng kính trọng, nhưng vì ơn gọi Thiên Chúa ban đã làm họ đáng kính trọng, bởi lẽ Thiên Chúa đã đặt tay trên họ. Cũng thế, phải yêu thương người trẻ không phải vì họ vừa ý ta, nhưng vì Thiên Chúa đã đánh động con tim họ và vì họ cố gắng đi theo tiếng Chúa gọi từ trong tâm hồn.
Không phải cứ chỉ trích và phê phán người khác mà làm cho họ tốt hơn lên được, nhưng chỉ được vậy bằng cách yêu thương và tôn trọng họ. Đôi khi có những cách ăn ở cần phải cương quyết sửa chữa, nhưng sẽ chẳng sửa được gì nếu không yêu thương. Chỉ ai thấy mình được yêu thương mới có thể vượt qua những giới hạn các mình, vì trước mỗi người anh em, thách đố lớn ta cần dẹp bỏ có thể tóm gọn như sau: Nếu là Chúa Giêsu, ngài sẽ tiếp xúc với anh ấy, nhìn anh ấy, nghe anh ấy như thế nào?
Chương 64
VỀ VIỆC BẦU VIỆN PHỤ
Ngày 20.4 – 20.8 – 20.12
1 Trong việc bầu viện phụ, bao giờ cũng theo quy tắc này là phải đặt lên người nào đã được cả cộng đoàn nhất trí tuyển chọn vì lòng kính sợ Chúa, hoặc do một thiểu số dù rất nhỏ trong cộng đoàn, nhưng có phán đoán lành mạnh hơn. 2 Phải chọn người có đời sống đạo đức và giáo lý khôn ngoan, dù là người ở thứ vị rốt hết trong cộng đoàn.
3 Nếu cả cộng đoàn cùng toa rập để chọn người đồng lõa với tính mê nết xấu của mình – mong đừng thế – 4 và nết xấu ấy đến tai Đức Giám Mục giáo phận, các viện phụ hay giáo hữu chung quanh bằng bất luận cách nào, 5 thì các ngài hãy liệu ngăn cản để mưu ác không thành, và lo đặt người xứng đáng lên quản trị nhà Chúa, 6 vì hẳn các ngài biết rằng sẽ được trọng thưởng, nếu các ngài làm việc ấy cách trong sáng và nhiệt thành vì Chúa; trái lại sẽ mắc tội, nếu các ngài không quan tâm.
Chú giải:
A – Ngày 20.4
Trong một cuộc bầu cử, thời điểm tế nhị nhất đó là ngay trước khi bỏ phiếu. Vị chủ tọa phải giúp anh em vượt qua những lợi ích riêng tư, vượt qua thiên kiến, tình cảm để biết “kính sợ Chúa”. Phải giúp cộng đoàn thực hiện cuộc bầu cử theo tinh thần đức tin.
Điều đó đúng cho việc bầu viện phụ hay quyết định lập nhà mới, nhưng cũng phải áp dụng cho mọi thời điểm quan trọng của cộng đoàn, của cuộc đời mỗi người ta. Người ta vẫn luôn có thể tìm ra được những lý lẽ rất hay, rất nhân bản để bám lấy ý riêng, để mưu cầu tư lợi. Người ta có thể sống đời đan tu như thể thực hiện bất cứ nghề nghiệp nào. Nhưng có những thời điểm then chốt, thời điểm chủ yếu ta phải ra khỏi cách nghĩ đó để sống theo tinh thần đức tin.
Một trong những niềm vui lớn nhất của viện phụ là thấy cộng đoàn, thấy các đan sĩ của mình sống như thế. Và ngài cũng phải đau khổ lớn lao khi thấy anh em hay cộng đoàn co cụm lại trong ích kỷ, hay chỉ tìm theo ý riêng. Khi ấy, điều duy nhất ngài có thể làm là cầu nguyện để cho ơn Chúa thắng được sự từ chối của con người.
B – Ngày 20.8
Khi đọc những chương tu luật nói về viện phụ, có lẽ mọi viện phụ đều tự hỏi liệu làm bề trên có phải là chỗ của mình không, liệu mình có được sinh ra để lãnh nhiệm vụ này không. Nếu những năm đầu viện phụ mệt mỏi vì trách nhiệm rộng lớn, vì những tình huống phức tạp, thì với thời gian ngài sẽ cảm thấy một khó khăn khác. Không phải khó khăn đến từ cộng đoàn, từ tương quan với anh em hay từ những việc phải làm, nhưng từ chính bản thân ngài.
Thực vậy, dần dần ngài nhận ra rằng ngài không có khả năng ngang tầm với những gì phải thực hiện để mưu ích cho cộng đoàn. Mặc dầu mọi cố gắng, càng ngày ngài càng ý thức rõ hơn những giới hạn, những vụng về, nỗi bất lực của mình trước một số tình huống hay một số cá nhân. Ngài biết phải làm gì, nhưng lại không làm được.
Và thường thì ngài ý thức được điều đó không phải chỉ do những lời trách cứ và phê bình, nhưng nhất là do lòng khiêm tốn của anh em. Vì nếu viện phụ có sứ mệnh hướng dẫn cộng đoàn đi tìm Chúa, thì khi bầu chọn viện phụ cộng đoàn lãnh sứ mệnh đào tạo ngài, dậy ngài biết để cho Thánh Thần hướng dẫn.
Mỗi khi gặp gỡ anh em, viện phụ nhận được rất nhiều từ những lúc tiếp xúc ngắn ngủi ấy. Họ dậy cho ngài biết được Thiên Chúa hoạt động ra sao trong cuộc đời họ, và như thế họ giúp ngài nhận ra bàn tay Chúa nơi cộng đoàn và nơi cuộc sống riêng của ngài.
C – Ngày 20.12
Khi đọc Phúc Âm, một điều làm ta rất ngạc nhiên, đó là trong khi các môn đệ Chúa Giêsu không ngừng tranh cãi nhau, chỉ trích nhau để mong được chiếm chỗ nhất, thì trái lại những người pharisêu, những người sađốc và những người thuộc phái Hêrôđê hiệp nhất với nhau để chống đối ngài. Dường như hiệp nhất để chống đối thì dễ hơn hiệp nhất để ủng hộ, hiệp nhất để làm điều xấu thì dễ hơn hiệp nhất để làm điều tốt.
Thánh Biển Đức cảnh giác ta về thứ hiệp nhất dựa trên thói xấu chứ không trên điều thiện. Thật kỳ lạ khi ta quá dễ dàng hiệp nhất để làm điều xấu, nhưng lại rất khó khi muốn làm điều thiện. Đối với viện phụ, có những lúc xem ra ngài bị cám dỗ khá nặng không dám khiển trách nết xấu nơi anh em, vì muốn được bình an và duy trì cái coi như là sự hiệp nhất trong cộng đoàn. Đấy là điều thánh Biển Đức nêu rõ trong đoạn luật này.
Quả thực, trước sự hùa theo nhau để làm điều xấu, không dễ mà dám khiển trách hay sửa chữa, khi làm như thế sẽ có thể gây xáo trộn và bất mãn. Đơn giản hơn, thoải mái hơn thì cứ ở yên trong cái bình an giả tạo bởi những đồng lõa và dối trá, cứ để mặc. Dầu sao thì rồi cũng xong!
Tuy nhiên, thánh Biển Đức mời gọi viện phụ hành xử cách khác. Đó là khơi dậy nơi mỗi người anh em những gì là chân, thiện, mỹ để nhờ thế mà cộng đoàn được xây dựng. Cách hành xử đó là cách làm của lòng nhân ái đích thực. Vì đã có thể nhận ra những bóng tối nơi ta, nơi mỗi người trong ta, nên lòng nhân ái này biết rằng ta còn có gì hơn bóng tối nữa, và giúp ta nhận thấy được trong con tim của người anh em phần ánh sáng chan hòa nơi đó. Lòng nhân ái đích thực không mù quáng, nhưng tin tưởng Thiên Chúa luôn luôn chiến thắng sự chết. Thánh Biển Đức cho rằng mối hiệp thông thực sự theo Phúc Âm được xây dựng trên điều tốt nhất nơi ta, trên nỗi khát khao Thiên Chúa tiềm ẩn trong ta, ở tận chỗ thâm sâu nhất của lòng ta.
Ngày 21.4 – 21.8 – 21.12
7 Người được đặt lên làm viện phụ, hãy luôn nhớ gánh nặng nào mình đã đón nhận và với Ðấng nào mình sẽ phải thưa lại về cách quản trị của mình. 8 Ngài nên biết phải phục vụ hơn là cai trị. 9 Vậy ngài phải thông thạo luật Chúa để biết nơi trích dẫn những điều mới điều cũ. Ngài phải thanh khiết, điều độ, khoan dung, 10 bao giờ cũng giầu tình thương hơn xét đoán nghiêm ngặt để chính ngài cũng được đối xử như thế. 11 Ngài phải ghét nết xấu và thương anh em. 12 Ngay cả khi quở trách, ngài cũng phải cư xử khôn ngoan, không gì thái quá, kẻo khi muốn cạo sạch rỉ sét lại làm vỡ bình. 13 Ngài chớ bao giờ quên phận mình dòn mỏng và nhớ đừng đạp giập cây sậy đã gẫy.
14 Nói thế, cha không có ý bảo ngài dung túng thói hư tật xấu nhưng phải bài trừ những tật xấu ấy trong tình bác ái khôn ngoan, sao cho phù hợp với từng người, như cha đã nói. 15 Ngài hãy cố gắng cư xử thế nào cho anh em yêu mến hơn là sợ hãi.
16 Đừng hiếu động cũng đừng lo lắng, đừng quá khích cũng đừng cố chấp, đừng ghen tương cũng đừng nghi ngờ quá độ; nếu không, ngài sẽ chẳng bao giờ được bình an thư thái. 17 Khi phải ra lệnh, ngài hãy suy trước tính sau cho thật chín chắn. Dậy bảo điều gì, bất luận đạo đời, ngài cũng nên cân nhắc thận trọng một vừa hai phải. 18 Nhớ gương cẩn trọng của thánh Giacóp khi người nói: “Nếu tôi thúc đàn chiên đi quá sức, chúng sẽ chết hết trong một ngày”. 19 Vậy, ngài hãy ghi nhận lời đó và nhiều chứng từ khác về sự cẩn trọng là mẹ các nhân đức, để biết điều hoà mọi sự sao cho người mạnh còn muốn làm thêm và kẻ yếu không lẩn trốn.
20 Nhất là trong mọi sự, ngài hãy giữ đúng tu luật này; 21 để khi đã phục vụ tốt, ngài sẽ nghe Chúa phán với mình như với người tôi tớ tốt lành đã cứ đúng giờ phân phát lúa gạo cho các bạn đồng nghiệp rằng: 22 “Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người ấy làm quản lý tất cả tài sản của ông”.
Chú giải:
A – Ngày 21.4
Trong đời mình, viện phụ nào cũng gặp một bước rất tế nhị, một bước rất khó vượt qua, như thánh Biển Đức mô tả ở phần hai chương 64 này. Thực vậy, khi khởi đầu nhiệm vụ, viện phụ nào cũng có đầy những giấc mơ rất lý thú, những dự phóng rất đẹp. Và với tất cả nghị lực, ngài xả thân thi hành bổn phận mà không hề tính toán.
Rồi đến ngày vỡ mộng. Ngài đụng phải những trì trệ, những thói quen, những nết xấu thâm niên cố đế. Ngài cứ tưởng mọi sự đều sẽ dễ dàng, đều thành công mau lẹ. Thế nhưng ngài đã kinh nghiệm được nỗi bất lực của mình. Ngài thấy mình đứng trước một thử thách rất lớn. Vì khi ấy ngài có thể bị cái vỡ mộng làm cho bi quan rồi chán nản. Mà thực ra thì cộng đoàn đã không đáp ứng được điều ngài mong đợi. Ngài cảm thấy mình là nạn nhân!
Nhưng có hẳn vậy không? Trong chương 64 này, thánh Biển Đức mời gọi viện phụ điều chỉnh quan niệm của mình. Viện phụ phải bỏ qua những dự án, những ý tưởng và giấc mơ của mình để yêu thương những người anh em Chúa đã giao phó cho ngài, yêu thương cái đoàn chiên đôi khi có tính thất thường khó dậy. Khi ấy ngài mới nhận ra rằng ngài được bầu lên để phục vụ.
