Thứ Sáu, 29 Tháng Ba, 2024

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 7: Thử Thách

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM

   

 Nội san linh đạo đan tu 

 

CỘI NGUỒN HY VỌNG

 

 Số 7 – Tháng 7 năm 2009

 

LỜI GIỚI THIỆU

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 7 tập chú vào chủ đề “THỬ THÁCH”. Hai từ “THỬ THÁCH” tuy rất đơn giản, ngắn ngọn và cỏ vẻ êm tai, nhưng hầu như ai cũng khiếp sợ và mong muốn điều đó đừng xảy ra cho chính mình. Dầu vậy, muốn hay không THỬ THÁCH vẫn luôn song hành với vận mệnh con người, như Vịnh Gia đã nói vẻ đời người qua Thánh Vịnh 79:
Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục
Mạnh giỏi chăng là được tám mươi
Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ
Cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi
Nếu đời người được ví như hạt giống cần phải nẩy mầm, tăng trưởng và đơm bông kết trái, thì THỬ THÁCH lại là môi trường khắc nghiệt để đào luyện hạt giống. Thử thách đó có thể là “sỏi đá” cằn cỗi bên vệ đường làm cho hạt giống khô héo vồ chim trời đến ăn mất; thử thách dó cũng có thể là bụi gai bóp nghẹt cây dang trong giai đoạn mơn mởn phát triển; cũng có thể là thời tiết mưa lo gió lớn làm thối rữa hạt giống…, nhưng khi biết vượt qua dể lớn lên, con người có thể biến đá sỏi nơi vệ đường thành những mãnh vườn màu mỡ và phát quang những bụi gai đang xâm chiếm để trả lại không gian cho “cây”. Nói chung, THỬ THÁCH có thể là duyên cớ làm cho người ta mất niềm hy vọng, buông xuôi để sống trong đêm tối bi thương phó mặc cho dòng đời nổi trôi, hoặc cũng có thể là sức mạnh cho người ta đứng vững giữa sóng gió cuộc đời và thành công trên nhiều lĩnh vực. tục ngữ ca dao Việt Nam có câu: “Không có gì khó, chỉ lòng người không bền”. “Không sợ vì ngăn sống cách núi, những sợ lòng người ngại núi e song”
Nếu thế giới này chỉ là phẳng lặng và dịu êm, không có sóng gió phủ phàng, thì thử hỏi anh hùng hào kiệt có hơn ai. Hình ảnh “GIÓP TRONG CƠN SÓNG GIÓ” là như tia sống cuối đường hầm cho những ai chiến dấu không ngơi nghỉ trước những khổ đau dồn dập đổ xuống trên bản thân vả gia đình. Khi nhìn về mẫu gương Đức Giêsu mà thư Do thái nói với chúng ta rằng: “Vị Thượng Tế của chúng ta đã chịu thử thách về mọi phương diện, nhưng không hề phạm tội (x. Dt 4,15), chúng ta thấy Ngài cũng phải rùng mình và hình như tuyệt vọng trước những thử thách đau thương tột cùng của kiếp người: “LẠY CHA, SAO NGÀI BỎ RƠI CON”.
Còn đối với chúng ta là Đan Sĩ, lúc đối diện với thực tế “KHI TÔI YẾU”, chúng la phải làm gì? Động lực nào giúp qua? Và chúng ta thấy gì qua việc “CANH TÂN ĐỜI SỐNG DÒNG TU VÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ”? Hãy nhìn về “XITÔ NGUYÊN THỦY”, để thẩy rằng “CHA TỔ PHỤ: THỬ THÁCH VÀ NIỂM HY VỌNG ĐAN TU” là động lực khích lệ cho chúng Ta dấn thân trong đời sống tu trì; để rồi, qua “YÊU MẾN, NHẪN NHỤC VÀ NIỀM VUI”, có thể phục vụ cộng đoàn và anh em. Điều quan trọng là kiên tri bám trụ, đó là một thách đố, và vì thế, “NGÀY NAY, LÀM SAO ĐÀO LUYỆN CÁC TẬP SINH VỀ SỰ ĐỊNH SỞ”. Cho nên, “SỐNG ĐỜI THƯỜNG”, tuy rất đơn giản nhưng cũng đầy dẫy những chông gai, rất cần “CHUNG SỨC VƯỢT KHÓ”, dể cùng nhau trong đời đan tu, đơn điệu và cũng chẳng thiếu khó khăn, cuộc sống chúng ta được bừng cháy bằng ngọn lửa tỉnh yêu và thấm nồng men đức ái!
Ban Biên Tập kính mời quí độc giả vào thăm ngôi vườn “THỬ THÁCH”, để ngắm xem những bông hoa “đồng nội” đang vươn lên, và thưởng thức những làn hương hoang dã qua những suy tư và cảm nghiệm mà các tác giả chia sẻ cho chúng ta.


BAN BIÊN TẬP

 

 MỤC LỤC

 

 

GIÓP TRONG CƠN SÓNG GIÓ

 

Cao Nguyên

Sống mỗi ngày không ai trong chúng ta lại không phải đối diện với khó khăn thử thách,đến với chúng ta dưới nhiều hình thức, có thể là bệnh tật yếu đau, tai nạn, có thể là vấn đề tình cảm hoặc là môì liên hệ với người thân bị đổ vỡ, có người gặp thất bại trong công ăn việc làm, bị người khác hiểu lầm. Như vậy, chúng ta phải làm gì hay là xử sự ra sao mỗi khi phải đốì diện với những khó khăn thử thách như thế trong đời sống hằng ngày?
Thánh kinh có lời giải đáp cho chúng ta trong vấn đề này qua câu chuyện ông Gióp và giúp chúng ta có cách để giải quyết với những khó khăn thử thách đó. Điều quan trọng là chúng ta phải có lòng tin, phải có đức tin nơi Chúa và nhìn vấn đề như Chúa nhìn, và tin chắc rằng Lời Chúa sẽ là ngọn đèn soi sáng hướng dẫn đời sống chúng ta mỗi ngày. Không ai trong chúng ta tránh được những khó khăn thử thách giữa đời, người tin Chúa cũng như người không tin, đều phải đồi diện với những khó khăn thử thách như nhau, chỉ có điểm khác biệt là phản ứng của chúng ta trước hoàn cảnh đó như thế nào.

I. BẾ TẮC TRONG ĐAU KHỔ

1.Khi tư duy về Thiên Chúa
Đứng trước những tai họa xảy ra, ông nghĩ gì về Thiên Chúa, Người mà ông hằng kính sợ; và nghĩ gì về tha nhân, người mà ông hằng gặp gỡ và yêu mến; với chính bản thân mình khi đang đôi diện với muôn vàn khó khăn thử thách.

a.Về lòng nhân hậu
Phản ứng đầu tiên của ông bắt đầu từ kinh nghiệm của bản thân, ông nghiệm thây rằng cuộc sống của con người trên trần thế này chẳng khác gì một cuộc khổ dịch, con người luôn luôn vất vả suốt chuỗi ngày của một kiếp sống làm thuê, và dường như Thiên Chúa tặng ban cho con người một món quà để rồi diễu cợt vậy. Bởi vì: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao ? Và chuỗi ngày lao lúng vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công; cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề” (G 7, 1-3).
Như thê, cuộc sống con người quá đỗi phù du và khổ ải: Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: “khi nào trời sáng?” Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: “bao giờ chiều buông?” Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng. Thịt tôi chai ra, dòi bọ lúc nhúc, da tôi nứt nẻ, máu mủ đầm đìa. Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Ông nghĩ mãi rồi cũng chán, vì thế ông bắt đầu kêu than:“Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (7,4-11).
Nhìn lại tấm thân tàn tạ của mình, ông đã mở miệng thốt ra những lời nguyền ghê gớm. Ông Gióp lên tiếng nói:
“Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi chào đời, củng như đêm đã báo: đứa con trong bụng mẹ là một nam nhi ĩ Phải chi ngày ấy là đêm tối, phải chỉ từ nơi cao thẩm Thiên Chúa đừng để ý tới ngày đó làm gì… ” (G 3, 1.16)
Quả thật ở đây chúng ta thấy có sự tương đồng giữa nỗi lòng của Gióp và của ngôn sứ Giêrêmia. Trong khi thi hành sứ vụ, ngôn sứ Giêrêmia cũng đã gặp biết bao thử thách, từ nhà vua cho đến các quan, tư tế và đặc biệt là dân chúng. Trong khi ông muốn đem đến cho họ những ân sủng của Thiên Chúa; thì đối lại, họ đồng lòng tìm cách để lấy mạng sống ông. Trong hoàn cảnh như thế ông cũng đã bộc lộ hết nỗi lòng của mình trước mặt Chúa. Ông đã thổ lộ, chất vân, giãi bầy cùng van lơn.
Đôì với Gióp thà “được kể như không có” hay là “được đưa thẳng từ lòng mẹ xuống mồ” thì tốt hơn. Ông không thể lặng câm không nói, trong khi nỗi đớn đau xé nát ruột gan, ông quá bất mãn đến độ đổ lỗi cho Thiên Chúa về thảm kịch đời ông. Thật trớ trêu, khi thân phận con người tựa như hoa mới nở đã vội tàn, con người qua mau chẳng khác nào như bóng câu qua cửa sổ (x.G 14,2). Đời người chỉ như hơi thở, vậy mà Thiên Chúa cứ để mắt trông coi, cứ dò xét, cho nên ông đã thốt lên: “Con chẳng thiết tha gì, con đâu có sống mãi, xỉn cứ để mặc con, vì đời con chỉ là hơi thở. Con ngưởỉ là gì đề Ngài phải coi trọng, để Ngài phải lưu tâm, để sáng nào Ngài cũng phải thăm viếng, để mỗi lúc Ngài lại phải xét soi » (G 7, 16-20). Sống cay đắng xót xa, ông đã nhận ra ân huệ sự sống và lòng nhân hậu của Thiên Chúa giống như một trò chơi chẳng có ý nghĩa gì. ông cảm thấy rằng Thiên Chúa như đang đùa giỡn mạng sống không vậy: “Ngài quật cho nó ngã không dậy được, và nó phải ra đi, Ngài làm cho mặt mày nó ra xấu xa ghê tởm, rồi Ngài đuổi nó đi. Con cái nó có được vẻ vang rạng ngời, nó cũng chẳng hay; chúng nó bị khinh khi miệt thị, nó nào có biết! Đau đớn trong thân xác, duy một mình nó chịu, tang tóc trong tâm hồn, chỉ một mình nó hay” (G 14, 20-22). Dù trong đau khổ, ông Gióp đã nhận ra thân phận thụ tạo, hư vô của mình, nếu không được Thiên Chúa thăm nom, sẽ biến đi như cỏ nội hoa đồng. Đau khổ chưa được ánh sáng phục sinh chiếu rọi, là một nỗi bất hạnh và tuyệt vọng.

 

b. Về sự khôn ngoan
Đứng trước sự khôn ngoan của Thiên Chúa, những lời than vãn của ông Gióp lại hướng vào hành động của Ngài, ông thấy rằng: sự khôn ngoan của Thiên Chúa cũng rất giới hạn. Đây quả là một phản ứng của con người trong lúc gặp thử thách gian nan, cũng như của chính Gióp, ông nói: “Người đã bất hạnh lại còn bị khinh chê! Kẻ đã trượt chân lại còn xô thêm nữa”. Những kẻ ngay lành thường bị xử sự như thế, nhưng người gian ác lại sống bình an trong lều, những kẻ chọc giận Thiên Chúa được mọi bề yên ổn, và kẻ bắt Thiên Chúa phục vụ mình cũng thế! (x.G 12, 5-6). ồng lên án sự hiểu biết cũng như lốì cư xử của Thiên Chúa, dường như ông thây có sự bât công trong đó. Thật vậy, chúng ta sẽ nghĩ như thế nào khi Thiên Chúa biết rõ một người vô tội vậy mà Ngài vẫn cứ dò xét, như Gióp than: “Nhưng chính Ngài dò bắt lỗi con, và điều tra tội con đã phạm, mặc dầu Ngài biết: con không có lỗi gì và không ai thoát khỏi tay Ngài được” ( G 10, 6-7).
Gióp tự nhủ: “Tôi sẽ thưa với Thiên Chúa: xin đừng kết án con, xin cho con biết tại sao Ngài tố cáo con” (G 10, 2), thế nhưng Thiên Chúa vẫn im lặng. Thật vậy, chúng ta không lạ gì mà từ xưa tới nay, con người vẫn kêu than khi đối diện với vấn đề gai góc nhất của đời sống con người là vân đề đau khổ. Chúng ta luôn đặt câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại để cho nó xảy ra trên đời này? Phải chăng Thiên Chúa không đủ khả năng để ngăn chặn nó? Nếu quả thật đúng như vậy, thì Thiên Chúa đâu còn là Thiên Chúa quyền năng nữa; hay Thiên Chúa có thể làm được nhưng Ngài không làm. Nếu đúng như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng, Ngài chẳng lưu tâm gì đến thụ tạo mà Ngài đã dựng nên. Ngài có phải một vị Thiên Chúa Tình Yêu như con người vẫn tin? Như thế thật là vô ích cho con người vẫn cố công tìm kiếm Ngài.
Con người đối diện với đau khổ thường có thái độ chạy trốn nhưng chẳng giải quyết được gì. Đau khổ vẫn còn đó và đầy thách thức; dù có tránh né nhưng đau khổ vẫn còn đó, nhiều khi ta trốn chạy đau khổ này thì lại gặp những đau khổ khác có khi còn oan nghiệt hơn. Cuối cùng con người vẫn ở trong tình trạng đau khổ và bế tắc. Chúng ta còn có thái độ lạc hướng khi gặp đau khổ; làm chúng ta dễ lên tiếng phạm thượng : Phải chăng Thiên Chúa có đủ sức tiêu diệt sự dữ, mà Ngài không muốn, hoặc muốn mà Ngài không tiêu diệt nổi; như thế thì Ngài không tốt lành, hay là Ngài bât lực, hoặc chẳng có Thiên Chúa. Với thái độ đó, con người nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa toàn năng, đau khổ sẽ làm họ nghi ngờ tình yêu của Ngài. Ngược lại, nếu Ngài là tình yêu, thì đau khổ sẽ đẩy họ tới chỗ nghi ngờ uy quyền của Ngải. Suy tư của con người về đau khổ chỉ đưa đến bế tắc và Thiên Chúa phải nhận lấy Nietzche đã hô lên: “Thiên Chúa đã chết”. Với những thái độ này càng làm con người rơi vào tình trạng bế tắc, đau khổ không vơi đi mà lại làm nó ngày càng mưng mủ và nhức nhôi thêm.
Ông Gióp đã không chấp nhận sự bất công của Thiên Chúa, ông đã nổi nóng và kêu oan: “ Sao Ngài lại ẩn mặt, vả xem con như thù địch của Ngài…?” (G 13, 24). Quả vậy, những lời lẽ trên của Gióp, khi ông kêu ca về lòng nhân hậu cũng như sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã làm lung lay nền tảng đức tin của ông. Chính vì thế mà ông đã bị “hổng chân” để rồi chính ông trở thành nạn nhân cho tài “lý đoán” cao xa của ông. Đố là:
-Ông luôn chờ đợi và đòi hỏi Thiên Chúa phải thưởng công cho lòng trung tín của ông.
-Ông đã tự xây cho mình một mô hình Thiên Chúa để rồi cứ quanh quẩn trong đó, và cuối cùng không thể nào tìm được lốì thoát.
Có lẽ Gióp sẽ mãi mãi sống trong tâm trạng bất an, bóp méo khuôn mặt của Thiên Chúa, nếu chính Thiên Chúa không hiện ra trả lời cho ông. Một cách gián tiếp Thiên Chúa như muôn nói với Gióp: “Hãy ra khỏi cảnh đau thương của con, hỡi con Ta hãy ra khỏi chính con. Hãy đặt mình vào địa vị của Ta. ở trong địa vị của con, con chẳng thể hiếu gì đâu. ở địa vị của Ta con sẽ nhìn thấy cả. Ai đã làm nên cái này? Cái kia ? Có phải con không? Có phải một kẻ hay chết không? Hãy mở mắt to ra mà nhìn vào công trình của Ta.” Thay vì dạy ông những bài học luân lý, lúc này không ích gì. Thiên Chúa diễn tả cho ông thấy sự sống và những việc lạ lùng vô cùng độc đáo; vẻ đẹp của những vật hiện hữu mà chính Ngài là căn nguyên và là cứu cánh. Gióp không phản đối gì nữa, chỉ nhất trí thán phục. Câu trả lời cho tất cả mà thực ra lại không phải là câu trả lời, là một cái gì sống động, khôn lường và không thể ngờ vực như chính Thiên Chúa .
Xét theo lý luận của con người, đau khổ vẫn luôn là một mầu nhiệm. Trong chiều hướng đó, con người cũng không thể khám phá gì hơn khi đôi diện với khôn ngoan và lòng nhân từ với Thiên Chúa, khi chính mình sống trong khổ đau. Nếu con người không thể đọc ra ý nghĩa của khổ đau từ phía Thiên Chúa, tha nhân có thể giúp gì để làm sáng tỏ vấn đề này?

 

2. Bế tắc của lý luận nhân loại.
Khi nghe biết những đau khổ mà người bạn của mình là Gióp đang phải chịu, ba người bạn của ông đem đến cho ông sự an ủi từ di sản khôn ngoan truyền thống, sự khôn ngoan đã có sẵn lời giải đáp đúng cho mọi hoàn cảnh(!). Ngay cả hiện trạng của ông. Họ lý luận rằng: Nếu Gióp cứ một mực cho rằng mình công chính, vô tội, trong khi hậu quả đã rành rành trước mắt, thì rõ ràng là một sự phạm thượng! Chuẩn mực có sẵn, cứ theo lôi giải thích cổ truyền, sự đau khổ chính là hình phạt các tội riêng tư, hay của cha ông. Đối với não trạng Do thái lúc bấy giờ, sự thưởng phạt xảy ra ngay ở đời này, bởi không ai hình dung được một hình thức sự sống nào bên kia cái chết cả. Như thế, công chính thì được sung sướng, vô đạo thì bị trừng phạt; những trường hợp ngoại lệ chỉ là bên ngoài mà thôi, trước sau gì Thiên Chúa cũng tái lập lại nguyên tắc này. Dầu vậy, Gióp vẫn chưa được thu phục, vẫn kiên định trong lập trường của mình: Dù đang sống trong hoàn cảnh bi thảm ông vẫn có lý để vững tin vào Thiên Chúa. Ông Gióp chua xót nói: “Đến bao giờ các anh hành hạ tôi, còn dùng lời lẽ mà đay nghiến? Các anh nhục mạ tôi đến cả chục lần rồi, ăn nói cộc cằn với tôi mà không biết xấu hổ! Giả như tôi có thực sự sai lầm, thì chỉ một mình tôi liên luỵ. Nhưng nếu quả các anh muôn lên mày lên mặt với tôi, và muốn chứng minh rằng: nỗi sỉ nhục tôi đang chịu là đích đáng, thì các anh hãy biết rằng người chèn ép và bủa lưới bắt tôi, chính là Thiên Chúa vậy” (G 19, 1-6).
Như thế, ngay cả đến các người bạn của ông cũng chẳng giúp được gì cho ông trong vấn nạn này. Khi đôi diện với mầu nhiệm đau khổ, bạn bè của ông chỉ biết bập bẹ những câu đã thuộc lòng, những lời nói như thế trong lúc này, trong hoàn cảnh này quả là xem ra như vô ích. Gặp người bất hạnh mà nói năng như thế thật là quá dở. Đôi lại với những lời của các bạn ông, bằng giọng mỉa mai chua chát, Gióp cho thấy lời nói suông thì quá dễ, nhưng với người đang đau khổ thì không gì vô hiệu và dễ làm nản chí cho bằng lời nói suông. Gióp lại càng nhấn mạnh: “ Các anh thật chỉ là con người ! Nhưng cùng với các anh, sự khôn ngoan sẽ chết. Tôi đây, tôi cung nghĩ được như các anh, với các anh, tôi đâu thua kém gì, ai chẳng biết như vậy? Thế mà ban hữu đã nhạo cười tôi là người đã từng khẩn cầu Thiên Chúa và đã được Người đáp lại. Than ôi, người công chính vẹn toàn lại trở nên trò cười cho thiên hạ! “Người bất hạnh lại còn bị khinh chê! Kẻ bị trượt chân còn bị xô thêm nữa”.
Như vậy, ông lại càng cảm thây khổ đau hơn khi bị mọi người hiểu lầm và như bị ruồng bỏ, trước tiên là Thiên Chúa, vì ông cho rằng chính Thiên Chúa là Đấng đã gieo họa trên ông. Tiếp đến là người vợ, người đã từng chung sống và hiểu ông hơn ai hết, nay cũng trở mặt mà khinh thường ông, bà nói: “Ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi ? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi!” (G 2, 9-10). Có thể nói, đó là sự xúc phạm đến bản thân ông và cả Thiên Chúa của ông nữa! Sự xúc phạm còn đến với ông từ những tôi trai tớ gái những kẻ trước kia hết lòng tôn kính và tùng phục ông. Ông nói: “Thậm chí tôi bị bọn nhãi ranh chế giễu, tôi vừa đứng dậy là chúng đã chọc tôi” (G 19, 18). Như thế, mọi người, cả những người thân thiết nhất nhìn ông mà ghê tởm, đến kẻ mến thương ông cũng trở mặt đi (x. G 19, 19).
Tương quan với tha nhân, thay vì soi sáng cho hoàn cảnh đáng thương lại còn chất thêm nỗi tủi nhục và cay đắng khi mà tình bằng hữu lại biến thành những lời xoi mói, lên án của những người thù nghịch!
Nếu hai tương quan với Thiên Chúa và tha nhân, không giúp gì cho Gióp trên hành trình khám phá mầu nhiệm khổ đau, thì khi trở về với chính mình Gióp có thể lần mò ra một nẻo đường đưa tới ánh sáng không?

 

3. Bế tắc khi trở về với cõi lòng.
Trong cơn thử thách đầy đau khổ, Gióp cảm nhận được cái thực tế buốt nhói của khổ đau. Vì vậy, ông cảm thây chán đời và muốn phản kháng lại Thiên Chúa. Do đó ông đã thốt nên những lời cay đắng nguyền rủa ngày mình chào đời: “Ôi phải chi đừng xuất hiện cái ngày tôi đã chào đời, cũng như đêm đã báo: Đứa con trong bụng mẹ là một nam nhi! Phải chi ngày ấy là đêm tối ! Phải chi từ nơi cao thẳm Thiên Chúa đừng để ý tới ngày ấy làm gì” (G 3,26).
Điều đầu tiên đối với Gióp là khi ý thức về sự liêm khiết chính trực, ông luôn quan tâm về những gì làm đẹp lòng Thiên Chúa, những gì có thể đem lại sự công chính đích thực cho ông. Hơn nữa, ông cũng có được một sự bình an tự tại nào đó mà ai ai cũng cảm thấy. Bởi vậy, khi có một “kẻ hở” nào làm ông phân tâm; ông lập tức tìm giải pháp để làm cho lòng mình an tĩnh lại ngay. Ví dụ: điều ông tự nhủ sau mỗi canh tiệc của con cái ông: “Biết đâu các con trai ta đã chẳng phạm tội và nguyền rủa Chúa trong lòng rồi (G 1, 5). Thế là ông dâng lễ thanh tẩy họ, để trút bỏ đi những duyên cớ bất an trong tâm hồn mình. Thái độ ấy, là kết quả của lòng sốt mến phụng sự Chúa, và như thế ông luôn luôn sống trong phúc lành mà Chúa ban cho mình.
Nhưng giờ tai hoạ đã ập đến. Cái giờ mà trong một ngày, ông đã phải nhận liên tiếp bốn tin dữ: tài sản mất hết, con cái vong mạng, bản thân bị hành hạ; cả bạn bè thân nhân đều xa lánh… trong cơn khốn cùng ấy, ông càng ý thức hơn về sự vô tội của mình.
Ông thưa với Thiên Chúa về điều làm ông vấp chưng: Tại sao Thiên Chúa nhân hậu mà đánh phạt người vô tội? Tại sao Thiên Chúa dửng dưng và bỏ rơi ông vừa khi chúc phúc cho ông? Phải chăng Người phủ nhận tất cả những đức hạnh bằng sự đè bẹp kẻ công chính cách phi lý? Phải ở trong tình trạng của Gióp chúng ta mới hiểu được những lời lẽ táo bạo của ông khi ông cả gan tranh luận với Thiên Chúa. Ông Gióp lên tiếng nói: “Im đi, để mặc tôi! Chính tôi sẽ nói, rồi muôn ra sao thì ra. Vì thế tôi sẽ liều mạng đến một mất một còn. Người có thể giết tôi, tôi chẳng còn gì để hy vọng, nhưng trước nhan Người, cách sống của tôi, tôi phải biện hộ. Đó chính là điều sẽ cứu tôi, vì trước nhan Người, ác nhân sẽ không dám xuất đầu lộ diện. Xin các anh để tâm nghe lời tôi nói, lắng tai nghe lời tôi giải bày. Này tôi sắp sửa trình bày vụ việc, tôi biết rõ rằng tôi công chính. Vậy nếu có ai cãi và thắng được tôi, tôi sẽ làm thinh ngay và chết tức thì. Chỉ xin Chúa miễn cho con hai điều này thôi, và con sẽ không trốn để khỏi giáp mặt Ngài: xin đừng để tay Ngài đè nặng lên con, và đừng làm con kinh hoàng sợ hãi. Bấy giờ Ngài gọi con sẽ thưa, hoặc con có hỏi, Ngài sẽ trả lời. Con đã phạm bao nhiêu tội lỗi? Bao nhiêu lần con đã phản nghịch, đã đắc tội với Ngài, xin cho con được biết. Sao Ngài lại ẩn mặt, và xem con như thù địch của Ngài?”
Thật ra, “Nếu Gióp kêu lên sự vô tội của mình bằng một âm thanh tuyệt vọng như thế, là vì chính Gióp cũng bị giao động; là vì ở trong Gióp, linh hồn Gióp đã ngã theo phe các bạn của mình. Ông Gióp đã van nài sự làm chứng của Thiên Chúa vì ông không còn nghe sự chứng thực của lương tâm mình. Đối với Gióp, lương tâm chỉ còn là một kỷ niệm có tính cách trừu tượng và đã chết” theo lòng ngay chính ông vẫn tin rằng đời sống của ông không thể nào bị phi bác vì đích thật, ông vô tội. Lòng tự tin đã làm cho ông càng lúc càng cứng rắn thêm trong nổ lực bào chữa cách vô vọng của mình. Sau cùng, ông đã kêu cầu Thiên Chúa phải đưa ra cáo trạng, ông nói: “Ôi ! phải chi có người nghe tiếng tôi! Đây là lời cuối cùng tôi nói, xin Đấng Toàn Năng trả lời cho tôi. Còn bản cáo trạng kẻ thù tôi đã viết, tôi sẽ mang trên vai, và đội như vương miện” (G 31, 35-36) và Thiên Chúa phải chịu trách nhiệm về cái vô lý trong cuộc sống của một kẻ lành phải đau khổ.
Trở về với lòng mình, Gióp cũng cảm thấy vô vọng: vẫn là ngõ cụt, vẫn là đường hầm, không một chút ánh sáng le lói ở cuối đường. Tuyệt vọng hay sao? Buông xuôi tất cả?

 

II.CHÌA KHÓA GIẢI MÃ ĐAU KHỔ: NHÌN RA NHỮNG ƠN LÀNH CỦA THIÊN CHÚA
Thật ra, những quan niệm và tương quan ảo tưởng này chỉ thốt ra từ miệng của một người chịu thử thách tưởng chừng quá sức. Nhưng sau khi đã tiếp xúc thực sự đi Thiên Chúa, ông đã sám hối và thốt ra những lời hết sức thân tình: “Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến. Vì thế, điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi con sấp mình thống hối ãn năn” (G 42,5-6).
Trong hiện trạng bị ung nhọt ác tính từ bàn chân tới đỉnh đầu; ông ngồi giữa đông tro, lấy mảnh sành mà gãi. Vợ trách móc, nhưng ông đáp lại: “Cả bà cũng nói như một mụ điên. Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận sao?” (G 2,9-10).
Như vậy, trong khi bị gian nan thử thách Gióp đã nghiệm ra hương vị ngọt ngào của ơn lành để xoa dịu tâm hồn mình đang chìm ngập trong đau thương. Nhờ đó dù có đang gặp những đau khổ nhưng chúng cũng không đánh gục ông. Như có lời chép: Ngày vận may, đừng quên điều bất hạnh, và ngày gặp bất hạnh, chớ quên đi vận may.
Sau khi mất hết của cải và con cái, “Gióp chỗi dậy xé áo mình ra, cạo đầu, sâp mình xuống đất, sụp lạy và nói: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho Đức Chúa lại lấy đi. Xin chúc tụng danh Đức Chúa.” (G 2,21). Hành động “chỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đít, chứng tỏ ông cảm thấy nỗi đau đớn qúa lớn do tai hoạ mang lại. Nhưng cử chỉ “sụp lạy” cho thấy rằng ngay cả khi đang đau đớn, Gióp cũng không nổi loạn chống lại quyết định của Đấng vừa giáng tai hoạ xuống đầu mình. Gióp nhận ra sự an ủi không chỉ phát xuất từ việc nhìn ra tình trạng của mình mà thôi, mà còn do đã nhận thấy sự công bình của Đấng Tạo Hoá nữa, cho nên Gióp nói: “Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy lại: xin chúc tụng danh Đức Chúa”, Gióp bị kẻ thù thử thách và đã mất hết, nhưng ông biết rằng nếu Thiên Chúa chẳng cho phép thì xa-tan không thể có quyền thử thách mình, ông không nói “Thiên Chúa đã ban cho, mà Satan đã lấy lại” mà nói rằng: “Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi”, có lẽ nếu kẻ thù lấy đi điều đã được Đấng Hoá Công ban cho thấy Ngài chỉ thu lại điều thuộc về Ngài chứ có cất đi của ta đâu? Nếu chính từ nơi Ngài ta lãnh nhận những của cải ta hưởng dùng ở đời này, thì tại sao ta lại than vãn khi Ngài thấy thu lại điều Ngài đã cho ta mượn do lòng rộng rãi của Ngài? Gióp kết luận bằng cách ca ngợi Đấng phán xét mình với những lời chúc tụng như sau: “Xin chúc tụng danh Đức Chúa”, Gióp đã nghĩ rất đúng và kết luận bằng lời chúc tụng. Dù dưới tai hoạ thử thách, Gióp vẫn cất lời ngợi khen Thiên Chúa.
Đứng trước cái bí nhiệm của thế giới vũ trụ, Gióp cảm nhận được sự giới hạn và ngu dốt của mình. Cũng vậy, ông nghiệm ra rằng: Đau khổ nằm trong chính mầu nhiệm của Thiên Chúa. Do đó, không thể tìm ra một giải đáp lý thuyết trừu tượng hoặc một câu trả lời tình cảm; điều quan trọng là biết sống trong đau khổ mà không thất vọng, không khước từ ơn gọi làm người của mình.
Cho đến nay, Gióp đã chỉ hiểu biết Thiên Chúa qua trung gian truyền thông tôn giáo và nền thần học Do Thái cô điển. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa đã làm ông rung động và làm đảo lộn mọi lý lẽ biện minh mà ồng đưa ra, nó đánh tan lòng đạo đức cổ điển đầy vị lợi. Đứng trước Thiên Chúa toàn nằng, ông khám phá ra sự hư vô của mình, đồng thời ý thức được sự khôn ngoan siêu việt của Thiên Chúa, kiểu cách hành động siêu việt của Thiên Chúa, làm sao con người có thể hiểu được?
Từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, Gióp đã được thay đổi tận gốc rễ trong thẳm sâu tâm hồn. Mối dây thân tình với Thiên Chúa khiến ông hoàn toàn tín thác nơi quyền năng và tình yêu thương quan phòng của Ngài. Thiên Chúa không loại bỏ đau khổ, chết chóc khỏi cuộc sống con người. Kinh nghiệm sống kết hiệp với Thiên Chúa đã giúp cho Gióp khiêm tốn, nhẫn nhục chịu đựng đau khổ trong bình an và tín thác trọn vẹn.
Trong cuộc tranh luận với Thiên Chúa, Gióp khám phá ra những chiều kích của sự nghèo nàn thật của mình. Ban đầu, sự “thánh thiện” của ông là liêm khiết; về sau, là sự nghèo nàn hoàn toàn. Trước thì Gióp đòi Thiên Chúa tính toán, sau ông không còn đòi gì nữa: ông chấp nhận để Thiên Chúa thắng vượt, Thiên Chúa mà ban đầu ông muôn “hiểu” dường như quan phòng và ý định của Ngài chỉ ở trong tầm mức trí khôn loài người. Nhưng sau là một Thiên Chúa vượt trên trí hiểu của loài người.
Ông thật sự đã trải qua từ tâm trạng “từ chối đến kêu cầu”; minh mẫn lúc ban đầu, sau là trong sáng. Nơi con người minh mẫn thì trí hiểu, lý trí làm chủ; nhưng con người trong sáng được thấm nhuần bởi ơn thánh và ánh sáng của Chúa, nên thay đổi hoàn toàn. Điều gây thắc mắc cho người minh mẫn, trở thành mầu nhiệm cho người trong sáng. Sự vô tội của Gióp trong phần cuối sách là sự vô tội của “những kẻ nghèo khó trong tinh thần”, được Chúa chúc phúc trên núi. Nói đến sự biến đổi khi ông thưa với Chúa “trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây chính mắt con chứng kiên”(G 42,5). Gióp không còn phản đối nữa, chỉ nhất trí thán phục. Ông không còn phàn nàn nữa như ông đã làm lúc đầu khi mới chịu thử thách. Gióp đã bình tĩnh lại và từ chỗ đòi hỏi Thiên Chúa trả lời ông; đến chỗ tôn thờ, thống hối với Thiên Chúa. Ông nói: “vì thế, điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi con thông hối ăn năn” (G 42,6).
Cuộc đời của Gióp là một quá trình dài tìm kiếm ý nghĩa của khổ đau: một sự khổ đau khởi từ việc mất mát những gì mình có và bao tai họa giáng xuống bản thân; tiếp đến là tình trạng khủng hoảng hầu như bế tắc tìm ra một lối thoát; và cuối cùng là chứng ngộ ra rằng có Thiên Chúa trong cơn bão táp. Tìm thây ý nghĩa của khổ đau không phải là kết quả của trì năng hay tài khéo lý luận của tha nhân và cũng chẳng phải việc trở về với lòng mình; mà là một cuộc gặp gỡ với chính Thiên Chúa. Thiên Chúa ngỏ lời và Gióp đã hiểu ra một phần nào. “Thiên Chúa trao ban, Thiên Chúa lấy lại”: Đó là chìa khóa giải mã cho những gì xẩy ra trong cuộc đời ông và, rộng lớn hơn, cho tất cả những ai đang sống trong cơn bĩ cực. Nói tóm lại, “tất cả là hồng ân” không chỉ là một khẩu hiệu mà là một phương châm sống cho Gióp và cho chúng ta.

 

KẾT LUẬN
Thánh Augustinô quả quyết rằng: Đời sống chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế không thể không có thử thách. Phải qua thử thách chúng ta mới tiến bộ, và không bị thử thách thì chẳng ai biết mình. Không chiến thắng thì chẳng được đội vòng hoa, không chiến đấu thì không thể chiến thắng, và không thể chiến đấu nếu không có kẻ thù và thử thách. (Bài đọc Kinh đêm, Chúa Nhật I Mùa Chay)
Qua con người Gióp giúp ta cần phải có một thái độ: coi đau khổ là một hồng ân vì qua đó ta tham dự vào vinh quang của Thiên Chúa và được biến đổi cách kỳ diệu. Đau khổ còn là một phương thức đền bù tội lỗi như ông Gióp đã hành xử thì sau cơn mưa, nhất định trời lại sáng. Vững tin rằng mọi đau khổ cũng sẽ qua đi, để cuối cùng hoa ơn huệ lại trổ sắc huy hoàng. Qua đó, giúp ta cảm nhận được an ủi, mỗi khi phải đương đầu với nghịch cảnh.
Bạn và tôi đang bước đi trên đường đời, mỗi ngày đều có những gian nan thử thách. Niềm tin nơi Thiên Chúa và lời dạy của Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta có được nhìn đúng về đau khổ. Tự sức bạn và tôi không ai vui trong lúc gặp khó khăn thử thách, nhưng với đức tin nơi Chúa, với lòng tin tưởng nơi Ngài chúng ta có thể vui sống trong khó khăn thử thách và trở nên người hữu ích cho người khác. Điều quan trọng đầu tiên là ý thức tình trạng tội lỗi bất lực của mình, khi chúng ta thừa nhận điều đó và tiếp nhận ơn cứu rỗi của Thiên Chúa đã hoàn thành qua cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, chúng ta nhận được sự sống mới của Thiên Chúa, giúp chúng ta vượt thắng mọi khó khăn thử thách.

