Thứ Sáu, 29 Tháng Ba, 2024

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 8: Trong Lòng Giáo Hội

 

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM

   

 Nội san linh đạo đan tu 

 

TRONG LÒNG GIÁO HỘI  

 Số 8 – Tháng 01 năm 2010

 

 

 

LỜI GIỚI THIỆU

Người ta thường ví Giáo Hội như một hoa viên gồm nhiều chủng loại hoa khác nhau, đủ mầu sắc và hương thơm. Mỗi loài hoa góp phần tô điểm và làm tăng thêm vẻ rực rỡ của khu vườn bằng vẻ độc đáo của mình. Dù chỉ chiếm một vị trí khiêm tốn trong một không gian rộng lớn, nhưng những cánh hoa dáng dấp nho nhỏ e ấp bên hốc đá kia cũng vẫn có khả năng cộng tác vào vẻ đẹp của toàn cảnh. Cái đẹp của một hoa viên không chỉ do sự phong phú của nhiều loài hoa với những hương sắc khác nhau mà còn là sự hài hoà giữa những cánh hoa xen lẫn và đan kết vào nhau.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng đã tự ví mình như một loài hoa xinh xinh nhỏ bé ẩn mỉnh nơi hốc đá cheo leo; và, sau bao nhiêu năm tìm kiếm, ngài đã tìm ra chỗ đứng của mình trong Giáo Hội: “Trong lòng Mẹ Giáo Hội, con sẽ là tình yêu”. Chỗ đứng mà thánh nữ Têrêsa tìm được cũng là chỗ đứng mà các nam nữ đan sĩ áp dụng cho chính họ, khi muốn cùng “đồng cảm với Giáo hội” – sentire cum Ecclesia.
Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam kỷ niệm năm mươi năm thành lập Hàng Giáo Phẩm, ghi dấu một bước trưởng thành của một Cộng Đoàn Dân Chúa “sau ba trăm năm mươi năm – ngày bổ nhiệm các vị Đại Diện Tông Tòa đầu tiên, là dịp thuận tiện suy tư và sống mầu nhiệm hiệp thông “TRONG LÒNG GIÁO HỘI”.
Hai khuôn mặt – Môisê của Cựu ước và Phaolô của Tân ước – như là hình ảnh của những con người gắn kết đời mình với cộng đòan Dân Chúa, để sống và diễn tả hồng ân hiệp thông. Riêng đan sĩ cũng tìm cho mình vị trí trong lòng Giáo Hội xuyên qua những hoạt động đặc thù nổi trên bề mặt hay chìm lắng trong chiều sâu.
Ban Biên Tập Nội san HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM xin giới thiệu với quí độc giả những bài viết trong số 8 này của các tác giả với mong muốn chia sẻ một vài suy tư và cả kinh nghiệm vẻ sự gắn kết với Giáo Hội :Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội Việt Nam thân yêu.

BAN BIÊN TẬP

 

 

 MỤC LỤC

 

 

 

 

MÔSÊ VÀ DÂN CHÚA

FM.Huy Mỹ

 

Công đồng Vaticanô II khẳng định rằng: “Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu chuộc con người cách riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn qui tụ họ thành một dân để họ nhận biẽt Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài trong “thánh thiện”[1], Nhưng tại sao, Thiên Chúa lại phải quy tụ một dân riêng để cứu chuộc họ?

Nhìn theo hành trình cứu độ, chúng ta thấy, cuộc sống con người trong vườn địa đàng thật hạnh phúc vì được tham dự vào đời sống thần linh của Thiên Chúa. Nhưng hạnh phúc ấy bị tan vỡ do con người đã loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình để chạy theo lời xúi giục của ma quỷ. Khi con người loại Thiên Chúa ra ngoài, thì con người cũng nhận luôn hậu quả bi thương: Phải đau khổ và phải chết (x. St 2-3). Trước trình trạng bất tuân đó, Thiên Chúa đã không bỏ quên con người trong tội lỗi. Trái lại, Ngài tìm mọi cách để cứu vớt họ. Đặc biệt, Ngài muốn con người hiểu được tình thương bao la Thiên Chúa dành cho họ. Trước tiên Ngài tuyển chọn giữa nhân loại một dân tộc, dân tộc Israel và thiết lập với họ một giao ước, để họ mãi mãi thuộc về Ngài[2] . Đồng thời, suốt hành trình dân tộc này đi, Thiên Chúa lại chọn trong dân tộc của họ những người lãnh đạo trong đó có Môsê theo từng khúc quanh lịch sử để dẫn dắt dân được tuyển chọn đi theo đường lối của Ngài hầu đem lại hạnh phúc.

Chính vì thế, khi nhìn qua hành trình Dân Chúa ta có thể nói rằng, Môsê là một trong những người đã gắn liền với lịch sử của Dân Chúa. Hình ảnh Môsê và Dân Chúa, chúng ta có thể thấy dưới một số hình ảnh sau đây:

 

1.Môsê, người được tuyển chọn

Giáo Hội nhìn nhận rằng: từ nguyên thủy, Giáo hội được tiên báo bằng hình bóng, được chuẩn bị kỳ diệu trong lịch sử dân Israel[3], một dân tộc nhỏ bé, nhiíng Thiên Chúa đã tách riêng họ ra, để họ thuộc về Ngài và Ngài luôn yêu thương họ ngay cả lúc họ phản bội Ngài. Xuyên suốt dòng lịch sử của dân này, Thiên Chúa luôn đồng hành với họ qua những vị mà Ngài đã tuyển chọn. Ta thấy, trong cảnh sống cùng cực của kiếp đời nô lệ mà Dân Chúa phải gánh chịu bên Ai- cập (x. Xh 1,11-22), tiếng khóc than kêu cứu của họ, Thiên Chúa đã lắng nghe (x. Xh 3,7-9), Ngài đã ra tay cứu giúp qua việc tuyển chọn Môsê, một con người bình thường (x.Xh 4,10; 6,30), nhưng đã trao cho ông một sứ mệnh hết sức lớn lao là giải phóng dân tộc ra khỏi kiếp sống nô lệ. Thiên Chúa nói với ông: “ngươi hãy đã Ta sai ngươi đến với Pha-ra- ô để đưa dân Ta là Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập” (Xh 3,10), “ngươi hãy đi triệu tập các kỳ mục Ít- ra-en và nói với họ: Đức Chúa, Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ap-ra-ham, của I- xa-ác, của Gia-cóp, đã hiện ra với tôi và phán: Ta sẽ cho các ngươi thoát khỏi cảnh cùng cực bên Ai-cập mà lên miền đất tràn trề sữa và mật” (Xh 3,16.17). Nhưng để tiếp nhận Mô sê và biến ông thành dụng cụ hữu hiệu thể hiện cánh tay hùng mạnh của Ngài trên dân tộc, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ông từ lâu: chào đời trong lòng một dân tộc bị áp chế (x. Xh 1,8- 22); lọt lòng mẹ ông không bị giết, mà còn được nuôi dưỡng ngay tại cung điện nhà vua, kẻ thù của dân tộc ông (x. Xh 1,15-2,10); lớn lên, ông không vì hào quang nơi cung điện nhà vua mà đánh mất ý thức tinh thần dân tộc (x. Xh 2,11- 15), và nơi bụi gai bốc cháy, Thiên Chúa đã mặc khải cho ông biết Ngài là ai (x. Xh 3,l-6)[4] và trao cho ông sứ mệnh (x. Xh 3,10.16); Thiên Chúa lập Giao ước với ông (x. Xh 19,1-16), để ban cho dân lề luật của Ngài, và thiết lập việc phụng tự kính Ngài (x. Xh 20,1-17); đồng thời, ông phải chịu trách nhiệm về dân của mình trước mặt Thiên Chúa [5] .

Hình ảnh Dân Chúa và Môsê luôn song hành với nhau, Thiên Chúa tuyển chọn Môsê là vì Dân Chúa và qua Môsê, Dân Chúa nhận ra tình yêu lớn lao mà Thiên Chúa dành cho họ. Tuy nhiên, ơn gọi cũng là một lời mời gọi cá nhân. Lời mời gọi đó đã làm đảo lộn cuộc sông của ông không những trong hoàn cảnh bên ngoài mà đến cả nội tâm cũng trở thành một con người khác: Từ một con người tìm cách chạy trốn vì sợ vua Pha-ra-ô giết (x. Xh 2,14-15), Môsê đã chấp nhận sứ mệnh của Thiên Chúa để quay lại đương đầu với Pha-ra-ô nhằm cứu cả một dân tộc (x. Xh 3,7-10). Khi ông nhận lấy ơn gọi, cũng là lúc ông chấp nhận để Thiên Chúa làm chủ cuộc đời của mình. Tiếng “Xin Vâng” mà ông đã thưa với Thiên Chúa nơi bụi gai bốc cháy (x. Xh 3,4), cũng là tiếng “vâng” theo Thiên Chúa suốt hành tình cùng Dân Chúa đi từ Ai-cập về Đất Hứa. Tiếng xin vâng đó đã làm cho ông không còn sống cho mình nữa, nhưng hoàn toàn sông cho Thiên Chúa và sống cho Dân của Ngài[6].

 

2.Môsê, vị thủ lãnh của Dân Chúa
Có thể nói, sau biến cố bênh vực người đồng bào của mình đã bị lộ, ông phải trốn tránh để thoát nạn Pha-ra-ô tìm cách giết. Trong lúc trốn tránh như vậy, ông mới thây được tình trạng bất công mà Dân Chúa phải gánh chịu (x. Xh 1,8- 22), đồng thời, ông cũng cảm thây buồn vì cảnh nội bộ bất hòa không có tinh thần đoàn kết thì làm sao có thể đương đầu với vua Pha-ra-ô đầy quyền lực để giúp dân thoát khỏi cảnh bất công (x. Xh 1,11-15)[7] .

Chính ông cũng cảm nhận được mình là một con người bất toàn (x. Xh 4,10), nhưng Thiên Chúa đã sử dụng ông để giải thoát dân của Ngài khỏi cảnh lầm than khốn cùng nơi đất Ai-cập, và dẫn đưa dân suốt hành trình trong sa mạc tiến về Đất Hứa (x. Xh 3,10.16-17). Lời khẳng định của Thiên Chúa phán với Môsê: “Ta sẽ đến với ngươi trong đám mây dày đặc, để khi Ta nói với ngươi thì dân nghe thấy và cũng tin vào ngươi luôn mãi” (Xh 19,9). Đó cũng là công khai, Thiên Chúa tuyên bố cho dân của Ngài biết rằng, ông là thủ lãnh của dân (x. Xh 19,9; 33,8). Nhưng nhìn lại toàn bộ công việc của ông đối với Dân Chúa, ứù ngay từ khi được nuôi dưỡng trong cung điện nhà vua cho đến tuổi lớn khôn, ông đã được Thiên Chúa trang bị cho tính thần thủ lãnh để gidp dân tộc: ông thấy được cảnh khôn khổ của dân mình và ông tìm cách bảo vệ dân của mình (x. Xh 1,11-12). Khi ông chính thức nhận lãnh sứ mệnh mà Thiên Chúa trao cho ông (x. Xh 3,10.16), ông thực sự là một vị thủ lãnh xứng đáng của dân: ông trực tiếp đến với vua Pha-ra-ô để phản đốì việc ngăn cản con cái ít-ra-en đi mở lễ kính Đức Chúa trong sa mạc (x. Xh 5,1-18); ông giải phóng cho dân-thoát khỏi kiếp sông nô lệ bên Ai-cập (x. Xh 3,1- 19)[8];ông đã dùng sức mạnh của Thỉên Chúa qua các tai ương chống lại vua Pha-ra-ô, để cho vua thây Thiên Chúa toàn năng đã ra tay nâng đỡ dân ít-ra-en, buộc vua Pha-ra-ô phải cho thần dân ương ngạnh của mình ra đi (x. Xh 7,8-12,31)[9] ;khi tai hoạ cuôì cùng ập tới, ông đã khôn ngoan truyền cho Israel cử hành lễ Vượt Qua (x. Xh 12,43-51), để người Ai-cập cũng như Dân Chúa thây được rằng:
“Thiên Chúa dùng bàn tay của Mô sê
Mà lãnh đạo dân riêng của Chúa
Như dẫn dắt đoàn chiên” (Tv 77,21).
Khi Dân Chúa ra đi, giơ tay đắc thắng, thì Pha-ra-ô vua Ai-cập dùng sức mạnh của mình đuổi theo. Sau lưng dân Ít- ra-en là đoàn hùng binh của nhà vua, Dân Chúa đã hoảng sợ và kêu trách, chống lại ông Môsê. Nhưng trước tình cảnh đó, ông đã nhân danh Đức Chúa để củng cố niềm tin cho dân và đã làm một việc vĩ đại là đưa dân vượt qua Biển Đỏ an toàn, còn quân Ai-cập đuổi theo đã bị biển nuốt chửng (x. Xh 14,5- 18)[10] . Bước sang thời kỳ sống trong sa mạc (Xh 14-15), với thời gian, ông bắt đầu tổ chức cho dân một nền phụng tự và đặt nền móng cho bộ luật một nền pháp chế mang tên ông[11] .

3.Môsê, vị ngôn sứ vĩ đại của Dân Chúa

Đối với Dân Chúa, Môsê là vị ngôn sứ vĩ đại (x. Đnl 34,10tt), Chúa đã dùng để giải phóng dân Ngài và ký kết Giao Ước với họ (x. Xh 24,8), đồng thời mặc khải cho dân lề luật của Ngài (Xh 24,3; 34,27). Ông có nhiệm vụ trước Đức Chúa, như Aharon có trách nhiệm trước ông trong việc truyền thông sự huấn lệnh của Ngài cho kẻ khác[12].Ông được Thiên Chúa tuyển chọn cũng đồng nghĩa với chức vụ ông nhận lãnh hết sức nặng nề, chưa kể tới những khó khăn cho bản thân ông trong khi thi hành. Tuy ông đã tìm cách tránh né cũng như đã rụt rè e ngại, nhưng ơn gọi đó thúc bách ông không thể chối từ. Chính sự đốì chọi giữa hai cái: tránh né, rụt rè và không thể từ chối vì sự quyến rũ đã làm cho ông phải đau khổ. Cuối cùng ông đã chấp nhận vì muốn cứu Dân Chúa. Vì sao mà ông xác tín được một cách như vậy về sứ mệnh ngôn sứ của mình? Thưa, nhờ sự tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa và nhận thấy ý định của Người cần phải truyền đạt lại cho dân[13] . Cũng chính Thiên Chúa ở với ông (x. Xh 3,12) mà lúc đầu ông lưỡng lự trước một nhiệm vụ nặng nề như vậy (Xh 12,10-13), nhưng sau đó ông đã chấp nhận và chu toàn nó với một tinh thần dịu hiền vô song, chịu đựng cả những lúc bị đồng bào chống đối (x. Ds 12.3.13)[14] .

Ta có thể nói, Môsê là miệng của Thiên Chúa (x. Đnl 18,13-20). Ông cho dân biết luật của Thiên Chúa và dạy họ phải sông phù hợp với luật ấy như thế nào (x. Xh 18,9; 20,1- 17). Ông khuyến nhủ họ phải sông trung thành với Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, Đấng luôn vì yêu thương đã tuyển chọn và cứu họ cách nhưng không (x. Đnl 7,7). Vì thế, ông truyền cho dân phải “yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em. Những lời tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi tạc vào lòng” (Đnl 6,5-6), và anh em hãy “kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân giữ tất cả những chì thị và mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh em, anh em sẽ được sống lâu” (Đnl 6,2).
Trước một dân tộc hay nổi loạn, trách nhiệm của ông là làm sao để duy trì được Giao Ước và Giáo huấn của Thiên Chúa cho dân tuân giữ (x. Hs 12,14). Việc thi hành sứ mệnh này đã biến ông trở thành người đứng đầu trong số những tôi tớ Thiên Chúa bị bách hại (Cv 7,52). Thỉnh thoảng ông cũng đã than vãn với Thiên Chúa về điều này: phải chăng chính tôi đã cưu mang dân tộc này để Ngài nói với tôi: hãy ẩm nó trong lòng ngươi như người vú nuôi ẩm đứa bé mà bà cho bú….ôi nhiệm vụ quá nặng nề đối với tôi (Ds 11,12)[15] .Mặc dầu sứ vụ của ông đầy chông gai, nhưng đạo lý tinh tuyền và cao thượng của ông lại trở nên tinh hoa của Cựu Ước làm cho Israel vượt hẳn lên trên các dân tộc khác[16]  .Vì là ngôn sứ ông tỏ ra xuất sắc đặc biệt trong vai trò một người bầu cử- ông đã cầu nguyện cho Israel chiến thắng kẻ thù (x. Xh 17 9- 13); khi dân bất tuân kêu trách Thiên Chúa, ông xin Ngài tha thứ mọi tội lỗi cho họ (Xh 32,11-14; Ds 14,13-20; 21,7). ông còn thể hiện tấm lòng nhân ái đối với dân tộc. Chính nhờ tâm lòng này, ông đã phác hoạ đường nét của người tôi tổ đau khổ, bầu cử cho các tội nhân bằng cách gánh lấy mọi lỗi lầm của họ (x. Is 53,2), đồng thời, ông trở nên biểu trưng cho ngôn sứ giống như ông mà ông đã loan báo một ngày kia Ngài sẽ đến (x. Đnl 18,15-l8)[17] .