Nhưng phục vụ cái gì? Không phải phục vụ những giấc mơ, những dự án, mà phục vụ lời hứa Thiên Chúa đã đặt để trong trái tim mỗi đan sĩ của mình. Vì mọi đan sĩ đều là những “vị thánh trong tiềm năng”. Viện phụ phải bước đi theo bước của họ, để họ khỏi chết hết trong một ngày. Ngài phải sửa dậy mà không được làm vỡ bình. Ngài phải biết nhìn bằng cặp mắt của người khác. Và để ngài biết được điều đó, thánh Biển Đức đề nghị một cách duy nhất, đó là ngài hãy nhớ đến sự dòn mỏng của mình. Vì chỉ khi biết chấp nhận chính mình, ngài mới có thể đón nhận và yêu thương anh em theo thực trạng của họ.
B – Ngày 21.8
Trong trình thuật về việc thánh Bênađô trở lại với chức vụ viện phụ, Guillaume de Saint Thierry đã nhắc lại những nét chính trong phần thứ hai này của chương 54. Và tác giả đã thêm vào một yếu tố rất quan trọng, đó là vai trò của anh em trong sự kiện ấy.
Với Guillaume de Saint Thierry, chính lòng khiêm tốn của anh em đã khiến thánh Bênađô trở lại chức vụ. Không phế bỏ viện phụ vì ngài quá đòi hỏi và quá nghiêm khắc với mình, các đan sĩ Clairvaux chấp nhận bị khiển trách. Từ đó, viện phụ đã bắt đầu có những nghi ngại về nhiệt huyết của mình, bắt đầu khám phá ra lòng nhân hậu khi cảm nghiệm những giới hạn của riêng mình.
Nếu viện phụ giữ vai trò thiết yếu trong cộng đoàn, thì không được quên rằng ngài là hoa trái của cộng đoàn. Chính cộng đoàn sinh ra viện phụ. Tùy theo mức độ ta để cho ơn Chúa tác động nơi mình mà viện phụ có thể thực hiện trách nhiệm của ngài nhiều hay ít. Chẳng vậy, cộng đoàn sẽ khô chồi và mọi việc sẽ uổng công.
Không có cộng đoàn đan tu nào mà không có viện phụ, thì cũng không có viện phụ nào mà không có cộng đoàn. Nếu cộng đoàn không trợ giúp viện phụ, không nâng đỡ ngài, nếu anh em không thưa “vâng” với Chúa, viện phụ sẽ chẳng làm được gì. Như Guillaume de Saint Thierry lưu ý, chính sự vâng phục và lòng khiêm tốn của các đan sĩ Clairvaux đã giúp cho thánh Bênađô có được lòng nhân hậu, và trở nên một viện phụ như Chúa mong muốn.
C – Ngày 21.12
Trong đan viện, khi có cuộc bầu cử viện phụ, anh em thường quan tâm tới vấn đề sức khỏe thể lý hay sự yếu kém về tâm lý của những vị có thể được bầu lên. Tuy thế, ở câu 13 của chương này, dường như thánh Biển Đức nghĩ ngược lại khi bảo viện phụ “chớ bao giờ quên phận mình dòn mỏng”. Nhưng vấn đề là phải biết thánh Biển Đức nói tới thứ dòn mỏng nào. Vì đối với ngài, ý thức về sự dòn mỏng có liên hệ với khả năng thương cảm mà thánh nhân đòi hỏi nơi viện phụ.
Những mẫu gương lớn về lòng thương cảm trong thế kỷ vừa qua, như Mẹ Têrêsa Calcutta và ông Jean Vannier, có thể nêu cho ta cách hành xử đúng. Mẹ Têrêsa là một phụ nữ cứng rắn hiếm thấy, có cá tính mạnh mẽ phi thường, và sức khỏe tốt đã giúp Mẹ có thể sống trong những điều kiện rất khó khăn. Còn ông Jean Vannier, chỉ cần nhìn vào những hoạt động của ông cũng đủ nhận ra lòng thương cảm nhắm tới một lãnh vực khác, tới kinh nghiệm về một sự dòn mỏng sâu xa hơn.
Kinh nghiệm về sự dòn mỏng mà thánh Biển Đức nói tới thuộc một phạm vi hoàn toàn khác. Nó đụng tới chính gốc rễ của kinh nghiệm nội tâm và được biểu lộ cách tuyệt vời trong hai đoạn văn của thánh Phaolô: Ở Rm 7,15 và 24: “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu, vì điều tôi muốn, tôi không làm, còn điều tối ghét, tôi lại cứ làm. … Tôi thật là một người khốn nạn!” Và ở Rm 8,28: “Ta biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người”. (X. Tv 30,8: “Được Ngài thương, con vui mừng hớn hở, vì Ngài đã đoái nhìn phận con cùng khốn”).
Như vậy, kinh nghiệm về sự dòn mỏng thánh Biển Đức nói tới là kinh nghiệm về sự chết và phục sinh, về nỗi bất lực và ân sủng. Ai đã có được kinh nghiệm này sẽ biết mình mù tối, trong khi những người pharisêu thì cứ tưởng mình sáng mắt. Nhưng người ấy cũng biết rằng Thiên Chúa là vị thuyền trưởng đích thực, ngài sẽ đưa con tầu của họ cập bến an toàn.
Chương 65
VỀ VIỆN PHÓ CỦA ĐAN VIỆN
Ngày 22.4 – 22.8 – 22.12
1 Trong các đan viện thường nảy sinh những gương xấu trầm trọng do việc đặt viện phó. 2 Quả thế, có những kẻ bị thần dữ kiêu căng xúi xiểm tự coi mình là viện phụ thứ hai, nên tranh quyền đoạt vị gây gương xấu và gieo bất hoà trong cộng đoàn; 3 nhất là những nơi viện phó được đặt lên bởi chính vị tư tế hay bởi các viện phụ đã phong chức cho viện phụ nơi ấy. 4 Ai cũng dễ thấy việc làm như thế là phi lý chừng nào, bởi lẽ ngay từ đầu, khi vừa được đặt lên, viện phó đã có lý do để kiêu căng,5 nghĩ mình đã thoát quyền viện phụ, 6 vì lẽ mình cũng được đặt lên bởi chính các vị đã phong chức cho viện phụ. 7 Từ đó nảy sinh những chuyện ghen tương cãi vã, nói hành tranh chấp, bất hoà rối loạn. 8 Một khi viện phụ và viện phó đã có những tâm tình xung khắc nhau và mối bất hoà cứ kéo dài như thế, linh hồn các ngài tránh sao được những hiểm nguy. 9 Và kẻ bề dưới hùa theo phe này phe nọ, tất cũng lâm vào cảnh diệt vong. 10 Hậu quả của hiểm hoạ này đổ lên đầu những ai đã gây nên tình trạng hỗn loạn như thế.
Chú giải:
A – Ngày 22.4
Điều thánh Biển Đức sợ hơn cả đó là sự chia rẽ, óc bè phái trong cộng đoàn . “Tôi thuộc về Phaolô, tôi thuộc về Apôlô, tôi thuộc về Kêpha, còn tôi, tôi thuộc về Chúa Kitô! Vậy thì Chúa Kitô bị phân rẽ sao?” Lời thánh Phaolô nói xưa kia ngày nay vẫn còn là một thực tại. Ta phải ngạc nhiên khi thấy một số người luôn có nhu cầu muốn gây chia rẽ, muốn phá hoại.
Điều đó đặc biệt đúng trong Giáo Hội chúng ta. Nhưng nhu cầu ấy bởi đâu mà đến? Thánh Biển Đức đưa ra một phân tích rất tinh tế trong chương 65 này, khi nói về viện phó trong đan viện. Ngài phân tích nguyên nhân, động cơ, phương pháp và hậu quả của nhu cầu gây chia rẽ.
Hậu quả thì rất hiển nhiên: chia bè chia phái (c.9), ghen tương, phản kháng, nói xấu, ganh tị, bất hòa và lộn xộn (c.7). Phương pháp thì rất tầm thường: cho là mình có quyền nọ quyền kia mà thực sự mình chẳng có (c.2), tránh né quyền bính viện phụ (c.5).
Còn nguyên nhân thì khó phân biệt hơn ta tưởng nhiều. Từ đâu mà nảy sinh “óc kiêu căng”, như thánh Biển Đức nói ở câu 2? Cái gì đã làm cho óc kiêu căng nảy sinh và lớn lên khiến ta nói: “Tôi, tôi cũng như anh mà!” Điều ấy làm ta nhớ đến đoạn sách Sáng Thế thuật lại rằng khi muốn thuyết phục ông Ađam và bà Evà, con rắn quả quyết: “Ông bà sẽ nên như các vị thần” (St 3,5).
B – Ngày 22.8
Thoạt tiên, dường như chương này chẳng liên quan gì đến ta nữa, vì ngày nay trong các đan viện chúng ta viện phó là do viện phụ đặt. Nhưng ai có thể quả quyết rằng nhờ vậy mà tránh được những xáo trộn, những rạn nứt hay xung khắc về quyền bính? Trong các tập thể con người, quyền bính đến từ nhiều nguồn khác nhau: -quyền do được đặt định, quyền do phẩm trật; -quyền có được do khả năng cá nhân trong lãnh vực nào đó (âm nhạc, nghệ thuật, kỹ thuật, tài chính…); -quyền đến từ tương quan bạn bè, tình cảm; -quyền dựa trên thói quen: “Tôi vẫn làm vậy, điều đó liên hệ đến tôi”…
Thánh Biển Đức không loại bỏ những thứ quyền đó trong cộng đoàn: -Ngài nhìn nhận khả năng của những anh em thạo nghề; -ngài dùng thiện cảm của những anh em từng trải để thu phục những người cố chấp; -ngài không cạo rỉ sét thói hư tật xấu quá mạnh tay kẻo làm vỡ bình. Nhưng ngài không muốn người ta vịn cớ đó để tránh né quyền viện phụ. Tại sao thế?
Hẳn là điều đó có thể giúp viện phụ thích thú hơn khi giải thích chương này. Nhưng thánh Biển Đức không quên nhắc viện phụ đừng vì thế mà dùng quyền cách độc đoán với anh em. Vậy đâu là lý do thực sự?
Chắc hẳn vì thánh Biển Đức thấy mối nguy rình rập mọi đan sĩ, dù viện phụ hay anh em, đó là dành cho mình những lãnh vực riêng chỉ liên quan đến một mình mình. Khi làm thế, khi vạch một ranh giới vô hình trong lòng mình, đan sĩ dựng lại cái mà thánh Phaolô gọi là bức tường ngăn cách và hận thù phân rẽ làm cản trở sự bình an đích thực.
Khi theo Chúa Giêsu, sẽ có lúc ta thấy mình bị tước đoạt hết những gì mình tưởng là đã nắm chắc, và khám phá được sự tự do vô tận. Bám víu lấy những cái đó là ngăn cản mình đi vào đường tự do, đường thống nhất nội tâm mà chỉ duy mình Thiên Chúa có thể khai mở trong lòng ta.
C – Ngày 22.12
Giữa thế giới mình đang sống, mỗi người chúng ta đều cảm thấy rằng phải thành công trong cuộc đời là điều hiển nhiên. Và thành công này có được, một đàng là nhờ cảm tưởng mình được kêu gọi tới một định mệnh đặc biệt, một đàng là do nhu cầu muốn sống hết mình.
Cảm tưởng được kêu gọi tới một định mệnh đặc biệt và được kêu gọi sống với hết sức lực mình, nếu bị làm cho thất vọng, sẽ có nguy cơ nảy sinh tình cảm ghen tương và buồn chán. Ghen tương với ai hoặc những ai ta nghĩ là có thể sống được như vậy. Buồn chán nếu cuộc sống không cho ta cơ hội để sống theo khả năng của mình. Cuộc sống tầm thường sẽ làm ta thất vọng.