 

 

 

 

 

 

 

 

SAO NGÀI BỎ RƠI CON?

 

Huy Mỹ

“Khi vào trần gian, Chúa Giêsu nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Này đây, Con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con ” (Dt 10,5.7). Chính “Thân Thể” ấy đã được các thiên thần loan báo: ‘Tờ báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua David, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,10-12).
Vâng, dầu là một “Thân Thể” bọc tã nằm trong máng cỏ nhưng lại là niềm hy vọng qua bao dòng thời gian và bao thế hệ con người trông mong. “Thân thể” đó các thiên thần đã vui mừng cất lên bài ca du dương trong đêm thánh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”(Lc 2,14).
“Thân Thể” ấy là ai? Thưa, đó chính là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã chen chân vào giữa dòng đời mặc lấy kiếp nhân sinh để đồng hành với nhân thế theo dòng chảy của thời gian, một con người của niềm hy vọng. Nơi Ngài lời hứa với dân tộc Israel được thực hiện. Nhưng cuộc đời của Ngài lại trái ngược với mọi dự phóng, suy tính của phàm nhân và hy vọng của Dân Ngài. Ngài đã làm đảo lộn mọi ước mơ của dân
chúng trông chờ, ngay cả thánh Gioan Tẩy Giả cũng nghĩ rằng, Ngài phải là người hùng mạnh và quyền uy: “Cái rìu đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3,10.12). Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người như thư Do thái diễn tả: “Khi còn sổng kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khấn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết”(Dt 5,7). Như vậy, “Dầu là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài cũng trải qua nhiều đau khổ mới học biết thê nào là vâng phục ” (Dt 5,8).
Đức Giêsu, với dòng đời trôi theo những thử thách và đau thương: Sinh ra trong cảnh khó nghèo cùng cực, sống bị người đời chống báng, chết bi thảm nhục nhã trên thập giá. Câu nói của Ngài như là đỉnh cao của kiếp người khi phải đối diện với những thử thách: “Lạy Thiên Chúa, Lạy Thiên Chúa Con thờ, sao Ngài bỏ rơi con (Mt 27,46). Sau đây, người viết xin đề cập đến một số khía cạnh thử thách mà Đức Giêsu gặp phải, để qua đó Ngài trở thành mẫu gương và động lực cho những ai đang chìm ngập trong biển đời tăm tốỉ và đau thương, tìm ra ánh sáng và hy vọng cho bước đường hiện tại và tương lai.

 

1.THỬ THÁCH VỀ QUYỀN NĂNG THIÊN SAI
Theo Tin Mừng Nhất Lãm: Sau khi nhận lãnh phép rửa, Đức Giêsu được đầy tràn Thánh Thần và được Người đưa vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ (x. Mt 4,1-11; Mc 1,12-13; Lc 4,1-13). Một trong những cám dỗ đầu tiên trong sứ vụ công khai của Đức Giêsu là thể hiện tư cách của Đấng Thiên Sai. Một tư cách mà ông Môsê, vị thủ lãnh Israel khi dẫn đưa Dân Chúa đi trong sa mạc, đã nhân danh vai trò thủ lãnh của mình để cầu xin Đức Chúa chiều theo ý ông, thực hiện cho dân khi họ đói khát, đòi ông phải cho họ ãn, cho họ uống (x. Xh 16,2-35). Ngày xưa, qua ông Môsê, Đức Chúa đã ban cho dân của ăn man na, từ trời ban xuống để nuôi họ. Hôm nay, ma quỷ cũng xúi Đức Giêsu với tư cách là Đấng Mêsia, lặp lại các cử chỉ của Môsê, nhưng không phải bằng cách mưa man na, nhưtig bằng cách làm ra bánh từ những tảng đá, một cách ngoạn mục và có sức thu hút hơn, đúng với khả năng của Đức Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi” (Mt 4,3), nếu Đức Giêsu thể hiện phẩm tính của mình là Đấng Mêsia, là con Thiên Chúa mà dân chúng hằng trông đợi thì việc Ngài hoá những tảng đá thành bánh sẽ ra sao? Thưa, việc Ngài biến những tảng đá thành bánh sẽ thu hút được đám đông dân chúng, vì qua kinh nghiệm của dân Chúa ngày xưa theo ông Mô sê đi trong sa mạc, họ chấp nhận mọi cực khổ miễn là họ có bánh ãn, nước uống (x. Xh 16-17). Ngày nay, Đức Giêsu cũng vậy, nếu phép lạ ngoạn mục đó thành sự, dân chúng sẽ thán phục và tôn vinh Ngài. Bằng chứng, qua biến cố Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng đã phong Ngài: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian! Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6,14-15). Đứng trước thử thách mà hầu như đường lối của con người đều xem là chính đáng, nhưng thực sự đó có phải là đường lối của Thiên Chúa hay không?
Nhìn lại Dân Chúa trong sa mạc khi gặp đói khát, ho đã kêu trách Thiên Chúa và Thiên Chúa đã chiều ý họ Còn Đức Giêsu ngày thứ 40, trước cơn đói, Ngài lại có sẵn quyền phép để biến đá thành đồ ăn thức uông là một nhu cầu chính đáng để phục vụ sứ mạng Mêsia nơi trần thế của Ngài. Nhiííig những gì con người cho là chính đáng và khôn ngoan, lại không phải là đường lôi của Thiên Chúa, “vì có lời chép rằng: Ta huỷ diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và vứt bỏ sự thông thái của người thông thái Thiên Chúa lại không để cho sự khôn ngoan của thê gian ra điền rồ đó sao? (1Cr 1,19.21). Khi ma quỷ đã nhắc cho Đức Giêsu biết, Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia để Ngài thể hiện quyền năng của mình. Trước những lời hấp dẫn và đúng với sự thật Ngài là như vậy, nếu là loài người, nhất là người viết bài này, chắc chắn sẽ thi hành quyền năng của mình cho ma quỷ biết tay thế nào là Đấng Thiên Sai, để nó phải suy phục tôn thờ, đừng bao giờ bén mảng tới lãnh thổ của Ngài nữa. Nhưng Đức Giêsu không như loài người thường nghĩ, Ngài ý thức rõ mình được sai đi, là Mêsia, là hiện thân của những gì Giavê đã hứa với Israel. Ngài đã chấp nhận thân phận của mình là “tự hạ”: “Vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lây thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thê, Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”(Pl 2, 2-4). Ngài không muốn ép Thiên Chúa phải can thiệp khi Người không định như thế, nên đã trả lời cho ma quỷ bằng những gì Thiên Chúa đã dạy cho dân tộc của Ngài: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,6).Ngày xưa, Thiên Chúa đã để cho Israel đi qua thử thách là sự đói khát, để kiểm chứng lòng tín thác của họ (x. Đnl 8,2-3) nhưng họ đã lẩm bẩm kêu ca, tiếc nuối Ai-cập. Ngày nay, Đức Giêsu cũng cảm thây đói, Người có thể nghĩ rằng Thiên Chúa đã bỏ rơi mình. Quỷ lợi dụng thời cơ này gợi ý cho Ngài tin vào quyền năng làm phép lạ của mình, và như thế là xúi giục Đức Giêsu nghi ngờ và bất phục tùng Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã dứt khoát nói “không” với quỷ và tiếp tục hoàn toàn cậy dựa vào Thiên Chúa (x. Mt 27,43). Đối với Ngài, Đấng Mêsia không có nhiệm vụ vun trồng những ảo tưởng dễ dãi, nhưng thức tỉnh niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa và thực hiện những gì mà Cha của Ngài muốn.
Cũng một chiều hướng đó không những ma quỷ xúi dục Đức Giêsu thực hiện quyền năng Mêsia, mà đến cả những nhà lãnh đạo tôn giáo Do-thái và các môn đệ cũng nài xin Ngài tỏ rõ sức mạnh quyền năng ấy. Tin Mừng Mt 12,38-42, cho thấy những người Kinh sư và Pha-ri-sêu xin Ngài dấu lạ từ ười để họ tin Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian. Hoặc như các môn đệ trong công cuộc truyền giáo bị người ta chống đối, đã xin Đức Giêsu ra hình phạt cho lửa từ trời xuống thiêu đốt (Lc 9,56), nếu Ngài chiều ý họ, thì không những thành đó tôn thờ Ngài mà các thành lân cận cũng nhận ra Ngài là ai, và công việc rao giảng của Ngài rút được nhiều thời gian, đỡ vất vả biết chừng nào.
Có thể nói, cuộc đời Ngài không những ma quỷ khiêu khích về tư cách Mêsia, mà đến cả dân chúng cũng khiêu khích Ngài: khi mới bắt tay vào sứ vụ rao giảng, dân chúng đã cho Ngài là người mất trí, đến nỗi người thân của Ngài phải đến đưa Ngài về (x. Mc 3,21), còn những người có chức quyền trong giới lãnh đạo Do-thái cho Ngài là người bị quỷ ám và việc Ngài trừ quỷ là dựa vào thế của tướng quỷ (x. Mc 3,22).
Cuộc đời Ngài “đi tới đâu, Ngài thi ân giáng phúc tới đó” (Cv 10,38), thế mà không một ai nhớ đến và chung cuộc bị kết án tử hình như một tên tội phạm. Trên thập giá, người qua kẻ lại đều khiêu khích: “Mi là kẻ phá được Đền Thờ; và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào! Hắn cứu được thiên hạ mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập giá đi, thì chúng ta tin Hắn liền”(Mt 27,40-42).
Có lẽ nỗi đau của Ngài lúc này là biết rõ mình là Mêsia của Israel, một dân tộc được tuyển chọn, thê mà họ lại từ chối nhận Ngài làm Vua (Mêsia), họ thay Ngài bằng một hoàng đế ngoại bang, họ chấp nhận làm nô lệ cho ngoại quôc, điều mà dân Israel coi như một sự xỉ nhục: “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xê-da”(Ga 19,15). Thiên Chúa sai Ngài đến để cứu độ dân tộc của Ngài mà cụ già Simêon sau những năm tháng mong chờ, đã được Thiên Chúa cho gặp, ông vui sướng và chúc tụng Người: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 2,29-32)…). Nhưng giờ đây, trên thập tự, Đức Giêsu tự cứu mình cũng không thể làm được. Chắc Ngài cũng nghiệm được cuộc đời người công chính bị hãm hại và bất lực ở trong tay kẻ ác có quyền hành như thế nào. Thử hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Lời nói của Ngài: uLạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 17,46). Ngài đã tin tưởng ở Thiên Chúa, thế mà Thiên Chúa lại bỏ rơi Ngài vào tay của phường ác nhân. Thật là bi đát cho một dòng đời đầy đau thương của Đức Giêsu, khi trong tay lại có đủ khả năng và quyen lực Thiên sai để tự mình có thể thoát khỏi những hoàn cảnh nguy hiểm, như bị đói trong hoang địa, dân chúng khiêu khích và cuối cùng là chết trên thập giá. Trước những thử thách như vậy, chỉ có Đức Giêsu mới dám nói với ma quỷ rằng: “Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4,7), và chỉ có Đức Giêsu mới dám thưa với Thiên Chúa trong cơn hâp hối cuối cùng: “Lạy Cha, con xin phó thác lỉnh hồn con trong tay Cha ” (Lc 23,46).

 

2.THỬ THÁCH VỀ SỰ TRUNG THÀNH
Trải qua bao dòng thời gian trông mong và hy vọng của Dân Chúa, lời Thiên Chúa hứa với tổ tiên, là ban cho họ một vị cứu tinh để giải thoát: “Người sẽ dùng trượng sắt mà cai quản muôn dân, danh Người là cố vấn kỳ diệu, Thần Lỉnh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình”(Is 9,5). “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9,6). Nhưng cuộc đời của Đức Giêsu là gì để cho dân chúng hy vọng? Thư Do-thái đã tóm tát cuộc hành trình dương thế của Ngài: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nhưng phải trải qua nhiều thử thách đau thương mới cảm nghiệm thế nào là thân phận con người (x. Dt 5,8). Đức Giêsu sau lần trung thành về sứ mệnh Mêsia của mình khi ma quỷ xúi dục làm bậy hoá bánh từ những tảng đá. Có thể nói, hiệp một, ma quỷ đã bị Đức Giêsu ghi vào lưới một bàn thắng tuyệt đẹp. Nhưng ma quỷ không để Ngài yên, sang hiệp hai, với kinh nghiệm sẵn có mà nó đã chiến thắng con người (nguyên tổ) ngay lần đầu tiên khi dùng chính lời Chúa để xúi dục ông bà nguyên tổ, và con người đầu tiên đã gục ngã. Lần này, ma quỷ cũng dùng chiêu bài cũ là lấy chính Lời Chúa trong Thánh Vịnh 91,11-12, để xúi Đức Giêsu bay từ trên nóc đền thờ xuống, nhằm đáp lại sự chờ đợi của dân chúng mà họ tín rằng Thiên Chúa sẽ ban cho họ một vị cứu tinh hùng mạnh và vị cứu tinh đó luôn được Thiên Chúa chở che:
“Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng,
cho bạn khỏi vấp chân vào đá.
Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc,
Đạp nát đầu sư tử khủng long” (Tv 91, 11-12)
Ma quỷ xúi Đức Giêsu vận dụng sự che chở của Thiên Chúa để chiều theo ý mình, như Ít-ra-el đã làm, khi đòi hỏi Thiên Chúa can thiệp cho họ có nước để uống, có bánh để ăn bằng cách gây sự với ông Môsê: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì?có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không? ông Môsê kêu lên cùng Đức Chúa: ‘Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con’ và Thiên Chúa đã chiều ý họ (Xh 17,3-6). Nhưng đôi với Đức Giêsu, Ngài dứt khoát không và lấy chính Lời Chúa đã từng dạy cho dân của Ngài để trả lời cho ma quỷ: “Anh em đừng thử thách Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thử thách ở Ma-xa” (Đnl 6,16). Israel cũng được gọi là “con yêu dấu của Thiên Chúa”, nhiốig tất cả hành trinh trong sa mạc tiến về đất hứa, họ lại là một. đứa con nổi loạn và bất trung (x. Đnl 6,16; Ds 14,22; Tv 78,18, 41). Họ đã quên Thiên Chúa cứu họ ra khỏi cảnh nô lệ ở Ai cập; họ đã quên Thiên Chúa dẫn dắt họ đi trong sa mạc; quên Thiên Chúa từng chiều ý họ: ‘Thèm thứ gì Ngài đãi cho thứ đó”(Tv 78,29), nhưng Dân Chúa đã phản bội, đã đánhđoi
Thiên Chúa của mình bằng một vị thần linh giả tạo để điều khiển theo ý mình:
“Họ đúc một con bê, rồi tôn thờ tượng đó,
Họ đổi Chúa vinh quang lấy hình bò ăn cỏ” (Tv 105,19-20).
Có thể nói, thử thách đối với Đức Giêsu không phải là chuyện một ngày hay bốn mươi ngày, mà là cả cuộc đời. Những thử thách đó dưới sự lèo lái của quỷ ma qua nhiều trung gian để khiêu khích Đức Giêsu chối bỏ sự trung thành với sứ mệnh thiên sai mà Thiên Chúa muốn Ngài thực hiện. Trước hết là những lời ngon ngọt của ma quỷ xúi dục Ngài làm bậy: Biến đá thành bánh, nhảy từ trên cao xuống như Tề Thiên Đại Thánh (Tôn Ngộ Không), và tôn thờ tiền tài là những thứ đi ngược lại ý định của Thiên Chúa (x. Mt 4,6).
Sự xúi dục này không thành công, ma quỷ lại dùng hình thức khác, đó là dùng môn đệ thân tín của Chúa Giêsu để ngăn cản Ngài tránh sứ mệnh nguy hiểm là cái chết mà Thiên Chúa đã muốn Ngài trung thành, nhưng ma quỷ lại thất bại (x.Mt 16,22). Sau cùng, một thử thách nữa không kém phần quyết liệt, đó chính là nơi bản thân của Ngài: Ngài đã nói không với ma quỷ. Giờ đây một lần nữa, Ngài cũng phải nói không với chính mình, khi mà những khát vọng và lo âu của tính tự nhiên trước cái chết đang tiến lại rất gần với Ngài. Có thể nói, chiêu bài cuôi cùng ma quỷ sử dụng là đau khổ và cái chết. Vì cái chết làm cho người ta điên đảo, mất phương hướng. Đức Giêsu cũng là con người, Ngài không thể không run sợ khi nhớ lại những cảnh tượng khổ hình mà người Rôma xử tội nhân. Họ bị đánh đập dã man và bị chết treo trên thập tự. Sách Công Vụ Tông Đồ ghi lại một cảnh tượng: nhân vật Giuđa, người Galilê, nổi loạn trong thời kiểm tra dân số nhiều người đã bị đóng đinh (x. Cv 5,37) mà chắc lẽ Đức Giêsu cũng nghe biết sự việc này. Khổ hình đó, rồi đây sẽ đổ xuống trên chính thân thể Ngài. Là người Do-thái, Đức Giêsu cũng biết rằng quan niệm truyền thống của dân tộc: Chết là một điều thật kinh khủng và phũ phàng, vì chết là hết hy vọng, là xa cách nguồn sống, xa cách Thiên Chúa:
“Chôn tử vong, ai nào nhớ Chúa,
Nơi âm phủ ai ngợi khen Ngài” (Tv 6,6),

“Chúa đâu làm phép lạ cho người đã mạng vong,
Ầm hồn đâu chỗỉ dậy ca tụng Chúa bao giờ?
Trong mồ mả ai nói về tình thương của Chúa?
Cõi âm ty, ai kể lại lòng thành tín của Ngài?” (Tv 88,11-12);

“Kẻ xuống mồ cũng dứt lòng trông cậy vào lòng Chúa trung” (Is 38,18).
Người Do-thái nào mà lại không than thở: “Hỡi tử thần, nhớ đến ngươi thật là cay đắng”(Hc 41,1). Là người Do-thái, Ngài cũng biết rằng lời ngôn sứ Isaia đang nói về Ngài qua hình ảnh người tôi tớ đau khổ của Giavê sẽ trở thành một người tàn phế: “Chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong… bị người đởi khinh khi ruồng rẫy … ai thấy cũng che mặt lại, không nhìn” (Is 53,2-3). . Do đó, trong vườn Giết-sê-ma-ni, trước biến cố sắp xảy ra cho mình, mặc dầu Ngài tin và hy vọng:
“ Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh tiêu vong” (Kn 1,13), nhưng Ngài cũng phải sợ hãi kinh hoàngđến nỗi mồ hôi máu chảy ra và cầu khẩn với Cha Ngài: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con” (Mt 26,39).
Giả như Đức Giêsu chết như một vị tử đạo, hay như một vị anh hùng liệt sĩ, thì Ngài đã có được đôi chút an ủi và khích lệ. Nhưng đàng này, Ngài phải chịu cực hình như một kẻ nổi loạn, một kẻ gây rối vì lý do chính trị, điều mà Ngài đã cố tránh, khỏi làm cớ cho người khác vấp phạm (x.Mt 17,24-27). Tệ hơn nữa, Ngài cẩn thận giữ lề luật (x. Mt 5,17), mà lại bị kết án và nguyền rủa, buộc tội đã làm ô uế đất Thiên Chúa ban cho Israel làm gia nghiệp (x. Đnl 21,22-23).
Cuộc đời của Ngài là thế sao? Bao nhiêu năm rao giảng và thu hút được nhiều môn đệ, nhưng một người trong nhóm môn đệ thân tín lại bán Ngài; khi gặp thử thách, họ đã bỏ trốn để một mình Ngài cô đơn (x. Mc 14,50).
Ngài là hiện thân của Lời Thiên Chúa hứa với dân được tuyển chọn, Ngài đã dấn thân cho bao nhiêu hy vọng đẹp đẽ và lý tưởng cao cả là xây dựng Vương Quốc Của Thiên Chúa nơi trần thế. Thế mà giờ đây, Ngài phải chịu thảm bại một cách đáng thương. Thử hỏi Thiên Chúa ở đâu? Thế nào là đường lối của Thiên Chúa? Thiên Chúa đã chăm lo cho chim trời và hoa huệ ngoài đồng (Mt 6, 26), và ban của tốt lành cho những kẻ kêu xin (Mt 7,11), thế mà giờ đây, Ngài xin Chúa Cha dủ tình thương cứu sống mà Thiên Chúa vẫn im hơi lặng tiếng. Là con người, chắc Đức Giêsu cũng cảm thấy không biết mình xin con cá mà Thiên Chúa lại cho con rắn hay sao? (Mt 7,10). Trên thập giá, Ngài đã thấm thìa nỗi cô đơn và thống khổ hầu như tuyệt vọng, vì phải chết trong tăm tối, để uống cạn chén đắng đầy ắp tính chất vô lý của người công chính bị bỏ rơi. Chẳng cố gì diễn tả nỗi kinh hoàng cùng cực đó cho bằng lời thốt lên của Ngài: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34).
Nhưng Đức Giêsu, một lần thưa xin vâng với Thiên Chúa để chen chân vào giữa dòng đời nổi trôi của kiếp người là cả cuộc đời Ngài vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Câu nói thốt ra từ đáy lòng cô đơn, khổ đau: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của cony sao Ngài bỏ rơi con?” Ngài đang trải qua cơn cám dỗ cuối cùng mà chính ma quỷ đã sử dụng dân chúng để thách thức Ngài: “Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào…Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi” (Mt 27,39-44). Nhưng Đức Giêsu đã đi tiếp hành trình còn lại trong thái độ vâng phục thánh ý Chúa Cha. Ngài đã gói trọn cuộc đời và sứ mệnh của mình vào trong một quyết định duy nhất là vâng phục và tin tưởng dâng lên Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, Con xin phó thác hồn con trong tay Cha”, rồi tắt thở (Lc 23,46).

KẾT
Qua sự trung thành của Đức Giêsu, Ngài đã trở thành mẫu gương cho chúng ta về sự thử thách và vượt thắng những cơn cám dỗ không phải là chuyện một ngày hay bốn mươi ngày, mà là cả cuộc đời. Đó là lý do tại sao sự điên rồ của thập giá chính là khôn ngoan của Thiên Chúa (x. lCr 1,23). Con Thiên Chúa bị giết chết trên thập tự là trường hợp điển hình và tiêu biểu trong các đường lối khôn lường của Thiên, Chúa và sự khôn ngoan sâu thẳm không ai dò thâu (x. Rm 11,33). Con Thiên Chúa bị hãm hại mà Trời vẫn im hơi lặng tiếng. Tâm trí Đức Giêsu nhận ra sự kiện này, nhưng hiểu nổi, và chính Ngài đã kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”. Một khi đã đảm nhận sứ mệnh sống liên đới với nhân loại tội lỗi, tất Ngài đã ý thức về hậu quả đắng cay này. Ngài đã nếm “đêm tối” của lòng mình, và đã chiến thắng những cơn cám dỗ giày vò mà ma quỷ muốn vạch ra giăng bẫy Ngài. Nhưng những gì Đức Giêsu đã chọn, thì cả cuộc đời sẽ phải liên tục nói không với quỷ ma và xin vâng với Chúa Cha (x. Dt 5,8), mặc dầu Ngài cũng có những khát vọng của bản tính con người (x. Mt 26,39; 27,46). Ngài chấp nhận sống và thi hành trọn vẹn thánh ý Chúa Cha; Ngài đã loại bỏ mọi thứ cung cách Mêsia mà Thiên Chúa không muốn, thứ Mêsia của dân chúng trông mong là oai hùng và quyền uy. Ngài chấp nhận làm một Mêsia chịu đóng đinh.
Đức Giêsu chết đi như một người thất bại, như một kẻ bị bỏ rơi. Dòng đời của Ngài có vẻ như đã trôi ngược với những gì Thiên Chúa hứa với dân của Ngài mà ngôn sứ Isaia đã mô tả trong Chương 9 về Đấng Mêsia. Ngài đã chấp nhận như một kẻ thất bại để cứu vớt những gì tiêu cực nơi con người nhân loại. Chính lúc ác thần có vẻ thắng cuộc, thì bức màn trướng trong đền thờ lại xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, nghĩa là từ nay con người và Thiên Chúa được gần lại với nhau không còn phân cách nữa; lúc Ngài tắt thở lại vang lên lời tuyên xưtig đức tin của một kẻ ngoại đạo: Đức Giêsu là con Thiên Chúa (x. Mc 2-15,38-39). Đó cũng là lý do tại sao, suốt hành trình làm chứng cho Tin Mừng, thánh Giacôbê đã cảm nghiệm và cũng là bài học cho chúng ta: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo không có gì đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1,2-4). Ngài còn nói thêm: “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Người ” (Gc 1,12).

 

 

 

 

 

 

KHI TÔI YẾU ĐUỐI

 

Antôn Nhâm

Khi tôi yếu… với một dấu chấm hỏi, ta làm một cuộc phỏng vấn bỏ túi. Kết quả sẽ thu được những câu trả lời như : khi tôi yếu là lúc tôi không mạnh – khi tôi yếu là lúc tôi yêu – là lúc tôi bệnh hoạn – là khi tôi thua trận… Thế nhưng với thánh Phaolô ta được một câu trả lời thật là bất ngờ và xem ra khó châp nhận : “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”. Tại sao lại ngược đời thế? Chúng ta chỉ quen nghe là thua trên thế thắng, và điều đó cũng chỉ để hiểu như một lời động viên. Một cách nào đó, từ câu nói của thánh Phaolô chúng ta có thể suy diễn, khi tôi yếu, tôi thua là lúc tôi thắng, tôi mạnh thì thật là nực cười. Có phải chăng thánh Phaolô đang “chia trí” khi nói như thế, hay ngài đang nói về một lãnh vực khác, lãnh vực thiêng liêng?
Dù là thiêng liêng đi nữa thì cũng thật là khó nghe, vậy ta cứ yếu đuối, sa ngã để được mạnh sao? Nếu đúng là như thế thì thật có lý để người ta mỉa mai và nhạo cười như trong quá khứ của lịch sử đã từng có người cho rằng tôn giáo chủ trương nô lệ hoá và làm yếu nhược con người, có thật như thế không?

Yếu đuối thuộc bản chất của con người
Yếu đuối được coi là một điều xâu nên ai cũng muốn tránh né. Ngoài đời sống xã hội, yếu đuối như những tà áo không ai muôn khoác. Có thể đó là nghèo đói, cô thế cô thân, thiếu khả năng… nhiều khi yếu đuối gắn liền với thiệt thòi và bị khinh rẻ. Trong ý nghĩa thiêng liêng, yếu đuối là sự sa ngã, thiếu khả năng thắng vượt các cám dỗ… Dù yếu đuối dưới phương diện nào đi nữa thì vẫn là một điều xấu xa và không ai muôn có. Bởi đó, trôn chạy được bao nhiêu hay bấy nhiêu; giấu được phần nào hay phần đó. Vậy mà Phaolô lại bảo: “Nếu cần phải vênh vang thì tôi chỉ vênh vang về sự yếu đuối của tôi” (2Cr 11,30).
Quả thật, có thể giấu được phần nào yếu đuối, không để lộ ra cho kẻ khác biết, nhưng tôi không trốn chạy được yếu đuối. Trên đường đi cuộc đời chỗ nào cũng có yếu đuối Yếu đuối gặp trong lúc đi đưcmg. Có khi đường đi dẫn đến yếu đuối.
Tôi có thể tránh được phần nào chứ không tránh hết được yếu đuối. Nỗ lực tránh lỗi lầm là tiếng gọi phải theo. Nhưng bất mãn vì không tránh hết được là tự kiêu. Yếu đuối là một phần bản tính tìm sự trọn hảo không bao giờ vấp ngã là tìm sự thất vọng. “Này trong tà ác tôi đã sinh ra, và đã mang tội lỗi khi mới là thai nhi trong bụng mẹ” (Tv 51,7). Yếu đuối tự trong bản chất của mình rồi, làm sao tôi có thể huỷ bỏ được nó. Chính vì vậy, không nhìn nhận mình có yếu đuối sẽ rơi vào vực sâu thất vọng, mất niềm cậy trông. Khi đó, tôi là kẻ không nhìn nhận chính mình.
Một khi không chấp nhận chính mình, là vong thân, là con đường đưa tới tuyệt vọng, vì đã đặt niềm tin tưởng của mình trên những gì hảo huyền. “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?”(lCr 4,7b). Thánh Gioan nói một cách tích cực hơn : “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta lãnh nhận hết ơn này đến khác” (Ga 1,16). Không khiêm tốn chấp nhận tự bản chât con người của mình là yếu đuối, thiếu thôn và nghèo nàn, thánh Phaolô gọi những con người như thế là lừa gạt chính mình. “Thật vậy, ai tưởng mình là gì mà kỳ thực không là gì hết, thì là lừa gạt chính mình”(G 1 6,3).
Cho dù có những con người về nhiều phương diện được xem là mạnh mẽ, dễ dàng thắng vượt những chướng ngại mà đối với nhiều người khác là một khó khăn thì không vì thế mà dám tự hào mình mạnh đủ. Nhiều lúc chính cái được xem là mạnh theo quan điểm của loài người đó, có khi chính nó tạo nên sự yếu đuối.
Khi nhắc lại lời tự vấn của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn “tôi là ai mà còn trần gian quá?”, Trầm Thiên Thu bộc bặch những dòng tâm sự; “Vâng, tôi chỉ là một “hạt bụi” nhỏ nhât mà đã làm xốn mắt Thiên Chúa!
Gói thuốc lá nằm trên bàn viết trước mặt tôi. Những ngón tay ám vàng. Đã bao lần hứa với lòng mình và người thân mà tôi vẫn chưa dứt bỏ hẳn được, dù vẫn biết rằng có hại cho sức khoẻ ”. Nếu ăn chay là kiêng thịt và nhịn đói thì quá dễ, vì tôi thường xuyên làm việc đó, dù hoàn cảnh “ép” tôi làm một cách vô thức.
Nếu ăn chay là giữ miệng, tôi cũng không phải chiến đấu nhiều, vì cả ngày tôi chỉ “trò chuyện” với cây bút và trang giấy. Và lại, tôi thường chẳng muôn tranh chấp với bất kỳ ai…
Nếu ăn chay là giao hoà với tha nhân trước khi giao hoà với Thiên Chúa, đồng thời biết rộng lượng hơn. Điều này cũng chẳng khó đối với tôi. Biết phận mình thế nào, tôi không phiền gì ai – dù nhìn bề ngoài “nghiêm”, người ta thường cho tôi là … “khó tính”!
Nếu ăn chay là hãm dẹp bớt đam mê. Thì đối với tôi lại là nan giải. Thế mới hay “khi ta mạnh lại là lúc ta yếu”. Con người mạnh mẽ mà yếu đuối. ”
Chấp nhận bản tính yếu đuối mỏng dòn không để tự ty mặc cảm, hay buông xuôi trước những cám dỗ, thử thách, nhưng trước tiên là nhìn lại chính mình để soi rọi tâm hồn và thấy mình thật nhỏ nhoi yếu đuối để cậy trông vào Chúa , biết “tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người”( Ep 6,10). Thánh Augustinô cũng có tâm tình như thế, “Nhưng Chúa, ôi tình yêu của con, sự yếu đuối của con dựa vào Chúa để được mạnh mẽ”. Vì thế mà thánh Phaolô thật có lý để hãnh diện về những yếu đuối của mình: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kỉtô ở mãi trong tôi”(2Cr 12,9). Quả thật, đây là sự nghịch lý của mầu nhiệm cứu độ. Để cứu con người một cách toàn diện, Thiên Chúa đã trở nên yếu như con người, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như chúng ta, để cảm thương những nỗi yếu hèn của ta và ban ơn trợ giúp mỗi khi cần (x. Dt 4,15-16). Vì thế, Thiên Chúa toàn năng đã trở nên một Thiên Chúa yếu.

Thiên Chúa Yếu
“Điều gì xấu? Đó là tất cả những gì phát xuất từ sự yếu đuối. Điều gì tệ hại và xấu xa nhất? Thưa đó là Kitô giáo”. Câu nói trên của Nietzsche là một điển hình về một số ý kiến bình luận về Kitô giáo, bị kết án là một tôn giáo nô lệ, tạo nên một týp người yếu nhược. Một tôn giáo như vậy chỉ có thể diễn tả một Thiên Chúa yếu nhược và bất lực, như bó tay trước những tội ác của con người. Làm sao có thể giải thích được một Thiên Chúa tốt lành và quyền nằng khi chứng kiến những nạn nhân vô tội bị xử tử một cách bất công và dã man tại nhà tù Auschwitz, và những thảm kịch của thế kỷ XX ? Nếu sự ác vẫn còn hiện hữu, thì Thiên Chúa chỉ là một Thiên Chúa yếu nhược mà thôi!
Thiên Chúa có yếu kém và Kitô giáo có phải là một tôn giáo nô lệ không ? Câu trả lời của Chúa Giêsu cho hai người con của ông Zêbêđê có thể làm sáng tỏ cho chúng ta.”Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tó anh em” (Mt 20,26b-27). Tại sao Đức Kitô đòi chúng ta làm người đầy tớ và nô lệ? Ở đây chúng ta có thể dựa trên ba cách giải thích và chứng minh về sự yếu kém.
Trước tiên là sự yếu đuối của Ađam. So với muông thú Ađam yếu hơn. Các giáo phụ giải thích cho chúng ta: Số dĩ Ađam không mạnh bằng các thú vật là vì ông không có mỏ cũng chẳng có móng vuốt, bởi vì ông là một thụ tạo giống hình ảnh Thiên Chúa, được trao ban linh khí và được mời cộng tác vào công trình sáng tạo.
Sự yếu đuối tạo nên nơi con người những nỗi khổ đau và những thất bại cũng hình thành một quá trình kinh nghiệm về sự mỏng dòn của thân phận con người. Nhưng những khổ đau và thất bại thường mang đến những điều phong phú.
Chúng được ví như viên ngọc trai : khởi đầu là một hạt sỏi lẵn vào thớ thịt của con trai, một nỗi đau ê ẩm toàn thân. Thế nhưng nó vẫn bao bọc lấy một cách kiên nhẫn bằng cặp vỏ lóng lánh của nó, để rồi từ đó tạo nên một viên ngọc quý giá. Thế nên, yếu kém, đau khổ cũng góp phần tạo nên sự kích thích để sáng tạo. Đó là cách giải thích thứ nhất về sự yếu đuối. Nhưng phải chân nhận rằng, yếu đuối, thử thách cũng có lợi cho con người. Kết cục nó cũng đem đến một sự thăng hoa.
Thứ đến, Kinh thánh cho ta hiểu sự yếu đuối có hai chiều kích. Đó là sự yếu đuối của Đavít. Quả thực, toàn bộ lịch sử cứu độ đã diễn ra qua sự nghịch lý : yếu nhất, nhỏ nhất, con út luôn thắng thế, vì sức mạnh của Thiên Chúa “được biểu lộ trong sự yếu đuối” (2Cr 12,9). Chính vì lẽ đó mà Đavít dám thách thức Goliat. Môsê cũng vậy, một con người cà lăm, Giêrêmia nhút nhát, cô Giuđitha chặt đầu tướng Hôlôphécnê, Et-te, Rút… tất cả những người phụ nữ chân yếu tay mềm của Cựu ước này, trong chính sự yếu đuối của họ mà quyền năng Thiên Chúa được biểu lộ cách mạnh mẽ hơn. Những sự kiện có tính ngôn sứ này tiên báo cho mầu nhiệm Nhập thể và Thập giá, qua đó quyền năng Thiên Chúa vượt thắng sự dữ. Bởi vậy mà thánh Phaolô chấp nhận khả năng của mình bằng sự yếu đuối, điên rồ, “cái dằm trong xác thịt”. Ngài viết cho tín hữu Côrintô: “tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ; ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10).
Như vậy, thưa ông Nietzsche, Thiên Chúa không muốn làm cho chúng ta nên nhu nhược, nhưng là muốn thần hoá chúng ta. Tuy nhiên, với suy tư triết lý chúng ta cũng có thể trả lời: Đức Kitô không nhất thiết phải trở nên yếu đuối dể cho quyền năng Thiên Chua được biểu lộ nơi Người, vì Người chính là Thiên Chúa mà.
Đây cũng chính là cách giải thích thứ ba về sự yếu đuối cần làm sáng tỏ, hay đúng hơn là hoàn thiện trọn vẹn điều đã nói trên. Người trở nên yếu đuối là để đem lại sức mạnh. Thiên Chúa đã tự nguyện hạ mình xuống, là để chúng ta được làm con Chúa, Ngài mang lấy những yếu hèn của chúng ta, chính là để đem lại cho chúng ta sức mạnh, vì Ngài yêu ta. Thiên Chúa không chấp nhận yếu đuối vì yếu nhưng vì yêu. Chính vì yêu chúng ta mà đã trở nên nhỏ bé yếu hèn nhất có thể, hầu nôì kết nơi chính bản chất mỏng dòn của con người chúng ta.Maxime le Confesseur quả quyết: “Loài người chỉ khuất phục dưới sức mạnh ưước sự khiêm hạ nhục nhã cực độ của Thiên Chúa”. Tính nghịch lý của sự yếu đuối mà chúng ta đang nói đây, chính là “yếu vì yêu”. Điều này nhât thiết phải có một sức mạnh thực sự từ thượng giới mà chúng ta có thể gọi là sức mạnh để có thể ưở nên yếu. Nguồn năng lực này chỉ Thiên Chúa mà có, vì “cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (lCr l,25b). Chỉ Thiên Chúa toàn năng mới có thể trở nên yếu, không chuyên chế độc tài, nhưng đã dám sáng tạo nên những hữu thể tự do, có thể từ bỏ quyền năng tối cao của Ngài để cho chúng ta được tham dự vào chức vương đế, cùng cộng tác sáng tạo. Thiên Chúa không tự đóng khung mình trong sự vinh quang, hạnh phúc, nhưng là một Thiên Chúa tràn đầy năng lực trao ban Con Yêu Dấu Độc Nhất. “Đức Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân” (P12,6-7).