 

4.Môsê, người trung gian                                          

Để đặt Môsê là trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ngài, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ông từ trước, là cho ông biêt sống tương quan thân mật với Thiên Chúa trong đời sống tâm linh, và định hướng cho ông đặt trên nền tảng sự nhận biết Thiên Chúa mà Ngài mặc khải cho[18].

Nơi bụi gai, ông nhận thức sự thánh thiện của Thiên Chúa khiến ông đem lòng tôn kính. Thiên Chúa gọi ông: “Môsê! Môsê! Chớ lại gần, cởi dép khỏi chân ra, vì nơi ngươi đứng là đất thánh… Ông Mô sê che mặt, vì ông sợ không dám nhìn Thiên Chúa” (Xh 3,4-6). Đối với Dân Chúa, không ai có thể nhìn thấy dung mạo Thiên Chúa, nhưng khi Môsê nài xin, Thiên Chúa đã biểu lộ cho ông thây và Thiên Chúa đã đàm đạo với ông diện đôi diện như hai người bạn với nhau (x. Xh 33,11).

Trong sứ vụ trung gian, ông là người có đời sống đức tin vững chắc vào Thiên Chúa. Thư Do-thái nói về cuộc đời của ông: Nhờ đức tin, ông chào đời không bị giết; nhờ đức tin, ông đã từ chối cho người ta gọi là con công chúa vua Pha-ra-ô; nhờ đức tín, ông thà cùng chịu ngược đãi với dân tộc mình còn hơn là được hưởng cái sung sướng chóng qua do tội lỗi mang lại; nhờ đức tin, ông đã cử hành lễ Vượt Qua để thần tiêu diệt khỏi đụng tới con đầu lòng của Dân Chúa; nhờ đức tin, ông đã đưa dân vượt qua Biển Đỏ như đi trên đất khô…(x.Dt 11,23-29).

Việc Thiên Chúa dùng Môsê để thể hiện cánh tay hùng mạnh của Ngài nhằm cứu dân thoát khỏi kiếp sống nô lệ, là Ngài cũng nhắm đến việc ký kết Giao Ước Sinai với họ qua Môsê: “Nếu các ngươi nghe tiếng Ta, các ngươi sẽ là phần riêng của Ta giữa muôn dân, và các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế và một dân tộc thánh thiện” (Xh 19,5). Tuy nhiên, Giao Ước cũ chỉ là hình bóng của Giao Ước mới mà Đức Kitô sẽ hoàn tất trong máu của Người” (x. Gr 31,31; Mt 26,26- 28)[19].

. Qua Giao Ước mà Thiên Chúa ký kết với Dân Ngài, Môsê đóng vai trò trung gian, “con của Giao Ước”. Với tư cách đó, ông không những dâng lễ tế và chủ tọa bữa tiệc kết giao giữa Thiên Chúa và Dân Ngài (x. Xh 24,1-18), mà ông còn công bố hiến chương căn bản soạn thảo theo hình thức Thập Giới cho dân chúng tuân giữ để được sông (x. Xh 20,1-17)[20] . Từ nay, qua Giao Ước này, tất cả những ai đã chịu phép rửa nơi Môsê đều được sáp nhập vào dân tộc của Giao Ước, nghĩa là tất cả những ai đã theo ông vượt qua Biển Đỏ dưới sự hướng dẫn của đám mây (x. lCr 10,2)[21].

Hành động của Môsê đối với Dân Chúa, Tân Ước gọi ông là người duy nhất cùng với Đức Giêsu được mệnh danh là Đấng trung gian: Qua trung gian Môsê (x. GI 3,19), tôi tớ trung tín (x. Dt 3,5), Thiên Chúa đã ban luật riêng cho dân Ít- ra-en, thì qua trung gian Đức Giêsu (lTm 2,4tt), Con Ngài (x. Dt 3,6), Thiên Chúa đã cứu chuộc mọi người: “Luật đã được ban cho chúng ta qua Môsê, nhưng ân sủng và chân lý thì chúng ta đón nhận từ nơi Đức Giêsu Kitô” (1Ga 1,17)[22]. Tuy nhiên, đức tin của ông có lúc bị sa sút (x. Xh 20,10), nhưng Thiên Chúa vẫn coi ông là tôi tớ trung thành nhất (x. Xh 12,7), và đối xử với ông như bạn hữu (x. Xh 33,11)[23].

 

5.Môsê, người bạn đồng hành với Dân Chúa
Sách Huấn Ca nói cho chúng ta biết thế nào là giá trị của một người bạn: “Người bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc, ai gặp được người bạn như thế là gặp được kho tàng. Không gì đổi lấy được một người bạn trung thành, và giá trị của người bạn ấy, không cân nào lường được. Người bạn trung thành là phương thuốc xoa dịu cuộc đời” (Hc 6,14-16a). Người bạn tốt sẽ làm cho cuộc sống của ta nên thú vị như lời vịnh gia diễn tả:
“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay
Anh em được sông vui vầy bên nhau”(Tv 133)
Nhưng thế nào là người bạn tốt? Người bạn tốt là người không chỉ yêu thương trong lòng mà còn thẳng thắn khiển trách khi bạn mình làm điều xâu (x. Cn 27,5); người bạn tốt là người kính sợ Thiên Chúa (x. Xh 33,11).
Nhìn lại hành trình của Dân Chúa từ Ai-cập cho đến cuộc xuất hành về Đất Hứa, ta thấy Môsê như một người bạn thực sự đồng hành với Dân Chúa qua mọi biến cố vui buồn, đói no mà họ gặp phải: Ông bênh vực người dân tộc của mình (x. Xh 2,12); không chấp nhận mang tiếng là người của kẻ thù, con của công chúa Pha-ra-ô (x. Xh ); xả thân để giải phóng Dân Chúa ra khỏi cảnh nô lệ Ai-cập (x. Xh 4,1-9; 13- 15); ông cùng chung vui với dân trong ngày chiến thắng khải hoàn ra khỏi Ai-cập (x. Xh 15,1-20). Trong hành trình sa mạc, trước tình cảnh dân không có nước, dân chúng kêu trách ông, ông đã xin Đức Chúa cho họ có nước uống (x. Xh 15,22-25; 17,1-7); khi họ không có gì để ăn, ông xin cho họ có bánh để dùng (x. Xh 16,1-35), ngay cả khi họ chán bánh đòi thức ăn khác, ông đã chiều họ xin Đức Chúa thay đổi và Thiên Chúa đã vì ông mà thay đổi cho họ là cho chim cút bay đến vào ngay doanh trại của họ (x. Xh 16); khi họ bị giặc giã tấn công, ông xin Chúa ra tay cứu giúp (x. Xh 17,16); Khi dân làm điều bất chính, Thiên Chúa ra tay giáng phạt, ông đã nài nỉ xin tha (x. Xh 32,1-14). Nhờ ông mà dân chúng thoát khỏi án chết trước cơn giận của Chúa mà Thánh Vịnh chúng ta thường nghe:
“Tại Khô-rếp, họ đúc một con bê,
rồi phủ phục tôn thờ tượng đó.
Họ đổi Chúa vinh quang lấy hình bò ăn cỏ.
Họ quên Thiên Chúa là Vị Cứu Tinh
từng làm việc lớn lao bên miền Ai-cập,
việc diệu kỳ trong cõi đất Kham
việc khiếp kinh giữa lòng Biển Đỏ.
Chúa tính chuyện sẽ tiêu diệt họ
nếu người Chúa chọn là Môsê
chẳng đem thân cản lối, ở ngay trước mặt Người,
hầu ngăn cơn thịnh nộ, kẻo Chúa diệt trừ dân”
(Tv 106,19-23)
Nhưng người bạn chân thật, không có nghĩa là luôn chiều theo những gì họ muốn và đồng loã với những việc xấu họ làm: ông đã thẳng thừng chỉ trích và giận dữ về việc làm của A-ha-ron và dân chúng khi vắng ông đã đúc bò vàng để tôn thờ thay cho Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương đưa họ lên khỏi đất Ai-cập (X. Xh 32,15,19).

KẾT 
Khi nói về Môsê và Dân Chúa, hình ảnh ông đã để lại nơi tâm thức mỗi người lòng yêu mến lẫn thán phục, ông chỉ là một con người bình thường, có phần khiếm khuyết trong ngôn ngữ, nhưng tấm lòng của ông lại đầy ắp tình thương yêu đốĩ với đẵn và lòng trung thành đốí với Thiên Chúa, ông đã để lại năm tố chất tuyệt đẹp đối với Dân Chúa : ông đồng hành với Dân Chúa trong mọi tình huống. Trước hết, ông là người được Thiên Chúa tuyển chọn, để qua ông, Ngài thể hiện tình thương đối với dân Ngài và biểu dương sức mạnh oai phong của Ngài cho mọi dân tộc biết, Ngài là Thiên Chiía duy nhất, để Dân Chúa mà ông là một thành phần, được giải phóng để tự do phụng thờ Thiên Chúa. Kế đến, ông là một vị thủ lãnh Thiên Chúa dùng để giải thoát dân ra khỏi cảnh lâm than khốn khổ của kiếp sông nô lệ nơi đất Ai-cập và hướng
dẫn dân trong hành trình sa mạc tiến về Đất Hứa : ông là một thủ lãnh luôn chia sẻ mọi vui buồn, ưu tư cũng như hy vọng với đoàn dân bước đi trong sự hướng dẫn của chính Thiên Chúa. Ông là một vị ngôn sứ vĩ đại đối với dân, nhờ ông mà Dân Chúa có một nền phụng tự và lề luật để dân tuân giữ và được số. Ông cùng với đoàn dân lắng nghe lời Thiên Chúa và cùng nhau tuân giữ. Ông còn là một vị trung gian làm nhịp cầu giữa Thiên Chúa và dân chúng trong việc thiết lập Giao Ước, ông đã thay mặt Chúa mà nói với dân, đồng thời, ông thay mặt dân để trình bày với Thiên Chúa những nhu cầu mà dân chúng cần. Cuối cùng, ông là một người bạn tốt đồng hành với dân chúng suốt cuộc đời với bao biến ccí buồn vui cũng như khi gặp hoạn nạn, giặc dã, đói no.
Hình ảnh của Môsê gợi cho chúng ta những suy nghĩ về bản thân: là thành phần của Dân Chúa, chúng ta được mời gọi đồng hành với những anh em trong đại gia đình Giáo hội. Dù là thủ lãnh, ngôn sứ, trung gian, ông Môsê đã hành xử như một người “đồng lao cộng khổ” trong cuộc giải phóng vĩ đại của dân tộc ông, một người cùng chia sẻ vận mệnh với những người mà Thiên Chúa đã gắn kết với đời ông, không chỉ bằng sợi giây của tình nghĩa đồng bào, mà còn bằng giao ước thánh thiêng. Cũng vậy, dù là những đan sĩ âm thầm trong đan viện, chúng ta sông mối liên kết đó bằng những gì sâu xa nhất, “bằng con tim của Chúa Kitô”, xuyên qua mọi sinh hoạt đời đan tu, vì những sinh hoạt đó đều mang tính Giáo hội.

 

 

 

 


 

[1] LG, số 9
[2]LG, số 9
[3]X. LG 2
[4]X. Phân Khoa Thần Học Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt, Điển ngữ thần học thánh kinh III, Trung gian, tr.324 
[5]X. Phân Khoa Thần Học Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt, Điển ngữ thần học thánh kinh, Trung gian, tr 324
[6]X. Từ Điển Kinh Thánh, III, tr. 1045 
[7]X. Từ Điển Kinh Thánh, III, tr. 1042 
[8]X. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, Môsê, tr. 76 
[9]LG, số 9
[10]X. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, Môsê, tr. 76-77. 
[11]Từ Điển Kinh Thánh, M tr. 1042
[12] X. Lm Ignatio Nguyễn Ngọc Rao, OP, Tìm hiểu các sách ngôn sứ, tr. 7 
[13]X. Lm Ignatio Nguyễn Ngọc Rao, OP, Tìm hiểu các sách ngôn sứ, tr. 16-17  
[14]X. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, Môsê, tr. 76 
[15] 15X. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, Môsê, tr. 77-78
[16]Lm Ignatio Nguyễn Ngọc Rao, OP, Tìm hiểu các sách ngôn sứ, tr.7  
[17]X. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, Môsê, tr. 78 
[18] X. Từ Điển Kinh Thánh, III, tr. 1043-1045
[19] X. Antôn Ngô Văn Vững, Đời Thánh Hiến Theo Công Đồng Vaticanô II, Dấu Chỉ – Chứng Từ – Ngôn Sứ, NXB Tôn giáo, tr.303
[20] X. Từ điển kinh thánh, III, tr.1043-1042
[21] X. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, Môsê, tr. 77
[22] X. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, Môsê, tr. 75
[23] X. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, Môsê, tr. 76

 

 

 

 

 

 

 

TỪ BÁCH HẠI GIÁO HỘI

ĐẾN HY SINH CHO GIÁO HỘI

 

FM.Cao Nguyên

Vào thời Giáo hội sơ khai, một nhân vật xuất hiện làm đảo lộn không những sinh hoạt của Giáo hội vừa thành hình, mà còn tạo nên một tâm thức và một lối sống mới theo Tin Mừng nơi các giáo đoàn. Một con người đã khởi đầu bằng việc bách hại các Kitô hữu đang đi theo một “đạo mới” – một con đường mới – khác hẳn “lề lối của cha ông” được truyền tụng qua bao thế hệ. Nhưng cũng chính con người ấy đã dám hy sinh tất cả vì tình yêu của Đấng mà trước kia ông đuổi bắt mà nay qui phục và hết tình yêu mến, sấn sàng chịu mọi gian lao vất vả và hy sinh mạng sống vì Cộng Đoàn g Giáo hội – mà xưa kia ông đi lùng sục khắp ngõ hẻm để diệt trừ hết mọi phần tử. Nới con người ấy hội tụ những gì thật trái ngược và cả những thái cực như thể không hoà hợp được. Con người ấy mang tên gọi là Phaolô.
Phaolô là thế, là nơi qui hợp những cái “nhất” khó hài hoà. Nhưng ân sủng đã biến đổi ông, để những cái nhất đó cộng hưởng với nhau biến ông thành một nhân vật mang một tầm vóc lớn không những cho Giáo hội thời các Tông Đồ và cả cho Giáo hội hôm nay, của thiên niên kỷ thứ ba.
Nhân dịp mừng kỷ niệm năm mươi năm ngày thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, một mốc lịch sử nói lên sự trưởng thành của một Giáo hội địa phương, chúng ta được mời gọi dừng lại để suy tư và chiêm ngưỡng những tác nhân lịch sử đã tạo nên những bước ngoặc quan trọng trong tiến trình trưởng thành hoá cộng đoàn những người tin kính Chúa Kitô. Trong tính thần đó, chúng ta ngược dòng thời gian để gặp gỡ thánh Phaolô, người đã mang nặng một mổì tình âu yếm đối với các Kitô hữu và đã nhiệt tâm xây dựng Giáo hội, để có thể thốt lên: “ Này tôi vui sướng trong các nỗi thống khổ chịu vì anh em, và trong thân xác tôi, tôi bù đắp những gì còn thiếu nơi các nỗi quẫn bách Đức Kitô phải chịu vì thân mình Ngài, tức là Hội thánh, mà tôi đã trở thành người phục vụ, thể theo sự an bài Thiên Chúa đã trao phó cho tôi, để lo cho anh em” (Cl 1,24-24).
Như chúng ta vừa nói trên, Phaolô là con người của những thái cực và của một tiến trình biến đổi tuyệt vời. Trong bài viết này, tôi chỉ nêu lên một vài yếu tô trong đời sống thánh Phaolô liên quan đến Giáo hội – Hội thánh – và phác hoạ một tiến trình từ thái cực này đến thái cực kia : từ một con người khủng bố Giáo hội đến một con người hy sinh cho Giáo hội.

