Thứ tư, 13 Tháng mười một, 2024

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 4: Những Nẻo Đường Sống Đạo

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM   

 Nội san linh đạo đan tu  

NHỮNG NẺO ĐƯỜNG SỐNG ĐẠO 

 Số 4 tháng 7 năm 2007

LỜI NÓI ĐẦU

    Một người nọ hỏi cụ già: con đường này đi đến đâu? Cụ già đáp: Nói sẽ dẫn đến mọi nơi bạn muốn đến, nếu bạn có khả năng và ý trí. Câu trả lòi có vẻ xa xôi, trìu tượng nhưng thập thâm thúy. Mọi con đường đều có lien kết với nhau và đều dẫn đến đích điểm. Đích điểm của bạn là gì thì bạn sẽ chọn con đường phù hợp để nhanh chóng đạt đến nó. Thông thường mọi con đường đều gặp nhau ở một điểm. Bên cạnh con đường một chiều cũng có một con đường khác có chiều ngược lại, tại sao bạn không chịu tìm kiếm, cứ lầm lũi đi vào con đường một chiều để lãnh lấy một phiếu phạt, và phải tốn kém bao nhiêu sức lực, thì giờ, tiền của và tệ hại hơn nữa đó là lãnh lấy tai nạn từ bị thương đến chết! Vì thế, bên đường luôn có những cột mốc, bản hướng dẫn, bản đồ nhằm giúp người ta khỏi đi lạc, không những an toàn mà còn mau đạt tới đích, đồng thời có đòi hỏi người ta mỗi ngày hoàn chỉnh con đường tối đa để đạt đến con đường siêu tốc!

    Đạo cũng là Con đường dẫn đến một đích điểm, một cứu cánh thiên liêng, ơn cứu độ. Chúa Giêsu chính là con đường, là đạo. Muốn đến được với ngài cần phải theo con đường ngài đã đi, tuân theo “những bảng chỉ đường” ngài dạy. những đòi hỏi tưởng chừng rất gắt gao: con đường hẹp, con đường vác thập tự lên đồi Golgotha. Tuy nhiên không chỉ có vậy, vì Thiên Chúa đã mở con đường tình yêu thong thương với nhân loại, khi cho Ngôi Lời nhập thể làm người; đó là con đường đi xuống và Ngài cũng mở con đường lên với Thiên Chúa, khi cho con người – Thiên Chúa Giêsu Kitô phục sinh, đi đầu dẫn theo đàn em đông đúc. Do đó, đi trên đường Giêsu không phải chỉ có những qui luật, đòi buộc, mà đó còn là những Con Đường Tình Yêu, Đường Mặc Khải, Đường Sự Sống.

    Từng đoàn người nối tiếp nhau, từ thế này sang thế hệ khác dấn thân đi vào con đường tình Giêsu. Con đường mang tên Giêsu dài thăm thẳm, kết nối hết mọi con đường sự thật, ví như câu nói: Đường nào cũng đến Rôma! Con đường ấy quy tụ tất cả các ngõ ngách, có muôn vàn nẻo, đó là những linh đạo phong phú của Giáo hội. tập san bé nhỏ này gồm những suy tư nghiên cứu của các đan sĩ mong được góp phần làm phong phú cho kho tàng ấy.

    Xin trân trọng giới thiệu cùng quí vị khan giả tập san Hạt Giống Chiêm Niệm số 4 với chủ đề: “Những Neo Đường Sống Đạo”, trong năm SỐNG ĐẠO của Giáo hội Việt Nam  

Ban Biên Tập

Mục Lục 

CANH TÂN VÀ SỐNG ĐẠO

FM.Benado Phạm Thanh Bình – Đan việnCSNQ

     Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta thường hay đề cập đến sự thành công. Nhưng đã mấy ai quan niệm đúng về một sự thành công nhất trong đời người? Đức Thánh Cha PhaolôII đã phát biểu rằng: “thành công lớn nhất của một đời người là nên thánh”. Sự nên thánh là kết quả của một tiến trình sống và trở nên chứng tá cho niềm tin và Thập giá. Thân phận con người càng cảm thấy mỏng dòn yếu đuối hơn khi tiến sâu trong dòng lịch sử.

     Trong hành trình cuộc sống, xu hướng càng trở nên già nua cũ kĩ lại là một cái gì rất tự nhiên và thực tế nơi con người. Đã cũ kĩ, lạc hậu thì đương nhiên đổi mới, nếu thực sự muốn tiến lên; cũng có nghĩa đòi hỏi nơi mỗi người một nỗ lực rất cao để mỗi ngày nên hoàn thiện hơn. Vì trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã mời gọi:“Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn thiện” .[1] Để ngày càng trở thành Hôn Thê xinh đẹp của Chúa Kitô, Giáo hội cần có sự sống mới, sự sống của Đức Kitô Phục Sinh, và sức mạnh của Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ tuần. Một cuộc canh tân như thế luôn dẫn đưa một cách  thức sống đạo năng động và sâu xa hơn. Như vậy, sống đạo và canh tân đã trở nên vấn đề cấp thiết cho đời sống Giáo hội. Qua bài viết này người viết xin mạng phép nêu lên một vài suy tư trong đường hướng canh tân và sống đạo mà Giáo hội đã kêu gọi mọi kitô hữu, đặc biệt là những người sống đời thánh hiến

1.Canh tân và sống đạo – một vấn đề cấp thiết trong đời sống người kitô hữu.

 a. Canh tân phải chăng là một cuộc cách mạng bản thân?

     Trong cuộc sống thường ngày, lời mời gọi canh tân đời sống như là một động lực giúp con người đổi mới và thăng tiến không ngừng. Đã là con người, ai cũng có những giới hạn, yếu đuối; nhưng phải canh tân để thăng tiến không ngừng. “Cuộc cách mạng” ở đây không chỉ dừng lại trong phạm vi vật chất, tri thức, kinh tế… nhưng là một sự đổi mới toàn diện; và đối với kitô quan trọng hơn cả vẫn là canh tân đời sống thiêng liêng đạo đức. Biết bao nhiêu sự kiện xảy làm cho con người phải bừng tỉnh và vươn lên. Khi nói “con người chỉ là nạn nhân của cái chốc lát”, triết gia Soren Kierkegaard muốn nói đến tính mong manh và yếu hèn mà con người. Cho nên điều quan trọng là phải biết chấp nhận tất cả tính mong manh và giang dở của cuộc sống, để rồi không ngừng hoàn thiện. Trong đời sống thường ngày, mỗi người cần có những cuộc cách mạng để “biến hình” nên những con người mới trong ân sủng của tình yêu Thiên Chúa.

     Tuy nhiên, trong cuộc cách mạng kinh tế, chính trị… những vị thủ lãnh muốn loại bỏ những chế độ cũ để thiết lập nên chế độ mới tiên tiến và tốt hơn, có lợi hơn; cũng vậy trong đời sống người kitô hữu cũng vậy, chính Chúa Thánh Thần là vị thủ lãnh cao nhất giúp mỗi người canh tân đời sống tâm linh với những đời sống sinh hoạt hằng ngày để nên thánh thiện hơn: Chúa Thánh Thần là nguồn sức mạnh và là Đấng thánh hoá, như Giáo hội đã khẳng định: “Tuy trong Giáo hội, tất cả không cùng đi cùng một đường, nhưng tất cả cùng được mời gọi nên thánh, và đồng thừa hưởng đức tin trong sự công chính của Thiên Chúa – mọi sự ấy là công trình của cùng một Thánh Thần duy nhất”.[2]

b. Lời Chúa là nguồn mạch thúc đẩy người tín hữu canh tân và sống đạo.

     “Nếu trong đời sống Giáo hội được tăng trưởng nhờ năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể, cũng thế, có thể hy vọng đời sống thiêng liêng được đổi mới nhờ thêm lòng sùng kính Lời Chúa”.[3]

     Qua lời kêu gọi của Mẹ Giáo hội  trên đây, mỗi người kitô hữu cũng ý thức được tầm quan trọng của Lời Chúa trong đời sống thường ngày, vì “Lời Chúa là chính Chúa, Lời Chúa là đèn soi bước chân đi”.

     Chính Lời Chúa là động lực thúc đẩy chúng ta tiến lên trong đời sống thiêng liêng, và được đổi mới đời sống trong ân sủng Chúa: “Anh em hãy cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thực sự sống công chính thánh thiện”.[4]

     Quả thực, kitô hữu luôn được mời gọi tích cực sống Lời Chúa biến đổi tận thâm tâm ,đồng thời bộ mặt địa cầu được đổi mới. Điều quan trong là hãy để cho Lời Chúa hướng dẫn và  “phải bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu”.[5]

     Từ đó mỗi người cũng xác tính như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”.[6]

     Nhưng nhiệm vụ canh tân không chỉ hạn hẹp trong đời sống cá nhân, mà còn lan rộng chính hoàn cảnh và môi trường sống. Bởi vì “đức tin không có hành động thì qủa là đức tin chết”.[7]

  c. Canh tân để sống đạo và sống đạo để nên thánh.

     Toàn thể Giáo hội luôn kêu gọi con cái hãy trở nên thánh, nghĩa là trở nên hình ảnh của chính Tình Yêu.

     Một sự nên thánh như vậy phải được hiện thực trong mọi không gian và thời gian, trong phạm vi cá nhân và cộng đồng. Vì thế, nên thánh là ơn gọi cho mọi kitô hữu: “Mọi kitô hữu đều được mời gọi và có bổn phận nên thánh và nên trọn lành trong bậc sống mình”.[8]

      Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, qua thư chung 2006 với chủ đề: “Sống đạo hôm nay mời gọi các thành phần dân Chúa sống đạo ngay trong môi trường của mình, và sự đổi mới bản thân là nhiệm vụ của tất cả và từng người. Việc canh tân là trở nên con người mới, con người của ân sủng, hằng tỉnh thức và cầu nguyện, luôn tuân phục thánh ý Chúa.

     Lại nữa, sống đạo là làm cho môi trường mình sống được trở nên lành mạnh, như lời thánh tông đồ Phaolô dạy: “Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh hoá”.[9]Sự thánh thiện này của Giáo hội luôn được biểu lộ và phải biểu lộ qua những hoa trái ân sủng mà Thánh Thần đã kết sinh nơi các tín hữu; sự thánh thiện ấy được diễn tả dưới nhiều hình thức nơi tất cả những ai đang cố đạt tới trong bậc sống của mình trong khi xây dựng kẻ khác. Đặc biệt hơn, nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy, nhiều kitô hữu thực hành các lời khuyên phúc âm với tư cách cá nhân hoặc trong những lối sống hay bậc sống đã được Giáo hội công nhận: việc thực hành đó mang lại và phải mang lại cho thế giới một bằng chứng và một mẫu gương rạng ngời về sự thánh thiện của Giáo hội”.[10]

     Ngày nay, Giáo hội luôn đề cao việc gia đình sống đạo.Điều đó cũng dễ hiểu, vì gia đình là chiếc nôi đầu tiên và quan trọng nhất trong việc giáo dục những đức tính nhân bản, đạo đức;đồng thời hình thành và duy trì những giá trị cao quý của hôn nhân và gia đình công giáo như: trung tín, chung thuỷ, thuận hoà, và tạo nên một nền“văn hoá sự sống” , và không để bị lôi cuốn bởi “văn hoá sự chết”. Hơn nữa, việc sống đạo nghiêm túc đòi hỏi siêng năng cầu nguyện và tích cực tham dự các buổi phụng vụ. Đó chính là bước khởi đầu cho việc canh tân môi trường.

     Thực vậy, để đổi mới bộ mặt địa cầu, canh tân đời sống trong Giáo hội, phải đi theo trình tự khởi từ việc canh tân bản thân, rồi đến gia đình, môi trường sống đạo….Muốn vậy, điều đó cũng cần sống đạo một cách thiết thực. Nghĩa là cụ thể hoá các giới răn yêu thương của Chúa, từ trong gia đình, hiệp nhất trong đức tin, để chính mỗi gia đình như là một xã hội thu nhỏ, là họa hình của gia đình Nazareth, của Ba Ngôi Thiên Chúa. Nhưng điều gì minh chứng rằng đời sống đạo của người tín hữu đã được canh tân? Đó là người tín hữu đã sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để có thể đạt đến mức thiện toàn trong Chúa Giêsu Kitô: “Chính Đức Kitô đã ban cho kẻ này làm tông đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ. Nhờ đó, các thánh được chuẩn bị làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới  tầm vóc viên mãn của Đức Kitô”.[11]

     Và đâu là yêu sách của đời sống đạo? Thánh Phaolô đã trả lời: “Anh em hãy xét xem mình còn sống trong đức tin hay không. Hãy tự kiểm điểm. Anh anh em chẳng nhận thế là có Đức Kitô ở trong anh em sao?”

     Tóm lại, mỗi người tín hữu sống đạo thiết thực bằng sự dấn thân nên thánh, yêu thương phục vụ, và làm chứng cho Tin Mừng.

 2. Người thánh hiến, gương mẫu trong đời sống canh tân và sống đạo.

   a. Sự đổi mới con người.

     Ngay trong những số đầu tiên của sắc lệnh về canh tân thích nghi đời sống dòng tu, Giáo hội đã khẳng định: “Đời sống tu trì trước hết nhằm làm cho các tu sĩ theo Chúa Kitô và kết hợp với Thiên Chúa nhờ khấn giữ các lời khuyên phúc âm; bởi thế phải cận trọng cân nhắc: những nổ lực tốt đẹp nhất nhằm thích nghi với nhu cầu hiện đại sẽ chẳng sinh kết quả gì, nếu không được sinh động nhờ sự canh tân về tu đức, vì đó là yếu tố bao giờ cũng giữ địa vị then chốt, ngay cả khi phải xúc tiến các hoạt động bên ngoài”.[12]

     Lời khuyên trên đây của Giáo hội diễn dịch ý định của Thiên Chúa đã được mạc khải qua Kinh thánh. Thật vậy, Giáo hội muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc canh tân, nhất là về mặt tu đức nơi con người thánh hiến. Trước hết là trái tim và khối óc, vì lòng có mến thì con người mới hoạt động, và trí óc có thông suốt thì lòng mới mộ mến.Trong thực tế đời sống, theo thời gian, con người ngày càng tiến đến chỗ già nua cũ kĩ , cộng them sự ươn lười và nhiệt khí nguôi dần.

     Đời sống người tu sĩ cũng không thoát  khỏi định luật tự nhiên ấy. Điều đó rất dễ thấy: sau những ngày đầu hăng say và nhiệt thành, tình yêu của người thánh hiến bị bào mòn theo năm tháng và nhiệt huyết tông đồ bị sút giảm.. Từ đó người tu sĩ trở nên buông xuôi,chán chường, không còn hứng khởi trong việc tập nhân đức và nên thánh.

     Cho nên, con tim và khối óc, người tu sĩ cần đổi mới, nhờ sự tiếp xúc với Chúa Kitô, và sức mạnh của Chúa Thánh Thần  để con người nội tâm ngày càng được đổi mới. Chúa Thánh Thần sẽ là hơi thở mới trong sự hô hấp thầm lặng để chúng ta kết hiệp với Chúa và canh tân đời sống mỗi ngày. Việc đổi mới được thực hiện trước hết là nhờ cầu nguyện; vì qua đó tâm hồn tu sĩ mở rộng đón nhận ân huệ Thiên Chúa và để được Người biến đổi.

     Như thế, cầu nguyện là việc tự giải phóng mình, để trở nên người con thảo của Thiên Chúa và là quà tặng cho anh em. Tinh thần cầu nguyên cũng giúp người tu sĩ vươn tới một tình yêu lớn nhất, tình yêu vô vị lợi để phục vụ Chúa và các linh hồn. Tiếp đến Tin Mừng sẽ làm kim chỉ nan cho việc canh tân. Nhờ ánh sáng Lời Chúa họ được biến đổi, và nhờ ơn Chúa Thánh Thầnthụ đắc những tâm tình của Chúa Kitô.

     Nhờ tiếp xúc với Lời Chúa, đời sống họ được thanh luyện khỏi những uế tà để hướng về thánh thiện. Ngoài ra, để đổi mới tư tưởng, cần phải học hỏi và xoay quanh ba trục chính Thiên Chúa, về con người và về thế giới. Cuối cùng, tu sĩ cũng  phải đổi mới về nhân bản. Một sự thật là con người có thể đổi mới nhiều thứ, nhưng tính tình lại là một điều rất khó sửa đổi. Tuy nhiên, đó lại là điều mấu chốt trong đời sống cộng đoàn và đôi khi nó là yếu tố quyết định thành bại trong công tác tông đồ. Một tu sĩ không sẵn sàng dấn thân cho anh chị em, thì  không thể dấn thân cho Thiên Chúa. Do đo, việc canh tân phải bao gồm nhiều chiều kích: tâm linh, trí thức, nhân bản.

   b. Canh tân nếp sống.

     Công cuộc canh tân phải dẫn đến việc đổi mới nếp sống: nhờ ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy và hướng dẫn, mỗi người chúng ta tiếp tục đời sống dâng hiến với tất cả nhiệt tình và quảng đại.

     Điều quan trọng là làm thế nào để chúng ta có được cuộc sống phù hợp với thời đại mà không mất đi bản chất ơn gọi tu trì.

     Để thực hiện được điều đó, cần thực hiện những nguyên tắc sau đây:

-Là tu sĩ, chúng ta phải có nếp sống tu sĩ. Cởi mở nhưng không bị tục hóa. Đặc biệt nơi các đan sĩ sống đời chiêm niệm, Giáo hội đã nhắn nhủ rằng: “Trong các hội dòng hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm, các tu sĩ chỉ nhất tâm phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch và lặng lẽ, trong việc chuyên lo cầu nguyện và hân hoan hãm mình, cho dù nhu cầu hoạt động tông đồ có khẩn thiết đi nữa, thì những hội dòng ấy vẫn phải luôn giữ địa vị cao quý trong Nhiệm Thể Chúa Kitô”.[13]

– Là tu sĩ, chúng ta phải trung thành giữ các lời khuyên Phúc âm: “Tu sĩ bất cứ hội dòng nào cũng phải ghi tâm điều này, chính nhờ khấn giữ các lời khuyên phúc âm mà mình đã đáp ứng ơn thiên triệu, vì thế, chẳng những phải chết đi cho tội lỗi, nhưng còn phải từ bỏ thế gian để sống cho một mình Thiên Chúa. Thực vậy, họ đã tận hiến toàn thể cuộc đời để làm tôi Thiên Chúa, và sự tận hiến ấy đã thực sự tạo nên một hiến lễ của ngày chịu phép rửa tội, đồng thời biểu lộ hiến lễ này một cách trọn hảo hơn”.[14]

-Về các công tác tông đồ, chúng ta cần hiểu rất rõ là thế giới hôm nay là thế giới của đối thoại, cởi mở và thông cảm. Vì thế, việc gần gũi và thái độ khiêm tốn cũng như tinh thần phục vụ là những yếu tố hết sức quan trọng trong việc làm chứng về Tin Mừng.

-Một tu sĩ bé mọn, khiêm hạ và đơn giản có sức thu hút thật mạnh mẽ đối với một thế giới ồn ào và tốc độ hôm nay. Đây cũng là điều kiện để mỗi người có thể gần gũi và liên kết với nhau trong tinh thần hiệp nhất và yêu thương.

          Kết:

     Sống đạo chân thực là thực thi canh tân liên tục cùng thật hợp lý, bởi vì canh tân là một chân lý gắn liền với cuộc sống mỗi con người, nếu muốn cuộc đời được thăng hoa. Dĩ nhiên, tiêu chuẩn để chúng ta canh tân và sống đạo là Tim Mừng, và giáo huấn của Giáo hội;vì chính những nơi đó Chúa Thánh Thần hướng dẫn việc canh tân trong Gíao Hội. Điều quan trọng là mỗi người cần canh tân đời sống mình từng giây phút, một cách toàn diện và trong mọi lãnh vực. Cuộc sống trần gian là một cuộc hành trình tiến về vĩnh cữu.

     Tuy nhiên con người luôn phải đối diện với gian nan thử thách; và cảm thấy sức lực ngày càng suy tàn. Vì vậy, khiêm tốn và cởi mở tâm hồn cho ân sủng Thiên Chúa biến đổi luôn là điều kiện tiên quyết, bởi Thiên Chúa quyền  năng có thể biến đổi chúng nên thánh, một cách tiệm tiến. Điều quan trọng là chúng ta dám “buông theo ân sủng” để trở nên đồng hình đồng dạng với  Chúa Kitô và đạt đến tầm vóc viên mãn của Ngài.


[1] Mt 5,48

[2] Hiến chế tín lý về Giáo hội, số 32.

[3] Hiến chế tín lý về mạc khải của Thiên Chúa, số 26.

[4] Ep 4,22-24

[5] Col 2,7

[6] Gl 2,20

[7] Gc 2,17

[8] Hiến chế tín lý về Giáo hội, số 42.

[9] Ep 1,4

[10] Hiến chế tín lý về Giáo hội, số 39.

[11] Ep 4,11-13

[12] Sắc lệnh về canh tân thích nghi đời sống dòng tu, số 2/e.

[13] Sắc lệnh về canh tân thích nghi đời sống dòng tu, số 7.

[14] Sắc lệnh về canh tân thích nghi đời sống dòng tu, số 5.

NGANG TẦM

                                   Hạnh phúc không ở quá cao

                                   Đến không chạm được tay nào với đây.

                                   Hạnh phúc ngang ở tầm tay

                                   Cho ai có được tâm ngay ý lành.

ĐẠO, MỘT CON ĐƯỜNG SỐNG

FM.Simon

Con người được sinh ra trên địa cầu này ai cũng có hai đời sống. Đời sống thứ nhất là đời sống sinh lý, đời sống thứ hai không kém phần quan trọng đó là đời sống tinh thần. Đời sống sinh lý thì cần có thức ăn, nước uống, không khí…. Còn đời sống tinh thần thì cũng cần có một thứ thức ăn khác để sống. Thức ăn đó chính là Đạo. Đạo là nhu cầu cần thiết cho đời sống tinh thần của một kiếp người. Giờ đây chúng ta tìm hiểu đề tài Giữ đạo hay sống đạo để làm phong phú cho đời sống tinh thần của con người chúng ta. 

          I.GIỮ ĐẠO

           1.Giữ đạo là những người giữ luật của đạo:

Bất cứ một quốc gia hay một tổ chức nào đều phải có luật cho quốc gia hay tổ chức của mình để mọi phần tử trong cộng đồng đó tuân theo và để guồng máy của tổ chức đó làm việc một cách có hiệu quả. Trong quân đội, người ta áp dụng một thứ luật “sắt” rất khắt khe, ai không tuân thủ thì ngay lập tức bị phạt không nhân nhượng. Trong trường học thì có nội qui, ra đường phố thì có luật đi đường, biển báo để người lưu thông tuân hành. Đường thủy, đường hàng không…. đều phải có luật lệ. Vậy các tôn giáo thì sao? Tôn giáo cũng y như vậy. Bất cứ tôn giáo nào cũng có một thứ luật cho  riêng mình. Đạo Do-thái, dựa theo Kinh Thánh Cựu Ước, tiên tri Môisen đã cầm trên núi xuống tấm bia đá có 10 điều răn do chính Yavê đã khắc vào. Người Do-thái rất trân trọng Thập Điều. Họ đã làm một cái hòm rất sang trọng để đựng tấm bia đá đó, gọi là hòm Giao Ước. Họ đặt hòm bia Giao Ước vào nơi trang trọng nhất trong Đền Thờ Giêrusalem, họ xem Hòm Bia và 10 điều răn đó là nơi có Yavê hiện diện. Đạo Công giáo của chúng ta cũng tuân theo 10 điều răn đó. Để nói phổ quát, những ai giữ luật của Đạo là những người giữ đạo. Để giữ đạo tốt theo từng dấu chấm, phẩy của luật thì chúng ta có thể bàn thêm một khía cạnh của vấn đề là giữ đạo thiên về hình thức.

               2.Giữ đạo là những người vụ hình thức.

Một người giữ đạo chỉ dựa theo luật, giữ hết chấm phẩy trong luật, họ băn khoăn khi để sai một lỗi nhỏ của luật, họ lấy làm đau khổ vì đã để lỗi luật, họ làm theo luật (luật chữ đỏ) nghĩa là luật bảo sao thì làm vậy, không du di, không khoan nhượng. Họ tự hào khi đã giữ luật trọn hảo, họ hãnh diện vì những công lao giữ luật của mình, từ đó đi đến chỗ kiêu ngạo. Chỉ giữ luật với cái vỏ bề ngoài. Họ giữ luật vì chỉ để được lấy tiếng khen, được người đời ca tụng. Nhiều lúc họ hy sinh vất vả, dâng cúng vào đền thờ hay làm việc bác ái chỉ để được tiếng khen chứ không vì lòng mến. Điều này trong Kinh Thánh, Chúa Giêsu đã gán cho những kinh sư Do-thái là những kẻ giả hình (x. Mt 23, 1-7).

               3.Giữ đạo vì lòng mến đạo.

Giữ luật vì lòng mến đạo. Đây là mẫu người lý tưởng. Họ giữ luật không phải vì luật, không tìm tiếng khen, họ không sợ tiếng chê, nhưng chỉ sợ mất lòng Chúa hay Đấng sáng lập nên đạo của mình. Người có lòng mến đạo thật thì giữ đạo một cách thoải mái, không lo lắng thái quá. Nếu lỡ họ lỗi luật thì với sự khiêm nhường, họ thú nhận lầm lỗi, vì biết rằng sức riêng con người là mỏng dòn, chỉ có Chúa là Đấng Toàn Năng. Vì vậy người giữ đạo vì lòng mến luôn luôn có được một tâm hồn bình an.

          II.SỐNG ĐẠO

               1.Sống đạo là những ai sống theo tinh thần của đạo.

Ngày xưa Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samari rằng: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết, còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4, 22-23). Sống đạo cũng là người thờ phượng Chúa trong Thần Khí và Sự Thật. Họ sống đạo nhờ Thần Khí của Chúa hướng dẫn để đạt tới chân lý vẹn toàn. Họ không câu nệ vào luật pháp một cách cứng nhắc, nhưng uyển chuyển để cho Thần Khí Chúa thúc đẩy và dẫn đưa họ trong việc thờ phượng, trong đời sống đạo. Sống đạo cũng là người làm đẹp lòng Chúa, vui lòng người ta. Như Đức Giêsu “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và được Thiên Chúa và nhiều người thương mến” (Lc 2, 52). Để làm đẹp lòng Chúa, vui lòng người ta như Chúa Giêsu không phải là đơn giản, họ phải có tấm lòng đơn thành, loại bỏ thói giả hình mà Chúa Giêsu thường lên án các biệt phái Do-thái ngày xưa (x. Mt 23, 1-7)

               2.Phải chăng sống đạo là không cần hình thức.