Chương 65 này hoàn toàn tương ứng với trường hợp trên đây. Câu hỏi ngấm ngầm là: ta có thể sống một đời thành công mà không cần phải là viện phụ chăng? Đàng sau câu hỏi này còn tiềm ẩn một câu hỏi khác nữa, vì trong đan viện chỉ có một viện phụ: liệu người khác có cản trở hạnh phúc của tôi không? Và cuộc sống hằng ngày đặt ra cho ta câu hỏi này gần như từng giây phút. Vì người khác thường gây thương tích cho ta.
Dẫu vậy, điều dần dần bộc lộ cho ta kinh nghiệm về đơi sống đan tu, đó là vết thương do người khác gây ra, cái giằm người khác cắm vào da thịt ta, như thánh Phaolô nói, thực ra là một ân sủng phi thường. Nếu người khác, dù là anh em hay viện phụ, không khoét một lỗ hổng trong đời tôi, tôi sẽ hao phí cuộc đời để chỉ lẩn quẩn chung quanh mình. Tôi không thể đến được với chính mình.
Vì để sinh ra cho chính mình, để trở nên như mình phải trở nên, tuyệt đối ta phải cần đến một tiếng gọi, một cái nhìn, cần đến một vết thương gây ra bởi một tình yêu. Chính khi không còn là tất cả nữa, ta mới thực sự bắt đầu là một ai đó. Như vậy, người khác luôn luôn là một ơn gọi, một lời tiên tri, một hồng ân dành cho ta. Và chính trong chỗ rạn nứt, trong vết thương thầm kín đó của con tim mà Thiên Chúa sẽ có thể thốt lên tiếng gọi của ngài. Thực ra, kẻ thù của tôi lại chính là bản thân tôi!
Ngày 23.4 – 23.8 – 23.12
11 Vậy cha thiết tưởng, để duy trì sự bình an và bác ái, viện phụ phải được toàn quyền tổ chức đan viện theo ý mình; 12 và nếu có thể, hãy đặt các trưởng nhóm như cha đã quy định trước đây, để theo chỉ thị của viện phụ họ điều hành mọi việc hữu ích trong đan viện. 13 Khi công việc được ủy thác cho nhiều người, thì một người khỏi kiêu căng. 14 Tuy nhiên, nếu hoàn cảnh đòi hỏi hoặc cộng đoàn thỉnh cầu cách khiêm tốn và hợp lý và viện phụ xét là nên, 15 thì ngài hãy bàn hỏi với những anh em kính sợ Chúa, rồi chọn ai tùy ý mà đặt làm viện phó của mình.
16 Còn viện phó, hãy cung kính thi hành những gì viện phụ ủy thác, đừng làm gì nghịch ý hay trái lệnh ngài, 17 vì càng được nâng cao hơn kẻ khác, càng phải giữ luật kỹ hơn. 18 Nếu viện phó tỏ ra xấu nết, hoặc kiêu căng tự phụ, hay khinh thường tu luật, hãy dùng lời cảnh cảo đến bốn lần, 19 nếu không tu sửa, hãy chiếu luật mà nghiêm phạt. 20 Nếu như thế vẫn không hối cải, hãy cách chức viện phó đi và đặt người khác xứng đáng lên thay. 21 Sau đó, nếu vẫn không chịu ở yên và cứ bất phục trong cộng đoàn, hãy loại ra khỏi đan viện. 22 Tuy nhiên, viện phụ hãy nhớ mình sẽ phải tường trình trước Thiên Chúa về mọi phán đoán của mình, nếu không ngài sẽ bị lửa phân bì và ghen tương nung nấu.
Chú giải:
A – Ngày 23.4
“Để duy trì bình an và bác ái”. Đó là lý do khiến thánh Biển Đức giao cho viện phụ toàn quyền xếp đặt mọi chuyện trong đan viện của ngài. Ta có thể coi câu nói ngắn ngủi này như một nhận xét đơn giản của lương tri, trong bối cảnh chính trị và xã hội, theo những tiêu chuẩn về tổ chức và hiệu năng. Nhưng phải chăng đó là điều thánh Biển Đức nhắm tới?
Bình an của Phúc Âm chẳng có liên quan gì với cách thức ngoại giao mềm mỏng để tránh xung đột, hay với thứ bình an có được khi mỗi người cố thủ ở vị trí của mình. Bình an của Phúc Âm khác hẳn với thứ bình an do bởi không có chiến tranh, thứ bình an đặc thù của thế gian. Vì trong thế gian, bình an đến từ thế quân bình giữa các lực lượng, từ sự kiềm hãm nhau giữa các quyền lực đối kháng và có khuynh hướng loại trừ nhau.
Bình an theo thánh Biển Đức là điều hoàn toàn khác. Đó là bình an của Chúa Kitô. Đó là chính Chúa Kitô, vì, như thánh Phaolô nói, “chính ngài là bình an của ta”.
Chúa Kitô ở trung tâm sự bình an của các cộng đoàn chúng ta, và chỉ có một cách cổ võ sự bình an là đặt cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô vào giữa mọi tranh chấp, mọi ngờ vực, mọi hiểu lầm. Đó là bổn phận của viện phụ. Ngài phải không ngừng nhắc nhở rằng chính vì Chúa Kitô mà chúng ta đã gia nhập cộng đoàn.
B – Ngày 23.8
Trong cuộc tranh chấp từ bao đời giữa cơ chế và đặc sủng, dường như thánh Biển Đức muốn có một chọn lựa dứt khoát. Ít là ta có cảm tưởng như vậy khi mới đọc qua chương 65 này. Xem ra như ngài đứng về phe viện phụ để chống lại mọi hình thức tranh chấp trong cộng đoàn. Nhưng phải chăng đó là điều ngài muốn nhắm tới?
Thiết tưởng không thể giải thích chương 65 này theo kiểu chính trị như thế. Thực vậy, với thánh Biển Đức, nhiệm vụ của viện phụ cũng có một chiều kích đặc sủng, như ngài nói trong các chương 2 và 64. Điều thánh Biển Đức nhắm tới, đó là nhận thức thế nào là một đặc sủng trong cộng đoàn đan tu. Ngài đặt ra những nguyên tắc để phân định tính xác thực của mọi đặc sủng.
Đặc sủng là hồng ân của Thánh Thần giúp ta phục vụ vì bác ái. Như vậy, đặc sủng không hoạt động dưới phương thức quyền lực, và trong bối cảnh tranh chấp. Đặc sủng không chiếm hữu gì làm của riêng mình, cũng không tìm cách thiết lập một nhóm đồ đệ thân tín. Điều thánh Biển Đức muốn làm là phân biệt đặc sủng thiêng liêng với “đặc sủng” (khả năng, năng khiếu) thuần túy nhân loại.
Đặc sủng thiêng liêng không giống với sức lôi cuốn của một số người đối với những người khác. Nó không được dùng để tạo lập ra một nhóm tín đồ, hay một liên hiệp những kẻ bất mãn. Trái lại, đặc sủng nhằm mục đích phục vụ đức ái, phục vụ tình yêu khiêm tốn là nền tảng cấu tạo nên cộng đoàn đan tu.
C – Ngày 23.12
“ Để duy trì sự bình an” (c.11). Ta không sợ lầm mà quả quyết rằng câu 11 của chương 65, tức câu mở đầu đoạn luật hôm nay, tóm gọn một trong những nguyên tắc cơ bản của toàn thể tu luật. Điều thánh Biển Đức thiết lập, điều ngài ấn định đó là sự bình an và đức ái.
Và ta còn có thể quả quyết rằng nguyên tắc này, được áp dụng cho việc tổ chức đan viện, cắt đặt viện phó, cũng có thể áp dụng cho bất cứ việc gì ta làm với tính cách tập thể hay cá nhân. Điều ấy có thể diễn đạt như sau: phải chăng lời nói, cử chỉ, thái độ, thói quen này giúp ta duy trì được sự bình an và tăng cường bác ái?
Nhưng bình an là gì? Bác ái là gì? Ý nghĩa đích thực của bình an không hẳn là điều dễ thấy như ta tưởng. Quả thực, ta thường lẫn lộn bình an với sự kiện không có tranh chấp. Như thể không biết đến nhau, tránh gặp nhau trong hành lang, không nói gì với nhau hay không nhìn nhau là dấu có bình an thực sự rồi. Cứ coi từ nguyên của hai tiếng bình an ta sẽ hiểu rõ hơn thánh Biển Đức muốn nói gì.
Tiếng “pax” (bình an) thuộc gốc âu-ấn “pak” có nghĩa là “cố định bằng một xác tín” hay cũng còn có dạng “pag” chỉ “một hành động thể lý”. Như vậy, bình an không phải là thiếu, vắng, nhưng là một hoạt động, một xác tín. Bình an đòi phải thực sự dấn thân, phải hoạt động bằng tinh thần và con tim, phải sáng tạo. Ý tưởng này ta gặp thấy trong Tân Ước, đặc biệt là ở Ep 2,14: “Chính Người là bình an của ta: Người đã đến liên kết đôi bên nên một”. Bình an không phải là một tình trạng người ta cố giữ cho yên bao nhiêu có thể. Nhưng đúng hơn, bình an là dấn thân, là khát vọng yêu mến, bất chấp mọi sự, trong khi vượt qua bức tường chia rẽ và hận thù.
Chương 66
NGƯỜI GIỮ CỔNG ĐAN VIỆN
Ngày 24.4 – 24.8 – 24.12
1 Ở cổng đan viện nên đặt một người đứng tuổi, khôn ngoan, biết ứng đáp và trưởng thành để khỏi đi lang thang. 2 Người giữ cổng phải có phòng gần cổng để bất luận khách đến lúc nào cũng sẵn có người đón tiếp . 3 Vừa nghe có ai gõ cửa hay kẻ nghèo kêu xin, người giữ cổng hãy thưa ngay “Tạ ơn Chúa”, hoặc “Chúc tụng Chúa”. 4 Rồi hết sức dịu dàng lấy lòng kính sợ Chúa mà mau mắn trả lời với tình bác ái nhiệt thành. 5 Nếu cần người giúp thì cho một anh em nhỏ tuổi hơn. 6 Còn đan viện, nếu có thể, phải thiết lập thế nào để mọi thứ cần thiết như nước, cối xay, vườn tược hay các thứ công nghệ, đều được làm trong nội vi đan viện, 7 để đan sĩ khỏi bó buộc phải ra ngoài, vì điều đó không hề thích hợp cho linh hồn họ. 8 Bản luật này, cha muốn năng đọc trong cộng đoàn để không anh em nào chữa mình là không biết.
Chú giải:
A – Ngày 24.4
Cổng đan viện là điểm tiếp xúc với thế gian. Đó là nơi gặp gỡ giữa hai thế giới: thế giới bên trong và thế gìới bên ngoài. Chương nói về người giữ cổng đan viện cho thấy những đặc tính căn bản trong mối tương quan nội ngoại này.
Đặc tính thứ nhất: tương quan ấy không phải tương quan trực tiếp. Vì, như thánh Biển Đức đã dự trù, những tiếp xúc từ bên ngoài vào hay từ bên trong ra đều qua trung gian người giữ cổng.
Đặc tính thứ hai, tương quan với thế giới bên ngoài là một tương quan tích cực. Hai câu người giữ cổng thốt lên khi có khách tới: “Tạ ơn Chúa” hay “Chúc tụng Chúa” cho thấy điều đó. Đối với thánh Biển Đức, khách đến là một phúc lành cho đan viện.
Chỉ có một điểm tiêu cực được thánh Biển Đức lưu ý, đó là vấn đề cá nhân đan sĩ: “Để các đan sĩ khỏi bó buộc phải ra ngoài, điều không hề thích hợp cho linh hồn họ”. Không phải vì thế giới bên ngoài xấu, nhưng vì khuynh hướng muốn để mình bị phân tán, mất tĩnh niệm khi lo tới những chuyện ở bên ngoài.
Vai trò của người giữ cổng không phải là bảo vệ ta khỏi thế giới bên ngoài vì nó xấu. Không phải vậy, nhưng đúng hơn là bảo vệ ta khỏi chính mình, và có lẽ đôi khi bảo vệ khách khỏi sự vô ý vô tứ của một số đan sĩ. Ai biết được?