 

1. ĐÁNH PHÁ GIÁO HỘI
Đối với các tông đồ khác – như Nhóm Mười Hai – tiến trình xây dựng Giáo hội mang dáng dấp của một sự tiệm tiến và trong bình an : được Chúa Giêsu kêu gọi, được Ngài giáo huân, được Thánh Thần ngự xuống, và mỗi người ra đi rao giảng Tin Mừng trong niềm hân hoan của một “người được sai đi”.
Trái lại, tiến tình xây đựng Hội thánh nơi Phaolô lại hoàn toàn khác : khởi điểm của ngài không mang dấu ân của bình an mà là màu tang, cái chết dành cho những người sống trong Giáo hội. Một khởi điểm như thể không là khởi điểm
được, vì nó đưa ra khỏi quĩ đạo của chính việc xây dựng. Nhưng Thiên Chúa có cách của Người và Ân Sủng cũng có muôn ngàn phương kế.

 

a.Bắt Bớ Giáo hội.
Sách Công Vụ Tông Đồ giới thiệu một Saolô tàn phá Hội thánh (8,3), và sự bách hại của ông càng ngày càng khốc liệt (9,1-2). Từ một người thanh niên khiêm tốn giữ quần áo cho những người ném đá Stêphanô (7,58), trở thành một người tự nguyện đi bắt những người tin vào Chúa Giêsu. Lòng nhiệt thành với Lề Luật, với truyền thông của Cha Ông và quá trình được đào tạo trong truyền thống biệt phái khiến ông không thể có một “cái nhìn khác” ngoài quan điểm của những người lãnh đạo Do thái vào thời điểm đó.
Sau này, khi đã trở thành môn đệ Chúa Kitô, dong duổi đó đây rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, trở thành đối tượng bị người Do thái quá khích bắt bớ. Khi bị bắt ngay trong đền thờ, Phaolô đã ngỏ lời với họ và trình bày một phần lý lịch của mình : “Người Do thái, sinh ở Tarsô, nhưtig được nuôi dưỡng tại thành Giêrusalem, dưới chân thầy Gamaliel, tuân giữ Lề Luật cha ông một cách nghiêm nhặt” (22,3-5). Hai năm sau, trình diện trước mặt vua Agrippa, Phaolô cho biết thêm: “Tôi đã sông theo phái nghiêm nhặt nhất trong tôn giáo chúng tôi, tức là phái Pharisiêu” (26,5), “Về phần tôi, trước kia tôi nghĩ rằng phải dùng mọi cách để chống lại danh Giêsu người Nadarét” (26,9). Trong các thư, Phaolô cũng khẳng định về nguồn gốc Do thái và một phần nào lý do về thái độ thù nghịch của mình (x.l Cr 15,9; GI 2,13-14; P1 3,4-6).
Chúng ta cần ghi nhận rằng cuộc tiếp xúc đầu tiên của ngài với Con Người Giêsu đã xảy ra qua chứng từ của cộng đồng Kitô hữu tại Giêrusalem. Đó là một cuộc tiếp xúc đầ sóng gió. Một khi đã gặp nhóm tín hữu mđi này, ông lập tức trỏ thành tên khủng bố dữ tợn đổi với họ. Sau này, chinh ngai công nhận điều này ba lần trong các thư tín: ‘Tôi đã ngược đãi Giáo hội của Thiên Chúa” (1 Cr 15,9; GI 1,13; P13,6) hầu như để trình bày cách đối xử của ngài là một tội ác tày trời nhất.
Lịch sử cho chúng ta thấy rằng người ta thường đến với Đức Kitô qua Giáo hội. Theo một nghĩa nào đó, điều đó cũng đúng đối với Thánh Phaolô : gặp Giáo hội trước khi gặp Chúa Giêsu. Tuy nhiên, trong trường hợp của ngài, cuộc tiếp xúc đó bất lợi; thay vì đưa đến tình thân hữu lại đưa đến một cuộc thanh trừng tàn bạo.
Gặp gỡ như vậy có thể hình thành nơi Phaolô một giai đoạn trong tiến tình xây dựng Giáo hội không? Nếu Phaolô vẫn cứ “an nhiên tự tại” trong những học hỏi nghiên cứu trí thức của mình ngay cả về phương diện tôn giáo, “bàng quan” trước sự bành trướng của một “tân giáo phái” tôn thờ “một kẻ bị đóng đinh”, thì có thể xảy ra một cuộc gặp gỡ “đầy kịch tính” có sức biến đổi ông?

b. Biến Đổi
Biến cố trên đường Đamas đã làm thay đổi tận căn cuộc đời của Saolô, biến đổi ông từ một kẻ bách hại Giáo hội dữ dội trở thành một nhà truyền giáo vĩ đại. Biến cố kỳ lạ này được thuật lại đến ba lần trong sách Tông Đồ Công Vụ (9, 1-19 ; 22, 3-21 ; 26, 9-18) và rải rác ịrong các thư tín (lCr 9,1 ; 15, 8-10 ; P1 3, 4-14 ; Gl 1, 11-23). Chính Phaolô đã đọc lại biến cố này như là một cuộc gặp gỡ với Ân sủng và Tình Yêu Chúa Kitô dành cho riêng mình.
“Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngược ngạo, nhưng tôi đã được Ngài thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tín” (lTm 1,13). Trong tư cách của một người bách hại, đáng lẽ phải là người chất vấn những người kitô hữu, Saolô lại bị một người đang bị bách hại chất vấn: “Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta ?” (Cv 9,4). Rồi người đó còn giải thích thêm: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,5). Đứng trước sự việc lạ lùng này, Saolô không biết lý luận làm sao; ông không đòi hỏi người đối thoại giải thích rõ ràng hơn, ông đành để cho lý trí của mình bị khuất phục qua lời thưa: “Lạy Chúa, con phải làm gì ?” (Cv 22,10). H
Điều đã xảy ra cho Saolô, đó là cuộc mặc khải về con người của Đức Giêsu đến mức nó đã làm cho Saolô xét lại sự phán đoán của Iĩùnh và lối ứng xử của mình trước kia và những gì mình đã làm. Một cuộc mặc khải đã đảo lộn não trạng nội giới của Saolô. Từ đó, đối với Phaolô, sự gắn bó với Giáo hội được hình thành nhờ sự can thiệp trực tiếp của Đức Kitô, là Đấng trong lúc tự tỏ mình ra trên đường Đamas đã đồng hoá với Giáo hội và làm cho hiểu rằng bắt bớ Giáo hội là bắt bớ chính Người.
Cho nên, Thánh Phaolô đã cùng một lượt vừa trở lại với Đức Kitô và vừa trở lại với Giáo hội. Điều này giúp người ta hiểu tại sao Giáo hội sau này hiện diện quá nhiều trong tư tưởng, ưái tim và hoạt động của thánh Phaolô.

2. XÂY DỰNG GIÁO HỘI
Từ thù ghét, đánh phá đến yêu mến tận tình và nhiệt tâm xây dựng : đó là những thái cực mà Phaolô đã trải nghiệm. Một khi đã gặp gỡ Chúa Kitô và được Ân sủng biến đổi, Phaolô, vẫn luôn là con người hăng say, “con người của dòng máu nóng”, đã mang tất cả những gì “là” và “có” để Tin Mừng Chúa Kitô và Giáo hội được hiện diện khắp nơi.

 

a. Rao giảng Đức Kitô chịu chết và phục sinh
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu được mời gọi sẵn sàng từ bỏ mình, vác thập giá đi theo Chúa (x. Mt 16,24), Từ sau biến cố Đamas, Phaolô đã thật sự ý thức mình được Chúa chọn gọi làm Tông đồ (x. GI l,lltt) và đã hoàn toàn đáp trả bằng cả cuộc đời loan báo Tin Mừng, đạt cao điểm nơi chính sự chết theo gương Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, và tột đỉnh của vâng phục là cái chết thập giá (x. Pl 2,6-8). Phaolô đã khẳng quyết: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2 Cr 4,10). “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào Thập giá. Tôi sống nhưng không còn là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi” (GI 2,19-20). Chọn Chúa Kitô làm lẽ sống, Phaolô là người môn đệ tuyệt vời của Đức Giêsu, thể hiện cao điểm nơi ý thức và thái độ trước sự chết.
Cảm nghiệm gặp gỡ Đấng Phục Sinh trong biến cố Đamas đã biến đổi Phaolô cách tận căn (x.Gl 1,15tt; Pl 13,12). Điều này cũng diễn ra tương tự nơi các Tông đồ. Phaolô nhận thức rõ ràng Đấng chịu đóng đinh Thập giá đã sông lại, đã tỏ mình cho ngài cũng như cho các môn đệ (x.1Cr 15,3-7) yà khám phá ra ý nghĩa thâm sâu của cái chết thập giá. Tâm hôn tràn ngập niềm vui và an bình vì được giao hoà với Thiên Chúa (P1 3,7-14). Từ đấy, Đức Kitô là lẽ sống của ngài (X.Pl 3,8-14). Ngài quả quyết không còn muôn biết đến chuyện ỷ khác ngoài Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh thập giá (1Cr 2,2-5). Ngài phiền trách giáo .đoàn Galata bị mê hoặc mà quên đi hình ảnh Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh (x.Gl 3,1). Ngài thêm vào Truyền thông về Thánh Thể lời xác quyết: loan truyền Chúa chịu chết cho đến khi Ngài lại đến (x.1Cr 11,26).

b.Mối bận tâm vì các Giáo hội
Ý thức mãnh liệt về sứ vụ của mình làm nên động lực bên trong cho tất cả những gì ngài làm vì Giáo hội. Ngay cả những lúc khó khăn, ngài vẫn luôn xác tín về sứ vụ phục vụ Giáo hội như là một trách nhiệm phải chu toàn và một ân huệ cao quí.
Giáo hội hiện diện nơi ngài nhiều đến nỗi hầu như ngài đã xây dựng các giáo đoàn trong nhiều thành phố khác nhau với tư cách một nhà truyền giáo. Khi ngài nói về mối bận tâm cho tất cả các giáo đoàn (“Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội thánh”(2 Cr 11,28), ngài nghĩ tới những cộng đồng Kitô hữu khác nhau đã lần lượt được hình thành tại Galatia, Iconia, Macedonia và Achaia. Một sô’ trong những giáo đoàn này làm ngài bận tâm và khổ đau, như đã xảy ra với các giáo đoàn ở Galatia, mà ngài thây họ “theo một tin mừng khác” (GI 1,6). Ngài phản đối với một quyết tâm kiên vững. Dầu vậy, ngài cảm thấy gắn bó với các cộng đồng mà ngài đã thiết lập không phải một cách lãnh đạm và quan liêu, mà một cách mãnh liệt và say mê. Thí dụ, ngài đã diễn tả tâm tình với những người Philipphê: “những anh em mà tôi hằng thương mến và nhớ nhung, là niềm vui và triều thiên của tôi” (Pl 4,1). Ngài còn sử dụng một lối so sánh khác để diễn đạt mối thân tình; “Thư giới thiệu của chúng tôi chính là anh em, được viết trong tâm hồn chúng tôi, mà mọi người đều nhận ra và đọc được” (2 Cr 3,2).
Còn ở những lúc khác, ngài dùng hình ảnh hiền phụ và hiền mẫu để ngỏ lời với những người được ngài cho chào đời trong đức tin: “Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đên khi Đức Kitô được thành hình nơi anh em” (GI 4,19; x.l Cr 4, 14-15; 1 Tx.2,7-8).
Qua những kiểu nói trên, Thánh Phaolô đã minh hoạ hình ảnh về một Giáo hội là ‘Thân Thể Đức Kitô”. Đây là một định nghĩa hết sức độc đáo diễn tả chính bản chất của Giáo hội (x. 1 Cr 12,27; Ep 4,12; 5,30; C11,24).
Chúng ta tìm thấy gốc rễ sâu xa nhất của diễn ngữ này về Giáo hội trong Bí tích Thánh Thể. Thánh Phaolô nói: “Chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một tấm Bánh, một thân thể, vì tất cả chúng ta chia sẻ cùng một tấm Bánh này” (1 Cr 10,17). Trong cùng một Thánh Thể, Đức Kitô ban cho chúng ta Mình Người và biến chúng ta thành Thân Thể của Người, về điều này, Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Galata: ‘Tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (GI 3,28). Qua những lời nói này, Thánh Phaolô giúp chúng ta hiểu rằng không những chỉ có sự lệ thuộc của Giáo hội vào Đức Kitô, mà còn có một hình thức tương đương và đồng hoá của Giáo hội với chính Đức Kitô. Cho nên, từ đó nảy sinh ra tính cao sang và cao quý của Giáo hội, tức là, của tất cả chúng ta là những phần tử của Giáo hội, là chi thể của Đức Kitô, một nối dài sự hiện diện cá nhân của Người trong thế giới. Và đương nhiên từ đó nảy sinh ra nhiệm vụ của chúng ta là sống phù hợp với Đức Kitô và sấn sàng chấp nhận tất cả vì Giáo hội.

3. SẴN SÀNG ĐAU KHỔ CHO GIÁO HỘI
Tiến trình xây dựng Giáo hội nơi thánh Phaolô không chỉ dừng lại nơi “hành động”, nghĩa là những gì ngài ấp ủ và làm cho các Giáo hội. Tiến trình đó còn mang dấu ấn của khổ đau. Và đây cũng là một thái cực nữa trong đời thánh Phaolô. Nếu ngày xưa ngài đã muôn giết chết hết các môn đệ Chúa Kitô, thì nay, không những muốn trao ban cho họ Tin Mừng, mà cả mạng sông nữa. Trước kia là đổ máu, đánh đòn người khác, nay chấp nhận và vui mừng vì những sỉ nhục vì Chúa Kitô, để Giáo hội được tăng trưởng. Và đó là một khía cạnh tuyệt vời khác của Ân sủng biến đổi nơi con người Phaolô.
Khi thi hành sứ vụ tông đồ, thánh Phaolô gặp những khó khăn và đã can đảm đương đầu vì yêu mến Đức Kitô. Chính ngài đã nhắc lại phải chịu đựng “vất vả… tù đày… đánh đập… nhiều lần chạm trán với tử thần.I. Ba lần bị đánh đòn bằng roi, một lần bị ném đá, ba lần đắm tàu, trải qua một đêm và một ngày trên biển cả; phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phô, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em; tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng, (2 Cr 11,23-27).
Chắc chắn rằng ngài đã không thể đương đầu với những khó khăn như thế và đôi khi trong hoàn cảnh tuyệt vọng, nếu ngài đã không có một lý do để tin vào một giá trị tuyệt đốỉ, mà trước giá trị ấy, không một cản trở nào có thể coi là không thể vượt qua. Như chúng ta đã biết, đối với thánh
Phaolô, lý do này là Đức Giêsu Kitô và tình yêu của Người* ‘Tinh yêu của Đức Kitô thúc đẩy chúng tôi…” (2 Cr 5,14).
Chính tình yêu đó đã thúc đẩy thánh Tông Đồ làm chứng hùng hồn bằng cái chêt tử đạo. Phaolô coi cuộc đời như một thao dợt và học tập cách chết, vì nghĩ rằng “một khi cùng chịu đau khổ với Người thì cũng sẽ được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17). Cuộc sống của Phaolô vì thế luôn là một cảm nghiệm sông thường xuyên về đau khổ. Ngài tuyên bố tuy sống nhưng hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giêsu (2 Cr 4,11). Ngài còn quả quyết: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2 Cr 4,10), như thể muốn nói Đức Giêsu đã và nay vẫn tiêp tục chết ngang qua các môn đệ của Người. Sự chết vẫn đang hoạt động trong các tông đồ để sự sống được chuyển tới các tín hữu. Không phải là một thay thế, nhưng là một chuyển dời từ sự chết đến sự sống. Sự chết của Đức Kitô vẫn đang hoạt động cách huyền nhiệm để đản sinh sự sống trong Giáo hội của Người. Ngài nói: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội thánh” (Cl 1,24).
Thánh Phaolô đồng hoá những đau khổ của ngài với những gian nan thử thách mà Đức Kitô đã chịu trong suốt thời gian sứ vụ, đưa đến cái chết thập giá. Thánh Phaolô nói những gian truân của Đức Kitô còn thiếu, ngài xin mang vào thân cho đủ mức. J. Kremer giải thích: Đức Kitô vẫn hoạt động mãi cho đến ngày cùng tận. Điều đó được thể hiện nơi hoạt động của các tông đồ. Đức Kitô phục sinh và vinh hiển luôn hiển hiện trong lịch sử qua dòng thời gian. Điều này thiếu nơi Đức Giêsu Nadarét trước khi chết, do bị giới hạn bởi thân xác và lệ thuộc vào các định luật không gian và thời gian.
Thánh Phaolô cho rằng những đau khổ ngài chiu như một bổ khuyết vào điều còn thiếu nơi những gian truân thử thách của Đức Giêsu. Từ nay Đức Giêsu Nadarét tỏ mình ngang qua hoạt động và những gian truân của các môn đệ. Mọi đau khổ truân chuyên được đón nhận vì và cho Hội thánh, cũng như Đức Giêsu đã chịu mọi đau khổ để thiết lập và xây dựng Hội thánh là thân mình của Người.
Những gì thánh Phaolô đã sống và có được vốn là hoa quả của kinh nghiệm. Ngài đã trải nghiệm trường học thử thách, trường học này làm cho ngài ý thức được sự yếu hèn của bản thân, định vị chỗ đứng và tự giải thoát mình khỏi mọi thứ phụ thuộc. Ngài đã biết tận dụng những thử thách và nhìn nhận những yếu đuôi bản thân để trở thành một vị mục tử chân chính, vì nhữrig đau khổ đã dạy ngài sự khiêm nhường giúp ngài suốt đời.
Ngoài ra, thánh Phaolô là con người dấn thân hết mình với tất cả tính dễ cảm xúc, cho nên ngài cũng có thể cảm thấy những niềm vui rất sâu xa nữa. Chính bởi vì ngài cảm nhận rất mãnh liệt tất cả những nỗi đau khổ dính liền với thừa tác vụ, nên ngài có thể cảm nhận được cũng mãnh liệt như thế những niềm vui và những nỗi phấn khởi mà ngài nói đến trong các thư tín. Ngài viết: “Chúng tôi biết nói gì để tạ ơn Thiên Chúa về anh em, vì tất cả niềm vui mà nhờ anh em, tôi có được trước nhan Thiên Chúa chúng ta” (lTx 3,9). Những nỗi đau khổ của ngài được đền bù bởi những niềm vui rất sâu xa, phấn khởi “Tôi rất tin tưởng anh em, tôi rất hãnh diện về anh em. Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Cr 7,4).
Đó là hình ảnh của người mục tử, một con người dấn thân sâu xa với tất cả con tim và tất cả tính nhạy cảm trong sự nghiệp của mình. Ngài rất yêu những kẻ được giao phó cho mình với bằng tình yêu Chúa Kitô và mang tính nhân loại. Ngài biết rõ và nhớ tên từng người, trường hợp cá nhân, hoàn cảnh gia đình, công việc, bệnh tật của mỗi người. Từng người một, các kitô hữu là đốì tượng của sự chăm sóc của ngài.