Nếu nói rằng sống đạo là không cần hình thức bên ngoài cũng có thể đúng, và sống đạo cần có hình thức bên ngoài thì cũng không sai. Khi người ta thấy một người giữ luật chưa trọn hảo, theo chủ quan người ta nhận định người đó sống đạo không tốt. Đó chỉ mới nhận định được phía bên ngoài, nhưng trong lương tâm người đó thì có Chúa mới thấu tỏ mà thôi. Bởi vậy mới có một Matthêu thu thuế, một Madalêna, một Phao lô….Đó là những nhân chứng, những câu chuyện điển hình được ghi lại trong Kinh Thánh Tân Ước.

Khi người ta thấy một người giữ luật đạo trọn hảo, người ta nhận định đó là người đạo đức, thì đó cũng chỉ đúng theo nghĩa chủ quan mà thôi. Cũng vậy trong lương tâm họ đích thực làm sao thì chỉ có Chúa mới biết được. Ngày xưa ai giữ luật trọn hảo bằng những người Biệt phái Do-thái. Vậy mà Chúa Giêsu lại liệt họ vào những kẻ giả hình.

Vậy để nhận định đúng một người sống đạo tốt thì thật là khó cho con người chúng ta. Việc này chỉ có Thiên Chúa mới có quyền đánh giá, thẩm định chính xác và đúng mức cho chúng ta mà thôi.

              3.Sống đạo tại tâm

Có một số người chủ trương rằng: tôi sống đạo tại tâm, không cần phải giữ luật xem lễ ngày Chúa nhật.v.v… Tôi giữ đạo theo luật bác ái, giúp đỡ người nghèo… như vậy là đủ rồi, không cần phải kinh lễ rườm rà, hình thức. Nói như vậy cũng đúng ở một khía cạnh nào đó nhưng chưa đủ.

Nếu so sánh với công thức: Sống đạo là làm đẹp lòng Chúa và làm vui lòng người ta thì việc sống đạo tại tâm là chưa đủ, còn thiếu một vế. Nếu chỉ làm việc bác ái mà không thờ phượng Chúa thì mới chỉ làm đẹp lòng người ta. Muốn sống đạo trọn hảo thì không chỉ giữ đạo tại tâm mà còn phải thực hành đức thờ phượng là nghĩa vụ của một Kitô hữu đối với Thiên Chúa của mình, nghĩa là phải luôn biết và tìm cách làm đẹp lòng Người nữa.

Tuy rằng cũng có những luật trừ. Ví dụ trong trường hợp các tín hữu đang bị bắt bớ hay chưa được tự do thi hành đức tin như ở Trung Quốc, một quốc gia hai Giáo Hội, Giáo hội hầm trú và Giáo hội công khai. Giáo hội hầm trú vâng phục quyền Đức Giáo Hoàng Rôma, còn Giáo hội công khai thì do nhà nước Trung Quốc quản lý. Vì vậy giáo dân Giáo hội hầm trú phải thực hành đức tin của mình một cách lén lút. Như vậy có thể gọi Giáo hội hầm trú tại Trung Quốc đang giữ đạo tại tâm mà vẫn được kính trọng. Vậy đây là trường hợp bất khả kháng, nhưng khát vọng của họ vẫn là được thực hành đạo một cách công khai.

          III.MẪU GƯƠNG CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

               1.Đức Kitô là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo.

Sống đạo là làm đẹp lòng Chúa và làm vui lòng người ta”. Đây là công thức, là định nghĩa hay nhất, trọn vẹn nhất và điều này Đức Kitô đã thực hành một cách trọn vẹn trong suốt cuộc đời tại thế của Ngài (x. Lc 2, 52). Đức Kitô là mẫu gương cho mọi kitô hữu noi theo, Ngài giữ luật một cách trọn hảo và bình an. Khi Chúa Giêsu 30 tuổi, Ngài đi rao giảng Tin Mừng, có nhiều lúc Ngài lỗi luật ngày Sabat là chữa bệnh cho dân chúng theo Ngài, rồi không lên án người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, xóa bỏ luật mắt đền mắt, răng đền răng trong Cựu ước…

Chúa Giêsu đã không cứng nhắc trong việc giữ luật mà rất uyển chuyển. Ngài đặt luật bác ái, yêu thương, tha thứ lên trên hết. Ngài dạy chúng ta phải yêu thương đồng loại, từ chỗ yêu thương đồng loại đến chỗ nhận biết và yêu thương Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành và ngược lại.

               2.Giữ đạo và sống đạo phải kết hợp.

Theo gương Thầy Chí Thánh là Đức Kitô, Ngài đã sống trọn vẹn cả hai vế giữ đạo và sống đạo. Vậy nếu chúng ta quá chú trọng về phần giữ luật là giữ đạo sẽ đi đến chỗ bóp nghẹt đức bác ái yêu thương. Còn nếu quá chú trọng về việc sống đạo mà không cần luật lệ thì sẽ đi đến chỗ muốn giữ đạo tại tâm và lấy đó làm đủ, trong khi còn thiếu nghĩa vụ thờ phượng Thiên Chúa thì cũng không được.

Như vậy theo những nhà tu đức học dạy về nhân đức: Nhân đức là gì? Nhân đức là Trung Dung, hay quân bình; nghĩa là không có cái gì thái quá hay bất cập. Đây cũng là kinh nghiệm từ ngàn xưa của các bậc thầy tu đức của chúng ta đã dạy như thế.

 

          KẾT LUẬN:

Kính thưa quí độc giả, một hạt cát không thể làm nên sa mạc, một giọt nước không thể làm thành biển khơi, nhưng nó cũng là một thành phần của sa mạc và biển cả. Đề tài sống đạo hay giữ đạo tuy khác về ngôn ngữ nhưng có chung một nội dung. Sống đạo hay giữ đạo bên nào cũng có điều tích cực và tiêu cực. Một người kitô hữu đích thực phải bao gồm cả hai vế giữ đạo và sống đạo, phải quân bình, không được coi trọng phần giữ đạo mà thiếu sót phần sống đạo hay ngược lại.

Tóm lại, một người nhân đức thật là một người có đời sống trung dung, quân bình và uyển chuyển, không được “nhất bên trọng nhất bên khinh”, bất cập hay thái quá thì sẽ đi đến chỗ lệch lạc, mà phải theo gương Thầy Chí Thánh là Đức Kitô.

Trên đây là những chia sẻ rất khiêm tốn của cá nhân trong một đề tài rộng lớn. Đòi hỏi nhiều kinh nghiệm và công lao nghiên cứu của các bậc cha anh. Sẽ có rất nhiều thiếu sót, thậm chí có thể ngược lại với lập trường của độc giả, xin miễn tình tha thứ và chỉ giáo thêm. Dẫu sao thì mong ước của bản thân là muốn làm một hạt cát, một giọt nước của sa mạc và đại dương, hầu muốn làm phong phú cho đời sống tinh thần sống đức tin giữa lòng dân tộc của người kitô hữu và muốn hòa vào trong biển cả tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.

 

 

 

SỐNG ĐẠO
THEO GƯƠNG ĐỨC MẸ MARIA

Sr. M.An Thành

 

Hoà nhịp với Giáo Hội trong tinh thần “Sống đạo hôm nay” dù là giáo dân, tu sĩ hay đan sĩ, mọi thành phần dân Chúa đều phải tự tra vấn về niềm tin chính mình vào Đức Kitô, việc sống lời chúa, cách loan báo về niềm hi vọng, niềm vui và tình yêu của Thiên Chúa, phương thức rao giảng Đức Kitô Phục Sinh đến với anh chị em hôm nay như thế nào? Mỗi người chúng ta có bắt gặp được  ánh mắt của Đức Giêsu?[1] Một ánh mắt hiền từ, nhân hậu luôn dõi nhìn và mời gọi chúng ta theo Ngài. Theo Ngài, vì “Ngài là con đường dẫn đến Chúa Cha”[2], dẫn đến cuộc sống đời đời.

Từ những trang Tin Mừng chúng ta học được mẫu gương “Sống đạo” triệt để và sự khiêm hạ của Đức Maria, Mẹ đã bước theo Đức Kitô như thế nào?

 Chúng ta hãy cùng với Đức Maria thực thi các nhân đức tin, cậy, mến, khiêm nhường và vâng phục. Mỗi người tuỳ theo ơn gọi của mình để dấn bước theo Chúa Giêsu một cách thiết thực hơn.

 

       1.CÙNG ĐỨC MARIA SỐNG NIỀM TIN  

Đức Maria là người đã nghe và sống những sứ điệp tình yêu mà Thiên Chúa  trao gởi. Mẹ luôn sống tin yêu, phó thác luôn thinh lặng xin vâng và khiêm hạ thẳm sâu trong cõi lòng. Chúng ta cần noi gương Mẹ vì Mẹ là người kitô hữu đầu tiên  chiêm ngưỡng thái độ tự hiến cho Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Mẹ luôn có thái độ ngoan ngùy trước tác động của Chúa Thánh Thần, Công đồng Vatican II giới thiệu Đức Maria như là kẻ “dẫn đầu” toàn thể dân Thiên Chúa trong cuộc lữ hành đức tin, đức mến và sự kết hợp hoàn toàn với Đức Kitô[3]. Mẹ là người đầu tiên đã tin và gắn bó với Thiên Chúa. Như thế, noi gương Đức Maria yêu mến Chúa thì không thể không tin và không gắn bó với Ngài được. Đức tin là chìa khoá mở cửa lòng để chúng ta mau mắn đáp trả, thi hành những gì Thiên Chúa mời gọi. Mẹ đã sống trọn niềm tin khi đáp lời xin vâng và theo Chúa đến đỉnh đồi Can-vê. Trong hành trình theo Chúa, có những lúc gặp sóng gió thử thách, đức tin hầu như bị chao đảo, mất nghị lực, mất sức sống, chúng ta cần chạy đến với Mẹ, Mẹ sẽ dạy chúng ta vững tin vào Chúa Giêsu. Mẹ đã tin và gắn bó với Chúa trong tất cả các công việc bổn phận với lòng yêu mến. Theo Mẹ, chúng ta hãy tin và gắn bó vào Chúa qua các giờ phụng vụ, lao động trí thức và thủ công trong ánh sáng lời của Chúa. Làm một cách ý thức như Cha Tổ phụ khuyên: “Hãy chăm chỉ làm mọi việc như Chúa Giêsu đã làm[4] Mẹ Maria là mẫu gương không chỉ nhắc nhở ta sống đúng ơn gọi mà còn gợi lên trong lòng ta lòng trông cậy vào tình thương của Chúa.

Mẹ đã được Thiên Chúa ban những ơn trọng đại, nhưng bên cạnh đó cũng không thiếu những khó khăn thử thách, dầu vậy Mẹ vẫn để cho Thiên Chúa hành động trên con người của Mẹ. Bước theo gương Mẹ chúng ta vững tin vào tình thương của Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Như  thánh Phaolô coi mọi sự là thua thiệt trước mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Chúa của tôi(x. Pl 3,8). Được như thế, cuộc đời đan sĩ sẽ hữu ích cho chính mình và cho những người khác.

       2.ĐÁP LỜI “XIN VÂNG” NHƯ MẸ

Nhờ lòng tin mãnh liệt, Đức Maria đã đáp lời “Xin vâng” khi  nhận được lời Thiên sứ truyền tin, Mẹ cũng lo âu, bối rối vì một con đường mới vừa được đề nghị mở ra. Nhưng khi Sứ Thần mách bảo không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được. Mẹ đầy lòng tin tưởng và thuần phục theo thánh ý Thiên Chúa, với lòng tuyệt đối hoàn toàn tín thác. Chúng ta xét xem Mẹ hành động và phản ứng như thế nào qua các biến cố vui cũng như buồn. Mẹ đã thưa: “Này tôi là tôi tá Thiên Chúa, xin cứ xảy đến cho tôi như lời Thiên sứ báo tin”.[5] Qua lời xin vâng, Mẹ đã để cho kế hoạch Thiên Chúa được thực hiện. Lời xin vâng đó đã mang giá trị cứu độ đến cho toàn thể nhân loại, chính hồng ân cứu độ đã làm Mẹ vang lên lời ca chúc tụng quyền năng tình yêu của Thiên Chúa: “ Linh hồn tôi ngơi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong  Đấng  cứu chuộc tôi…”.

Suốt cuộc đời Mẹ dâng hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa , dù phải đón nhận biết bao nhiêu gian truân đau khổ. Mẹ vẫn một lòng trung tín và yêu mến, nhờ đó Mẹ sống một đức tin kiên vững, đức mến nồng nàn và lòng cậy trông vững vàng.

Khi suy  niệm biến cố truyền tin, chúng ta nghĩ tới ơn gọi của mình. Tiếng gọi của Chúa đánh dấu một khúc ngoặt. Chính tiếng gọi Chúa và kêu gọi (x. Ga 15,16) và mẹ đã đáp trả. Còn chúng ta thì sao? Sự mau mắn của Mẹ có giúp gì cho ta trong đời thánh hiến không? Mẹ đã đi theo Chúa trọn con đường cuộc sống cho tới khi kiên vữngg dưới chân thập giá, lặng thinh nhìn con chết, một cái chết đem lại mầm sống mới. “Hình ảnh Đức Maria dưới chân thập giá không nằm ngoài chương trình của Thiên Chúa[6] Mẹ luôn là mẫu gương cho các đan sĩ hôm nay về thái độ kiên vững trước thử thách đau khổ.

Vậy, chúng ta hãy bắt chước Mẹ để nói lên lời xin vâng trong cuộc sống của mình mỗi khi gặp khó khăn, thất bại với lòng tin cậy mến.

                 

       3.ĐI VÀO THINH LẶNG VỚI MẸ

Cuộc sống của mẹ là một chuỗi ngày thầm lặng, không phải thinh lặng trong nghèo nàn, cô quạnh, nhưng phong phú, tràn niềm vui tâm hồn. Mẹ luôn suy nghĩ về các biến cố trong cuộc sống. “Mẹ lắng nghe, giữ kỹ mọi điều và suy niệm trong lòng”.[7] Mẹ suy niệm để thi hành cho đúng ý của Thiên Chúa, đúng ý Con của Mẹ. Chúng ta học nơi Mẹ luôn sống thinh lặng và lắng nghe. Đó là thái độ của những người môn đệ bước theo Đức Kitô: thinh lặng và lắng nghe. Biết bao lần trong cuộc sống chúng ta đánh mất căn tính của đời đan tu, thích nói nhiều và nói những lời phù phiếm. Mẹ đã thinh lặng để đón nhận sứ điệp từ trời cao mà Thiên Chúa gởi cho Mẹ, đã thi hành một cách trọn vẹn. Đó là sự thinh lặng mà Cha Thánh Biển Đức đề cập trong Tu Luật. Nhờ sự thinh lặng chúng ta để cho Thiên Chúa hành động, nhờ thinh lặng lắng nghe được lời Chúa mời gọi, được lời Chúa cật vấn chúng ta về đời sống bác ái yêu thương với anh chị em, thinh lặng để lắng nghe và thi hành lời Chúa, để yêu thương, quan tâm và lắng nghe để ghi nhớ đem ra thực hành

 

       4.NOI GƯƠNG ĐỨC MARIA CHIÊM NGẮM CHÚA

Đức Maria luôn luôn sống trước sự hiện diện của Ngôi Lời Nhập Thể. Trong đời sống thánh hiến những khó khăn, những đau khổ sẽ được hoá giải khi chúng ta thật lòng sống gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu, “Đấng đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (x. Dt 5,8). Mẹ Maria đã nêu gương sống mật thiết với Chúa Giêsu. Từng ngày sống, năng đến với Mẹ, Mẹ sẽ dạy chúng ta phải sống thế nào với Chúa Giêsu. Thinh lặng và suy gẫm các biến cố trong cuộc sống để luôn luôn dâng lên Thiên Chúa lời tri ân cảm tạ; đó là cột mốc của đời sống. Chúng ta noi gương Mẹ không chỉ thưa Xin vâng một lần trong ngày khấn, nhưng là liên lỷ suốt trong hành trình thánh hiến, hành trình dài đầy cam go. Điều này mời gọi chúng ta luôn sống tỉnh thức, tin yêu và phó thác để cho Thiên Chúa hành động trên cuộc đời mình.Chính khi nhìn lên Chúa, chiêm ngưỡng dung nhan Ngài, chúng ta đọc được ý nghĩa các biến cố và tin tưởng bước tiếp hành trình.

 

        5. NOI GƯƠNG ĐỨC MARIA KHIÊM TỐN PHỤC VỤ

Trong gia đình Nazaret, Mẹ ân cần yêu mến phục vụ Thánh Giuse và Chúa Giêsu, làm mọi việc rất tầm thường của một người phụ nữ trong nhẹ nhàng, vui tươi.

Con người của Mẹ luôn quên mình để phục vụ người khác, niềm vui của Mẹ là niềm vui phục vụ chia sẻ và trao ban, khi được tin người chị họ mang thai trong lúc tuổi già. Sự vội vàng ra đi nói lên tấm lòng vị tha, yêu thương. Mẹ luôn có mặt để giúp đỡ để đem niềm vui và hạnh phúc đến cho người khác. Sự hiện diện một cách âm thầm nhưng thanh thản và lòng quảng đại của Mẹ giúp chúng ta vững tâm phục vụ người khác không biết mệt mỏi. Theo gương Đức Maria chúng ta cần vận dụng mọi khả năng, mọi sáng kiến để phục vụ nhau, biết thông cảm, yêu thương và chịu đựng những yếu đuối xác hồn của nhau[8]. Mẹ dạy chúng ta đến với Chúa Giêsu bằng con đường phục vụ với lòng mến. Chị Thánh Têrêxa có làm được gì lớn lao! Chị chỉ dâng những việc làm nhỏ bé cũng như các đau khổ của mình cho Thiên Chúa, chu toàn những việc tầm thường một cách phi thường. Chúng ta được mời gọi noi gương Mẹ chấp nhận hiến mình phục vụ chương  trình của Thiên Chúa bằng việc hiến dâng trọn vẹn bản thân, vì lòng yêu mến.

Mẹ đã nhiệt thành yêu mến và phục vụ tha nhân trong niềm vui;cũng vậy, mỗi đan sĩ luôn vui tươi phục vụ âm thầm trong công việc được giao với tâm hồn vui tươi quảng đại, làm việc nhỏ nhưng làm với tất cả lòng yêu mến. Cùng với Đức Maria bước theo Đức Kitô với tình yêu nồng nàn, phục vụ người khác qua cầu nguyện và hy sinh âm thầm.

 

       LỜI KẾT:

Trên đây là một vài cảm nghiệm, về hành trình theo Chúa Kitô với Đức Maria. Theo Chúa Kitô là một đòi hỏi quyết liệt và triệt để của cả đời người đan sĩ, đòi hỏi một sự bền chí và can đảm. Đây quả là một thách đố lớn mà họ  phải đối đầu. Chúng ta hãy noi gương sự thánh thiện của Mẹ và Me luôn là khích lệ và giúp chúng con trên hành trình thánh hiến. Mẹ dạy chúng ta sống trọn vẹn các nhân đức nền tảng Phúc Âm. Mẹ chuyên cần cầu nguyện, tin tưởng mềm mỏng đón nghe lời Chúa, vâng phục quảng đại khiêm nhu thẳm  sâu, chu đáo phục vụ, tương quan tế nhị, trinh khiết tuyệt vời. Những nhân đức của Mẹ sẽ trang điểm cho chúng ta khi biết noi gương bắt chước và đem ra thực hành trong đời sống hằng ngày. Xin Mẹ đồng hành và giúp chúng ta sống trọn thánh ý Chúa qua các bổn phận nhỏ bé thường ngày.

 

             

 


[1] (x. Mc 10, 21).

[2] (x. Ga 14, 6).

[3] (x. GH58, 63).

[4](x.LGH 30),

[5] (Lc 1,38).

[6] (x.Gh 58)

[7] (x.Lc 2,19).

[8] (Tl. c72).

NHỮNG NẺO ĐƯỜNG
MANG ĐẠO CHO ANH EM MÌNH
CHA BIỂN ĐỨC THUẬN
VÀ CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO.

 

FM.Duyên Thập Tự

 

Chúng ta đã từng nghe nói tại Âu Mỹ, “sống đạo” là việc cá nhân và thuộc lãnh vực riêng tư. “Đạo” không còn ảnh hưởng và gắn kết vào đời sống. Nó thuộc lãnh vực tâm linh và mỗi người lo lấy công việc đó. Chính vì thế, ý thức về Giáo Hội bị suy yếu rất nhiều và việc truyền giáo được giảm thiểu trong lãnh vực xã hội như thể việc thăng tiến con người về văn hoá và kinh tế là tất cả hoăc trên hết. Chiều hướng đó cũng đang tác động trong lối sống đạo của những người công giáo Việt Nam chúng ta. Rất nhiều người quan niệm rằng việc cứu rỗi linh hồn là chuyện riêng tư, chẳng có chút liên hệ đến người khác. Tôi chỉ có việc ăn ngay ở lành là đủ, là bảo đảm có tấm vé thông hành vào thiên đàng.

Một quan niệm như thế đánh mất rất nhiều nội dung và chính căn bản của Kitô giáo. Chúa Giêsu đã khẳng định Ngài là con đường (x. Ga 14,6), để qua Ngài Thiên Chúa đến với con người và con người đến với Thiên Chúa. Kitô giáo cũng được giới thiệu là con đường, là Đạo; và Giáo Hội có nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, để dẫn đưa mọi người vào “ một đoàn chiên và một mục tử duy nhất ” (x. Ga 10,16). Như vậy, sống đạo chính là mang đạo đến cho người khác, để họ cũng “được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2,4). Nhưng Thiên Chúa không cứu độ con người một cách riêng lẻ, nhưng với tính cách cộng đoàn, tập thể.

Trong bài viết thứ tư về cha Biển Đức Thuận, tôi muốn giới thiệu với độc giả vị Tổ Phụ của Hội Dòng Thánh Gia với khuôn mặt của một người “mang đạo cho anh em mình”. Cộng cuộc này ngài đã thực hiện trong suốt cuộc đời, nhưng với những “nẻo đường” khác nhau tuỳ theo định hướng của ơn gọi mà ngài dấn thân.

 

I. MỘT KHÁT VỌNG LỚN LAO CỦA VỊ THỪA SAI : LÀM NÊN NHỮNG CON NGƯỜI CÓ ĐẠO

Trong bài “Cha Biển Đức Thuận và Lời Chúa kêu gọi ra đi[1], tôi đã mời độc giả dõi theo hành trình của cha Biển Đức Thuận (lúc đó mang tên là Henri Denis) trong những năm tháng của thời huấn luyện tại Pháp. Ngài đã rời bỏ Đại chủng viện Arras (còn gọi là đại chủng viện thánh Thomas) để gia nhập Hội Thừa Sai Paris. Lý do của sự chuyển đổi ơn gọi này, chính ngài nói rõ trong lá thư gởi cho cha Giám đốc của Hội Thừa Sai : “Thưa Cha, lần đầu tiên là hồi cuối năm đê lục, con đã cảm thấy nỗi khát khao dâng hiến cuộc đời con để cứu rỗi những người chưa biết Chúa, đặc biệt là những người Trung Hoa đáng thương…”

 

 1. Một viễn ảnh suốt cả cuộc đời

Dâng hiến cuộc đời con để cứu rỗi những người chưa biết Chúa”  trở thành một đích nhắm duy nhất của cuộc đời Cha Biển Đức Thuận và châm ngôn độc nhất của sự hiện hữu của ngài. Điều đó cho phép chúng ta hiểu hơn một chút nữa tâm hồn và tình yêu của vị thừa sai tương lai dành cho những người chưa biết Chúa, những “người ngoại[2] sống trong những miền đất xa xôi.

Chúng ta không biết rõ những năm tháng huấn luyện tại Hội Thừa Sai Paris, vì ngài không để lại một bút tích gì cho phép chúng ta đi sâu vào thế giới thâm sâu của ngài. Nhưng nhờ những diễn tả được dùng trong lá thư trên, chúng ta có thể nhìn thấy mục đích của vị thừa sai trẻ Henri Denis nhắm tới trong suốt hành trình cuộc đời. Và một khi dấn thân trên mảnh đất truyền giáo, tất cả năng lực và nhiệt tâm của ngài được phát triển tối đa để hiện thực ước mong đưa những người chưa biết Chúa trở về với Đạo.

Thật vậy, trong các lá thư gởi song thân, cha diễn tả lòng ước muốn của mình là được đi rao giảng Tin Mừng hầu đưa “dân ngoại” trở về tin kính Chúa và tình yêu mến thiết tha ngài dành cho dân tộc Việt Nam. Ngài muốn làm điều tốt nhất cho dân tộc này, và thiện hảo tuyệt vời là nhận biết Chúa Kitô và Tin Mừng cứu độ của Người.

Nếu tất cả cuộc sống của cha Biển Đức Thuận xoay quanh trục là ơn cứu độ của người khác, vì ngài nhìn thấy mục đích duy nhất của cuộc sống không phải là ơn cứu độ của cá nhân mình, thì chúng ta có thể nói rằng ngài đã được tình yêu Chúa bắt chộp lấy, một tình yêu thúc bách ngài ra đi rao gỉang Tin Mừng.

Chính trong sự ý thức về sự khẩn cấp của công cuộc Phúc Am hoá mà cha đã cảm thấy bị xâu xé bao lâu chưa thực hiện được công cuộc này. Chúng ta đã thấy ngài như bị “giam tù” trong khuôn viên của Tiểu chủng viện An Ninh, trong khi bao người ngoại chưa được nghe rao giảng Tin Mừng.

Dầu chu toàn trách nhiệm đối với các chủng sinh, nhưng ý tưởng ra đi làm những người ngoại thành “người có đạo” không bao giờ rời bỏ ngài. Trong lá thư đề ngày 31 tháng 3 năm 1913, ngài nói lên sự giằng co của mình trước sự cấp bách của việc hoán cải các lương dân :

Kính thưa Đức Cha,

Thật ra con rất mạnh khoẻ, và con cảm thật nhục nhã về điều này! Khi con suy nghĩ về những người khác đang cực nhọc và làm việc, mà con, với tuổi 33, tràn đầy sức khoẻ, lại ung dung chiêm ngưỡng vẻ đẹp của văn chương và những tinh tế của môn tu từ! Nếu Đức Cha thấy việc con giúp đỡ những dự tòng là tốt, con sẽ vui lòng ngay…”

Những dòng chữ trên cho phép thấy  làm sao cuộc sống của cha Biển Đức Thuận luôn hướng về việc hoán cải những lương dân và trong mức độ nào ngài đam mê việc cứu độ những người chưa biết Chúa.

Sau đây chúng ta xét xem làm sao lòng nhiệt thành của ngài được cụ thể hoá trên mảnh đất truyền giáo.