Yếu đuối, điểm hẹn Đức Kitô gặp ta và ta gặp tha nhân
Thiên Chúa biết rõ ta hơn chính ta biết mình, Ngài biết ta được nhồi nắn bằng gì, Ngài biết ta là cát bụi, muôn vàn yếu đuối, và vì thế Đức Kitô đã làm người, mặc lấy thân nộ lệ yếu đuối. Chính tại đây Ngài gặp gỡ và cứu vớt con người. Yếu đuối làm ta sa ngã, tội lỗi, mất giá trị. Nhưng trên đường đi, yếu đuối cũng có thể là điểm hẹn gặp Đức Ki tô. Vì “Con Người đến để tìm cứu những gì đã hư đi ” (Lc 19,10). Khi còn tại thế Đức Kitô đã không ngại giao du với bạn bè và ăn uống với những người tội lỗi. Chúa không cần sự yếu đuối như điều kiện tiên quyết để tôi gặp Chúa. Ngài cũng không cần sự yếu đuối của tôi để ngài có cơ hội thi thô” quyền năng. Nhưng là trong yếu đuối ấy, những gì gãy đổ Ngài có thể chữa lành và qua đó còn làm cho nó tuyệt vời hơn trước. Khi suy niệm mầu nhiệm cứu độ, Giáo hội đã thốt lên “ôi tội hồng phúc” (Exultet).
Yếu đuối gây nên những đau khổ, vì đánh mất chính mình. Nhưng trong yếu đuối mà cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa thì yếu đuối sẽ được biến đổi, đau khổ sẽ thành hạnh phúc. Trong yếu đuối nếu tôi gặp được Chúa tôi sẽ gặp lại chính mình, biết rõ tôi là ai và Chúa quyền năng đã yêu tôi đến mức nào. Như tâm tình cầu nguyện của thánh Augustinô: Xin cho con biết Chúa, là Đâng quyền năng, hạnh phúc, là sức mạnh con; Xin cho con biết con: biết con là thụ tạo, là thân phàm hèn, mỏng dòn yếu đuối.

Như vậy, bất hạnh lớn nhất của con người không ở chỗ yếu đuối, nhưng là yếu đuối mà không có Chúa chấp nhận mình yếu đuối để đến với vị lương y đang ngày đêm tìm gặp : “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc người đau ốm mới cần… vì tôi không đến đề kêu gọi người công chính, mà là kêu gọi người tội lỗi”(Mt 9,12-13). Nói như thế không phải Thiên Chúa thích người yếu đuối tội lỗi hơn những người cồng chính, nhưng quả thực trước mặt Chúa “chẳng ai là công chính, dẫu một người cũng không” (Rm 3,10). Và vì thế, cách hay hơn cả không phải là chạy trốn yếu đuối, nhưng là đối diện nó với niềm cậy trông. Biết mình yếu đuối mà trông cậy Chúa thì Chúa sẽ đi với ta trong những phút yếu đuối. Ý thức mình yêu đuối và trong ánh sáng sẽ nhắc nhở tôi về những giây phút mà tôi tưởng mình không dễ sa ngã. Nhờ yếu đuối nhắc nhở, tôi biết xót thương những người yếu đuối như tôi. Yếu đuối mà có được thái độ như vậy sẽ đưa đến hợp nhất với tha nhân, và chính trong sự hợp nhất này sẽ tạo nên sức mạnh.
Ghen tương, hận thù, chiến tranh xảy đến là vì ai cũng giấu đi cái yếu của mình mà đến với nhau bằng sức mạnh, sức người chưa đủ người ta chế tạo ra những loại vũ khí có khả năng tàn phá ghê gớm như “mìn”, đầu đạn hạt nhân. Trái đất này sẽ không còn chia rẽ, ghen tương nếu mọi người đến với nhau bằng sự yếu đuối, biết mình cần giúp đỡ và thông cảm với tha nhân như mình. Nếu sự yếu đuối của bản thân giúp liên kết với tha nhân, thì sự yếu đuối ấy lại là một sức mạnh.
Để kết luận, những tâm tình của linh mục Nguyễn Tầm Thường thiêt tưởng cũng gợi cho chúng ta sống mầu nhiệm của sự yếu đuối: “Con thấy có nhiều thứ yếu đuối khác nhau. Yếu đuối dại dột là yếu đuối không nhận mình yếu đuối. Yêu đuối thiệt thòi ơn thánh là không dám chấp nhận yếu đuối như Chúa. Chúa yểu đuối mới để người ta đánh đòn. Chúa yếu đuối mới bị đóng đinh. Làm sao con có được những yếu đuối như thế. Mất yếu đuối, là một mất mát lớn lao. Phaolô đã không chịu để mất sự yếu đuối ấy : “Lại nữa, tôi vui thỏa trong các nỗi yếu đuối, trong lăng nhục, trong quẫn bách, trong bắt bớ và cùng khốn vì Đức Kitô. Bởi khi tôi yếu đuối chính là lúc tôi dũng mạnh ” (2Cr 12,10). 

 

 

 

 

                                  SỨ GIẢ

 
                Hỡi Đớn Đau
                Ngươi từ đâu tới
                Xuyên qua đời tội lỗi?
                Hay cạy cửa siêu hình
                Của Ý Nhiệm mông minh
                Mà ta đây chưa hiểu!?
 
                                              Có điều: ngươi chẳng thiếu
                                              Hiện hiện khắp mọi nơi
                                              Và trong khắp mọi thời
                                              Cả ta đây cùng trên bao người khác.
 
                Ngươi từng sống đạm bạc?
                Hay kiểu cách phong lưu?
                Trên bao xác và hồn
                Mà ngươi từng đeo bám.
 
                            Nói thật: ta vẫn ngán
                            Khi ngươi đến “viếng thăm”
                            Nhưng ngươi tới âm thầm
                            Như Tiền Hô, Sứ giả
                            Của Người, Đấng Cao cả
                            Là Cha ta Vĩnh Hằng,
                            Thì ngươi cứ yên tâm,
                            Ta đây vui lòng đón.

 

                                                                      Điệp Lan Đình

 

 

 

 

 

CANH TÂN ĐỜI SỐNG DÒNG TU VÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ

 

Benado Phạm Thanh Bình

 

1. NGUYÊN TẮC CANH TÂN
Sống trong thời đại hay trong hoàn cảnh nào, chúng ta luôn phải tuân thủ một thực tế là hoà hợp với thời đại và hoàn cảnh đó. Chính đó là yêu sách của đời sống con người. Như thế, một đòi hỏi là con người chúng ta luôn phải biến đổi và vươn lên trong từng giây phút của cuộc sống. Cho nên, Giáo hội đã đưa ra những đường lối canh tân cho các dòng tu là một điều hết sức hợp lý và cấp bách. Mặt khác, Giáo hội ý thức rằng mỗi người chính là một phần thân thể Chúa Kitô, thân thể đó là một Giáo hội toàn vẹn. Sự trọn vẹn đó phụ thuộc vào đời sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô. Như thế, đời sống Giáo hội sẽ phong phú, việc tông đồ của Giáo hội cũng dồi dào mãnh liệt hơn.
Giáo hội đã đề nghị đến việc canh tân thích nghi đời sống dòng tu là một điều cấp thiết. Việc canh tân đó bao gồm một trật sự liên tục trở về nguồn mạch của đời sống Kitô hữu và ơn linh ứng nguyên thuỷ của hội dòng, cũng như thích nghi hội dòng với những hoàn cảnh thay đổi qua các thời đại. Dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần và sự hướng dẫn của Giáo hội, các dòng tu đã và đang canh tân đời sống theo các nguyên tắc sau:
-Theo Chúa Kitô như Phúc Âm dạy là tiêu chuẩn tối hậu của đời tu đòng, nên tất cả các hội dòng phải coi tiêu chuẩn ấy như là quy luật tối thượng.
-Chính để mưu ích cho Giáo hội mà mỗi dòng có tính chất và phận vụ riêng. Do đó, phải trung thành nhận thức và noi giữ tinh thần cùng ý hướng đặc biệt của các Đấng sáng lập cũng như tất cả các truyền thống lành mạnh, vì tất cả những yếu tố đó tạo nên di sản của mỗi hội dòng.
-Mỗi hội dòng đều phải tham dự đời sống Giáo hội, và tuỳ tính chất riêng của mình mà đón nhận như thể chính của riêng mình, hết sức cổ võ những sáng kiến và đề nghị của Giáo hội, như là trong lãnh vực Kinh Thánh, Phụng vụ, Tín lý, Mục vụ, Hiệp nhất, Truyền giáo và Xã hội.
-Các hội dòng cần thúc đẩy các tu sĩ tìm hiểu đầy đủ về hiện trạng của con người, của thời thế và về các nhu cầu của Giáo hội, làm sao để một khi biết khôn ngoan nhận định những hoàn cảnh của thế giới ngày nay trong ánh sáng đức tin và biết nung nâu nhiệt tâm truyền giáo, họ có thể nâng đỡ con người cách hữu hiệu hơn.
-Đời sống tu trì trước hết nhằm làm cho các tu sĩ theo Chúa Kitô và kết hiệp với Thiên Chúa nhờ khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm. Bởi thế, phải thận trọng cân nhắc: những nỗ lực tốt đẹp nhất nhằm thích nghi với các nhu cầu hiện đại sẽ chẳng sinh kết quả gì, nếu không được linh động nhờ sự canh tân về tu đức, vì đó là yếu tố bao giờ cũng giữ địa vị then chốt, ngay cả khi phải xúc tiến các hoạt động bên ngoài. 1
Trên đây là những nguyên tắc cãn bản mà Giáo hội đưa ra làm nòng cốt cho việc canh tân đời sống dòng tu. Tuy nhiên, nếu chỉ đưa ra những nguyên tắc và sự thúc bách cho việc canh tân mà thôi thì chưa đủ; bởi vì, nói đến phạm trù canh tân đời sống dòng tu thì rất rộng lớn, nếu không định vị cho nó một ranh giới, một phạm vi thì con người chúng ta sẽ có nhiều sự lợi dụng, làm cho đường hướng canh tân sẽ bị lệch ra ngoài bản chất của dòng và tinh thần nguyên thuỷ Đấng sáng lập, cũng như các chỉ dẫn của Giáo hội. Ý thức được điều đó, nên Giáo hội đã định ra một phạm vi rõ ràng cho việc canh tân này.

 

2.PHẠM VI CANH TÂN
Trong số 3 của sắc lệnh Perfectae Caritatis, Giáo hội đã chỉ dẫn rằng: Vị thầy quan trọng nhất hướng dẫn chúng ta trong việc canh tân chính là Chúa Thánh Thần. Cho nên, phạm vi canh tân đời sống dòng tu không được đi ra ngoài nền tảng Giáo lý, Kinh Thánh và ơn linh ứng của Chúa Thánh Thần. Mặt khác, mọi dòng tu đều phải tham gia vào đời sống Giáo hội, nên phải tuỳ tính chất riêng của mỗi dòng mà đón nhận những chỉ dẫn của Giáo hội; nhất là trong các lãnh vực như: Thánh Kinh, Phụng vụ, Tín lý, Mục vụ, Hiệp nhất, Truyền giáo và Xã hội. Bởi mỗi dòng tu đều mang một bản chất, một đặc sủng riêng. Cho nên, từ cách sống, cách cầu nguyện và hoạt động phải tuỳ theo tính chất của mỗi dòng mà thích ứng với hiện trạng thể lý và tâm lý của các tu sĩ, cũng như với các nhu cầu tông đồ, những đòi hỏi văn hoá những hoàn cảnh xã hội và kinh tế ở khắp mọi nơi, nhất là trong các xứ truyền giáo.
Trong phạm vi của một hội dòng cũng phải theo các tiêu chuẩn trên để duyệt lại đường lối quản trị. Mặc dù phải trung thành với tinh thần Đấng sáng lập, nhưng cũng phải thích hợp hoá các hiến chương, hiến pháp, các bản quy luật, sách kinh, nghi thức với thời đại và thích nghi với các vãn kiện của Hội Thánh.

 

3.TINH THẦN CANH TÂN 
Canh tân đời sống dòng tu không phải là công việc của một cá nhân hay một số người nào đó, nhưng là sự cộng tác của hết mọi người trong hội dòng. Giáo hội muốn việc canh tân này tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh, cho nên các cơ quan có thẩm quyền trong dòng phải hết sức cẩn trọng, suy xét một cách khôn ngoan. Trước khi ấn định một vấn đề nào cần canh tân thích nghi, nên cho thử nghiệm, bề trên phải hỏi ý kiến của các hội viên2 . Tuy nhiên, một điều hết sức khó khăn ở đây chính là sự hiệp nhất một ý. Cha ông ta thường nói “bá nhân bá tánh”, mỗi thành viên một ý kiến, tính tình khác nhau, cho nên đó là một thách đcí cho việc canh tân thích nghi đời sống trong dòng.
Chính vì thế, Giáo hội luôn nêu cao tinh thần tuân giữ các lời khuyên Phúc Âm, để không những chết cho tội lỗi, mà còn để từ bỏ thế gian và chỉ sống cho một mình Thiên Chúa mà thôi. VI thế, cho dù mọi biến chuyển trong việc canh tân thích nghi đời sống như thế nào, thì việc trung thành với lời khân của mình, từ bỏ mọi sự vì Chúa Kitô (x. Mc 10,28), theo Chúa (x. Mt 19,21), như một điều cần thiết duy nhất (x. Lc 10,42), nghe Lời Chúa (x. Lcl0,19), lo lắng những sự thuộc về Chúa (x.lCr 7,32).
Mọi biến chuyển trong việc canh tân thích nghi đời sống dòng tu đều nhắm đến việc người tu sĩ hiến thân cho Thiên Chúa một cách thiết thực hơn; đồng thời phục vụ Giáo hội với lòng nhiệt thành để được tham dự vào Mầu Nhiệm Tự Huỷ của Chúa Kitô.
Trong tinh thần canh tân, Giáo hội còn nhấn mạnh đến chiều kích nội tâm, đời sồng thiêng liêng trên hết. Các tu sĩ của các hội dòng cần mẫn luyện tập tinh thần cầu nguyện và cả sự cầu nguyện, múc lấy nơi nguồn mạch đích thực của nền tu đức Kitô giáo. Trước hết, hằng ngày phải có quyển Kinh Thánh trong tay, để nhờ đọc và suy gẫm mà học được những “kiến thức siêu việt về Chúa Giêsu Kitô” (x. P1 3,8). Phải theo tinh thần của Giáo hội mà đem hết tâm hồn, miệng lưỡi chu toàn các lễ nghi phụng vụ, nhất là mầu nhiệm Thánh Thể, lại phải nuôi dưỡng đời sống tu đức bằng nguồn mạch phong phú ấy.3

 

4.NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ LỆCH LẠC TRONG VIỆC CANH TÂN THÍCH NGHI ĐỜI SỔNG DÒNG TU

 

a. Một thực tế
Sống giữa một xã hội đang trong xu thế “thay thời đổi mệnh”, con người đang trên đà tiến đến hiện đại hoá cuộc sống; người tu sĩ đang bị lôi cuốn theo nhịp độ của chủ nghĩa “xu thời” mà vượt ra khỏi phạm vi của đời sống tận hiến, cũng như những chỉ dẫn của Giáo hội trong việc canh tân và thích nghi đời sống; nếu ta nhìn lại mục đích mà Giáo hội đưa ra cho việc canh tân thì sẽ thấy rõ:
-Trở về cội nguồn Kitô giáo và linh hứng nguyên thuỷ của vị sáng lập, cũng như tất cả truyền thống lành mạnh của hội dòng, vì tất cả những yếu tố đó tạo nên di sản của hội dòng.
-Canh tân và thích nghi để hội dòng đáp ứng nhu cầu của Hội thánh và hoàn cảnh thay đổi của thời đại. 4
Khi so sánh những mục đích đó với thực tế đời sống tu sĩ hiện nay, có lẽ đời sống đó đã đi quá xa với ý nghĩa và mục đích canh tân. Bởi lối sống hưởng thụ, hướng ngoại, đua đòi mọi phương tiện tiện nghi của người đời đã len lõi vào trong đời sống tu trì. Có nhiều dòng hoạt động giáo dục vê giới trẻ, nhiều khi vì những đòi hỏi của người trẻ sống trong xã hội hiện đại, mà người tu sĩ cũng chuẩn chước giờ giâc kinh nguyện, giờ nguyện ngắm… để hoà đồng với giới trẻ.
Dần già người tu sĩ dễ bị cuốn hút theo một lối sống thoải mái, buông lỏng lề luật của dòng; đặc biệt là chiều kích tâm linh, sống cầu nguyện và kết hợp với Thiên Chúa. Đó là những dấu chứng của sự thay đổi phát triển đi lên của xã hội loài người đã làm cho những chiều kích canh tân bị lợi dụng và thậm chí lệch lạc.
Mặt khác, trong những nguyên nhân khiến những chỉ dẫn cho việc canh tân của Giáo hội bị sai lệch là do nhiều tu sĩ đã đánh mất đời sống nội tâm, ý thức cầu nguyện cũng không còn. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã khẳng định: “Trung thành cầu nguyện hay phế bỏ cầu nguyện là bản trắc nghiệm cho đời sống tu sĩ còn sống động hay đã suy thoái”5 .
Một thử thách mới cho việc canh tân dòng tu trong thời đại hôm nay là các tu sĩ đã đánh mất lòng can trường của các Đấng sáng lập. Trong khi đó sự cấp bách của việc canh tân đòi hỏi một lòng trung thành có khả năng mang lại cho thực tại của cuộc sống và sứ mạng của mỗi tu hội lòng nhiệt thành mà các vị sáng lập dòng đã có, khi các ngài để cho các dự phóng nguyên thuỷ của Thánh Thần chiếm hữu6. Một thực tế cho thây, các hội dòng đã có những đổi mới lớn lao trong chương trình huân luyện, để cho các tu sĩ có khả năng bắt kịp với đà tiến của thời đại. Nhưng bên cạnh đó lại có sự lủng củng trong việc huấn luyện và tách sự dấn thân dứt khoát theo Phúc Âm ra khỏi việc thăng tiến con người theo kế hoạch của Thiên Chúa. Bởi nếu không làm thế, thì các tu sĩ được sai đi trong sứ mạng loan báo Tin Mừng không thể thích nghi và đáp ứng được nhu cầu của thời đại với từng nền văn hoá và sự nhạy bén trong những vấn đề chuyên biệt của từng địa phương. Trong khi đó, Giáo hội cũng luôn mong muốn, trong khi tham gia vào đời sống và sứ mạng của Giáo hội, các đòng tu không được tách việc huấn luyện nhằm dấn thân dứt khoát theo Phúc Âm ra khỏi việc thăng tiến con người theo kế hoạch của Thiên Chúa. Do đó, chương trình huấn luyện và canh tân trong các hội dòng sẽ không thích hợp và đầy đủ nếu không có một nhận thức chính xác về tư tưởng của Giáo hội liên quan đến lãnh vực này.

 

b.Đời sống chiêm niệm trước ngưỡng cửa của thời đại mới
Trong các văn kiện của Giáo hội đã luôn đề cao giá trị của đời sống chiêm niệm đôi với Giáo hội. “Bởi chiều kích chiêm niệm thực sự là bí quyết để canh tân tất cả đời sống tu trì: Chiều kích này đổi mới toàn diện hành trình theo Đức Kitô, vì hướng tới một sự hiểu biết có kinh nghiệm về Người, là điều tối cần để làm chứng nhân chân thực cho Người” 7
Quả thực, đời sống chiêm niệm mang một tầm ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống Giáo hội, đó lại là những thách đố lớn khi phải đối diện vđi thời đại mới, thời đại của náo động, tiện nghi và hưởng thụ. Đời sống chiêm niệm vốn thuần tuý là đời sống chuyên về cầu nguyện âm thầm, trong môi trường nội vi đan viện, trong cô tịch và khó nghèo. Thế nhưng, trước sự đi lên của xã hội, không ít đan sĩ, tu sĩ trẻ đã bị cuốn hút theo lối sống thực dụng của con người thời ưa thích lối sống phóng khoáng, nới rộng nội vi để trà trộn với những sinh hoạt nhộn nhịp bên ngoài. Đó là một thách đố lớn cho việc trở về nguồn để trung thành với tinh thần Đấng sáng lập và đặc sủng cao quý của Hội dòng.
Sự đòi hỏi trong chiều kích canh tân của Giáo hội luôn cần sự nỗ lực rất lớn từ cá nhân mỗi đan sĩ. Trong chiều hướng canh tân, đòi hỏi vừa phải trung thành với tinh thần nguyên thuỷ của dòng vừa phải sáng tạo. Các đan sĩ được mời gọi hãy can đảm tìm lại tinh thần xông xáo, dám nghĩ dám làm, óc sáng tạo và sự thánh thiện của Đấng sáng lập, để đáp trả lại những “thời điểm” đang xuât hiện trong thế giới ngày nay. Đó là những đòi hỏi mang tính thách đố cho mỗi đan sĩ. Liệu lúc này, con người và môi trường chiêm niệm có giữ được đặc tính “người chuyên tâm về Chúa”, đan viện là Trường học Đức Ái, trung tâm cầu nguyện, như lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Nhà của chúng con trước hết phải là những trung tâm cầu nguyện, hồi tâm và đối thoại…”8. Hay là môi trường đan viện trở nên những trung tâm “truyền thông và thương mại” của thời đại hôm nay? Cộng đoàn đan viện có xứng đáng như một thành phố xây trên núi, như ngọn đèn đặt trên giá (x.Mt 5,14 – 15), dù trong nếp sống đơn giản, vẫn gợi lên cách hữu hình mục tiêu toàn thể cộng đoàn Giáo hội đang hướng đến, một Giáo hội “vừa nhiệt thành hoạt động, vừa chuyên cần chiêm niệm”.
Muốn vậy, theo như lời ĐTC Gioan Phaolô II, “Người đan sĩ phải biết nuôi dưỡng bầu khí kết hiệp mật thiết và yêu thương với Thiên Chúa, phải tiếp tục công cuộc canh tân đời sống và kỷ luật mà Công Đồng Vaticanô II mong muôn các đan sĩ nỗ lực thực hiện, mà không sợ rơi vào căng thẳng, kiệt sức hay phân tán nguy hiểm”9 .

 

c.Cần định hướng lại việc canh tân theo chỉ dẫn cửa Giáo hội

Giáo hội không ngừng khuyên khích nỗ lực canh tân quảng đại, và cống hiến những tiêu chuẩn lượng định, đi từ những hoàn cảnh và kinh nghiệm cụ thể, phù hợp với giáo huấn của Giáo hội, với bản chất và sứ mạng đời tu, với những mục tiêu của việc loan báo Tin Mừng có liên quan mật thiết với sự thăng tiến con người trong thực tế thời đại hôm nay.
Khi đón nhận các chỉ dẫn của thời đại, các tu sĩ biết tìm kiếm và vun trồng một sự hiện diện luôn mới mẻ, thích hợp với óc sáng tạo của các Đấng sáng lập dòng và những mục tiêu nguyên thuỷ của tu hội mình10.
Trong viễn tượng đó, Bộ Tu Sĩ qua văn kiện “Tu sĩ và việc thăng tiến con người” đã đưa ra các đường hướng nhằm củng cố lại đời sống canh tân của các dòng tu:
-Các hoạt động và công cuộc “xã hội” vẫn thường đi kèm với sứ mệnh của các tu sĩ chứng minh rằng, họ không ngừng nỗ lực đóng góp cho việc thăng tiến toàn vẹn con người. Các trường học, bệnh viện, trung tâm cứu trợ, các công cuộc nhằm phục vụ người nghèo, phát triển văn hoá và tinh thần các dân tộc không những vẫn còn hợp thời, mà nếu được cập nhật hoá cách thoả đáng, lại thường tỏ ra là những nơi ưu việt để Phúc Âm hoá, để làm chứng và để thăng tiến con người cách đích thực.
-Thánh Thần Chúa, Đấng luôn luôn khơi dậy những hình thức và định chế mới của đời thánh hiến để đáp lại những yêu cầu của thời đại, cũng không ngừng thôi thúc các hội dòng hiện hữu canh tân khả năng hội nhập của mình, phù hợp với chuyển biến của bối cạnh Giáo hội và xã hội.
Trong một Giáo hội rộng mở cho mọi tác vụ, nhằm liên tục tăng trưởng cộng đoàn trật tự; các tu sĩ có thể khám phá ra những hình thức tham gia tích cực, bằng cách lôi cuốn cả cộng đoàn tín hữu tham gia những sáng kiến và công cuộc của họ. Nhờ đó, họ sẽ có dịp xác định được đoàn sủng riêng của mình, như một khả năng để thúc đẩy những “tác vụ” thích hợp với những mục tiêu tông đồ và xã hội của đồng.
– Nhờ triển khai tinh thần đồng trách nhiệm trong một sứ mệnh chung trên bình diện Giáo hội mà sự tham gia của giáo dân vào các hoạt động và công cuộc của các tu sĩ có được một chân trời mới. Hơn nữa, nếu được chuẩn bị thích đáng, sự tham gia có thể thực hiện trong chính lãnh vực quản trị mà từ trước tới nay vẫn được dành riêng cho các tu sĩ.
-Đàng khác, những bôi cảnh xã hội hiện nay đòi hỏi những hình thức liên đới và tham gia mới. Tại một vài nơi, một tiến trình cải tạo dân trí đang hướng tới việc phát huy tinh thần đồng trách nhiệm của tất cả mọi thành phần trong xã hội, qua những cơ câu và tổ chức dành cho việc tham gia. Do đó, tất cả mọi người công dân đều tham gia tích cực vào các vân đề liên quan tới việc xây dựng cuộc sống xã hội. Bên cạnh sự đóng góp trực tiếp của giáo dân, chứng tá và kinh nghiệm riêng của các tu sĩ có thể góp phần hữu hiệu trong lãnh vực này, để hướng tới những giải pháp thích hợp vđi những tiêu chuẩn Phúc Âm và những hướng dẫn mục vụ của Giáo hội hơn.
Công Đồng Vaticano II đã sáng suốt đưa ra đường lối canh tân và thích nghi đời sống dòng tu, để đáp ứng kịp thời sứ vụ chứng nhân và loan báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay. Công Đồng cũng đòi hỏi nơi mỗi người tu sĩ phải tích cực hưởng ứng và trung thành tuân theo các đường lối canh tân mà Công Đồng đã đưa ra.
Mặt khác, người tu sĩ muôn thực hiện công cuộc canh tân, cần phải biện phân những gì là chính yếu và tuỳ tòng, những gì là bất biến và những gì có thể thích nghi để cuộc sống tu trì thêm phong phú và mang lại lợi ích cho Giáo hội cũng như xã hội. Người tu sĩ cũng cần đề phòng cám dỗ “say ngủ” trong những thành công quá khứ, mà lãng quên những thách đố hiện tại và tương lai. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần sáng suôt đối diện với hiện tại và can đảm hướng tới những dự phóng tương lai. Biết biết cộng tác với Chúa Thánh Linh, Đấng luôn mồ rộng tương lai với bao việc diệu kỳ đang đón chờ; để qua Đức Kitô và trong Thần Khí của Ngài, chúng ta được biến đổi hầu xây dựng một cộng đoàn huynh đệ và một thế giới mới.
“Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến, để Ngài canh tân toàn thể địa cầu”.

 


 

1. X. Công đồng Vaticano II, Sắc lệnh canh tân thích nghi đời sống dòng tu , số 2
2. X. Công đồng Vaticano II, Sắc lệnh canh tân thích nghi đời sống dòng tu , số 2
3. X. Công đồng Vaticano II, Sắc lệnh canh tân thích nghi đời sống dòng tu , số 6
4. X. Công đồng Vaticano II, Sắc lệnh canh tân thích nghi đời sống dòng tu , số 2
5. ĐTC Phaolô IV, Chứng tá Phúc Âm, số 42
6. X. Công Đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội, số 23.
7. Thánh Bộ Tu Sĩ, Chiều kích chiêm niệm của đời tu, số 30
8. ĐTC Gioan Phaolô II, 24.11.1978
9. Như trên
10. X.Hiến chế tín lý về Giáo Hội, Công đồng Vaticano II, các số 19;23;41.

 

 

 

 

 

 

 

THÁCH THỨC CÓ Ý NGHĨA GÌ

ĐỐI VỚI XITÔ NGUYÊN THỦY

VÀ XITÔ VIỆT NAM

 

M. Dominico Phạm Văn Hiền

 

Lịch sử là bài học có ý nghĩa cho thời hiện tại và tương lai. Lịch sử Xitô nguyên thủy dệt bằng thử thách chồng trên thử thách. Thử thách bao giờ cũng là cái giá phải trả cho một sự trưởng thành của cá nhân hay cộng đoàn. Chính Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã có nhận định qua trường hợp tổ phụ Job. Ngài nói: “Để trưởng thành con người cần thử thách, để từ một thứ đạo đức bề ngoài tiến vào sự kết hợp sâu xa với ý muôn của Thiên Chúa. Như nước nho cần lên men để trở thành rượu ngon …” 1
Các tổ phụ Xitô chỉ nhằm làm trọn thánh ý Thiên Chúa bày tỏ qua Tu Luật thánh tổ Biển Đức, nên đã rời Molesme để xây dựng một đan viện tại vùng hoang dại Xitô năm 1098. Ngày nay, khi nói đến Xitô, người ta thường hay nghĩ tới thời huy hoàng của thánh Bênađô khi mà Xitô hiện diện khắp Âu Châu và Trung Đông với 180 đan viện. Thật ra đó là thời nở hoa và đơm trái đi sau thời mục nát của hat giông Xitô dưới lòng đất. Qui luật biện chứng nằm ngay trong giáo lý Chúa Kitô, thử thách phải là phản đề, vì nêu không có phản đề, làm gì có tổng hợp đề? Không có chết đi làm gì có phục sinh?
Ngày nay, các nhà tu đức thường phân biệt hai loại thử thách: thử thách thụ động và chủ động. Một đan sĩ đang sống an vui trong nhà Chúa, bỗng dưng được mời vào “lầu bát giác” Chí Hòa. Đó là một thử thách mang tính thụ động. Ngược lại, một thiếu nữ trẻ đẹp với nhiều khả năng và bằng cấp, có cả một tương lai đầy hứa hẹn trước mắt. Thế nhưng, cồ quyết định bỏ mọi sự để đi theo Mẹ Têrêsa Calcutta dù biết rằng bao thử thách đang chờ mình. Đó là những thử thách có chọn lựa và được chấp nhận cách chủ động.
Trường hợp của Xitô nguyên thủy, thử thách mang tính chủ động, cảnh giàu sang với nhiều bổng lộc của vua chúa tại Molesme không thể cầm chân các ngài ở lại nữa rồi! Phải lên đường! Đó là mệnh lệnh của tình yêu Đức Kitô (x.2Cr 5,14).
Ngày 21-03-1098, dịp lễ thánh tổ Biển Đức, Cha Roberto và 11 anh em đến yết kiến Đức khâm sai Tòa Thánh Hugue, tại Lyon, trình bày ước nguyện: Xin được sống sát với Tu Luật thánh tổ Biển Đức.
Vậy trước kia tại Molesme, người ta không sống Tu Luật Biển Đức sao? Hẳn đúng như thế. Năm 1098 đánh dấu ngày chấm kết cuộc đấu tranh nội bộ giữa một số chủ trương triệt để và nhốm đề cao sự “thỏa hiệp châm chước”. Cuộc đấu tranh này đòi hỏi: đường ai nấy đi. Những người ra đi, được các sử gia tặng danh hiệu là “máu nóng”. Họ luôn tâm niệm câu Kinh Thánh: “Lửa nhiệt thành đối với nhà Chúa nung nấu lòng tôi” (Ga 2,17).
Cuốn Tiểu Xuât Hành (Petite Exode) mô tả cuộc ra đi của các tổ phụ Xitô như là một cuộc giải phóng, với khẩu hiệu “sống triệt để đời đan tu Biển Đức”. Triệt để nghèo theo gương Đức Giêsu nghèo, triệt để tìm Chúa trong cảnh vắng lặng, triệt để vãn hồi nếp sống quân bình cho cộng đoàn.
Nhưng này đây, ngay bước đầu thử thách đã chờ sẵn: Cha Roberto bị Tòa Thánh triệu hồi về Molesme, vì khi nhóm “triệt để” ra đi, tu viện bị dân chung quanh đến đốt phá trang trại. Cha Roberto là một vị cha nhân hậu, đầy tình thương và biết vâng phục. Ngài sẵn sàng cùng một ít anh em trở về dòng cũ.
Còn cộng đoàn tân lập Xitô thì sao? Dù họ như rắn mất đầu, vẫn kiên quyết bước đi trên con đường đã chọn với lời chấp thuận và phấn khích của Đức Khâm sứ Tòa Thánh. Anh em Xitô nguyên thủy đã bầu Alberico từ vai trò viện phó lên làm Viện Phụ. Tân Viện Phụ đã đóng vai trò tích cực trong cuộc xuất hành, thì cũng khôn ngoan trong việc thiết lập đan viện, ngài đã đưa ra một bản qui chế đầu tiên, nhằm thể hiện ý nguyện ban đầu của anh em Xitô. Đọc qua bản qui chế này, ta thấy nổi bật mấy điểm sau đây:
-Duy trì tính nghèo khó trong mọi lĩnh vực. Vì thế, thánh Alberico loại trừ những gì được coi như xa hoa ngay cả trong các đồ phụng tự tất cả toát ra nét đơn sơ.
-Thứ đến, các đan sĩ quyết chí tự lưc mưu sinh để khỏi lệ thuộc vào bổng lộc vua chúa và hàng quí tộc. Từ nay không cho bal cứ ai vào trong nội vi đan viện, kể cả vua chúa hầu tránh sự náo nhiệt ồn ào.

Quyết định này có hậu quả bất lợi cho Xitô lúc còn trứng nước. Thật vậy, thiếu tài trợ của quới nhân, tất nhiên anh em sẽ nghèo túng. Cảnh nghèo túng còn kéo theo một hệ lụy khác nữa: ơn gọi giảm dần, vì đa số ứng sinh đòi hỏi một cuộc đời bảo đảm hơn ở trần thế.
Do đó, sách Tiểu Xuất Hành dám viết: “Từ nhiều ngày, các ngài đã phải âu lo cho tương lai của đan viện, vì chẳng mấy ai đến xin tu”. Thế nhưng, “bĩ cực sinh thái lai”, thánh Augustino đã quả quyết: “Thiên Chúa không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người”. Nếu Abraham lòng đau như cắt, dẫn con lên núi sát tế, đã được Chúa ban thưởng cho ông một miêu duệ đông như sao trời cát biển, thì Ngài không đoái nhìn tới các tổ phụ Xitô sao?