KẾT:
Thánh Phaolô được gọi là thánh Tông Đồ (viết bằng chữ hoa), vì ngài có một vị trí đặc biệt trong Giáo hội. Trong các thư tín, ngài đã trình bày rất nhiều vấn đề liên quan đến Kitô giáo và đưa ra những luận điểm liên quan đến ơn cứu độ làm nền tảng cho đời sông Giáo hội và cả cho công cuộc truyền giáo. Ngài không chỉ là con người của đạo lý, của những lý thuyết, mà còn là con người hành động. Từ ngày được gặp gỡ Chúa Kitô trên đường Đamas, đời sống của ngài được dành cho công cuộc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô. Những cuộc hành trình dài ngày của ngài trên các vùng đất mới để mang Chúa Kitô đến cho dân ngoại, để hình thành những cộng đoàn Kitô – những Giáo hội địa phương – đã nói lên nhiệt tâm của ngài.
Sau “năm thánh Phaolô” (2009), năm được dành cho việc học hỏi giáo thuyết và đời sống của thánh nhân, năm nay, nhân kỷ niệm năm mươi năm thành lập hàng Giáo Phẩm
Việt Nam, chúng ta gặp lại thánh Phaolô trong tiến trình xây dựng Giáo Hội. Thật vậy, nói đến thánh Phaolô là chúng ta nghĩ ngay đến một Tông Đồ nhiệt thành và đầy sáng kiến táo bạo để Giáo hội hiện diện bất cứ nơi nào Tin Mừng Chúa Kitô được loan báo. Trong bài viết này, chúng ta thấy tiến trình của ngài như một thứ biện chứng : từ phá hoại đến xây dựng, từ gây khổ đau đến chấp nhận khổ đau. Biện chứng này, trong cái nhìn đức tin, không phải là kết quả của hoạt động nhân loại, nhưng là của Ân sủng. Khi còn là một người đang miệt mài đánh phá Giáo hội Chúa Kitô mới được hình thành, Saolô đâu có ngờ mình sẽ là một con người nhiệt tâm nhất xây dựng Cộng Đoàn Kitô với tất cả năng lực thể lý và tinh thần của mình. Sự biến đổi đó là hoạt động của Ân Sủng và Thiên Chúa đã dùng những phương thế độc đáo để qui phục con người cũng rất ư là độc đáo đó.
Mừng kỷ niệm ngày thành lập hàng Giáo Phẩm Việt Nam và hình ảnh thánh Phaolô tái xuất hiện, chúng ta được mời gọi trở thành những tông đồ của niềm hy vọng, vì Thiên Chúa có muôn ngàn phương cách và biết bao nẻo đường khác nhau để Giáo hội được hiện diện trên những vùng đất mới và đưa đến tuổi trưởng thành.

 

TÀI LIẾU THAM KHẢO:
1. Thánh Phaolô Đối Diện Với Chính Mình, ĐHY Carlo Mattia Martini, TGM Milano.
2. Tìm hiểu Thư Phaolô, Linh Tiến Khải.
3. Thế Giới Tân Ước, John and Kathleen Court, UBĐKCG, 1994.
4. Các Bài Giáo Lý của ĐTC BÊNÊĐICTÔ XVI về Thánh Phaolô.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

SỐNG HỒNG ÂN HIỆP THÔNG 

 

 FM.Duy Ân

“Thách đố lớn nhất của Giáo Hội trước thiên niên kỷ thứ ba là làm cho Giáo Hội thành ngôi nhà và trường học của sự hiệp thông, nếu chúng ta muốn trung thành với kế hoạch của Thiên Chúa và đáp trả những khát vọng sâu xa nhất của thế giới”[1]. Quả thật, không lâu sau, biến cố khủng khiếp 11 tháng 9 năm 2001 tại New York, đã mỏ màn cho làn sóng khủng bố, bạo hành, dẫn đưa thế giới vào tình trạng ngày càng bất ổn trong nhiều lãnh vực, và đang có xu hướng lan rộng thêm. Trước nguy cơ hiện nay, đề xướng của Đức Giáo Hoàng về một Linh Đạo Hiệp Thông quả là một nhu cầu cấp bách cho thế giới, và là một thách đố lớn nhất đối với Giáo Hội vào thời điểm này. Tuy hiệp thông vốn thuộc về bản chất của Giáo Hội, nhưng đặc biệt lúc này, càng đòi hỏi được triển khai và thể hiện sâu xa rộng rãi hơn, nơi mọi thành phần củạ Giáo Hội. Quả vậy, có thể nói, kitô hữu trung thực phải là con người của hiệp thông, nghĩa là tiếp nhận và thể hiện hiệp thông trong cuộc sống. Vậy, để đi vào kế hoạch của Thiên Chúa, đồng thời đáp ứng khát vọng sâu xa nhất của xã hội hiện nay, chúng ta cùng tìm hiểu thêm về hiệp thông và làm sao thể hiện hiệp thông trong ơn gọi kitô hữu và sứ vụ của Giáo Hội.

 

I HIỆP THÔNG: ÂN HUỆ CỦA THIÊN CHÚA BA NGÔI  

Giáo Hội tuyên nhận rằng: “Cùng đích của toàn bộ nhiệm cục của Thiên Chúa là đưa các thụ tạo vào sự kết hợp trọn vẹn với Ba Ngôi diễm phúc” (Ga 17,21-23)[2]. Nhờ vậy “Loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời Nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa” (2Pr 1,4)[3]. Mạc khải còn tỏ cho chúng ta biết: “Toàn bộ nhiệm cục của Thiên Chúa là công trình chung của Ba Ngôi Thiên Chúa”[4], và “khi Kitô hữu có hiệp thông với một Ngôi vị, thì cũng không mảy may tách rời Ba Ngôi. Ai tôn vinh Chúa Cha, thì tôn vinh nhờ Chúa Con trong Chúa Thánh Thần; ai bước theo Chúa Kitô là do Chúa Cha lôi kéo (x. Ga 6, 44), và Chúa Thánh Thần thúc đẩy (x. Rm 8, 14).[5] Bởi vậy, cả Ba Ngôi cùng tác động theo Ngôi Vị của mình, để chúng ta được ơn hiệp thông: nhờ Chúa Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần, được đến với Thiên Chúa Cha (x. Ep2,18).

 

1.Nhờ Đức Kitô Giêsu 

Hồng ân hiệp thông được thực hiện nhờ Đức Giêsu Kitô. Theo kê hoạch cứu độ của Thiên Chúa, Ngài đã tự nguyện vào trần gian để thực thi ý của Chúa Cha, cứu độ loài người (x. Dt 10, 7.9); vì thế, Ngài đã chấp nhận hiến tế, để chúng ta được giao hoà với Thiên Chúa (x. Rm 5, 10-11). Nhờ vậy, “Ngài quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11, 52), “ phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (Ep 2, 14). Với ân huệ Phục sinh, Chúa Giêsu đã thông ban Thánh Thần khai sinh Hội Thánh, kết thành Nhiệm Thể (x. Cv 2, 1-11), được nuôi dưỡng bởi Thánh Thể, bí tích yêu thương tạo hiệp thông (x. 1Cr 10, 17). Như vậy, Chúa Giêsu Kitô trở thành nhân tố hiệp thông, như Đầu liên kết mọi chi thể “làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái” (Ep 4, 16)

 

2.Trong Chúa Thánh Thn

Chúa Giêsu Kitô phục sinh đã trao ban Thánh Thần cho các môn đệ (x. Ga 20, 22; 7, 37-39). Nhờ vậy, được thực hiện hiệu quả của hồng ân hiệp thông: “Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ờ trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (Ga 14, 20). Quả thật, chính Thánh Thần ban ơn hiệp thông (x. Cv 2, 42; 2 Cr 13, 13), tạo hiệp nhất giữa cộng đoàn tín hữu (x. Cv 2, 44; Ep 3,4; 1 Cr 2, 19), kết thành Thân mình Đức Kitô (x. Ep 4, 4; 2, 22). Thánh Thần ban ơn nghĩa tử (x. Rm 8, 15; GI 4, 4-6), đổ tràn tình yêu (x. Rm 5,5),   ban sự sống thần linh nhờ ơn tái sinh (x GI 5, 25; Ga 3, 6), làm nên một thân thể (1Cr 12, 13) và “xây dựng thành Đền thờ Thiên Chúa ngự; nhờ Thần Khí” (Ep 2, 22). Như vậy, Thánh Thần quả là nguồn tác tạo hiệp thông (x. 2 Cr 13, 13).

 

3.Đến Cùng Thiên Chúa Cha

Chính Thiên Chúa Cha là căn nguyên hiện hữu của muôn loài (x. 1Cr 8, 6), “Ngài là Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người ” (Ep 4,6). Ngài cũng là nguồn mạch tình yêu cứu độ: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Tình thương Thiên Chúa Cha dành cho chúng ta đươc bao gồm trong phúc làm nghĩa tử: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu thương chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, mà thật sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1Ga 3, 1). Thật vậy, “Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên :Abba, Cha ơi! (Gl 4, 6). Như thế, hồng ân hiệp thông chúng ta được hưởng là do “ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình thương của Chúa Cha và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần” (2 Cr 13,13).  

 

II- HIỆP THÔNG QUA TIẾN TRÌNH KITÔ HÓA

Đức Giêsu Kitô, “người Con Chí Ái” (x. Mc 1, 11; Mt 17, 5), “người Con Duy Nhất” của Chúa Cha (x. Ga 1,14.18; 1Ga 4,9), đã được trao ban (x. Ga 3, 16) để dẫn đưa chúng ta vào hồng ân hiệp thông. Vì thế, Thiên Chúa Cha kêu gọi chúng ta “đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1Cr 1,9). Đây là ân huệ được kitô hoá, chúng ta tiếp nhận xuyên qua ba nhân đức đối thần là Tin, Cậy, Mến, bởi lẽ Giáo Hội sống hồng ân hiệp thông là một “Cộng đoàn Tin, Cậy, Mến”[6].

 

1. Nhờ Đức Tin.                                                                        

Theo Tin Mừng Thánh Gioan, tin hay không tin có nghĩa là đón nhận hay không đón nhận: “Ngôi Lời đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai ĐÓN NHẬN, tức là những ai TIN vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1, 11-12). Niềm tin nơi con người, bởi vậy, có mức độ khác nhau : từ thái độ tin nht thời (x Lc 8, 13; Ga 6, 64-66), đến không tin hoặc mất niềm tin (x. Ga 5, 39-40; 8, 24; 10, 25). Tuy nhiên, cũng có niềm tin còn yếu kém, cần được củng cố, như trường hợp: các Tông đồ (Lc 17, 5) và người cha đến xin Chúa Giêsu cứu chữa con mình (x. Mt 9, 23-24). Trách nhiệm người tín hữu là kiên định trong niềm tin: “Chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin để bảo toàn sự sống(Dt 10, 39). Kinh Thánh cho ta thấy, đối với kitô hữu, yếu tố hệ trọng là tin: “Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa”. Đây là tín điều căn bản. Sách Công vụ Tông đồ kể về trường hợp quan Thái giám: sau khi nghe giải thích về Lời Chúa, ông đã tin và tuyên xưng: “Tôi tin Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa” (Cv 8, 37), và tông đồ Philipphê đã ban phép Thánh Tẩy cho ông. Niềm tin dẫn tới hiệu quả là ơn hiệp thông: “Hễ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy và người ấy ở lại trong Thiên Chúa” (Ga 4, 15). Thế nhưng, nguy cơ là niềm tin có thể bị sút giảm hoặc mai một với thời gian. Tin Mừng đã ghi lại lời cảnh báo: “Chúa Giêsu nói: Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Thánh Phaolô cũng gợi ý để chúng ta tự kiểm về niềm tin: “Anh em hãy xét xem mình có còn sống trong đức tin hay không? Hãy tự kiểm điểm. Anh em chẳng nhận thấy là có Đức Giêsu Kitô ở trong anh em sao? Trừ phi anh em đã thua trong cuộc kiểm điểm này(2 Cr 13, 5).

Tuy nhiên, nên nhớ rằng, niềm tin đích thực luôn gắn kết với đức cậy và tình mến, tất cả trở thành căn bản của hồng ân hiệp thông.

 

 

2-Với Đức Cậy

Đức cậy là một trong các yếu tố đặc thù của Kitô giáo vì kitô hữu được minh định là “người có đức cậy” (x. 1Tx 4, 13). Căn bản của đức cậy hệ tại, nơi mình có “Đức Kitô là niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1, 27). Bởi vậy, niềm hy vọng được đánh giá là “Hy vọng hồng phúc” (Tt 2, 13), “hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã từ cõi chết sống lại” (1Pr 1, 3).

Vậy bản chất niềm hy vọng chính là “sự sống mới hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa ” (Cl 3, 3), “là ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” (Rm 5, 2), trong cùng một niềm “hy vọng duy nhất” (x. Ep 4, 4). Vì thế, trong Thông điệp Spe salvi, ĐGH Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh về chiều kích liên đới phổ quát của đức cậy Kitô giáo, trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô, xuyên qua Nhiệm thể của Ngài.[7]

 

3-Trong Đức Mến

Thiên Chúa là Tình yêu. Và tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta qua Chúa Giêsu Kitô (x. Rm 8, 39). Bởi vậy, nhận thức trong tình mến, sự hiện diện tác động của Chúa Giêsu nơi bản thân (x. Gl 2, 20; lGa 2, 6; 2 Cr 13, 5); trong tha nhân (x. Mt 25, 40; Rm 14, 15); và cả ở giữa cộng đoàn tụ họp nhân danh Ngài (x. Mt 18, 20) là nguồn phát sinh tình yêu hiệp thông. Đây là điều căn bản, rất quan trọng để sống hồng ân hiệp thông. Vì thế, Chúa Giêsu tha thiêt mời gọi chúng ta: Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15, 9.12). “Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thể nếu không ở lại trong Thầy” (Ga 15, 4). Quả thật, tất cả công trình cứu độ của Chúa Giêsu đều hướng về mục tiêu trao ban hồng ân hiệp thông yêu thương: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một như chúng ta là một… Con đã cho họ biết danh Cha, vá sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương Con, ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa” (Ga 17, 22. 26). Đó chính là hồng ân Hiệp thông trong Ba Ngôi, nhưng đồng thời cũng là Hiệp thông trong Nhiệm thể, vì Đức Kitô là Đầu của Thân mình là Hội Thánh (x. Cl 1, 18).