 

 2.Như một mục tử tìm kiếm con chiên lạc

Cũng trong bài viết đăng trong Hạt Giống Chiêm Niệm số 2, tôi đã trình bày gương mặt của cha Denis Thuận khi ở giáo xứ Nước Mặn. Đó là một nhà truyền giáo lưu động, không muốn nhốt mình trong khuôn viên nhà xứ, nhưng ra đi gặp gỡ các kitô hữu hoặc các lương dân để đưa họ về lại đàn chiên của Chúa:

“[…] Con đã phải đi tìm kiếm họ tại tư gia hay tìm gặp họ trên đường lao động về.”[3]

Nhưng hình ảnh này không luôn dễ dàng được chấp nhận dưới mắt của các giáo hữu của ngài. Trong một lá thư ngài đã bộc lộ cho Đức Cha biết ý nghĩ của họ và quan điểm của ngài về cách hành xử của một vị thừa sai:

Dân Thọ sơn cương quyết không đi xưng tội. Con tính đến nhà thăm họ. Các chức việc tỏ ra không hài lòng vì con hạ mình đi kiếm con chiên như thế; họ không chấp nhận con đi đến thăm từng nhà. Thưa Đức Cha, Đức Cha nghĩ như thế nào? Nhờ những lần đi viếng thăm như thế, con đã lôi kéo ít nhất sáu hoặc bảy người vốn muốm bỏ đạo…Thật tình mà nói, nhiều người vẫn thích một ông cha sở oai phong lẫm liệt trên lưng ngựa hoặc cáng trên võng, hơn là một ông cha sở đi dép, che dù…[4]

Cũng trong lá thư này, cha Denis Thuận còn kể một vấn đề xảy ra ngay trong lòng giáo xứ, vấn đề liên quan đến việc ngài thay thế cha xứ cũ tên là Mirineau. Qua sự cố này, chúng ta khám phá thêm cách hành xử của ngài:

“[…] Khi họ tụ họp lại, con ngỏ lời với họ vài câu để họ hiểu rằng họ có thể yêu mến và kính trọng cha Morineau mà không cần phải ghét và sỉ nhục con, rằng nếu họ trách con không hành xử như ngài, không đánh đón và phạt nộp tiền, đó là vì con thấy điều đó ngày nay không còn thích hợp và rằng chính cha Morineau bây giờ cũng phải hành động khác như con đang hành động. Con cũng thêm rằng, và có thể là hơi quá, là chính Đức Cha đã truyền lệnh con hành động thư vậy. Con cũng đã nói với bốn người mà trước kia cha Morineau đã áp đặt uy quyền trên họ để vinh quang Thiên Chúa  hơn, nhưng đáng tiếc ngày nay uy quyền đó không còn gì cả; và nếu ngài còn ở đây, thì chính ngài cũng bắt buộc phải hành động khác đi.

Hành động khác đi”, đó là chọn lựa của cha Denis Thuận. Phải chăng ngài đã học nơi Thầy Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, đi tìm kiếm con chiên lạc? “Và khi tìm thấy nó, vui mừng vác nó trên vai…” (Lc 15,3-7).

Nếu sự hoán cải lương dân luôn là viễn ảnh và đích nhắm của suốt cuộc đời cha Biển Denis Thuận, thì sự hoán cải này phải bắt đầu từ chính cộng đoàn giáo xứ. Cách hành xử của chính vị thừa sai đóng góp một phần rất lớn vào việc gia nhập đạo của những người chưa biết Chúa. Nếu cha Denis Thuận quyết định hành động một cách khác, nghĩa là hành động như Chúa Kitô, chính là trong mục đích đưa những người xa lạc trở về một cách tự nguyện chứ không ép buộc.

Sự chọn lựa thái cử đó đi đôi với nhiệt tâm trong việc giáo huấn thiêng liêng trao ban cho những người xin được gia nhập đạo. Trách vụ này, dù rất mệt mỏi, nhưng cũng đem lại cho vị thừa sai của chúng ta niền hạnh phúc và niềm vui dạt dào.

 

 3. Niềm vui của vị thừa sai

Trách vụ đầu tiên mà vị thừa sai của chúng ta phải chu toàn, là gặp gỡ những người muốn gia nhập đạo. Trong một lá thư gởi cho vị tân giám mục Đức Cha Allys, cha Denis Thuận diễn tả niềm vui vì có nhiều người muốn gia nhập đạo và số này càng ngày càng tăng:

Hôm qua con đã nhận được hai người xin trở lại, làm thành con số 20 những người xin được dạy dỗ. Nếu con có thể giáo huấn và rửa tội ít nhất là 5 hay 6 người, thì con cũng rất vui mừng.[5]

Để giúp những người ngoài Kitô giáo, vị thừa sai của chúng ta đã dùng những phương pháp đã từng được sử dụng qua bao đời các vị thừa sai, đó là việc giúp đỡ vật chất. Phần đông những cư dân sống trong các giáo họ đó và các vùng phụ cận rất nghèo khổ. Họ thiếu thốn mọi thứ. Vì nghèo khổ, họ mang đủ thứ bệnh tật; và vì thiếu thuốc men, nên bệnh tật của họ ngày càng trầm trọng. Trong khi thi hành tác vụ rao giảng Lời Chuá, cha Denis Thuận không quên những hoàn cảnh thương tâm của những người mà ngài sát cách hằng ngày. Trong các thư của ngài, chúng ta khám phá sự thương cảm và lòng quảng đại đối với những người nghèo: cho họ có cái gì để ăn, chữa lành các bệnh tật, giúp con cái họ được đi học, v.v.

Để giúp các người mới gia nhập đạo kiên vững trong đức tin và gây sự chú ý của các người ngoài Kitô giáo, cha Denis Thuận lợi dụng các dịp lễ đạo như Giáng Sinh, để tổ chức những cuộc gặp gỡ trong đó mọi người được mời dùng bữa, các thanh niên nam nữ đàn hát luân phiên.

Vào dịp một cuộc viếng thăm mục vụ đầu tiên của Đức Cha Allys tại giáo xứ nước Mặn và trao ban bí tích Thêm Sức, cha Denis Thuận đề nghị với Đức Cha một cuộc tiếp đón độc đáo để các Kitô hữu và những người ngoài Kitô giáo được lôi kéo bởi sự hiện diện của một chức sắc cao nhất của giáo phận Huế.

Con muốn tiếp đón Đức Cha một cách tốt đẹp, nhưng con lại chẳng có gì cả. Giáo xứ Phủ Cam có thể cho chúng con mượn một vài thứ của cải của họ (cờ, quạt, v.v.) Chúng con phải cẩn thận để không làm hư hại. Nếu Đức Cha xét là cần thiết, thì chính con sẽ thân hành lo việc đó. Đương nhiên là sẽ không sáo, không kèn, chỉ có một cái trống nhỏ.”[6]

Xuyên qua những hoạt động đó, chúng ta biết rằng nỗi lo lắng duy nhất của cha Denis Thuận là đưa nhiều người về với Chúa Kitô, đưa họ gia nhập Đạo và sống trong trong Giáo Hội. Niềm vui của vị thừa sai, đó là niềm vui của người có thể làm một cái gì tốt nhất cho người khác, và cái tốt nhất đó chính là đức tin vào Tin Mừng của Chúa.

Nhiệm vụ thứ hai của cha Denis Thuận, đó là dạy giáo lý, không những cho người lớn mà còn cho trẻ em. Đó là một nhiệm vụ nặng nhọc và đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn. Dầu vậy, công việc này cũng mang lại cho ngài nhiều an ủi và niền vui. Trong thư gởi song thân, ngài đã kể chuyện về lớp giáo lý của ngài và diễn tả niềm vui sướng hạnh phúc[7].

Qua các dòng chữ ngài viết, chúng ta có thể tưởng tượng rằng niềm vui của cha Denis Thuận lớn đến nỗi ngài dành mọi thời giờ và sức lực cho việc hoán cải những người ngoài Kitô giáo. Nhưng niềm vui cũng cận kề nỗi buồn, thành công thường tiếp theo những thất bại. Nhiệt tâm của vị thừa sai của chúng ta trong trách vụ đưa Đạo cho người cũng gặp phải những bức tường của sự thiếu hiểu biết và cả sự thiếu kinh nghiệm.

 

 4.Những thất bại : trường học đức tin

Chúng ta đã đề cập trên kia vấn đề đặt ra cho cha Denis Thuận là việc ngài được bài sai thay thế cha xứ cũ tại Nước Mặn. Các giáo hữu, đã từ lâu quen với nững phương pháp đã sử dụng, khó lòng chấp nhận phương pháp mới rao giảng Tin Mừng. Vấn đề này gây cho cha Denis Thuận những tình cảm khác nhau. Một đàng, ngài tuân phục quyết định của Đức Cha bằng cách hoàn toàn tín thác vao Chúa; mặt khác, nói một cách nhân loại, ngài trải qua những lúc tăm tối, chán nản và đau khổ. Chúng ta hãy nghe những lời tâm sự được diễn tả trong các lá thư của ngài.

Kính thưa Đức Cha,

Con dám thưa với Đức Cha rằng tờ “ái mộ” đó không gây cho con một giao động nào, và nếu Đức Cha chấp nhận lời cầu xin của họ, con sẽ bằng lòng đi nơi khác, bất cứ nơi nào…[8]

Dầu vậy, cũng trong lá thư này, ngài nói lên tâm trạng của mình:

Ở Tiểu chủng viện, con cảm thấy công việc dồn dập và gấp gáp bao nhiêu, thì ở đây con lại thấy mình rảnh rỗi bấy nhiêu và không có gì để làm. Con nghiên cứu thần học, trò chuyện với nhiều người, đọc sách, xem xét những nét chữ Hán, dù vậy ngày qua ngày cứ dài vô tận.”

Tình cảnh trở nên cực kỳ khó khăn đến nỗi một ngày kia ngài bị nhục mạ một cách công khai:

Cuối cùng, hoan hô Chúa! Đó là lần đầu tiên con bị nhục mạ một cách công khai. Con trấn an Đức Cha rằng con không có buồn về việc đó.”

Đối diện với hoàn cảnh mới này, vị thừa sai của chúng ta không biết làm gì và hành động ra sao.

Con chỉ là người tập sự… và con luôn sợ sẽ làm một vài điều dại dột…[9]

Chúng ta thấy bằng cách nào cha Denis Thuận đã trải qua 5 năm hoạt động để mang người ta về vời Đạo. Ngài đã học được nhiều điều trên mảnh đất truyền giáo. Những bài học đó theo suốt cuộc đời ngài, để ngài nhận ra rằng việc kêu gọi người ta gia nhập Đạo không phải là kết quả của những nỗ lực con người, mà là ân huệ của Thiên Chúa.

 

 5. Công trình của Thiên Chúa

Đối diện với những tình cảnh mới mà chúng ta cố gắng phác hoạ ở trên, vị thừa sai của chúng ta, trong mọi lúc, đã luôn phó thách những hoạt động của mình cho Thiên Chúa, vì ngài ý thức rằng mình sẽ không làm gì được nếu không có sự trợ lực của Chúa. Trong những lá thư đầu tiên viết cho Đức Cha Allys trong thời gian vừa về Nước Mặn, khi báo cáo những hoàn cảnh éo le và buồn thảm. Cha Denis Thuận kết luận:

Kính thưa Đức Cha,

Trong khi hoạt động, con chỉ mong chờ sự trợ giúp từ Thiên Chúa nhân lành. Con thấy rõ ràng rằng không bao giờ con có khả năng đưa một tâm hồn trở lại Đạo, vì thế, con xin Đức Cha cầu nguyện nhiều cho con…[10]

Với tư cách là cộng tác viên của Thiên Chúa trong công cuộc hoán cải lương dân theo Đạo, cha Denis Thuận vận dụng mọi khả năng tinh thần, vật chất để hiện thực mong ước của mình. Vì biết rằng việc gia nhập Đạo là một ơn Thiên Chúa, nên ngài không thụ động, trái lại, ngài làm những gì tốt nhất.

Mặc dầu có những sai sót, nhưng ngài đã làm cho nhiều người gia nhập đạo và sống Đạo ngày càng tốt đẹp hơn.

Chúng ta đã nhìn ngắm cha Denis Thuận, trong suốt 5 năm tại Nước Mặn, như một vị thừa sai học nghề. Thật vậy, trong suốt thời gian đó, ngài đã học biết bao điều xuyên qua việc tiếp xúc với người Việt Nam có Đạo cũng như ngoài Đạo. Sống theo nhịp của sự luân phiên giữa niềm hạnh phúc khi đưa người vào Đạo và sự cô đơn cá nhân, cha Denis Thuận đã lớn lên một cách thiêng liêng. Nhiệt tâm thôi thì không đủ, thiện chí thôi cũng không đủ; nhưng phải có một tinh thần thực tế để bắt tay vào công việc quan trọng là Đưa người vào Đạo. Chính những kinh nghiệm tích luỹ trong suốt 15 năm với tư cách là một thừa sai đã giúp cha Denis Thuận tìm ra những nẻo đường khác, mà đối với ngài, có thể là kiến hiệu hơn để đưa người chưa biết Đạo được gia nhập Đạo.

 

II. CÁC ĐAN SĨ, “NHỮNG TÁC NHÂN” CỦA VIỆC LÀM NÊN NHỮNG CON NGƯỜI CÓ ĐẠO

Như chúng ta nói trên kia, việc đưa những người ngoài Kitô giáo gia nhập Đạo là đích nhắm của suốt cuộc đời cha Biển Đức Thuận. Dầu vậy, sau bao nhiêu năm tháng miệt mài với công cuộc truyền giáo, ngài thấy rằng việc tông đồ bằng những hoạt động bên ngoài không mang lại nhiều kết quả, và cả chiều sâu của đời sống Kitô, nên  đã tìm những nẻo đường khác mà ngài tìm gặp ngay trong đời sống đan tu. Ngài vẫn giữ lòng nhiệt thành hoán cải những người chưa biết Chúa, nhưng đã thay đổi vị thế : từ một tiền phong nay trở thành hậu phương.

Sự chuyển đổi vị trí này kéo theo một cách hành động khác, và triệt để hơn, một cách nhìn vấn đề theo chiều hướng khác.

 

 1. Đan sĩ: cộng tác viên của Thiên Chúa

Chúng ta có thể nhận xét rằng tất cả những gì cấu thành đan viện Đức Bà Việt Nam (Phước Sơn) phản ảnh một phần rất lớn não trạng của Đấng Sáng Lập. Thật vậy, những xác tín, những kinh nghiệm, cha Biển Đức Thuận đã diễn dịch chúng trong các tài liệu chính thức, trong việc tổ chức cuộc sống đan tu. Chúng ta đoc thấy trong bản Hiến Pháp do ngài biên soạn:

“Phần thứ nhất : về mục đích của Dòng chúng ta:

Mục đích riêng của Dòng chúng ta là:

– Cung cấp cho các linh hồn được Chúa mời gọi nên trọn lành trong nếp sống tu trì này những thuận lợi của đời sống chiêm niệm và sám hối;

– Làm thành một Tu Hội các đan sĩ chuyên lo việc cứu giúp các người chưa nhận biết Chúa, bằng sự cầu nguyện và hãm mình.

Trong tập “Tóm Lược về Dòng Đức Bà Việt Nam[11], cha Biển Đức Thuận diễn tả cũng một ý tưởng:

Mục đích của chúng tôi :

-Hướng tới sự hoàn thiện qua việc thực thi các lời khấn phúc âm;

-Qua cầu nguyện và hãm mình, vì phần rỗi các lương dân.”

Để thực hiện dự án này, cha Biển Đức Thuận tổ chức đan viện xoay quanh hai mục đích trên, như ngài đã diễn đạt trong lá thư đề ngày 1 tháng 8 năm 1924 gởi cho cha Radelet để trả lời việc ngài ưng thuận nhận một số ứng sinh do vị thừa sai trên giới thiệu; ngài nhấn mạnh đến mục đích của đan viện là cứu rỗi các linh hồn qua việc cầu nguyện và hy sinh của mọi đan sĩ[12]. Chính ngài cũng đã trước tác một kinh nguyện cầu cho lương dân Việt Nam trở lại.

Nỗi khao khát bỏng cháy muốn cứu các linh hồn, cha Biển Đức Thuận quảng diễn cho các môn sinh; ngài cho họ biết đâu là vai trò họ giữ trong công cuộc này. Chúng ta nghe lại lời giáo huấn của ngài:

Thường Chúa để phần rỗi các linh hồn trong tay người ta. Đó là mầu nhiệm cũng là vinh hạnh cho chúng ta. Vì xem người muốn dùng chúng ta mà làm việc cho Người… Vậy, chúng ta hễ gặp sự gì trái ý cực lòng hay sự khốn khó nào, hãy dâng cho Chúa để cứu các linh hồn. Như vậy trong nhà dòng mới vui; và khi gặp sự khó mới dễ chịu, vì được dịp tỏ lòng mến Chúa, cứu các linh hồn cho Chúa. Xin Chúa cho chúng ta được như vậy![13]

Như vậy, sau nhiều năm truyền giáo bằng lời nói và công việc, cuối cùng cha Biển Đức Thuận tìm ra một con đường, một ơn gọi: đời sống đan tu. Luôn là cộng tác viên của Thiên Chúa để đưa những người chưa biết Chúa được biết Đạo, ngài cảm thấy một sự cần thiết của cuộc sống thánh thiện sẽ lôi cuốn những người đó về với Chúa:

Chúng ta đã biết, làm một thầy dòng thật, nên một thầy dòng thánh không phải dễ đâu. Thật là một điều rất khó, nhưng chúng ta phải khởi công ra sức chịu khó tập tành, chăm chỉ cầu nguyện, thì thế nào cũng được. Một thầy dòng contemplativi, hãm mình, trở thành một thầy dòng thánh, thì làm ích cho Hội Thánh, và rạng danh cho dòng mình… Cả ngày thầy chỉ tìm cách đẹp lòng Chúa, hằng kết hiệp với Chúa, an ủi Chúa và lo đến phần rỗi kẻ khác. Thầy hằng lo giữ như vậy, xem ra đến nỗi chỉ một mình Chúa với một mình thầy ở thế gian này vậy, “solus cum solo”. Ấy là thầy dòng nhất hảo. Hội Thánh ước ao về chúng ta như vậy. Sự ấy rất phải, vì sẽ làm ích cả thể cho Hội Thánh cách kín nhiệm. Ấy là chính việc của chúng ta, nên chúng ta phải lo cho được như vậy, là lo kết hiệp với Chúa, kính mến Chúa, và lo cho thêm số những người kính mến Chúa.”[14]

 

 2. Sự quang toả thiêng liêng

Cha Biển Đức Thuận, một khi đã ra đi để sống đời đan tu, vẫn mang trong mình ước mong nhiều người gia nhập Đạo. Nhưng, câu hỏi được đặt ra là: nếu cuộc sống của ngài chia làm hai giai đoạn, giai đoạn thừa sai và giai đoạn đan sĩ, thì đương nhiên có cái trước và cái sau – dù rằng cả hai đều có mẫu số chung là hoán cải lương dân – có chăng nơi ngài có một sự chuyển dịch về hướng nhìn, cách hành động và một sự “trở lại” sâu xa?

Điều liên quan đến việc hoán cải lương dân, cha Denis Thuận, như các thừa sai thời đó, có cái nhìn bi quan về thế giới ngoại đạo: đó là những người khốn khổ, những người thiếu thốn về mặt thiêng liêng, những người thờ lạy ngẫu tượng; vì thế, họ cần ơn cứu độ mà Chúa Kitô mang đến.

Phúc âm hoá trở thành một sự khẩn cấp đối với các vị và không cho phép các ngài nghỉ ngơi: làm việc cật lực, sử dụng tối đa mọi nguồn lực tinh thần, vật chất. Nhưng kinh nghiệm cho cha Denis Thuận biết rằng việc hoán cải lương dân gia nhập Đạo không phải là việc dễ dàng và rằng việc tăng thêm số Kitô hữu không có một nền tảng vững chắc là một chuyện nghiêm túc.

Những vấn nạn trên, có thể cha đã đặt ra cho chính mình , đã tạo nên trong ngài một sự biến chuyển lớn nào đó. Nếu ngài lập một đan viện, chính vì thiện hảo cho người Việt Nam. Điều đó có nghĩa là nơi dân tộc này, vấn đề gia nhập Đạo phải đi xa hơn.

Số lượng những người gia nhập Đạo không còn là ưu tiên số một, nhưng là chất lượng của đời sống Kitô hữu. Điều đó được hình thành nơi cha Biển Đức Thuận vào những năm sau đó, và được diễn tả trong giáo huấn cho các đan sĩ của mình:

Chúng ta hãy cứ đức tin, theo Phúc Am mà sống, bằng không thì nhà Dòng ra hư, không đáng chi… Cha cũng mong cho đông số anh em, nhưng có đông số thầy dòng mà chẳng ra gì, thà ít mà thật là thầy dòng thì tốt hơn… Vậy chúng ta hãy xét lại và có điều chi không hợp với Phúc Am, thì lo xa lánh…[15]

Chúng ta có thể nói được chăng là khi thành lập một đan viện trong mục đích cộng tác với Giáo Hội trong việc hoán cải lương dân, cha Biển Đức Thuận đã xác tín rằng sự hoán cải đích thực phải dẫn đưa tới một cuộc sống phù hợp với Tin Mừng?

Khi thay đổi cách sống – từ thừa sai đến đan sĩ – cha Biển Đức Thuận minh chứng rằng, đối với ngài, sự hoán cải lương dân luôn là một công việc khẩn trương và đáng khích lệ, nhưng với điều kiện là sự hoán cải đó phải có một sự tiếp tục tốt đẹp. Và muốn được như thế, đan viện phải là nơi có sự quang toả thiêng liêng.

Sự quang toả đó, trước hết là sự quang toả của cầu nguyện. Đã nhiều lần chúng ta nói đến cầu nguyện và hãm mình như là hoạt-đồng-chìa-khoá đối với các đan sĩ để hoán cải lương dân.

Tiếp đến, là sự chọn lựa những lối sống, mà theo nhãn quan cha Biển Đức Thuận, cho phép việc gia nhập Đạo của những người Việt Nam được dễ dàng hơn. Lối sống đó phải thấm nhuần nghèo khó và giản đơn, tràn đầy bình an và niềm vui, khổ chế và hy sinh, linh động bởi tình bác ái đậm đà.

Liên quan đến sự nghèo khó và giản đơn, cha Biển Đức Thuận thấy nơi đó như là một chứng từ sống động và hữu hiệu đối với những người Việt Nam ngoài Kitô giáo. Sự nghèo khó và giản đơn được diễn tả trong mọi khía cạnh của đời sống: lương thực, y phục, cơ sở vật chất, phụng vụ (không trang hoàng cầu kỳ), v.v.

Tai sao ngài lại có những chọn lựa như vậy? Trong lá thư đề ngày 31 tháng 1 năm 1912 gởi Đức Cha Allys, cha Denis Thuận – khi còn ở Nước Mặn – đã trình với Đức Cha dự án thành lập một cộng đoàn đan tu với một nét nổi bật: nghèo khó.

Lý tưởng mà con mơ ước là được làm tu sĩ tông đồ tại An-Nam, nơi đó, Thiên Chúa cần được một số người nhận biết, yêu mến và phụng sự. Họ có nhiệm vụ làm cho mọi Kitô hữu nhận thức rằng lý tưởng của Tin Mừng không phải là một “chuyện đời xưa”, nhưng còn được hiện thực và hiện thực hôm nay cũng như thời xưa.

Con hết lòng ước ao các thầy Dòng Trappe đến, nhưng thành thật mà nói, con sợ họ dấu kín sức mạnh của lời cầu nguyện và việc hy sinh sau những ngôi nhà tráng lệ. Đó là một đại hoạ – một cản trở lớn cho việc tập đức. Nhưng rất tiếc là mấy ai nhận ra, và thay vì nêu gương cho mọi Kitô hữu, họ chỉ được ca ngợi bởi một số ít, tức là bởi những ai có thể thâm nhập vào trong đan viện, để xuyên qua sự giầu có của đan viện nhìn thấy một cái gì khác.

Vậy, thân lạy Đức Cha, xin ban phép cho con được sống nghèo ngay cả bề ngoài nữa, con xin hứa với Đức Cha là chúng con sẽ ở sạch sẽ.

Tất cả đều rõ ràng. Cha Biển Đức Thuận muốn rằng cuộc sống của các đan sĩ là một gương sống đối với toàn thể dân Kitô, và còn hơn nữa, cho tất cả những lương dân Việt Nam. Nếu ngài nói đến “đại hoạ” và sự kiện “mấy ai nhận ra”, đó là vì ngài đã biết qua kinh nghiệm. Dưới mắt người ngoại, các trung tâm truyền giáo là nơi đầy ắp của cải và quyền lực. Và việc hoán cải dùng đến phương thế tiền bạc cũng đã gây nên nhiều vấn đề. Trái lại, một đan viện nghèo chứng tá cho sự nhưng không của một sự hoán cải và sức mạnh của ân sủng Thiên Chúa.

Sự nghèo khó và giản đơn, được sống như vậy, chỉ trở thành chứng tá nếu chúng đi theo tinh thần chia sẻ và thấm nhuần niềm vui và bình an. Đó là điều Cha Biển Đức Thuận muốn cho các đan sĩ của mình.

Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng những người Việt Nam ngoài Kitô giáo rất nhạy cảm về những vấn đề đó. Phải chăng, khi thành lập một đan viện như thế, cha Biển Đức Thuận nghĩ đến chuyện tạo nên một hình ảnh sống động của đan sĩ, và qua đó, hình ảnh của chính Kitô giáo?

Trong khi chọn sự nghèo khó như là một lối sống và như là một chứng tá cho Kitô giáo, cha Biển Đức Thuận thay đổi một cách tận căn cách thức để cảm hoá những Kitô hữu và lương dân. Khi chia sẻ với người nghèo, cha Biển Đức Thuận làm nổi bật đức ái Kitô giáo. Bằng sự quang toả niềm vui và bình an ngay trong cảnh sống khắc khổ, cha Biển Đức Thuận tỏ lộ cho thấy cái sâu xa của đời đan tu. Bằng cầu nguyện và hãm mình, cha Biển Đức Thuận cộng tác với Thiên Chúa trong việc thánh hoá trần gian.

Nói khác đi, nếu muốn là tác nhân của việc hoán cải lương dân, đan sĩ phải sống một cách trung thực Đạo của mình. Khi thành lập một đan viện hoàn toàn Việt Nam, cha Biển Đức Thuận có nghĩ rằng những đan sĩ Việt Nam thực hiện một cách dễ dàng hơn sự giúp đỡ đồng bào mình gia nhập Đạo.

 

THAY LỜI KẾT

Dù rằng các đan sĩ sống trong khuôn viên đan viện, giữ vai trò hậu phương – như cha Biển Đức Thuận đã minh định – điều đó không cản trở họ sống thông hiệp với Giáo Hội trong nhiệm vụ Phúc Âm hoá. Trái lại, họ thực hiện sự đồng cảm một cách sâu xa. Thật vậy, khi kết hiệp với Thiên Chúa, đan sĩ cũng phục vụ Giáo Hội. Họ chu toàn mọi hoạt động nhân danh Giáo Hội. Nếu đan sĩ chấp nhận trách vụ tông đồ này, chính là vì tình yêu của Chúa Kitô và của Giáo Hội thúc bách. Nếu có sự phong nhiêu của việc tông đồ do đan sĩ thực hiện, chính là vì sự phong nhiêu này xuất phát từ hai tình yêu trên.