Năm 1112, một niềm vui to lớn đến với tổ ấm Xitô: Một chàng trai, thuộc quí tộc, cùng với 30 bạn đồng hành, đến gõ cửa đan viện. Lúc ấy thánh phụ Alberico đã qua đời và thánh phụ Stephano lên thay. Niềm vui bất ngờ ây như làm cả cộng đoàn trẻ lại.
Với sức sống trào dâng, chỉ trong bốn năm, thánh phụ Stephano đã phải cử anh em đi lập dòng mới. Chính bản thân Bênađô sau ba nãm thụ huấn, đã được cử đi lập đan viện Claravalle (thung lũng ánh sáng). Rồi cứ đà ấy, nhờ sự đồng tâm nhất trí như đã được mô tả trong hiến chương Bác Ái (Carta Caritatis), các cộng đoàn được nhân thừa trong khắp mọi miền Âu châu. Đó hẳn là hoa trái của hạt lúa mì bị chôn vùi và mục nát qua nhiều năm. Đau khổ, thử thách, đợi chờ, là những từ rất thích hợp cho thái độ của Xitô nguyên thủy.
Còn đối với Xitô Việt Nam thì sao?

Bài học thử thách của Xitô Việt Nam trong 90 năm qua
Sau ba năm Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận an nghỉ trong lòng đất mẹ Phước Sơn, hoa trái đầu tiên đã nảy sinh: Phước Sơn được sáp nhập vào Xitô. Thừa kế một truyền thống đan tu trải dài trên 800 năm hiện hữu.
Truyền thông đan tu Xitô ây đã khởi đi từ cái nghèo trần trụi của thập giá; thì Dòng Đức Bà Annam cũng bắt đầu hiện hữu với những điều kiện khó khăn. Ai trong chúng ta lại không thuộc nằm lòng những câu truyện dở khóc dở cười như: gia tài của Đâng Sáng Lập chỉ nằm trong một quang gánh nhẹ hều! Dù thế, thần lửa cũng không tha, tất cả gia sản đã trở thành tro sau một vụ cháy rừng. Rồi nói chi đến cái ăn, cái mặc thật cực kỳ thiếu thốn, có thừa chăng là thừa tòi phê bình trên nhiều cửa miệng. Ở đây không thể áp dụng câu tục ngữ Việt Nam: “Đầu xuôi đuối lọt”, mà phải lấy câu “qua đau khổ mới đạt tới vinh quang” làm sức bật cho một cuộc đi lên. Cha Henri Denis Thuận can đảm chấp nhận mọi thử thách như thánh Job và các tổ phụ Xitô nguyên thủy. Lời kinh Magnificat của ngài là biểu chứng cho một niềm tin tưởng trọn vẹn nơi Chúa, tiếc thay ngài ra đi trước khi thấy đan viện trở nên thành viên của gia đình Xitô. Ở bên Chúa chắc ngài sẽ mãn nguyện vì thấy chỉ sau một năm khấn lại theo Xitô, Phước Sơn đã có thể sinh hạ đứa con đầu lòng tại đất Bắc năm 1936, rồi con thứ ở miền Nam năm 1950. Hai đan viện Châu Sơn Nho Quan và Phước Lý phải chăng là đôi chim én báo hiệu mùa xuân?
Năm 1953, cả nhà mẹ Phước Sơn lẫn Châu Sơn phải rời tổ ấm sau khi ban lãnh đạo bị dẫn đi lên rừng “ẩn tu”. Đánh chủ chăn, đàn chiên sẽ tan tác! Nhưng thử thách này mang lại bao cái lợi! Hẳn thật, sau khi ổn định chỗ ở tại miền Nam, các đan sĩ được gửi đi du học ở ngoại quốc và ơn gọi tăng nhanh. Sự phát triển ấy dẫn tới việc thiết lập Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam năm 1964 đánh dâu tuổi trưởng thành của Xitô Việt Nam.
Tuy nhiên, sự trưởng thành về mặt pháp lý ấy chưa phải là đỉnh cao của đời tu. Bao lâu còn sống giữa cõi vô thường, niềm vui và cảnh khổ vẫn đan xen nhau, vì lịch sử không gì khác hơn sự kết dệt những bước thăng trầm. Đúng thế, nếu đầu thập niên 80, Hội Dòng Xitô Thánh Gia vui mừng vì sự ra đời của Đan viện Châu Thủy (1971) và Dòng Nữ Xitô Vĩnh Phước (1972). Vài năm sau, một cuộc xuất hành II đã xảy ra, tạo nên cảnh bi thương và kinh hoàng chưa từng có: cộng đoàn Nhà Mẹ Phước Sơn bị giải thể, một số đi an trí tại các nhà đá. Các đan viện khác như Châu Sơn Bắc và Nam cũng phần nào chung số phận. Trong cơn thử thách năng nề ây, nhiều người tưởng đời tu chấm dứt từ đây.
Vậy mà, khi xác chưa kịp mục nát trong lòng đất thì phục sinh đã tới kia rồi, Alleluia! Bị đánh tan như đám bèo xé thành nhiều mảng, trôi dạt khắp nơi thế nào, thì Xitô Việt Nam, từ con số bôn đan viện, đã nhân lên nhiều cộng đoàn: Thiên Phước, Phước Vĩnh, Fatima, An Phước, Phước Thiên, Phước Hải, Châu Sơn Sacramento, Thánh Giuse.

Qua lịch sử, mỗi người trong chúng ta đã rút ra bài học của thử thách. Nếu như chúng ta tin rằng Thiên Chúa là tình yêu, thì theo Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, “tình yêu là một quá trình thanh luyện, từ bỏ, chuyển biến thật đau thương cho bản thân … Nhưng đồng thời cũng là con đường dẫn tới sự trưởng thành[2].

Nếu chúng ta coi thử thách là yếu tố quan trọng trong tình yêu ở thế gian này, ta sẽ tạo cho mình một niềm vui như hoa trái của Thần Khí. Vậy với Thần Khí, ta cùng tiến bước hướng về một cuộc gặp gỡ trọn vẹn với Đức Kitô. Há Ngài đã chẳng hứa rằng: “Khi nào anh em gặp lại Thầy thì anh em sẽ chan chứa niềm vui, và niềm vui của anh em không ai cất đi được” (Ga 16,21).

 

 


 

1. Đức Bênêdictô XVI, Đức Giêsu thành Nazareth, bản dịch Lm Aug. Nguyễn Văn Trinh, nxb Tôn Gíao 2007, tr.159
2. Sđd, tr.159

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHA TỔ PHỤ :

THÁCH THỨC

VÀ NIỀM HY VỌNG ĐAN TU

 

Duyên Thập Tự

THỬ THÁCH VÀ HY VỌNG. Hai từ này có Vẻ khó song hành, vì thử thách đặt con người trước những chướng ngại lớn, đôi khi khó vượt qua. Hãy nhìn vào những người bị bệnh nan y như ung thư vào giai đoạn cuối, hay bị nhiễm vào “bệnh thế kỷ họ đã phải đối diện với những khổ đau lớn lao dường nào, trong thân xác và tinh thần. Đã có không ít những trường hợp suy sụp và mong ước tìm cái chết như một giải pháp thoát khỏi sức nặng của thử thách. Đôi với họ, tất cả đều bê tắc và ngõ cụt, không một ánh sáng hy vọng.
Nhưng, may thay, đó không phải là lối đi của đại đa số nhân loại. Ngay trong thử thách đã loé lên vài ánh sáng của niềm hy vọng. Đọc lại lịch sử của các dân tộc đã sống một thời gian dài dưới ách thông trị của thực dân hay đế quốc, chúng ta thấy gì? Một dân tộc mà mọi công dân như bị tước mất mọi quyền sơ đẳng của con người, nhân phẩm bị chà đạp, như trường hợp những người da đen tại Nam Phi dưới thời phân biệt chủng tộc “Apatheid”, phải chăng dân tộc của họ bước vào đường cùng? Hình ảnh của cựu chủ tịch giải phóng Mandela gợi cho thấy thế nào là hy vọng trong thử thách.
Như vậy, thử thách có thể là cánh cửa mở ra cho hy vọng. Nếu không có thử thách, không còn gian nan, không đương đầu với chướng ngại, chúng ta còn mong mỏi vượt thắng không? Nếu không đi trong đêm đen, còn mong chờ loé lên ánh sáng hy vọng?
Trong bài viết về Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận trong sô dành cho chủ đề “THỬ THÁCH”, Tôi muốn mời gọi độc giả khám phá thêm một khía cạnh ẩn kín trong cuộc đời ngài. Những thử thách ngài đối diện và đã vượt qua, chúng ta cũng đã biết và có thể nêu tên. Chính vì thế, không quá đặt nặng vấn đề thử thách – dầu có nêu lên một vài khía cạnh tôi cố gắng làm nổi bật lên vế thứ hai là HY VỌNG. Đó là niềm hy vọng ngài đã ấp ủ trong lòng và sống trước hết chochính mình. Đó là niềm hy vọng ngài muốn trao ban cho các đan sĩ của mình qua các thế hệ. Đó là niềm hy vọng đan tu.

 

I.HY VỌNG VÀO MỘT NẾP SỐNG KHÁC
Ai trong chúng ta đã thuộc nằm lòng những giai đoạn trong cuộc đời Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận tại Việt-Nam : mười lăm năm với nếp sống của một vị thừa sai (1903-1918), mười lăm năm với đời sống của một đan sĩ (1918-1933). Nhưng phải chăng sự chuyển tiếp từ giai đoạn này đến giai đoạn kia được diễn tiến nhẹ nhàng, không gì khó khăn? Chắc chán không phải thế. Nhưtig nếu phải chạm trán với nhiều khó khăn, Cha Tổ Phụ đã khao khát, thao thức điều gì? Ngài hướng tới mục tiêu nào như thể đích điểm đó mang lại ý nghĩa cho cuộc đời ngài?
Chúng ta cùng đọc lại một vài trích đoạn thư tín của ngài để có thể khám phá thêm những gì ngài ấp ủ cho một tương lai sáng lạn hơn cho chính ngài.

 

1.Một niềm hy vọng mỏi mòn: chín năm trời chờ đợi
Mười lăm năm thuộc giai đoạn cuối cùng của Cha Biển Đức Thuận (1918-1933) được đánh dấu bằng một sự tuyệt giao với những gì trước kia, nghĩa là với nếp sống của một vị thừa sai. Trở thành đan sĩ đồng nghĩa với việc chấm dứt tình ưạng của một thành viên Hội Thừa Sai Paris. Dầu vậy, tiến tình đoạn tuyệt này khá dài trong đời sống Cha Biển Đức Thuận, từ ngày khởi đầu ước muốn sống đời đan tu chiêm niệm.
Trong thư gởi Đức Cha Allys đề ngày 31 tháng 01 năm 1912, cha đã đề xuất một vài phương án khả thi để khai mạc một nếp sống hoàn toàn mới : – Tìm kiếm khoảng 10.000 tiền Pháp để dâng cho Đức Cha hầu có thể kêu gọi các đan sĩ Tây phương đến – Tự học hỏi về Tu Luật các đan sĩ Trappistes, kiếm một ít tiền và lập một đan viện – Xin Đức Cha trao cho một xứ nhỏ để có thể qui tụ vài ứng sinh và cùng sống đời đan tu với nhau.
Cùng với những đề xuất cụ thể là những liên hệ với các đan viện Âu Châu để mời họ đến lập Dòng. Và đây là một lá thư tiêu biểu trả lời cho những ước mơ và hy vọng của Cố Thuận :
Kính thưa Đức Cha,
Đây là lần thứ hai mà cha Denis, một trong các vị thừa sai của Đức Cha, đã viết cho tôi, để mời chúng tôi đến lập Dòng trong giáo phận của ngài. Và dù rằng trong lá thư thứ nhất tôi đã không trao cho một niềm hy vọng lớn lao nào, nhưng vị linh mục tốt lành đó đã tưởng rằng sự việc đã thành sự được một nửa rồi!!! ” [1]
Dù như vô vọng trước viễn ảnh được các đan sĩ nơi khác đến lập Dòng, Cha Tổ Phụ vẫn cứ một mực xin Đức Cha cho phép ra đi sống đời đan tu, như ngài thổ lộ với Đức Cha trong lá thư đề ngày 29 tháng 4 năm 1917 :
“Kính thưa Đức Cha, khi người cha đuổi đứa con ra khỏi cửa này, thì nó chỉ có một việc phải làm là trở vào bằng cánh cửa khác… Con xin lỗi Đức Cha đã quấy rầy Đức Cha như vậy…
Và ngài đã dùng hình ảnh của người bạn đến quây rầy ban đêm để tìm bánh và đã được đáp ứng, để áp dụng cho chính bản thân mình.
Phải chăng ngài đã xây một “hy vọng hão” khi muốn đời đan tu dành cho nam giới được xuất hiện tại Việt-Nam? Phải chăng ước muốn đó là do tính tình thay đổi như nhiều người đã lên án ngài? Chín năm trường chờ đợi – chẳng là gì so với vĩnh cửu – nhưng lại làm cho niềm hy vọng lớn lên mà không có gì dập tắt được.
Chín năm chờ đợi trong kiên nhẫn và hy vọng, cha Biển Đức Thuận tự ví mình như người nữ sắp hạ sinh một đứa trẻ: đớn đau là ở chỗ đó. Nhưng nỗi đau có thể biến thành niềm hoan lạc? Trong một lá thư gởi cho Đức Cha Allys, cha Tổ Phụ đã nêu lên trường hợp một linh mục miền Bắc muôn vào tu tại Phước Sơn, nhưng Đức Cha địa phận không cho phép ngay, và cha Tổ Phụ nhắc lại chính kinh nghiệm của bản thân, ngài viêt:
Kính thưa Đức Cha, một linh mục miền Bắc đă xin vị linh hướng và Giám Mục của mình để được ở Phước Sơn. Ngài gởi cho con câu trả lời của cả hai vị. Vị linh hướng nói: “Ảo tưởng của trí tưởng tượng. Còn Giám Mục : “Tôi không thể từ chối cha đến Phước Sơn nếu cha thật sự mong ước điều đó. Nhưng tôi phải tuân thủ Giáo luật. Nhưng tôi xin cha hãy ở lại đây, nơi mà cha làm được biết bao điều tốp đẹp. Cha Biển Đức đó có thể là một tâm hồn tốt lành muốn làm vinh danh Chúa. Nhưng ngài có đủ những gì cần thiết để tiến hành tốt một cồng cuộc như thế không?” Con đã trả lời : “Nếu ước muôh tu trì bền vững, vị linh hướng của cha sẽ thấy trong đó tác động của Chúa Thánh Thần. Còn những thứ thúc đẩy do trí tưởng tượng không thể bền vững được. Cha không phải chờ đợi chín năm trường như con đâu…
Nhưng phải chăng niềm hy vọng không còn nữa khi mà giấc mơ đã thành hiện thực? Cha Tổ Phụ đã được phép ra đi lập Dòng Đức Bà Việt-Nam trên Núi Phước. Hoài bão cha mang trong mình, trong sâu thẳm con tim, một lần nữa cân phải được xác minh, ngay cả khi đứa trẻ đan tu Phước Sơn được hạ sinh.

 

2. Đối không về những hướng nhìn khác biệt
Sự kiện chín năm chờ đợi để sống đời đan tu cho chứng ta chợt thấy những khó khăn Cha Tổ Phụ phải vượt qua. Ý tưởng thành lập một đan viện trong vùng đất truyền giáo không có chỗ trong tâm trí những vị Sáng Lập của Hội Thừa Sai Paris, và các vị thừa sai thường không nghĩ tới. Trong một lá thư gởi Đức Cha Allys, cha đã quảng diễn một cách rõ ràng ý nghĩ của một vài vị đồng môn trong Hội Thừa Sai:
Kính thưa Đức Cha, cha Delmas hoàn toàn không ủng hộ công cuộc của chúng con. Cha Robert coi là một thứ xa xỉ vôi ích trong xứ truyền giáo này. Còn Bề Trên Cả của chúng ta nghĩ sao? Phải chăng việc Đức Cha viết một vài lời về chúng con còn quá sớm không? Nhưng Đức Cha biết cần phải nói gì và không nói gì mà![2]
Theo thiển ý tôi, sở dĩ cha Biển Đức Thuận khó thuyết phục được các bề trên và các đồng môn của mình về công cuộc lập dòng, là vì một não trạng hoài nghi về lợi ích của đời đan tu : đời đan tu không mang lại gì cho việc chính phục các linh hồn. Nói cách khác, đời sống đan tu, dưới nhãn quan của một số người, chỉ có lợi ích ngắn hạn. Và nếu như vậy, thì đời đan tu không thể là niềm hy vọng được, cho cả người theo đuổi nếp sống đó và cho xứ truyền giáo.
Vấn đề chính được đặt ra cho Cha Tổ Phụ là lợi ích của đan viện và các đan sĩ. Làm sao những con người đó lại sống ẩn khuất? Đâu là lợi ích họ mang lại cho Giáo hội? Trong khi bao nhiêu người đang vất vả lao nhọc trong cánh đồng truyền giáo, còn những con người kia lại làm những việc xem ra chẳng ích lợi gì. Và nhiều câu hỏi liên quan đến vị trí của các đan sĩ trong lòng Giáo hội và trong xứ truyền giáo.
Trong thư tín Cha Tổ Phụ gởi cho Đức Cha Allys cho chúng ta thấy trong một mức độ nào đó những hướng nhìn khác biệt về những vấn nạn trên. Và đây một lá thư tiêu biểu nói lên những ý nghĩ khác nhau về các đan sĩ Phước Sơn trong tương lai :
Kính thưa Đức Cha, con đã nhận được một lá thư dài của cha Rondel, một vị đại ân nhân của chúng con. Ngài đã gặp cha Bề Trên đan viện Hải Đăng d Paris. Họ đã nói chuyện về Phước Sơn…
Đây là những mẫu mà cha Rondel đề cập đến :
1.Tầm ảnh hưởng của gương lành mà các tu sĩ có trên hàng giáo sĩ — đặc biệt hàng giáo sĩ bản xứ, tầm ảnh hường của cầu nguyện, của nhà tĩnh tâm, của việc gỉảng tĩnh tâm.
2.Họ thích hợp hơn trong việc linh hướng các nữ tu, đặc biệt các nữ đan sĩ Dòng kín Carmel.
3.Bảo trợ các Trung Tâm truyền giáo…
Thưa Đức Cha, trong ba mẫu đó, mẫu thứ hai con lưu tâm ít nhất Con tin rằng thật như vậy; con không muốn gì trong trần gian này, cả mối tương giao với các nữ tu, và rất là hay, việc này không cần được đặt ra. Mẩu thứ nhất thì không cần bàn luận. Nếu chúng con thực sự sống như đòi hỏi, đương nhiên chúng con sẽ làm được nhiều việc tốt đẹp. Còn đổi với mẫu thứ ba, con đã viết trong Hiến Pháp: “Theo gương Chúa Cứu Thế, các tu sĩ lao động như những người nghèo. sống cuộc sống trong cảnh nghèo để đền tội, để tỏa hương thơm Chúa Kitô, và để có khả năng dùng phần dư mà giúp đỡ những người đang hoạt động cho phần rỗi của những người chưa nhận biết Chúa[3]
Theo như định hướng của Cha Biển Đức Thuận, các đan sĩ sống đời chiêm niêm, trong cô tịch trong việc cầu nguvên và hy sinh là chính niềm hy vọng cho Giáo hội và cho công cuộc truyền giáo. Ngài đã xác tín và sống niềm hy vọng đó cho chính mình khi chọn lực một lối sống khác với suy nghĩ của nhiều người. Ngài đã minh định với Đức Cha Allys điều xác tín này. Trong phần kết luận của một lá thư gỏi Đức Cha, ngài đã nhấn mạnh :
“Trong tất cả những sự việc này, con chỉ muốn làm vinh danh Chúa. Con thà đánh mất hết mọi sự ở trần gian này còn hơn không còn là tu sĩ. Con thích bị mù lòa hay phong cùi còn hơn không còn là đan sĩ. ”
Niềm hy vọng luôn thắp sáng trên cuộc đời của cha Tổ Phụ, và không có gì ngăn cản để niềm hy vọng đó được quang tỏa ánh sáng.

 

3. Hướng tới đời sống hoàn thiện và chiêm niệm
Tất cả những điều nói trên nhằm minh chứng rằng ý tưởng sống đời đan tu đã được phát sinh khá sớm trong tâm trí cha; và để hiện thực, ngài đã phải âối diện với nhiều khó khăn khác nhau.
Ngài đã diễn tả mong ước đó trong lá thư quan trọng đề ngày 31 tháng 01 năm 1912, khi đề cập đến mơ ước của mình :
Trước đây con đã muốn trở thành đan sĩ ở Hồng Kông. Nhưng người ta cho hay Hội Dòng Nazareth đang thời sa sút. Con cũng đã ước ao Dòng Trappe ở Nhật Bản, nhưng ở đây chẳng mấy ai bền đỗ… Lý tưởng mà con mơ ước là được làm tu sĩ tông đồ tại An-Nam, nơi đó Thiên Chúa cần được một số người nhận biết, yêu mến và phụng sự…
Thiên Chúa cần đươc nhận biết, yêu mến và phụng sự” : đó là ước muốn theo đuổi suốt cuộc đời của Cha Tổ Phụ. Đó là niềm hy vong cha mang trong mình suất hành trình cuộc sống và muốn chuyển trao cho người khác, đặc biệt các môn sinh qua từng thế hệ.
Niềm xác tín và hy vọng đó được diễn tả qua hình ảnh mà ngài đã nói với các đan sĩ của mình và được tác giả cuốn Hạnh Tích trình thuật lại :
… Việc đi giảng cha muốn để kính các Dòng khác như Đa-Minh, Dòng Tên, Phanxicô, Dòng Chúa Cứu Thế… Còn Phước Sơn chúng ta thì ở nhà chuyên môn hãm mình cầu nguyện cho dân ngoại giáo. Hội Thánh ví như cây đại thọ, các dòng khác như những ngành lá um tùm xum xuê, đầy hoa thơm trái ngọt, chim trời đến ríu rít trên cành, còn chúng ta đây như những rễ cây hút khí đất cho cả thân cây. Rễ đâm càng sâu, càng hút được nhiều nhựa khí, mới bổ ích cho cây. Trái lại, nếu rễ nào “thò” ra ngoài, thì đã không làm ích cho cây tại còn bị hư héo đi.[4]
Chọn lựa trở thành “bộ rễ” diễn tả một cách chính thức trong Bản Hiến Pháp và Bản Tổm Lược Dòng Phước Sơn:
Mục đích của chúng tôi: tận hiến hoàn toàn để phụng sự Thiên Chúa. Hướng tới sự hoàn thiện bằng việc thực thí những lời khuyên phúc âm và những hoạt động thuộc riêng đời sống chiêm niệm. Qua cầu nguyên và hy sinh, cộng tác vào việc hoán cải Lương Dân.
Chúng ta tin rằng Cha Tổ Phụ đã sống một cách trung thực những gì ngài đã viết ra. Nơi ngài, là đan sĩ không gì khác hơn là sống trong Giáo hội; là đan sĩ là tham gia vào đời sống và sứ mệnh của Giáo hội. Nhưng có nhiều lối diễn tả cách thế hiện hữu trong lòng Giáo hội.
Khi Cha Biển Đức Thuận thành lập một đan viện cho người Việt-Nam, đời sống đan tu, dưới nhãn quan ngài, mang một chiều kích thần bí cho phép những ứng sinh tương lai của đời đan tu đi sâu vào mầu nhiệm Kitô giáo. Và sự thấm nhập vào chiều kích thần bí này mang lại một lợi ích kép: sự kết hiệp với Thiên Chúa mang lại cho các đan sĩ niềm hạnh phúc dạt dào và gắn kết họ vào sứ mệnh của Giáo hội bằng câu nguyện và hy sinh. Nói cách khác, khi mở ra cho mầu nhiệm của Thiên Chúa, các đan sĩ được mời gọi sống ơn gọi đặc thù của mình và, một cách “kín nhiệm”, trở nên một chứng từ sống động của công trình mà Chúa Thánh Thần thực hiện trong lòng Giáo hội và thế giới.
chính chiểu kích thần bí mà đời đan tu mang lại trở thành niềm hy vọng, không những cho người đã kinh qua như Cha Tổ Phụ và các bậc Cha Anh đã khuất, mà còn cho chúng ta ngày hôm nay, khi chúng ta bước vào con đường mà chính các ngài đã dân thân vào.
Niềm hy vọng đó chúng ta sống cho chính mình: như Cha Tổ Phụ đã sống cho chính bản thân – và trao ban cho những người khác. Đó là niềm hy vọng chất đầy tràn hạnh phúc của chính Thiên Chúa, trong chính cung lòng của Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta được mời gọi chia sẻ.

 

II.ĐỜI ĐAN TU NHƯ MỘT NIỀM HY VỌNG SÂU KÍN
Thánh Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Côlossê, đã nói lên một niềm hy vọng ẩn kín :
Anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm ẩn với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3,3). Những người đã chết với Đức Kitô là những người đã bị đóng đinh cho thế gian, chết cho những ham muốn trần tục, và nay, họ đang sống trong niềm hy vọng vào Chúa Kitô, trong một đời sống mới. Niềm hy vọng đó mang tính châ’t ẩn kín như một sức sống ẩn chứa có sức linh hoạt. Chúng ta được mời gọi sống niềm hy vọng đó trong chính nếp sống đan tu mà Cha Tổ Phụ đặt nền móng cho chúng ta.

 

1.Tiếng mời gọi vào nơi cô tịch
Trong một cuộc thăm viếng Dòng Phước Sơn, cụ Nguyễn Hữu Bài, đã trước tác một bài thơ như muốn gởi gắm niềm hy vọng của bản thân vào những đan sĩ đơn sơ hèn mọn kia:
“Đăng cao tìm cảnh ruổi xe hơi,
Trăm dặm đường xa mới tới nơi.
Bốn phía Phước Sơn đều núi trọc,
Một nhà tu viện giữa rừng còi.
Gió thu như giục hao lòng khách,
Mùi đạo càng suy, ngán sự đời.
Khổ hạnh khen ai tu quả phúc,
Vui chưng bần tiện mấy lăm người.” [5]
Và một người đã đến Phước Sơn, để lại một bài thơ như muốn nói lên cõi lòng của chính mình :
“Rừng sâu rú rậm cảnh bao la,
Gọi Phước Sơn đây đã đến à!
Thấy chỗ công phu trường khổ hạnh,
Khác nơi danh lợi cõi phiền hà.
Quanh năm dưa muôi ngày hai bữa,
Bốn bể anh em bạn một nhà.
Ơn Chúa, cũng ơn người sáng tạo,
Bùi ngùi nhớ cụ Phước Môn ta.” [6]
Điều lôi cuốn các người tham quan là nếp sống xa cách thế gian của các đan sĩ và chú tâm vào việc cầu nguyện và hy sinh. Dù cuộc sống khắc khổ, các đan sĩ sống nơi đó cảm nghiệm thấy hạnh phúc và vui mừng. Tại sao lại có niềm vui trong cảnh sống thiếu thổn? Niềm hạnh phúc phát xuất từ đâu?
Nhiều lần, trong các lời giáo huấn, Cha Biển Đức Thuận nhắc nhở các đan sĩ sự cần thiết phải cảm tạ Chúa đã dẫn đến nơi đây:
Chúng ta hãy năng nhớ lại mà cám ơn Chúa đã thương gọi chúng ta vô dòng này. Thật là một ơn rất trọng… Chúng tôi, phần nhiều khi mới vào dòng thì còn nhớ, còn lấy làm quí; lâu lâu rồi xem ra quên, không lấy làm quí làm trọng cho đủ.[7]
Dầu vậy, không muốn để các đan sĩ của mình trong tình trạng an toàn giả tạo, hy vọng hão huyễn, cha Biển Đức Thuận nhắc nhở họ phải luôn tỉnh thức, vì ma quỉ chắc chắn sẽ tấn công. Đời sống đan tu luôn là một đời sống khổ hạnh, đan viện là một chiến trường, vì trong sa mạc ẩn nấp biết bao kẻ thù vô hình và nguy hiểm hằng rình rập để làm cho họ lãng quên đi điều chính yếu của đời sống họ :
Khi thánh Phêrô đang ngủ trong ngục, thì tay mang xiềng. Vậy chúng ta mắc tính tư dục bởi máu Ađam, nên chúng ta mắc xiềng là các tính hư nết xấu. Thánh Phêrô đang ngủ, chúng ta cũng đang ngủ mê là không tỉnh thức gặp Chúa, không nói khó với Chúa, không kết hiệp với Chúa… Ma quỉ nó cám dỗ chúng ta phạm tội nặng không được, thì nó cám dỗ chúng ta mê ngủ…” [8]
Nhưng chính trong nơi cô tịch lai phát sinh niềm hy vọng : hy vọng của môt mối tình hôn ước. Dân tộc Israel đã cảm nghiệm thế nào là được Thiên Chúa yêu thương, che chở trong suốt chặng đường bốn mươi năm sa mạc. Các tiên tri luôn mời gọi Israel bất trung trở về với kinh nghiệm của thời Xuất Hành như kinh nghiệm căn bản về mối tình giữa Thiên Chúa và Dần Ngài.
Niềm hy vọng sống mối tình hiệp nhất với Chuá được thực hiện ngay chính trong khung cảnh đan tu và đời chiêm niệm.

 

2. Sống kết hiệp với Thiên Chúa
Bước vào đời sống đan tu, không chỉ nhằm tu thân, nhưng còn để sống niềm hạnh phúc và phước lạc của Thiên Chúa. Nhưng hạnh phúc của Thiên Chúa là gì? Làm sao được tham dự vào?
Phước của Thiên Chúa nghĩa là gì? Là Chúa biết Chúa và Chúa yêu mến Chúa trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi… Mà kẻ có ơn nghĩa cũng được thông phần sự hiểu biết và tình yêu phước lạc đó.[9]
Định nghĩa trên cho chúng ta thấy tầm quan trọng của tình yêu hay của đức ái. Vì, theo Kinh Thánh, sự nhận biết đồng nghĩa với tình yêu.
Chính vì thế, Cha Tổ Phụ luôn nhấn mạnh về sự cần thiết của việc kết hiệp với Chúa, là mục đích duy nhất của đời đan tu :
Chúng ta nên nhớ điều này, mọi sự thế gian thảy đều vô lối, vô ích, chóng qua cả, chỉ trừ sự kính mến Chúa và làm tôi Người đáng cho ta chăm lo thôi. Vậy hãy cám ơn Chúa đã kêu gọi chúng tôi và dòng để lo một việc cao trọng ấy.[10]
Và Cha Tổ Phụ chỉ cho con đường nào dẫn đến sự kết hiệp với Thiên Chúa : đó là đời sống nội tâm. Nhưng đời sống nội tâm hay thiêng liêng là gì?
Cha nói lại kẻo có người không hiểu, nghe nói sống thiêng liêng là làm sao? Vậy sống thiêng liêng là sống với Chúa, với Đức Mẹ và các Thánh trên trời; cũng như chúng ta sống trong nhà dòng này, với bề trên và các anh em vậy. Sự sống thiêng liêng là thiết thực như thế đó[11]
Đời sống nội tâm được hiểu như thế như là một điều gì thiết thực và trong tầm tay mọi người. Thật vậy, trong các giáo huấn của mình, Cha Tổ Phụ không nói đến các hiện tượng phi thường như ngất trí, xuất thần, nhưng trình bày việc kết hiệp với Chúa nhờ những phương tiện bình thường trong đời sống đan tu như suy niệm, cầu nguyện, lectio divina… Tất cả những điều đó muôn minh chứng rằng kinh nghiệm thần bí dành cho mọi người. Và đó chính là niềm hy vọng đan tu, nghĩa là đời sống đan tu- với những yếu tố cấu thành, giúp cho những ai thực hành đạt đến một độ cao của đời sống hiệp huvền nhiệm với Chúa. Như vậy, đời sống đan tu ra một niềm hy vọng cho mọi người thành tâm tìm.
Nếu đan sĩ, trong suốt cuộc đời, chỉ nhiệt tâm tìm Chúa và những gì thuộc về Người, nếu đời sống nội tâm của họ quay chung quanh trục là Chúa Kitô, thì dù còn sống trong thân phận con người, họ đã nếm cảm trước những hoan lạc của thiên đàng. Đan viện trở thành tiền đường của thiên đàng, một thiên đường dưới thế, nếu chúng ta có thể nói như vậy. Vì ở đâu hiện thực sự kết hiệp mật thiết với Chúa, nơi đố là thiên đàng.

 

3.Vườn Diệu Quang và cửa Thiên Đàng
Trong những lời giáo huấn, Cha Tổ Phụ thường kết bằng “niềm vui” : niềm vui của những người sống trong nhà Chúa. Mặc dầu đời sống mang màu sẩc khắc khổ, nhưng chính cha đã nếm cảm một cách sâu xa niềm hạnh phúc khôn tả mà đời sống đan tu mang lại. Niềm vui, niềm hạnh phúc này ngài trao lại cho các đan sĩ.
Trong tập nhỏ tình bày sơ quát về đời sống đan tu tại Phước Sơn, Cha Tổ Phụ đã viết những dòng sau đây thay cho kết luận:
Tất cả những họat động đó diễn tiến từ sáng đến tối, và bắt đầu lại từng ngày mà không miễn trừ, rồi nội vi, thinh lặng, chay tịnh, canh thức…: đó là thập giá, là gánh nặng, là ách của Chúa. Ách này êm ái, gánh này nhẹ nhàng; đời sống tu trì, chiêm niệm luôn là “phần tuyệt hảo”. Các Thánh Giáo Phụ và Tiến Sĩ gọi là Vườn Diệu Quang, Nhà Thiên Chúa và Cửa Trời. Thật vậy, “nơi đó, con người sống tinh tuyền hơn, ít té ngã hơn, đón nhận được nhiều ân sủng hơn, nghỉ ngơi thanh bình hơn, qua đời an tâm hơn, được thanh luyện nhanh hơn, nhận được phần thưởng lớn hơn.” Và còn niềm vui lớn hơn là cầu nguyện và hy sinh cho các linh hồn, và niềm vui còn lớn hơn nữa là an ủi Thánh Tâm Chúa Giêsu. Vị Thầy này hứa ban gấp trăm cho những ai từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài. Ngài giữ trọn lời hứa. Phúc thay ai đặt tin tưởng nơi Ngài.[12]
Nếu được ví như Cửa Trời, hay là một thiên đường, thì đan viện chưa phải là thiên đàng. Vì trọng cuộc sống này, sự kết hiệp với Chúa chưa là hưởng kiến, gặp gỡ diện đối diện. Đan sĩ còn sống trong trần gian, và thập giá không thiếu trong đời sống. Những thập giá đủ loại, đan sĩ vẫn gặp hằng ngày : đó có thể là bệnh tật, là đời sống chung với bao (lụng chạm, những tật bệnh linh hồn… Nói tắt đó là những thử thách. Nhưng đan sĩ được mời gọi sống những thập giá đó trong tình yêu Chúa, bởi vì chỉ tình yêu mới làm cho những gánh nặng và ách kia trở thành êm dịu và nhẹ nhàng.
Lời rằng: một lần chịu khổ vì Chúa, thì hơn trăm lần làm lành cho thế gian. Vì khi chúng ta chịu khó vì mến Chúa, thì được thêm công nghiệp, giúp chúng ta tập các nhân đức, nhất là đức nhịn nhục, lại thêm phước thanh nhàn trên thiên đàng… Phước cho chúng ta vì hằng ngày gặp dịp mà chịu khó vì Chúa. Vậy chúng ta chẳng những là bằng lòng mà lại còn vui lòng mỗi khi gặp thể ấy… Nếu chúng ta biết ấp yêu thánh giá vào lòng, thì mọi sự gian nan tân khổ đời này không làm cho chúng ta nao núng. Có lòng trìu mến thánh giá thật, thì ở trong nhà dòng này rất đỗi vui mừng..[13]
Chính cái nhìn lạc quan có cơ sở này là một khía cạnh của niềm hy vọng đan tu : đời sống đan tu vừa hưởng tầm nhìn chúng ta lên cao vừa giúp chúng ta sống với những thức tế hằng ngày: và chính hướng nhìn trên cao là sự kết hiệp với Chúa và niềm vui của ai gặp gỡ Chúa thiết thân thiết thực sẽ sống tròn đầy và triển nở trong Nhà Chúa, trong thiên đàng nội vi (Paradisus clautralis – diễn ngữ của thánh Bênađô).