 

III- HIỆP THÔNG: LIÊN KẾT VỚI HỘI THÁNH

Kinh Thánh trình bày Hội Thánh là Gia đình các con cái Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu đã trở thành “Anh Cả giữa đoàn em đông đúc” (Rm 8, 29; Dt 3, 6); hơn nữa, trong mối tình hôn ước, Hội Thánh là Hiền Thê của Đức Kitô là Hôn Phu (x. Ga 3,29; Ep 5, 32; Kh 19, 7; 22, 17). Cách đặc biệt, mối liên kết được diễn tả với hình ảnh: Đức Kitô là Đầu, Hội Thánh là Thân mình của Đức Kitô (x. Ep 1, 22-23; 4, 15-16).

1- Hội Thánh Thn Mình Đức Kitô

Quả thật, Đức Giêsu Kitô đã được: “Thiên Chúa đặt làm Đầu của toàn thể Hội Thánh, mà Hội Thánh là Thân mình Đức Kitô, là sự viên mãn của Ngài, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,22-23). Cụ thể, Đức Kitô đã tác động trên toàn bộ thân mình: “Với tư cách là Đầu của Thân Thể, Đức Kitô thông ban Thánh Thần cho các chi thể để nuôi dưỡng, chữa lành, cắt đặt họ vào các chức vụ hỗ tương, làm cho họ được sống, sai họ đi làm chứng, liên kết họ với Người trong hiến lễ dâng lên Chúa Cha và trong lời chuyển cầu cho toàn thế giới”[8]. Vì thế, chúng ta được mời gọi: “Sống theo sự thật và trong tình bác ái sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Kitôy vì Người là Đầu. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế, Người làm cho toàn thân lớn lẽn và được xây dựng trong tình bác ái” (Ep 4, 15-16). Như vậy, mầu nhiệm Nhập Thể dẫn đến hồng ân Nhiệm thể: Hội Thánh, Thân mình Đức Kitô.  

 

2-Sống Liên Kết Với Hội Thánh..                                     

Công đồng Vaticanô II trình bày Giáo Hội là Cộng đoàn hiệp thông trong Ba Ngôi, vì: “Giáo Hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”[9]. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Giáo Hội được khai sinh, như một Cộng Đoàn Hiệp thông, (x. Cv 2, 1-4 .42; 4, 32; 9,31). Quả thật, “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh, và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau ” (Cv 2, 42.44). Tuy nhiên, Giáo Hội trong hiệp thông toàn thể bao gồm cả ba trạng thái: lữ hành, thanh luyện và khải hoàn, về phần các tín hữu thuộc Giáo Hội lữ hành trần thế cần nhận thức rằng: “Chúa Kitô thánh thiện vô tội, tinh tuyền” (Dt 7,26), không hề phạm tội (x. 2Cr 5, 21), chỉ đến để đền tội lỗi dân chúng (Dt 2, 17), còn Giáo Hội vì ôm ấp những kẻ có tội trong lòng, nên vừa thánh thiện vừa phải luôn thanh tẩy mình. Do đó Giáo Hội luôn thực hiện việc sám hối và canh tân”[10]. Ý thức thực trạng này sẽ giúp phản tỉnh khiêm tốn về chính mình, đồng thời cổ thái độ khoan dung thông cảm đối với tha nhân. Các tín hữu lãnh nhận ơn hiệp thông nhờ hiệp nhất với Giáo Hội: “Các kitô hữu nhập hiệp vào Giáo Hội bởi phép rửa… được tái sinh làm con Thiên Chúa, họ có bổn phận tuyên xưng trước măt mọi người đức tin họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua Giáo Hội[11]. Nhờ các bí tích, họ được tiếp tục nuôi dưỡng và lớn lên trong lòng Giáo Hội để ngày càng gắn bó với sự sông và sứ vụ của Giáo Hội. Quả là thích đáng danh xưng “Mẹ Giáo Hội” vì Giáo Hội có sứ vụ tiếp tục sinh dưỡng các con cái trong ân sủng của Thiên Chúa. Vì vậy, Thánh Cyprianô nói về nhu cầu liên kết với Giáo Hội, bằng một xác quyết đầy ý nghĩa: “Ai không có Giáo Hội là Mẹ thì cũng chẳng có Thiên Chúa là Cha”[12] .

Yêu mến Giáo Hội, gắn bó với Giáo Hội là một nhu cầu khẩn thiết, vì thế, ĐTC Gioan Phaolô II đã đặc biệt nhắc nhở các kitô hữu: “Bởi vậy, tôi tha thiết khuyên bảo mọi người và từng người: luôn ý thức duy trì cảm nhận liên kết với Hội Thánh trong lòng cũng như trong đời sống; đó là cảm nhận mình là chi thể thuộc về Hội Thánh của Đức Giêsu Kitô, được thông dự vào mầu nhiệm hiệp thông của Hội Thánh… Đối với tất cả và từng người, lời nguyện tha thiết của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc lỵ: “Xin cho tất cả nên một!” phải trở thành một chương trình khẩn thiết và tất yếu cho cuộc sống và hoạt động mỗi ngày”[13].

 

 IV- THỂ HIỆN HIỆP THÔNG TRONG CUỘC SỐNG.

Thể hiện hiệp thông là điểm kết giao giữa hai tự do, là cộng hưởng giữa tác động của Thiên Chúa và hưởng ứng của con người, qua việc từ bỏ chính mình, sống gắn bó hiệp nhất với Chúa Giêsu Kitô trong cuộc sông bác ái yêu thương, nhằm đạt tới NÊN MỘT; như lời nguyện của Chúa Giêsu (x. Ga 17, 23), với cùng đích tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn hiệp thông.

 

1 Từ Bỏ Chính Mình.

Điều kiện tiên quyết để theo Chúa Kitô là từ bỏ chính mình (x. Mc 8, 34). Con người tự nhiên, đặc biệt trong xã hội tục hóa, tỏ ra rất dị ứng đối với ‘Từ bỏ và Thập giá”. Nhưng đó lại là một đòi hỏi do thực trạng của con người: những gì cản ngăn hiệp thông đều phát xuất từ “cái tôi” đã bị tha hoá vì tội lỗi. Vì vậy, Công đồng Vaticanô II nhắc nhở chúng ta một cách chí lý: “Điều Thiên Chúa mạc khải cho ta biết, cũng được kinh nghiệm của ta xác nhận. Bởi vì nhìn sâu tận đáy lòng, con người cũng khám phá ra mình hướng về sự dữ… Khi từ chối không nhìn nhận Thiên Chúa như nguyên uỷ của mình, con người cũng đã phá đổ trật tự phải có để đạt tới cùng đích tối hậu, đồng thời phá vỡ mọi hoà hợp nơi chính bản thân cũng như đối với những người khác và với mọi loài thọ tạo ”[14]. Vì thế, ĐTC Gioan Phaolô II trình bày về linh đạo hiệp thông đã nói đến nhu cầu “chống trả lại cơn cám dỗ của tính ích kỷ luôn đè nặng trên ta, dẫn đến cạnh tranh, tham quyền cố vị, nghỉ ngờ và ghen tương”[15]. Đó là “con người cũ” cần phải cởi bỏ để “mặc lấy con người mới” (Ep 4, 22). Chúng ta cần khiêm nhượng và thực tiễn đủ để nhận ra nơi mình tính vị kỷ, tự ái cố hữu, để nhờ sức mạnh của Thánh Thần có thể vươn lên, vượt qua, hầu đạt tới cùng đích của hồng ân hiệp thông. Như thế, từ ngữ “từ bỏ” gợi ý tiêu cực, nhưng thực chất lại hàm chứa cả một kho tàng vô giá. Con người được Chúa chọn, cũng cần tự nguyện chọn Chúa, để đi tới quyết định và hành động với sự trợ lực của ơn Chúa, “ chính Thịên Chúa tác động đến ỷ chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người”  (Pl 2, 13). Chính vì thế, Thánh Phaolô đã dám đánh đổi: ‘Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết… để được kết hợp với Người” (Pl 3, 8-9).

 

2-Nghệ Thuật Yêu Thương.

Để thể hiện hồng ân hiệp thông (x. lGa 4, 16), Chúa Giêsu dạy chúng ta: Hãy yêu thương như Ngài đã yêu thương (x. Ga 13, 34; 15, 12). Đây là cả một nghệ thuật đặc biệt, theo mẫu mực của Chúa Giêsu, và cần được cụ thể hoá trong cuộc sống hằng ngày.

ĐHY Phanxicô Xaviê ghi nhận: “Hơn ai hết, Chúa Giêsu là Thầy của nghệ thuật yêu thương… Người mang theo cung cách sống của quê hương trên trời, bằng cách “diễn tả theo cách con người các thái độ sống của Thiên Chúa Ba Ngôi”[16].

“Giờ đây, chúng ta hãy chiêm ngắm các yếu tố đặc thù của nghệ thuật yêu thương mà Đức Giêsu dạy chúng ta…:

-Yêu thương trước, nhưng không, vô vị lợi, -yêu tất cả mọi người…, -yêu thương kẻ thù, -yêu thương bằng cách hiến chính mạng sống mình, -yêu thương bằng cách phục vụ”[17], Lệnh truyền của Chúa Giêsu “hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương” là bài học và thực tập suốt đời chúng ta để thể hiện chữ NHƯ ấy trong cuộc sống.

Triển khai lời dạy và gương sống của Chúa Giêsu, ĐHY Phanxicô Xaviê đã nêu lên nhiều yếu tố tinh tế liên quan đến Nghệ thuật yêu thương, theo tâm tư của con người và trong các tình huống của cuộc sống. Tất cả đều nhắm tới mục tiêu là đạt tới hiệp nhất, cuôi cùng là hiệp thông: “Không ghét ai chưa đủ, thương người chưa đủ, giúp người chưa đủ. Hiệp nhất trong tình yêu và hành động mới đủ. Chúa Giêsu cầu xin: Xin Cha cho chúng nên một như Cha ở trong con và Con ở trong Cha’’[18]. Đi vào cuộc sống thực tế, thể hiện hồng ân hiệp thông đòi hỏi phải luôn thức tính và quảng đại thực hiện tình bác ái liên đới, theo chứng từ sống động của ĐHY Phanxicô Xaviê: “Hiệp thông là một chiến thắng từng giây phút. Sơ hở trong chốc lát có thể làm tan vỡ hiệp thông: vì một tư tưởng thiếu bác ái, bảo thủ ý kiến, vì con bám víu vào một tình cảm, một khuynh hướng bất chính, tham vọng, một vụ lợi. Vì con hành động vì con, không- phải vì Chúa. Xin Chúa cho con năng xét mình: Ai là trung tâm của đời tôi? Tôi hay Chúa? Nếu Chúa là trung tâm, Ngài sẽ quy tụ mọi người hiệp thông”[19].

Về phần Đức Gioan Phaolô II, khi triển khai vấn đề hiệp thông trong cuộc sống, ngài đã nói đến, “khả năng chú ý đến anh em, trong đức tin, trong sự duy nhất sâu xa của Nhiệm thể… Hiệu quả của việc chiêm niệm này trên bình diện cảm nghĩ cũng như hành động là: có khả năng chia sẻ những niềm vui và nỗi khổ, đoán được những ước muốn và nhu cầu của họ, trao tặng họ tình bạn sâu xa và chân thành”. Điều này cũng bao hàm khả năng nhìn thấy những điểm tích cực nơi kẻ khác, và coi đó như một tặng phẩm từ Thiên Chúa: không chỉ là tặng phẩm cho anh chị em, những kẻ đón nhận nó cách trực tiếp, mà còn là “một quà tặng cho tôi”. Một linh đạo hiệp thông, cuối cùng có nghĩa là biết luôn có chỗ dành cho anh chị em, và mang lấy gánh nặng của nhau (Gl 6, 12).[20]

Để sống trung thực hồng ân Hiệp thông, thiết tưởng cũng nên ghi nhận lời cảnh giác chí lý và thiết thực của Đức Gioan Phaolô II: “Chúng ta đừng nên có ảo tưởng: ngoại trừ khi chúng ta đi theo con đường thiêng liêng này, thì các cơ cấu bên ngoài của sự hiệp thông sẽ không giúp ích gì. Chúng sẽ trở thành những máy móc vô hồn, “mặt nạ ” che dấu hiệp thông hơn là phương thế diễn tả và làm tăng trưởng hiệp thông”[21]. Sống hiệp thông là sống đức mến, quy về một cùng đích tôi thượng và tôi hậu, chính là Thiên Chúa Tình Yêu, Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn của hồng ân Hiệp thông.

 

3-“Sng Một” Để Được “Nên Một”

Thiên Chúa, vì yêu thương, đã an bài dự liệu tất cả những gì cần thiết để con người được sống trong hiệp nhất yêu thương với Ngài, và với nhau trong Ngài. Chúng ta phải tận dụng các ân huệ đó trong cuộc sống, để nhờ “sống một” mà đạt tới “nên một”. Sau đây là một số trích dẫn Lời Chúa: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có MỘT Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng vẫn chỉ có MỘT Thiên Chúa làm MỌI sự trong MỌI người… Thật vậy; ví như thân thể người ta chỉ là MỘT’ nhưng lại cổ nhiều bộ phận, mà các bộ phận cửa thân thể tuy nhiều, nhựng vẫn là MỘT thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy… Chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng MỘT Thần Khí, để trở nên MỘT thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn MỘT Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12, 4-6. 12-13). “Tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. Chỉ có MỘT thân thể, MỘT Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng MỘT niềm hy vọng. Chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, MỘT phép rửa. Chỉ có MỘT Thiên Chúa, Cha của MỌI người, Đấng ngự trên MỌI người,, qua MỌI người và trong MỌI người. Nhưng mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Kitô ban cho… Nhờ đó, dân thánh được phục. Vập là xây dựng thân thề Đức Kitô, cho đến khi TẤT CẢ chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4, 1-7.12-13). Từ những căn nguyên MỘT trên đây, phải dẫn đến thành quả MỘT nơi tâm hồn người môn đệ trong cuộc sống. Theo gương cộng đoàn tín hữu đầu tiên, “tuy đông đảo, mà chỉ có MỘT lòng MỘT ý” (Cv 4, 32), Thánh Tông đồ khuyên bảo anh em: “hãy có cùng MỘT cảm nghĩ, cùng MỘT lòng mến, cùng MỘT tâm hồn, cùng MỘT ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tỵ hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Plm 2, 2-5). Cụ thể hơn tất cả, để thể hiện NÊN MỘT, Chúa Giêsu đã thiết lập Nhiệm tích Thánh Thể là Bí tích kỳ diệu, nguồn Hiệp thông yêu thương. Nơi Thánh Thể, với sự hiện diện đích thực và trọn vẹn của Chúa Giêsu Kitô, nhờ hiệu lực cứu độ của cuộc Thương khó và Phục sinh, Chúa Giêsu thực hiện hiệp thông, trao ban Thánh Thần hiệp nhất, quy hướng tâ’t cả về Chúa Cha. Quả thật, nhờ Hiệp Lễ, con người được tiếp nhận ơn hiệp thông, vì Chúa Giêsu đã xác quyết; “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). Hơn nữa, chia sẻ cùng MỘT Bánh Thánh Thể, chúng ta được kết hiệp trong MỘT Thân mình (x. 1Cr 10, 17). Giáo Hội, trong cử hành Thánh Thể đặc biệt chú tâm về hiệu quả của ơn Hiệp nhất, với lời nguyện cầu: “Tha thiết nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô được quy tụ NÊN MỘT nhờ Chúa Thánh Thần ” (Lễ Quy II); “Xin cho chúng con được bổ dưỡng bời Mình và Máu Con Chúa, và được tràn đầy Thánh Thần của Người, thì trở NẾN MỘT THẦN THẾ VÀ MỘT TINH THẦN trong Đức Kitô” (Lễ Quỵ III). Quả thật, Thánh Thể là nguồn hiệp nhất cho các tâm hồn, cho cả Nhiệm Thể là Hội Thánh, mà thế giới đang khát mong. Vì thế, ĐTC Gioan Phaolô n đã xác nhận: ‘Từ Thánh Thể nảy sinh linh đạo hiệp thông, rất cần thiết để thiết lập cuộc đo thoại đức ái mà thế giới hiện nay đang cần đến”[22]. Nhưng hơn nữa ý nghĩa trọng đại của Thánh Thể còn là Hiến Lễ Tôn thờ, Tạ ơn, trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Ngài, với Ngài dâng lên Thiên Chúa là Cha Toàn năng, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần.