Nếu cha Biển Đức Thuận, khi thay đổi nếp sống – từ thừa sai đến đan sĩ – không muốn trút bỏ công cuộc tông đồ này, trái lại, ngài tiếp tục là một tông đồ, một cách khác không kém phần kiến hiệu. Đan sĩ càng kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa, thông hiệp càng mãnh liệt với Giáo Hội, thì lại càng khám phá ra những thiếu thốn nơi Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô.

Cha Biển Đức Thuận không còn chạy đôn chạy đáo, ngược xuôi, để kéo những người chưa biết Chúa vào Đạo, nhưng, khi cư trú trong đan viện, chìm sâu vào cõi thinh lặng sâu thẳm chất chứa sự hiện diện và tình yêu Thiên Chúa, thì lòng nhiệt tâm tông đồ của ngài lại mang đến nhiều hoa trái mà chỉ một mình Thiên Chúa biết được.

 

 

 

 


[1] Xem “Hương vị Lời Chúa”, Hạt Giống Chiêm Niệm, số 2, tr.70-89.

[2] Chúng tôi dùng lại những từ ngữ và những kiểu nói thịnh hành trong thời của cha Biển Đức Thuận, như “người ngoại”, “dân ngoại”, “lương dân”, v.v. Không có ý khinh miệt hay coi thường những anh chị em chưa biết Chúa, nhưng chỉ muốn đưa những kiểu nói đó trở về chính bối cảnh lịch sử.

[3] Thư gởi Đức Cha Allys ngày 28 tháng 3 năm 1908.

[4] Thư đề ngày 20 tháng 4 năm 1908.

[5] Thư đề ngày 6 tháng 5 năm 1908.

[6] Thư đề ngày 8 tháng 4 năm 1909.

[7] x. Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, Hạnh Tích Cha Biển Đức Thuận, tr. 52.

[8] Thư đề ngày 23 tháng 4 năm 1908.

[9] Thư đề ngày 5 tháng 4 năm 1908.

[10] Thư đề ngày 16 tháng 2 năm 1908.

[11] “Notice sur Notre Dame d’Annam”.

[12] x. Hạnh Tích Cha Biển Đưc Thuận, tr. 195.

[13] Di Ngôn, “Cứu các linh hồn”, tr. 150-151.

[14] Di Ngôn, “Nên thầy dòng thánh”, tr. 171-173.

[15] Di Ngôn, “Khi nào gọi là nhà dòng hư?”, tr. 186-188.

GIỮ ĐẠO HAY SỐNG ĐẠO

FM.Simon

Con người được sinh ra trên địa cầu này, ai cũng có hai chiều kích của đời sống: thể lý và tinh thần (tâm linh). Để sống được con người không chỉ cần có thức ăn, nước uống, không khí…. Mà còn cần đến một loại lương thực khác để nuôi sống tinh thần. Chất bổ dưỡng đó chính là Đạo. Đạo là nhu cầu cần thiết cho đời sống tinh thần của một kiếp người. Giờ đây chúng ta tìm hiểu đề tài Giữ đạo hay sống đạo để làm phong phú cho đời sống tinh thần của con người chúng ta.

 

          I.GIỮ ĐẠO

 

1.Giữ đạo là giữ luật của đạo:

Bất cứ một quốc gia hay một tổ chức nào cũng đều phải có luật lệ cho mọi phần tử trong cộng đồng đó để giữ gìn trật tự và phát triển. Trong quân đội, người ta áp dụng một thứ luật “sắt” rất khắt khe, ai không tuân thủ thì ngay lập tức bị phạt không khoan nhượng. Trong trường học thì có nội qui, ra đường phố thì có luật đi đường, biển báo để người lưu thông tuân hành. Đường thủy, đường hàng không…. đều phải có luật lệ. Vậy các tôn giáo thì sao?

Vì là một tổ chức,bất cứ tôn giáo nào cũng có những luật lệ cho  riêng. Đạo Do-thái,xây dựng trên luật  Môisê và các tiên tri. Người Do Thái rất trân trọng thập điều. Họ đã làm một cái hòm rất sang trọng để đựng tấm bia đá đó, gọi là hòm Giao Ước. Họ đặt hòm bia Giao Ước vào nơi trang trọng nhất trong Đền Thờ Giêrusalem, họ xem Hòm Bia và 10 điều răn đó là nơi có Yavê hiện diện. Đạo Công giáo của chúng ta cũng tuân theo 10 điều răn đó. Để nói phổ quát, những ai giữ luật của Đạo là những người giữ đạo.

Để giữ đạo tốt theo từng dấu chấm, phẩy của luật thì chúng ta có thể bàn thêm một khía cạnh của vấn đề là giữ đạo thiên về hình thức.

 

2.Giữ đạo của những người vụ hình thức.

Một người giữ đạo chỉ dựa theo luật, tuân thủ mọi tiểu tiết, cảm thấy bang khoăn khi không chu toàn một chi tiết nhỏ nhặt, họ là những người sống và hành động theo chữ đỏ. Họ tự hào khi đã giữ luật cách trọn vẹn. hãnh diện vì những công lao giữ luật của mình, từ đó đi đến chỗ kiêu ngạo. Chỉ giữ luật với cái vỏ bề ngoài. Họ giữ luật vì chỉ để được lấy tiếng khen, được người đời ca tụng. Nhiều lúc họ hy sinh vất vả, dâng cúng vào đền thờ hay làm việc bác ái chỉ để được tiếng khen chứ không vì lòng mến. Điều này trong Kinh Thánh, Chúa Giêsu đã gán cho những kinh sư Do-thái là những kẻ giả hình (x. Mt 23, 1-7).

 

3.Giữ đạo vì lòng mến đạo.

Giữ luật vì lòng mến đạo. Đây là mẫu người lý tưởng. Họ giữ luật không phải vì luật, không tìm tiếng khen, họ không sợ tiếng chê, nhưng chỉ sợ mất lòng Chúa hay Đấng sáng lập nên đạo của mình.

Người có lòng mến đạo thật thì giữ đạo một cách thoải mái, không lo lắng thái quá. Nếu lỡ họ lỗi luật thì với sự khiêm nhường, họ thú nhận lầm lỗi, vì biết rằng sức riêng con người là mỏng dòn, chỉ có Chúa là Đấng Toàn Năng. Vì vậy người giữ đạo vì lòng mến luôn luôn có được một tâm hồn bình an.

 

               II.SỐNG ĐẠO

 

1.Sống theo tinh thần của đạo.

Ngày xưa Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samari rằng: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết, còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4, 22-23).

Sống đạo là thờ phượng Chúa trong Thần Khí và Sự Thật. Nhờ Thần Khí của Chúa hướng dẫn , họ giữ đạo để đạt tới chân lý vẹn toàn. Họ không câu nệ vào luật pháp một cách cứng nhắc, nhưng uyển chuyển để cho Thần Khí Chúa thúc đẩy và dẫn đưa họ trong việc thờ phượng, trong đời sống đạo. Sống đạo cũng là người làm đẹp lòng Chúa, vui lòng người ta. Như Đức Giêsu “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và được Thiên Chúa và nhiều người thương mến” (Lc 2, 52).

Để làm đẹp lòng Chúa, vui lòng người ta như Chúa Giêsu không phải là đơn giản, họ phải có tấm lòng đơn thành, loại bỏ thói giả hình mà Chúa Giêsu thường lên án các biệt phái Do-thái ngày xưa (x. Mt 23, 1-7)

 

2.Phải chăng sống đạo là không cần hình thức?

Nếu nói rằng sống đạo là không cần hình thức bên ngoài cũng có thể đúng, và sống đạo cần có hình thức bên ngoài thì cũng không sai. Khi người ta thấy một người giữ luật chưa trọn hảo, theo chủ quan người ta nhận định người đó sống đạo không tốt. Đó chỉ mới nhận định được phía bên ngoài, nhưng trong lương tâm người đó thì có Chúa mới thấu tỏ mà thôi. Bởi vậy mới có một Matthêu thu thuế, một Madalêna, một Phao lô….Đó là những nhân chứng điển hình. Khi người ta thấy một người giữ luật đạo trọn hảo, người ta nhận định đó là người đạo đức, thì đó cũng chỉ đúng theo nghĩa chủ quan mà thôi.

Cũng vậy, trong lương tâm họ đích thực làm sao thì chỉ có Chúa mới biết được. Ngày xưa ai giữ luật trọn hảo bằng những người Biệt phái Do-thái. Vậy mà Chúa Giêsu lại liệt họ vào những kẻ giả hình.

Vậy để nhận định đúng một người sống đạo tốt thì thật là khó cho con người chúng ta. Việc này chỉ có Thiên Chúa mới có quyền đánh giá, thẩm định chính xác và đúng mức.

 

3.Đạo tại tâm

Có một số người chủ trương rằng: tôi sống đạo tại tâm, không cần phải giữ luật xem lễ ngày Chúa nhật.v.v… Tôi giữ đạo theo luật bác ái, giúp đỡ người nghèo… như vậy là đủ rồi, không cần phải kinh lễ rườm rà, hình thức. Nói như vậy cũng đúng ở một khía cạnh nào đó nhưng chưa đủ.

Nếu so sánh với công thức: Sống đạo là làm đẹp lòng Chúa và làm vui lòng người ta thì việc sống đạo tại tâm là chưa đủ, còn thiếu một vế. Nếu chỉ làm việc bác ái mà không thờ phượng Chúa thì mới chỉ làm đẹp lòng người ta.

Muốn sống đạo trọn hảo thì không chỉ giữ đạo tại tâm mà còn phải thực hành đức thờ phượng là nghĩa vụ của một Kitô hữu đối với Thiên Chúa của mình, nghĩa là phải luôn biết và tìm cách làm đẹp lòng Người nữa. Đức bác ái luôn duy nhất  và có hai chiều kích: mến Chúa yêu người.

Tuy nhiên, có những luật trừ, ví dụ trong trường hợp các tín hữu đang bị bắt bớ hay chưa được tự do thi hành đức tin tại một số địa phương hay quốc gia. Tại những nơi đó, nhưng sinh hoạt tôn giáo bị giảm thiểu một cách tối đa, những diẽn tả đức tin bị hạn chế. Chính tâm hồn là nơi dựa duy nhất đối với họ. Dù không có những diễn tả bên ngoài, “tâm” vẫn là nơi quan trọng nhất của việc sống đạo.

 

III.MẪU GƯƠNG CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

 

1.Đức Kitô là mẫu gương tuyệt vời.

Sống đạo là làm đẹp lòng Chúa và làm vui lòng người ta”. Theo thiểu ý tôi, đây  là công thức, là định nghĩa hay nhất, trọn vẹn nhất và điều này Đức Kitô đã thực hành một cách trọn vẹn trong suốt cuộc đời tại thế của Ngài (x. Lc 2, 52).

Đức Kitô là mẫu gương cho mọi kitô hữu noi theo, Ngài giữ luật một cách trọn hảo và bình an. Khi Chúa Giêsu 30 tuổi, Ngài đi rao giảng Tin Mừng, có nhiều lúc Ngài lỗi luật ngày Sabat là chữa bệnh cho dân chúng theo Ngài, rồi không lên án người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, xóa bỏ luật mắt đền mắt, răng đền răng trong Cựu ước…

Chúa Giêsu đã không cứng nhắc trong việc giữ luật mà rất uyển chuyển. Ngài đặt luật bác ái, yêu thương, tha thứ lên trên hết. Ngài dạy chúng ta phải yêu thương đồng loại, từ chỗ yêu thương đồng loại đến chỗ nhận biết và yêu thương Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành và ngược lại.

 

2.Giữ đạo và sống đạo phải kết hợp.

Theo gương Thầy Chí Thánh là Đức Kitô, Ngài đã sống trọn vẹn cả hai vế giữ đạo và sống đạo. Vậy nếu chúng ta quá chú trọng về phần giữ luật là giữ đạo sẽ đi đến chỗ bóp nghẹt đức bác ái yêu thương. Còn nếu quá chú trọng về việc sống đạo mà không cần luật lệ thì sẽ đi đến chỗ muốn giữ đạo tại tâm và lấy đó làm đủ, trong khi còn thiếu nghĩa vụ thờ phượng Thiên Chúa thì cũng không được.

Như vậy theo những nhà tu đức học dạy về nhân đức: Nhân đức là gì? Nhân đức là Trung Dung, hay quân bình; nghĩa là không có cái gì thái quá hay bất cập. Đây cũng là kinh nghiệm từ ngàn xưa của các bậc thầy tu đức của chúng ta đã dạy như thế.

 

 

KẾT LUẬN:

Kính thưa quí độc giả, một hạt cát không thể làm nên sa mạc, một giọt nước không thể làm thành biển khơi, nhưng nó cũng là một thành phần của sa mạc và biển cả. Đề tài sống đạo hay giữ đạo tuy khác về ngôn ngữ nhưng có chung một nội dung. Sống đạo hay giữ đạo bên nào cũng có điều tích cực và tiêu cực. Một người kitô hữu đích thực phải bao gồm cả hai vế giữ đạo và sống đạo, phải quân bình, không được coi trọng phần giữ đạo mà thiếu sót phần sống đạo hay ngược lại.

Tóm lại, một người nhân đức thật là một người có đời sống trung dung, quân bình và uyển chuyển, không được “nhất bên trọng nhất bên khinh”, bất cập hay thái quá thì sẽ đi đến chỗ lệch lạc, mà phải theo gương Thầy Chí Thánh là Đức Kitô.

Trên đây là những chia sẻ rất khiêm tốn của cá nhân trong một đề tài rộng lớn. Đòi hỏi nhiều kinh nghiệm và công lao nghiên cứu của các bậc cha anh. Sẽ có rất nhiều thiếu sót, thậm chí có thể ngược lại với lập trường của độc giả, xin miễn tình tha thứ và chỉ giáo thêm. Dẫu sao thì mong ước của bản thân là muốn làm một hạt cát, một giọt nước của sa mạc và đại dương, hầu muốn làm phong phú cho đời sống tinh thần sống đức tin giữa lòng dân tộc của người kitô hữu và muốn hòa vào trong biển cả tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.

 

ĐẠO NHẬP THẾ

FM. Tiến Đạt

 

      NHẬP THẾ HAY NHẬP THỂ?

Nhập thể là làm người, mang lấy thân phận người, trong một xác thịt, với một linh hồn. Nhập thế là sống hòa mình vào cuộc sống, sống cùng, sống với, có sự liên đới với người khác. Người ta có thể nhập thể nhưng không nhập thế nghĩa là tự  tách mình ra khỏi thế giới đại đồng, tự cô lập mình, trong một thế giới riêng.

Trong thực tế thì không ai có thể tự sống như một con người mà không cần đến người nào khác trong đời: “Không ai là một hòn đảo”. Không có nhập thể làm sao có thể nhập thế. Để là một người đúng nghĩa cần phải  có cả hai yếu tố trên cách đầy đủ trọn vẹn.

Đạo nào cũng nhập thế là đến với con người nếu không làm sao ta biết được. “Đạo nhập thế”, ở đây muốn nói đến chủ đích mà đạo nhắm tới đó là “con đường” hướng dẫn giúp người ta đi vào đời, hòa nhập với đời, hoàn thiện đời, thăng hoa đời chứ không phải đề cập đến những tôn giáo với những cơ cấu.

 

      1. HAI ĐẠO NHẬP THẾ

Cách đây hơn hai ngàn năm thì Con Thiên Chúa đã nhập thể và nhập thế cách trọn vẹn: được sinh ra do một người phụ nữ, được nuôi nấng dưỡng dục, từng bước trưởng thành, có quê hương, có xứ sở và gia phả. Chúa Giêsu Kitô đã sống hòa nhập với mọi người như: cùng ăn cùng uống, cùng vui cùng buồn với đồng loại. Quả thế, tuy là Thiên Chúa làm người, Chúa Giêsu đã hoàn toàn trở nên một con người đến nỗi mọi người chỉ có thể nhận ra Ngài là ông thợ mộc thành Nazarét, con ông Giuse. Ngài đã là một người hoàn toàn như mọi người chỉ trừ tội lỗi. Đồng thời, Con Thiên Chúa cũng khởi sự cho công cuộc loan báo Tin Mừng cứu độ và đỉnh cao là cuộc khổ nạn chết trên thập giá và phục sinh.

Khi đã về trời Ngài không vội vàng kéo các môn đệ đi theo ngày mà bảo họ: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi lòai thọ tạo” (Mc 16, 15). Như vậy, dù đã cho các môn đệ được chứng kiến cuộc thăng thiên vinh hiển đến nơi hưởng hạnh phúc trường cửu, nhưng Ngài muốn cho họ tiếp tục trở về với đời, với một tấm lòng hăng hái nhiệt thành loan báo Đấng Phục Sinh, là Con Thiên Chúa đã làm người, và sống như một con người. Họ tiếp tục  yêu đời, yêu người như Thầy mình và còn giảng dạy cho người đời biết Lời của Thầy, tầm quan trọng của cuộc sống này trong việc xây dựng thiên đường mai sau: khi làm điều thiện cho một trong những người nhỏ bé là làm cho chính Thiên Chúa (X. Mt 26, 31-46). Cuộc sống nơi thế trần chính là cơ hội, là phương thế thiết yếu để mỗi người có chút “vốn liếng” trả lẽ với Thiên Chúa khi giáp mặt với Ngài.

Như vậy, từ khi Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người cũng là lúc Đạo đã nhập thế để cứu đời. Cứu đời bởi Đấng ngoài đời vào, từ trên xuống nhưng để được cứu cũng khởi sự từ trong chính cuộc đời này đi lên.

Thực ra, trước Kitô giáo, Khổng giáo vẫn tự xưng là Đạo nhập thế, bởi vì theo quan niệm của tôn giáo này, người nho sĩ phải nhập thế để gánh vác việc đời, “kiêm thiện thiên hạ[1], mang đạo ra giáo hoá quần chúng.

Đàng khác, sở dĩ Khổng giáo áp dụng cho mình danh hiệu ấy cốt là để tự đối lập với một số tôn giáo thời bấy giờ như Lão giáo, vốn chủ trương xuất thế. Theo những tôn giáo này, người hành đạo phải ra khỏi đời mới thoát được các mối sầu não của cuộc đời và đạt đến hạnh phúc đích thực theo kiểu:

                  “ Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,

                    Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên,

                    Thoát trần một gót thiên nhiên

                    Cái thân ngoại vật là tiên trong đời”.

                                                            (Nguyễn Gia Thiều, Cung Oán Ngâm Khúc)

Khổng giáo chủ trương nhập thế để giúp đời thóat khỏi cảnh loạn lý, nguy biến, đặc biệt là tình trạng chiến tranh triền miên thời Chiến quốc ở Trung Hoa, hầu thực hiện một cuộc sống bình yên hạnh phúc. Để đạt được mục tiêu này, Khổng giáo đưa ra một phương sách gồm tám điểm là: “cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.Bốn điểm trước là điều kiện tối cần để thực hiện điểm chủ yếu là “tu thân”. Có tu thân mới tề được gia, sau đó trị được quốc để cuối cùng có thể bình thiên hạ.

Thế nghĩa là Khổng giáo chỉ nhằm chủ yếu cứu đời ở kiếp này thôi, trong lúc Kitô giáo nhằm đem lại cho nhân loại không chỉ hạnh phúc đời này mà nhất là sự sống muôn đời ở kiếp sau. Và điểm giáo lý trọng yếu này được nhấn mạnh đặc biệt trong Kinh thánh, nhất là trong Tân Ước.

Thực vậy, vấn đề này đã được chính Chúa Giêsu nói rõ: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống và ai sống mà tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ” (Ga 11, 25- 26). Giáo lý này còn được nhấn mạnh hơn nữa ở nơi khác: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con một để ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Đàng khác, sự nhập thế của Kitô giáo có tính chất phổ quát và triệt để hơn Khổng giáo. Quả thế, hai tính chất này của Kitô giáo nổi bật lên trong nhiệm vụ truyền giáo mà Đức Kitô đã trao cho các môn đệ trước khi lên trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16, 15-16).

Như vậy, cuộc nhập thế của Kitô giáo mang tính chất phổ quát, vì không chỉ dừng lại ở một quốc gia dân tộc hay châu lục nào mà được mở rộng ra khắp thế giới cho mọi người và mọi vật.

Ngoài ra, cuộc nhập thế của Kitô giáo cũng có tính chất rất triệt để về mặt giáo lý cũng như sứ giả truyền giáo. Thực vậy, giáo lý Phúc âm không chỉ đơn thuần là những nguyên tắc hướng dẫn con người trong cuộc sống đạo đức mà còn phải biến thành niềm tin mà nhờ đó kitô hữu mới nên công chính, nghĩa là trở nên con người mới như thánh Phaolô nói: “Có tin thật trong lòng mới được nên công chính, có tuyên xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ” (Rm 10, 10).

Về phần mình, các tông đồ phải theo gương Chúa Giêsu để nhập thế một cách triệt để, nghĩa là từ bỏ mọi sự và suốt đời dấn thân trọn vẹn cho công cuộc cứu vớt các linh hồn như Thầy mình.

 

      2. NHẬP THẾ CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

Lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy ra đi rao giảng Tin mừng”. Ra đi nghĩa vào những nơi có người cư ngụ, từ thành thị đến thôn quê, là vào đời để chia sẻ những vui buồn của con người và tìm cách đem Lời chân lý, ơn cứu độ của Chúa Kitô đến cho họ. Để thực hiện lệnh truyền của Chúa Giêsu người tông đồ phải ra khỏi mình để hòa mình vào đời.

Hơn thế, vì Tin mừng người tông đồ dùng mọi phương thế, kể cả đem mạng sống mình ra để “thế chấp” như một thánh tông đồ dân ngọai đã thực hành: “Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục được nhiều người(…). Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Kitô, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật. Tôi đã trở nên yếu đối với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người” (Rm 9, 19-22).

Tinh thần loan báo Tin mừng không chỉ ngoài da mà thâm nhập tận xương tủy máu thịt để hóa nên sức sống: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà Đức Kitô sống trong tôi” (Gal 2,20).

Riêng tại Việt Nam, thích ứng với hòan cảnh môi trường là một việc quan trọng để thành công trong các hoạt động, vì vậy người Việt nam ta cũng có những câu ca dao để nói về vấn đề này: “Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”. Trong đời thường, việc thích ứng còn được người ta quan tâm như vậy huống chi việc rao giảng Tin mừng nhằm mục đích đem lại ơn cứu độ vĩnh cửu cho con người! Thực vậy, các nhà thừa sai hằng lưu tâm đặc biệt đến vấn đề thích ứng, không chỉ vì để bảo đảm thành quả của công cuộc truyền giáo là một hoạt động vô cùng cao cả vì nhằm cứu độ các linh hồn mà còn vì được thúc đẩy mạnh mẽ bởi gương thích ứng tuyệt vời của Chúa Giêsu.

Các vị truyền giáo đã thực hiện “cuộc nhập thế” một cách vô cùng anh dũng trong hoàn cảnh rất khắc nghiệt. Thực vậy, do thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, cuộc truyền giáo ở Việt nam đã diễn ra trong máu và nước mắt. Các kitô hữu, cách riêng các nhà thừa sai bị chính quyền nghi ngờ là những tay sai của thực dân. Vì vậy, họ đã bị bắt hại suốt ba trăm năm không kém gì cuộc bách hại ở Roma trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo. Chúng ta có những tấm gương anh hùng trong việc nhập thế như các tu sĩ dòng Tên, chẳng hạn như cha Đắc Lộ.

 Chính nhờ sự thích ứng cùng với ơn trợ lực của Chúa, niềm tin vào Thiên Chúa không những không bị tiêu diệt mà còn tồn tại phát triển nhanh ở thời đó.

Ngày hôm nay Giáo hội vẫn mời gọi chúng ta cùng một lời sai đi ấy. Công đồng Vaticanô II viết:“Vui mừng và hy vọng ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ[2].

Đặc biệt, sau khi Tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu”, được Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II công bố ngày16. 12. 1999, kêu gọi mọi người tích cực tham gia vào việc tìm ra phương pháp giới thiệu Chúa Giêsu một cách hữu hiệu cho người Á châu, các vị lãnh đạo Giáo hội Việt nam đã hưởng ứng lời kêu gọi đó bằng cách kêu gọi mọi người cách riêng giới trí thức nghiên cứu văn hóa Việt nam cách sâu rộng hầu tìm ra cách hành đạo và truyền đạo đạt hiệu quả hơn.

Nhờ những nỗ lực thích ứng nói trên đã mang lại nhiều thành quả, cho Giáo hội công giáo tại Việt Nam, đồng bào các tôn giáo ngày càng hiểu biết đạo nhiều hơn, giảm bớt những hiểu lầm, xây dựng tình đoàn kết… khiến cho việc truyền giáo có nhiều thuận tiện, và tiến triển tốt đẹp hơn.

Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ nhanh chóng về mặt kinh tế, đi kèm theo những hệ quả tích cực cũng như tiêu cực. Điều đó luôn đặt ra cho những người chức trách vấn nạn: liệu lối sống, cách thể hiện, diễn tả đức tin của chúng ta có đi kịp thời đại? Đâu là phương pháp tốt nhất để mọi tín hữu có thể ứng dụng hầu giúp nhân lọai ngày nay tin nhận Chúa Giêsu? Phải chấp nhận rằng việc loan báo Tin mừng ở thời nào cũng gặp khó khăn và bách hại. Bởi vì, chính vị Thầy của chúng ta đã từng bị chống đối nên người môn đệ cũng chia sẻ số phận của Ngài: “Ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất  vì Thầy và vì Tin mừng mà không được nhận gấp trăm (…) cùng với sự ngược đãi và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10, 29 – 30).

Các tông đồ Giáo hội thời sơ khai mặc dù đã hết sức để làm cho Tin mừng được loan đi, đã bỏ đi những cản trở vướng mắc không cần thiết như vấn đề cắt bì theo Luật Môsê, các kiêng cữ này nọ. Tuy nhiên, dù có làm đến cỡ nào thì vẫn có giới hạn và nhiều người vẫn không tin. Phần mình các ông vẫn nhận lấy sự bách hại chống đối phần lớn trong số họ đã lãnh nhận cái chết khổ giá.

 Bước theo con đường mà Chúa Giêsu đã dạy, noi gương các thánh tông đồ, chúng ta cũng có bổn phận loan báo tin mừng cho thế hệ này. Nhưng việc loan báo Tin Mừng là một sứ vụ thiêng liêng cao cả nhưng cũng vượt hẳn khả năng của con người nên cần phải có sự trợ giúp của Thiên Chúa: “không Thầy anh em không thể làm được gì” (Ga 15, 5).

Dù vậy, công cuộc đó đòi hỏi việc hội nhập, thích nghi văn hóa để làm sao biểu lộ sức sống của Kitô giáo, không chỉ qua hình thức bên ngoài, của các nghi thức, mà trong “bản tính Kitô”của người loan báo Tin mừng.

 

      ĐỂ KẾT

Khi yêu, người ta sẽ có sáng kiến, biết thích nghi, chịu đựng, kiên nhẫn và cả hiến dâng mạng sống. Một nàng dâu mới về nhà chồng, phải hòa nhập với môi trường mới có phong tục tập quán, văn hóa … khác với gia đình mình.Nhưng vì yêu chồng, nàng chấp nhận tất cả và hội nhập vào cuộc sống mới.