B – Ngày 24.8
“Hết sức dịu dàng thanh thản do lòng kính sợ Chúa”. Đó là nét nổi bật trong thái độ của người giữ cổng, như thánh Biển Đức mong muốn. Câu này cũng cho thấy ý nghĩa sâu xa của lòng kính sợ Chúa đối với thánh nhân. Ngài mới nói tới lòng kính sợ này ở chương 64 về việc bầu viện phụ, ngài coi lòng kính sợ Chúa như điều kiện thiết yếu để cuộc bầu cử có được kết quả tốt.
Lòng kính sợ Chúa làm cho đan sĩ biết cư xử dịu dàng, giúp họ xử lý cách thanh thản những khó khăn, những bất ngờ trong cuộc sống. Ta có thể định nghĩa lòng kính sợ này là thái độ nội tâm khiến ta thi hành mọi việc đúng lúc đúng chỗ, giúp ta giải tỏa mọi ảo tưởng khỏi lòng mình. Và như thế, lòng kính sợ Chúa làm cho ta được bình an.
Suốt cuốn tu luật, thánh Biển Đức rất thường nhắc đến lòng kính sợ Chúa. Diễn ngữ này nói lên một yếu tố nòng cốt của việc hoán cải đan tu. Cuộc đời ta phải trải qua nhiều nỗi sợ: sợ thiếu thốn, sợ không được yêu thương, sợ không được biết đến, sợ bị bỏ quên, sợ bị kết án, sợ bị loại trừ, sợ chết. Với thánh Biển Đức, tất cả những nỗi sợ ấy đều là sai lầm, vì ta chỉ phải kính sợ một mình Thiên Chúa mà thôi.
Nếu những nỗi sợ kia hủy hoại ta, thì trái lại, lòng kính sợ Chúa củng cố và giải thoát ta. Khi ý thức Thiên Chúa hiện diện trước mặt mình, nhìn xem mình và yêu thương mình, ta sẽ được cứu thoát. Khi ngăn cản ta rơi vào sự dữ và dối trá, lòng kính sợ Chúa dần dần tạo nên trong ta một niềm tin tưởng vững mạnh vào cuộc sống, vì Thiên Chúa lớn hơn tất cả những gì có thể xẩy đến cho ta. Và khi được Chúa đoái nhìn, ta cũng sẽ lớn hơn lên.
C – Ngày 24.12
Thoạt tiên ta có cảm tưởng là trong chương 66 này thánh Biển Đức bàn đến hai chủ đề chẳng liên hệ gì với nhau. Thực vậy, ngài nói về người giữ cổng đan viện, rồi từ câu 6 ngài lại đề cập tới nội vi. Nhưng phải chăng là ngẫu nhiên? Thực ra, khi làm thế, thánh Biển Đức phác họa một phong cảnh. Một phong cảnh ngoại giới, nhưng như ta sẽ thấy, đó cũng là một phong cảnh đối với đời sống nội tâm.
Cổng đan viện là làn ranh ngăn cách giữa hai thế giới, thế giới bên ngoài và thế giới bên trong. Người giữ cổng đan viện chính là người coi giữ làn ranh đó. Thuộc thế giới bên ngoài là những người đến gõ cổng đan viện, những người nghèo mà ta phải đón tiếp với sự khôn ngoan và chín chắn của tuổi cao niên, với lòng nhân ái và sự bình thản ta có được nhờ biết kính sợ Chúa. Nên lưu ý ngay rằng, với thánh Biển Đức, thế giới bên ngoài không phải là một thế giới xấu xa khiến ta phải đề phòng. Đón tiếp người đến gõ cổng, chính là đón tiếp Chúa Kitô.
Rồi có một thế giới bên trong. Thánh Biển Đức muốn đan viện được tổ chức cách nào để đan sĩ không bị bó buộc phải ra ngoài. Ngài bảo: nước, cối xay, vườn tược, cơ sở làm việc v.v. phải ở trong nội vi. Nhưng tại sao lại phải thế? Phải chăng sau khi cho rằng thế giới bên ngoài chẳng có chi là xấu cả ngài lại đổi ý? Ngài tự mâu thuẫn chăng?
Thiết tưởng ở câu 7 ta có thể thấy thánh Biển Đức tỏ ra khôn ngoan đặc biệt khi ngài quả quyết: “để đan sĩ khỏi bó buộc phải ra ngoài, vì điều đó không hề thích hợp cho linh hồn họ”. Với ngài, cái xấu không phải là thế gian, nhưng là khuynh hướng thích đi ra ngoài.
Nội vi đan viện trước hết chính là ý thức sự nghèo khó, sự mỏng dòn, những giới hạn của ta, tất cả đều cản trở ta gặp được những nẻo đường ta phải đi, và thúc đẩy ta tìm kiếm ở bên ngoài những tương quan, những tình bạn v.v, những điều mà ta đã từ chối tìm kiếm ở trong đan viện. Và hẳn là không vô ích nếu nhắc cho những anh em giữ cổng rằng khi chu toàn nhiệm vụ, họ giúp ta quay về với điều cần duy nhất, điều đã khiến ta tìm đến với đan viện. Trách nhiệm của những anh em ấy thật lớn lao, ta phải cám ơn họ, nhưng cũng khích lệ họ quan tâm giữ cho đan viện được bình an bằng cách thi hành nhiệm vụ thật nghiêm chỉnh.
Chương 67
NHỮNG ANH EM ĐI ĐƯỜNG
Ngày 25.4 – 25.8 – 25.12
1 Những anh em cần đi đường, phải xin toàn thể anh em và viện phụ cầu nguyện cho; 2 và trong lời nguyện cuối cùng của giờ Thần Vụ, bao giờ cũng phải nhắc đến mọi người vắng mặt. 3 Còn những anh em đi đường, ngay hôm trở về, sau giờ Thần Vụ, hãy phục xuống đất ở nhà nguyện 4 xin mọi người cầu nguyện cho, vì những sai lỗi có thể mắc phải khi đi đường như: mắt thấy, tai nghe những điều xấu xa, hoặc miệng nói những lời phù phiếm.
5 Đừng ai tự tiện thuật lại cho người khác bất cứ điều gì mắt thấy, tai nghe ở ngoài đan viện, vì đó là điều rất tai hại. 6 Ai dám làm thế sẽ bị phạt theo chiếu luật. 7 Ai tự tiện ra ngoài nội vi đan viện, bất luận đi đâu hay làm gì, dù chẳng quan trọng bao nhiêu, nếu không có phép của viện phụ thì cũng bị phạt như thế.
Chú giải:
A – Ngày 25.4
Trước và sau cũng như trong khi đi đường, đan sĩ đều được anh em và viện phụ cầu nguyện cho. Mối giây hữu cơ liên kết đan sĩ với cộng đoàn được biểu lộ qua các nghi thức: khi đi khi về, và cả trong lúc đi đường bằng mối hiệp nhất với cộng đoàn qua việc cử hành các giờ kinh. Không phải lúc đi đường ta tạm nghỉ làm đan sĩ. Nhưng lúc đó ta vẫn là đan sĩ, vẫn là thành viên của cộng đoàn.
Việc cầu nguyện cho anh em đi đường cũng như lúc họ trở về là điều quan trọng cả cho anh em ra đi cả cho anh em ở nhà. Ai tránh né việc này là chứng tỏ người ấy coi thường anh em, coi anh em chẳng quan trọng gì trong cuộc đời mình. Mọi tránh né như thế đều hàm ẩn một vấn đề.
Thời nay ta đi ra ngoài thường xuyên hơn, với những cuộc hành trình dài hơn, nhưng không hẳn là nhiều hơn thời các cha ông ta thủa ban đầu. Ngày nay ta khó mà tưởng tượng được số thời gian các ngài phải dành ra cho việc đi bộ hay đi ngựa để dự các kỳ đại hội Dòng, để kinh lý hay thực hiện những nhiệm vụ khác. Và những phương tiện đi chuyển thời ấy lại chẳng được như hiện nay.
Các ngài đã làm thế nào? Tôi thường tự hỏi như thế. Hẳn là trên những chuyến tầu đi xa, các ngài có thời gian viết sách hay tĩnh tâm, nhưng đâu phải mọi sự đều dễ dàng. Tôi nghĩ rằng điều nâng đỡ các ngài nhất chính là lời cầu nguyện của anh em trong cộng đoàn, một lời cầu nguyện có sức giúp các ngài vượt qua được những thử thách, những cuộc chiến cam go.
B – Ngày 25.8
Khi có dịp ra ngoài đan viện, tất cả chúng ta đều ngạc nhiên về một hiện tượng lạ, đó là ta nhạy cảm hơn nhiều với những gì ta thấy và nghe được. Ta có ấn tượng mạnh hơn và lâu bền hơn về những chuyện đó, như thể đời sống đan tu đã làm cho cảm tính của ta nhạy bén hơn. Việc kiêng nhìn, kiêng nghe khiến ta dễ cảm nhận hơn cái đẹp cũng như cái xấu ta có thể gặp.
Thay vì ru ngủ hay làm tê liệt cảm tính, khả năng rung động và thán phục của ta, đời đan tu gần như phát huy nơi ta một loại giác quan thứ sáu, hay đúng hơn làm cho các giác quan của ta tăng thêm độ nhạy bén. Nói một cách có vẻ hơi mâu thuẫn thì dường như việc xa cách thế gian làm cho ta nên người hơn.
Chỉ có vẻ mâu thuẫn thôi, vì thực ra, kiêng nhìn, kiêng nghe dần dần giúp cho việc nghe việc nhìn có chất lượng cao hơn, đó là chuyện bình thường. Và đấy chính là mục đích của việc xa lánh thế gian. Khi thoát ra khỏi cơn lốc những công việc thế gian, ta không trốn tránh con người, nhưng muốn tìm kiếm chất lượng cao hơn cho cái nghe cái nhìn của ta.
Chính vì vậy thánh Biển Đức yêu cầu anh em “đừng thuật lại bất cứ điều gì mắt thấy tai nghe ngoài đan viện” (c.5). Đây không phải là một lệnh cấm nhưng đúng ra là một cách bảo vệ. Như Thomas Merton viết khôi hài trong thư gửi các đan sĩ: “Gà không đẻ giữa chợ”. Sự tinh tuyền trong sáng nơi cái nhìn cái nghe của ta thật đáng với giá đó. Những ồn ào của thế gian có nguy cơ khiến ta sao lãng tìm kiếm điều cốt yếu cho đời mình.
C – Ngày 25.12
Cứ ngày 25 tháng 12 mỗi năm ta lại đọc chương 67 của tu luật nói về các anh em đi đường. Phải chăng là tình cờ hay do sự quan phòng của Chúa? Lễ Giáng Sinh là ngày lễ mang dấu ấn đi đường! Thánh Giuse và Đức Maria đã phải khăn gói lên đường tới Belem để đăng ký hộ tịch theo lệnh hoàng đế Quiriniô. Các đạo sĩ đã đến từ phương xa theo ánh sao chỉ dẫn. Các mục đồng cũng tìm đến xem điều mới xẩy ra như thiên thần loan báo cho họ.
Lễ Giáng Sinh mời gọi ta lên đường chăng? Nếu vậy thì đáng tiếc quá cho những đan sĩ đã khấn bền đỗ! Nhưng phải biết rõ điều này, trong câu chuyện giáng sinh, chỉ duy có một người không nhúc nhích, đó là Hêrôđê, vì sợ mất ngai vàng, và ông đã khiến cho Thánh Gia phải trốn sang Ai Cập. Lại một cuộc lên đường nữa. Và ta cũng không quên ba đạo sĩ lên đường trở về. Trong bối cảnh rất xa với sự bền đỗ như thế, làm sao còn dám nói tới lời khấn bền đỗ mà thánh Biển Đức coi như thiết yếu cho cuộc hoán cải đan tu, ngược với các đan sĩ ái nhĩ lan, những người lấy lời mời gọi lên đường làm luật sống cho mình?
Sự trái ngược đó chỉ là ở mặt ngoài. Nó chỉ ngăn cản tâm trí nông cạn, ít được giáo hóa, chưa hiểu đâu là điều thiết yếu của ơn gọi đan tu. Làm đan sĩ chính là dấn thân vào một hành trình, một cuộc xuất hành, không ngừng cất bước, để đi theo Chúa Kitô. Nhưng làm đan sĩ trước hết là hiểu rằng dù có đi khắp thế gian cũng chẳng lợi ích gì, bởi lẽ cuộc hành trình của đan sĩ phải là cuộc hành trình nơi con tim.