 

4- Tôn Thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.

Trước hết và trên hết, Thiên Chúa Ba Ngôi, căn nguyên và cùng đích của Hiệp thông, đáng được tuyệt đôi phụng thờ và tôn vinh; vì thế Giáo Hội xác định: “Phụng vụ là tột đỉnh mà hoạt động của Giáo Hội quy hướng về, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội”[23] . Cụ thể hơn nữa, “Thánh Lễ là nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống kitô hữu”[24]. Trong đó, cao điểm của Hiến Lễ Tạ ơn là lời Vinh Tụng : “Chính nhờ Đức Kitô, với Đức Kitô và trong Đức Kitô, mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa là Cha Toàn năng, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen”. Lời Vinh Tụng được dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng thời cũng tuyên xưng ân huệ hiệp thông Thiên Chúa trao ban cho con người được diễm phúc “Nhờ Đức Giêsu Kitô trong cùng một Thánh Thần duy nhất mà đến với Chúa Cha” (Ep 2, 18). Nhờ ơn hiệp thông, kitô hữu được có Thiên Chúa hiện diện, đồng thời trở thành “hàng tư tế vương giả” (1Pr 2, 9) để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.

Phaolô hằng nhắc đến ơn huệ này, là hiệu quả của hiệp thông: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cr 3, 16); “Anh em chẳng nhận thấy là có Đức Giêsu Kitô ở trong anh em sao?” (2Cr 13, 5). Quả thật, “chính chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống” (2Cr 6, 16). Hơn nữa, kitô hữu không những là đền thờ sống động, mà còn được mời gọi trở thành: “những người đích thực thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga 4, 23). Bởi vậy, việc tôn thờ không chỉ hiểu về cử hành phụng vụ, mà còn bao gồm tất cả đời sống. Vì thế Thánh Phaolô khuyên bảo: “ ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10, 31). “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa GiêsUy và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,17). Điều quan trọng là “nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Ngài”. Và qua tác động của Chúa Thánh Thần (x. Rm 8 ,26), tôn vinh Thiên Chúa, để đích thực trở thành những người thờ phượng mà Thiên Chúa Cha tìm kiếm (x. Ga 4, 23 ). Tôn thờ đích thực đẹp lòng Chúa không chỉ hệ tại nghi thức cử hành, những lời hay ý đẹp, nhưng là do tình mến, không để lòng mình xa Chúa (x. Mt 15, 8), trái lại “lòng kề lòng” Cor ad cor (x. Hs 2, 14), qua trung gian của Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, như một cuộc hạnh ngộ giữa hai khát vọng yêu thương: “Thiên Chúa khát mong chúng ta khao khát Người”[25]. Vậy, sống hồng ân hiệp thông là sống sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa với tâm hồn thiết tha yêu mến, được minh chứng bằng cả cuộc đời, quy hướng tất cả về Thiên Chúa, như lời nguyện của Chân phước Charles de Foucauld :

“Lạy Chúa xin ban cho con được liên lĩ cảm nhận sự hiện diện của Chúa, sự hiện diện của Chúa trong con và chung quanh con, đồng thời ban cho con tình yêu biết kính sợ mà người ta cảm nhận khi đứng trước người mình say mê yêu mến. Do đó, họ hằng hiện diện với người mình yêu, dán mắt không rời, với ước nguyện to lớn và ý chí trọn đầy, muốn làm tất cả những gì vừa lòng và tốt đẹp cho người mình yêu… Lạy Chúa, xin cho tất cả được thực hiện trong Chúa, bởi Chúa và cho Chúa. Amen”[26]. Đó là hiệu quả kỳ diệu do Thiên Chú a tác động nơi tâm hồn sống hồng ân hiệp thông.

 

THAY LỜI KẾT.

Hiệp thông là hồng ân, hồng ân trên các hồng ân, được trao ban cho con người do: “Ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, Tinh yêu của Chúa Cha và ơn Thông hiệp của Chúa Thánh Thần” (2Cr 13, 13). Con người tiếp nhận với niềm tin cậy, đặc biệt với tình mến thể hiện trong cuộc sống. Đây là diễm phúc cao quý nhất Thiên Chúa dành cho con người (x. 2Pr 1,4; GS 19). Vì thế, con người được mời gọi, trong chiều kích rộng mở bao quát của Hiệp thông, với tâm tình tôn thờ, tri ân cảm mến vô hạn, bằng cuộc sống đượm tình bác ái yêu thương, dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi bài “Ngợi ca bản thể”,  trở thành “Lời ca ngợi vinh quang ân sủng của Thiên Chúa” (Laudem gloriae, Ca ngợi vinh quang, Ep 1, 12-14). “Laudem gloriae”, đó là biệt danh Thánh Nữ Elisabet Chúa Ba Ngôi tự chọn cho mình, với lời nguyện hiến dâng: “Ôi Thiên Chúa của con, con tôn thờ Ba Ngôi cực thánh, xin giúp con quên hẳn mình đi, để ở trong Chúa, bất động và bình an như thể hồn con đang sống trong vĩnh hằng; xin đừng để điều gì quấy phá sự bình an của con, và làm con phải ra khỏi Chúa,  ôi Đấng Bất Biến của con nhưng xin cho mỗi phút đem con vào sâu hơn trong mầu nhiệm của Chúa”[27].

Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu Kitô, Mẹ Hội Thánh là Mẹ của hiệp thông, vì chính nơi Mẹ đã thể hiện Hiệp thông giữa Thiên Chúa và loài người. Xin được cùng Mẹ, nhờ Mẹ bây giờ và mãi mãi hát lên bài ca Tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi, căn nguyên và cùng đích Hiệp thông:

“Chúc tụng Thiên Chúa là THẦN PHỤ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của THÁNH THẦN…Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô để ta hằng ngợi khen vinh quang ân sủng, ân sủng Người ban tặng cho ta trong THÁNH TỬ yêu dấu” (Ep 1,5-6).

Có THÁNH TỬ GIÊSU là có CHÚA CHA, trong THÁNH THẦN nghĩa tử (GI 4,6; Ga 20,17).

Có ANH CẢ GIÊSU là có Anh Chị Em tất cả, trong THÂN MÌNH ĐỨC KITÔ là Hội Thánh (Rm 8, 29; Ep 4, 15-16). Đó là diễm phúc sống Hồng Ân Hiệp Thông 

 

 

 

 


 

[1] Novo Millennio ineunte (NMI) số 43

[2] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, (GLHTCG), 260

[3] Tông Huấn Redemptoris, RC 5

[4]  GLHTCG 258

[5]nđd 259

[6] LG 6

[7] Spe Salvi, số 13-16

[8] GLHTCG 739

[9] LG 4

[10] LG 8

[11] LG 11

[12] Về sự hiệp nhất của Giáo Hội, 6

[13] Tông Huấn Christifideles Laici 1988, số 64

[14] Gaudium et Spes, GS 13

[15] NMI43

[16]GLHTCG 470; Chứng Nhân Hy Vọng, CNHV, tr. 88

[17] CNHV tr. 88-92

[18] Đường Hy Vọng, số 802

[19] CNHVtr. 196

[20] X.NMI 43

[21] NM 143

[22]  Vita Consecrata, vc 51

[23] Phụng Vụ Thánh, số 10

[24] LG11

[25] Th. Âutinh ; GLHTCG 2560

[26] DI NGÔN Cha Biển Đức Thuận, số 109. Chú thích 3

[27] GLHTCG 260

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐAN TU TRONG LÒNG GIÁO HỘI 

 

 

FM.Cung Huyền

Nói về đời sống đan tu chiêm niệm, một cách chung chung người ta vẫn thường quan niệm: Đan sĩ (người sống đời đan tu chiêm niệm) là người dâng hiến trót đời để phụng sự Thiên Chúa, cách riêng qua cầu nguyện chiêm niệm[1] , và không gian sống của họ chính là nội vi đan viện. Họ là những người từ bỏ tất cả. Họ từ bỏ của cải vật chất, danh vọng xã hội, các thứ tự do bên ngoài để sống thân mật thầm lặng và vô hình với Thiên Chúa. Sự hy sinh này không chỉ diễn ra trên những gì họ có thể chiếm hữu mà còn trên tất cả các hy vọng trần thế của họ nữa. Nghĩa là họ quyết tâm không bao giờ có một mái nhà tư riêng ấm cúng, không bao giờ có đôi bạn, không bao giờ có con cái. Họ hiến tế một lần dứt điểm tương lai của họ cho sự vĩnh cửu…

Thế nhưng, ngày nay, khi mà lịch sử thế giới đã lật sang trang mới, xã hội trở nên văn minh hơn, các ngành khoa học kỹ thuật -nhất là công nghệ điện toán đã phát triển đến đỉnh cao và mang lại cho cuộc sông nhiều tiện dụng và nhanh chóng. Sông trong một thời đại được mệnh danh là thời đại của tốc độ- thành quả và không biên giới” như thế, nhiều người đã lấy làm e ngại và xầm xì tự hỏi: liệu rằng đời sống đan tu chiêm niệm có còn thích hợp cho các nhu cầu, lý tưởng của thế giới và con người hiện đại không?!

Chưa hết, khi nói về đời sống đan tu trong Giáo Hội, có người còn cho rằng, đời sống đan tu là một mô hình sống sót, một thứ di sản nhầm thế kỷ của thời quá khứ rơi rớt lại trong thời hiện đại. Kẻ khác bảo: các đan sĩ là mẫu người lỗi thời, không thích hợp với cuộc sống văn minh. Nói mạnh hơn, họ là những người sống ích kỷ, vô ích cho Giáo Hội và xã hội. Sự hiện diện của họ trong thế giới hôm nay chỉ lôi chậm lại bánh xe tốc hành của lịch sử, tính ù lỳ của họ hãm phanh đà tiến bộ và có thể làm lệch hướng tiến của văn minh loài người.v.v.

Đối diện với những lời xầm xì như thế, là người sống đời đan tu chiêm niệm, chúng ta nghĩ và làm gì, phải chăng phân bua điều này, giải thích điều kia cho mọi người hiểu rõ về ơn gọi mình? Có lẽ điều đó cũng chẳng mây ích lợi, vì theo Thomas Merton: “Một đan sĩ mà cứ luôn phải tìm cách cho mọi người nhận thực giá trị của mình thì không thích hợp tý nào!”[2].Đàng khác, nếu trong trường hợp thật sự cần thiết phải nói về mình, thì điều đó cũng thường bị đánh giá là “chủ quan” theo kiểu: tự đánh bóng mình! Thế nên, để phần nào trả lời cho những vấn nạn trên đây về Vị Thế, Vai Trò của Đời Đan Tu Chiêm Niệm trong lòng Giáo Hội cũng như Tương Quan của Đời Đan Tu Chiêm Niệm với Giáo Hội như thế nào, thiết tưởng cách khách quan và chính xác hơn hết, chúng ta cần tìm hiểu và lắng nghe Giáo Huấn của Giáo Hội.

 

1/ GIÁO HỘI VỚI ĐỜI SỐNG ĐAN TU CHIÊM NIỆM
a.Vị Thế Đan Tu Chiêm Niệm Trong Lòng Giáo Hội
Lần dở lại các trang sử Giáo Hội nói chung, ta thấy đời sống đan tu chiêm niệm hình thành không do bởi nghị quyết của Giáo Quyền[3] , và cũng không được thiết lập do một bí tích riêng như đời linh mục hoặc đời hôn nhân[4] . Nhưng, điều đó không có nghĩa rằng ơn gọi đan tu chiêm niệm là do sáng kiến hay công trạng của một cá nhân nào đó nằm bên lề và không ích lợi gì cho Giáo Hội. Trái lại, cũng như bao ơn gọi khác, đan tu chiêm niệm được “sinh ra” từ sáng kiến và sự gieo mầm của Thiên Chúa trong cánh đồng của Ngài và mưu ích cho toàn thể Giáo Hội; “Như một hạt giống Thiên Chúa đã gieo, nay thành một cây lớn có nhiều cành kỳ diệu trong vườn, cũng thế, trong Hội Thánh phát sinh nhiều lối sống khác nhau, cô tịch hay cộng đoàn; phát sinh nhiều dòng tu khác nhau mà gia sản thiêng liêng của họ vừa sinh ích cho các dòng tu ấy, vừa có ích cho toàn Nhiệm Thể của Đức Kittô[5] . Vì là hạt giống Chúa gieo và được Thánh Thần làm cho tăng trưởng, nên đan tu chiêm niệm cùng với các ơn gọi khác, được Giáo Hội với tình Từ Mẫu đã vui sướng dang rộng vòng tay yếu thương đón nhận phê chuẩn, săn sóc và bảo trợ: “Ngay từ thời sơ khai của Hội Thánh, đã có những người nam cũng như nữ, qua việc thực thi các lời khuyên Phúc Âm, quyết theo Chúa Kitô với một tinh thần tự do thanh thoát hơn, bắt chước Người khắng khít hơn, và mỗi người một cách, tất cả đều Sống tận hiến cho Thiên Chúa; trong số đó có nhiều người được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, hoặc là theo đuổi đời sống cô tịch, hoặc là đã lập ra những dòng tu mà Hội Thánh đã sung sướng dùng quyền của mình để đón nhận và phê chuẩn[6] . Và “… với quyền hành của mình, giáo phẩm luôn có mặt để săn sóc và bảo trợ những dòng tu được thiết lập khắp nơi nhằm xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô… ”[7] .

Như thế, sự hiện diện của đời sống đan tu chiêm niệm trong Giáo Hội không như một cái gì tuỳ thuộc được thêm vào hay như cành cây tháp ghép vào thân cây nhưng chính là cành cây được đâm chồi từ thân cây tươi tốt và kỳ diệu là Giáo Hội. Nên sự hiện diện của đời sông đan tu chiêm niệm cũng chính là sự hiện diện của Giáo Hội, thiếu đời sông đan tu chiêm niệm thì sự hiện diện của Giáo Hội giữa lồng thế giới sẽ không trọn vẹn.
Thật vậy, vị thế này không phải do những người sống đời đan tu chiêm niệm tự gán cho mình, nhưng chính là vị thế mà Giáo Hội ngang qua Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đã long trọng xác nhận trong sắc lệch về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội, số 18; Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc, số 69 và cẩn thận nhắc lại trong Tông Huấn Đời sống Thánh Hiến như một “thuộc tính” quan trọng: “… đời sống chiêm niệm thuộc về sự hiện diện viên mãn của Giáo Hội”(số 78). Thế nên có thể nói: đan tu chiêm niệm ở trong trái tim Giáo Hội và có vị thế ưu việt trong Nhiệm Thể Chúa Kitô[8] ,và được coi là một trong những kho tàng quý bổu nhất của Giáo Hội (nhờ một đoàn sủng đặc biệt, họ đã “chọn phần tốt hơn” (Lc 10,42), phần của kinh nguyện, thinh lặng chiêm niệm, tình yêu dành cho Thiên Chúa và hoàn toàn dâng hiến để phụng sự Người)[9] .

 

b.Vai Trò Đan Tu Chiêm Niệm Trong Lòng Giáo Hội

Ngoài những địa vị quan yếu trên, giữa lòng Giáo Hội và thế giới, đan tu chiêm niệm còn có những vai trò khác như: diễn tả diện mạo thánh thiện của Giáo Hội[10] ,đã và còn đang là dấu chỉ hùng hồn về sự hiệp thông với mọi người, hiệp nhất tuyệt đối của Giáo Hội- Hiền Thê với Chúa của mình, Đấng được yêu mến trên hết mọi sự[11] ; là chứng tích cao đẹp về uy quyền và tình yêu của Thiên Chúa cũng như sự hiệp nhất trong Chúa Kitô[12] .