Cũng vậy, trong công cuộc loan báo Tin Mừng, các môn đệ Chúa Kitô giống nàng dâu không phải cho một gia đình mà cho trăm họ. Nhưng, vì tình yêu Thiên Chúa, và ơn cứu độ nhân loại họ sẵn sàng bỏ mình để nhập cuộc hầu Tin mừng được loan báo, Thiên Chúa được vinh danh, Giáo Hội được phát triển.

 


[1] Mưu cầu điều lành điều tốt cho mọi người

[2] MV,  số1

SỐNG ĐẠO HÔM NAY

FM.Michael Hưng.

 

“Những người ấy có đạo cũng như không, vì chẳng thấy họ giữ đạo gì cả!”

Chúng ta thường nhận định và chỉ trích người khác như vậy, lẽ dĩ nhiên lại còn lấy làm hãnh diện một cách nào đó về đời sống của mình. Phải chăng điều đó có nghĩa chúng ta nhận mình là những con người có đạo và đồng thời rất tốt trong việc giữ đạo? Thế nhưng, sẽ còn buồn hơn nếu có lúc nào đó chúng ta sẽ phải giật mình và suy nghĩ lại khi nghe những lời của người ngoài đạo nhận xét về chính chúng ta: “Những người đó chỉ giữ đạo chứ không sống đạo”.

Có đạo đã là một điều tốt vì nó dạy chúng ta biết cuộc đời này có cùng đích và hướng chúng ta đến cùng đích đó, đồng thời giúp chúng ta sống cuộc đời này có ý nghĩa hơn .

Người ta kể rằng ngày nọ có một người đàn bà rất nghèo đến xin thánh Phanxicô Assisiô giúp đỡ. Vì không có gì để cho, thánh nhân bèn bán cuốn Phúc âm đang dùng với số tiền tương đương một năm làm việc, rồi đem số tiền đó cho bà. Có người thấy vậy luyến tiếc và thắc mắc. Thánh Phanxicô trả lời : “Sống Phúc âm thì tốt hơn là chỉ đọc mà thôi”.

Quả thật, nếu có đạo và giữ đạo mà thôi thì chưa phải là người có đạo, nhưng sống đạo mới là điều quan trọng.

Nhìn chung cách sống đạo của chúng ta đôi khi còn rất hời hợt, hình thức và phô trương. Hời hợt là vì giữ đạo bằng cách tuân thủ một số luật lệ tối thiểu nào đó để đảm bảo một chiếc vé đời sau và nhất là tránh khỏi bị người khác dèm pha và chê trách. Và giả như có làm một việc thiện ích nào đó thì cũng ít nhiều cũng mang dáng dấp bề ngoài và mong có được tiếng tốt về mình.

Vậy, việc giữ và sống đạo có chiều sâu, thiết tưởng mỗi người cần nhìn lại đời sống đức tin của mình. Khi đức tin vững mạnh, chúng ta mới có thể dễ dàng yêu đạo, giữ đạo, và sống đạo.

 

                       1. TIN:

Nói đến đức tin là nói đến “vấn đề trên mọi vấn đề” vì đó là điều được bàn luận qua mọi thời. Đó là một vấn nạn bởi vì khi tin con người đi vào một cuộc phiêu lưu. Tuy nhiên, không vì thế cho rằng đức tin đó là mù quáng và không có cơ sở hay trừu tượng nhưng là được lưu truyền qua các chứng nhân lịch sử (x. 1Ga. 1,1-4; 4, 18;Ga. 21, 24-25…). Vấn đề trên không ai hoặc  một nhà khoa học nào có thể giải thích được. Dẫu vậy trong cái tương đối có cái tuyệt đối, trong cái hữu hạn có cái vô hạn, con người không thể phủ nhận điều đó. Theo mặc khải Kitô giáo, cái tuyệt đối và vô hạn đó chính là Thiên Chúa – trọng tâm đức tin Kitô giáo.

Chính vì chưa đạt đến đức tin sâu sa nên người ta  dễ dàng chạy theo những hiện tượng lạ chẳng hạn khi nghe nói Đức Mẹ hiện ở đâu là người ta ùn ùn lũ lượt kéo tới đó. Lúc trở về: kẻ vui, người buồn. Tiếc thay, kẻ vui nhiều lại là người “không có đạo”, vì đã nhận được nhiều ơn ; ngược lại người “có đạo”  lại chưa được thỏa mãn như ý mình.

Phải chăng  giữa cuộc đời lắm bon chen và phức tạp làm cho con người bị sói mòn niềm tin của mình. Cho nên, họ đến vì hiếu kì từ, đó họ tự an ủi : niềm tin chẳng qua niền tin là một nhu cầu cần thiết cho đời này và mai sau.

Quả thực, đức tin của chúng ta đôi khi giống như câu chuyện ông phú hộ trong Tin Mừng (Lc. 16, 19-31). Ông vẫn không nghĩ rằng cứ tin là được cứu độ. Cho nên, ông đã thu quén tất cả về mình. Để đảm bảo cho cuộc sống đời này. Đối với ông, đức tin được xem như một  chiếc vé bảo lãnh vào thiên đàng. Thế nhưng , ông  đã lầm, cái chết đã làm tình thế đảo ngược hoàn toàn!!!

Do đó, muốn củng cố lại đức tin thì điều tiên quyết là chúng ta cần phải  thực hiện bằng việc làm cụ thể hơn là lý thuyết suông: “Hãy cho tôi thấy đức tin không việc làm của anh, và tôi, tôi sẽ lấy việc làm mà cho anh thấy đức tin của tôi…” (Gc 2, 17).

Vâng, một khi đức tin được khơi dậy bằng những việc làm, chúng ta sẽ thấy đời sống đạo ngày càng tiến triển và sâu xa hơn. Bởi điều chúng ta tin, việc chúng ta làm có một mục đích và một lý tưởng đang nhắm tới . Khi ấy, chúng ta chẳng cần dựa vào những dấu chỉ hay phép lạ ở bất cứ nơi đâu, bởi vì chúng ta tin là đã có Đấng luôn ở đồng hành với chúng ta trên con đường lữ khách trần gian này,

 

                        2. YÊU

 Trên cuộc đời này không ai là không yêu, thế nhưng vấn đề ở chỗ là yêu cái gì , yêu như thế nào và yêu ở cấp độ nào. Tình yêu của thường dừng lại ở hai cấp độ: tình yêu có điều kiện và tình yêu vô điều kiện.  Tình yêu điều kiện thường có chữ “nếu” kèm theo: khi niềm tin đó đáp ứng nhu cầu cá nhân tôi thì tôi sẽ yêu. Có mấy ai đạt đuọc ở cấp độ thứ hai đó là tình yêu vô điều kiện? Chỉ có tình yêu này mới giúp chúng ta vượt thắng mọi toan tính, tư lợi, vị kỷ…Vì thế, tình yêu đúng nghĩa, tình yêu chân thật luôn đòi hy sinh. Nhưng làm sao có sự hy sinh? Chính tình yêu thập giá minh chứng điều đó.

Cho dù không nghe và  gặp Ngài cách hữu hình, nhưng bù lại chúng ta sẽ gặp Ngài qua Kinh Thánh  –  “bức thư tình”  mà gửi lại cho nhân loại. Trong đó, Ngài đã tỏ rõ về tình yêu của Ngài qua suốt dòng lịch sử. Do đó, tình yêu nuôi dưỡng bằng việc siêng năng tìm hiểu, nghiền ngẫm và suy tư Lời Chúa nơi Kinh Thánh. Kinh nghiệm tâm linh giúp ta nhận ra qua những giây phút gặp gỡ đối thoại,  qua việc  cầu nguyện sẽ trợ giúp thêm cho niềm tin của mình.

 

                        3.GIỮ:

Cuộc sống với “trăm công nghìn việc” nhưng chúng ta vẫn chứng tỏ được việc giữ đạo cách nghiêm túc và triệt để là một dấu chứng  của niềm tin và tình yêu. Làm sao một con người như tôi lại dám từ bỏ một số thì giờ, sức lực, của cải, thậm chí cả những ước mơ chính đáng để tuân giữ những điều xem ra không chút lợi lộc gì cho bản thân. Chắc chắn phải có một điều gì đó hạnh phúc hơn, tốt đẹp hơn, cao siêu hơn đang ẩn khuất đằng sau những hành động xem chừng như vô bổ kia!

Trong câu chuyện người thanh niên giàu có (Lc. 18, 18-23; Mt. 19, 16-22; Mc. 10, 17-22), Chúa Giêsu đã đưa mắt nhìn trìu mến, chứng tỏ là Ngài công nhận việc tin-yêu và giữ đạo của anh. Mấy ai có thể giữ được tới mức độ trọn vẹn như người thanh niên ấy. Chính  anh ta cũng rất hài lòng với việc giữ đạo của mình. Nhưng anh ta lại cảm thấy khó khăn trong lời mời gọi của Chúa Giêsu , bởi vì  anh ta chưa cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa . Một tình yêu có thể làm cho những điều không thể được trở nên có thể.

Quả thực, nếu đạo chỉ tóm gọn những điều giữ và không phải giữ phải làm và không được phép làm, thì vô tình  người thanh niên cũng như chúng ta đây đã biến Thiên Chúa thành một thứ lề luật và coi lề luật như là cứu cánh của đạo.Việc giữ đạo dẫu sao mới chỉ minh chứng cho là có đạo, và một cách nào đó còn mang tính cục bộ hạn hẹp.

Chúng ta thấy Chúa Giêsu đến làm trọn lề luật không phải là thêm vào một số những điều còn thiếu, nhưng bằng cách đem đến cho chúng một tinh thần mới trong việc tuân giữ, đó là tình mến. Xưa kia người ta thường giữ luật cách hời hợt bên ngoài mà không có tình mến. Các luật sĩ , biệt phái  kêu gọi người ta giữ luật nhưng họ cũng chẳng đạt đến tinh thần đó. Họ giữ đạo theo cách thế và ý riêng của họ. Họ tự đặt cho mọi người những luật lệ mà họ chẳng bao giờ nhúng ngón tay vào (Lc. 11, 45-46). Việc giữ lề luật như vậy khiến người ta ngán sợ, nặng nề như bị áp đặt. Chúa đã đến để giải phóng khỏi ách nặng nề của việc giữ lề luật kiểu đó, để người ta ý thức, thích thú trong tình yêu mến đối với Thiên Chúa là Cha chung trên trời. Vậy Chúa giải phóng bằng cách nào? Ngài bảo:“Các ngươi muốn người khác làm gì cho mình thì hãy làm cho họ như thế”(Mt. 7, 12; Lc. 6, 31): nếu ta muốn được yêu, thì hãy yêu trước đi, nếu ta muốn được tha thứ, thì hãy tha thứ trước đi, nếu ta muốn được điều tốt, thì hãy làm điều tốt trước đi……..Như vậy, có thể nói được rằng, càng làm cho người khác điều mình muốn họ làm cho mình, thì ta càng thực hiện được ý muốn của mình. Càng sống cho người khác, ta lại càng trở nên “mình” hơn.

 Với những lời dạy của Chúa Giêsu, ta dám quả quyết rằng, ta được tạo dựng chỉ để sống cho và sống vì người khác, và đó chính là thứ luật tự do nhất của con cái Thiên Chúa.

 

                        4. SỐNG:

Thiết nghĩ, để có đời sống cụ thể như thế nào, xin dựa vào Tin mừng nói về người Samaritanô nhân hậu ( Lc. 10, 29-37). Sau khi kể câu chuyện, nêu ra câu hỏi và được người thông luật trả lời, Chúa Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi và hãy làm như vậy”.

 “Hãy đi” và “hãy làm”!

Hai câu trên trong thể mệnh lệnh cách nhắc nhở cho chúng ta biết rằng việc sống đạo luôn là khẩn thiết và đòi hỏi chúng ta phải thực hiện không ngưng nghỉ.

“Hãy đi và hãy làm như vậy”!

Đó là cứu giúp người anh em bị nạn. Những người bị nạn ở đây ta có thể hiểu theo nhiều hình thức như: bị áp bức, nghèo đói, ruồng bỏ, khinh chê, lạm dụng  …. Nhất là về mặt tinh thần như: đau khổ, khó khăn, bị hiểu lầm, mất hy vọng. ….Bất kể họ là ai, thành phần và giai cấp nào cũng đều được nhìn nhận như nhau vì tất cả cùng là con một Cha trên trời. Bởi vì nếu khi cứu giúp mà ta còn phân biệt, loại trừ họ, không nhận họ là người anh em đồng loại của mình thì chúng ta cũng đã vô tình loại trừ chính mình.

 “Hãy đi và hãy làm như vậy”!

Dù chúng ta là một người bình thường, một nông dân, một thương gia, một tu sĩ hay người có chức thánh thì không ai được miễn trừ công việc này. Dù đang bận công việc quan trọng đến đâu cũng không hơn việc cứu giúp người anh em đồng loại của mình đang cơn hoạnn nạn, vì đó chính là khi làm cho họ là ta đã làm cho chính Chúa, ( x. Mt 10, 10; Lc. 9, 48; Mc. 9, 37), họ là những người mà Thiên Chúa đã dựng nên giống hình ảnh Ngài, và nhất là đã đổ máu ra mà cứu chuộc họ.

 “Hãy đi và hãy làm như vậy”!

Đó là yêu thương và yêu thương cho đến cùng dù phải hy sinh thời giờ, tiền bạc , sức lực và thậm chí cả mạng sống mình nữa. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên phân biệt cho thật rõ ràng những hành vi cư xử và việc làm của mình mà can đảm sống sao cho xứng danh mình là Kitô hữu . Đó là công việc không dễ dàng chút nào (x. Lc 6, 27-35). Thật vậy, chúng ta không được tự cho phép mình sống hay chạy theo hoàn  toàn như những người khác. Nếu chúng ta sợ bị khinh chê và chỉ trích mà sống theo kiểu những người không có đức tin, làm theo những gì mà họ thường làm, thì như thế không còn là Kitô hữu nữa mà chỉ là mang danh hiệu ấy thôi.

Chúng ta nghĩ gì khi ông Mahatma Gandhi đã có một nhận định thật chua chát như sau : “Tôi rất yêu Đức Kitô cũng như giáo huấn của Ngài, nhưng không thể yêu được người công giáo, vì họ chẳng giống Đức Kytô”.Dĩ nhiên theo gương Chúa Giêsu là điều rất khó, vì chúng ta là những con người hèn yếu. Chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua tâm trạng ấy: Ngài cũng cảm thấy mình là “cung đàn lạc điệu”, “không giống ai”, y như đám trẻ không ăn khớp với nhau khi nô đùa trong công viên, thổi sáo điệu vui thì không chịu nhảy, xướng điệu buồn thì không chịu khóc (Mt. 11, 16-17). Vì vậy, nếu chúng ta sống như Ngài đã sống và yêu như Ngài đã yêu thì dĩ nhiên  thế nào chúng ta cũng phải biết nếm mùi “lễ độ” là gì, vì cái kiểu  “không giống người”của mình. Chúa Giêsu đã nếm vị đắng đó.

Chúng ta những người theo Chúa Giêsu cũng giống như Ngài, bởi vì “trò không hơn Thầy được…” (Mt. 10, 24; Lc. 6, 40; Ga. 15, 20).

 

                        Kết Luận:

Thánh Phaolô đã nói: “Hãy cho tôi thấy đức tin không việc làm của anh, và tôi, tôi sẽ lấy việc làm mà cho anh thấy đức tin của tôi…”(Gc. 2,18). Thật vậy, niềm tin mà không được thương yêu, bảo vệ, gìn giữ và được thể hiện ra bằng thái độ  việc làm yêu thương đối với người xung quanh, nhất là đối với những người bé mọn, yếu đuối, túng nghèo, thì đức tin đó kể như chết. Và có thể nói giá trị đạo đức của con người càng được cân đo đong đếm bằng tình người, bằng sự dấn thân phục vụ con người một cách khiêm nhường, bằng tấm lòng từ thiện, quảng đại cho đi và chia sẻ cuộc sống với những người cùng khổ.

Và lời Chúa Giêsu cũng đã nói: “không ai thắp đèn để dưới đáy thùng, nhưng là đặt trên giá…” (Lc. 8, 16; 11, 33-36). Do đó, thế giới này luôn rất cần những con người dám dấn thân sống và sống trọn vẹn niềm tin của mình.

Là những Kitô hữu, mỗi người trong chúng ta được mời gọi trở nên ánh sáng, muối để làm cho đời luôn rạng rỡ và đậm tình yêu thương qua cuộc sống thường ngày.

Chúng ta không vì một chút tư lợi, tự ái, ích kỷ, mặc cảm, sợ thua kém người khác…v.v…  mà làm cho vấy bẩn danh xưng của mình.

Cũng cần ý thức thêm rằng: khi đức tin được toả sáng bằng đời sống yêu thương, dù nhỏ bé tầm thường nhưng nó có sức đem lại niềm vui và biến đổi cho những người chung quanh.

Thế giới hôm nay và xã hội này rất cần thứ tình yêu đi trước ấy để thoát khỏi chiến tranh và sự phân rẽ. Sự thờ ơ với số phận người đồng loại, với tương lai của thế giới đã tới mức báo động. Chiến tranh, hận thù, thiên tai, đau thương, nghèo đói quá nhiều. Những con tim khối óc và những bàn tay đưa ra để săn sóc và giúp đỡ để xoa dịu những vết thương hầu làm cho cuộc đời này ngày càng đẹp tươi hơn.

 

 

ĐAN SĨ SỐNG LÝ TƯỞNG
YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ

FM.Hương Quê       

 

Cách đây hơn hai ngàn năm, trên mảnh đất Palestina, có một người thanh niên đă xuất hiện. Anh tên là Giêsu. Nhiều người tò mò hỏi rằng: ‘Anh đến nơi đây để làm gì?’. Không chút do dự, anh ta trả lời: ‘Tôi đến không phải để được người ta phục vụ, nhung là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người’(Mt 20,28). Quả thực, ba năm sống công khai là khoảng thời gian in đậm những dấu chân không biết mệt mỏi của anh đi từ làng này qua làng khác để loan báo Tin Mừng, chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền cho dân chúng. Và thậm chí, khi mọi người đi theo không có gì ăn, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều.

Ngày nay, cũng có rất nhiều người đã tình nguyện tiếp bước theo chân Người. Họ đã can đảm quay lưng lai với những vinh hoa, phú quý của trần gian vì bị thu hút cách mãnh liệt bởi lý tưởng: sống phục vụ Chúa và anh em. Lý tưởng là thế những phải sống làm sao đây?

 

               1.Phục vụ hay dịch vụ?

Dọc theo các tuyến đường của những đô thị sấm uất như thành phố Hồ Chí Minh chẳng hạn, chúng ta sẽ thấy rất nhiều trung tâm, nhiều dịch vụ luôn luôn mở rộng cửa và sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Bạn cần một chiếc xe lọai xịn ư: đừng ngần ngại bước vào đây! Bạn cần tư vấn về vấn vấn đề hôn nhân hay sức khỏe à: hãy gọi cho chúng tôi! Nói chung, chúng ta sẽ có đủ mọi thông tin và thõa mãn các nhu cầu miễn là bạn chi tiền đầy đủ.

Hơn nữa, nhìn cảnh các nhân viên tiếp thị lặn lội vào những hang cùng ngõ hẻm, những vùng quê xa xôi để quảng bá sản phẩm cho một công ty, một hãng nào đó, tôi vô cùng cảm phục tinh thần không ngại khó và sự nhiệt thành tận tụy của họ.

Tuy nhiên, suy cho cùng, cuộc sống bắt họ phải làm thế. Các công ty, dịch vụ cần có lợi nhuận cao để phát triển; các nhân viên tiếp thị thì cần tiền để trang trãi cho cuộc sống.

Chúng ta hãy thử đặt mình vào hoàn cảnh của những nhân viên ấy thử sao? Đối với họ: khách hàng là Thượng Đế; nhưng với chúng ta: khách hàng chính là Chúa Kitô dang hiện diện trong chính những người đang sống chung quanh ta. Cũng như những nhân viên đó, chúng ta quảng bá những sản phẩm mang nhãn hiệu Kitô giáo: bác ái, yêu thương, chia sẻ, … mà chính ông chủ Giêsu đã giao. Không ai có thể hiểu và vui vẻ đón nhận những sản phẩm đó trừ phi chính người tiếp thị đó đã ‘sử dụng’ hay đã trải nghiệm. Bởi vì, thời này là thế kỷ của khoa học thực nghiệm cho nên ‘người ta cần chứng nhân hơn là thầy dạy’(x.Tông huấn Giáo hội tại Á châu, số 44)). Vả lại, ‘Lời nói hay bay gương bày lôi cuốn’ (Tục ngữ Việt Nam).

Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể đạt được sự hiệp nhất giữa ‘ngôn và hành’ nếu chỉ với mục đích: bán sản phẩm để mưu sinh cho qua ngày đoạn tháng. Hoặc chỉ phục vụ theo lẽ thường tình: ‘bánh  ít đi, bánh quy lại’ hay theo não trang tâm lý:‘có đi có lại mới toại lòng nhau’.

Vậy thì đâu là tính cách phục vụ đích thực của chúng ta, những nhân viên của ông chủ Giêsu?

 

               2.Đâu là hồn sống của phục vụ?

Mỗi cuộc đăng trình, mỗi phút chia ly, mỗi hành động đều không thể xảy ra cách ngẫu nhiên hay tình cờ được. Bước chân của người ra đi không phải là những bước đi vô hồn, thẩn thờ của kẻ bị người yêu ruồng bỏ. Mỗi phút chia ly không phải là khoảnh khắc tạo nên sự u buồn, tuyệt vọng. Mỗi động tác không thể giống như những cú đấm vào không khí. Đời người đâu phải cánh bèo trôi phó mặc cho dòng nước: nước lên thì bèo cũng lên. Nếu qủa thật có ai đã từng sống như thế thì thật đúng: ‘Trên mộ nhiều người, người ta có thể viết câu nầy: Đây là nơi an nghỉ của những người không biết tại sao mình sống’ (Bopp).

Tôi chợt suy nghĩ về hành trình của đời mình: Đâu là mục đích chính yếu để tôi tìm đến đan viện Xitô này? Phải chẳng vì đây chính là môi trường thuận lợi để tôi thực hiện lý tưởng của Thầy Giêsu?

Vâng! Đúng là nơi đây!

Tuy nhiên, tôi tự hỏi: mình phục vụ Bề Trên có phải là vì muốn tìm một điểm tựa vững chắc cho con đường thăng tiến của bản thân? Tôi phục vụ anh em là do bởi người đó tốt với tôi, hợp ‘gout’ với tôi hay do bởi người đó trông rất dễ thương trong đôi mắt tôi? Tôi phục vụ các Thầy và những người đàn anh chỉ vì muốn có tấm phiếu hồng trong những ngày được xét khấn hay tiến chức?  Với quan khách hay các ân nhân, tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì bởi lẽ họ giúp đỡ tôi rất nhiều?

Thế còn những trường hợp ngược lại thì sao? Tại sao sự phục vụ của tôi lại ngừng ngay trước những hoàn cảnh nầy!

Trong linh đạo của Mẹ Têrêxa Calcuta có ghi: ‘… Hoa quả của tình yêu là phục vụ. Hoa quả của phục vụ là bình an.’

Vâng! Tất cả mọi hành trình ra đi, mọi hành động dấn thân đều do tình yêu hun đúc và thôi thúc.

Thế nhưng, nếu hành động phục vụ được thúc đẩy bởi tình yêu vị lợi, chắc chắn chúng ta sẽ thốt lên rằng: ‘Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?’(Mt 19,27). Trái lại, sự phục vụ được tác động bởi tình yêu bao la của Thiên Chúa, chúng ta sẽ phục vụ Chúa, Bề Trên, anh em, tha nhân cách nhưng không. Từ đó, hành động phục vụ sẽ bất chấp mọi chướng ngại từ bản thân và sẽ mang lại sự thanh thản và bình an cho tâm hồn.

Hãy cùng nhau nghiệm lại cuộc đời của tông đồ Phêrô, Chúa đã dành cho ông hai tiếng gọi: tiếng gọi thứ nhất vọng lên trên biển hồ Tibêria, ông lập tức bỏ tất cả để theo Thầy. Ông hăng hái trong mọi công việc nhưng cuối cùng lại chối Thầy đến ba lần. Ngài lại dành cho ông tiềng gọi thứ hai sau khi Phục Sinh: ‘Anh có mến Thầy không?’ Lúc đó, thánh Phêrô mới phân định rõ là: tình yêu mình dành cho Thầy trước kia chỉ là thứ tình cảm thông thường của một con người tham sân si. Còn hôm nay, tình yêu mà Chúa đặt cho ông thắm được sự hy sinh và quên mình. Một thứ tình yêu gột bỏ hết mọi toan tính, ảo tưởng riêng tư.

Phần tôi, tình yêu nào mình đang dành cho Thiên Chúa đây? Tự thâm tâm, tôi luôn khắc ghi những hình ảnh nầy: một vị Viện phụ kia, dù tuổi đã cao và sức yếu, anh em đến hơn trăm người. Thế nhưng, vào mỗi thứ năm tuần thánh, ngài vẫn cúi xuống không chỉ để rửa chân mà còn hôn chân từng anh em một. Và tiếp theo là hình ảnh các thầy già tay run run cầm chổi, chân bước chầm chậm quanh các hành lang đầy rác và đất vì muốn anh em có lối đi sạch đẹp. Những hành động nầy tuy nhỏ nhoi nhưng cũng rát đáng quý trọng đấy chứ! Đối với Chúa, chất lượng của công việc không thể đo bằng sự hoành tráng, bằng sức mạnh cơ bắp nhưng là bằng tình mến. ‘Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi,… Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả’(1Cr 13,4-7), và thánh Phao lô kết luận: ‘Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến’(1Cr 13,13).

Sống phục Chúa và tha nhân vì tinh yêu thì cao đẹp thế đó! Vậy thì đây có phải là lý tưởng của người đan sĩ không?

 

                    3.Sống phục vụ, lý tưởng của người đan sĩ?

Khi nói đến các đan sĩ, người ta sẽ nghĩ ngay đến chốn thâm sâu âm u, vắng lặng hay những sa mạc khô cằn, cát bụi mịt mù không bóng người là nơi cư ngụ của họ.

Sa mạc, rừng sâu có gì mà hấp dẫn thế! Phải chăng khi đi đến đó, người ‘đăng trình’ muốn xa lánh những con người ‘đáng ghét’, muốn rời bỏ trần đời bon chen, muốn dùng lũy cấm để chôn vùi, quên lãng những thăng trầm, đau khổ, uất hận của bản thân hay vì muốn gột bỏ tất cả để thành một ốc đảo: tất cả chỉ còn mình ta với ta?

Nếu chỉ vì thế thì cuộc sống nầy quá ư là tầm thường nếu không muốn nói là vô vị, không lối thoát.