Quả thực, cứ đi hết nơi này đến nơi khác nào có ích lợi chi, giống như những người du tu bị ý riêng lôi kéo, không thể nào hoán cải, vì ngay lúc có cơ hội thay đổi là họ lại ra đi. Bởi lẽ cuộc hành trình ta được mời thực hiện không phải là cuộc hành trình đưa ta tới tận cùng trái đất, nhưng tới tận cùng con tim ta. Sa mạc ta phải đi, biển cả ta phải vượt không ở ngoài, nhưng ở trong ta.
Khi lẫn lộn lời mời gọi lên đường Chúa gửi đến ta với chứng ngứa ngáy muốn thay đổi, ta có nguy cơ bỏ qua điều cốt yếu, để suốt đời chỉ chạy theo ảo tưởng phù du, và như thế là uổng công phí sức. Ích gì khi rảo khắp thế gian nếu đã không khởi sự dấn thân vào cuộc phiêu lưu đích thực trong thâm sâu bản thân mình. Chính vì thế, thiết tưởng thánh Biển Đức không ưa thích gì chuyện đi ra ngoài. Ngài không muốn ta lấy hình bóng làm thực tại, lấy cái vẻ bên ngoài làm ơn gọi đích thực của ta.
Chương 68
ANH EM NHẬN LỆNH TRUYỀN
VƯỢT QÚA KHẢ NĂNG
Ngày 26.4 – 26.8 – 26.12
1 Nếu anh em nào được giao những công việc nặng nhọc hoặc không sao kham nổi, hãy cứ tuân lệnh với tất cả sự hiền từ và vâng phục. 2 Nếu thấy công việc quá nặng vượt hẳn sức mình, hãy nhẫn nại và tìm cơ hội thuận tiện trình bày với bề trên những lý do khiến mình không làm nổi, 3 chứ đừng kiêu căng chống lại hay phản đối. 4 Nếu sau khi đã trình bày, mà bề trên vẫn giữ nguyên lệnh cũ, bề dưới hãy biết như thế là ích lợi cho mình 5 và lấy lòng yêu mến, cậy trông ơn Chúa giúp mà vâng phục.
Chú giải:
A – Ngày 26.4
Những lời thánh Biển Đức dùng trong chương này, để nói về thái độ của anh em được giao một công việc họ không thể thực hiện, là những lời rất hay: – Câu 1: họ đón nhận lệnh truyền với tất cả sự bình thản và vâng phục. – Câu 2: vào lúc thích hợp, họ nhẫn nại trình bày những lý do khiến mình không thể thực hiện lệnh truyền. – Câu 3: không kiêu căng, không bướng bỉnh, không tranh cãi. – Câu 5: được đức ái tác động và tin tưởng vào ơn Chúa giúp.
Ai trong ta lại không có ngày nào đó thấy mình ở trong một tình huống vượt quá khả năng, quá sức lực mình. Cái khó thường không liên quan gì tới phương diện khách quan của lệnh truyền. Phần lớn trường hợp, vấn đề bị vùi sâu trong ta đã nổi dậy nhân một lệnh truyền, đôi khi ngay cả bề trên cũng không hay biết. Cái bất lực là ở nơi ta: ta vấp phải những giới hạn tâm lý và thiêng liêng.
Phản xạ lúc ấy là từ chối. Từ chối cách thụ động hay bằng tranh cãi, điều có thể dẫn tới bướng bỉnh và kiêu căng. Khi đó sẽ có nguy cơ khép kín để tự biện hộ và tự kết án mình là không hiểu nổi điều gì thực sự xẩy ra nơi mình nữa. Vì thực ra “cái không thể được” không cho thấy sự không hay biết của bề trên, nhưng cho thấy vết thương của ta.
Khi ấy nhiều người muốn trốn chạy. Có tới cả ngàn cách trốn. Vì ta có thể trốn mà chẳng cần ra khỏi đan viện. Một số người làm hết cách để không bao giờ bị nhờ chuyện gì cả. Họ trở nên khó chịu và tỏ ra không đồng ý chấp nhận điều được yêu cầu. Những người khác thì làm như chấp nhận, rồi cố xoay xở để lệnh truyền được rút lại. Dù bằng sức mạnh, bằng sự khéo léo hay trốn chạy, họ đều tìm cách thoát khỏi cơn thử thách, khỏi phải vâng lời. Nhưng thật là uổng, họ không biết họ đã bị thiệt hại như thế nào. Họ đã bỏ mất cơ hội để có thể cảm nghiệm được sức mạnh của Thiên Chúa, đấng cứu trợ ta là những kẻ yếu hèn.
B – Ngày 26.8
Người ta thường coi chương 68 này như một chương về sự vâng phục. Bản văn như muốn chứng thực điều đó khi kết thúc bằng một câu rất rõ ràng: “Bề dưới hãy…lấy lòng yêu mến, cậy trông ơn Chúa giúp mà vâng lời”. Tuy nhiên, nếu chỉ coi chương này như một trường hợp đặc biệt áp dụng chương 5 về đức vâng phục, ta sẽ có thể bỏ mất một chiều kích cốt yếu mà thánh Biển Đức muốn giúp ta nhận ra.
Quả thực, chương này có cái gì thật kỳ lạ, gây ngạc nhiên bởi văn phong rất thanh thản, dịu dàng, nhẫn nại. Khi đọc lên, ta cảm thấy có điều gì thiết yếu, điều gì cốt tử cho người vâng phục và cho người ra lệnh. Điều gì đó ở mức độ rất sâu xa, như thể cho ta thấy cái được thua không thể nghi ngờ của đức vâng phục đan tu.
Điều thánh Biển Đức mời gọi ta thực hiện là một điều thiết yếu trong cuộc sống của mọi con người, đó là tin tưởng, là điều duy nhất có thể giúp ta làm nổi cái không thể làm và nhờ thế mà đón nhận được ơn sủng. Nhưng tin tưởng là gì, ở mức độ nào? Những giới hạn của ta có thể khiến cho lòng tin tưởng bị lung lay hoặc ngăn cản ta tin tưởng không?
Thực ra, chỉ người nào ý thức những yếu đuối của mình mới có thể tin tưởng. Tin tưởng là trắc nghiệm của lòng khiêm tốn đích thực, bắt nguồn từ sự thật. Thánh Phaolô xếp tin tưởng vào số những dấu hiệu cho thấy ta có Thánh Thần ngự nơi mình: tin tưởng tất cả.
Vì đó là cái mâu thuẫn của đời sống thiêng liêng: thay vì khiến ta bị tê liệt, ý thức về sự yếu đuối của mình làm cho ta được tự do. Còn nếu không thể tin tưởng thì đó là dấu cho thấy ta chưa ý thức được những giới hạn của mình, chưa biết yêu thích chúng, tóm lại đó là dấu cho thấy ta coi mình lớn hơn thực chất của mình, và một cách vô thức ta trách cứ người khác không nhận ra cái lớn lao của ta. Vậy thì làm sao mà tin tưởng nơi họ được?
C – Ngày 26.12
Không thể định nghĩa thế nào là những điều không thể làm được. Làm được hay không thể làm được là tùy theo giới hạn của mỗi người, về thể lý, tâm lý hoặc tinh thần. Làm được hay không thể làm được cũng tùy thuộc tuổi tác mỗi cá nhân. Thực vậy, có những cái khi còn trẻ ta không làm được, nhưng khi lớn lên ta lại làm được mà chẳng hay biết. Nhưng trái lại cũng có những việc mà lúc ban đầu sốt sắng ta thực hiện quá dễ dàng, thế mà một thời gian sau đã trở nên hầu như không sao kham nổi.
Như vậy, điều không thể làm được mang tính cách bất định, không thể thấy trước. Chẳng ai chờ đợi, chẳng ai sẵn sàng với nó. Đấy là một thử thách xẩy đến bất ngờ. Nhưng thử thách không chỉ có ý nghĩa tiêu cực như ta thường hiểu. Trong tiếng thử thách có ý tưởng mặc khải, theo nghĩa thử thách giúp ta nhìn ra được sự thật về mình.
Vì chính khi giáp mặt với những giới hạn của mình, khi vâng lời là điều quá khó khăn, ta mới có thể thẩm định được sự biến đổi mà ơn thánh thực hiện nơi ta, điều ta rất thường không hay biết. Quả thực, trong những hoàn cảnh như thế ta mới có thể nhận ra hiệu quả của những giờ cầu nguyện và đọc Lời Chúa, của những bước đi nhỏ đôi khi ta thực hiện trong đêm.
Thánh Kinh ưa thích sử dụng hình ảnh vàng được nấu trong lò, để sạch hết lớp rỉ bên ngoài và trở nên bóng láng. Mỗi thử thách trong đời đều hiển lộ một điều gì đó nơi ta. Thử thách hé mở kho tàng bí mật của tâm hồn. Thử thách làm im bặt những lời viển vông và xóa tan những dáng vẻ giả tạo. Thử thách cho ta nhìn thấy ánh sao bừng sáng lên trong đêm tối.
Chương 69
TRONG ĐAN VIỆN
ĐỪNG AI BÊNH VỰC NGƯỜI KHÁC
Ngày 27.4 – 27.8 – 27.12
1 Trong đan viện phải thận trọng đề phòng, đừng ai bênh vực hay bảo hộ cho một đan sĩ khác, 2 bất cứ trong trường hợp nào, dù có quan hệ thân thích với nhau thế nào cũng vậy. 3 Đan sĩ không được tự tiện làm thế bất luận cách nào, vì đó là dịp nặng nề sinh nhiều gương xấu. 4 Ai vi phạm điều này sẽ bị nghiêm phạt.
Chú giải:
A – Ngày 27.4
Một trong những cái nguy hằng rình rập tất cả chúng ta, đó là sự thiên vị. Nhất là khi sự thiên vị biến thành phe nhóm, và khi phe nhóm có nguy cơ phân rẽ cộng đoàn. Bởi vậy, thánh Biển Đức rất nghiêm khắc với thói thiên vị và ngài kiên quyết dẹp bỏ. Dầu thế, ta cũng nên suy nghĩ một chút về thái độ này. Tất cả chúng ta đều có những thiện cảm và những ác cảm. Ta có khuynh hướng bỏ qua dễ dàng một điều gì đó khi nó liên quan đến anh em này hơn là đến anh em khác. Tại sao vậy?
Đó là khi sống gần một anh em, ta mới hiểu được điều gì đụng chạm tới anh ta, điều gì làm anh ta tổn thương, điều gì anh ta cần. Khi ấy ta hiểu hơn điều gì thúc đẩy anh ta, điều anh ta dự tính, những khó khăn anh ta gặp phải. Nhưng, rủi thay, ta lại không có được sự đồng cảm, sự am hiểu như thế đối với tất cả mọi người.
Khi đề phòng ta khỏi thiên vị, thánh Biển Đức không hề muốn xóa bỏ cái phần tình cảm và thiện cảm vẫn có trong mọi cuộc sống thực sự nhân bản, nhưng ngài muốn ta nhận ra những tác hại to lớn mà tính thiên vị có thể gây ra cho một cộng đoàn, khi thiên vị trở thành tiêu chuẩn để đánh giá thực tại.
Dù muốn dù không, tình cảm của ta cũng đã bị tổn thương. Ta không còn biết yêu thương thực sự nữa. Tình cảm ta cần được chữa lành, cần được tái tạo, giống như mọi quan năng khác. Ở đây thánh Biển Đức đề phòng ta cho khỏi ngây thơ nghĩ rằng tình cảm ta vẫn trong sáng tinh tuyền như không hề bị ảnh hưởng bởi tội lỗi. Vấn đề không phải là không tin vào tình cảm, nhưng là phải sáng suốt. Không hẳn cái gì ta yêu thích cũng đều là yêu cách chân chính cả.
B – Ngày 27.8
Ta có thể ngạc nhiên về giọng nói nghiêm khắc của thánh Biển Đức trong chương này. Thật ra, trước sự bất công và tàn ác, con người có thể phẫn nộ cách lành mạnh. Trong một số trường hợp ta có thể cảm thấy như mình phản bội điều cao quí hơn, chân thực hơn nơi mình, nếu không ra tay bảo vệ người nghèo hèn thấp bé hơn. Có gì đáng trách khi bênh vực người khác, nhất là người yếu đuối và vô tội?