Như thế, một cách nào đó, đan tu chiêm niệm công bố cho thế giới biết Thiên Chúa hiện hữu và Thiên Chúa là tình yêu[13];làm chứng về quyền tối thượng của Thiên Chúa trên lịch sử[14];nhắc nhở quyền tối thượng của Thiên Chúa mang lại cho cuộc sống con người ý nghĩa và niềm vui đầy tràn, bởi vì con người được tạo dựng cho Thiên Chúa và nó không được an nghỉ bao lâu chưa được nghỉ yên trong Người (St. Âu – tinh, Confessions 1,1)[15] ; đồng thời công hiến cho cộng đoàn Giáo Hội một chứng tá độc đáo về tình yêu Giáo Hội dành cho Chúa[16] .Là Ốc đảo”, nơi đó con người lữ hành trần gian có thể đi tới kín múc nguồn mạch của Thần Khí và thoa màn cơn khát dọc đường của mình. Đan viện là những nơi, xem ra vô ích, thì ngược lại, là cần thiết, như những “lá phổi xanh” của thành phố. Chúng có ích cho mọi người, kể cả những kẻ không thăm viếng chúng hay có lẽ không biết chúng hiện hữu”[17] .

Thế nhưng, dưới nhãn quan của một số người thời đại hôm nay, đan tu chiêm niệm không truyền giáo và cũng chẳng đóng góp được gì cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, vì suốt ngày họ chỉ quanh quẩn trong bốn bức tường đan viện!?
Vậy, phải chăng Giáo Hội sai lầm khi chọn đặt thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu – một con người nhỏ bé yếu ớt, suốt ngày ẩn khuât sau cánh cổng tu viện – làm Bổn Mạng các Xứ Truyền Giáo? Không, không những Giáo Hội không lầm mà còn rất có lý và khôn ngoan khi làm công việc này, vì Giáo Hội luôn xác tín rằng: công cuộc truyền giáo không phải chỉ được thực hiện bằng việc ra đi rao giảng như các nhà truyền giáo, như thánh Phanxicô Xaviê mà còn bằng nhiều cách khác nữa, và đời sống đan tu chiêm niệm là một trong những phương thế thiết yếu, vì: “… trước hết và căn bản (đan tu chiêm niệm) là một việc tông đồ, bời vì đó là lối sống điển hình và đặc sắc nhất, để sống trong Giáo Hội, để thể hiện sự hiệp thông với Giáo Hội và để chu toàn sứ mạng của Giáo Hội… ”[18] , nghĩa là nhờ chứng tá đời sống, lấy gương lành lôi cuốn, đan tu thật sự cộng tác vào việc mở rộng Nước Chúa, tuy âm thầm nhưng phong phú và kiến hiệu[19]. “Trong cô tịch và thinh lặng, bằng việc lắng nghe lời Thiên Chúa, cử hành phụng vụ, khổ chế cá nhân, kinh nguyện, hãm mình và hiệp thông vào tình yêu huynh đệ, … họ góp phần với sức phong nhiêu tông đồ huyền diệu vào sự tăng trưởng của dân Thiên Chúa”. Nói cách khác, “… nhờ những kinh nguyện, khổ hạnh và thử thách… họ đã góp phần rất lớn vào việc trở lại của các linh hồn, vào việc làm cho Dân Chúa ngày lớn mạnh, vì Thiên Chúa là Đấng sai thợ đến gặt lúa của Ngài theo lời ta cầu xin (Mt 9,38)”[20] .

Thật vậy, từ những “Vị Thế” và “Vai Trò” như thế – với những hoa trái thánh thiện dồi dào qua việc dâng lên Chúa hy lễ chúc tụng tuyệt hảo – đan tu chiêm niệm làm vẻ vang Dân Thiên Chúa[21] , là lý do hãnh diện cho Giáo Hội, là nguồn mạch đưa lại những ân sủng Thiên Quốc và tiên báo Vinh Quang mai ngày sẽ đến[22] .

Thiết nghĩ rằng, đó cũng là những lý do mà qua nhiều “giáo huấn” của mình, Giáo Hội luôn mong ước và khuyến khích thành lập thêm nhiều cộng đoàn sống đời đan tu chiêtn niệm trong khắp Giáo Hội, nhất là nơi các Giáo Hội trẻ và trong các miền truyền giáo [23]; và dù nhu cầu truyền giáo có khẩn cấp đến mây, Giáo Hội “vẫn muốn” đời sống Chiêm Niệm ở lại trong địa vị cao quý (của mình) trong Nhiệm Thể Chúa Kitô[24] .Hơn thế nữa, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô n còn tín nhiệm ký thác cho các đan viện chiêm niệm công trinh Đại Kết thiêng liêng của Giáo Hội[25].

Vậy, một cách nào đó, ta có thể khẳng định: Giáo Hội luôn ưu ái quan tâm, nhìn nhận và đề cao sự hiện diện, vai trò và vị thế của đời đan tu chiêm niệm trong đời sông của mình. Còn ngược lại thì sao, đan tu chiêm niệm có mốì tương quan với Giáo Hội?

 

 2.Đan tu với Giáo Hội

Nếu sự hiện diện của ơn gọi đan tu chiêm niệm thuộc về sự hiện điện trọn vẹn của Giáo Hội, thì ngược lại: “Ngoài Giáo Hội, không ai có thể là đan sĩ trọn vẹn”.[26]

Thật vậy, như ở trên chúng ta đã xác nhận: tuy Giáo Hội không phải là tác nhân trực tiếp hình thành nên đời đan tu chiêm niệm, nhưng đời đan tu chiêm niệm lại là một trong những thành phần quan trọng thuộc về và làm siên sự hiện diện viên mãn của Giáo Hội. Thế nên, một cách nào đó thì đời sống đan tu chiêm niệm tuỳ thuộc vào Giáo Hội. Sự lệ thuộc này là vì, một mặt: ơn gọi đan tu chiêm niệm chỉ có thể triển nở trong khuôn khổ của thực tại Giáo Hội; mặt khác, vì ý nghĩa thâm sâu của đời đan tu chiêm niệm tiềm ẩn trong mầu nhiệm Giáo Hội.

Mầu nhiệm Giáo Hội là mầu nhiệm của một dân tộc mới, được mua chuộc bằng giá máu của Chiên Con qua bí tích Thanh Tẩy, họ trở thành những người con trong Chúa Con, và là những người đồng hương với hàng Chư Thánh (x. 2,19; 1Pr 2,9). Được Thần Khí linh động, dân tộc thánh này được tập hợp lại trong Chúa Kitô để Ngài đưa dẫn mọi người đến cùng Chúa Cha (x. Ep 2,18). Giáo Hội tiếp nôi sự hiện diện của Đức Kitô ở giữa trần gian, hoàn thành sứ mạng của Ngài bằng lời ca ngợi, và tham dự vào hy lễ hiến tế của Đấng đã tự hiến Mình cho Chúa Cha vì sự sống của nhân loại (x.Dt 2, 10-18).

Thật vậy, chính nhờ Giáo Hội, vổi và trong Giáo Hội, mà người đan sĩ tham dự vào nếp sống trong Đức Kitô và trong Thần Linh của Ngài. Vì chỉ có một Thân Thể, và một Thần Khí duy nhất, nên đối với đan sĩ cũng thế, chỉ có một niềm cậy trông duy nhất ở đích điểm ơn gọi và đó cũng chính là niềm cậy trông của Giáo Hội, mẹ chúng ta: “Sự hiệp thông các thánh trong Giáo Hội duy nhất và trong niềm tin là như thê này: tất cả chúng ta cùng tin thờ một Thiên Chúa độc nhất, cùng được tái sinh nhờ một bí tích Thánh Tẩy duy nhất, cùng được Thêm Sức bởi một Thần Khí độc nhất, tất cả chúng ta cùng được thông phần vào một đời sống vĩnh cửu duy nhất nhờ cùng một ơn gọi làm nghĩa tử như nhau[27].“ Vậy chúng ta yêu mến Giáo Hội, chúng ta sẽ kết hiệp cùng Chúa Thánh Linh, và chúng ta yêu mến Giáo Hội khi chúng: thông hiệp cùng nhau trong đức ái” [28] . Càng thuộc về Giáo Hội, cuộc sống đan tu càng quy chiếu về Đức Kitô và càng được Thần Khí Ngài linh hứng, và do đó, càng trồ nên đan tu hơn. Giáo Hội thánh là Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Chỉ có một Thần Khí duy nhất linh động, thánh hoá và thống nhất Giáo Hội trong niềm tin… Thế nên, khi chúng ta trở nên Kitô hữu hay đan sĩ thì trở thành chi thể của Chúa Kitô, chi thể của Nhiệm Thể Ngài và chúng ta sẽ là thành phần của Giáo Hội [29]. Nhờ đó chúng ta có thể lãnh nhận ơn thánh của Chúa, nhờ Giáo Hội là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa, đồng thời thông truyền sự sống cho chúng ta[30] .

Khi suy niệm mầu nhiệm Giáo Hội là mầu nhiệm sự sống và hiệp nhất, mầu nhiệm của cuộc hội ngộ với Thiên Chúa trong nhân loại, và của con người nơi Thiên Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy nhựa sống thầm kín đã làm khơi dậy hình thức đan tu chiêm niệm từ khởi thuỷ cho đến bây giờ- Chính Giáo Hội Từ Mẫu sẽ dạy cho đan sĩ biết lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện trong thâm cung lòng mình, biết hăng say tìm sự hiệp nhất, trung thành trong niềm tin, trung thành trong sứ mệnh đặc thù của mình, trong việc phục vụ tha nhân và lòng khiêm tốn hoán cải. Chính đó là bao nhiêu thứ yếu tố câu thành nên đời đan tu [31]. Chính nhờ Giáo Hội mà đan sĩ sẽ được thánh hoá bản thân và sống sứ mệnh đan tu đặc biệt của mình. Thế nên, đời đan tu chiêm niệm là một hành trình theo sau Đức Kitô, giữa lòng Giáo Hội. Bằng lời khấn tuân giữ các lời khuyên về Khó Nghèo, Khiết Tịnh và Vâng Phục trong Phúc Âm, bằng lời hứa cải thiện (Canh Tân) lối sống và cố gắng cầu nguyện liên lỉ, bằng sự dấn thân gạt xa mọi chướng ngại phương hại đến đức ái và sự hoàn hảo của phụng vụ thánh, người đan sĩ dân thân sống ơn gọi Kitô hữu cách triệt để trong nếp sống Thần Linh, như Dom. Guérangere xác tín[32] .Người đan sĩ trao hiến bản thân cho Thiên Chúa- Đấng mình yêu mến trên hết mọi sự [33], để quy hướng vào việc phục vụ Thiên Chúa và vinh quang của Ngài, bằng một cách liên tục và đặc biệt để kết hiệp cùng Giáo Hội và mầu nhiệm Giáo Hội. Sợ kết hợp đó chặt chẽ đến độ người ta không thể phủ nhận mối dây liên kết giữa đời sống đan tu và cuộc sống Giáo Hội, giữa sự thánh thiện đan tu và sự thánh thiện của Giáo Hội[34].

Vì thế, bậc sống tu trì nói chung, đan tu chiêm niệm nói riêng, không đứng giữa hai bậc giáo sĩ và giáo dân, mà bao gồm cả hai, như quà tiến dâng đặc biệt của hai bậc đó cho toàn Giáo Hội: “Thật vậy Thiên Chúa kêu gọi một số Kitô hữu ở cả hai bậc giáo sĩ và giáo dân đến hưởng lấy ân huệ đặc biệt trong đời sống Giáo Hội, và mỗi người một cách góp phần vào sứ vụ cứu độ của Giáo Hội”[35] . Bởi đó, với tư cách người tận hiến, người đan sĩ tham dự cách đặc biệt vào bản tính nhiệm tích của dân Thiên Chúa[36].

Vậy, bằng ơn gọi đan tu chiêm niệm, đan sĩ trở nên chứng tá hữu hình của việc mình thuộc trọn về Chúa. Bằng ơn gọi đan tu chiêm niệm giữa lòng Giáo Hội, đan sĩ cống hiến cho thế giới một dấu chỉ hữu hình của Mầu Nhiệm khôn dò thâu của Đức Kitô, và sự phong phú khôn sánh của Tình Yêu vượt mọi khả năng trí hiểu. Và chính bằng ơn gọi đan tu chiêm niệm – nhờ nếp sông khổ hạnh và từ bỏ, đan sĩ tham dự vào Giáo Hội khổ luyện. Bằng chứng tá của cuộc sống nói lên rằng “chỉ có Chúa là đủ ”, đan sĩ thông công cùng Giáo Hội chiến đâu. Bằng nếp sống tiên báo và tiên hưởng Nước Trời, và mối dây liên lạc với các thánh trên trời qua phụng vụ, đan sĩ tham sự vào Giáo Hội khải hoàn[37] .

KẾT
Những gì trình bày trên đây, mặc dầu ít nhiều mang tính chủ quan và giới hạn, nhưng thiết tưởng rằng, một đàng, nhờ ánh sáng Giáo Huấn của Giáo Hội, bài viết đã phần nào khơi gợi lên được những câu trả lời cho những “xầm xì”, những vân nạn về Vị thế, Vai trò và Tương quan của đời sống đan tu trong lòng Giáo Hội; đàng khác, là dịp thuận tiện để mọi người tái khám phá, tái định vị ơn gọi đan tu chiêm niệm giữa lòng thế giới và Giáo Hội; đồng thời cũng là cơ hội tôt đe những ai sống ơn gọi đan tu chiêm niệm ‘ôn cố tri tân’- nhìn về quá khứ để thẳng tiến tương lai. Vì xét cho cùng, khi thắc mắc một điều gì, tức là người ta muốn biết rõ, muôn được chứng nghiệm về điều ấy.
Đời sống đan tu chiêm niệm hiện diện trong Giáo Hội và thế giới hôm nay, không phải là một sự hiện diện mà ai cũng có thể dễ dàng nhận ra. Vì thế, những e ngại và xầm xì, thực ra, cũng chỉ nói lên một điều mà chính Đức Phaolô VI đã tinh tế nhận ra và xác quyết: con người thời nay thích chứng nhân hơn chửng từ, cần gương sống cụ thể hơn giáo thuyết[38] .Thế nên, khi cho rằng: đan tu là di sản sót lại của thời quá khứ, đan sĩ là mẫu người lỗi thời, là người có thể làm trì trệ và lệch hướng đà tiến bộ của nhân loại nên không thích hợp với cuộc sống văn minh- thì một đàng, vì người ta chưa hiểu biết, chưa nhận ra vị thế, vai trò, tương quan cua đan tu chiêm niệm trong Giáo Hội và thế giới. Nhưng đàng khác, qua vấn nạn này, người ta muốn lưu ý đan tu chiêm niệm, nhắc nhớ người đan sĩ: cuộc đời như một dòng sông luôn trôi chảy và cuốn theo những hương phù sa bồi đắp ruộng vườn được tươi tốt, nhưng đồng thời cũng chuyển tải những rác rưởi gây ô nhiễm môi trường cuộc sông. Vì thế, khi sống trong những “dòng chảy” này, người đan sĩ cần có một sự phân định và tinh lọc; nói đúng hơn, cần biết canh tân và thích nghi với những hoàn cảnh đổi thay qua các thời đại. Theo Công Đồng Vaticano II, ngoài việc loại bỏ một số hình thức, tập tục lỗi thời thì cách canh tân tốt nhất là trở về “thượng nguồn” – trở về nguồn mạch của đời sông Kitô hữu, trở về đặc sủng mà Chúa đã gieo mầm nơi Đấng Sáng Lập và thích nghi nó vào môi trường, hoàn cảnh, nhu cầu của thời đại dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần và sự hướng dẫn của Giáo Hội[39] ;nếu không, đan tu chiêm niệm sẽ lỗi thời, đan sĩ sẽ trở thành người vô ích cho mọi người, cho Gíao Hội và thế giới hôm nay. 