Đời đan tu được định nghĩa là hành trình tìm kiếm và phụng sự Thiên Chúa trong cô tịch và thinh lặng. Nếu mục đích là thế thì mỗi chúng ta, những đan sĩ của thế kỷ 21, sẽ phục vụ Ngài và anh em như thế nào đây?

Việc phục vụ Thiên Chúa cao qúy và thiết yếu nhất chính là giờ thần vụ: đan sĩ dùng những Thánh vịnh để ca tụng và cảm tạ Ngài: ‘Con ca tụng Chúa mỗi ngày bảy lượt…’ (x.Tv 118,161-169). Tuy nhiên, những giờ phút ấy có thật là chúng ta đang hòa lời cùng với các thiên thần trên trời trước tôn nhan Đấng Tối Cao hay chỉ là ‘hát nhép’ cho qua phận sự. Lời tôi ca có thật sự xuất phát từ đáy con tim hay chỉ là một mớ âm thanh âm vô hồn, đơn điệu?

Mặt khác, nếu đời ta chỉ là phục vụ Chúa trong nhà nguyện mà thôi thì thánh giá mà chúng ta vác chỉ còn lại một chiều thẳng đứng. Mặc dù chúng ta chu toàn tốt đẹp mọi phận vụ:tham dự đầy đủ các giờ kinh, thánh lễ, năng đi đàng thánh giá, chầu Thánh Thể mỗi ngày nhưng không có mối tương quan tốt đẹp với anh em thì cũng vô ích. Thiên Chúa không thể bị đóng khung trong các ảnh tượng hay Nhà tạm. Đức Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận từng nói: ‘Sự ly dị giữa cuộc sống đạo ở nhà thờ và ngoài xã hội, là gương xấu tai hại nhất của thời đại chúng ta’(ĐHV, số 622). Mến Chúa, đối với mỗi chúng ta, không thể chỉ là lời nói sáo rộng nhưng phải được thể hiện cách cụ thể bằng việc yêu thương anh em mình. ‘Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa ma lạighét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy’ (1Ga 4,20). Môi trường xã hội của các đan sĩ chính là cộng đoàn. Anh em sống quanh ta chính là những hình ảnh sống động của Thiên Chúa dù có nhiều hình ảnh không được ‘bắt mắt’ cho lắm. Họ đang chờ đợi nơi chúng ta: một nụ cười cảm thông khi họ ưu sầu, một ánh mắt yêu thương khi họ lầm đường lạc bước, một lời thăm hỏi khi họ ốm đau.

Đối với các ân nhân, chúng ta không thể trực tiếp trao tận tay họ nhưng giúp đỡ cụ thể nhưng những lời kinh nguyện không quy hướng về mình hàng ngày dâng lên Chúa, nhưng hy sinh hãm mình không vì để cái tôi lớn lên trong một thân xác gầy go chăng phải là nhưng công việc phục vụ hay sao!

Tôi rất thích quan điểm về phục vụ của Mẹ Têrêxa Calcutta. Mẹ nói: ‘Phục vụ có nghĩa là: một công việc không ngừng nghỉ và hết lòng hầu làm cho mình trở thành có giá trị đối với Chúa Giêsu … Cho người đói ăn không chỉ bằng thức ăn nhưng còn bằng Lời Chúa. Cho kẻ khát uống không chỉ bằng nước nhưng bằng kiến thức, bình an, công chính và tình yêu. Cho kẻ trần truồng mặc không chỉ bằng quần áo nhưng còn bằng nhân phẩm của con người. Cho người vô gia cư chổ ở không phải làm bằng gạch nhưng là một con tim hiểu biết, che chở và yêu thương. Chăm sóc người bệnh tật và hấp hối không chỉ thân xác nhưng cả tâm trí và tinh thần’ (x. Niềm vui giữa lòng bể khổ, Thạch Thảo, trang 19). Thế giới thực dụng làm cho con người chỉ biết quan tâm nhau bang vật chất mà quên đi sự phục vụ nhau bằng tinh thần. Đan sĩ không thể uôn nắn đời mình thành nhưng con người thực dụng như thế được. Chúng ta hãy yêu thường nhau bàng sự dấn thân phục vụ lẫn nhau dẫu biết rằng đôi lúc ‘Làm ơn thì lại mác oán’. ‘Hãy yêu cho tớikhi tình yêu làm cho mình đau khổ’ ‘Không có đau khổ, công việc phục vụ của chúng ta chỉ là công việc của xã hội, và không tham gia vào công cuộc cứu độ’ (Mẹ Têrêxa Calcutta).

 

Đan sĩ là sequela Christi và imitatio Christi. Chúa Kitô chính là đường, là sự thật và là sự sống. sự sống của Ngài, chân lý của Ngài chính là: ‘Tôi đến để phục vụ chớ không phải được người ta phục vụ’ (x.Mt 20,28). Như thế, khi chúng ta đã chọn Đức Giêsu làm lý tưởng đời mình thì không thể không sống lý tưởng: phục vụ Thiên Chúa và anh em. Mỗi nụ cười, mỗi chén nước lạ xem ra chẳng là gì cả nhưng lại là tất cả với Chúa nếu chúng được làm bằng cả tấm lòng mỗi người. Vâng! ‘Hãy yêu đi rồi muốn làm chi thì làm’ (thánh Augustino) bởi vì ‘Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi… Đức mến tha thứ tất cả, hy vọng tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả’ (1Cr 13,4-7). ‘Đạo’ mà Đức Kitô đem đến cho trần gian là đạo yêu thương phục vụ. chúng ta, những đang sĩ đang theo bước Ngài, có thể sống mà không yêu thương phục vụ đồng lọai được không?

 

CHỨNG NHÂN TÌNH YÊU CỨU ĐỘ

FM.Sarto-Hòa

 

Là Kitô hữu trưởng thành, ai trong chúng ta cũng khao khát sống sứ mạng chứng nhân tình yêu cứu độ. Qua bí tích Rửa Tội, Kitô hữu được dìm mình vào trong Đức Kitô, cùng với anh em, chúng ta trở nên hình ảnh mới trong Đức Kitô. Xuyên qua tình yêu, Đức Giêsu muốn Kitô hữu hãy là chứng nhân và dấu chỉ cho Tin Mừng giữa một thế giới đang đói khát tình yêu: “Cứ dấu này người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga13,35). Trước khi về trời Ngài đã để lại cho các tông đồ một sứ điệp: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Lc 24,45–46). Và Ngài mời gọi họ: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48).

Như vậy, giá trị cao quí nhất trong việc sống chứng nhân cho tình yêu cứu độ giữa thế giới hôm nay chính là sống với tâm tình của Chúa Giêsu: tha thứ và hoà giải. Bởi vì đỉnh cao của tình yêu cứu độ là cái chết thập giá, và đỉnh cao của thập giá là tha thứ và hoà giải: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Cũng chính nhờ máu Người đổ ra nơi thập giá mà ơn hoà giải được thiết lập: “…Nhờ Đức Giêsu là con người bằng xương bằng thịt đã chịu chết, Thiên Chúa đã cho anh em được hoà giải với Người…” (Cl 1,19–22). Vậy có thể nói được rằng: tha thứ và hoà giải là hai phương thế hữu hiệu nhất để sống chứng nhân tình yêu cứu độ.

1. Tha Thứ: Biểu Thị Tình Yêu Cứu Độ

Yêu ai, ta muốn tặng cho người đó món quà quí giá và ý nghĩa. Vì yêu, Đức Giêsu  trao tặng cho nhân loại món quà vô giá là “Sự Tha Thứ”. Nếu không có tha thứ thì việc Ngài hy sinh mạng sống, đền bù tội lỗi cho chúng ta sẽ mất hết ý nghĩa, giá trị cứu độ sẽ không còn. Trong mầu nhiệm tự nạn chúng ta thấy nghĩa cử cao đẹp và ý nghĩa nhất mang lại giá trị tình yêu cứu độ của Đức Giêsu chính là tha thứ. Sự tha thứ của Ngài không hạn hẹp, nhưng mang chiều kích vô biên: “Không phải bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22).

Hơn nữa, tình yêu ấy phải được lan toả, và bao trùm lên cả những kẻ thù nghịch: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rũa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6,27–35; Mt 5,43–48; Rm 12,20; Cv7,60). Do đó, tha thứ được ví như cánh hoa dấu kín, độc đáo, nở ra mỗi lần trên một nỗi đau của hành trình tự nạn[1] và đem đến cho con người tự do đích thực, giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và tái tạo chúng ta trong tương quan mới, tương quan của tình yêu cứu độ.

Tột cùng của tình yêu cứu độ là mầu nhiệm tự nạn–phục sinh và sự tương phản trong mầu nhiệm khổ nạn làm cho sự tha thứ của Đức Giêsu thêm trọn vẹn: một bên là sự tàn nhẫn của con người, bên kia là lòng quản đại tha thứ của Đức Giêsu. Nếu thập giá nơi mà lòng ghen ghét, thù hận bùng cháy, thì là nơi Đức Giêsu cho thấy sự tha thứ như là khí cụ của tình yêu cứu độ. Và nếu như sự thù hận nơi hàng tư tế, luật sĩ, binh lính… làm phát sinh sự chết chóc, thì sự tha thứ của Đức Giêsu làm trỗ sinh sự sống mới. Sự sống ấy khích lệ Kitô hữu trở nên chứng nhân như viên đại đội trưởng: “Quả thật, Người này là Con Thiên Chúa” (Mt 27,54).

2. Hoà Giải: Biểu Thị Tình Yêu Cứu Độ

Nếu như tha thứ là điều kiện cần cho đời sống chứng nhân tình yêu cứu độ, thì hoà giải là điều kiện đủ để tình yêu cứu độ được sinh hoa kết trái. Bởi vì hoà giải là tên gọi mới của ơn cứu độ. Do đó, hoà giải trước hết là hành động của Thiên Chúa đối với con người: “Mọi sự đều do bởi Thiên Chúa, là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người” (2Cr 5,18), trong việc hoà giải này Thiên Chúa là chủ nhân và con người là đối tượng.

Vì thế, tất cả nhiệm cục tình yêu cứu độ nơi Đức Giêsu được hiểu như một công trình hoà giải lớn lao giữa Thiên Chúa với con người (cf.Rm 5,10-11), giữa con người với nhau và con người với vạn vật.

Qua việc hoà giải trên thập giá, Đức Giêsu muốn liên đới với chúng ta trong sự đau khổ, trong một định mệnh mang dấu ấn tội lỗi, để biến đổi nó và thông ban cho chúng ta ân huệ đích thực là hiệp thông–giao hoà với Thiên Chúa (cf.Rm 5,10–11). Vì Thiên Chúa đã nhìn chúng ta qua khuôn mặt Con của Ngài trên thập giá, và sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi: “Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa và giao cho chúng ta công bố lời hoà giải” (2Cr 5,19). Chỉ trong Đức Kitô, chúng ta mới được hoà giải với Thiên Chúa. Vì thế thánh Phaolô đã nài xin: “Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa” (2Cr 5,20).

 Nhờ máu của Đức Giêsu tưới gội làm phát sinh sự sống mới cho toàn thể vũ trụ. Từ đó vũ trụ được liên đới với loài người trong mầu nhiệm tình yêu cứu độ của Đức Giêsu: “vì Thiên Chúa đã làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,19–22).

 Nhờ kết hợp với Ngôi Lời nhập thể, con người không bị loại bỏ, mà được kết nối, được phục sinh với Đức Giêsu và được phục hoạt, nghĩa là được bước từ cõi chết đi vào cõi sống (cf. Rm 11,15).

 Vì Đức Giêsu đã tự xem mình như hạt giống chịu mục nát trong lòng đất để làm phát sinh một sự sống mới. Nhờ đó vũ trụ, vạn vật, tất cả cũng đều theo hướng mới để trở nên có ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa[2]. Bởi Ngôi Lời nhập thể, qui tụ mọi loài trên trời, dưới đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Giêsu (cf. Ep 1,10).

3. Tha Thứ Và Hoà Giải: Chứng Tá Kitô Hữu

Là Kitô hữu đích thực sống giữa một thế giới còn đầy những chia rẽ và thù hận, hẵn ai trong chúng ta cũng muốn có được xác tin sâu xa và trở nên chứng nhân cho tình yêu cứu độ như thánh Phêrô và Gioan: “Ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được ơn cứu độ” (Cv 4,12). Danh ấy là Đức Kitô, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ. Khi bế Hài Nhi Giêsu trên tay, cụ già Simêon đã trở nên chứng nhân cho tình yêu cứu độ khi tuyên tín: “Chính mắt tôi nhìn thấy ơn cứu độ” (Lc 2,30). Còn giáo phụ Origène cũng đã làm chứng: “Đức Giêsu là Phúc Âm, là hiện thân Nước Thiên Chúa”.[3] Và thần học gia Karl Rahner cũng xác tín: “Biến cố cứu độ là chính bản thân Đức Kitô… Ngài là ơn cứu độ, chứ không chỉ giảng dạy và hứa ban ơn ấy”.[4]

Vì thế, Kitô hữu hôm nay sống chứng nhân cho tình yêu cứu độ là phải khởi đi và trở về với Đức Kitô, nghĩa là Đức Kitô thực sự là điểm qui chiếu và là những chuẩn mực giúp nhận định giá trị, hành vi của mình. Có như thế, sự hiện diện tích cực qua việc sống đạo của Kitô hữu trong xã hội mới trở thành những chứng nhân về những giá trị căn bản của Tin Mừng, và trở nên dấu chỉ của niềm hạnh phúc Nước Trời. Muốn thế, có lẽ Kitô hữu cần soi mình vào các chứng nhân của Tin Mừng.

a.Gương chứng nhân Tin Mừng

– Phêrô: Từ một con người yếu đuối, đầy giới hạn, thánh Phêrô đã trở nên một chứng nhân sống động, đầy nhiệt tình. Do đâu, nếu không phải trong lúc yếu đuối chối Thầy, ngài đã cảm nhận được ánh mắt tha thứ của Thầy mình (cf.Lc 22,54–62; Mt 26,69–75; Ga 18,15–18.25–27). Kể từ đó và đặc biệt sau biến cố Phục sinh trong sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Phêrô đã mạnh dạn rao giảng: “Chính Đức Giêsu, mà anh em đã giết thì Thiên Chúa đã cho sống lại, về điều này tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,32; 3,15).

– Phaolô: Trên đường đi Damas đã trải qua kinh nghiệm sâu đậm về cuộc  gặp gỡ thân tình với Đức Giêsu. Qua cuộc gặp gỡ ấy thánh nhân đã có được thị kiến về Đức Giêsu Phục sinh. Kinh nghiệm trong biến cố này có một tầm quan trọng mấu chốt trong cuộc đời chứng nhân của ngài. Thánh nhân thể hiện kinh nghiệm thánh thiêng ấy bằng việc đánh đổi bản thân mình cho tình yêu cứu độ: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi” (Gl 1,21). Giờ đây ngài cảm nhận sự sống nơi mình không còn là của mình, nhưng là của “người yêu mình”, sự sống mới ấy đang luân chuyển trong huyết quản của người, và thánh nhân cảm nhận: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Một khi có được cảm nghiệm ơn cứu độ đang sống trong mình, chúng ta cũng có được tâm tình như thánh nhân: “Tôi coi mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là biết Đức Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như rác để được Đức Giêsu” (Pl 3,8).

– Người phụ nữ Samari: Cuộc gặp gỡ định mệnh với Đức Giêsu bên bờ giếng đã kín lấy nguồn nước sự sống, nguồn ơn cứu độ. Từ giờ phút ấy đời chị sang trang mới, chị không còn là người phụ nữ như người ta thường nghĩ, nhưng chị đã trở thành một chứng nhân cho Tin Mừng: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đức Kitô sao”? (Ga4,29). Kết quả của lời chứng ấy: “Có rất nhiều người Samari trong thành đó tin vào Đức Giêsu vì lời người phụ nữ làm chứng…” (Ga4,39).

Tình yêu đáp trả tình yêu, từ chỗ đón nhận Tin Mừng tình yêu chị đã trao ban tình yêu cho những người hàng xóm, để rồi những người Samari cũng trở nên những chứng nhân, họ nói: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga4,2). Từ kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ Đức Giêsu, họ có được một cảm nghiệm sâu sắc về ơn tha thứ, nhờ đó họ đã trở nên những chứng nhân đắc lực cho Tin Mừng.

Những chứng nhân trong Tin Mừng cũng mời gọi chúng ta trở thành những nhân chứng cho người thời đại. Nhưng trước hết đời sống chứng nhân phải như một vết dầu loan, nghĩa là phải khởi đi từ chính môi trường mình đang sống. đối với chúng ta môi trường thân thiết là chính cộng đoàn, và từ nơi này chúng ta cũng được mời gọi trở nên chứng nhân cho anh em mình. Khi ấy, cộng đoàn sẽ trở thành ánh sáng quang tỏa trong thế giới.

b. Chứng nhân trong đời sống cộng đoàn

Thật tốt đẹp dường nào, hạnh phúc dường bao khi mỗi ngày bảy lượt miệng lưỡi chúng ta cất lên những bài thánh vịnh, thánh ca ngợi khen Thiên Chúa và nhận ra rằng: đó là dụng cụ tối ưu về đời sống chứng nhân cho những người lầm đường lạc lối, đem lại hơi ấm cho những ai giá lạnh trong tâm hồn, làm sinh động lại đời sống mới cho những người nguội lạnh, hay đang thất vọng, đang buông xuôi vì một lý do nào đó. Việc thực hành ấy là bảo chứng cho nguồn ơn cứu độ, vì sự hiệp nhất thánh thiện đem đến sự bình an, hoà hợp với lòng chân thành, thương mến nhau với tình huynh đệ, nhiệt thành (Rm12,9-13)

Từ đó, với đôi môi niềm nở, với trái tim dạt dào niềm vui chúng ta sẽ cùng cất lên lời ca: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau” (Tv 123,1). Sống với tâm tình ấy thì anh em không còn là một người xa lạ, nhưng là một Giêsu mới. Do đó tương quan giữa anh em với nhau không chỉ đơn thuần là tương quan liên vị giữa người với người mà còn là một tương quan thánh thiêng, mà Joseph Martos gọi đó là tương quan bí tích, nghĩa là: tha nhân là một bí tích của ta hay nói cách khác: tất cả mọi Kitô hữu đều được mời gọi để trở nên bí tích cho thế gian này[5]. Sống với tương quan bí tích là lối sống dìm mình vào trong Đức Kitô, nên đồng hình đồng dạng với Ngài, để trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô tự nạn–phục sinh. Đó cũng là điều mà cha Tổ Phụ hằng mong cho mỗi thành viên trong cộng đoàn trở thành những chứng nhân, để những ai nhìn vào mà nhận ra: “Giêsu, Giêsu thay thảy”[6]. Và đời sống chứng nhân ấy tỏa ngát hương thơm thánh thiện cho người thời đại.

c. Chứng nhân cho người thời đại

Chứng nhân Kitô hữu không phải là một cái gì được thêm từ bên ngoài, nhưng là chính đời sống mặn nồng với sứ vụ, phản chiếu ánh vinh quang Thiên Chúa: “anh em là muối cho đời… là ánh sáng cho trần gian” (Mt5,13–14). Nếu Đức Giêsu thực sự sống trong ta và ta thực sự là muối, là ánh sáng cho đời, thì sự hiện diện của Ngài không thể không quang toả tình yêu từ nơi ta đến cho tha nhân, có như thế Kitô hữu mới trở nên dấu chỉ tình yêu: “Cứ dấu này người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga13,35). Có thể nói được rằng: phong cách Kitô hữu sống hằng ngày sẽ chất chứa Tin Mừng tình yêu cứu độ, nếu Kitô hữu sống với chính danh là người thuộc về Đức Kitô: là yêu thương, tha thứ, là sống công minh chính trực giữa một xã hội đầy gian trá và bất công; sống tiết độ giữa chốn phù hoa, tái thiết hoà bình và nổ lực hoà giải giữa một thế giới đầy bảo động, vì biết rằng: “Phúc cho ai xây dựng hoà bình vì họ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9).

Giá trị đích thực của người con Chúa là: nơi đâu người ta tìm kiếm hận thù, nơi đó Kitô hữu đem lại thứ tha (cf.Mt5,43-48; 18,21-22; Lc 6,27-28.32-36; 17,3-4a), nơi đâu người ta đòi hỏi công bình, nơi đó Kitô hữu thể hiện lòng bác ái (cf.Mt 5,7; 7,1-12; 22, 34-40…), nơi đâu có sự tham lam vô độ, nơi đó Kitô hữu sống một cuộc đời chia sẻ (cf.Mt25,35-37; 26,6-13; Mc14, 3-9; Lc12,33-34;1 14,12-14; 1Tm6,17-19), nơi đâu đầy sự ích kỷ, nơi đó Kitô hữu sống rộng lượng vị tha (cf.Rm12,9-21), nơi đâu người ta ruồng bỏ nhau, nơi đó Kitô hữu niềm nở đón tiếp (cf.Mt 10,40-42; Mc9,41; Rm12,13) và nơi đâu người ta nghĩ rằng muốn cứu lấy mạng sống mình bằng cách giữ lấy mạng sống, nơi đó Kitô hữu hiến thân hiến mình cho Thiên Chúa và tha nhân (Mt10,37-39), trở nên hạt lúa mì mục nát hầu đem lại nhiều hoa quả.

Như vậy, sống chứng nhân cho tình yêu cứu độ không gì khác hơn là sống trọn căn tính Kitô hữu được khơi nguồn từ Thiên Chúa. Vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,8), tình yêu ấy hàm chứa tha thứ và hoà giải. Tình yêu không tha thứ là tình yêu nơi đầu môi chót lưỡi, tha thứ không đi với hoà giải là tha thứ giả tạo. Vì thế, là chứng nhân cho tình yêu cứu độ giữa một thế giới đang đói khát tình người, việc tha thứ và hoà giải cần phải chiếm chỗ ưu tiên hơn bất kể điều gì khác kể cả của lễ: “Khi con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em lỗi phạm đến con, thì hãy để của lễ lại đó, đi làm hoà với người anh em trước đã rồi bấy giờ lại dâng của lễ của con” (Mt 5,23–24). Đó là phải là thong điệp tình yêu cứu độ mà Kitô hữu mang đến cho người thời đại.

Kết luận

Là chứng nhân cho tình yêu cứu độ giữa một thế giới đang còn đầy những thù hận, thiết tưởng thái độ sống của Kitô hữu phải phỏng theo, hay nói cách khác là rập khuôn đời mình trong Đức Giêsu. Vì ngài là khuôn mẫu: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt11,29). Một khi sống theo khuôn mẫu đó, Kitô hữu sẽ trở thành dấu chỉ cho niềm hạnh phúc Nước Trời ngay tại thế này. ĐGH Gioan Phaolo II đã nhìn nhận rằng: là chứng nhân, Kitô hữu phải là gương sáng cho một đời sống chuẩn mực, là nhân tố chính trong việc thay đổi nền văn minh sự chết bằng nền văn minh sự sống ngang qua tha thứ và hoà giải. Vì thế, năm 1997, ngài chọn chủ đề ngày hoà bình thế giới là: “Hãy trao ban tha thứ, bạn sẽ nhận lại hào bình”. Và đặc biệt vào dịp năm thánh 2000, ngài đã đem tinh thần của Tin Mừng vào đời, khi lên tiếng xin lỗi thế giới về những lỗi lầm mà con cái Giáo Hội gây ra trong quá khứ. Thái độ đúng đắn của chứng nhân thời đại là mang lấy tâm tình tha thứ để được thứ tha như lời Kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12). Chỉ khi mang lấy tâm tình hiền lành và khiêm nhường của Đức Giêsu, Kitô hữu mới có can đảm nói lên lời tha thứ và hoà giải. Và một lần nữa ĐGH Gioan Phaolo II đã cho ta thấy giá trị đích thực của tình yêu cứu độ: Tha thứ và hoà giải là con đường cốt yếu nhất mà người chứng nhân phải đi qua vì ngài xác tín rằng: “Tha thứ và được thứ tha tạo ra một phẩm chất mới trong quan hệ giữa người với người, ngăn chặn vòng xoáy trôn ốc của thù hận và trả thù, trả oán và bẻ xiềng xích tội lỗi trói buộc trong tâm tư những người thù hận nhau… không có con đường nào khác hơn là tha thứ và xin tha thứ”[7].

Hơn lúc nào hết, là chứng nhân tình yêu cứu độ trong một thế giới đầy biến động, chúng ta cần suy gẫm lời nhận định thời danh của Đức Phaolo VI, để làm hành trang cho đời sống chứng nhân của chúng ta: người ta tin vào chứng nhân hơn là thầy dạy: “Con người thời nay sẵn sang lắng nghe hơn là những thầy dạy, và nếu họ lắng thầy dạy chính vì thầy dạy cũng là chứng nhân”.[8]

Vì thế đời sống Kitô hữu phải được khởi đi và trở về với Đức Giêsu, để rồi ngang qua tha thứ và hoà giải, Đức Giêsu thực sự là điểm qui chiếu và là chuẩn mực cho đời sống Kitô hữu.  Và nếu đời sống chứng nhân Kitô hữu được ví như chiếc cầu nối hai bờ nỗi khát: “Thiên Chúa khát con người và con người khát Thiên Chúa”, thì không chỉ đòi hỏi chúng ta gắn bó đời mình với Thiên Chúa, mà còn đòi hỏi chúng ta phải gần gũi, liên kết với tha nhân. Vì nhiệm vụ của chứng nhân Kitô hữu là đem tình yêu cứu độ đến cho nhân loại, nên họ phải là người có Chúa trong tâm hồn và trong cuộc sống.

Chính lúc đó Kitô hữu mới trở nên chứng nhân đích thực cho tình yêu cứu độ lúc này, hôm nay và mai sau.


[1] cf. J. Monbourquette, Làm Sao Tha Thứ, Nxb NOVALIS, 2001, trg 54 -55

[2] cf. Trần Văn Hiến Minh, Tín Lý Đại Cương – “Kitô Học”, tr 319 – 321

[3] Origène, Diễn Giải Phúc Âm Theo Thánh Gioan I, V, 28 – 29

[4] Karl Rahner, Traité Fondamental de la Foi, Paris, Centurion, 1976, tr 328…. 335

[5] Joseph Martos, Cửa Vào Thánh Thiêng, Tập(Lm: Daminh Nguyễn Đức Thông,CSsR dịch),  trg 207 và 231

[6] Di ngôn, số 136 “một phương thế có thể giúp chúng ta nên thầy dòng… và để kết hợp với Chúa”, tr.173

[7] ĐGH Gioan Phaolo II, Sứ Điệp Mùa Chay 2001

[8] ĐGH Phaolo VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (08/12/1975), số 41.

CÓ CHÚA LÀ ĐỦ

FM.Diệp Lan Đình

 

                               Quá đủ, Chúa ơi, quá đủ rồi

                               Khi con có Chúa, Chúa mà thôi,

                               Vì bàn tay Chúa là tất cả,

                               Tất cả, cho con, cho mọi người.