 

4. Được thức tỉnh và thức tỉnh tha nhân
Chúng ta vừa nói đến hạnh phúc, đến một loại thiên đàng mà các đan sĩ vui hưởng nhờ đời sống nội tâm. Chính nhờ mối tương giao thân tình với Chúa này mở cho chúng ta thấy rõ hơn tình trạng khổ đau của những ai không có Chúa Kitô trong cuộc đời, không có niềm hy vọng (x. Ep 2,12). Sự nhạy cảm này với tình yêu là hoa trái của sự thức tỉnh nội tâm, mà các đan sĩ mong ước trao đến cho những người chưa biết Chúa hay lãng quên Ngài. Nói cách khác, một khi đã được thức tỉnh, đan sĩ muốn thức tỉnh người khác; một khi đã nếm hưởng những tuyệt diệu của Tình Yêu, đan sĩ cũng muốn những người khác tham dự và thông hiệp vào đó. Và đó chính là sứ vụ đặc thù của họ trong lòng Giáo hội.
Khi Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận thành lập một đan viện tại Việt-Nam, có thể là để công việc rao giảng Tin Mừng mang chiều kích sâu xa hơn. Cũng có thể để tìm kiếm những phương thế hữu hiệu hơn như cầu nguyện, hy sinh và gương lành. Tất cả những điều đó đều đúng. Dầu vậy, khi ngài thấy rằng đời đan tu có thể đáp ứng những khát vọng thiêng liêng của những người Việt-Nam, thì có gì ẩn dâu đằng sau ý hướng của ngài? Khi ngài nhấn mạnh đên đời sống nội tâm nhờ đó mà linh hồn trở nên bén nhạy trước sự hiện diện của Thiên Chúa trong cũng như xuyên qua những hoạt động thường nhật, làm sao những kinh nghiệm thiêng liêng này lại không gởi đến những người Việt-Nam một sứ điệp nào đó?
Rõ ràng là sứ mệnh chính yếu của Giáo hội là thức tỉnh con người trước sự hiện diện của Thiên Chúa và làm họ luôn hiện diện trước Thiên Chúa và với anh chị em mình. Nhưng làm sao có thể thức tỉnh người khác, nếu trước tiên mình đã không được thức tĩnh. Từ đó, trách vụ của Giáo hội là “luôn tỉnh thức” – như Chúa đã nói và ngày càng ý thức mạnh mẽ sự Hiện Diện. Nói cách khác, điều đó muốn nói rằng ưu tiên trong Giáo hội là “chiêm niệm” .[14]
Đó cũng chính là sứ mệnh của các đan sĩ trong lòng Giáo hội : thức tỉnh người khác trước sự Hiện Diện. Như vậy, dù rằng không thực thi một công tác mục vụ nào bên ngoài, đan sĩ không vì thế mà thiếu năng động trong công cuộc loan báo Tin Mừng và tham gia vào sứ vụ của Giáo hội. Trong thư điện tử, cha Jean Baptiste Etcharren, Bề Trên Cả Hội Thừa Sai Paris, đã viết :
Cuộc sống của gia đình Xitô Thánh Gia sẽ có một ảnh hưởng sâu xa trên tương lai của Giáo hội Việt Nam. Chứng từ của một sự toàn hiến trong đức tin, cuộc sống lao động và cầu nguyện trong nghèo khó, cần thiết cho ngày hôm nay hơn bao giờ hết để có thể loan báo Tin Mừng. Chỉ lời nói suông và sức mạnh của những cấu trúc cơ chế sẽ không đủ để đánh thức và mãi thức ước muốn thiên liêng của những, con người thuộc thời đại chúng ta... Chân thành cám ơn cha đã mời tôi, tôi thật sự muốn tham dự vào buổi cử hành này, trong năm chúng tôi mừng sinh nhật 350 năm việc bổ nhiệm các vị Đại Diện Tông Tòa đầu tiên được phái đến Á-Châu. Quyền năng của Chúa Thánh Thần đã thực sự được biểu lộ trong cuộc sống cửa các vị thừa sai đáng thương đó đến từ vùng đất xa xôi và chẳng hiểu biết gì về những đất nước mà các ngài đi đến. Đó chính là phép lạ và Phước Sơn là một trong những chứng từ lớn lao hoạt động của Chúa Thánh Thần trong những vị thừa sai khiêm hạ của Người. Các ngài đã hoàn toàn chấp nhận làm hạt giống chôn vùi trong lòng đất. Tận sâu thẳm, chỉ có điều đó là chân thật, tất cả còn lại chỉ là hư vô.[15]
Như vây, sứ mệnh của đời đan tu mang chiều kích của một niềm hy vong : đời đan tu trao gửi đến moi người, đặc biệt những người chưa biết Chúa Kitô. Một sứ thức tỉnh trước sự Hiện Diện là điều quan trọng duy nhất của đời sống con người.

Để kết luận, xin được trích hai đoạn văn :
“Chúng tôi phải nên thầy dòng thật, bằng không chỉ là phỉnh dối người ta. Họ gởi thư xin chúng tôi cầu nguyện, họ tưởng chúng tôi là những người nhân đức lắm, toàn là những ông thánh, ông thánh hết.
Vậy, chúng tôi hãy lo nên thầy dòng thật. Chớ để sự họ tin cậy chúng tôi ra vồ ích. Việc bổn phận chúng tôi là cầu nguyện hãm mình…
Chúng tôi phải lo kính mến Chúa, kết hiệp với Chúa, vâng ý Chúa mọi đàng, tỉnh thức luôn mà nhớ đến Chúa, thì lời chúng tôi cầu nguyện mới có sức, mới được thần thế trước mặt Chúa, mới làm cho người ta tin cậy chúng tôi không ra vô ích.” [16]
-“Trong những hội dòng hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm, các tu sĩ chỉ nhất tâm phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch và lặng lẽ, trong việc chuyên lo cầu nguyện và hân hoan hãm mình, thì cho dù nhu cầu hoạt động tông đồ có khẩn thiết đi nữa, nhưng các hội dòng ấy vẫn giữ một địa vị cao quí trong nhiệm thể Chúa Kitô, trong đó, “mỗi chỉ thể đều có một tác động khác nhau” (Rm 12,4). Thực vậy, họ dâng lên Thiên Chúa hy lễ chúc tụng tuyệt hảo, làm vẻ vang dân Thiên Chúa bằng những hoa trái thánh thiện dồi dào, lấy gương lành lôi cuốn và làm cho dân ây thêm lớn mạnh bằng việc tông đổ tuy âm thầm nhưng phong phú. Như thế, họ là vinh dự của Giáo hội và là mạch tuôn trào các ơn thiêng. ” [17]
Chúng ta cần ghi nhận niềm hy vọng của người khác đổi với chúng ta – những người đang sống đời đan tu, qua những kiểu nói mà Cha Tổ Phụ sử dụng: “họ xin chúng tôi cầu nguyện”, “họ tưởng chúng tôi là…” (họ tin, họ nghĩ chúng tôi là thế), không “làm cho người ta tin cậy chúng tôi ra vô ích”.
Và những gì Giáo hội mong ước. hy vọng nơi những ai đang sống đời đan tu : “giữ một địa vị cao quí”, “làm vẻ vang dân Thiên Chúa”, “là vinh dự của Giáo hội”, “là mạch trào tuôn các ơn thiêng”.
Chúng ta có đồng cảm trước niềm hy vọng mà Giáo hội ký thác cho chúng ta? Có cảm thấy một sự khuyến khích và đòi hỏi để “những hy vọng đổ không ra vô ích”?
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một xã hội “có nhiều vấn đề”; muốn hay không, xã hội đó vẫn ảnh hưởng trên nếp sống đan tu Xitô Thánh Gia. Tầm ảnh hưởng tác động trên lối sống của chúng ta trở thành những thử thách thực sự. Chúng ta không than vãn, kêu trách hoặc đổ lỗi kết án, nhưhg, tích cực hơn, hãy là những tông đồ của niềm hy vọng : cuộc sống đan tu Xitô Thánh Gia phải là niềm hy vọng cho chúng ta, những người đang sống ơn gọi này, là niềm hy vọng chúng ta trao gởi cho xã hội hôm nay, trao cho những con người của thời đại chúng ta những gì cao quí nhất, như chính Cha Tổ Phụ đã trao ban khi ngài thiết lập đời đan tu Xitô trên quê hương Việt nam thân yêu.

 

 


 

[1] Thư của cha bề trên Đan viện Hải Đăng (Notre Dame du Phare), Nhật Bản, đề ngày 24.02.1913
[2] Thư đề ngày 18.08.1921
[3] Thư đề ngày 07.02.1920, (x. Hiến Pháp I, 165; HPII, 270).
[4] Thư đề ngày 26.03.1920
[5] Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, Hạnh Tích, tr. 210.
[6] Nguyễn Thúc, Thơ Nôm Phước Môn, Tái bản lần 2, 1977, tr. 58.
[7] Ưng Binh Thúc Gia Thị, “Cảnh Vật Phước Sơn” đăng trong báo Vì Chúa, số 212, ngày 01.11.1941, tr. 1941.
[8] Di ngôn, “Cám ơn Chúa đã gọi chúng tôi vào dòng”, tr.67
[9] Di ngôn, “Xiềng xích là nết xấu, ngủ mê là bỏ quên Chúa”, tr.164-166
[10] Di Ngôn, “Về ơn nghĩa”, tr. 108.
[11]Di Ngôn, “Sống kết hiệp với Chúa”, tr. 122.
[12]Di Ngôn, “Sống kết hiệp với Chúa”, tr. 124. <brstyle=”text-align: justify;”>[13]Notice sur Notre Dame d’Annam.
[14]Di Ngôn, “Về sự yêu mến thánh giá”, tr. 157-158.
[15]Henri Le Saux, Les yeux de lumière, Nouvelle édition, O.E.I.L, Paris, 1979, pp. 61-62.
Thư hồi âm lời mời tham dự lễ chúc lành của tân viện phụ Gioan Thánh Giá ngày 17.01.2009. La vie de la famille cistercienne aura une profonde influence sur l’avenir de l’Eglise au Viêt-Nam. Le témoignage du don total dans la foi, une vie de travail et de prière dans la pauvreté, sont aujourd’hui plus que jamais nécessaires pour rendre possible l’annonce de i’Evangile. Les seules paroles et le poids des structures institutionnelles ne suffiront pas à éveiller et à tenir éveillé le désir spirituel des hommes de notre temps… Je vous remercie de tout coeur de votre invitation, j’ai vraiment envie de venir pour cette célébration qui m’attire tout spécialement en cette année où nous fêtons le 350 ème anniversaire de la nomination des premiers vicaires apostoliques destinés à 1′ Asie. La puissance de l’Esprit Saint s’est manifestée vraiment dans la vie de ces pauvres missionnaires venus de loin et qui ne connaissaient rien des pays dans lesquels ils arrivaient. C’est bien là le miracle et Phuc Son est un de ces grands témoignages de l’action de l’Esprit Saint dans la personne de ses humbles missionnaires. Ils ont tout simplement accepté avec confiance d’être le grain qui tombe terre. Au fond, il n’y a que cela de vrai, tout le reste est vanité.
[16]Di ngôn, “Nên thầy dòng thật”, tr.169
[17]Công đồng Vaticano II, sắc lệnh “Đức Ái Hoàn Hảo”, số 7.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

YÊU MẾN, NHẪN NHỤC VÀ NIỀM VUI

 

M. Duy Ân

NGỎ

Ước muốn có một bài THỬ THÁCH TRONG CHỨC VỤ cho số Tập san có chủ đề THƯ THÁCH là một điều chính đáng. Quả thật, phục vụ các tâm hồn là một dịch vụ quan trọng vào bậc nhất, được đánh giá là “nghệ thuật trên các nghệ thuật” (ars artium). Sau đây là lời chia sẻ của Thánh Tiến sĩ Phanxicô Đờxan, một bậc Thầy trong trách nhiệm phục vụ tâm lỉnh, về các đòi hỏi trong công tác phục vụ các tâm hồn: ” cần một chén kiến thức, một thùng khôn ngoan và một biển cả nhẫn nhục”. Xem mức tỷ lệ thì thấy ngay NHÂN NHỤC quan trọng biết dường nào, không n thế mà coi nhẹ Kiến Thức và Khôn Ngoan; tuy nhiên nó vẫn cần thiết. Đàng sau cả ba yếu tố đó, tiềm ẩn một động lực chung là tình yêu, hồn của tất cả. Vậy, có thể dựa vào Lời Chúa, triển khai đề tài: Yêu Mến, Nhẫn Nhục và Niềm Vui. Thiết tưởng đó cũng là một thử thách và thách đố không nhỏ đối với người phục vụ các tâm hồn.

 

LỜI MỞ
Đối với con người, không gì quan trọng cho bằng tình yêu, vì con người được sinh ra do tình yêu, để yêu và được yêu. Với cái nhìn bao quát, có thể ví tình yêu như một trung tâm năng lượng khổng lồ khởi động và xoay vần tất cả guồng máy sinh hoạt bao la đa dạng của cả xã hội loài người Nếu Tinh Yêu hoàn toàn bị tắt ngụm, thử tưởng tượng tình trạng sẽ ra sao trong sinh hoạt tự nhiên và tâm linh của con người. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nhận xét chí lý: “Nếu tình mến biến mất, thì các thánh Tử đạo không còn chiu đổ máu để làm chứng; các vị thừa sai cũng chẳng còn rảo bước đi loan báo Tin mừng”, và các sinh hoạt khác cũng vậy Đó là nói về hiệu năng của tình yêu, còn về bản chất, đặc tính của tình yêu, người ta đã diễn tả dưới muôn hình vạn trạng, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau.
Bài suy niệm này, chỉ dừng lại ở phẩm chất đặc biệt quan trọng của tình yêu, đó là NHẪN NHỤC. Phải hiểu đây là hiệu quả của tình yêu vị tha, có khả năng KIÊN NHẪN chấp nhận chịu KHỔ NHỤC vì yêu. Điều đó được hiểu về tình yêu tự nhiên và cả về tình mến siêu nhiên nữa. Bài Ca Đức Mến minh chứng: “Đức Mến thì NHẪN NHỤC, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không môi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, CHỊU ĐỰNG TẤT CẢ” (1Cr 13,4-7). Đáng ghi nhận là, danh sách của bài ca đức mến được khởi đầu với NHẪN NHỤC và kết thúc bằng Chịu Đựng Tất Cả, càng tăng thêm ý nghĩa. Hơn nữa, phẩm tính NHẪN nhục còn được thể hiện cả nơi Thiên Chúa, một cách càng rạng ngời, vì Thiên Chúa tự bản tính là Tình Yêu . Thật là một mầu nhiệm của Tình Yêu Thiên Chúa, đã khấng chọn con đường NHẪN NHỤC của Thập giá Chúa Giêsu để đem lại nguồn vui ơn cứu độ cho con người (x. Ep 1, 9).

 

YÊU MẾN VÀ NHẪN NHỤC NƠI THIÊN CHÚA

Bên cạnh mạc khải “Thiên Chúa Tinh Yêu” “Deus Caritas” (x. lGa 4,8.16), Kinh Thánh còn ghi nhận nhiều ưu phẩm khác về Thiên Chúa, xin tạm nêu lên một vài danh hiệu: “Thiên Chúa Thương Xót” “Deus misericors” (x. Lc 6,36; Ep 2,4)”, Thiên Chúa Nhẫn Nhục” “Deus Patientiae” (x. Rm 15,5). Dừng lại ở thuộc tính cuối cùng này, xin được triển khai đề tài: Yêu Mến, Nhẫn Nhục Và Niềm Vui. Đó là Tình yêu nhẫn nhục, con người tiếp nhận từ nơi Thiên Chúa để thể hiện trong cuộc sống và trở thành Niềm vui ơn Cứu độ. Thật sự mà nói, phẩm tính “nhẫn nhục ” xem ra đối nghịch với một Thiên Chúa toàn năng siêu việt, nhưng lại xứng hợp với bản chất tình yêu, đặc biệt nơi Thiên Chúa. Quả thật, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16) là Đức Giêsu Kitô. Ngài đến thực hiện tình yêu của Thiên Chúa bằng cách cam lòng “chịu chết vì chúng ta” (Rm 5.8). Xét về nguyên ngữ La-tinh: Danh từ Nhẫn Nhục (Patientia) bởi động từ Patiri có nghĩa là cam chịu; cũng bởi từ ngữ đó, xuất phát từ Passio, được hiểu theo nghĩa chuyên biệt về cuộc Thương khó của Chúa Giêsu. Quả thật, đó là bằng chứng của một Tình yêu rất mực nhẫn nhục, Thiên Chúa dành cho chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người qua Ngôi Lời. Quả thật, Mọi vật do Ngài mà được tạo thành (x. Ga 1,1-3). Cũng do tình yêu, Thiên Chúa cứu độ con người, nhờ Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, dưới hình thức “Ngài đã bị giết, đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người, thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước mọi dân” (Kh 5,9). Quả thật, để cứu độ chúng ta, Chúa Giêsu “đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục” (Dt 12, 2). Xuyên qua cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, “Dâng đã chịu đóng đinh vì mang thân phận yếu hèn” (2Cr 13,4) con người được phúc tiếp nhận Tình yêu Nhẫn nhục của Thiên Chúa, đương nhiên phải trở thành chứng nhân và khí cụ cho tình yêu đó trong cuộc sống.

 

YÊU MẾN VÀ NHẪN NHỤC NƠI CON NGƯỜI
ĐTC Bênêđictô XVI, trong Thông điệp “Deus Caritas Est” nhận xét: “Ngày nay thuật ngữ tình yêu đã trở thành một trong những từ được dùng, cũng như bị lạm dụng thưởng xuyên nhất, một từ chúng ta gán cho nhiều nghĩa hoàn toàn khác nhau” (số2). Có thể ghi nhận ba từ liên hệ đến tình yêu mà ngài đã phân tích: Eros, Philia và Agapê, tạm dịch là tình luyến ái, tình bạn và tình bác ái. Trọng hơn cả, tình bác ái, Agapê, chính là mối tình thánh thiêng, có khả năng thăng hoa các mối tình khác nơi con người. Để thể hiện tình yêu cứu độ, “Đức Giêsu Kitô đã hạ mình bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,8). Hơn nữa, Thánh Phê rô còn ghi nhận trong đó sứ điệp mời gọi chúng ta thực hành tình yêu nhẫn nhục: “Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Ngài” (1Pr 2,21). Thế nhưng, để thể hiện trong cuộc sống, kín múc từ đâu nguồn tình yêu đó? Con người, với ơn Chúa, cần tận dụng giác quan, lý trí và cả trái tim để đi sâu vào mầu nhiệm tình yêu của Chúa Giêsu, trong ánh sáng của niềm tin: từ chiêm ngắm qua cảm nghiệm, từ cảm nghiệm đến thực hành, dân thân trong cuộc sống.
Vậy, chúng ta được mời gọi khởi đầu bằng chiêm ngắm, “mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí. Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi anh em chưa chống trả đến mức đổ máu đâu ” (Dt 12,2-4), Đáng lưu ý thứ tự diễn tiến: chiêm ngắm dẫn đến ghi nhận và tưởng nhớ. Từ đó, tác động củng cố tâm hồn dấn thân ưong cuộc chiến đấu tấm linh. Đôi tượng cho việc suy ngắm này, trước hết là tất cả nội dung của nhập thể và cứu độ, đặc biệt cuộc Thương khó của Chúa Giêsu. Nhưng hành vi quan trọng hơn cả, chính là việc cử hành nhiệm tích Thánh Thể, vì các thực tại của ơn cứu độ được hiện tại hoá, cùng với các hiệu năng Chúa Giêsu đã đặt để trong đó. Điều quan trọng là làm sao tiếp nhận được hiệu quả của ơn cứu chuộc qua sự hiện diện trọn vẹn của Chúa Giêsu trong Hy lễ Thánh Thể. Đây là bí tích Tình yêu tổng hợp Thiên Chúa thực hiện, nhưng cũng là mầu nhiệm đức tin, đòi hỏi sự đáp ứng của con người, biết tiếp nhận và hiến dâng.
Thiết tưởng cảm nghiệm của Thánh Phaolô về Tình yêu Chúa Kitô có thể được coi là tiêu biểu. Đây lời chia sẻ của Thánh nhân: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kỉtô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi (Gl 2,19-20). Chúng ta ghi nhận hai sự kiện, thánh Phaolô đã được mạc khải: trước hết là nhận biết Đức Giêsu, Đấng chịu Thương khó là Con Thiên Chúa. Đổ là điều quan trọng thiết yếu, vì tất cả giá trị tuỳ thuộc ở sự nhận biêt này. Nhưng đây lại không phải là khám phá của con người mà là hiệu quả do Chúa Cha mạc khải thu hút, và qua tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã từng xác nhận; “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy”(Ga 6,44). Thánh Phaolô cũng quả quyết: “không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giêsu là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1Cr 72,3).Như thế có nghĩa là, cùng với chiêm ngắm và ghi nhận, cần cầu nguyện kèm theo, để tiếp nhận mạc khải về Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Bằng không, cho dù, “Suy gẫm sự Thương khó Chúa Giêsu, cảm động chảy nước mắt ra” cũng chẳng giá trị bao nhiêu. Cha Henri Denis Biển Đức Thuận, Sáng lập Hội Dòng Xitô Thánh Gia đánh giá như thế, và không ngại xếp việc đó vào loại “sốt sắng động trong xác thịt” (Di ngôn 111).
Điều kế tiếp, thánh Phaolô cảm nhận là bằng chứng tình yêu của Đức Kitô đối với chính bản thân. Thánh Phaolô đã xác tín tuyên xưng Đức Kitô: “Con Thiên Chúa đã yêu mến tôi và đã hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Cảm nhận được mối tình triệt để của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, thánh Phaolô chỉ còn sống niềm tin tuyệt đối nơi Ngài, kèm theo tình mến, nhờ đó được nên một với Ngài trong nguồn sống. Hơn nữa, theo đòi hỏi của tình yêu, thánh Phaolô sẵn sàng chấp nhận đồng sinh mệnh với Ngài đến độ “cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá ’’ (GI 2,19).
Vậy, một khi tâm hồn cảm nghiệm được tình yêu nhẫn nhục của Đức Kitô, Con Thiên Chúa, đã yêu thương và hiến tế vì mình, ắt sẽ trở thành khí cụ của tình yêu đó, khởi đầu từ môi trường sống, qua trọn kiếp nhân sinh, và đặc biệt trong tình nhân ái, là những nẻo đường dẫn đến niềm vui đích thực.

 

TRONG MÔI TRƯỜNG SỐNG.
Thiên Chúa đã đặt con người trong vũ trụ, với vinh dự và trách nhiệm sống sao cho xứng hợp với Thánh ý Ngài. Mọi sự Chúa đã tạo thành đều tốt đẹp (x. St 1,31)- Nhưng chính tội lỗi con người đã gây nên xáo trộn, khiến đất đai sinh gai gốc (x. St 3,18). Con người phải lao động vất vả để nuôi thân (x. St 3,19). Thực trạng sa ngã của con người do đó đã gây ảnh hưởng trên môi trường sống. Bởi vậy Kinh thánh ghi nhận: Địa cầu điêu tàn vì dân cư (x. Is 24,4-5). Thậm chí sách Khôn Ngoan quả quyết: Thiên Chúa dùng tạo vật mà phạt tội con người (x. Kn 5,17). Vì ảnh hưởng của tội lỗi, “Muôn loài thụ tạo đã lâm vào cảnh hư ảo, tuy nhiên vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. Thật vậỵ, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ muôn loài thụ tạo cùng rên xiết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,20-22). Trong tình trạng ấy, Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, đã thực sự nhập cuộc, hoà mình với môi trường sống của con người. Với tình yêu nhẫn nhục, Ngài đã chấp nhận chia sẻ mọi thử thách như chúng ta ngoại trừ tội lỗi (x. Dt 4,15). Hậu quả của tội lỗi con người còn để lại dấu vết cả trong hệ sinh thái. Vậy, con người cần khiêm tốn chấp nhận thực trạng mình gây nên, với cố gắng kiên trì tìm cách khắc phục, cần áp dụng một số qui luật luân lý môi sinh, để con người, như một thành viên của vũ trụ, thể hiện sự hài hoà với thiên nhiên. Như vậy,Trời đáp lại đất, đất đáp lại lúa, dầu, rượu” (x. Hs 2,23-24). Thiên thời, địa lợi, nhân hoà vôn là khát vọng của con người. Với tinh thần liên đới hoàn vũ, thánh Phanxicô Assisi đã hát về Anh Mặt trời, Chị Mặt trăng, thân giao với chim, cá, đên cả sói rừng Tuy nhiên, thái độ hài hoà với thiên nhiên không miễn chước cho con người khỏi kiên nhẫn cố gắng thích nghi với chuyển biến của trời đất. Cha Biển Đức Thuận, Tổ Phụ Sáng lập Hội Dòng Xitô Thánh Gia, vốn quen sống thuận cả với thiên nhiên. Bởi đó, khi trời trở lạnh, ngài đã vui vẻ hô lên: Hoan hô ông thần lạnh! Đây cũng là một thái độ của tình yêu nhẫn nhục. Tuy vậy, Thiên Chúa muốn con người dùng các phương tiện sẩn có, để cải thiện cuộc sống và làm chủ, khai thác nhằm thăng hoa, không những địa cầu, mà cả vũ trụ: “Để con người làm chủ mọi loài Chúa đã dựng nên, và sống sao cho thánh thiện công chính, mà chỉ huy cả vũ trụ này” (Kn 9,23). Vậy, cả môi trường sống được trao cho con người sử dụng và khai thác, với tình yêu nhẫn nhục, như người quản lý kiên trì và khôn ngoan, trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, hướng về niềm vui cánh chung, cho đến khi trời mới đất mới được thành hình (x. Kh 21,1).

 

TRONG KIẾP NHÂN SINH

Trong tâm thức con người vẫn còn một nỗi nhớ nhung về một cảnh vực tốt lành nguyên thủy. Nhưng, con người lại nghiệm thấy nơi bản thân tình trạng xáo trộn vì tội lỗi, do cái Tâm thâm sâu đã bị tha hoá. Chính Chúa Giêsu đã nêu lên: từ cái Tâm xấu ấy, xuất phát biết bao nhiêu điều ác hại, thực sự làm hoen ố con người (x. Mt 15,19-20), là căn cớ gây bao đau khổ cho nhân loại. Đức Phật nói: “Nước mắt của chúng sính ngập tràn như biển cả”. Bởi vậy, thánh Giacôbê cảnh giác về nguy cơ sống trong tình trạng giả dối của Nhị Tâm, cái Tầm bị phân hoá vì dục vọng. Chính dục vọng là căn nguyên của cám dỗ dẫn đến tội lỗi và cái chết tâm linh: “Khi bị cám dễ, đừng ai nói: Tôi bị Thiên Chứa cám dỗ…nhưng mỗi người cổ bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn ” (Gc 1 13-14). Không những thế, ngày nay môi trường xã hội, với các phát ưiển vượt bậc, đặc biệt trong các thập niên gần đây, có thể tạo ảnh hưởng tốt hoặc xâu trên đời sống con người. Công đồng Vaticano II đã nêu lên: “Thế giới ngày nay tỏ ra vừa mạnh vừa yếu, có khả năng thực hiện những điều tốt đẹp nhất hoặc xấu xa nhất, và trước mặt nó là con đường dẫn tới tự do hoặc nô lệ, tiến bộ hoặc thoái hoá, huynh đệ hoặc hận thù ” (Vui mừng và Hy vọng, 9). Đang khi ấy, nơi con người thời đại, ý thức về tội có nguy cơ mờ dần, hầu như biến mất. Đây là một thách đố lớn lao cho Kitô hữu sống đức tin hôm nay. Tuy nhiên, con người ngày nay cũng có các thuận lợi để phát triển trong nhiều lãnh vực, cả về đời sống tâm linh. Không những khoa học kỹ thuật tiến triển phục vụ đời sống vật chất con người; hơn nữa, “nhờ chuyên cần học hỏi các bộ mồn triết học, sử học, toán học, vạn vật học và nghệ thuật, con người có thể góp phần lớn lao vào công cuộc thăng tiến gia đình nhân loại để đạt tới các giá trị cao cả của chân thiện mỹ” (Vui mừng và Hy vọng, 57) . Tuy vậy, con người vẫn còn là một mầu nhiệm đối với chính mình, và còn phải đối diện với các vấn nạn chưa được giải đáp, đặc biệt về ý nghĩa của kiếp nhân sinh, gồm Sinh ,Bệnh, Lão, Tử. Trong tình trạng đó, Đâng Cứu Thế được sai đến với con người, vì tình yêu nhẫn nhục, đã chấp nhận “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,7). Công đồng Vaticano II đã triển khai rất cụ thể: “Chính Con Thiên Chúa, khi nhập thề, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc vởỉ bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi Trinh Nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống như chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi” (HC Vui mừng và Hy vọng, 22). Bởi vậy, các thánh Giáo phụ đã nêu lên nguyên tắc thần học: Đức Kitô đã tiếp nhận tất ca nơi con người những gì cần được cứu chuộc, nhưng không phạm tội (x. Dt 4, 15). Xin được mở ngoặc để ghi nhận : Đức Maria và thánh Cả Giuse đã cùng với Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đã từng sống cảnh gia thất nghèo khó đơn sơ, trong kiếp nhân sinh, với bao gian nan thử thách. Vì vậy, chắc chắn Chúa Cứu Thế, suốt cuộc đời trần thế ba mươi ba năm, đã đem đến cho sinh hoạt của cõi nhân sinh, gồm cả các thử thách và đau khổ, những ý nghĩa và giá trị trong chương trình cứu độ. Do đó, cha Teihard de Chardin có lý để nói đến những “cảm thụ thánh thiện”(les saintes passivites). Trong mỗi cuộc đời, thử thách là món không hề thiếu. Thánh Phêrô vì thế đã nhắc nhở các tín hữu: “Anh em đừng ngạc nhiên mà coi thử thách như một cái gì khác thường xảy đến cho anh em” (1Pr 4,12). Cũng trong chiều hướng ấy, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận quen nói về ân huệ – thử thách. Thánh Phêrô còn xác quyết mạnh mẽ hơn nữa: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cũng được vui mừng hoan hỷ” (1Pr 4,13). Bởi vậy, “mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể…và bí ẩn về đau khổ và sự chết cũng được sáng tỏ nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô” (Vui mừng và Hy vọng, số 22). Như thế có nghĩa là, con người cần đón nhận nguồn ơn cứu độ nơi Tình yêu của Chúa Giêsu Kitô khổ nạn và phục sinh, để có thể sống trọn kiếp nhân sinh, trong tình hiệp thông liên đới rộng mở.  

 

TRONG TINH NHÂN ÁI
Không ai là một hòn đảo. Con người được sinh ra để “song với” cùng hiện hữu, “sống cho” trong trách nhiệm liên đới với tha nhân. Tuy nhiên có hai cách đánh giá về cuộc chung sống này. Bài ca quen thuộc cảm hứng theo Thánh Vịnh, thường được nghe : “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau” (Tv 132,1). Trái lại, một nhận xét cũng năng được nhắc tới về đời sống chung được coi là một “khổ chế lớn nhất ” (maxima poenitentia). Đức Phật có lý đã xếp vào số các đau khổ: phải sống với người mình không am hạp, hoặc phải xa lìa người mình ưa thích, cần phải nhận thức thực tế, về hiện trạng con người để có được thái độ hài hoà trong các mối tương giao với tha nhân. Kinh Thánh khuyên bảo con người vốn bản chất yếu đuối, bất toàn, cần mang “gánh nặng” giúp nhau (x. GI 6,2).Thánh phụ Biển Đức cũng có cái nhìn rất thực tế về đời sống chung. Bởi vậy, cuôì Tu luật, ngài có lời khuyên: “Hãy hết sức nhẫn nhục chịu đựng những yếu đuối xác hồn của nhau” (TL 72). Quả thật, trong trường hợp này, tình mến rất cần mang đậm tính nhẫn nhục. Hơn nữa, kinh nghiệm ngàn đời đã xác nhận “Bá nhân bá tánh”. Sự kiện ấy đòi hỏi con người cần vận dụng các khả năng để cùng hài hoà chung sống; đàng khác, mỗi cá nhân phải biết tu tâĩii sửa tánh. Còn vô số dị biệt giữa con người với con người trong nhiều lãnh vực. Thiết tưởng trong tất cả các khác biệt đó, điểm liên kết cần tìm gặp ở nơi Thiên Chúa, bởi vì “nhiều đặc sủng khác nhau…nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung ” (1Cr 12, 4- 7). Vì thế, các khác biệt trở thành “những ân huệ thiên hình vợn trạng của Thiên Chúa mà mỗi người cần khéo quản lý, sử dụng để phục vụ kẻ khác ” ( 1 Pr 4,10). Nhưng cũng còn tùy con người, trong tinh thần liên đới, biết sử dụng thế nào đề thể hiện tình nhân ái đối với người đồng loại. Như thế con người thực hiện tình yêu nhẫn nhục với lòng trân trọng vì sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa nơi tha nhân. Do đó Kinh Thánh chẳng những dạy chúng ta đón nhận nhau như đã được Chúa Kitô đón nhận (x. Rm 15,7), tha thứ cho nhau như đã được Chúa thứ tha (x. Ep 4,32). Thánh Phêrô, trong thư thứ nhất còn mời gọi chúng ta “Hãy kính trọng mọi người” (1Pr 1,17). Lời khuyên bảo này cũng được Thánh phụ Biển Đức ghi lại ở cuối Tu luật của ngài (ch. 72). Cũng vì thế, ngài năng lưu ý về sự hiện diện của Chúa Kitô nơi tha nhân (x. Tu luật các ch. 2.4.36.53.63). Kinh Thánh còn nêu thêm cho chúng ta nhiều lý do khác làm nền tảng cho lòng kính trọng lẫn nhau: vì tất cả là con cùng một Cha (x. lCr 8,6), thuộc đoàn em của Anh cả Giêsu (x. Rm 8, 29), được cứu chuộc bằng giá Máu của Chúa Giêsu Kitô (x. 1Cr 8,11; Rm 14,15), để trở nên chi thể của Thân mình Đức Kitô là Hội thánh (x. 1Cr 6, 16), và là đền thờ của Chúa Thánh Thần (x. 1Cr 6,19). Đặc biệt hơn nữa, nếu Chúa Giêsu nhìn nhận các môn đệ, trong đó có chúng ta, là “quà tặng Chúa Cha ban” (x Ga 17, 9.24), thì các anh em quả là quà tặng chúng ta được tiếp nhận từ nơi Thiên Chúa.
Như vậy, nền tảng để thể hiện lòng nhân ái, cuối cùng phát xuất từ nơi Tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha là Tình yêu nguồn cội (Amor fontalis) (x. 1Ga 3,1). Chúa Thánh Thần là sức mạnh tác động của Tình yêu tràn đổ trong tâm hồn (x. Rm 5,5), và Chúa Giêsu Kitô chính là mô hình cụ thể để Tình yêu đó được thực hiện trong cuộc sống (x. Ga 13,15). Chính Ngài, Ngôi Lời Nhập Thể, đã đem lửa Tình Yêu xuống trần gian (x. Lc 12,49), và thể hiện Tinh yêu đó xuyên qua trái tim nhân loại của Ngài, và cuộc sống thực tế. Như vậy, có thể nói: Ngài đã biến “Thiên ái” (Agape của Thiên Chúa) trở thành “nhân ái” (Philanthropie, X. Tt 3,4). Ngược lại, khi thông ban cho chúng ta Tình yêu từ Thiên Chúa Cha (x. Ga 15,9), Ngài đã liên kết tình nhân ái của chứng ta với nguồn “Thiên ái” của chính Ba Ngôi Thiên Chúa, là nguồn vui vĩnh cửu. Quả thật: “Giáo hội được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (HC Giáo hội, số 4).