Thánh Kinh lại không đề cao việc bênh vực người góa bụa, trẻ mồ côi, kẻ nghèo bị áp bức và người công chính bị bách hại đó sao? Chính Chúa Giêsu đã chẳng là người đầu tiên chống lại những kẻ chất gánh nặng lên vai anh em mình và kết án nghiêm ngặt kẻ phạm tội đó sao? Kitô giáo đòi hỏi ta chống lại bất công, áp bức, dối trá, và điều đó đôi khi phải cần đến nhiều can đảm và thực sự hy hiến bản thân mình. Phải hy vọng rằng, thay vì làm suy yếu đi, đời đan tu giúp phát triển và làm cho khả năng phẫn nộ ấy nên nhạy bén hơn.
Nhưng phải chăng đó là điều thánh Biển Đức nhắm tới, khi mà ngài chỉ mong chữa trị bản tính nhân loại bị tổn thương nơi ta, trả lại cho nó phẩm giá và nét huy hoàng nguyên thủy?
Thực ra, thánh Biển Đức biết rằng khi bênh vực một anh em thì thường là chỉ vì lợi ích riêng, quan điểm riêng cũng như mối liên hệ của ta với người ấy. Tìm cách bảo vệ người anh em, nhưng đúng ra là ta tự bảo vệ mình. Phải can đảm lắm mới dám yêu thương thật sự. Nhưng ta chỉ can đảm được nhờ biết sáng suốt nhận ra lý do thúc đẩy tự trong thâm tâm. Và chỉ sáng suốt khi ta có khả năng lui bước trước sự phẫn nộ của mình.
C – Ngày 27.12
Cộng đoàn đan viện không xây dựng trên những mối liên hệ họ hàng, bạn hữu, trên tương quan xã hội hay sắc tộc. Cộng đoàn này xây dựng trên việc thuộc về Chúa Kitô, đấng vượt trên mọi biên giới của con người và giải thoát ta khỏi mọi thứ ích kỷ phe phái.
Chính vì quên mất dữ kiện này mà đôi khi nảy sinh những xáo trộn nặng nề, như thánh Biển Đức nói ở câu 3. Quả thật, khi ta từ chối chấp nhận tính cách mỏng dòn của mình, thì một trong những hình thức khép kín là ẩn mình vào một nhóm bạn hữu, là tạo nên một phe phái ở giữa cộng đoàn.
Không nên ngạc nhiên hay bực bội vì chuyện đó. Xưa kia cộng đoàn Giêrusalem đã phải tuyển chọn các trợ tá chỉ vì đã nảy sinh các phe nhóm do bởi một vấn đề rất cụ thể là chuyện ăn uống. Để tránh cách hành xử rất phổ biến là ưu đãi những người thân cận, cộng đoàn đã chọn ra những anh em cương trực và công chính.
Phải sáng suốt lắm mới ý thức được khi nào ta có nguy cơ đi vào con đường này, và phải rất khiêm tốn để chấp nhận lời người khác nhắc nhở mình. Muốn được vậy, ta phải yêu thương anh em cách trong sạch, như các linh phụ nói. Yêu thương như thế sẽ không lợi dụng người khác để thỏa mãn nhu cầu riêng hay thoa dịu nỗi khắc khoải nơi mình. Cassianô nhấn mạnh nhiều tới chuyện phải có con tim trong sạch, nếu không sự trong sạch nơi thân xác sẽ chỉ là ảo tưởng lừa dối ta và sẽ tiêu tan ngay khi có dịp.
Chương 70
ĐỪNG AI TỰ TIỆN ĐÁNH ĐẬP ANH EM
Ngày 28.4 – 28.8 – 28.12
1 Trong đan viện phải tránh mọi dịp kiêu căng tự phụ, 2 nên cha ấn định rằng không ai được phép tuyệt thông hay đánh đập anh em, nếu không do viện phụ ủy quyền. 3 Những ai lỗi phạm điều này sẽ bị sửa phạt công khai cho người khác sợ. 4 Còn trẻ em dưới mười lăm tuổi, mọi người phải lo cho chúng giữ kỷ luật và trông coi chúng. 5 Nhưng phải hết sức chừng mực và hợp lý. 6 Ai tự tiện làm gì xúc phạm đến người lớn tuổi hơn, bất luận cách nào, ngoài lệnh viện phụ, hay nổi giận cách thiếu cẩn trọng với trẻ em, sẽ bị kỷ luật. 7 Vì có lời chép: “Điều con không muốn làm cho con, thì cũng đừng làm cho người khác”.
Chú giải:
A – Ngày 28.4
Ở chương trên, ta thấy thánh Biển Đức cấm đan sĩ bênh vực một đan sĩ khác. Trái lại, trong chương này ngài cấm đan sĩ đánh đập anh em mình. Hai điều có thể coi như đối nghịch nhau. Nhưng có đúng vậy không? Trong cả hai trường hợp, đan sĩ hành xử theo phán đoán riêng của mình như thể chỉ mình mới biết được điều gì xẩy ra. Đáng ngạc nhiên là rất thường cũng chính những đan sĩ ấy vừa bênh vực anh em này lại vừa đánh đập anh em khác, bằng lời nói hay bằng hành động. Trong cả hai trường hợp, thánh Biển Đức nhằm tới cùng một thái độ nội tâm, một thái độ mà ta nên tìm hiểu kỹ hơn, vì một lúc nào đó, mỗi người chúng ta đều có thể hoặc là hết sức bênh vực hoặc là chỉ trích quá đáng.
Trong cả hai trường hợp, đan sĩ nào hành xử như thế chứng tỏ là anh ta thiên vị, bởi lẽ anh ta tự đặt mình ở trung tâm vấn đề. Người anh em gặp khó khăn, hay người làm cho anh ta khó chịu, khơi dậy vết thương của anh ta. Quan trọng không phải là người anh em kia, nhưng là vấn đề của anh ta, là những cay đắng của anh ta, là cảm giác anh ta bị thất bại, không được hiểu.
Như vậy, đan sĩ nào bênh vực một anh em là tự đặt mình vào trung tâm cuộc tranh luận, bằng cách sử dụng sự đau khổ hay lầm lỗi của người anh em kia. Điều đó giúp ta hiểu được sự nghiêm khắc của thánh Biển Đức đối với đan sĩ ấy. Điều thánh nhân mong muốn là làm cho anh ta ý thức rằng anh ta không phải trung tâm thế giới, rằng vũ trụ không xoay quanh cái bản ngã bé nhỏ của anh ta, một bản ngã chất chứa những bực bội và khắc khoải.
Như thế, khi nhận ra chính Chúa Giêsu mới là trung tâm thế giới, trung tâm của vũ trụ này, thì sau cùng anh ta có thể được giải thoát khỏi sức ép của sợ hãi, của mặc cảm, và đạt tới tự do nội tâm.
B – Ngày 28.8
Cơn cám dỗ “tuyệt thông hay đánh đập” người khác (v.2) thật là nặng nề khi có ai làm ta bực mình hay khiến ta không thể chịu đựng nổi. Quả thực, khó mà chống lại được cảm giác bất lực muốn nhận chìm ta khi thấy một anh em không sống như phải sống hay như ta mong mỏi. Vì vấn đề trước hết không phải là người anh em, nhưng là phản ứng người ấy gây nên nơi ta.
Bằng mệnh lệnh dứt khoát không được “tuyệt thông hay đánh đập”, thánh Biển Đức cấm ta chiều theo cảm xúc trào lên từ vô thức và nhận chìm ý thức của ta. Vì tuyệt thông hay đánh đập sẽ chẳng giải quyết được gì. Điều đó chỉ giúp ta bớt căng thẳng, chứ không đụng tới được những căn cớ sâu xa khiến ta bị căng thẳng như vậy.
Nhưng khi ra lệnh cấm đó, thánh Biển Đức đặt ta vào một tình huống không thể thực hiện được. Ngài để mặc ta một mình trước con quái vật ngóc đầu lên từ đáy lòng ta và đang rình nhận chìm ta hoàn toàn. Khi ngăn chặn cách ứng xử quen thuộc để giải tỏa sức mạnh dữ dội tiềm ẩn trong ta, ngài đặt ta trước một lựa chọn triệt để.
Nhưng ta sẽ làm gì với sức mạnh dữ dội đó? Vì có nguy cơ nó sẽ quay lại chống ta, biến ta thành tội phạm, hạ giá ta xuống, hay còn làm ta oán giận mọi người nữa. Làm sao giáp mặt được với con quái vật đó vốn ẩn nấp trong đáy lòng ta và người anh em đã khiến nó chồm lên mà đôi khi chẳng hay biết? Với thánh Biển Đức chỉ có một phương thế bảo vệ được ta, đó là điều cuốn Thánh Kinh Giêrusalem gọi là “Khuôn ngọc thước vàng”, hay “Luật vàng” (Mt 7,12).
Thánh Biển Đức không trưng dẫn luật này theo dạng tích cực, như thấy trong Mt 7,12 hoặc Lc 6,31, nhưng theo dạng tiêu cực, như trong sách Tôbia 4,15: “Điều con không muốn người ta làm cho mình thì con đừng làm cho người ta”. Chỉ có một phương thuốc giải độc duy nhất cho sức mạnh dữ dội kia, đó là tình yêu. Bước đầu tiên để thực hiện tình yêu này là thuần hóa con quái vật đang ẩn nấp trong cõi tối tăm sâu thẳm của lòng ta, luôn luôn sẵn sàng cắn xé, đánh đập hay tuyệt thông anh em ta. Cách thế duy nhất để thắng nó là tập yêu thương. Và bài học thứ nhất trong trường tình yêu là học để nhận ra rằng mình không biết yêu. Vì thế thánh Biển Đức mới trưng dẫn luật vàng theo dạng tiêu cực. Ai nhận ra mình không biết yêu, người ấy đã thắng được con quái vật nơi lòng họ rồi.
C – Ngày 28.12
Trong chương này, thánh Biển Đức chỉ nói tới việc đánh đập thân xác anh em, nhưng ta cũng có thể làm tổn thương anh em bằng lời nói, bằng thái độ khinh khi, chẳng khác nào như những cú đấm vậy. Đánh đập anh em, loại trừ họ khỏi cộng đoàn, làm như thể không có họ, đó là một cách tự coi mình như quan tòa.
Thánh Kinh đã mạnh mẽ cảnh cáo: ngươi là ai mà dám xét xử anh em? Ngươi nghĩ mình tốt hơn họ sao? Ngươi cho mình là ai? Ngươi viện cớ gì mà hành động như thể ngươi có quyền loại trừ và kết án, trong khi người chẳng tốt hơn họ? Đó là những lời thánh Phaolô trách cứ người Do Thái khi họ tự ý xét xử dân ngoại, nhưng cả ta cũng đáng trách như thế.
Vì đó là mấu chốt của vấn đề: ai loại trừ, ai đánh đập bằng hành động hay lời nói, là tự coi mình có quyền hơn người anh em bị họ xét xử, và hơn cả viện phụ nữa. Như vậy phải chăng cần phải loại bỏ hẳn óc phê bình? Chắc hẳn là không. Nhưng điều quan trọng là cũng phải tập phê bình chính bản thân, với ý thức về tính cách tương đối trong các nhận định của mình. Sự sáng suốt về mình là khởi đầu của khôn ngoan, và là điều kiện để có được phán đoán lành mạnh.
Chương 71
ANH EM HÃY VÂNG LỜI NHAU
Ngày 29.4 – 29.8 – 29.12
1 Vâng phục là điều tốt lành, nên không những mọi người phải vâng phục viện phụ, mà anh em cũng vâng phục nhau nữa, 2 vì biết mình sẽ phải qua con đường vâng phục mà đến cùng Thiên Chúa. 3 Vậy, ngoài lệnh truyền của viện phụ hay các vị hữu trách do ngài đặt lên, cha không cho phép anh em đặt một lệnh riêng tư nào lên trên. 4 Còn trong các trường hợp khác, anh em hãy hết lòng yêu mến và ân cần vâng phục đàn anh mình. 5 Gặp ai tỏ ra chống đối, sẽ bị sửa phạt.