CON ĐƯỜNG VƯỢT QUA,
TỪ THẾ ĐẠO TỚI ĐẠO MẶC KHẢI

FM.Ephrem Trương Cường

 

Biểu ngữ tôi đọc được trong các nhà thờ – năm 2007 là: SỐNG ĐẠO. Nhưng thực ra hai chữ “sống đạo” có một ngoại trương rất lớn, không chỉ giới hạn trong phạm vi người theo đạo Công giáo mà còn đối với tất cả mọi người có tôn giáo hay không tôn giáo. Bởi vì chữ “đạo” có nghĩa là đường lối. Và nếu rõ nghĩa hơn, như người ta thường nói đến cụm từ “sống đạo đức”, từ đức ở đây có nghĩa là sức lực làm việc thiện. Như vậy, hai cụm từ sống đạo hay sống đạo đức là những nguyên tắc hành thiện, mà hành thiện chính là tâm đạo không dành riêng cho một ai.

Người Kitô hữu ngoài nguyên tắc chung của hữu thể có lý tính: tìm thiện và tránh ác, họ còn có một nguyên tắc riêng cho việc sống đạo được khởi xướng từ mặc khải Chúa Giêsu Kitô. Con đường sống đạo mặc khải là con đường vượt qua mọi danh vọng, tài lực, phú quí giàu sang; một mặt dám chấp nhận chuyển đổi một Golgotha trong lịch sử cứu độ đến một Golgotha trong đời thường, là cách thế vi tế đời mình tựa cánh cửa rộng mở ra cho tất cả mọi người hướng tới một lối sống đạo Tin mừng giữa trần thế; mặt khác, chỉ nơi điểm dừng Golgotha con người mới dám xả kỷ vị tha – bỏ mình lo cho đời, và mới mong đạt tới được đạo mặc khải tức cực điểm của việc hành đạo.

Vậy, vấn đề đặt ra ở đây là tại sao tri và hành cho phải đạo, dĩ nhiên chúng ta phải cần đến con đường mặc khải, để có thể chuyển tiếp từ đạo tự nhiên (thế đạo) tới đạo Thiên Chúa. Nhưng trước tiên cần phải xác định cội nguồn của việc sống đạo.

 1. Đạo, con đường cần nhận diện

Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Theo Mạnh tử, con người lúc sơ thủy đều mang trong mình “tính bản thiện”. Điều đó đã được tác giả sách Sáng Thế 1,27 trình bày một cách khác: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa” nghĩa là tính thiện nơi con người phát sinh từ Thiên Chúa – nguyên lý của sự thiện. Tính thiện nơi con người chính là đường (đạo) mà bất cứ  ai cũng được mời gọi tìm về để trở nên hoàn thiện như Cha (Mt 5,48). Theo đó, tính thiện chính là tiến trình nỗ lực sống đạo, tái khám phá ra Chân Thiện tuyệt đối hiện hữu sâu kín nhất, nơi con người được sinh ra và hướng về. Vì thế, cuộc sống con người dù muốn dù không vẫn luôn được thúc đẩy bởi các nguyên tắc của đạo: từ tâm, bác ái và yêu thương tha nhân. Điều đó đồng nghĩa với việc hướng Thượng, bởi lẽ cuộc sống ai cũng muốn thiện tâm và có được sự hỗ tương trong tương quan một cách thân thiết, hơn là một cuộc sống được thúc đẩy duy bản năng: hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục đối lập với đạo: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, hiền hòa, tiết độ (Gl 5,22).

Vậy thì, những hành vi vô đạo, giả đạo xuất phát từ đâu? Thánh Phaolô xác quyết đó là những con người lợi dụng đạo để làm lợi cho cá nhân (1Tm 6,5-6). Vả lại, giữa cuộc đời đầy phức tạp ô hợp hôm nay, là do con người không sống đạo hay tính thiện vốn con người sở hữu, để rồi bên trong con người vốn hiền từ, đã tự làm thay đổi, trở nên những con người dữ tợn “nhân chi sơ tính bản ác” – những tâm hồn u uẩn vẫn cứ tham sân si, chấp ngã, ích kỷ, oán trách, làm tồn tại một xã hội ngày càng có nhiều con người tiêu cực và thiếu vắng tình thương. Đó là khởi điểm cho sự ác xuất hiện. Nhưng con người không biết rõ sự dữ do đâu và từ đâu hiện hữu, để cứ mãi trong vòng luẩn quẩn tự hỏi, và đành chấp nhận có vẽ bi quan với thân phận của kiếp phàm nhân hết vui lại buồn.

Phải chăng là vì con người thiếu sự nhận diện ra nền tảng của đạo là những viên thuốc đặc trị cho nỗi xót đau của con người khi đối diện với mầu nhiệm của đau khổ!? Đúng như triết gia Schopenhauer nhận định: “đời người chỉ là đau khổ thì đạo đức là biết thương xót chính mình và người khác, có thương xót mới tìm cách giải thoát ra ngoài vòng đau khổ, là đưa đến hạnh phúc[1]. Hay như Lão tử nói: “Khéo của bậc trên cũng ví như nước, nước khéo làm lợi cho muôn vật mà không cạnh tranh, ở nơi mọi người đều ghét, nên gần với Đạo… chỉ không tranh chấp như nước nên không lầm lỗi[2].

Nhưng hạnh phúc là có, đời là địa đàng. Thế nhưng, con người đã không chấp nhận sự thật đó, một phần vì con người còn phải chiến đấu với cuộc sống để đảm bảo cái bản năng sinh tồn. Mặc khác vì tư lợi  cá nhân đã đưa con người đến chỗ giải quyết mọi vấn đề theo nguyên tắc “mắt đền mắt, răng đền răng”, nhưng lòng nhân phải đi xa hơn như Mạnh tử đã nói: “trắc ẩn chi tâm, nhân chi đoan dã ” (lòng trắc ẩn là mối đầu điều nhân). Không có nhân sẽ gây nên tai họa, biến cái thiện của con người thành cái bất nhẫn, tất nhiên một thế giới đầy tranh chấp, hờn trách là kết quả của những con người dám biến đổi từ “tính bản thiện” thành “tính bản ác”; từ trung thứ và quân tử thành ghen ghét, thiếu bao dung và tiểu nhân. 

Đạo là con đường dẫn đưa con người đi đến biên bờ của hạnh phúc, là khát vọng vô biên tìm về chân – thiện – mỹ giữa cuộc đời sóng gió, khắc khoải, lo âu.

Đạo là ánh Bình Minh ban mai dọi chiếu những con người đang khép mình, ích kỷ trước những mảnh đời đơn côi, lạc hướng, và là niềm an ủi xoa dịu nỗi cay đắng bao gắng nặng cuộc đời.

Đạo là người bạn của Bình An, là con đường xuyên suốt, êm đềm dẫn đưa con người vượt qua bao chướng ngại vật trên đời, đưa về bến bờ cứu độ của Đấng, là Đường (Đạo) thật (Ga 14,6).

Đạo là thước đo tiêu chuẩn của lòng bác ái, là qui luật bảo vệ trật tự xã hội, là chìa khóa mật đem lại hạnh phúc cho con người. Vì thế, đạo không phải là sản phẩm của quá trình suy tư qua nhiều thế hệ, một hệ thống kiến thức khái niệm, mà là một ân tặng từ Tạo Hóa, hay nói theo kiểu Nho giáo đạo là một phần nhận được trực tiếp từ Trời (Thượng Đế) gọi là Tính (suất Tính chi vi Đạo – noi theo tính gọi là đạo )[3]. Còn đối với những người sống đức tin Kitô giáo, đạo là trực tiếp con người được Thiên Chúa mặc khải bởi lẽ con người được tạo dựng do Thiên Chúa. Vì thế, đạo là con đường khởi đi từ Thiên Chúa.

 2. Đạo, con đường khởi đi từ mặc khải

Ai sinh ra trên đời cũng đều có đạo, nếu chúng ta hiểu đạo là con đường tinh thần phải theo, tức là đạo lý, đạo giáo[4]. Nhưng vấn đề đặt ra: đạo xuất phát từ đâu? Phải chăng có con người là có đạo?

Triết học không truy nguyên về nguồn gốc tại sao có đạo mà chỉ tìm hiểu khôn ngoan của đời người. Khôn ngoan là biết gây hạnh phúc và tránh đau khổ cho mình và cho người khác; là gieo thiện và diệt ác. Còn thuyết Duy vật vô thần vẫn nhận con người phải có đạo[5]. Thế nhưng, sự thiện hảo, lòng từ bi đặt trên căn nguyên nào?

Chúng ta chỉ tìm thấy được lời giải đáp cho tất cả nền tảng đạo đức của con người nơi Đức Giêsu, Ngài chính là nguyên lý, cùng đích của đạo: Thầy là con đường (Đạo) (Ga 14,6), bởi vì Thầy là sự thật và sự sống. Quả thế, Người mặc khải “con đường” đó chính là “đạo thật”. Đạo thật hay con đường thật Ngài đi là gì?

Trước hết, đạo của Chúa Kitô là con đường của yêu thương, bởi vì bản chất của Thiên Chúa là tình yêu (1Ga4,8). Do đó, sự yêu thương được bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa (1Ga 4,7). Chính vì căn bản đó mà tình yêu giữa con người không còn là vấn đề của cảm xúc, luân lý đạo đức, hay vì con người là hữu thể có lý tính khác con vật. Thử đặt vấn đề ở đây, nếu con người trong xã hội sống với nhau chỉ dựa trên lý trí để yêu thương, thực thi điều thiện, thì cũng có lúc xã hội không còn biết yêu thương, khi đó con người sẽ trở nên sói rừng với nhau! Vả lại, nếu con người yêu thương nhau vì tình cảm tâm lý để làm vơi đi những vết thương tâm thần và chia sẻ chút vật chất cho người nghèo khổ khi cần, thì cũng có lúc con tim người ta tỏ ra thờ ơ, cứng động trước những nỗi mất mát của người khác. Như thế, tình thương của con người sẽ trở nên một thứ tự do lựa chọn: yêu hay ghét, bởi vì “thiện căn ở tại lòng ta”(Kiều). Với tư tưởng đó, thì sự tự do trong yêu thương chính là con đường mở ra đau khổ cho cuộc đời, tranh chấp và loại bỏ nhau.

Còn Đức Kitô, đạo của yêu thương, chỉ có một đường lối, một thứ tự do đó là yêu, yêu cho đến cùng, yêu không điều kiện, yêu cả kẻ thù (Mt 6,35). Và chỉ nơi mặc khải, Chúa Giêsu mới tiết lộ cho chúng ta lý do để sống đạo, sống yêu thương và phục vụ là như thế nào. Dẫu sao giữa cuộc đời vẫn có tình thương, vẫn có những con người khao khát sống đạo, nhưng con đường hành đạo của thế trần xem ra còn nặng tính công bằng, tính toán thua thiệt: “bên tình bên nghĩa bên nào nặng hơn” (Kiều). Đó là cách sống đạo? Một cách ý nhị, có lẽ đó là kiểu thực hiện nguyên tắc luân lý và sự công bằng theo kiểu dân gian “tiền trao ra gà bắt lấy”. Rất đúng khi nói đó là sự công bằng trong tình thương; đó là kiểu sống đạo của thế gian. Nhưng nơi Chúa Giêsu, chúng ta sẽ bắt gặp một lối sống đạo trong yêu thương theo kiểu của Tin mừng “yêu người như mình ta vậy”; hay như Khổng tử khuyên: “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” – điều mình không muốn cho mình thì đừng làm cho người ta.

Chúa Giêsu muốn thực hiện một cuộc cải cách sống đạo qua chính cuộc đời của Ngài, mặc dầu Ngài không trực tiếp mặc khải từ “đạo” thay từ “đường” một cách cụ thể theo lối phân tích từ ngữ. Tuy hai từ ngữ khác nhau, nhưng ý nghĩa sống không có sự khác biệt. Khi chúng ta nói Chúa Giêsu là đường, thì cũng hiểu Chúa Giêsu là “Đạo” theo ý nghĩa trình  bày trên.

Chúa Giêsu là đường. Nhưng Chúa Giêsu không phải là những con đường đại lộ trên thế giới, những con đường siêu tốc để xe cộ có thể lưu thông trên đó; và Chúa Giêsu cũng không phải là con đường dẫn đến những trung tâm thương mại, siêu thị, bệnh viện, hay những địa điểm của nơi chốn. Trên hết, Ngài chính là con đường đi lên Giêrusalem, lên đỉnh đồi Golgotha, đó là con đường hẹp (Mt 7,13-14), con đường tự hủy (Pl 2,7-11) dẫn đưa nhân loại trở về cứu cánh của niềm tin sống đạo.

Chỉ những ai dám chọn con đường đó, lối sống đạo theo Tin mừng, thì hành trình kết thúc sẽ là sự sống. Bởi vì con đường thênh thang không dẫn con người tới gần sự sống Thiên Chúa (Mt 713-14).

Hơn nữa, cuộc sống con người còn quá nhiều lựa chọn, bảo tồn cho sự sống hiện tại, tất nhiên nó sẽ bị chi phối bởi những vật đạo cố hữu: ích kỷ, bất nhân, oán ghét, hận thù… Đấy cũng là những lý do con người viện cớ không dám họa lại cuộc đời hành đạo theo con đường hẹp (Ep 1,5) của Chúa Giêsu, lột xác để trở nên nghĩa tử (Gl 4,5), hình ảnh của Thiên Chúa (St 1,27; 5,1; 1Ga 3,1-3). Nói một cách cụ thể, con đường sống đạo mặc khải đòi hỏi con người cần phải trở về với “Tâm Đạo” không chỉ theo luật lương tri mà còn theo Luật vĩnh cữu; không chỉ sống cho ra người mà còn sống đúng với chức năng con người đã được cứu độ[6]. Nếu lương tâm con người phát họa một mô hình hành động của một “con vật cao cấp”, thì con người được cứu độ sống và hành động với tư cách là con cái của Thiên Chúa.

Vì thế, sống đạo của chúng ta là một bổn phận, nó không dừng lại những nguyên tắc truyền thống, luật lệ hay triết lý sống mà là một trách nhiệm cụ thể hóa “Anh em phải yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 13,34).

Tóm lại: toàn bộ đời sống đạo của người Kitô hữu mà Chúa Giêsu sống và mặc khải được đúc kết trong bài giảng Tám Mối Phúc Thật (Mt 5,2-11) như là những nẻo đường nhân sinh, những nền tảng định vị cho một cuộc đời làm nghĩa tử của Chúa Kitô trên trần thế.

– “Có tâm hồn nghèo khó” là san bằng khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, sẵn sàng giúp đỡ những anh chị em nghèo đói (Rm 15,26) và chống lại thực tế cảnh nghịch lý kẻ ăn không hết người lần không ra (Lc 16, 20). Chỉ khi con người dám sống theo tinh thần nghèo khó của Tin mừng, thì mới có được sự hạnh phúc cho chính mình và cho người khác. Sự hạnh phúc của những con người này không phải họ có những phẩm hạnh tốt hơn người khác mà là sự quan tâm đặc biệt của Thiên Chúa đến với họ[7].

– “Hiền lành” là không có hành vi làm hại tha nhân bằng bất cứ hình thức nào. Bởi vì sự sống con người là một bằng chứng khởi đi từ lịch sử cứu độ: Thiên Chúa ban hồng ân sự sống cho con người[8]. Nơi khác, Thiên Chúa đã không ngừng nhắc nhở “ngươi không được giết người” (Xh 20,13); “ngươi không được giết kẻ vô tội và công chính”(Xh 23,7); “anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì  đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5,21-22). Vả lại, cố ý giết một kẻ vô tội là một lỗi nặng phạm đến phẩm giá con người, phạm đến luật vàng của Đức Kitô và sự thánh thiện của Đấng Sáng Tạo. Luật cấm giết người có giá trị phổ quát, buộc mọi người và mỗi người, mọi lúc và mọi thời[9].

– “Ưu sầu” không phải là nỗi vui buồn của chuyện đời mà là tâm trạng ăn năn hối lỗi thật của một tâm hồn luôn đặt để đời mình dưới sự tác động của ơn thánh. Nhưng sám hối để làm gì?  Sám hối để mở rộng tâm hồn đón nhận ơn cứu độ. Đó là hình thức thay đổi và canh tân đời sống, từ bỏ khả năng vươn mình tới sự thiện tuyệt đối bằng sức mạnh của chính mình. Diễn tả cách khác, ăn năn hối lỗi là nhìn nhận đời tôi cần có Chúa. Và chỉ trên con đường “sám hối và canh tân” và “qua cửa hẹp Thập giá”, Dân Thiên Chúa mới có thể rộng mở Nước Chúa Kitô[10]. Hay khi tôi có một cuộc sống hạnh phúc, một tương quan thân mật với Chúa, và một tinh thần cởi mở với anh em, là khi tôi chấp nhận mình là một tội nhân. Theo cách “cũng như Chúa Kitô chỉ thực hiện công trình cứu chuộc trong nghèo khó và bị bách hại, Hội thánh cũng được mời gọi dấn bước trên con đường ấy, để thông ban cho loài người những thành quả của ơn cứu độ[11].

– “Khao khát công chính” là khao khát nên trọn lành. Ơ đây không thuần túy ám chỉ đến tính luân lý, không ăn gian nói dối, không có những hành vi xấu, mà là sự trọn lành nơi con người sâu xa mang hình ảnh của Thiên Chúa. Những nét hoàn hảo của con người: tính chân, thiện, mỹ là phản chiếu sự hoàn hảo vô biên của Thiên Chúa[12]. Vì thế, con người phải tôn trọng sự tốt lành nơi từng cá nhân, không sử dụng nó một cách bừa bãi, nếu không con người sẽ coi thường Đấng Tạo Hóa và kéo theo nhiều hậu quả nguy hại cho mình và môi sinh[13].

– “Biết thương xót” là đặc tính của con người, hay còn gọi là đức nhân, thương người. Nếu xét trên phương diện triết lý sống, thì con người phải có trách nhiệm với nhau, bổ khuyết cho nhau, bởi vì “nhân vô thập toàn”. Còn trên phương diện đức tin, chúng ta  cần thể hiện đức độ đó một cách vượt mức, nhất là đối với người nghèo, bởi vì con người sinh ra từ Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa, qua con người của Đức Kitô, đã chạnh lòng thương xót và tự đồng hóa với “người bé nhỏ trong các anh em”. Ngay từ đầu Hội Thánh ưu ái đặc biệt những người cùng khổ để nâng đỡ, bảo vệ và giải phóng họ, mặc dù vẫn có nhiều phần tử đã không làm như vậy. Hội Thánh đã thực hiện điều này qua vô số công cuộc từ thiện mà thời nào và ở đâu cũng không thể thiếu[14].

– “Có lòng trong sạch” không phải ám chỉ đến những nghi lễ và tẩy uế những con người có tâm hồn thiếu trong sạch (Tv 24,4; Is 1,10-20) mà là ám chỉ đến những con người trung thành thực hiện các giao ước và các giới răn của Thiên Chúa. Hơn thế, người có lòng trong sạch là dám thanh tẩy, tận diệt những bặm bụi ích kỷ riêng tư, bất nhẫn, bất công, tham lam vật chất, chủ nghĩa cá nhân, phân biệt giữa “cái tôi” và “cái ta”, để thực hiện cái đức nhân giữa con người với nhau nên trọn vẹn hơn.

– “Xây dựng hòa bình” là ước muốn trong thực tế không có kẻ thù, không thù ghét người khác, bởi vì thù ghét, chiến tranh là vi phạm đến đức ái, là phạm tội trọng. Chúa Giêsu nói: “ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra tòa rồi” (Mt 5,22). Nhất là người Kitô hữu luôn luôn phải mang lấy tâm tình và hoa trái bình an của Chúa Kitô: không kết án, giết người, làm tổn thương người khác, không ước muốn điều dỡ cho người… ngược lại, phải yêu thương và cầu nguyện cho họ (Mt 5,44-45).

Và hoà bình cũng không chỉ trong một xã hội vắng bóng của chiến tranh, không còn sức mạnh của quân sự, mà là tài sản của con người được bảo vệ, con người được tự do giao lưu, phẩm giá của con người và của cải các dân tộc được tôn trọng, tình huynh đệ được thực thi.

Hòa bình là “ổn định trật tự”, là công trình của công lý, và hoa quả của đức ái[15]. Bởi vì “xây dựng hòa bình không phải là một sự lựa chọn, nhưng là một đòi hỏi của niềm tin[16]. Hơn nữa, chính Chúa Kitô là “Thủ lãnh hòa bình” thời Messia (Is 9,5). Và nhờ máu đổ ra “trên thập gia, Người đã tiêu diệt sự hận thù” ngay trong thân xác Người (Ep 2,16).

– “Bị bách hại vì sự công chính”, đó là sự trung thành với chính đạo của Chúa Kitô, với những điều kiện của Tin mừng vững bước tiến lên đồi Golgotha trong từng hoàn cảnh sống, họ sẽ chạm đến được phần thưởng mà Chúa Kitô hứa ban, đó là Nước trời vào thời cánh chung, khi chúng ta hoàn tất cuộc chiến sống đạo.

Vì thế, chúng ta có thể nói đạo mặc khải luôn đòi hỏi con người phải vươn lên, vượt qua chính mình, không dừng lại sống cái hôm nay mà phải sống cái ngày mai; không dừng lại với một cuộc sống ăn ngay ở lành, công chính; không dừng lại cái tính thiện của một hữu thể người, nhưng luôn luôn khám phá ra sự thiện tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Đó là trọng tâm của việc sống đạo. Chỉ nơi Thiên Chúa chúng ta sẽ biết được lý do phải sống thánh thiện, công bằng, bác ái, thương người…, như là những chứng từ dẫn con người tìm về đạo mặc khải.

 3.Từ thế đạo tới đạo mặc khải

Đạo khả đạo phi thường đạo”. Có lẽ câu nói của Lão tử phần nào cho chúng ta thấy được bản chất của đạo. Đạo không phải là những quan niệm, và cũng không dừng lại những việc hành đạo, những nguyên tắc luân thường đạo lý, mà là phải tiến tới cứu cánh của đạo: Đạo mặc khải.

Tại sao chúng ta phải tìm về đạo mặc khải? Lý do rất căn bản bởi vì Thiên Chúa là nguyên lý tuyệt đối, thường hằng bất biến. Đạo Chúa Kitô có khả năng định vị  ý nghĩa sự sống đời đời cho chúng ta. Vì thế, dưới lăng kính đức tin Kitô giáo, đạo luân lý, đạo nhà thờ, đạo lề luật đều phát sinh từ đạo Kitô, có thể nói như vậy. Dưới một gốc độ khác, những hình thức hành đạo của người Kitô hữu trong cuộc sống như là những khí cụ sống động của mặc khải, những phương tiện để chúng ta đạt tới ơn cứu độ trọn vẹn khi kết thúc một đời người. Việc chúng ta sống đạo phổ quát như bác ái, yêu thương, giữ các giới răn không phải là cùng đích, cứu cánh mà là hướng đến một cứu cánh, một con người, một Đấng là gốc của Đạo, Chúa Giêsu Kitô. Khi nói như vậy là chúng ta xác quyết rằng đạo Chúa Kitô không dừng lại với cái tên truyền thống đạo bác ái và yêu thương, nhưng có lẽ đúng hơn, đạo Chúa Kitô là đạo cứu độ. Với sự khẳng định đó, không có nghĩa là chúng ta từ chối thực hiện một cuộc đời nhân đạo, nhưng chúng ta không bám víu, hài lòng hay hãnh diện với những gì chúng ta làm được cho người khác. Chúng ta cần phải vượt qua như Chúa Giêsu từ một cuộc đời cứu nhân độ thế, bằng một cuộc sống hài hòa trong tương quan và bác ái với hết mọi người, và cuối cùng hướng đến đỉnh cao Golgotha, hoàn tất con đường “sống đạo”.

Việc sống đạo theo Chúa Kitô hay đạo mặc khải không đặt trọng tâm làm sao cho anh em mình có cơm ăn áo mặc, quyết tâm xây dựng một xã hội không có chiến tranh, bạo lực, bất công mà là làm thế nào anh chị em mình được cứu độ.

Vì thế, nỗ lực của việc sống đạo hôm nay không nguyên việc giải quyết vật chất cho anh em xấu số, mà là khơi dậy nơi tâm hồn họ tính thiện.

Hơn thế, mỗi con người là hình ảnh củaThiên Chúa, do đó cuộc sống đạo theo đức tin Kitô giáo là nỗ lực không mệt mỏi đi tìm hình ảnh toàn thiện đó.

Muốn có một hình ảnh thiện hảo và muốn được cứu độ, chúng ta cần phải có cuộc vượt qua mới trong đức tin. Điều đó có nghĩa là một đời sống đức tin của người Kitô hữu đừng bao giờ dừng lại hay chủ trương một chiều: Đạo Chúa Kitô là đạo bác ái và yêu thương.

Vậy những người không thực thi bác ái và yêu thương thì không có đạo? Thêm nữa, nếu đạo Chúa Kitô chỉ thực hiện những điều ấy thì chưa hẳn Chúa Giêsu phải xuống thế chết cho nhân loại! Bởi vì tự bản chất con người luôn hướng về những điều thiện hảo và được thúc đẩy bởi tính thiện từ bản chất rồi. Với suy nghĩ đó, điều chúng ta thường nói xưa nay vẫn không sai: đạo nào cũng dạy chúng ta ăn ngay ở lành, yêu thương người khác. Và rất có lý khi người ta đi đến kết luận: các tôn giáo đều giống nhau. Nếu thực tế là như vậy, thì thiết tưởng con người cũng chẳng cần theo tôn giáo nào miễn sao sống đúng với thiên chức làm người là đủ! Có con người thì có yêu thương và bác ái! Con người vẫn là “nhân linh ư vạn vật”.

Cách lý luận đó chúng ta hay thường gặp trong cuộc sống, xem ra rất đúng, nhưng vấn đề ở đây chúng ta cần đặt lại, đó là sự tồn hữu sự thiện và động thái xuất phát từ tính thiện như “yêu người như mình ta vậy”, nhất thiết nó phải có một nguyên lý tồn hữu Tuyệt Đối sinh ra nó. Bởi lẽ con người không phải là một hữu thể tự tại, tuyệt đối, nhưng nó được tham dự vào Hữu thể tự tại để tồn tại tức Thiên Chúa.

Do đó, những năng lực phát xuất từ con người với một tâm địa bao dung và trắc ẩn trước từng hoàn cảnh sống, nó chỉ có ý nghĩa thật khi được kết hợp với tinh thần của Chúa Kitô và quy hướng về Thiên Chúa. Vì tự bản chất đạo bác ái và yêu thương không thể cứu độ được nhân loại, ngoại trừ “Đạo Vượt Qua”.