  

ÂN HUỆ THẦN LINH
Thiên Chúa là Tình yêu, đã tạo dựng con người giông hình ảnh Thiên Chúa. Do vậy, con người được ban ơn hiệp thông vơi Thiên Chúa trong tình yêu. Đó là niềm hạnh phúc nguyên thủy của con người. Sau khi sa ngã, con người lại được tình thương Thiên Chúa cứu chuộc. Quả vậy, “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Ngài đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tinh Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Để thực hiện điều đó,“Thiên Chúa đã đổ tràn tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Ân huệ tình yêu này đã được ngôn sứ Êdêkien nhân danh Chúa loan báo trước: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tỉm mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ lấy khỏi các ngươi quả tim chai đá và ban tặng một quả tỉm biết yêu thương” (Ed 36,26). Quả Tim mới và Thần khí mới ấy là hiệu quả của ơn cứu chuộc được Chúa Giêsu Kitô phục sinh trao ban (x. Ga 7,39), nhờ liên kêt với Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn mạch yêu thương và là “điểm qui tụ mọi trái tim”( Centrum omnium cordium. Kinh cầu RTTT). Chính Chúa Giêsu thông ban cho chúng ta ân huệ thần linh là Agapê của Thiên Chúa. “Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Hãy ở lại trong tình yêu cửa Thầy” (Ga 15 9). Tình yêu của Chúa Giêsu đã được cụ thể hóa trong kiếp sống làm người, là để phục vụ và hy sinh nhằm cứu độ con người “Con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống cho muôn người” (Mt 20,28)
Quả vậy, Ngài đã sống giữa các môn đệ, như một người tôi tớ (x. Lc 22,27) và đã hiến tế mình trên thập giá để cứu độ cả trần gian. Đó là tột đỉnh của tình yêu nhẫn nhục Chúa Giêsu Kitô đã thực hiện. Từ nay thập giá đã trở thành Thánh giá, vì Chúa Giêsu chịu đóng đinh là nguồn ơn cứu độ cho mọi người. Người tín hữu tiếp nhận ơn cứu độ của Chúa Giêsu, đồng thời thông hiệp với Ngài trong tình yêu nhẫn nhục để thể hiện tình yêu thương trong cuộc sống.

 

THỰC HÀNH YÊU MẾN NHẪN NHỤC
Cả trong đời sống tâm linh, tri hành hiệp nhất là điều tối quan trọng. Chúa Giêsu cũng đã mạnh mẽ cảnh giác chúng ta về đòi hỏi này (x. Mt 7,24). Áp dụng cho đời sống bác ái, thánh Gioan Tông đồ nhấn mạnh phải yêu thương: bằng một tình yêu chân thực, được chứng minh bằng việc làm. Điều đó đòi hỏi nhiều khả năng hy sinh, thậm chí đến cả mạng sống mình (x. 1Ga 3,16).
Đi vào thực hành tình yêu nhẫn nhục, mặc hoa đua nở, chúng ta có thể tìm cách tóm gọn vào chữ THỜI và chữ NHƯ.
Thật sự, có cả một triết lý để sống chữ THỜI. Lời Chúa trong sách Giảng viên trình bày cụ thể về chữ THỜI trong cuộc sống (x. Gv 3, 1-22). Tuy nhiên, chữ THỜI ở đây không hẳn là đơn vị đo lường, dựa vào diễn biến xoay vần của mặt trời mặt trăng, để tính ngày giờ năm tháng. Thiên Chúa còn có tiêu chuẩn khác để lượng định giá trị đích thực của thời gian, đó là giá trị bởi Tình mến. Bởi vậy, Kinh Thánh đánh giá: “Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày”(2Pr 3,8). Giá trị đích thực được lượng định tùy hiệu năng do “quyền lực vô biên của tình yêu Thiên Chúa” và sự đáp ứng của con người. ĐTC Bênêđictô XVI trong Thông điệp Spe salvi đã xác định: “Đó là THỜI KHẮC CỦA CON TIM (Cordis Tempus), đó là thời gian của cuộc “vượt qua”, để tiến đến hiệp thông với Thiên Chúa” (số 47). Thiên Chúa, trong tình thương của Ngài, đã có một thời khoá thích hợp để thực hiện kế hoạch cứu độ. Chính Chúa Giêsu luôn qui chiếu với Thời Chúa Cha đã định. Ngài coi đó như là Giờ dành riêng cho Ngài (x. Ga 2, 4; 13, 1). Bởi đó, chúng ta cần ý thức về chữ Thời, để hoà nhập với Thiên Chúa trong Tình yêu Nhẫn nhục của Ngài, với niềm cậy trông Chúa dành cho chúng ta, cũng như cho mỗi anh chị em chúng ta. Đó cũng là chiều kích của đức cậy chúng ta phải sống, đồng thời cũng là một đòi hỏi của tình mến mang đậm tính nhẫn nhục. Một thái độ nhiệt thành trái thời đối vơi tha nhân không khỏi phương hại đối với họ trong Đức Cậy và cả trong tình mến nữa.
Ngoài ra, thiết tưởng cần phân biệt và sống thế nào chữ THỜI nơi Thiên Chúa, nơi bản thân và đối với tha nhân. Thiên Chúa, vốn có các tư tưdng khác biệt với tư tưởng của con người (x. Is 55, 8), thường dẫn đưa vào những nẻo đường bất ngờ, nhưng luôn kỳ diệu. Hơn nữa, thời Thiên Chúa viếng thăm, chính là “thời thuận tiện, là thời Thiên Chúa thi ân” (2Cr 6,2). Riêng đối với bản thân, sống chữ THỜI là sống trọn giây phút hiện tại, “lúc này, nơi đây”, với tất cả những gì Chúa đặt để trong đó. Nếu lãng quên hiện tại để bám vào dĩ vãng, hoặc bay lượn trong tương lai, chỉ là ảo vọng. Còn đối với tha nhân, chắc hẳn chúng ta phải biết rằng: Thiên Chúa đã có thời điểm dành riêng cho họ. Cám dỗ của chúng ta là không biết hoà mình với Thiên Chúa trong tình yêu nhẫn nhục của Ngài, để tiêp nhận thời thuận tiện Chúa dành cho mỗi tâm hồn. Chỉ mình Thiên Chúa, với tình yêu vô biên của Ngài, mới có khả năng đợi chờ, vượt quá mọi giới hạn của con người. Đó cũng là một yếu tố thuộc về lòng Thương xót của Cha trên trời, mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta noi theo (x. Lc 6, 36). Sống chữ THỜI còn đòi hỏi phải tỉnh thức để nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong cuộc sống, được coi là các: “biến cố sứ điệp”. Thiên Chúa thường xuyên đến với chúng ta bằng nhiều nẻo đường, nhưng không hẳn theo những lối mòn của chúng ta.
Tiếp đến, thực hành tình yêu nhẫn nhục, còn cần ghi khắc và sống chữ như mà Chúa Giêsu hằng căn dặn: Học với Ngài để trở nên hiền lành và khiêm nhượng như Ngài (X. Mt 11,29), để rồi sống yêu thương như Ngài đã yêu thương (x. Ga 15,12), phục vụ như Ngài đã phục vụ (Mt 20,28; Ga 13,15). Chữ như  nầy bao gồm cả một chân trời vô hạn. Vào cuối đời, Thánh Nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu đã được Chúa cho khám phá chiều kích đích thực của chữ như nầy trong đức mến, để luôn cố gắng vươn tới, đồng thời khiêm nhượng về giới hạn của bản thân. Chúa Giêsu dạy chúng ta sống chữ như , thật ra chính Ngài cũng đã trung thành sống chữ như này đối với Chúa Cha là nguồn uyên nguyên của tất cả. Cuộc sống của Chúa Giêsu luôn qui hướng về Chúa Cha: Chúa Giêsu hằng nói năng và hành động như đã được nghe nơi Cha (x. Ga 8,26), được thấy nơi Cha (x. Ga 5,17), để luôn làm đẹp lòng Cha (x. Ga 8,29), làm trọn Ý Cha (x. Ga 6, 40).
Nhưng đối với chúng ta, Chúa Giêsu “Hình ảnh Thiên Chúa vô hình” (x. C1 1,15), chính là mô hình cụ thể chúng ta cần họa lại nơi mình, từ trong tâm khảm cho đến xử sự trong đời sống. Thể hiện chữ như đòi hỏi: “Hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô” (Gl 3,27), “Hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl 2,5). cần thiết kín múc tận nguồn Thánh Tâm Chúa Giêsu Kitô, để có thể yêu thương trong lòng dạ Đức Giêsu Kitô (x. P1 1,8). Đặc biệt, cùng với thánh Phaolô, “Chúng ta luôn mang nơi thân mình cuộc Thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng ta” (2Cr 4,10).
Trong khuôn khổ của chữ THỜI và tiêu chuẩn của chữ NHƯ, chiêm ngắm Chúa Giêsu để được hiệp thông với Ngài trong tình yêu nhẫn nhục, cuối cùng phải dẫn đến biến đổi con người và cuộc sống. Nên nhớ rằng: Nhẫn nhục trong tâm hồn đòi hỏi phải chấp nhận huấn nhục trong cuộc sống, về vân đề nầy, việc thực hành cầu nguyện Kinh Mân Côi cố giá trị đặc biệt, vì sau suy niệm mỗi mầu nhiệm đều có một ý chỉ nguyện cầu thực tế cho cuộc sống. Nhờ vậy, đời sống tâm linh của người tín hữu, nhờ Mẹ, với Mẹ được diễn tiến ăn nhịp với nội dung của các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng, cùng với tác động của năm sự Sáng, nhằm dẫn đến niềm vui của Chúa Kitô Phục sinh, kết thành hoa trái của Chúa Thánh Thần.

 

YÊU MẾN, NHẪN NHỤC VÀ NIỀM VUI
Thiên Chúa là Tình yêu; đương nhiên Ngài cũng là Thiên Chúa của niềm vui. Tình yêu nhẫn nhục nơi Chúa Giêsu không bao giờ buồn thảm hay thât vọng. Hạt giống nhẫn nhục gieo vào mảnh đất yêu mến sẽ trổ sinh hoa trái, là niềm vui Quả thật, vui mừng chính là hoa trái của Thánh Thần Tinh yêu ( X GI 5, 22). Đó là niềm vui ơn cứu độ Chúa Giêsu trao ban. Niềm vui được Ngài xác định là của chính Ngài (X. Ga 15,11; 17,13), niềm vui trọn vẹn (x. Ga 17,13), niềm vui thâm sâu trong tâm hồn (x. Ga 16,22), niềm vui bền vững không ai lấy mất được (x. Ga 16,22), niềm vui có khả năng biến cả buồn sầu thành niềm vui (x. Ga 16,20). Vậy nguồn mạch tình yêu nhẫn nhục cũng như niềm vui trọn vẹn là do ơn hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô. Bởi vậy, MẹTêrêxa Calcutta đã định nghĩa về đau khổ một cách tuyệt vời : “Đau khổ là cái hôn của Chúa Giêsu Kitô”. Điều đó cũng xác thực đối với tất cả các thánh. Bà Ronda De Sola Chervin, đã rảo qua cuộc đời của nhiều vị thánh để viết nên cuốn sách tựa đề: The Kiss from the Cross. Saints for every kind of suffering. Michigan 1994. (Tạm dịch: Cái Hôn Từ Thập Giá. Các vị Thánh qua các thứ khổ đau). Các thứ thử thách và đau khổ chịu vì tình mến, đã trở thành suối nguồn của niềm vui, niềm vui trọn vẹn vĩnh cửu, vì tình yêu không bao giờ mai một (x. 1Cr 13,8), nhất là vì chính Thiên Chúa là Tình yêu vĩnh hằng.
Thánh Phanxicô được in Năm Dấu Thánh của Chúa Giêsu chịu đóng đinh, đã diễn tả cách kỳ diệu về thực chất của niềm vui trọn vẹn. Còn Thánh Phụ Biển Đức sau khi trình bày đời đan tu như hiệp thông với cuộc Thương khó của Chứa Giêsu, đã nói đến “sự ngọt ngào khôn tả của Tinh yêu” (TL. Lời mở). Cuôì cùng, chúng ta hãy hướng nhìn lên Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu và là Nữ vương các Thánh. Tuy Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, Tình Yêu Nhập thể, nhưng Mẹ cũng là Mẹ Sầu Bi, Mẹ của Bảy Sự Thương Khó, vì cùng chia sẽ cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, trong Tình yêu Nhẫn nhục để cứu chuộc nhân loại. Giáo hội vì thế, trong Kinh cầu, đã tuyên dương Mẹ Maria là Đấng “làm cho chúng con vui mầng!”. Bởi vậy, Mẹ cũng được kêu cầu là “Nữ Vương, Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy”, vì niềm vui được gắn liền với đức Cậy (x. Rm 12,12). Đó chính là sự sống và niềm vui Chúa Giêsu phục sinh thông ban.

 

THAY LỜI KẾT
Thiên Chúa Tình yêu “Deus Caritas”, để cứu độ con người, đã trở thành Thiên Chúa Nhẫn nhục “Deus patientiae”, cụ thể qua cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô. Đó là Tình yêu của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Giêsu tự nguyện hiến mình (x. Ga 10,18), với sự đồng tình của Chúa Cha (x. Rm 8,32) và Chúa Thánh Thần (x. Dt 9,14). Hiệu quả ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu là phúc được làm con Thiên Chúa nhờ Thánh Thần nghĩa tử (x. Rm 8,15; GI 4,6), với Tình yêu tràn đổ vào lòng (x. Rm 5,5). Cũng chính Thánh Thần mạc khải cho con người nội tâm, để nghiệm được mọi chiều cao, sâu, dài, rộng của tình yêu Đức Giêsu Ki tô vượt trên sự hiểu biết (x. Ep 3,16-19).
-Chiều sâu: vì Đức Kitô đã thể hiện tình yêu đến cùng, Ngài đến để phục vụ và hiến tế mình vì chúng ta (x. Ga 13,1; Mt 20,28; Rm 5,8).
-Chiều rộng, vì ơn cứu độ bao quát dành cho mọi người, mọi nước, mọi dân (x Kh 5, 12), đến tận cùng trái đất (X. Cv 18).
-Chiều dài qua dòng thời gian cho đến tận thế: Chúa Giêsu vẫn hiện diện để thể hiện ơn cứu độ qua các nhiệm tích, đặc biệt Thánh Thể và Nhiệm Thể (x. Mt 28, 20).
-Chiều cao, vì tình yêu cứu độ phát xuất từ Ba Ngôi Cực thánh, với hiệu quả dẫn vào “ân sủng Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Thiên Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” (2Cr 13,13).
Kitô hữu, vì đã được cảm nghiệm, nên “đã biết và tin vào Tinh yêu Thiên Chúa”(1Ga 4,16) trong Đức Giêsu Kitô (x. Rm 8, 39). Bởi đó, người môn đệ của Chúa phải là chứng nhân và là khí cụ tình yêu nhẫn nhục của Chúa Giêsu, bằng toàn diện cuộc đời, trong môi trường sống, trong kiếp nhân sinh và nhất là trong tình nhân ái, thể hiện ơn hiệp thông với Chúa, và với nhau trong Chúa. Tất cả lệ thuộc vào ơn kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, “vì Người là Đầu. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình yêu” (Ep 4,15- 16). Tình yêu đó, trước hết chính là tình yêu nhẫn nhục nơi Chúa Giêsu Kitô. Đó cũng chính là tình yêu Ngài chuyển đạt cho chúng ta từ nơi Thiên Chúa Cha, như Ngài tha thiêt mong muốn; “Để tình yêu Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa” ( Ga 17,26). Như vậy, Đức Giêsu Kitô đem lại cho chúng ta sự sống dồi dào (x. Ga 10,10), sự sống thần linh, và niềm vui vĩnh cửu trọn vẹn (x. Ga 17, 13). Đây không chỉ là niềm vui trọn vẹn cho tâm hồn, mà còn là niềm vui toàn diện, phát xuất từ Thiên Chúa (x. Lc 15,32; Ga 17,13), niềm vui tràn ngập cả thiên đàng (x. Lc 15,10), với mọi loài trong trời đất được quy tụ dưới quyền một Thủ lãnh là Đức Kitô (X. Ep 1,10).
Như vậy, chúng ta “được đầy tràn sự viên mãn của Thiên Chúa” (Ep 3,19), được “luôn vui mừng, và tạ ơn trong mọi dịp, vì đó là điều Thiên Chúa muốn nơi anh em trong Đức Kitô Giêsu” (1Th 5,16-18).

 

 

 

 

 

 

NGÀY NAY,

LÀM SAO ĐÀO LUYỆN

CÁC TẬP SINH VỀ SỰ ĐỊNH SỞ

 

Nguyên ngữ:“Comment former les novices à la stabilité aujourd’hui?” ,
Tác giả: Adalbert de Vogué
Collectanea Cisterciensia 60 (1998), tr. 149-153.
Chuyển ngữ: Duyên Thập Tự

 

Người viết những dòng này thuộc nhóm người ít có khả năng giải đáp một vấn nạn như trên. Từ hơn hai mươi năm sống một mình, không biết đến thế giới mà các tập sinh xuất phát, cũng chẳng tường về những khuynh hướng và động lực các bạn trẻ này mang vào đan viện, cũng như không rõ ngay cả những vấn đề cá nhân và cộng đoàn được đặt ra một cách mãnh liệt cho các đan sĩ cộng tu ngày nay. Dầu có những khiếm khuyết đó, với tất cả niềm vui, chúng tôi sẽ nói đến sự vĩnh cư đan tu, bằng cách nối kết một vài thực tế hiện thời mà chúng tôi biết được với những suy tư chúng tôi được linh hứng từ truyền thống.
Trước hết, một cương lĩnh về sự định sỏ hình như ít thu hút tuổi trẻ của một thế giới biến đổi nhanh chóng. Định CƯ, không phải là bât động sao, khi cuộc sống là chuyển động, không phải là nhốt mình trong một tình trạng bất biên sao, khi xã hội đang biến đổi từng ngày dưới mắt chúng ta?
Từ ngữ định sở có cái gì như thể là … tĩnh làm cho người ta I nghĩ tới chuyện bị nhốt trong tù hay ở trong mồ.
Nhưng chúng ta cũng đừng quá bi quan. Thuật ngữ định sở còn lâu mới mất được âm vang tích cực. Hãy tra cứu những cuôn tự điển, từ ngữ mới tiếng Pháp “déstabiliser” – bất ổn, nói đến tình trạng mất quân bình kinh tế, xâ hội chính trị, mà mọi người đều cảm thấy đe dọa nặng nề. Và “instable” – không ổn định-, về tâm lý hay nghề nghiệp, chắc chắn không phải là một phẩm tính. Qua sự kiện của ngôn ngữ và những thứ khác tương tự, người ta còn có thể nói cho các thỉnh sinh ngày nay về sự định sở. Để làm việc đó, cần thiết phải trao cho từ stabilitasđịnh sở – tất cả nội dung phong phú hàm chứa ưong các bản văn của các Giáo Phụ và của những đan sĩ đầu tiên mà thánh Biển Đức được cảm hứng từ đó.
Để bắt đầu với chính Tu Luật Biển Đức, rõ ràng là lời khấn định sở (TL 58, 17) không thể tách lìa khỏi hai lời khấn khác: cải tiến và tuân phục. Nếu chúng ta cư ngụ chỉ một nơi, chính là để thực hành nơi đó việc khổ chế, công việc được chỉ định ngay sau lời khấn cải tiến, cũng như tuân phục, là đặc điểm chính yếu của nếp sống này. ở đây sự cải tiến lại là một yếu tố hoàn toàn linh hoạt, mà “khởi đầu”, được định nghĩa bởi sự tuân thủ chuyên cần (73, 1), tiếp theo là sự “tiến triển” không ngừng, luôn đi theo sự tiến bộ của đức tin (Lời mở 49). Vượt trên sự “sốt sắng ban đầu” (1, 3), sự tiến bộ này dẫn đến một cuộc sống thật sự “thánh thiện” và quang toả (21, 1), chứa đựng biết bao “cấp độ” mà cộng đoàn phải tính đến cho các thành viên của mình (22, 2; 63, 1), và hướng đến sự “toàn hảo” vượt qua chính Tu Luật, sự toàn hảo được Kinh Thánh và lời giảng dạy của các Thánh Phụ phác họa nên (73, 2).
“Định cư”, theo nghĩa đan tu, đó là dấn thân trong một tiến trình tiến triển vô biên, mà sự định sở chỉ là bước khởi đầu và là điều kiện. Lời khân “định sở” hệ tại ở chỗ kiên trì trong tiến trình trở nên này. Qua đó, lời khấn này kéo dài chủ đề lớn của Phúc Âm: “Ai bền đỗ đến cùng, sẽ được cứu độ” (Mt 10, 22; 24, 13). “Kiên trì ở trong đan viện cho đên chết”, như Luật Thầy viết và thánh Biển Đức lập lại (TL, Lời mở 50; Luật Thầy, 50), và như lời Chúa Giêsu, chính là “gắn bó với Chúa trong những lúc Chúa gặp cảnh thử thách gian nan” (Lc 22, 28; X. Ga 6, 67).
Như vậy, thật là tốt đẹp, ngay cả khẩn thiết, là đưa ra ánh sáng những mối giây nối kết sự vĩnh cư của chúng ta với bản thân Chúa Kitô. vả lại, trong các thư của các Tông Đồ, chính thuật ngữ làm xuất hiện những mồì liên hệ căn bản Tân Ước của sự vĩnh cư đan sĩ. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ các tín hữu Corintô “kiên tâm bền chí, và ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa”. (1Cr 15, 58), và ngay trong phần cuối lá thư này, ngài đã kêu gọi: “Hãy tỉnh thức, hãy đứng vững trong đức tin” (1Cr 16, 13).

Trong đường hướng của các bản văn thánh Phaolô, thánh Cyprianô đã triển khai một cách đáng kể lối văn ẩn dụ về chiến binh của Chúa Kitô “kiên cường” và “đứng vững” trong trận chiến, không để kẻ thù đánh gục hoặc trôn chạy. Trong thời kỳ bắt đạo, các Kitô hữu chia thành hai hạng người, những người vấp ngã – lapsi – và những người đứng vững – stantes. Nhưng ngay khi bình an được thiết lập, sự chia đôi này vẫn còn giá trị vắng bóng sự bắt bớ của con người không chuẩn miễn kitô hữu luôn luôn chiến đâu với ma quỉ. Như vậy, mọi thời, đều phải “đứng vững” chống lại những kẻ thù vô hình, và sự kháng cự thắng lợi này được thánh Cyprianô trao tặng danh xưng stabilitas – vĩnh cư.
Dưới ánh sáng của điều trên đây, chúng ta thấy ý niệm về sự vĩnh cư của đan sĩ hàm chứa một sức mạnh quân sự và một năng lực không ngừng nào đó. Đan sĩ là người kế thừa của các vị tử đạo. “Kiên vững” trong đan viện của mình, chính là chống lại sức ép đốì nghịch mọi lúc muốn lôi đan sĩ ra khỏi đan viện. Có nghĩa là phải “đứng vững”, như một tinh binh của Chúa Kitô, không trôn chạy – là bỏ đan viện – cũng không bị đối phương hạ gục – vì thiếu tuân phục và cải tiến.
Dầu vậy, hậu cảnh Kitô giáo cổ này không chỉ là cái duy nhất soi sáng sự vĩnh cư của đan sĩ. Phải nối kết sự kiên vững trong chiến đấu với một áp dụng khác của từ ngữ, xuất hiện một cách đặc biệt trong các bản vãn đan tu của Gioan Cassinô. Khi nói đên sự kiên vững — stabilitas — và những từ liên hệ (stabilis, instabilis, instabilitas, stabiliter), ngài nghĩ tới một vấn nạn hết sức rõ ràng, rất ư quan trọng đối với đan sĩ: làm sao tâm trí nhân loại, luôn luôn lang thang đó đây, có thể vĩnh cư trong Thiên Chúa?
Như vậy, vấn đề vĩnh cư được nội tâm hóa. Chúng ta đụng chạm vào chính trung tâm đời sống đan tu. Nếu đan sĩ suốt đời sống trong đan viện, cuối cùng không phải là mong ước sự kiên vững thể lý cho phép đạt tới mục tiêu của ơn gọi: một sự kiên vững hoàn toàn thiêng liêng hiệp nhất đan sĩ với Thiên Chúa hay sao? Từ monachos – đan sĩ – hàm súc lỵ tưởng hiệp nhất này trong Đấng là Duy Nhất và Đơn Nhất.
Chính sự an định tâm trí về các tư tưởng là lý hữu, điều kiện và hỗ trợ của sự an định nơi chốn. Thánh Biển Đức nhắc cho chúng ta điều đó trong bậc thứ nhất của đức khiêm nhường: nỗ lực luôn nghĩ tưởng tới Thiên Chúa hiện diện, Đấng nhìn thấy chúng ta, là nền tảng của mọi tiến bộ thiêng liêng. An định tâm trí trong tác động đức tin này, chính là trao cho mình phương tiện để thực hành sự vĩnh cư trong đan viện và trong việc tuân thủ qui luật đan tu.
Điều mà chương về đức khiêm nhường nói tới, chúng ta có thể diễn dịch từ kết luận của Lời Mở. Khi thánh Biển Đức, tiếp nôi theo Luật Thầy, nói với chúng ta “phải kiên trì trong đan viện cho đến chết”, ngài còn nói rõ: trong giáo huấn của Chúa. Chính trong giáo huấn của Chúa Kitô mà chúng ta ở lại “trong đan viện”. Như vậy, hai sự an định liên xuyến với nhau: yếu tố vật chất của sự kiên vững trong một nơi không thể nào vận hành được nếu không có một sự kiên vững trong Lời Chúa, vì đan viện không gì khác hơn là “trường dạy phụng sự Thiên Chúa”, trong đó, Chúa Kitô không ngừng dạy dỗ chúng ta (Lời Mở, 45-50). Không có gì được coi như là an định một cách thể lý nếu chũng ta không an định một cách thiêng liêng, bằng cách thường xuyên lắng nghe giáo huấn của Chúa.
Sự an định của thể xác trong một nơi chôn, của thần trí trong một tư tưởng, của toàn thể con người trong cuộc chiến là đứng vững, không chạy trốn cũng không bị hạ gục: đó là ba nhân tố không thể tách lìa mà chúng ta phải đưa ra trước mất cho những người sắp dấn thân vào đời đan tu. Chúng ta cần thêm rằng việc tuyên thệ thể lỷ được nói trên kia phải bao gồm toàn thể con người: sự an định nơi chốn hệ tại không những ở lại trong đan viện, nhưng còn phải sống cuộc sống cộng đoàn. Stabilitas in congregatione, như Tu Luật nói (4, 78): sự an định cộng tu giả thiết có một cộng đoàn.
Dầu vậy, sự an định cộng đoàn không phải là một thứ không có hồi sau – nec plus ultra – câm cản mọi tiến triển sau đó. Khi một đan sĩ cộng tu đã được huân luyện trong đội ngũ huynh đệ có thể ra đi chiến đấu một mình trong sa mạc vị ẩn sĩ mang theo mình điều tôt đẹp nhất đã học được giữa anh em. Kiên trì trong sự tuân thủ này và vượt qua, họ tiếp tục sự phấn đấu cho an định vượt qua những giới hạn của nơi chốn. Tu phòng của ẩn viện trở thành một nơi mới của sự an định của họ, nơi họ kiên định, mà đôi khi rất khổ công, để chống lại những thúc ép của nỗi chán chường.
Trong một vài trường hợp, sự kiên định thiêng liêng trong điều thiện có thể đòi hỏi những sự cắt đứt với sự an định thể lý, như trong trường hợp của thánh Hilario mà thánh Hiêrônimô kể lại. Là một ẩn sĩ toả sáng, Hilario thấy hình thành chung quanh mình một cộng đoàn các môn sinh. Khi ngài quyết định lìa bỏ đan viện ở Gaza này để lấy lại đời sống ẩn tu, thì đoàn sủng chữa bệnh của ngài đã lôi cuốn hằng hằng lớp lđp những kẻ cầu xin và ái mộ. Đời sống của ngài vì thế mà không còn ổn định. Chạy trốn sự nổi tiếng từng theo đuổi mình, ngài bỏ Palestina đến Ai-Cập, rồi từ Ai- Cập đến Libi và Sicin, từ Sicin đến Damatia, từ Damatia đảo Síp, nơi ngài sẽ qua đời. Đó là một sự kiên định thiêng liêng, từ chối vinh quang nhân loại đẵ bắt ngài phai songa một sự bất ổn thường xuyên.
Để sang một bên những trường hợp đặc biệt, chúng ta có thể nói rằng sự an định nơi chốn cũng có thể luôn mở rộng, bởi vì nó chỉ là một sự trợ giúp bên ngoài của một nhân đức ngự trị trước hết trong tâm hồn. Đặc tính thiêng liêng của sự an định chân thật ngăn ngừa chúng ta khỏi những vi phạm một cách dễ dàng ngay trong lòng một cộng đoàn đan tu bên ngoài có vẻ rất ư là ổn định. Nếu chúng ta đọc báo, nghe đài, xem phim…, chúng ta có còn trung thành với sự an định đan tu mà chúng ta đã tuyên khấn? Và như thế, chúng ta lại đã chẳng lìa bỏ đan viện, cho dù trong giây lát, bằng cặp mắt, đôi tai và tư tưởng đó sao? Việc huân luyện sự an định lại không bao hàm sự từ bỏ những phương tiện thông tin để chú tâm đến Thiên Chúa sao?
Để kết thúc, chắc chắn là tốt đẹp nếu đặt ra trước mắt chúng ta và các tập sinh những tấm gương lớn về sự an định đầy dẫy trong lịch sử đan tu. Từ bôn mươi đến chín mươi tuổi, Gioan thành Lico đã ở trong tu phòng tại ẩn viện suốt một nửa thế kỷ. cư ngụ bên dòng sống Nil, nữ ẩn sĩ Sara đã sống sáu mươi năm tại đây mà không tò mò liếc nhìn dòng sống. Một giai thoại được Sulpiciô và Gioan Cassinô trình thuật lại hơi khác nhau, rằng hai anh em ở chung với nhau trong suốt bốn mươi năm mà mặt trời chẳng cho thấy người này dùng bữa và người kia đang tức giận.
Những ví dụ về sự an định trong nhân đức này giúp chúng ta chú ý đến mục đích thiêng liêng của vĩnh cư – stabilitas. Thực hành sự vĩnh cư chỉ có ý nghĩa nêu sự trung thành với nơi chốn và với thể chế đi đôi với sự gắn bó với nếp sống và với những nhân đức tiến triển trong đời đan tu.
Một lời thật đẹp được thánh Gregôriô thuật lại trong bộ sách Đối Thoại, trong cuốn sách kể lại đời sống thánh Biển Đức, minh họa đặc tính thiêng liêng của bất cứ sự an định chân thực nào. Vị ẩn sĩ Martinô Núi Marsique, miền nam Rôma, sống trong một chiếc hang, và để cấm mình ra khỏi đó, đã cột chân vào một tảng đá. Thánh Biển Đức nhắn với vị ẩn sĩ: “Nếu ngài là tôi tớ của Thiên Chúa, thì đừng cột mình vào bằng một xích sắt, nhưng bằng sợi xích của Chúa Kitô”. Rõ ràng đó chính là lý do duy nhất của sự vĩnh cư mà thánh Biển Đức đòi hỏi trong Tu luật của ngài: Tinh yêu Chúa Kitô. Bất cứ nam nữ đan sĩ Biển Đức nào cũng có thể lấy làm của mình lời của đan sĩ Macariô thành Alexandria nhắc cho anh bạn trẻ tên là Pallade, khi nỗi chán chường thúc ép chàng là bỏ tu phòng của mình: “Vì tình yêu Chúa Kitô, con hãy giữ vững lấy những bức tường này”.
Huấn luyện các tập sinh ngày nay về sự vĩnh cư, chắc chắn trước hết là giúp họ khám phá ra những viễn ảnh vô biên trong đó các đan sĩ ngày xưa đã quan niệm và đã sống sự thực hành này. Nếu chúng ta từ bỏ sự di chuyển trong không gian, chính để trợ giúp sự bất di bất dịch của con tim trong Thiên Chúa, là sự di chuyển liên tục của việc tìm kiếm Thiên Chúa. Bài thuyết giáo của linh phụ Abraham, vị ẩn sĩ cuối cùng, dành cho Cassinô, nói lên điều đó một cách tuyệt vời về việc kiên trì ở lại trong tu phòng, là nơi của sự an định đôi với các ẩn sĩ:
Mọi chú tâm của đan sĩ phải không ngừng tập trung vào một điểm duy nhất, và mọi tư tưởng phát sinh hay tiếp nhận, phải mạnh mẽ dẫn hướng chúng vào một đối tượng duy nhất, đó là sự tưởng nhớ đến Chúa. Theo cách của người vẽ vòng cung vòm nhà thờ, bằng cách không ngừng quay chiếc dây đo chung quanh một trung tâm đặt ở rất cao (…), tâm trí chúng ta cũng phải lấy tình yêu Chúa làm trung tâm và mọi lúc, xuyên qua những công việc và mọi hoạt động, luôn gắn kết một cách vững bền vào trung tâm này, nhận hoặc vất bỏ những tư tưởng của nó, tùy theo chiếc dây tình ái, khi di chuyển đường vòng tròn, chỉ cho thây cần phải tiếp nhận để xây dựng hay phải loại bỏ”.

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐAN SĨ SỐNG ĐỜI THƯỜNG

 

Montfort Pháp

Đòi hỏi của đời Thánh hiến đan tu là đi vào nhân thế để quảng bá và làm chứng cho Tin Mừng bằng chính cuộc sống thầm lặng của mình. Nhiệm vụ của chúng ta là trao cho thế giới một tình yêu vị tha và sự bình an thẳm sâu phát-xuất từ Thiên Chúa; đồng thời trình bày và làm sáng tỏ hơn về căn tính của mình. Giáo hội không cần chúng ta bôn ba như những tu sĩ khác. Điều Giáo hội mong muốn là chúng ta sống đúng đặc sủng của mình giữa dòng đời như nhựa sống đem lại nét xuân tươi cho muôn người.
Chúng ta không tránh đời để tìm sự an phận trong nơi thanh vắng này. Sống trong vòng xoáy của cảnh đời tranh đua, chúng ta phải đối diện với những thực tại gian nan nơi bản thân, cũng như từ trần gian. Dù là đan sĩ, chúng ta vẫn còn bao bất toàn yếu đuối, bao sự thăng trầm của kiếp nhân sinh. Bởi thế, để bước qua hàng rào giới hạn, cần đến nỗ lực bản thân, sự lựa chọn dứt khoát và dấn thân trọn vẹn trong tinh thần lạc quan, tín thác.