6 Khi anh em bị viện phụ hay một vị bề trên nào quở trách, bất luận vì lý do gì, dù nhỏ mọn đến đâu, 7 nếu thấy các ngài hơi tỏ dấu bực mình hay khó chịu một chút, 8 thì lập tức phục ngay xuống đất tạ tội dưới chân các ngài, tới khi các ngài nguôi giận và chúc lành cho mới thôi. 9 Ai không chịu làm thế, hãy phạt phần xác; nếu còn cố chấp, hãy loại ra khỏi đan viện.
Chú giải:
A – Ngày 29.4
Ở chương 58 thánh Biển Đức đặt sự vâng lời cùng với lòng ham thích cầu nguyện và chịu xỉ nhục như tiêu chuẩn để biết đan sĩ có thật lòng tìm Chúa không. Nhưng đó là thứ vâng lời nào? Thật là nguy hiểm nếu ta dựa theo những tiêu chuẩn của thế gian, nơi mà người ta vâng lời vì bị ép buộc (vâng lời như kẻ nô lệ) hay để được lợi lộc nào đó (vâng lời như kẻ làm công). Đức vâng lời đan tu dẫn ta vượt xa hẳn, đưa ta vào mầu nhiệm đức tin, trong khi cho ta nếm hưởng sự tự do cao cả của con cái Thiên Chúa.
Trách nhiệm của viện phụ là không được làm cho anh em chỉ vì sợ hay vì muốn được thưởng mà vâng lời, bởi lẽ làm thế là ngài ngăn cản họ khám phá ra mầu nhiệm đức tin ẩn khuất sau đức vâng lời đan tu. Ở chương 2, câu 6 thánh Biển Đức nói: “Viện phụ hãy nhớ rằng, trong ngày phán xét kinh khủng, ngài sẽ phải tường trình về hai điều: giáo huấn của ngài và việc vâng lời của môn đệ”.
Ở đây thánh Biển Đức đưa ra một gợi ý quan trọng: Viện phụ không có quyền chiều theo cám dỗ muốn làm cho con đường vâng lời trở nên bằng phẳng dễ đi hơn, kẻo ngài lại ngăn cản anh em đi vào mầu nhiệm đức tin, khi họ làm việc gì chỉ do tình yêu, chứ không phải vì thích hay sợ bề trên, hoặc vì không thể làm khác hay vì hy vọng được cái gì.
Nhưng điều đó đòi hỏi anh em phải có đức tin mạnh mẽ, điều đó buộc viện phụ phải tin vào ơn Chúa, đấng có thể làm mọi sự, ngay cả khi xem ra tất cả đều bế tắc và không thể giải quyết được. Nhất là viện phụ phải tin rằng Thiên Chúa có thể đánh động tâm hồn người anh em. Vấn đề vâng phục luôn luôn là vấn đề đức tin.
B – Ngày 29.8
Trong một dịp bầu cử viện mẫu, thấy vài chị em có vẻ không vui, vị chủ tọa đã nói với họ như sau: “Có lẽ các chị không có được viện mẫu theo như mình chọn, nhưng các chị đã có viện mẫu theo đức tin”. Giữa mầu nhiệm đức tin và mầu nhiệm vâng phục mà chương 71 vừa nói có mối liên hệ mật thiết. Khi một số anh em than phiền về sự sa sút của đời đan tu trong sa mạc Ai Cập, các vị cao niên nói rằng không phải vì thiếu cha thiêng liêng để hướng dẫn, nhưng vì thiếu môn đệ biết vâng lời.
Ở chương 58, cùng với lòng ham thích cầu nguyện và chịu sỉ nhục, thánh Biển Đức nêu lên sự vâng phục như một trong các tiêu chuẩn giúp phân định xem đan sĩ có thật lòng tìm Chúa không. Nhưng vâng phục thế nào? Cái nguy là vâng phục theo tinh thần thế gian: vâng phục vì miễn cưỡng, vì hợp ý hay vì tư lợi. Vâng phục đan tu vượt xa những cách vâng phục đó, giúp ta đi vào mầu nhiệm đức tin và cho ta nếm hưởng được sự tự do tuyệt vời của con cái Chúa.
Trách nhiệm của viện phụ là không được làm cho sự vâng phục ra méo mó khi khiến cho anh em vâng phục bởi sợ hãi hay mong được thưởng, vì khi ấy ngài sẽ cản trở anh em khám phá ra mầu nhiệm đức tin ẩn khuất sau đức vâng phục đan tu. Chính vì vậy, ở chương 2 câu 6, thánh Biển Đức khuyến cáo: “Viện phụ phải luôn luôn tâm niệm rằng giáo lý ngài dậy và sự vâng lời của môn đệ là hai điều ngài sẽ bị tra vấn trong ngày công phán kinh khủng của Thiên Chúa”. Ở đây thánh Biển Đức gợi lên một điểm cốt yếu: viện phụ không có quyền làm cho con đường vâng phục dễ đi hơn, kẻo lại ngăn cản anh em tiến vào mầu nhiệm đức tin mỗi khi họ thực hiện một điều gì: không phải vì thích hay sợ bề trên, không phải vì không thể làm cách nào khác được hay vì hy vọng sẽ được gì, nhưng đơn giản chỉ là vì yêu mến.
Nhưng muốn lôi cuốn anh em vào mầu nhiệm đức tin, viện phụ cũng phải tin vào ơn Chúa đấng có thể làm được mọi sự, ngay cả khi mọi sự xem ra đều bế tắc, đều bất khả thi, và nhất là ngài phải tin rằng Thiên Chúa có thể đánh động tâm hồn anh em. Vấn đề vâng phục luôn luôn là vấn đề đức tin.
C – Ngày 29.12
Thánh Biển Đức đối chiếu người anh em chống đối với con đường vâng phục dẫn tới Thiên Chúa. Từ la tinh “contensiosus” có nghĩa là ngoan cố, bướng bỉnh. Từ này có gốc là “contendere” nghĩa là “gắng sức dương ra”, hàm ý chiến đấu, chống cự, hùng hổ muốn thắng. Thái độ này khiến cho ai làm người khác tổn thương sẽ “không chịu nhận lỗi”.
Thánh Biển Đức phác họa hình ảnh con người từ chối đi vào đường vâng phục, vâng phục viện phụ, nhưng cũng vâng phục anh em nữa. Con người như thế sẽ mang hai đặc trưng: Trước hết là chối từ, chống đối, ham muốn bắt người khác nghĩ như mình. Hai là khinh thị người khác, dù bề trên hay anh em.
Ta có thể tìm ra những lý do tâm lý tạo nên những thái độ ấy, và chắc hẳn có những lý do như thế. Nhưng bước đầu tiên và cốt yếu nhất là ý thức về tình trạng tâm lý đó. Vì chuyện chẳng lành xẩy ra thường là bởi người anh em không ý thức được hành động của mình. Nếu những người khác thấy rõ phải ứng xử ra sao, thì anh em ấy lại không thấy được. Vậy bước thứ nhất là phải ra khỏi sự mù quáng. Thường ta hay tự bào chữa: ấy là tại người khác, điều họ đòi hỏi thật là ngớ ngẩn.
Ta sẽ được cứu thoát ngày nào ta tự hỏi: “nhưng tại sao tôi làm vậy?” Ta sẽ được cứu thoát nhất là khi không chịu để mình bị mắc bẫy, và chấp nhận đi vào đường giải thoát đích thực, đó là đường vâng phục, và trước hết đó là con đường tự giải thoát để có thể chuyên lo tìm Chúa.
Chương 72
NHIỆT TÂM TỐT LÀNH
CÁC ĐAN SĨ PHẢI CÓ
Ngày 30.4 – 30.8 – 30.12
1 Như có thứ nhiệt tâm xấu xa cay đắng làm xa cách Chúa và đưa xuống hoả ngục, 2 thì cũng có thứ nhiệt tâm tốt lành giúp xa lìa nết xấu, dẫn đến Chúa và đời sống vĩnh cửu. 3 Đó là thứ nhiệt tâm mà đan sĩ phải say mê tập luyện, 4 nghĩa là phải ân cần tôn kính lẫn nhau, 5 hết sức nhẫn nại chịu đựng những yếu đuối xác hồn của nhau, 6 thi đua vâng lời nhau, 7 đừng ai tìm theo tư lợi, nhưng tốt hơn hãy mưu ích cho tha nhân, 8 yêu thương nhau trong tình huynh đệ thanh khiết, 9 kính sợ Chúa trong đức ái, 10 mến yêu viện phụ trong tình mến chân thành và khiêm tốn. 11 Tuyệt đối không lấy gì làm hơn Chúa Kitô, nguyện xin Ngài dẫn đưa tất cả chúng ta đến cuộc sống muôn đời.
Chú giải:
A – Ngày 30.4
“Tuyệt đối không quí chuộng gì hơn Chúa Kitô, nguyện xin ngài thương dẫn đưa tất cả chúng ta đến cuộc sống muôn đời”. Thánh Biển Đức cho thấy bí quyết lớn lao của mọi cộng đoàn đan tu: không phải ‘tôi và Chúa của tôi’, nhưng “tất cả chúng ta”. Vì thế ngài yêu cầu viện phụ đừng làm cho đoàn chiên bị mệt, sợ rằng khi thúc ép chúng đi nhanh quá, những con yếu sẽ chết hết. Mục đích là tới nơi, nhưng “tất cả” cùng tới.
Đó là điều làm cho nhiệt tâm tốt và nhiệt tâm xấu khác biệt nhau. Vì thánh Biển Đức định nghĩa nhiệt tâm tốt như sau: -để ý tôn trọng nhau; -hết sức nhẫn nại chịu đựng những yếu đuối xác hồn của nhau; -thi đua vâng lời nhau; -không tìm lợi ích cho mình, nhưng cho người khác; -yêu thương nhau bằng tình yêu trong trắng; -khiêm tốn và chân thành mến yêu viện phụ.
Nhiệt tâm tốt chú trọng tới thiện hảo, tiến bộ và lợi ích của người khác. Nhiệt tâm xấu có thể định nghĩa đơn giản là: “Tôi”. Ta hiểu được nhiệt tâm xấu có thể đi tới chỗ hủy diệt cộng đoàn, bởi vì lợi ích của tôi, những cái làm tôi bực bội, những lựa chọn của tôi mới đáng quan tâm hơn cả. Người khác có mặt cũng chỉ là để phục dịch tôi, vì nhu cầu của tôi.
Với thánh Biển Đức, cộng đoàn là con đường ưu tiên để khám phá ra đâu là tình yêu đích thực. Tình yêu ấy chấp nhận cho người khác cùng lên đường với ta và tin rằng họ có thể thăng tiến. Phúc lớn cho một cộng đoàn khi mọi thành viên cùng nhau tiến bước mà không ai bị bỏ lại bên đường.
B – Ngày 30.8
Trong chương 72 này, thánh Biển Đức đối chiếu nhiệt tâm tốt lành với nhiệt tâm xấu xa cay đắng. Tuy nhiên, ngài không bận tâm mô tả thứ nhiệt tâm xấu, nhưng lại nói dài về nhiệt tâm tốt. Nhiệt tâm tốt được biểu trưng bằng một số tương quan với người khác, với Chúa, và với viện phụ. Theo thánh Biển Đức, nhiệt tâm xấu chỉ là sự vắng bóng nhiệt tâm tốt, đó là một thiếu sót.
Thiếu sót này phát sinh những hậu quả như sau: -không tôn trọng nhau; -không chịu đựng những yếu đuối nhỏ mọn của nhau; -không chịu vâng lời người khác; -chỉ tìm lợi ích riêng; -yêu thương cách miễn cưỡng; -tự nhủ: làm gì có Chúa; -không có viện phụ; -không quí chuộng gì hơn bản thân.