Nói cách khác, sống đạo không dừng lại ở những hành vi thực hiện sự công bằng, bác ái, thương người, mà là phải vượt qua: vượt qua con người ích kỷ, tham vọng của quyền lực và cai trị; vượt qua cõi mê những thứ phù vân, những dục vọng trần tục, những hành vi trái nghịch với luân lý, lương tâm; vượt qua sự hận thù, ác ý, ganh ghét; vượt qua những lời nói chia rẽ, thô bỉ, nhảm nhí, vô ích; vượt qua những hành động trộm cắp, bám víu vào tài sản…, để hình thành một Golgotha xưa kia Chúa Giêsu bị đóng đinh mạng sống của Ngài để yêu thương và dẫn đưa nhân loại vào hưởng nguồn vinh lạc đời đời; thì Golgotha hôm nay trong đời sống người Kitô hữu, là đóng đinh chính những hành động, tâm tư của tham sân si, với mục đích là giải trừ, thanh luyện bản thân khỏi những bám víu giả tạo, để nhìn thấy Đạo – Chúa Kitô là đường (Đạo), là hạnh phúc viên mãn cho nhân loại.

Chúng ta đừng để mình rơi vào bánh xe của những quan niệm, định nghĩa đạo nào cũng dạy con người nhân từ với người khác, như thế sẽ rơi vào trường hợp, triết học gọi là Nhất nguyên thuyết (Monisme), đồng hóa việc làm với Đấng Tạo Dựng là một, ngang nhau, đồng đẳng với nhau, không có sự khác biệt về bản thể, về Tuyệt đối và tương đối, thần học Thiên Chúa giáo phi bác thuyết này. Sự đồng hóa này có nghĩa là chúng ta không còn nhận ra Thiên Chúa là cùng đích cho việc làm của con người. Và khi đó người ta cũng chẳng cần có Thiên Chúa, tôn giáo, ngoài cuộc sống đang tiếp diễn. Chắc chắn những hành động hỗ tương giữa con người sẽ không có động cơ siêu nhiên thúc đẩy, dĩ nhiên việc hành đạo sẽ không có cùng đích mà chỉ dựa vào khối óc bày biện của con người.

Và yêu thương, bác ái không còn là trách nhiệm, bổn phận bắt nguồn từ Thiên Chúa nữa, nhưng theo khả năng của con người, tự nó trở thành cứu cánh và tự an ủi, thưởng phạt lẫn nhau.

Bác ái và yêu thương là cụm từ trở nên quen thuộc xưa nay trong đạo, nhưng thiết nghĩ, như vừa trình bày trên, cụm từ đầy đủ ý nghĩa nhất, đó là đạo cứu độ. Nhưng muốn cứu độ thì phải có một cuộc vượt qua. Vượt qua ở đây còn có ý nghĩa là chúng ta không giới hạn vào một tôn giáo, một đạo giáo chỉ biết dùng tiền của bố thí, làm công quả, hay hy sinh thời gian để yên ủi kẻ cô thế cô thân, người sầu muộn, lẽ loi. Bởi vì vấn đề nảy sinh ra ở đây là, nếu những người Kitô giáo nghèo nàn thì làm sao họ sống niềm tin cần phải bố thí cho người!

Mặc khác, nếu sống đức tin chỉ biết lo làm giàu để thực thi bác ái, thì đời sống tôn giáo, đời sống đạo đức của tín hữu còn quá ích kỷ, thiếu sự thanh thoát. Một tôn giáo Chúa Giêsu thiết lập, những giới răn, giới luật của Tin mừng mà Chúa Giêsu đề nghị là tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức Công Chính của Người (Mt 6,33), là vượt qua cái “khung” của đức bác ái vật chất, yêu thương theo lề luật, để hiến tế đời mình theo gương Chúa Kitô, là bằng chứng một cuộc vượt qua mới trong đời sống đạo của Kitô hữu.

Đến một lúc nào đó, người ta không cần có đạo bác ái nữa, bởi vì thế giới sẽ giải quyết được sự đồng đều vật chất, không còn người nghèo, người ăn xin bên lề đường nữa. Nếu sự việc ấy xảy ra thì đồng nghĩa đạo yêu thương bác ái của Chúa Kitô chấm dứt. Và thế giới sẽ không cần có Thiên Chúa.

Vì thế, việc sống đạo theo Chúa Kitô cần phải vươn lên một tầm mức cao hơn, phải “cứu độ” hơn là cứu đói; chỉ cho người khác đọc ra ý nghĩa việc làm bác ái và yêu thương hơn là tìm tiền của bố thí.

Ngoài ra hai từ “bác ái” và “yêu thương” có một ngoại trương rộng lớn đối với tất cả mọi người, chứ không dừng lại khía cạnh vật chất chia sẻ khi túng thiếu.

Đạo Chúa Kitô vượt ra ngoài tinh thần khái niệm, cái không tưởng của phàm nhân, nhưng thanh thoát trong vật chất, để thực hiện điều mà Chúa Giêsu đề nghị, đó là không ai làm tôi hai chủ (Mt 6,24), yêu thương như chính bản thân (Mt 5,44).

Trình bày một cách khác, bác ái và yêu thương của Chúa Kitô là xây dựng một con người không chỉ có nhân bản, nhân văn, mà còn là thực hiện tính liên vị và đồng đẳng trong tình  yêu[17]. Chỉ có cùng đích đó, chúng ta mới thấy được đạo mặc khải luôn luôn khơi dậy nơi con người một sự sống và yêu thương như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta (1Ga 4,11-12). Đó là đạo thật, con đường thật, hạnh phúc thật, chân lý thật.

 Kết luận

Hầu hết mọi người, nhất là các Kitô hữu khi nói đến việc sống đạo, họ chỉ nghỉ đến việc bác ái, ăn ngay ở lành. Thực tế đó không có gì nghịch lý trong việc sống đạo của Kitô giáo. Nhưng điều mà chúng ta cần quan tâm hơn, rằng đạo đức không nhất thiết phải đạt được điều mà xưa nay người ta vẫn cho rằng: “có thực mới vực được đạo”. Nếu như vậy, thì người nghèo không có tôn giáo, không có đạo, không thực hiện được những điều đạo đức, đơn giản vì họ không có của cải để làm việc từ thiện.

Nếu quan niệm sống đạo như thế, ắt hẳn không những người ta xa “Đạo” mà còn tạo nên những hố sâu ngăn cách giữa người “đạo tiền, đạo gạo” và “đạo thiếu tiền”, giữa người giàu và người nghèo; giữa người có của bố thí và người không có của bố thí. Vì thế, tinh thần sống đạo của Kitô hữu luôn đòi hỏi mỗi người phải vượt qua cái gọi là tiêu chuẩn “đầu tiên là tiền đâu”.

Sống đạo không chỉ có bố thí, mà sẵn sàng biến cuộc đời của mình qua nếp sống liêm chính, đó là tặng vật cao quý nhất cho việc sống đạo.

Và chỉ có con đường đó mới tạo nên sự cân bằng và mời gọi mọi người sống đời đạo hạnh giữa lòng xã hội hôm nay. Với điều kiện đó, người Kitô hữu không chỉ phải vượt qua con người cũ kỷ, cục bộ và chủ nghĩa cá nhân, để thực hiện những đức tín sơ thủy nhân, lễ, nghĩa, trí tín; hay điều mà chân lý tự nhiên vẫn thừa nhận “nhân linh ư vạn vật” mà còn phải đụng tới chân lý mặc khải “yêu thương như Thầy yêu thương anh em”, hay “mến Chúa và yêu người”.

Như vậy, chỉ có Thầy là đường(Đạo) thật mới trở nên lực hấp dẫn con người tìm về mặc khải, tìm về Đạo Vượt Qua, Đạo hiến thân và chết trên Thập giá để cứu độ chúng sinh.

 


[1] Tủ sách học làm người, Đạo đức học, Đại học Minh Đức, 1970, trang 34.

[2] Sđd, trang 35.

[3] Lý Minh Tuấn, Từ linh đạo Kitô giáo đến các linh đạo Đông phương, trang 31.

[4] Trần Văn Hiến Minh, Từ điển và danh từ triết học, Tủ sách ra khơi, Sài Gòn 1966, xem từ  “đạo” .

[5] Đạo đức học, trang 9.

[6] Công Đồng Vat.II, Hiến chế mục vụ về giáo hội trong thế giới ngày nay, số 22,1.

[7] Xem chú giải Tin mừng Mt 5,3-11 trong The New Jerome Biblical Commentary.

[8] Giáo lý Công giáo, số 2260.

[9] Sđd, số 2261.

[10] Sđd, số 858.

[11] Công đồng Vat.II, Ánh sáng muôn dân, số 8 và 15.

[12] Giáo lý Công giáo, số 41.

[13] Sđd, số 339.

[14] Sđd, số 2448.

[15] Sđd, số 2304; Ep 2,14.

[16] Juliana Casey, Where is God now? Sheed and Ward, 1987, p.1.

Peacemaking is not an optional commitment. It is a requirement of our faith

[17] Cộng Đồng Vat.II, Anh sáng muôn dân, số 7.

DẤU CHỈ CỦA NIỀM VUI NƯỚC TRỜI

FM. Phan Sa

 

Con người sinh ra trên đời này để được hạnh phúc. Cuộc đời này là một hành trình tìm kiếm hạnh phúc. Vậy hạnh phúc là gì? Đã có mấy ai được hạnh phúc và đâu là dấu chỉ  của một người hạnh phúc? Hoặc ta nói về hạnh phúc phải chăng là một cách thế ru ngủ lòng mình giữa một thế giới văn minh tiến bộ nhưng cũng đầy dẫy những nghịch cảnh này? Dù không có câu trả lời thoả đáng, nhưng lịch sử nhân loại đã khẳng định: hạnh phúc là một khát vọng thầm kín, sâu xa nhưng rất mãnh liệt của con người.

Đối với người Kitôhữu thì sống mối tương quan với Thiên Chúa là niềm hạnh phúc thực sự  (x. Lc 11, 28).  Nhờ ân sủng của niềm vui, con người sống trong tự do của tình yêu Thiên Chúa, tăng triển  đời sống đức ái trong tương quan đồng loại và cụ thể hóa tinh thần Tin mừng. Trong tương quan hai chiều đó, con người tin tưởng, sống bình an trong Tình yêu của Thiên Chúa. (x.Ga 4,8)

Giáo hội luôn xác tín và cho nhân loại thấy dấu chỉ của “niềm hoan lạc và niềm vui Thánh Thần” (Cv13,52) của những người sống đời thánh hiến. Cộng đoàn của họ là nơi biểu lộ mối tương quan thần thiêng và diễn tả niềm vui dâng hiến và phục vụ giữa cuộc sống đời thường.

Riêng đối với đan sĩ, trong đặc sủng của ơn gọi, hằng ngày họ đều khám phá và cảm nhận ra nhiều dấu chỉ của niềm vui. Đan sĩ suy tư  cuộc đời qua mầu nhiệm Nhập thể: Đức Giêsu đã trở nên người phàm, bản tính của Thiên Chúa đã kết hợp với bản chất con người. Sự vô biên, vĩnh cửu nơi Thiên Chúa đã thực sự đi vào trong cái giới hạn của con người. Thiên Chúa đã biến đổi, nâng cấp những giới hạn, tầm thường đó lên tầm vô hạn, phi thường qua con người Đức Giêsu. Thật vậy, mầu nhiệm cứu độ được phát sinh từ ân sủng của Thiên Chúa, nhưng ân sủng lại  xuyên qua cái giới hạn của con người.

Vì thế, đan sĩ  luôn được mời gọi: “Anh em hãy vui lên vì Chúa” (Pl 3, 1 ) Vui vì được  sống niềm hạnh phúc  sung mãn  với 3 lý do: Vui vì được hiện hữu trên đời này, Vui vì  được yêu, được đi theo thần tượng  Đức Giêsu, vui vì được thăng hoa tinh thần phục vụ.

            1-Vui vì được sống

Từ ngàn xưa con người vẫn quan niệm hạnh phúc chính là sự sống. Một sự sống an vui, trường cửu. Ai cũng muốn bảo vệ hạnh phúc cho riêng mình theo tỉ lệ thuận: sống lâu thì hạnh phúc nhiều! Vì thế triết gia Alain luôn lạc quan:hạnh phúc của con người chính là thi vị cuộc đời. Cho dù gian nan, thử thách, con người vẫn khát khao tìm kiếm hạnh phúc, vẫn nhìn cuộc đời qua lăng kính màu hồng:

“Hãy cứ vui chơi cho cuộc đời

Hãy cứ vui như mọi ngày,

Bên trời còn nắng, lá trời còn xanh” [1]

Qua bao thế hệ, con người vẫn xây dựng, bảo dưỡng cuộc đời bằng niềm vui. Lòng khát khao sống cho ra sống, sống cho có ý nghĩa, thậm chí mang theo cả cái “ngông” như là lòng tự trọng và là nỗi khắc khoải của kiếp người:

“Ai đã hay đâu tớ chán đời;
Đời chưa chán tớ, tớ còn chơi…” [2]

Tuy nhiên,vẫn có những người buồn đời vì bản thân, gia đình, xã hội, và nhìn cuộc đời thật “phi lý, dư thừa, đáng nôn mửa…!” (J.Paul Sartre) Cho nên đối với họ hạnh phúc không là gì cả. Cuộc đời thật vô nghĩa! Vâng, con người luôn nhận ra sự phong phú nhiêu khê nơi hai mặt “phải trái” của cuộc đời, và đời là thế!

Chính  lịch sử cứu độ đã cho con người thấy sự sống của con người thật là thiêng liêng cao quý, mang tính đặc thù, một sự cao quý rực sáng nơi Thiên Chúa – Đấng ban nguồn sống cho nhân loại (x.St 1,26) Trong ân sủng của mầu nhiệm nhập thể, con người chân nhận một điều: khi nào biết tin nhận và cảm nghiệm được tình yêu “cho không -tự huỷ” nơi Thiên Chúa ân ban, lúc đó con người mới nhận ra giá trị  đích thực của mình. Vì niềm vinh dự lớn lao nhất dành cho con người là được gọi Thiên Chúa là Cha (x.Rm8,15), được làm con của Ngài (x.2Cr 6,18).

Đó là phẩm giá cao quý của con người vượt trên mọi sự nơi trần gian. Được hiện hữu trên cõi đời  này là một hồng phúc, nhưng được vui sống trong ân sủng mới là niềm hạnh phúc tuyệt đối.

Hơn nữa, vui mừng là sự diễn tả một sự rung cảm trên mọi cung bậc của lòng người. Một niềm vui phát xuất từ Thiên Chúa, niềm vui đồng nhất với Thiên Chúa. Có thể nói niềm vui này được xây dựng trên nền tảng đức tin cậy mến, với lòng xác tín là được kết hợp với Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày, cho dù niềm vui này đôi khi trái ngược với cái vui thường tình của nhân loại, mà nhiều lúc phải đảo lộn  các bậc thang giá trị của cuộc sống. Bởi đó khi đi rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu luôn khích lệ các tông đồ: “Anh em hãy vui mừng hớn hở” (Mt 5,12) Ngài muốn con người sống, thiết lập mối tương quan Cha-con, tình bạn bè thân hữu (x.Ga15,15) để dần dần khám phá ra niềm vui đó có một cái gì mới mẻ độc đáo, mặc dù có khi bị “khác” theo nghĩa nhân loại, nhưng lại chất chứa tràn đầy sự hoan lạc mà không ai có thể lấy mất được (x.Ga16,22)

Vì thế con người nhận thấy cuộc đời thật “mến thương” và hạnh phúc, nhưng nó cũng đòi hỏi con người tin tưởng chấp nhận cuộc sống, bằng lòng với bản thân, chấp nhận cộng đoàn, kiên trì chịu đựng những “cái khác” nơi anh em. Sử dụng bí quyết quẳng gánh lo đi mà vui sống để vượt thắng mọi thử thách, nghịch cảnh. Sống phó thác chấp nhận  thua thiệt, để biết đứng dậy khi yếu đuối vấp ngã. Cho nên sự sống và niềm hạnh phúc đích thực sẽ ngự trị trong lòng những ai biết thanh luyện bản thân trong tình yêu Đức Kitô, đời sống và niềm hạnh phúc được viên mãn trong tương quan với Thiên Chúa, vì “Hạnh phúc cho ai được ở gần Thiên Chúa”(Tv 72,28), Hơn ai hết, thánh Augustino khi tràn đầy ơn Chúa đã vui mừng biểu lộ: hãy vui lên! hãy hát lên và hát thật hay bằng môi miệng, bằng con tim… vì  Chúa đã yêu chúng ta.

 

            2.Vui vì được yêu

Hạnh phúc của con người là yêu và được yêu. Đã sống là yêu và yêu là để sống:đó là một chân lý trường cửu. Vẫn biết yêu là đau khổ nhưng con người vẫn yêu. Bao lâu còn yêu, bấy lâu còn sự sống trên đời, nên cứ vẫn mãi mê, vẫn tự vấn cho phận người vì yêu:

“Tôi là ai mà trần gian thế?

Tôi là ai, là ai (là ai) mà yêu quá đời này?”[3]

Khi yêu con người cảm nhận được  tình yêu luôn bị giới hạn bởi không gian và thời gian, nhất là thời gian. Con người sợ chết! Vì chết là dấu chấm hết của tình yêu. Con người vẫn biết hạnh phúc và bất hạnh luôn song hành trong tình yêu, nhưng bao lâu còn  sống là còn dám yêu. Vẫn yêu là đâu khổ, vì chia li và cả bội ước, nhưng tình yêu luôn mang ve đẹp lãng mạn:

“ Tình chỉ đẹp những lúc còn dang dở,

 Đời hết vui khi đã vẹn câu thề”       [4]   

 Qua mọi thời, con người vẫn tìm đủ mọi cách để làm cho tình yêu lên ngôi, và trở thành đích nhắm. Chính vì thế, đời còn đẹp và có ý nghĩa khi còn tình yêu. Mặc khải Kitô giáo đã xác tín: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm” (Ga 1,14) và Tình yêu đã ngự trị nơi trần gian. Tình yêu vô thuỷ vô chung, vượt thời gian và không gian. Con người chỉ biết chiêm ngưỡng tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu có sức mạnh vô biên, dám hy sinh và tha thứ tất cả  để “thí mạng” cho người mình yêu, để kết hợp hai thành một trong sức sống thần linh. Tình yêu mãnh liệt hơn cả sự chết (x.Dc 8,6) có khả năng biến đổi con người khi yêu không phải vì đa sầu đa cảm, mà yêu trong sự hiện hữu của Ngài. Nhờ đó con người  cảm nhận: vì yêu mà Thiên Chúa đã làm người và để cho con người làm Thiên Chúa (St.Irênê).

Rõ ràng con người vui sướng không phải vì được yêu, được làm Thiên Chúa (theo nghĩa hẹp), nhưng con người cảm nhận được sự nuôi dưỡng nhờ sức sống thần linh, được an vui trong mối tương quan vừa là Cha con, vừa là bạn hữu  chân tình. Từ đó con  người có khả năng đồng cảm: biết chung vui với người vui , chia buồn với người buồn . Thậy vậy khi yêu con người dám đánh đổi tất cả, khiêm nhường nhận ra yếu đuối để phục thiện bản thân: một lời xin lỗi chân thành, một lời góp ý trong tinh thần xây dựng, chắc chắn sẽ được chấp nhận và lắng nghe trong sự quảng đại  nơi cộng đoàn, và góp phần củng cố tình thân hữu. Nhìn nhau bằng một ánh mắt, một nụ cười thân thiện sẽ làm cho người bên cạnh thêm phấn chấn vui thêm, với lòng  trân trọng đáng mến. Một thái độ sám hối thành  thực cũng là một lời cầu nguyện sốt sắng trong hạnh phúc: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7).

Vì thế con người tận dụng ân huệ Chúa ban mà giúp nhau sống lạc quan tin tưởng rằng: mình được yêu và thật đáng yêu bởi Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về mình, Cứ vui sống và phục vụ tha nhân trong mọi nơi mọi lúc và cho tới giây phút cuối đời, như  thi sĩ R.Tagore tự sự: “Bởi yêu cuộc đời nên tôi hiểu tôi cũng yêu cả sự chết” [5]

            

            3. Vui vì được phụcvụ

Một khi tình yêu chan hoà, con người sẽ dành cho nhau sự quan tâm trong mọi phương diện. Càng vui hơn khi có cơ hội thi thố, có dịp tốt làm cho người mình yêu được hạnh phúc. Ở đây xin bàn về tinh thần phục vụ. Hơn ai hết, R.Tagore đã tỏ bày: “Tôi ngũ, tôi mơ và mơ thấy rằng cuộc sống chỉ là vui thú. Tôi tỉnh thức dậy và tôi cảm thấy rằng cuộc sống chỉ là phục vụ. Tôi đã phục vụ nên tôi thấy cuộc đời chính là vui thú”

Một khi con người sống tình  yêu đích thực, sẽ cảm nếm được ý nghĩa thân thương của cuộc đời. Nhìn ra được chiều kích phong phú cuộc đời như một bức tranh sống động, mà ai nấy đều có một chốn riêng trong đó. Chỉ có một điều là bức tranh đó cần sự tô đẹp của mỗi ngươi. Sự tô đẹp đó chính là tinh thần phục vụ. Phục vụ là liều thuốc kích thích giúp con người sống trọn tình mến, tẩy xoá mọi tư tưởng sống khép kín, ích kỷ, hưởng thụ, vô cảm. Không có tinh thần phục vụ, con người sẽ đánh mất nguồn cảm hứng cuộc sống, nhiều khi ngồi buồn vu vơ,  than thân trách phận, vì thấy “cuộc đời chỉ là quán không” [6] Sống phục vụ là niềm vui mang tính nhân bản phổ quát, giúp con người có  đời sống nội tâm, luôn hướng thượng để đạt tới mục đích cao siêu là kết hợp với Thiên Chúa. Vì sống phục vụ mà Mẹ Têrêxa Calcutta đã minh chứng cho nhân loại thấy tinh thần bác ái Kytôgiáo (x.1Cr 13) là kim chỉ nam cho con người đạt tới cuộc sống hạnh phúc. Thánh Phaolô thì biểu lộ niềm vui khi được phục vụ người khác: “Anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi” (Pl 4,1)  Thánh Têrêxa Hài đồng thì đơn sơ tâm sự: tôi sẽ lên Thiên đàng bằng cách làm các việc tốt ở trần gian, tức là sống phục vụ. Thật vậy, tinh thần phục vụ là linh đạo cho mỗi người, để thấy Thiên Chúa qua tha nhân, để làm vinh danh Thiên Chúa qua mọi biến động của thế giới, đặc biệt giúp con người có khả năng phân biệt cái gì từ Thần Khí và cái gì  ngược với Thần Khí (x.Gl 5,16.17. 22).Trong thời đại hôm nay, sống phục vụ không những là dấu chỉ biểu lộ niềm vui của Kitô hữu, mà còn là dấu chỉ mang tính truyền giáo, có tác động rất mạnh cải hoá lòng người biết quan tâm đến đồng loại.

Phục vụ còn là niềm vui chia sẻ, niềm vui song phương, vì niềm vui của tha nhân chính là niềm vui của bản thân mỗi người. Càng phục vụ, càng cho đi nhưng không (dĩ nhiên phải thiệt thòi, mất mát), ta càng được lãnh nhận nhiều gấp bội. Phục vụ để khám phá ra tính nghịch lý nhiệm mầu của Tin mừng, và thấy rõ nơi con  người và cuộc đời của Đức Giêsu: Ngài là quà tặng của Thiên Chúa ban cho nhân loại và là mẫu gương phục vụ cho nhân loại noi theo (x.Mc10, 45)

Chính Ngài đã cho con người thấy cuộc đời trần gian thật mến thương đáng sống, con người cứ vui sống và đón nhận mọi khoảnh khắc của niềm vui, dù chỉ là niềm vui nhỏ nhưng  giúp ta sống hoan lạc và chan chứa bình an.

            Kết 

Hạnh phúc trần gian vẫn tồn tại. Con người vẫn nỗ lực đi tìm hạnh phúc trong khát khao hy vọng,  cho dù có sự khác nhau về quan niệm cuộc sống, về cách thức mưu tìm hạnh phúc của từng người. Nói chung trong thực tế, con người vẫn đang đi tìm hạnh phúc mang tính khả giác:nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con khôn, sung túc mọi thứ vv..

Niềm hạnh phúc này hoàn toàn  không xấu, vì đó là những niềm vui tự nhiên của con người. Chính Đức Giêsu  cũng đã chia sẻ niềm vui đó tại Cana (x.Ga 2), thử hỏi có niềm vui nào lớn bằng niềm vui của bà goá Naim khi Đức Giêsu cho con trai bà sống lại? (x.Lc 7,15) 

Tuy nhiên Đức Giêsu còn đi xa hơn nữa khi chỉ cho con người một con đường đi vào hạnh phúc vĩnh cửu. Một con đường “hẹp, nhiều chông gai” đòi hỏi con người không được chùn bước. Vượt qua con đường đó, chính là ý thức và thực hiện một cuộc biến đổi sâu xa nơi đời sống nội tâm mỗi người. Chính tinh thần Tin mừng triệt để: của cải chỉ là phương tiện, phục vụ trong yêu thương là ưu tiên số một vượt trên mọi ý định khác.

Tóm lại niềm vui đích thực là vui sống  tròn đầy tinh thần Tám mối phúc, để trên con đường tìm kiếm hạnh phúc, và trong khoảnh khắc lắng đọng nào đó trên con đường lữ thứ trần gian, chúng ta xứng đáng được nghe lời mời gọi: “Khá lắm!  Hãy vào mà hưởng  niềm vui của  chủ anh…” (Mt 25, 21  )

 

 


[1] Trịnh Công Sơn, Ca khúc “Hãy c vui”

[2] Tản Đà ,  Bài thơ “Còn Chơi”

[3] Trịnh Công Sơn, Ca khúc “Tôi ơi đng tuyt vng”

[4] Thơ Hồ Dzếnh

[5]R. Tagore, Lời Dâng số 95

[6]  Trịnh Công Sơn, Cakhúc “Nghe nhng tàn phai”

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

BÀI VIẾT MỚI

spot_imgspot_img

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Hạt Giống Chiêm Niệm số 32: Cầu Nguyện Đan Tu

CẦU NGUYỆN ĐAN TU Số 32 – Tháng Giêng năm 2024 ĐÔI LỜI ... Kính thưa quý độc giả, Như chúng ta đã biết, cầu nguyện là hành...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 31: Hướng Vọng Trời Cao

 Số 31 – Tháng 7 năm 2023 Lời ngỏ Kính thưa quý độc giả, Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày qua đời của cha Biển Đức...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 29: Tứ Hải Giai Huynh Đệ

Số 29 – tháng 07 năm 2022 Cùng Độc giả, Các sinh hoạt của Ban Biên Tập Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm (HGCN) của Hội...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 30: Một Đi Chung Cùng Nhau

LỜI NGỎ   Kính thưa Quí Độc Giả! Nội san Hạt Giống Chiêm Niệm số 30 phát hành vào tháng Giêng năm 2023 này mang chủ đích...

Giới Thiêu nội san “HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM” (Viện phụ Dominico Phạm Văn Hiền)

  NỘI SAN   HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     LỜI GIỚI THIỆU      ...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 1: NGUỒN SUỐI CHIÊM NIỆM

    HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM       Nội...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 2: HƯƠNG VỊ LỜI CHÚA

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 3: THAO THỨC

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số đặc biệt: Cội nguồn hy vọng

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 7: Thử Thách

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 8: Trong Lòng Giáo Hội

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...