 

1 SỐNG LÀ CHỌN LỰA
Niềm khát vọng của đời đan sĩ là sống hạnh phúc, một hạnh phúc chân thực khơi nguồn từ Thiên Chúa. Bước vào sân chơi cuộc đời không ai muốn mình phải hứng chịu những bất hạnh hay tai trong đè nặng tâm thân. Sống là hướng đến hạnh phúc, ở đời này cũng như nơi cõi vĩnh
Nhưng cuộc sống sẽ đi về đâu là tuỳ thuộc vào lựa chọn của bạn, không ai làm thay được điều đó. Mỗi người cần đặt mình trong tự do để xác định một phương thức số một định hướng tương lai. Đừng trở nên cớ vấp phạm cho mình và anh em. Đan viện là môi trường thuận lợi cho viê thăng tiến bản thân, chứ không phải là xưởng tạo ra những điều bất hạnh. Bởi đó, đan sĩ không thể sống theo kiểu bèo dạt mây trôi, vì mỗi hữu thể là ân ban của Thiên Chúa nên cần đổi mới không ngừng.
Cái khó cho đan sĩ là dễ chùn bước trước cảnh đời chua cay hay đào hố chôn niềm hy vọng của mình. Chúng ta tự tạo ra những nỗi bất hạnh bằng trí tượng tượng, từ đó sinh ra cái nhìn tiêu cực, buồn nản và thất vọng. Nhìn cảnh đời với đôi mắt mờ ảo, nuôi hy vọng với tinh thần “ngái ngủ”. Cuộc sống là chuỗi dài những nỗi bất an dường như “hết thuốc chữa cách vô tình, ta làm cho các sứt mẻ cuộc đời thêm nguy hiểm. Tâm thức luôn chất chứa những ý tưởng u ám. Cảm thấy tự ti mặc cảm vì kém trí bất tài. Tất cả như những viên gạch xây nên lâu đài cố thủ để đóng kín cuộc đời trong u mê, hờn oán. Ớ trong đó, ta cảm thấy lo sợ và bối rối về bất cứ hành vi nào của mình. Chúng ta tự lập nên quan toà xét xử chính con người đáng thương đang cần sự cứu chữa này. Vậy phải chăng cuộc đời ta đã nói lời cáo từ trưổc niềm hy vọng tương lai?
Không một rào cản nào ta không thể vượt qua. Đó quan trọng là có muốn làm cuộc cách mạng canh tân lại cuộc đời hay không. Gánh nặng sẽ vơi bớt khi ta nhận ra bàn tayThiên Chúa vẫn hằng dẫn dắt, nâng niu như mẹ hiền ấp ủ con thơ. Ngài vẫn có đó khi ta tưởng mình bơ vơ. Ngài ở trong ta khi đời ta như cánh chim xa bầy, lạc lối. Trong Thiên Chúa, mọi sự không còn cái cớ vấp phạm, nhưng trở nên khí cụ thánh hoá. Cuộc sống nên nhẹ nhàng vì tâm hồn luôn tìm thấy an vui và những điều cần thiết cho giây phút hiện tại. Đường về bến mơ được khai mở với vòng tay dang rộng của Đấng yêu thương và tuyển chọn.
Nhưng thực tại cuộc sống không đơn giản chút nào. Nó đòi hỏi sự kiên tâm, từ bỏ để hoàn toàn sống cho Chúa và anh em. Chúng ta phải biết bằng lòng với công việc bổn phận, vì đó là một thái độ cần thiết. ĐHY. Fx. Nguyễn Văn Thuận đã nói: “Trên đường dâng hiến, không có việc gì tầm thường cả. Một cử chỉ nhỏ nhặt nhất vì người khác, là một bước đến tình yêu, cho tình yêu, là sự phát triển con người. ” (Đường Hy Vọng – số 811. Xb. 1991). Cái tầm thường, nhỏ bé không đương nhiên là cái vô vị. Nó là bậc thang giá trị giúp ta định hướng được ý nghĩa cuộc sống trong những công việc tẻ nhạt. Chúng ta không có khả năng làm bước nhảy vọt cho cuộc sống. Bởi thế, cần xây dựng đời mình bằng những viên đá nhỏ của việc làm không tên hay những hy sinh thầm kín.
Chúng ta không nên lượng giá đời đan tu của mình bằng những việc phi thường. Đó chỉ là lỗ hổng, là cạm bẫy đánh sập ta vào cõi u mê. Nhưng cái “là” cần trổi vượt hơn cái “có”. Bởi thế, hãy làm sáng lên cãn tính của mình bằng cách chọn lựa những gì là nhỏ bé và tầm thường, Đó là giá tộ đích thực cần chọn lựa để xây đắp cuộc sống hạnh phúc.

 

2.THÁCH ĐỐ VỚI CHÍNH MÌNH
a.Quảng bá cái tôi
Một yếu tố làm nên căn tính đan tu chính là thinh lặng: ngoại giới và nội tâm. Không phải ngẫu nhiên mà luât thinh lặng được chú trọng. Nó đã được đúc kết, rút tỉa từ những vị tiền nhân, xây nên một hệ thông luật vững chắc và mang tính thời sự. Cha thánh Biển Đức đã nhắc nhỏ: “nói nhiều không tránh khỏi tội” (TL. Chương 7, số 57 ), Thật ra, những người mắc bệnh nói nhiều chẳng khác nào dùng bức bình phong che đậy tâm hồn trông rỗng của mình. Muốn khẳng định mình qua đầu môi chót lưỡi, song lại đánh mất chính mình bằng những lời nói ấy.
Theo khuynh hướng tự nhiên ta luôn muốn tỏ ra mình học cao, hiểu rộng, giả dặn kinh nghiệm. Kỳ thực, những con người ấy rất nông cạn và thiếu hiểu biết trong cuộc sống. Cách vô tình hay hữu ý, lối sống của ta phơi bày những khuyết điểm thầm kín, tạo nên một thứ trò cười cho thiên hạ. Nói nhiều về mình khó tạo nên sự an hoà nơi bản thân, cộng đoàn. Nó dễ làm cho mối tình huynh đệ bị sứt mẻ, mờ nhạt và cuộc sống trở nên nặng nề hơn. Khi ta muốn đề cao mình qua lời nói, đồng nghĩa tìm cách hạ người khác xuống. Quả thực, mọi hành vi đưa mình lên không thể nào tốt được. Đến một thời điểm nào đó ta sẽ phải gánh lấy hậu quả thất bại do mình gây nên.
Nói nhiều là căn bệnh nan y rất nhiều người mắc phải, nhưng ít ai nhận thấy. Mang danh là đan sĩ, song suốt ngày chẳng khác nào “cái loa phát thanh” làm dội tai biết bao người. Sự thách đố lớn cho bản thân là nói nhiều mà vẫn cảm thấy chưa đủ. Dùng lời nói để quảng bá về Chúa, nhưng cuộc sống lại là một phản chứng. Chúng ta muốn chất lên vai người khác gánh nặng mà mình cố lẩn tránh. Thật trớ trêu và đang thương cho những đan sĩ mắc phải căn bệnh này.

b.Nhàm Chán Với Công Việc Thường Ngày
Cũng như bao người, đan sĩ cần đến lao động để nuôi sống bản thân và giúp kẻ cơ hàn. Không nên lãnh đạm với công việc. Khước từ lao động là một phần chối bỏ căn tính (ora et labora). Điều tốt nhất cho đan sĩ là thi hành bổn phận mà không nại đến lý lẽ biện minh; làm tất cả cách vô vị lợi và nhưng không. Định hướng đan sĩ là làm việc để cải thiện nhân thế ngày một tốt đẹp hơn, chứ không nhằm tô vẽ thêm cái tôi. Cuộc sống sẽ hoàn thiện hơn nếu mỗi người biết chung tay xây dựng. Cộng đoàn bớt đau thương khi các thành viên tạo cho mình một công việc để tránh nhàn rỗi và mưu cầu cho công ích.
Nói như thế, không có nghĩa công việc tự nó giúp đan sĩ đã trở nên hoàn thiện. Giữa vườn hoa bạt ngàn đang đua nở khoe sắc luôn có những gai nhọn xen kẽ. Trên con đường thảm lụa, cỏ lạ hoa thơm vẫn còn đó bao sỏi đá và vực thẳm làm cản lối đi. Công việc hằng ngày lắm lúc nặng nề, chán chường vì không tìm ra lối thoát. Cách làm việc còn mang nặng tinh thần thế tục, cốt để người khác khen, tránh con mắt dò xét của người trên hay cái nhìn nghi kỵ của anh em. Ý nghĩa lao động dường như bị bóp méo, lệch lạc không còn mang danh hiệu “ vinh quang”. Thay vì phương tiện đến với anh em, nó lại trở nên chướng ngại ngăn cách đôi bờ tình liên đới. Làm việc cách đôi phó hay che đậy một tinh thần đang “hấp hối ” của mình. Trong công việc chẳng thấy hạnh phúc nhưng toàn bất an, xao xuyến. Những lúc ta muốn làm tất cả để vơi đi gánh nặng cõi lòng song lai cảm nặng trĩu tâm hồn. Như một cái máy chỉ biết rập theo chương trình lập sẵn. Công việc không còn là hưng phấn cho cuộc sống mà là chén đắng, tô giấm chua phải uống qua ngày. Ta muốn khiến người khác phải sửng sốt vì những chuyện phi thường, nhưng lại nặng nề khi vác cuốc đi làm hay cầm chổi quyét nhà. Vậy đâu là phương cách giải mà những uẩn khúc này?
Làm việc thái quá sẽ dẫn tới bất cập, còn ở nhưng ắt sinh ra nhiều tệ nạn khó lường. Tốt hơn mỗi người nên gánh vác và chu toàn công việc để tránh nhàn rỗi. Có lẽ, công năng lao động của đan sĩ không hơn những người khác. Nhưng điều đan sĩ cần tìm nơi lao động là những gì vượt trên danh vọng, tiền tài. Vì thế, công việc đan sĩ mang một tầm vóc mới và cao hơn, vì nó được thực hiện bởi những con người đã thánh hiến cho Thiên Chúa. Qua những lao tác thường ngày, đan sĩ góp phần hoàn thiện công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Muốn được vậy, chúng ta cần mở rộng bàn tay đón nhận mọi sự như một ân ban, coi đó như nén bạc Chúa trao để sinh lợi cho bản thân và tha nhân. Nhà dòng khống những cần đến thành quả lao động mà còn ý nghĩa mà nó mang lại. Những sản phẩm ấy chúng ta có thể bo tien mua, nhưng không thể dùng tiền để đổi lẩy hạnh phúc và giạ trị đời dâng hiến. Khi ý thức được mình làm gì, cho ai, đan sĩ sẽ cảm thây cuộc sống có ý nghĩa sống cho tha nhân.

 

3. THỬ THÁCH TỪ TRẦN GIAN
Hình thức đan tu ngày nay có phần như được giản lược vào một số hàng rào cố thủ đã được tháo gỡ. Tường ưong luỹ ngoài đã thông thoáng và cởi mở hơn. Người đan sĩ không còn tìm cách ra khỏi thế gian, lánh đời. Sự ngăn cách giữa đan sĩ và giáo hữu có phần được rút ngắn. Cách âm thầm, đan sĩ đi vào thế giới như nắm men vùi trong đâu bột hầu làm cho nhân thế ngày một thắm nồng tình yêu.
Ở một phương diện nào đó, người ta ít cảm thây sự phân biệt giữa đan sĩ với thế gian. Trong những thành phố hoa lệ, ồn ào hay nơi đồng quê vắng lặng mọc lên những đan viện ngày ngày vang vọng tiếng kinh cầu. Chẳng khác nào bóng cây giữa trưa hè oi bức, họ mang lại cho người thế sức sống mới trong cuộc hạnh trình. Luồng khí giữa đan viện và trần gian hoà quyện vào nhau, cùng bổ túc và giúp nhau tiến tới cuộc sống an bình, hạnh phúc. Với ý thức mình không phải thuộc hạng siêu việt, nhưng cũng chỉ là con người tầm thường đang sống trên cõi đời cùng với bao nỗi trăn trở của kiếp người. Đồng thời chẳng phải thành phần ưu tú dành riêng cho Thiên Chúa, nhưng được Ngài thánh hiến và sai đi. Ngài muốn chúng ta thể hiện được tính năng sứ mạng của mình qua đặc sủng và phương tiện đan viện mang lại.
Mặt trái, giữa lòng nhân thế vẫn có những cám dỗ ngọt ngào và lời mời gọi nhẹ nhàng làm ru ngủ con tim. Ở trong thế gian, đan sĩ cảm thấy hạnh phúc vì nơi để gieo vãi hạt giống Tin mừng, song lắm lúc phải té ngã, chùn bước bởi những phù ảo làm cản lối đi. Chủ nghĩa tự do, hưởng thụ phần nào làm mai một chí khí đời tu. Nhiều người đứt gánh
Giữa đường vì cuộc sống hào hoa phong nhã quyến rũ. Sống trong nơi cô tịch nhiều khi cảm thấy nhàm chán, vô vị, không giúp gì cho mình, cho đời. Họ muốn chạy đua với trần thế với bạn bè hơn là đứng nhìn mọi diễn tiến như một khán giả. Đôi lúc ta bị dòng xoáy cuộc đời quấn vào cõi u mê, che lấp đường về bến mơ. Sự rung cảm con tim lấn át lời mời gọi tình yêu của Chúa. Tinh thần tông đồ lắm phen nhường cho tinh thần ỷ lại, muốn an nhàn, hưởng thụ. Mặc dù ý thức thế gian chỉ là ảo ảnh, nhưng ta lại sẩn sàng bỏ cái chân thực để theo đuổi cái ảo ảnh chóng tàn, mau qua này. Vậy đâu là hướng đi?
Cộng đoàn đan tu không thể khép kín như một ốc đảo, biến đan sĩ thành những kho tàng hay đồ trang sức, nhưng ở giữa lòng đời và nên như khí cụ phục vụ anh em. Nén bạc Chúa trao không thể chôn vùi dưới đất mà phải làm sinh lợi cho bản thân và tha nhân. Vào đan viện không phải để trốn đời, nhưng có cơ hội phục vụ anh em quảng đại và trọn vẹn hơn. Chúng ta không sống cho mình hay cộng đoàn của mình, mà là cho mọi người trong Chúa Kitô. Bởi đó,chúng ta cần lượng giá đúng giữa đặc sủng đan tu và sứ mạng tông đồ, giữa môi trường đan viện và cánh đồng truyền giáo. Trước những thực tại đang diễn tiến, đan sĩ phải biết biện phân và chọn lựa một phương thức sống xứng hợp. Không nên bi quan về cảnh đời, cũng chẳng chạy đua, bon chen với nó. Mọi sự đều sinh ích khi ta biết sử dụng và quy chiếu nó với tinh thần hướng thượng. Thực tại trần gian là ân ban của Thiên Chúa, là phương thế cho ta ngày nên hoàn thiện.

 

4.Tinh Thần Lạc Quan Và Tín Thác
Nhiều người quan niệm cuộc sống đan tu là kho tàng chứa đựng tinh thần lạc quan, tín thác. Nhìn vào những khuôn mặt vui tươi, hiền dịu người ta dễ cảm nhận sự bình an nội tâm sâu lắng. Đời sống đan sĩ là chuỗi ngày bình yên như mặt hồ phẳng lặng, không chút gợn sóng. Họ định hướng được bước đường tương lai, cảm nhận được sự ngọt ngào của hạnh phúc miên trường.
Với nhãn quan của người đời, đan sĩ là thần tượng cho cuộc sống lý tưởng mà họ hằng khao khát. Song ít ai biết rằng sau cuộc sống lý tưởng vẫn cồn bao nỗi gian truân của kiếp nhân sinh. Cuộc đời tận hiến đâu có dễ dàng như bao người tưởng nghĩ. Có những lúc phải đối diện với những thất bại, những gian khó chồng chất làm suy nhược nghị lực. Giá trị cuộc sống dường như bị chôn vùi dưới đống tro tàn của lòng tự ti. Có những thất bại ta đành chấp nhận vì nó vượt quá khả năng, nhưng không thiếu những lúc phải bó tay trước các vấn nạn mà không lời giải đáp.
Lòng tự ti mặc cảm cũng là chướng ngại khó lòng vượt qua. Biết bao tâm hồn bệnh hoạn, khổ não vì cơn cuồng phong dập tắt lòng hưng phấn. Tâm hồn họ là một bãi chiến trường ngổn ngang. Cuộc đời lạc lõng, bơ vơ giữa biển trời mênh mông. Họ tưởng chừng như bị lạc vào cõi rừng u minh, không đường ra lôi vào. Giờ đây, họ muốn chạy trôn cuộc đời, bản thân và đồng loại. Họ không dám đối diện cuộc sống vì nghị lực sinh tồn bị cướp mất bởi bàn tay của bóng đêm thất vọng. Như thế cuộc sống đã đến lúc chấm hết?
Cách tốt nhất cho cuộc sống có ý nghĩa là luôn nhì đời với ánh mất lạc quan, làm tất cả với niềm tin vững mạnh và sự tín thác thẳm sâu. Lòng tự tin là linh dược giúp ta nuôi dưỡng mộng ước và thành công. Chúng ta phải biết xây đắp cuộc sống hiện tại bằng cách tạo nên một niềm tin tràn đầy Thay vì phải bối rối với những tư tưởng bất an, ta nên hướng tới một tư tưởng khác có tính tích cực và trong sáng hơn cần tái giáo dục tâm hồn, vì không thể có cuộc sống bình an trong một tâm hồn bất an. Chúng ta không thể sống đời đan tu mà lại phiền trách mọi người về nỗi khốn khổ của mình. Đành rằng những nỗi khốn cùng hay những bi ai của kiếp người luôn đeo bám và gặm nhấm tâm thân. Mỗi người cần có một chương trình hoạt động tích cực. Nhờ đó, ta nuôi dưỡng được tinh thần lạc quan ngay trong những công việc thường nhật. Vì ngay trong những gì tầm thường nhất cũng làm cho cuộc đời ta nên ý nghĩa và hưng phấn.
Nhịp sống ngày nay có phần xáo trộn và nhiều người đã cất lên bài ca bi ai về số phận hẩm hiu của mình. Họ ca thán về tất cả với giọng buồn chán, thất vọng. Trước cảnh thế sự này, người đan sĩ phải là nhân chứng cho cuộc sống đầy lạc quan, hy vọng. Ánh sáng tin yêu phải được đốt lên để soi chiếu những ai đang ngồi nơi tăm tối cuộc đời. Như thê chúng ta mới có khả năng giúp người khác vượt thắng được mọi chướng ngại trần gian hầu tiến về quê hương vĩnh hằng trong vòng tay giang rộng đón mời của Chúa.

 

KẾT LUẬN
Đi tìm ý nghĩa cuộc sống đời thường là khát vọng của con người, cách riêng với đan sĩ. Chúng ta bước vào đan viện với định hướng tạo cho mình một kho tàng bất diệt, một cuộc sống tròn đầy trong tình yêu Chúa. Sẽ nhầm lẫn nếu đi tu để tìm vinh hoa phú quí trần thế. Những thứ đó đan viện không thể cung ứng cho ta. Điều đan viện muốn mang lại là ý nghĩa cuộc sống được chiết từ những công việc thường ngày, hay qua những biến cố thăng trầm của kiếp nhân sinh. Trong môi trường linh thánh sẽ giúp ta tìm lại cái “ngã” đích thực của mình; cái ngã mà ta đã đánh mất hay làm hao mòn vì những ảo vọng cao xa.
Do đó, khi đôi diện với những thực tại đời thường, đan sĩ cần lượng định rõ điều mình muốn làm và mục đích nhấm tới. Không nên sống theo kiểu ỷ lại, muốn chất gánh nặng lên người khác để mình được an nhàn. Tinh thần cầu tiến phải được thủ đắc như phương thế giúp ta sống trọn ý nghĩa đời dâng hiến. Nhờ đó, cuộc sống sẽ được dệt bằng những nốt nhạc trầm bổng tạo nên bản trường ca yêu thương cất lên giữa cảnh đời đen bạc.

 

 

 

 

                   MONG MANH

 

                              Giữa bao nhiêu thử thách
                              Cho con được trung thành
                              Điều nài xin tha thiết
                              Vì thấy mình mong manh.

                                                                 Diệp Lan Đình

 

 

 

 

CHUNG SỨC VƯỢT KHÓ

 

Băng Tâm

Cụm từ “chung sức vượt khó” làm tôi liên tưởng đến bài hát “một đời người, một rừng cây” của Trần Long Ẩn với những hình ảnh “sống gần nhau thật mới thẳng”, “cây đã mọc từ thuở nào trên đồi núi thật cằn khô, cây có hiểu vì sao chim kéo về làm tổ”. Và rồi đặt câu hỏi về cuộc sống con người: “ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai ?”.
Thử thách không thiếu trong cuộc đời con người và đời tu không ra khỏi qui luật đó. Nhưng gian khổ, thử thách trong đời sống cộng đoàn tu trì lại là một cơ hội để mọi người chị em và cả cộng đoàn chung vai sát cánh giúp vượt qua gian nan khốn khó để lớn lên trong tình yêu.

1. THỬ THÁCH: MỘT CON ĐƯỜNG GIAN NAN
Nhìn ngược lại dòng lịch sử cứu độ, chúng ta thấy trải dài những thử thách đau khổ mà nhân loại gặp phải. Ông Bà Nguyên Tổ của chúng ta bị thử thách tại vườn địa đàng (x. St 2,8-3,7) dẫn đến gia đình đầu tiên của nhân loại bị phá vỡ, các mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với nhau, giữa con người với vạn vật không còn như thuở ban đầu. Thiên Chúa thử thách đức tin đối với Abraham khi Chúa sai hiến tế con trai duy nhât để dâng cho Chúa (X. St 22). Tiếp đến, Chúa thử thách dân về tình yêu xem dân có trung thành với Giao ước không, nhưng dân vẫn: phản bội thờ ngẫu tượng nên bị hậu qủa lưu đày (x. Ds 2) 1 Sau khi lưu đày về, Chúa lại thử thách dân về niềm hi vọng vì họ có cám đỗ sống giây phút hiện tại, thử thách này có giá trị thanh luyện hữu hiệu nhất. Ông Gióp bị thử thách quá: nặng nề (x. G 1,6-22). Đức Giêsu, trước khi ra rao giảng công khai, cũng chịu ma quỷ cám dỗ nơi hoang địa (x. Mt 4,1-11). Cuộc đời của Phaolô cũng là một chuỗi gian truân thử thách. Giáo hội cũng bị thử thách suốt dòng thời gian bởi những thế lực thù địch.
Vậy câu hỏi được đặt ra là những thử thách đến từ đâu? Tại sao Thiên Chúa lại để cho những thử thách đó xảy ra? Phải chăng đau khổ là một mầu nhiệm mà con người không thể hiểu được?
Có những thử thách đến từ Thiên Chúa như ta vừa nói ở trên, nhưng cũng có những thử thách do hoàn cảnh mà đến. Từ khắp mọi miền của đất nước, chúng ta qui tụ về đây, cùng nhau sống ơn gọi đan tu. Chính Chúa mời gọi chứ không phải chúng ta chọn nhau. Mỗi người là một nẻo đường riêng tư được xây đắp từ những nền giáo dục gia đình, địa phương, đên sự khác biệt về khẩu vị, Bắc ăn mặn, Trung ăn cay, Nam ăn ngọt. Lại thêm sự khác biệt về tuổi tác “khôn đâu trẻ, khỏe đâu già”.
Mức độ trưởng thành về thể lý, tâm lý, tâm linh của moi người cũng khác nhau. Bệnh tật cũng là sự thử thách lổn trong đời tu. Sự hiểu lầm nhau cũng không thiếu. Một thử thách lơn làm nhiều ứng sinh phải chùn bước đó là sự nhớ nhà, vì người Việt Nam sống thiên về tình cảm, về đạo Hiếu. Đời tu thì cao quý nhưng lại được chứa đựng trong những bình sành dễ vỡ vì con người chúng ta mang dòng máu Adam rất mong manh yếu đuối, cần được yêu thương, cho nên sự cô đơn, sự mỏng dòn của kiếp người là một thử thách cam go mà ta phải chiến đâu trường kỳ, phải chịu thanh luyện cả cuộc đời bởi sự dữ luôn đe dọa rình rập ta. Tương quan giữa bề trên và bề dưới, có thể có một lôi lãnh đạo nào đó gây nên thử thách cho nhau.
Có những thử thách đau khổ lại đến từ bản thân mỗi người, do kém hiểu biết, ta không cộng tác với người khác, hay bàn lui, sống theo chủ nghĩa cá nhân, luôn thích làm những chuyện riêng, không có tinh thần xây dựng chung, sống thờ ơ lãnh đạm, bàng quan trước mọi sự việc, biến cố, theo chủ nghĩa “mặc kệ nó”: đó không phải là việc của tôi, hay sống co cụm trong vỏ ốc của mình, không cởi mở trong tương quan với người khác, chưa ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình, nhiều lúc ta còn ù lỳ, an phận, không vươn tới, tự mãn. Chúng ta rất là giới hạn, yếu đuối cũng như Phaolô, điều mình muốn lại không làm, có những điều không muốn thì lại cứ làm (x. Rm 7,19).
Có quá nhiều thử thách, khó khăn nhưng chúng ta lại được Chúa mời gọi sống với nhau, tạo nên một cộng đoàn tu trì hiệp nhất yêu thương. Vậy chúng ta có dám anh hùng đối diện hay lại hèn nhát bỏ cuộc?

 

2.CHỌN LỰA MỘT THÁI ĐỘ

a.Bỏ cuộc

Đứng trước những đau khổ, thử thách nhiều lúc ta phải chùn bước. Trong Kinh Thánh, ông Giona khi Chúa- trao cho ông sứ vụ quá nặng nề, sai ông đi tuyên án thành Ninive sa đọa. Ông sợ quá, trốn lên một chiếc tàu đi Tarsis lánh mặt Thiên Chúa (x. Gn 1,3). Có những va chạm giữa chị em, ta phải lánh mặt, vì biết chắc khi đối diện sẽ gây thêm chia rẽ. Có những thử thách, đào vi thượng sách.

Với những nỗi đau thể lý hoặc tâm linh, những thương tổn nội tâm thầm kín hay lộ diện, việc trốn chạy diền tả chúng ta không dám đối diện với thực tế phũ phàng. Chúng ta tìm mọi cách để ém nhẹm nó hoặc dìm mình vào những hành động để quên lãng nó, hoặc ta mơ đến một thế giới không tưởng, nơi đó chỉ toàn những người thánh, không ai làm phiền ta cả. Đối với Chúa, nhiều lúc ta than trách Chúa “Tại sao Chúa để con như thế này?” hay là “Chúa chơi xấu quá!”. Nhiều lúc ta giận cả Chúa, nghỉ chơi với Chúa luôn, có lúc ra điều kiện với Chúa như thể dồn Chúa vào chân tường.

“Đường đi khó không khó vì ngăn sống cách núi

nhưng khó vì lòng người ngại núi e sống”.

Tại sao ta lại dễ dàng bỏ cuộc? Phải chăng vì ta ngặi ngại khổ, yếu đuối, hèn nhát? Hay ta nóng vội, thtèu kinh tĩnh, thiếu tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa thiếu tự tin vào chính mình? Hoặc chưa thấy được ý nghiã của thử thách, đau khổ?

Với cách trốn chạy, bỏ cuộc, chúng ta có thoát khỏi thử thách, đau khổ không? hay nó vẫn đeo đuổi bám lấy ta, làm cho thêm nặng nề?

“Đem khổ mà đổ lên non

Cong lưng mà chạy, khổ còn bám theo”.

Trong sách Đường Hi Vọng, Đức hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận cũng nói đến điều này:

“Gian khổ nặng nề nếu con khiếp sợ trốn lánh,

Gian khổ dịu dàng nếu con can đảm chấp nhận ” .[1]

Nếu được như vậy, chúng ta có dám mạo hiểm để dấn thân đi đến cùng không?

b. Dám đi đến cùng
Biết trước cái chết đang chờ đón mình, Đức Giêsu vẫn can đảm đi lên Giêrusalem để chịu chết. Ngài có thể bỏ cuộc, không vác thập giá, không chịu chết. Dù Ngài sợ đến độ ra mồ hôi máu, nhưng Ngài vẫn can đảm dám đi đến cùng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22,42). Trên thập giá, ngài có thể bước xuống khỏi đó khi người ta thách thức Ngài. Hơn thế nữa, trong cô đơn cùng cực, Ngài cảm thây như bị Chúa Cha ruồng bỏ, nhưng Ngài vẫn đi trọn con đường thập giá “Lạy Cha, con phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 34,46).
Vì sao Ngài dám đi đến cùng? Vì Ngài là con người can đảm, vì Ngài yêu, yêu Cha và yêu nhân loại, yêu một cách trọn vẹn, yêu cho đến cùng. Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ [2] . Như vậy, nhờ Thập Giá cứu độ của Chúa Kitô, ta sẽ thấy đau khổ là mầu nhiệm của sự sống, đau khổ giải thoát ta khỏi ích kỷ, mang lại sự sống bất diệt.

Thánh Phaolô, một khi đã được Chúa gọi, với cả lòng nhiệt thành, cả đời dám dấn thân hết mình để phụng sự Chúa và phục vụ Giáo hội. Sau này thánh nhân đã đọc ra được ý nghĩa của thử thách: “Giờ đây, chúng tôi vui mừng đươc chiu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (C1 2,24).
Chỉ khi cảm nhận được những đau khổ, thử thách như là một phương thế để Thiên Chúa giáo huấn và học biết tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta sẽ can đảm dấn thân đến cùng.
Qua đó, đau khổ có thể giúp ta đền bù tội lỗi, đưa đến sự hoán cải, tiến bước trong đàng nhân đức. Nhìn vào gương của các thánh, đặc biệt là các vị thánh tử đạo, ta thấy các ngài chịu đủ thứ hình phạt, nào là bị xử trảm, bị lột da, bá đao, lăng trì, chết rũ tù … toàn là những hình phạt ghê gớm, nhưng các ngài đã can đảm dấn thân đến cùng để làm chứng cho đức tin, vì tình yêu Đức Kitô. Các ngài hiểu đau khổ làm cho các ngài nên giống Chúa. Cuộc đời của Têrêsa Hài Đồng Giêsu, dù là một nữ nhi bé nhỏ, bị các chị em chê bai, hiểu lầm, cọng với cơn bệnh dày vò, nhưng chị đã chầp nhận uống chén đắng đến cùng “đù trăm gai con vẫn hái hoa hồng”. Đau khổ giúp chị nhớ đến Chúa. “Tránh gian khổ con đừng mong làm thánh”[3].

Trong cộng đoàn, chúng ta phải nể phục các anh chị em cao niên, đau yếu, họ minh chứng cho sự trung thành với Chúa, bền đỗ trong ơn gọi cho đến giây phút cuối cùng, can đảm đi trọn đời tu.
“Vĩ phỏng đường đời bằng phẳng cả
Anh hùng hào kiệt có hơn ai.”
Nếu không có những gian nan thử thách, ai lường được tình yêu thật. Gian nan để thử đức nhẫn, đức tin của tín hữu. (x. lPr 1,7). “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Đau khổ giúp ta học biết thánh ý Chúa (x. Tv 118, 71). “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”. Nếu ta quen với đau khổ, với những gian nan thử thách, thì khi đối diện với đau khổ ta cũng bớt ngỡ ngàng, vì đã có thói quen vượt khó. Thao dượt nhiều giúp ta thêm khả năng chịu đựng.
Đinh Thanh Bình có nói: “Đau khổ là một giáo sư thu tiền học phí quá cao nhưng vẫn có vô số học trò dùi mài kinh sử cần mẫn, và họ đã học thành tài, thành danh khi ra trường”. Biết bao người đã tốt nghiệp trường học này, còn chúng ta thì sao? Ý nghĩa lớn lao nhất của đau khổ là giúp ta nên giống Đức Kitô, mang lại giá trị cứu độ nhân loại khi ta biết tháp nhập những đau khổ của mình vào mầu nhiệm thập giá Đức Kitô.
Dù dấn thân tới cùng, chúng ta vẫn cần những người khác trợ giúp, thử thách được chia sẻ sẽ vơi đi gánh nặng khi được ướp men tình yêu. Hành trình trên con đường thử thách không phải là độc hành mà là đồng hành.

 

3. ĐỒNG HÀNH TRÊN CON ĐƯỜNG THỬ THÁCH
Như dân Israel rong ruổi suốt bốn mươi năm trong sa mạc, họ đã được trợ lực bằng Mana, được đám mây che mát và dẫn đường, được Hòm Bia hiện diện và Lều Hội Ngộ, Trướng Tao Phùng để cùng thỉnh ý của Thiên Chúa; thì chúng ta, trong cuộc đồng hành cũng đầy những vất vả gian nan, cùng nhau chia sẻ những gì vừa thật thánh thiêng, vừa thật nhân bản.
Thánh lễ: Thánh lễ là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống kitô hữu, là trung tâm qui tụ mọi hoạt động của đời sống cộng đoàn. Tham dự thánh lễ và hiệp lễ mỗi ngày, chúng ta liên kết việc tận hiến bản thân với hi lễ nhiệm mầu của Chúa Ki tô, để tôn vinh Thiên Chúa Cha, đồng thời thể hiện sự hiệp nhất cộng đoàn.
Thần vụ: Mục đích duy nhất và đích thực của người đan sĩ là tìm kiếm và gặp gỡ Thiên Chúa, chính trong thần vụ mà mọi hành vi ca ngợi và tạ ơn của chúng ta nhằm tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa mọi người. Cùng với việc cử hành Thánh Thể, thần vụ trước hết là sự tôn thờ uy linh Thiên Chúa, là nơi hun đúc tình liên đới cộng đoàn, là nguồn phong phú dinh dưỡng sức sống thiêng liêng của chúng ta. Qua phụng vụ các giờ kinh, chúng ta tham dự và nếm trước Phụng Vụ trên trời, được hợp cùng toàn thể đạo binh thiên quốc ca ngợi tôn vinh Chúa.
Nếu Thiên Chúa là nơi qui tụ và gặp gỡ Thiên Chúa để đón nhận sức sống hầu có thể vượt qua những thứ gian nan, thì những thực tại mang chiều kích nhân bản cũng là một thứ men làm sống động giúp triển nở những khả nãng chịu đựng và vượt khó ngay trong đời sống cộng đoàn.
Cộng đoàn tu trì là một gia đình có nguồn gốc từ gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp nhất yêu thương nhau. Chúng ta đến từ khắp mọi miền đất nước, mang theo những cái gì rất riêng tư của từng miền, chúng ta cần cởi mở, đối thoại với nhau trong mọi sinh hoạt hằng ngày, chia sẻ với nhau mọi công việc trong tinh thần trách nhiệm để hoàn thành sứ mạng của Chúa và của Giáo hội. “Không ai là một hòn đảo”. Chúng ta xây dựng cộng đoàn nhưng mỗi con người mang trong mình lịch sử riêng tư, và mỗi người là một huyền nhiệm. Đành rằng giới hạn, và mỏng dòn yếu đuối, chúng ta được mời gọi vươn lên chung xây và tái tạo một cộng đoàn yêu thương.
Nếu không có tình yêu, cộng đoàn chỉ như một trại lính, một câu lạc bộ, một đảng phái nào đó, tuân thủ một luật lệ, cùng sinh hoạt theo hiệu lệnh có sẵn. Tình yêu rất quan trọng, liên kết chúng ta lại với nhau. Có tình yêu mới không sợ hãi, có tình yêu mới dám hi sinh tất cả cho người mình yêu.
“Một cây làm chảng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao ”[4] .

Đoàn kết tạo sức mạnh. Khi mọi thành viên trong cộng đoàn hiệp thông với nhau, không bàn lui, không “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, không nhìn đến những cái nhỏ nhoi, hẹp hòi, thiển cận mà cùng nhìn đến chiều kích rộng lớn của Hội Dòng, của Giáo hội. Không tìm thực hiện những “kế hoạch nhỏ” nhưng dân thân xây dựng đại cuộc. Văn sĩ Saint Exupéry có nói: “Yêu nhau không phải ngồi đó mà nhìn nhau, nhưng cùng nhìn về một hướng”. Chính sự hiệp thông làm kiên vững cộng đoàn và không một thế lực thù nghịch nào có thể phá nổi. Hiệp thông là một hồng ân cũng đòi hỏi lời đáp trả, đòi hỏi phải kiên trì học hỏi và kinh nghiệm chiến đấu, hầu thắng vượt những thái quá trong bản năng, tính thất thường trong các ước muôn. “Sự hiệp nhất huynh đệ loan báo Chúa Ki tô đã đến và phát sinh một năng lực tông đồ mạnh mẽ ”[5] .
Cộng đoàn là một cơ thể sống nên cần có tương quan liên thuộc giữa bề trên và bề dưới, giữa các chị em với nhau. “Nếu một bộ phận nào đau thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ được vẻ vang thì mọi bộ phận cũng vui chung.” (1Cr 12,26).
Một mình bề trên không thể làm mọi sự, hay chị em nào dù có giỏi cách mấy cũng không thể đảm nhận hết mọi công việc, nên chúng ta cần cộng tác với nhau “Điều mà mỗi người làm thì thuộc về tất cả và điều tất cả chu toàn thì thuộc về từng người. ”[6]
“Chị ngã, em nâng”: Câu tục ngữ này không chỉ là một khẩu hiệu để hô hào tình liên đới nhưng là một phương châm sống phát xuâ’t từ chiều sâu của tình yêu. Chính tình yêu này trao cho nhau sức mạnh để cùng vượt khó. Đời sống cộng đoàn là lực nâng đỡ nhau, dạy dỗ, dẫn dắt nhau trên con đường nhân bản, con đường thiêng liêng, đưa tới hoàn thiện.
Tin Chúa hiện diện trong cộng đoàn, khám phá Chúa Kitô trong nhau. Nếu sự hiện diện của Chúa Kitô ẩn sau những người bé nhỏ nhất, thì sự hiện diện ây cũng ẩn nơi bât cứ người nào. Vậy cái nhìn bác ái đối với nhau phải được nhìn sinh động bởi cái nhìn đức tin. Khám phá Chúa Kitô nơi những người mà ta đang sống kề bên mỗi ngày, đó là sống cụ thể đức tin trong đức ái.
Như hòn đá cuội càng được mài nhiều thì càng nhẩn bóng, thì trong đời sống cộng đoàn, những va chạm có thể trở thành cơ hội làm sáng lên tấm lòng của nhau. Với điều kiện là tấm lòng đó phải được dậy men của tha thứ.
Như thế trong cộng đoàn cần có sự tha thứ. Chúng ta mong người khác tha thứ cho mình thì mình cũng phải dễ tha thứ cho người khác. “Tha thứ là hình thức tế nhị nhất của sự trả thù ” như có người đã ví von. Đón nhận nhau với tất cả những yếu đuối của kiếp người, quan tâm, lắng nghe, nhận ra cái tốt đẹp của người khác, từ đó đời tu của ta mới thăng tiến. Tình huynh đệ là một bông hoa đẹp mà Chúa ban tặng cho mỗi chúng ta, chúng ta cần tô điểm cho họa thêm thắm tươi.
“Đường con theo Chua có nắng xuân trải lua vàn có tiếng chim hót rộn ràng, có nỗi vui nào nồng âm mênh mang, có một tình yêu không nhuốm bụi trần… Đường con theo Chúa, chẳng thiếu gian khó dặm trường, chẳng thiếu mưa gió mịt mù, không thiếu những ngày quạnh vắng cô đơn những ngày đời con tăm tối u buồn…” (Tg, Ân Đức, Đường con theo Chúa).
Con đường theo Chúa là một hành trình đầy mạo hiểm, không thiếu những thú vị nhưng cũng ngầm chứa những thử thách. Như đoàn người mạo hiểm tiếp bước nhau để vượt qua những gềnh đá cheo leo chinh phục đỉnh núi cao, thì cộng đoàn tu trì cũng chỉ tồn tại và phát triển khi các thành viên liên kết với nhau thành một khôi, tạo nên một sức mạnh mà không khó khăn nào lại chẳng thể vượt qua. Trên “hành trình” chung sức vượt khó, chị em vừa tiến lên vừa ca
“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, chị em được sống sum vầy bên nhau…
Nơi đây ân huệ Chúa ban
Chính là sự sống chứa chan muôn đời ” (Tv 132).