Thứ nhiệt tâm tiêu cực, hay nhiệt tâm xấu đó rất giống điều các Thánh Vịnh nói về kẻ nghịch đạo. Ta có thể nhận thức được thứ nhiệt tâm ấy hoạt động trong cuộc đời ta. Và nhận thức này rất có lợi. Nhưng trong lời thánh Biển Đức diễn tả, điều thú vị là nhiệt tâm xấu chỉ là dấu hiệu của sự vắng bóng, là dấu hiệu của sự thiếu tình yêu chân chính, thiếu kinh nghiệm thực sự về Thiên Chúa. Theo nghĩa từ nguyên, kẻ nghịch đạo là kẻ không qui hướng về Chúa.
Vì cái xấu không hiện hữu, đó chỉ là sự vắng bóng, là từ chối điều thiện. Đó là tình yêu tự chối bỏ mình. Như vậy, nhiệt tâm cay đắng phát sinh từ việc chống cưỡng, việc chối từ khiến ta xa rời Thiên Chúa. Và điều này rất quan trọng, vì nó muốn nói xử lý vấn đề bằng những thay đổi ngoài mặt thì không đủ, nhưng phải tấn công vào tận gốc rễ sự từ chối ẩn tàng nơi ta. Nhiệt tâm cay đắng là triệu chứng của căn bệnh sâu xa này. Đó là dấu báo động cảnh giác ta rằng ta đang chao đảo, đang xa rời Thiên Chúa, để tạo nên hỏa ngục cho mình.
Vì hỏa ngục không phải là tạo thành của Thiên Chúa, nhưng của con người. Và Thiên Chúa tôn trọng con người tới độ cho họ quyền tự do chối từ ngài vĩnh viễn. Hỏa ngục không phải là một nơi chốn, đó là sự chối từ, chối từ dứt khoát và vĩnh viễn, một vực thảm không đáy.
C – Ngày 30.12
Xét cho cùng, với thánh Biển Đức, nhiệt tâm tốt chính là yêu thương bằng hành động. Ngài đã xác định điều đó từ câu 4 đến cuối chương. Vậy, nhiệt tâm tốt là để ý tôn trọng nhau (c.4), nhẫn nại chịu đựng (c.5), vâng lời nhau (c.6), tìm ích lợi cho người khác (c.7), yêu thương bằng tình yêu huynh đệ trong sáng (c.8), mến yêu kính sợ Chúa (c.9), yêu mến viện phụ (c.10), và sau cùng không quí chuộng gì hơn Chúa Kitô (c.11).
Như vậy, nhiệt tâm tốt qui hướng tình yêu về ba đối tượng: anh em, viện phụ, Thiên Chúa và Chúa Kitô. Ba đối tượng này liên kết mật thiết với nhau. Nhưng yêu mến Chúa, đấng ta không thấy, thì dễ hơn yêu mến viện phụ và mọi anh em, không trừ ai.
Nhưng hai tiếng tình yêu có nghĩa ý gì? Ta phải hiểu như thế nào? Có phải là sự xúc động của con tim bùng lên rồi tàn lụi theo thời gian không?
Thánh Biển Đức đảo ngược cái nhìn thông thường, vì không phải yêu mến mà ta vào đan viện, nhưng đúng hơn ta vào đan viện để học biết yêu mến. Và để học yêu, thánh Biển Đức khuyến khích ta thực hiện những hành vi yêu mến này, mà với thời gian có thể biến đổi sâu xa hữu thể ta, thức tỉnh tình yêu đang nằm yên trong đáy lòng ta. Ta khó hiểu được điều đó, vì hay lẫn lộn tình yêu với tình cảm. Với thánh Biển Đức, tình yêu, chính là cách hiện hữu của Thiên Chúa, thì không có phân biệt giữa chúng ta.
Chương 73
BẢN LUẬT NÀY KHÔNG BAO HÀM TẤT CẢ CHƯƠNG TRÌNH NÊN THÁNH
Ngày 1.5 – 31.8 – 31.12
1 Cha viết bản luật này, để khi tuân giữ trong đan viện ta mới chứng tỏ mình sống lương thiện phần nào hoặc mới bắt đầu hoán cải. 2 Còn nếu muốn mau chóng đạt tới đỉnh trọn lành của đời tu thì đã có giáo huấn của các Thánh Phụ, ai tuân giữ giáo huấn này sẽ đạt tới đỉnh hoàn thiện .
3 Thực vậy, có trang nào, lời nào Chúa phán trong Cựu Ước và Tân Ước lại không phải là quy tắc rất mực ngay chính cho đời sống con người? 4 Có sách nào của các Thánh Phụ công giáo lại chẳng lên tiếng dẫn đường chỉ lối cho ta đi thẳng đến với Ðấng Tạo Hóa? 5 Những bài thuyết trình của các Giáo Phụ, các quy chế và hạnh tích của các ngài, và bản tu luật của Cha thánh Basiliô là gì, 6 nếu không phải là những lợi khí luyện đức cho các đan sĩ đạo hạnh và vâng lời đó sao? 7 Còn ta, vốn ươn lười xấu nết và chểnh mảng, hãy coi đó mà tự thẹn.
8 Vậy dù con là ai mà nôn nóng tiến về quê trời, thì nhờ Chúa Kitô trợ giúp, con hãy giữ trọn bản tu luật nhỏ bé này được viết cho người mới bắt đầu. 9 Khi ấy, nhờ Chúa giữ gìn, con sẽ đạt tới đỉnh cao đạo lý và nhân đức cha vừa trình bày trên kia. Amen.
Chú giải:
A – Ngày 1.5
Trong hai câu sau cùng của chương 73 này cũng là những câu sau cùng của tu luật, xem ra như có cái gì mâu thuẫn. Một đàng thánh Biển Đức nói về “bản luật nhỏ mọn dành cho người mới bắt đầu” (c.8), đàng khác, ngài nói tới “đỉnh cao giáo lý và nhân đức” (c.9). Và thánh nhân quả quyết khi “thực hiện” bản luật ấy ta sẽ “đạt tới” những đỉnh cao này. Làm sao đạt tới những đỉnh cao được khi chỉ thực hiện bản luật nhỏ dành cho người mới bắt đầu đời tu? Đó là vấn nạn.
Tôi xin đề nghị hai con đường ta phải đi để hiểu được cái vẻ mâu thuẫn vừa nói. Con đường thứ nhất dựa trên nhóm từ “mới bắt đầu”. Đan sĩ là người mới bắt đầu, nghĩa là người môn đệ, người học trò mới đến trường. Ai coi mình là thầy thì không còn là đan sĩ nữa. Và có lẽ phải mất tới cả một đời để ta học biết được rằng mình chưa biết gì cả, rằng ta cần phải bắt đầu tập đọc lại. Như thế, thánh Biển Đức mời gọi ta đi vào con đường khiêm tốn, là đường duy nhất có thể dẫn tới những đỉnh cao, như chính Chúa Giêsu đã dậy: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Nhưng ta phải hạ mình xuống, cũng có nghĩa là đi lên, như thế nào? Và đây là con đường thứ hai. Người nào muốn trèo lên đỉnh núi cao thì phải tuân giữ một số luật căn bản. Và không phải vì gần tới đỉnh rồi nên họ được phép khoái chí mà bỏ giây an toàn và gậy cuốc (dụng cụ của người leo núi). Trái lại, càng lên cao họ càng phải khôn ngoan. Ai quên điều đó sẽ rơi xuống liền. Người hạ mình xuống hay là người đi lên theo con đường khiêm tốn cũng phải như vậy.
Kết luận sau cùng là ta chỉ tới được đỉnh cao bằng đức khiêm tốn. Đức khiêm tốn của người bắt đầu lại mỗi ngày, như thánh Antôn nhắc nhở. Đức khiêm tốn của người ý thức được sự giòn mỏng của mình. Đức khiêm tốn chính là cây thang vững chắc để ta trèo lên tới đỉnh cao.
B – Ngày 31.8
Có lẽ ở hai câu cuối của chương sau cùng này ta có thể tìm thấy cách hiển nhiên một trong những nguyên tắc cơ bản của linh đạo Biển Đức. Đó là qua tất cả những điều nhỏ mọn trong cuộc sống, ta có thể đạt tới những đỉnh cao của đời sống thiêng liêng. Sự tương phản diễn tả trong hai câu cuối của chương này có cái gì thật bất ngờ.
Thực vậy, tu luật Biển Đức không quan tâm tới những trạng thái thần bí hay những kinh nghiệm khác thường. Trái lại thánh Biển Đức để ý tới những điều nhỏ mọn trong cuộc sống của đan sĩ: đồ ăn thức uống, thời dụng biểu, công việc, cách thức ngủ nghỉ, cách chào hỏi nhau v.v. Chìa khóa Nước Trời được cất dấu trong những cái tầm thường của cuộc sống trần gian.
Và đôi khi thánh Biển Đức còn làm ta khó chịu vì quá nhấn mạnh tới những cái mà thoạt tiên ta thấy có vẻ như phụ thuộc và chẳng quan trọng gì. Tuy nhiên, chính nơi những cái tầm thường trong cuộc sống mà thánh Biển Đức đã tìm ra đường ngài phải đi, và ngài mời gọi ta tìm ra nơi đó đường của mình trong khi dõi bước theo vị Thầy thiêng liêng duy nhất đích thực là Chúa Kitô.
Thật vậy, như thư Do Thái quả quyết, chính khi sống cuộc đời con người như ta mà Chúa Kitô học biết vâng phục. Chính khi sống trong cộng đoàn nhỏ bé Nadaret, giữa Thánh Gia, rồi giữa các môn đệ mà Chúa Kitô đã sống ơn gọi làm con. Sao ta lại nghĩ mình có thể làm khác được?
C – Ngày 31.12
Thánh Biển Đức bảo cuốn luật của ngài chỉ là một “bản luật nhỏ bé viết cho người mới bắt đầu”. Ít năm trước đây, trong Dòng ta có những đan sĩ tưởng có thể viết một bản tu luật mới, thiêng liêng hơn, thích hợp với thời đại hơn. Chắc là thánh Biển Đức chẳng ngăn cản họ. Nhưng sáng kiến ấy đã không thành.
Điều đó dễ hiểu, vì khi đọc tu luật thánh Biển Đức lần đầu ta không thể không thất vọng và tự hỏi làm sao mà còn có thể đọc một số đoạn trong tu luật này cho người của thế kỷ 21 nữa. Và có lẽ phải nghe đi nghe lại nhiều lần, nhất là phải sống tu luật này trong thời gian lâu dài ta mới ý thức được nó vẫn hết sức hợp thời, và dưới cái vỏ ngôn từ nó dấu ẩn một sức sống vô tận.
Không phải các đan viện, nhưng là các giáo dân đã cho thấy điều đó. Những người này ham thích tòa lâu đài cổ từ thế kỷ 5 ấy tới độ đã viết ra những bản chú giải về nó. Sự hâm mộ của những người không phải đan sĩ đã lôi cuốn các đan sĩ trở về nguồn cội. Thật là ngược đời, nhưng chuyện ấy đã xẩy ra.
Tại sao có được kết quả như thế, nhất là ở những nơi chẳng ai chờ đợi? Thiết nghĩ nhờ hai lý do thiết yếu. Lý do thứ nhất đó là vì con người thời nay đã chán những lời nói trống rỗng và những hứa hẹn hão huyền. Họ thèm muốn một điều gì có thể thực sự thay đổi cuộc đời họ. Và thánh Biển Đức đã cống hiến cho họ điều ấy: một nghệ thuật sống thiêng liêng. Thánh nhân không nói nhiều về Thiên Chúa, nhưng vạch ra con đường dẫn tới ngài. Thật là cực kỳ hữu ích.
Lý do thứ hai, đó là từ mười lăm thế kỷ nay, mặc dầu vô số tác phẩm thuộc đủ thể loại đã được viết, tu luật Biển Đức vẫn còn đó. Tuy giản dị đơn sơ, tu luật này đã dẫn đưa biết bao người tới hoàn thiện. Như thánh Phaolô nói: “chính anh em là bức thư của tôi”. Chính những người sống bản tu luật này mới làm chứng cho thực chất của nó, chứ không phải những người chỉ nói về nó. Từ mười lăm thế kỷ qua, tu luật này đã chứng tỏ tính xác thực của mình khi dẫn đưa các thế hệ đan sĩ tới “đỉnh cao đạo lý và nhân đức”, như lời thánh Biển Đức cầu mong, và ta được nghe lại ở câu chót của chương 73 này, trong ngày cuối năm hôm nay.