 

 


[1] Nguyễn Văn Thuận, Đường hi vọng, s.717
[2] Benado sống cho một mối tình, Lưu hành nội bộ. Hội Dòng Xitô Gia, tr.10.
[3] Nguyễn Văn Thuận, Đường hi vọng, s.702
[4] Tục ngữ Việt Nam
[5] 52 Perfecte caritatis S.15
[6] Viện phụ Rievauix

 

 

 

 

 

BÀI GIẢNG LỄ

CỦA ĐỨC TỔNG GIÁNG MỤC

STEPHANO NGUYỄN NHƯ THỂ

NHÂN DỊP LỄ THÁNH BÊ-NA-ĐÔ (20.8.08)
(1 Cr 2,10-16/ Mt 5,13-19)
(Tại La Vang, cho Đoàn hành hương của Hội Dòng)

 

 

Kính thưa cộng đoàn,
1.Anh em là muối cho đời. Anh em là ánh sáng cho trần gian. Đó là một định nghĩa tuyệt vời về người kitô hữu.
Bản chất của muối là mặn và dùng ướp các thức ăn cho nó khỏi hư và thêm đậm đà. Muôi mà nhạt đi thì tự nó đánh mất bản chất của mình.
Bản chất của ánh sáng là sáng lên và chiếu sáng ra chung quanh. Ánh sáng mà lu mờ thì cũng không còn là ánh sáng thật nữa.
Nếu người kitô hữu đã là như thế, thì người tu trì càng phải như vậy hơn bội phần. Thật hết sức đơn giản, mà cũng hết sức cơ bản.

2.Chúng ta để ý câu xác quyết của Chúa Giêsu Ngài không nói: “Anh em phải là muối cho đời, anh em hãy là ánh sáng cho trần gian”, nhưng Ngài khẳng định: “Anh em là muối, anh em là ánh sáng
Con người chúng ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nhất là từ khi nước rửa tội chảy xuống trên đầu, chúng ta mang sẩn trong mình chất muối thiêng liêng và ánh sáng thiêng liêng của Chúa.
Chúng ta phải cảm nghiệm cái vinh dự đó, hãy tin vào cái bản sắc linh thiêng, cái bản lĩnh thần linh của mình. Đó là hồng ân nhưng không Chúa ban cho.
Cuộc sống của tu sĩ là lời loan báo chỗ đứng ưu việt của ân sủng. Đồng thời đó cũng là trách nhiệm, là nghĩa vụ đối với nhiệm thể Chúa Kitô, cũng như đối với xã hội, với trần gian. Đời tu là vì Nước Trời, là sống cho Hội Thánh, sống cho con người.
Đừng để mình trở thành muối nhạt, sống một cuộc sống nhạt nhẽo vô vị, đời không ra đời, tu không ra tu.
Điều nầy sách Khải huyền đã cảnh ngàn xưa:
Ta trách ngươi điều nầy: là ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta đến với ngươi và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó” (Kh 2,4-5).
Trong Huấn thị “Xuất phát lại từ Chúa Kitô”, Bộ Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội tông đồ lưu ý các Dòng tu rằng: “Những người sống đời thánh hiến cảm nghiệm những đe dọa, của sự tầm thường trong đời sống thiêng liêng – của việc trưởng giả hóa lần lần – và của não trạng hưởng thụ.,. Những cám dỗ tìm kiếm hiệu năng và duy hoạt động, có nguy cơ làm lu mờ tính độc đáo của Tin mừng, và làm suy yếu các động cơ thiêng liêng” (XPLTCK 12).
Cuộc sống chiêm niệm hay hoạt động đều phải luôn quy chiếu vào Chúa Kitô và luôn khởi sự lại từ Chúa Kitô thì mới mặn mà, mới sắc bén, mới tỏa sáng.
Bộ Dòng tu cũng nhắc lại rằng: “Mọi ơn gọi đời sống thánh hiến đều phát sinh từ chiêm ngưỡng, từ những giây phút hiệp thông sâu xa, và từ những mối tương quan bằng hữu sâu sắc với Đức Kitô từ vẻ đẹp và ánh sáng chiếu tỏa trên khuôn mặt Người”. Từ đó, ước muôn luôn ở với Chúa và bước theo Người trở nên vững mạnh, như các tông đồ trên núi Ta-bo nói: “Chúng con ở đây thật là tuyệt vời” (Mt 17,4). Mọi ơn gọi phải không ngừng tăng trưởng trong sự thân mật này với Chúa Kitô. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhắn nhủ các người thánh hiến rằng: “Nhiệm vụ đầu tiên của các con không là gì khác ngoài chiêm ngưỡng. Mọi thực tại của đời sống thánh hiến được sinh ra và được phục hồi mỗi ngày bằng việc không ngừng chiêm ngưỡng khuôn mặt Đức Kitô” (XPLTCK 25).

 

3. Kính thưa cộng đoàn,
Thánh Bê-na-đô đúng thật là con người của muối, và của ánh sáng. Cuộc sống và giáo thuyết của ngài đã thể hiện và làm chứng điều đó.
a. Thánh nhân sinh năm 1090, thuộc một gia đình quý tộc giàu có. Lúc 23 tuổi, ngài quyết định giã từ cuộc sống tiện nghi sung túc để vào Dòng khổ tu Xi- tô, đem theo 30 bạn trẻ quý tộc khác nữa. Sau 3 năm tu tại Xi-tô, Bê-na-đô được sai đi thành lập Dòng tại Clairvaux và làm Tu viện trưởng ở đó cho đến chết (1153). Suốt thời gian ở Clairvaux, nhân đã thành lập được 68 Dòng mới. Cùng lúc đó, trên hầu khắp Châu Âu xuất hiện nhiều dòng Xitô mới, đến nỗi năm 1153 khi thánh nhân qua đời, đã có tới 340 nhà. Người ta có lý để gọi ngài là vị sáng lập thứ hai Dòng Xi-tô.
Ngài tổng hợp được một cách tuyệt vời trong con người ngài những chiều kích xem ra khó hòa hợp, khiến cho cuộc đời ngài rất phong phú, đa dạng: khổ hạnh đi đôi với niềm vui, vừa là một nhà chiêm niệm thâm trầm, vừa là một nhà giảng thuyết tài ba, vừa là một nhà hoạt động đầy nhiệt huyết.
b. Còn giáo thuyết của thánh Bê-na-đô thì rất quân bình và vững chắc, vì hòa quyện vào Thánh kinh, Phụng vụ và Truyền thống Hội Thánh.
Lời giảng dạy của ngài đậm nét thần nhiệm, mà là một thần nhiệm điều độ và điềm tĩnh (sobre et pondéré). Tuyệt tác của ngài “Luận về tình yêu Thiên Chúa” cho thấy rõ điều đó.
Nền tu đức của ngài đượm nét thúc bách nôn nao của tình yêu Chúa, đồng thời kèm theo một sự dịu dàng khôn tả…, thế nên người ta thường gọi ngài là vị tiến sĩ ngọt ngào.
Các bài giảng của ngài ca ngợi Mẹ Maria vừa súc tích vừa thi vị. Lòng tôn sùng của ngài đôi với Đức Maria là một sự tôn sùng kín đáo và thận trọng (discret et prudent):
-thận trọng, vì không bao giờ đi trước đức tin của Hội Thánh;
-và kín đáo, vì không biến Đức Maria thành ngẫu tượng.
Cuộc sống và giáo thuyết của thánh Bế-na-đô đã góp phần đem lại trật tự và bình an cho Hội Thánh.
Ngài ướp mặn và tỏa sáng cho thời đại của ngài. Người ta gọi thế kỷ 12 là thế kỷ của thánh Bê- na-đô. Ngài vẫn tiếp tục ướp mặn và tỏa sáng cho tới hôm nay.
Tác giả Enzo Lodi nói rằng:
Thánh Bê-na-đô là con người được tình yêu nồng nàn thiêu đốt, ngài đã đi qua thế kỷ 12 như một ngọn đèn sưởi ấm và chiếu sáng, và qua các thời đại, ngài vẫn không ngừng nhắc nhở chúng ta điều cốt yếu trong giáo lý của ngài, đó là “Khi Chúa yêu thương, thì Chúa không muốn điều gì khác ngoài việc được yêu mến” (Bài giảng của thánh Bê-na-đô về sách Diễm ca).
Chúng ta cùng nhau sốt sắng đọc lại lời nguyện nhập lễ:
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh viện phụ Bê-na-đô đầy nhiệt tâm lo việc nhà Chúa,
để trở nên ngọn đèn chiếu sáng trong Hội Thánh.
Nhờ lời người nguyện giúp cầu thay, xin cho chúng con cũng được lòng hăng hái như người
để sống thế nào cho xứng danh là con cái ánh sáng.
Chúng con cầu xin, nho Đức Kitô Chúa chúng con”. Amen.

 

 

 

 

PHỤ LỤC

 

Hòa cùng nhịp sống với Giáo hội hoàn vũ trong Nõm Thánh Linh Mục, Ban Biên Tập xin thêm phần Phụ Luc để trích đăng Kinh cầu Nguyện cho các Linh Mục và Tiểu Sử những câu chuyện, những lời thánh thiện của Cha sở Họ Ars: Thánh Gioan-Maria Vianney, để cùng hiệp thông; cầu nguyện và hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Benedicto XVI trong Năm Thánh này.

 

NĂM THÁNH HOÁ CÁC LINH MỤC

“Năm Linh Mục phải là một năm đặc biệt cầu nguyên của các Linh Mục, với các Linh Mục và cho các Linh Mục… Đây sẽ là dịp để phát triển tình hiệp thông và tình thân hữu của các Linh Mục với cộng đoàn được ủy thác cho các vị”. ( Đức Hồng Y Claudio Hummes, Tổng Trưởng Bộ Giáo Sĩ, Thư ngày 19.5.2009 ).

KINH CẦU NGUYỆN CHO 
CÁC LINH MỤC

Lạy Chúa Giêsu, cùng với Thánh Gioan-Maria Vianney, chúng con ký thác cho Chúa tất cả các Linh Mục mà chúng con biết, đã gặp và giúp đỡ các Linh Mục mà Chúa ban cho chúng con như những người cha.
Chúa đâ gọi mỗi Linh Mục bằng tên. Chúng con ca ngợi Chúa và cầu xin Chúa cho các ngài. Xin Chúa gìn giữ các ngài trung thành với thánh danh của Chúa. Chúa đã thánh hóa các ngài để nhân danh Chúa, / các ngài trở nên mục tử của chúng con. Xin Chúa ban cho các ngài sức mạnh, tin tường và niềm vui để chu toàn sứ mạng.
Xin cho Thánh Thể mà các ngài cử hành hằng ngày nuôi dưỡng các ngài và ban cho các ngài sức mạnh để tận hiến cho Chúa vì đoàn chiên là chúng con. Xỉn cho các Linh Mục dìm minh sâu trong Thánh Tâm đầy lòng thương xót của Chúa, để các ngài luôn trở nên nhân chứng của lòng thứ tha. Xin cho các ngài trở nên những người tôn thờ đích thực của Cha trên trời/ để các ngài dạy chúng con đường chân thật đưa đến hoàn thiện.
Lạy Cha, cùng với các Linh Mục, chúng con dâng mình cho Chúa Kitô vì Hội Thánh. Xin cho Hội Thánh trở nên nhà truyền giáo theo sự thúc đẩy của Thánh Thần. Xin dạy chúng con yêu mến các Linh Mục cách đơn thành, tôn trọng các ngài và đón nhận các ngài như một ân huệ đến từ tay Cha, để tất cả chúng con hoàn thành công cuộc của Cha là cứu độ mọi người. Amen.

 

VÀI DÒNG TIẾU SỬ CỦA THÁNH GIOAN-MARIA VIANNEY

-8.5.1786: Gioan-Maria Vianney sinh tại Dardilly, gần Lyon, nước Pháp. Ngài là con thứ tư trong sáu anh chị em.
-1806: ngài bày tỏ ý muốn làm Linh Mục.
-23.6.1815: chịu chức Phó Tế tại Lyon.
-13.8.1815: chịu chức Linh Mục ở Grenoble do Đức Cha Simon.
-13.2.1818: Ngài đến xứ Ars như Linh Mục đặc trách.
-1821 : được bổ nhiệm làm Chánh Xứ.
-Khoảng năm 1830: bắt đầu đoàn lũ người hành hương và sám hối đến Xứ Ars. Họ đến ngày mỗi  đông cho đến khi ngài qua đời. Cha sờ Xứ Ars hầu như chẳng bao giờ rời Gíao Xứ cuả ngài vì phải lọ cho họ.
-1843: ba lần ngài muốn trốn đi.
-1858: người ta đếm khoảng 20.000 người hành hương mỗi năm đến Xử Ars. Cha Sở xứ Ars giải tội 17 giờ mỗi ngày trong Toà Giải Tội.
-4.8.1859: Ngài qua đời vì kiệt sức lúc 2 giờ sáng.
-8/1/1905: Đức Thánh Cha Piô X phong Chân Phước cho ngài, và ngài được đặt làm “Đấng Bảo Trợ cho các Linh Mục tại Pháp”.
-31.5.1925: Đức Thánh Cha Piô XI phong Thánh cho
ngài.
-1929: Đức Thánh Cha Piô XI đặt Ngài làm “Đấng Bảo Trợ cho các Cha Xứ trên toàn thế giới”.

 

I. LỜI CỦA CHA SỞ HỌ ARS
Với những lời này Thánh Gioan-Maria Vianney đã đánh động các tâm hồn và đưa họ vè với Thiên Chúa.

 

1.Lòng Nhân Từ và Bí Tích Tha Tội
“Nếu chúng ta hiểu rõ làm con cái Thiên Chúa là gì, có thể chúng ta sẽ không làm điều xấu… Là con cái Thiên Chúa, ôi, phẩm giá đẹp chừng nào”
“Lòng nhân từ của Thiên Chúa như một dòng suối tràn bờ. Nó kéo theo những tâm hồn trên dòng nó đi qua”…
“Không phải các tội nhân đến cùng Thiên Chúa để xin Ngài tha tội, nhưng chính Thiên Chúa chạy đến với tôị nhân và làm cho họ đến với Ngài”.
“Thành thử hãy cho Thiên Chúa niềm vui này.., và chúng ta sẽ hạnh phúc”.
“Thiên Chúa tốt lành luôn sẵn sàng đón nhận chúng ta. Ngài kiên nhẫn đợi chờ chúng ta !”
“Có những người nói: “Tôi đã làm quá nhiều điều xấu, Thiên Chúa tốt lành không thể tha thứ cho tôi”. Nói như thế là phạm thượng lắm. Nói thế là giới hạn lòng nhân từ của Thiên Chúa. Lòng nhản từ này không có điểm chấm, mà vô tận”.
“Lỗi lầm của chúng ta như hạt cát bên cạnh ngọn núi lớn lao của lòng nhân từ của Thiên Chúa”.
“Khi Linh Mục ban ơn giải tội, chỉ phải nghĩ đến một điều: đó là máu của Thiên Chúa tốt lành chảy xuống trên tâm hồn chúng ta đẻ rửa sạch tâm hồn, thanh tẩy tâm hồn và làm cho tâm hồn nên xinh đẹp như sau khi rửa tội.”
“Lúc ban ơn xá tội Thiên Chúa tốt lành ném tội lỗi chúng ta đằng sau lưng Ngài, nghĩa là Ngài quên chúng, Ngài làm chúng ta ra hư không: chúng sẽ không xuất hiện tại bao giờ”. .
“Ngài sẽ không bao giờ nói đến các tội lỗi đã được tha. Chúng bị xoá sạch rồi, chúng không còn hiện hữu nữa”.

 

2.Thánh Thể và Rước Lễ
“Mọi công việc tốt lành cộng lại không bằng hiến tế của Thánh Lễ, vì chúng là công việc của con người, còn Thánh Le là công cuộc của Thiên Chua.
“Không có gì cao trọng hơn Thánh Lễ”.
“Chính Ngài yêu chúng ta rất nhiều ! Tại sao chúng ta không yêu mến Ngài”
“Lương thực của tâm hồn chính là Mình và Máu của Con Một Thiên Chúa.”
“Hãy đến mà rước lễ. Hãy đến với Chúa Giêsu. Hãy đến sống với Ngài, để sống cho Ngài”.
“Thiên Chúa tốt lành muốn tự hiến cho chúng ta, trong Bí Tích Tình Yêu của Ngài. Ngài đã ban cho chúng ta một ước muốn bao la và lớn lao mà chỉ mình Ngài có thể thỏa mãn”.
“Rước lễ làm cho tâm hồn như một hơi thổi vào lửa sắp lịm tắt, mà nơi đỏ vẫn còn nhiều than hồng”.

 

3.Cầu Nguyện
“Cầu nguyện không gì khác là kết hiệp với Thiên Chúa”.
“Cầu nguyện là một tình bạn… Là cuộc trò chuyện của một người con với cha nó”.
“Càng cầu nguyện, càng muốn cầu nguyện”.
“Bạn có một con tim nhỏ bé, nhưng cầu nguyện làm cho con tim lớn hơn và làm cho nó có thể yêu mến Thiên Chúa”.
“Không phải là những lời cầu nguyện dài và hay mà Thiên Chúa nhìn đến, nhưng là những lời cầu nguyện làm nên tự đáy lòng, với tất cả lòng tôn kính và ước ao thật sự làm đẹp lòng Thiên Chúa”.
“Việc cầu nguyện riêng giống như rơm rải rác đây đó trong cánh đồng. Nếu người ta mang chúng vào lửa, ngọn lửa cháy lên đôi chút, nhưng nếu người ta thu góp rơm rạ này lại, ngọn lửa sẽ bùng cao lên trời. Lời cầu nguyện chung giống như thế”.
“Con người có một chức năng rất đẹp, đó là cầu nguyện và yêu mến… Đó là hạnh phúc của con người trên trần gian .
“Nào linh hồn tôi ơi, bạn đén nói chuyện với Thiên Chúa, làm việc với Ngài, đi đứng với Ngài, chiến đấu và đau khổ với Ngài. Bạn sẽ làm việc, nhưng Ngài sẽ chúc lành cho bạn. Bạn sẽ đi đứng, nhưng Ngài sẽ chúc lành cho bước chân cua bạn. Bạn sẽ đau khổ, nhưng Ngài sẽ chúc lành cho nươc mắt của bạn.

 

4.Linh Mục
“Linh Mục là người tiếp tục công cuộc Cứu Chuộc trên trần gian”.
“Khi bạn thấy một Linh Mục, bạn hãy nghĩ đến Chúa Giêsu Kitô, Chúa chung ta”.
“Linh Mục không phải là Linh Mục cho mình, mà cho các bạn”.
“Đến xưng tội với Đức Trinh Nữ hay với một thiên thần. Các ngài sẽ giải tội cho bạn ? Các ngài sẽ trao ban cho bạn Mình Máu Thánh Chúa chúng ta ? Không đâu, Đức Trinh Nữ không thể làm Con của Mẹ xuống ngự trong Bánh Thánh. Dù bạn có hai trăm thiên thần ở đó đi nữa các ngài cũng không thể tha tội cho bạn. Một Linh Mục, dù đơn sơ đến mấy đi nữa, ngài có thê làm chuyện ấy. Ngài có thể nói với bạn: “Hãy đi bình an, cha tha tội cho con”.
“Ôi, Linh Mục là điều gì thật cao trọng !”
“Một mục tử tốt lành, một mục tử theo lòng Thiên Chúa mong ước, là một kho tàng lớn mà Thiên Chúa tốt lành có thể ban cho một Giáo Xứ, và là một trong những ân huệ quý giá nhất của lòng nhân hậu thiên linh”.
“Linh Mục, đó là Tình Yêu của Thánh Tâm Chúa
Giêsu”.
“Hãy để một giáo xứ hai mươi năm không có Linh Mục: bây giờ người ta sẽ thờ thú vật”.

 

5.Đức Trinh Nữ Maria
“Đức Thánh Nữ Đồng Trinh là thụ tạo xinh đẹp đã không bao giờ làm phiền lòng Thiên Chúa tốt lành”.
“Chúa Cha thích nhìn tâm hồn của Rât Than I Đồng Trinh Maria như tuyệt tác bởi tay Ngài’.
“Chúa Giêsu Kitô, sau khi đã ban cho chúng ta tất cả những gi Ngài có thể ban cho chúng ta, còn muốn làm cho chúng ta thừa hưởng điều Ngài có quý giá nhất, đó là Mẹ Thánh cùa Ngài”.
“Thánh Nữ Đồng Trinh Maria đã sinh chúng ta ra hai lần, trong việc Nhập Thể và dưới chân Thánh Giá: thành thử Ngài là Mẹ của chúng ta hai lần”.
“Không ai vào nhà mà không nói với người giữ cửa ! Và này ! Thánh Nữ Đồng Trinh là người giữ cửa Nước Trời”.
“Ave Maria là lời kinh không bao giờ làm nhàm chán cả”.
“Tất cả những gì Chúa Con xin cùng Chúa Cha để được nhận lời. Tất cả những gì Mẹ xin cùng Chúa Con cũng được nhận lời như vậy”.
“Phương thể chắc chắn nhất để biết ý muốn của Thiên Chúa là câu nguyện với Mẹ tốt lành của chúng ta”.

 

II.NHỮNG CÂU CHUYỆN CỦA CHA SỞ HỌ ARS

 

1.Không Đủ Điểm Chịu Chức Linh Mục ?
Năm 1815. Chỉ còn ba tháng nữa là chịu chức Linh Mục. Thầy Vianney phải qua một kỳ thi rất quan trọng. Latinh ! Một ngôn ngữ “tra tấn” ngài. Ngài cổ gắng hiểu nhưng chẳng nhớ gì ca. Chỉ muốn khóc mà thôi.
Một ngày sau cha giám đốc Chủng Viện gọi ngài lên và hỏi: “Thầy Vianney, tôi nghĩ là thấy hiểu hoàn cảnh của thầy rồi. Không thể chịu chức Linh Mục mà không phải qua kỳ thi. Chỉ có cách cầu cửu Giám Mục mà thôi !” Tại Toà Giám Mục, cha giám đổc nói cách rõ ràng: “Thưa Đức Cha, nếu Đức Cha muốn có những người giỏi tiếng Latinh và Hy Lạp tại xứ này, thi phải cho thầy Vianney về mà thôi. Nhưng nếu Đức Cha muốn có các Linh Mục nói về Thiên Chúa cách đơn sơ, các Linh Mục biết thế nào là sám hối và cầu nguyện, thì chúng ta sẽ giữ thầy Vianney lại”.
Đức Giám Mục lắng nghe. Rồi ngài hỏi: “Thầy Vianney có lòng yêu mến Chúa không ? Có tôn sùng Đức Mẹ không ?” – “Thưa Đức Cha, về điều này thì không có gì phải nghi ngờ.
Vianney là một mẫu gương yêu mến Thiên Chúa”. Đức Giá Mục suy nghĩ lời cha giám đốc, rồi nói: “Này cha cuộc Cách Mạng ( Pháp ) và chiến tranh đã mang đến sự tàn phá cho nhiều vùng và nhiều tâm hồn. Tôi tin là để tái thiết lại Họị Thanh các Linh Mục tài giỏi không đủ, mà cả các Thánh. Nếu Vianney là một mẫu gương yêu mến Chúa, thì tôi chấp nhận thầy giữa hàng Linh Mục, và ơn Chúa sẽ làm điều còn lại”.
Ngày 13 tháng 8 năm 1815. Tại Nhà Nguyện Đấng Rất Thánh, ở Grenoble, Đức Giám Mục Limon truyền chức Linh Mục cho thầy Gioan-Maria Vianney.

 

2.“Thiên Chúa Tốt Lành, Con Là Một Linh Mục Dốt Nát Đáng Thương”
Tại làng Écully trời đầy sương. Một cỗ xe ngựa tiến tới. Mang theo một chiếc giường và ít đồ đạc khác. Đi trước cỗ xe là một Linh Mục mảnh khảnh và trắng dẻ, ngập ngừng dừng lại nhiều nơi. Thấy trên một bãi cỏ vài đứa trẻ đang chăn một đàn bò. Ngài gọi một đứa trong đám:
-Em làm ơn cho biết đường về xứ Ars ở đâu ?
-Cha cứ đi thẳng, cho đến khi thấy một đường lớn hơn, rẽ bên trái. Chỉ vài phút sau là vào làng.
-Cám ơn em. Em tên gì ?
-Antoine Givre.
-Cảm ơn Antoine. Con chỉ cho cha đường về Xứ Ars, và cha sẽ chỉ cho con đường lên Thiên Đàng.
Antoine Givre nhìn cha Vianney cách kinh ngạc. Đã lâu lắm rồi không thấy một Linh Mục ở vùng này. Cha Vianney quỳ xuống, hôn mảnh đất của Giáo Xứ và cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa tốt lành, con là một Linh Mục dốt nát đáng thương, Chúa biết điều này. Dân chúng ở đây không chờ đón con, mà Chúa. Họ cần Chúa. Xin hướng dẫn lời con nói, việc con làm, để các linh hồn này được cứu độ.”

 

3.Bữa Trưa Bữa Tối: Một Nồi Khoai Tây
Trong Phúc Âm, cha Vianney suy ngắm mọi ngày điều mà người ta hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để xua trừ ma quỉ ô uế. Chúa Giêsu trả lời: “Bằng cầu nguyện và chay tịnh”. Cha sở họ Ars nắm giữ từng chữ từng lời. cầu nguyện kiên trì là một thói quen của ngài. Ngài cũng bắt đầu ăn chay một cách đáng sợ. Ngài nấu một số khoai tây trong một cái nồi. Đây là lương thực duy nhất cho suốt tuần. Ngài treo nồi khoai trên bếp, và khi nào cơn đói hành hạ ngài, ngài lấy một hoặc hai củ khoai. Sáng củ thứ ba, thì ngài tự nói là tham ăn đấy ! Và ngài ăn như vậy, lạnh lẽo và không có chút gia vị.
Sau một ngày làm việc và với lương thực như thế, vào buối tối, ngài nằm trên sàn nhà, và lấy một thanh gỗ làm gối đầu. Ngài cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa cảa con, xin hãy hoán cải Giáo Xứ của con.”

 

4.Gương Giảng Dạy
Mỗi ngày thứ Bảy, ngồi trước mặt Thánh giá, ngài suy gậm và viết bài giảng cho ngày hôm sau. Ngài viết, rồi xóa, viêt lại băng cách hỏi Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh chi tiết từng lời để có thể đậnh động tâm hồn dân chúng. Rồi, ngài iập lại điều đã viết nhiều lần, và tìm cách học thuộc lòng.
Vào mỗi Chúa Nhật, dân chúng thấy mặt ngài sáng láng, giọng ngài nóng lên như lửa thiêu, và đánh động các tâm hồn. Bảy năm như thế. Ngài tột lành vợi mọi người. Ngài sám hối và cầu nguyện. Thù ghét bắt đầu biến tan. Người say rượu chừa bỏ. Các sàn nhảy lần lượt đóng cửa.

 

5.Tử Đạo Vì Người Tội Lỗi
Tiếng thơm thánh thiện của cha sở họ Ars dần dần loan ra các vùng phụ cận và rồi cả nước Pháp. Từng đoàn lũ dân chúng kéo về xứ Ars và chờ đến phiên xưng tội với ngài. Trong những năm cuối đời ngài, ngài để ra 17 giờ mỗi ngày để giải tội. Mỗi năm người ta đếm chừng 120.000 khậch hành hương đến xứ Ars, mà đa số đều muốn đến quỳ gối nơi toà giải tội của ngài. “Đời ngài bị tiêu tán bời tội lỗi cả nước Pháp” ( một tác giả viết về ngài ).
Năm 1859 cha Vianney sang một bước ngoặt. Ngày tháng của ngài tiêu hủy cho Thiên Chúa và anh chị em cùa ngài đã đến lúc hoàng hôn. Ngày 29 tháng 7 ngài về nhà xứ giữa đêm khuya sau một ngày dài ở toà giải tội như thường lẻ Ngài kiệt sức. Lấy tay chống váo tường, lần đến cầu thang. Bước lên bậc đầu tiên ngài thì thầm: “Lạy Thiên Chúa của con , và ngã sụp xuống. Vài người ờ gần đó la lên: “Cha sở ngã bệnh. Hãy kêu bác sĩ !”
Cha Vianney mở mắt và nói thì thào: “Không, hãy gọi một Linh Mục”. Ngài xưng tội với tất cả lòng khiêm tốn với mốt Linh Mục trẻ. Sau khi lãnh nhận ơn Giải Tội xong, ngài tim cách mỉm cười và nói với Linh Mục trẻ này: “Chết thật là đẹp khi đã sống xong Thánh Giá của mình”.

 

III.HÀNH HƯƠNG ĐẾN XỨ ARS
Năm nay kỷ niệm 150 năm ngày Thánh Gioan-Maria Vianney qua đời ( 1859 – 2009 ). Sẽ có một buổi tĩnh tâm cho Linh Mục toàn thế giới tại Ars do Đức Hồng Y Christoph Schonbom ( Tổng Giám Mục Vienna, nước Áo ) giảng. Chủ đề: “La joie d’être prêtre consacré pour le salut du monde”, từ ngày 27.9 đến 3.10.2009.
Nhà thờ cũ ( màu gạch đỏ ) nai ngài làm cha sở 181 -1959 ( 41 năm ) vẫn còn giữ nguyên vẹn. Bên cạnh Nhà Thờ cũ này là ngôi Thánh Đường mới được xây 3 năm sau khi ngài qua đời. Hai Nhà Thờ này dễ phân biệt bời kiểu kiến trúc khác nhau.
Nhà Thờ cũ được dâng hiến cho Đức Mẹ không mang tội. vẫn còn đó toà giảng nơi Thảnh Vianey thường giảng dạy. Rồi Toà Giải Tội nổi tiếng vẫn nằm đó trong phòng thánh Nhà Thờ cũ, nơi Thánh Vianey giải tội 17 giờ trong 1 ngày. Ngài được gọi là “người tù” của Tòa Giải Tội.
Bảng thời khoá biểu một ngày sống của Thánh Vianney: Từ 2 giờ sáng ngài đã giải tội rồi…
Nhà cha sờ nơi Thánh Gioan-Maria Vianey đã sống suốt 41 năm vẫn còn giữ nguyên vẹn từ khi Thảnh Gioan- Maria Vianey qua đời: phòng ngu của ngài và những đồ đạc cá nhân đơn sơ của ngài.
Nhà bép rất nghèo nàn: chén bát, soong chảo; đặc biệt có một Toà Giải Tội bên góc tường nhà bép. Thánh Víanney Không có Toà Giải Tội, nên đã lấy tủ đựng áo quần của ngài, khoét lỗ hai bên để làm Toà Giải Tội. Dù đã giải tội 17 giờ trong 1 ngày vẫn chưa đủ. Người ta vẫn kéo đến xưng tội cả khi ngài đang dùng cơm.

IV. SỨ ĐIỆP ĐỂ LẠI CHO CÁC LINH MỤC MỌI THỜI
-Con người cầu nguyện: Lâu giờ bên nhà tạm, thâm tình thật sự với Thiên Chúa, phó thác hoàn toàn cho thánh ý Thiên Chúa. Yêu mến Thiên Chúa vô cùng: “Je vous aime, ô mon Dieu…”
-Trung tâm đời ngài là Thánh Thể. “II est là”, thánh Vianey thường kêu lên như thế khi nhìn vào nhà tạm. Ngài là con người của Thánh Thể, dâng lễ và thờ lạy; “Không có gi cao trọng hơn Thánh Thể” ( II n’y a plus rien de plus grand que 1’Eucharistie”). Cho con người Thiên Chúa và cho Thiên Chúa con người.
-Tóm tắt 41 năm cha Thánh Vianey ở xứ Ars: Ám ảnh bởi muốn con người được cứu độ, nhất là những người đến vớ ngài hay ngài chịu trách nhiệm. Ngài ước ao mỗi người nếm được niềm vui nhận biết Thiên Chúa, yêu mến Ngài và biết Ngài yêu mến chúng ta…
-Tử đạo nơi Tòa Giải Tội. Từ năm 1830 hàng ngàn người đến xứ Ars để xưng tội. Năm 1859 người ta đếm hơn 120.000 người.
-Ngài chú tâm đến mọi chiều kích của con người. Ngài không ngừng giúp đỡ, làm dịu đau khổ, giúp cho người khác được hạnh phúc: viện mồ côi, trường học, lo cho người nghèo…
– Một tiếng mời gọi nên thánh cho toàn thể giới: “Je te montrerai le chemin du Ciel” ( Cha sẽ chỉ cho con đường về Trời ). Đó là lời ngài đáp lại trẻ chăn chiên đã chỉ cho ngài đường về xứ Ars. Ngài mời gọi mỗi người hãy để cho Thiên Chúa thánh hoá.

(HN sưu tầm từ Báo điện tử Epphata, số 427)

 

 

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

BÀI VIẾT MỚI

spot_imgspot_img

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Hạt Giống Chiêm Niệm số 32: Cầu Nguyện Đan Tu

CẦU NGUYỆN ĐAN TU Số 32 – Tháng Giêng năm 2024 ĐÔI LỜI ... Kính thưa quý độc giả, Như chúng ta đã biết, cầu nguyện là hành...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 31: Hướng Vọng Trời Cao

 Số 31 – Tháng 7 năm 2023 Lời ngỏ Kính thưa quý độc giả, Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày qua đời của cha Biển Đức...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 29: Tứ Hải Giai Huynh Đệ

Số 29 – tháng 07 năm 2022 Cùng Độc giả, Các sinh hoạt của Ban Biên Tập Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm (HGCN) của Hội...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 30: Một Đi Chung Cùng Nhau

LỜI NGỎ   Kính thưa Quí Độc Giả! Nội san Hạt Giống Chiêm Niệm số 30 phát hành vào tháng Giêng năm 2023 này mang chủ đích...

Giới Thiêu nội san “HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM” (Viện phụ Dominico Phạm Văn Hiền)

  NỘI SAN   HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     LỜI GIỚI THIỆU      ...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 1: NGUỒN SUỐI CHIÊM NIỆM

    HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM       Nội...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 2: HƯƠNG VỊ LỜI CHÚA

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 3: THAO THỨC

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 4: Những Nẻo Đường Sống Đạo

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     Nội san linh đạo đan tu   NHỮNG NẺO ĐƯỜNG SỐNG ĐẠO   Số 4 tháng 7 năm 2007 LỜI NÓI ĐẦU     Một người nọ hỏi...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số đặc biệt: Cội nguồn hy vọng

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 8: Trong Lòng Giáo Hội

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 9: Dám Đối Diện

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...