 

 

 

 

 


 

[1] PHAN TẤN THÀNH, Đời sống tâm linh, tập VI, Rôma 2006, tr.202

[2] THOMAS MERTON, Bạn Tìm Ai, ơn gọi và Linh đạo Đan Tu, (chuyển ngữ:Mỹ Ca, 2003), tr.10

[3]X. PHAN TẤN THÀNH, Đời sống tâm linh, tập VI, Rôma 2Q06, tr.46

[4]X. THOMAS MERTON, Bạn Tim Ai, ơn gọi và Linh đạo Đan Tu., (chuyển ngữ: Mỹ Ca, 2003), tr. 14

[5]GLHTCG, số 917;
CĐ. Vat II, Hiến Chế Tín Lý Về Hội Thánh, 1964, số 43

[6]GLHTCG,số 918
CĐ.Vat II, Sắc lệnh canh tân và thích nghi đời tu, 1965, số 1

[7]CĐ.Vat II, Hiến chế Tín lý về Hội Thánh, 1964, số 45

[8]X. BỘ TU SĨ, Văn kiện Chiều kích chiêm niệm trong đời tu, 1980, số 25;
CĐ.Vat II, Sắc lệnh Canh tân và thích nghi đời tu 1965, số 7

[9]X. BỘ TU SĨ, Văn kiện Chiều kích chiêm niệm trong đời tu, 1980, số 25

[10]BỘ TU SĨ, Văn kiện Chiều kích chiêm niệm trong đời tu, 1980, số 26

[11]ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Đời sống thánh hiến, 1996, số 6.59

[12]CĐ. Vat II, Sắc lệnh Hoạt Động truyền giáo của Gíao Hội, 1965, số 40

[13]ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Văn kiện Những Yếu tố cốt yếu trong giáo huấn của Hội Thánh về đời tu, 1983, số 24

[14]  ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Đời sống thánh hiến, 1996, số 8

[15] ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Đời sống thánh hiến, 1996, số 27 
BỘ TU SĨ, Văn kiện Chiều kích chiêm niệm trong đời tu, 1980, số 24

[16] ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Đời sống thánh hiến, 1996, số 8

[17]ĐTC BlỂN ĐỨC XVI, Bài huấn đức trước Kinh Truyền Tin trưa 19.11.2006 tại Quảng Trường Thánh Phêrô http://vielcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.asnx?ID=39138 truy cập 01/10/2009.

[18]BỘ TU SĨ, Văn kiện Chiều kích chiêm niệm trong đời tu, 1980, số 26

[19]x.ĐỨC GIOAN PHAOLÔ VI, Tông huấn Chứng tá Phúc Âm, 1971, số 8;

ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Đời sống Thánh Hiến, 1996, số 78;

ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Văn kiện Những Yếu tố cốt yếu trong giáo huấn của Hội Thánh về đời tu, 1983, số 24

[20]ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Đời sống thánh hiến, 1996, số 8

CĐ Vat II, Sắc lệnh  Canh tân và thích nghi đời tu, 1965, số 7

CĐ. Vat II, Sắc lệnh Hoạt Động truyền giáo của Gíao Hội, 1965, số 40

[21]x. CĐ Vat II, Sắc lệnh  Canh tân và thích nghi đời tu, 1965, số 7

[22]ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Đời sống thánh hiến, 1996, số 8

[23]ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Đời sống thánh hiến, 1996, số 8 .78;
CĐ. Vat II, Sắc lệnh Hoạt Động truyền giáo của Gíao Hội, 1965, số 18 . 40;;
ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp  Sứ vụ Đấng Cứu Chuộc;
BỘ TU SĨ, Văn kiện Chiều kích chiêm niệm trong đời tu, 1980, số 24

[24]ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Đời sống thánh hiến, 1996, số 8

[25] ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu, 1999, số 44;

ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Đời sống thánh hiến, 1996, số 101

[26] Frère PIERRE MARIE, Luật Sống, số 146.

[27] St. PIERE DAMIEN, PL. 156,231 

[28] St. Augustin, Commentaire sur le Ps. 130

[29] HUGUE de St. VICTOR, De Sacramentis, II, 1,2

[30] Frère PIERRE MARIE, Luật Sống, số 148

[31] Rapport évêque- religieux in D.c. n° 1748. p. 778 § 4

[32] “Mutuae Relations”, D.C. n° 1748 §10

[33]X. Thánh BlỂN ĐỨC, Tu Luật, ch.70

[34] CD .Vat. II, Hiến chế Tín lý về Hội Thánh, số 40

[35]CĐ.Vat. II, Hiến chế Tín lý về Hội Thánh, số 43

[36]CĐ.Vat. II, Hiến chế Tín lý về Hội Thánh, số 31

[37]Frère PIERRE MARIE, Luật Sống, số 151

[38]ĐỨC PHAOLÔ VI, Tông huấn Loan báo Tin Mừng , 1976, số 41

[39] CĐ.Vat II, Sắc lệnh Canh tân và thích nghi đời tu, 1965, số 2

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐAN SĨ LINH MỤC GIỮA LÒNG GIÁO HỘI

 

FM.Antôn Nhâm

 

Khi đề cập đến người linh mục, người ta có một cái nhìn rất phong phú và một cách nào đó rất được đề cao và có khi thần thánh hoá. Quả thật là như thế, vì linh mục cũng là một con người được chọn gọi từ muôn người, nhưng lại được thông dự vào thiên chức linh mục của Chúa Kitô, trở nên một với Người, ơn gọi linh mục là một huyền nhiệm của việc trao đổi lạ lùng giữa Thiên Chúa với con người. Người đan sĩ linh mục lại còn là một “huyền nhiệm” hơn đối với nhiều người. Không ít giáo dân, linh mục khi đến đan viện đã thốt lên với vẻ ngạc nhiên: ở ngoài, chúng tôi thiếu các linh mục để làm mục vụ, trong khi ở đây các cha, các thầy “dồn đống” không làm gì cả. Phải chăng đan sĩ linh mục là người có “chức” mà không có “vụ”, có học mà không phải hành ?

 

I CĂN TÍNH CỦA NGƯỜI LINH MỤC

Căn tính và khuôn mẫu của linh mục được xác định rõ ràng và bất biến qua dòng thời gian, được xây dựng trên nền tảng là chính “Đức Kitô”. Cũng như thánh Phêrô đã nhận được danh xưng mới của mình từ Chúa Kitô, thì người linh mục cũng “lãnh nhận ‘danh xưng’ của mình, tức là căn tính riêng của mình từ Chúa Kitô”. Điều ấỵ có nghĩa rằng, “tất cả những gì linh mục làm, đều nhân “danh” Chúa Kitô. Bản ngã của linh mục hoàn toàn trở nên liên hệ đến “bản ngã’” của Chúa Kitô. Chính nhân danh Chúa Kitô, chứ không phải nhân danh bản thân, mà người linh mục thực hiện công việc tông đồ của mình[1].

Từ nền tảng này, chúng ta thường được nghe linh mục là một Alter Christus, một Kitô khác, một Kitô của thời đai hôm nay được Chúa Cha sai đến thực hiện lời hứa của Ngài qua ngôn sứ Giêrêmia: “Ta sẽ ban cho các ngươi những mục tử như lòng Ta mong muốn”(Gr 3,15). Vậy ta thử hỏi, Chúa đang mong muốn gì nơi người linh mục ngày hôm nay? Không trả lời hẳn ai cũng biết, là Ngài muốn mỗi linh mục trở nên một với Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Đó cũng là điều Chúa Giêsu mong ước mãnh liệt qua lời nguyện hiến tế. “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật và … con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến… để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,17-21).
Được lãnh chức thánh, có nghĩa là bước vào, theo cách bí tích và hiện sinh, trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho “những người thuộc về Ngài”. Chính từ đó phát sinh nơi các linh mục một ơn gọi cầu nguyện đặc thù, theo ý nghĩa kitô học chặt chẽ: tức là được kêu gọi “ở lại” trong Đức Kitô và mang tâm tình của Người (x.Ga 1,35-39; 15,4-10). “Chúa Giêsu đã đích thân cảm nghiệm việc thế gian từ chối, không hiểu, dửng dưng, làm méo mó khuôn mặt của Thiên Chúa. Người linh mục cũng chia sẻ với Chúa Giêsu niềm vui biết Thiên Chúa là Cha, nhưng đồng thời cũng cảm nghiệm sự đau đớn nhận ra rằng người đời đã không biết Thiên Chúa[2]
Qua lời giải thích của Đức Thánh Cha, ta còn nhận ra tính đặc thù của người linh mục là cầu nguyện. Dĩ nhiên cầu nguyện ở đây hiểu theo nghĩa rộng, không thể giới hạn trong những giờ kinh phụng vụ. Như thế, phải chăng đan sĩ linh mục có điều kiện thuận lợi và ưu thế hơn trong việc thực thi sứ vụ linh mục của mình?

 

II. MỐI LIÊN HỆ GIỮA CĂN TÍNH ĐAN TU VÀ THIÊN CHỨC LINH MỤC
Ngày nay, chúng ta nhận thấy có một sự thay đổi quan niệm khi nhìn về người linh mục, thay vì gọi thánh lễ phong chức linh mục, người ta đổi thành thánh lễ trao tác vụ linh mục. Đây là một vân đề vẫn còn trong sự tranh luận, những người được gọi để “làm” linh mục hay để “là” linh mục?
Để tìm hiểu thêm về thiên chức linh mục, chúng ta tự hỏi, linh mục là ai ? khi đặt câu hỏi như thế chúng ta thấy chữ “là” lại xuất hiện. Và điều chúng ta muôn tìm hiểu hẳn là cái căn tính sâu xa của bản thể linh mục, rồi mới đến việc người làm gì, và làm thế nào. 
Linh mục là một Alter Christus, vị Kitô thứ hai. Điều này muôn diễn tả sự hiệp nhất nên một trong Đức Kitô. Sự kết hiệp này bao gồm hai khía cạnh trong sự duy nhất của con người linh mục là “là” và “làm”.
Là Chúa Kitô vì qua bí tích truyền chức, linh mục được chọn gọi và được thánh hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa, được thông hiệp vào quyền năng của Chúa Kitô, nên “đồng hình đồng dạng” với Chúa Kitô. Sự đồng hình đồng dạng này đươc thể hiện từ cuộc sống qua việc tận hiến toàn thân cho Thien Chúa cả hồn lẫn xác. Trái tim và sự rung cảm của người linh mục cùng chung nhịp và đồng cảm với trái tim của Chúa Giêsu. Ngài đã yêu Chúa Cha và nhân loại, nên dâng hiến trọn vẹn cho Cha để cứu độ loài người. Nền tảng và mức độ của việc dâng hiến mạng sông cho nhân loại của Chúa Giêsu bắt nguồn từ tình yêu và dâng hiến cho Chúa Cha.
Ngày hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi người linh mục là để cho Ngài tiếp tục sự dâng hiến cho Chúa Cha trong sự hiệp nhất với toàn nhân loại. Để thực hiện được điều này, người linh mục phải trở nên người hoàn toàn thuộc về Chúa, người của Chúa. Đây cũng chính là điểm gặp gỡ giữa căn tính người linh mục và đời sống đan tu.
Như vậy, bản chất của người linh mục không gì khác hơn là “một cách thức mới để kết hiệp với Chúa Kitô”. Sự kết hiệp này được ban một cách nhưng không[3] và mãi mãi qua bí tích truyền chức thánh. Nhưng như thế không có nghĩa là một khi được thánh hiến là trở nên như Đức Kitô trọn vẹn, mà phải nỗ lực không ngừng qua từng ngày sống từ bỏ và vươn lên tới “tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Eph 4,13), để có thể nói được như thánh Phaolô “tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Những từ bỏ xem ra nho nhỏ ẩy, nhưtig không thể thực hiện được một cách vui tươi và tự nhiên nếu không lấy Đức Kitô làm trung tâm điểm của mục đích vươn tới và không sống đời sống kêt hiệp thâm sâu với Ngài.
Người linh mục được mời gọi bước vào mối tình điên dại của Đức Giêsu. Trong tình yêu của Ngài, họ được thanh luyện, được thánh hiến để thi hành tác vụ linh mục, để như thánh Phêrô, họ yêu mến Ngài cho đến cùng. Cũng thế, những đan sĩ linh mục được mời gọi sông mối tình cao cả này với Chúa Cha trong Đức Kitô và sông sứ vụ của mình trong và qua đời sông đan tu, đó là “không lấy gì hơn Chúa Kitô[4] .
Đời sống đan tu là nền tảng căn bản và vững chắc để trên đó sứ vụ người linh mục được thực hiện một cách tối ưu, vì cùng chung một đặc tính căn bản là tận hiến cho Thiên Chúa trong Đức Kitô. Sự thánh hiến cho Thiên Chúa nơi người đan sĩ được cụ thể hoá bằng việc tuân giữ các lời khuyên Phúc Âm. Vì bản chất và mục đích của lời khuyên Phúc Âm là để tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa. Qua đó các đan sĩ linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, kết hiệp mật thiết với Ngài[5]. Mỗi đan sĩ linh mục khi đọc “đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì anh em, đây là chén Máu Thầy, máu Giao Ước mới, Giao Ước vĩnh cửu sẽ đổ ra vì anh em”, phải hiểu là nói với chính mình. “Qua những lời đó, Đức Kitô trao trách nhiệm tiến dâng Người, ăn Người và noi gương Người. Có vẻ như Người nói: các con hãy tiến dâng cái Thầy dâng, ăn của ăn Thầy trao, cuối cùng, làm điều Thầy làm. Hãy chịu đau khổ cho Thầy như Thầy chịu đau khổ cho anh em. Hãy trao thịt máu anh em cho nhau, hãy trao mạng sống anh em cho nhau như chính Thầy[6]. (Baudouin de Ford)
Cụ thể đó là tất cả cuộc đời hy sinh của linh mục. Rõ ràng nhất, và cũng bi kịch nhất là sự hy sinh mọi thú vui xác thịt trong đời sống độc thân khiết tịnh, là chấp nhận cuộc sống khó nghèo, là sự từ bỏ ý riêng để vâng phục bề trên – đâng thay mặt Giáo Hội và là đại diện Chúa Kitô. Đây chính là cái tâm của sự vâng phục theo Tin Mừng. Vì vâng phục mà Đức Kitô, Đấng hoàn toàn vô tội “đã bị coi như hiện thân của tội lỗi” (2 Cr 5,21). 
Như vậy, sống các lời khuyên Phúc Âm là một phương thế để đạt đến sự tận hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa. Đó là sự cụ thể hoá thừa tác vụ linh mục mà các đan sĩ lãnh nhận từ Chúa Kitô qua Giáo Hội của Người. Chính Đức Gioan XXIII cũng đã khẳng định trong thông điệp “Sacerdotii Nostri Primordia” công bố năm 1959, nhân dịp kỷ niệm bách chu niên ngày thánh Jean-Marie Vianey qua đời rằng, để duy trì và củng cố đời sống mới trong Chúa Kitô, các linh mục cũng cần noi theo gương cha sở họ Ars, bằng một “phòng cách sống mới”, đó là sự quy chiếu đời sống vào ba lời khuyên Phúc Âm. Đối với ngài, đây là điều cần thiết cho các linh mục, dẫu rằng các ngài không bị ràng buộc bởi ba lời khuyên Phúc Âm này do bậc sống giáo sĩ, nhưng những lời khuyên này đem đến cho họ phương thế chính qui để đi đến mục tiêu đáng khát mong là sự hoàn thiện Kitô giáo[7].
Đời sống liên lỷ cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa cũng là điểm nòng cốt cho chính bản thân người linh mục và là hoa trái phong phú cho hoạt động tông đồ. Vì là người được thánh hiến cho Thiên Chúa, theo mẫu gương của Chúa Kitô, nên linh mục cũng phải là người của lời cầu nguyện như Chúa Kitô. Đức thánh cha Gioan Phaolô II đã định nghĩa “linh mục là người cầu nguyện[8] . Mầu gương Chúa Giêsu khuyên khích những người được kêu mời thông chia vào sứ mệnh và hiến tế của Chứa biết dành cho lời cầu nguyện một thế đứng quan trọng trong cuộc sống của mình, bởi vì chính lời cầu nguyện là nền tảng, là cội nguồn và đảm bảo cho thánh thiện trong hoạt động thường ngày của người linh mục. Nếu không có lời cầu nguyện, cuộc sống linh mục không thể đem lại hoa trái phong phú. Chính lời cầu nguyện giúp người linh mục tránh được khuynh hướng coi trọng đời sống hoạt động mà bỏ bê đời sống nội tâm và khỏi rơi vào chước cám dỗ quá hăng say hoạt động đến độ lạc hướng.
Tài liệu Thượng Hội đồng giám mục thế giới năm 1971 cũng nêu bật giá trị và sự cần thiết của việc chiêm niệm Lời Chúa. Việc lắng nghe và suy gẫm Lời Chúa với tinh thần chiêm niệm là điều cấp thiêt và lợi ích đối với mọi người. Riêng trong cuộc đời linh mục, việc suy niệm Lời Chúa tạo ra một tâm thức, một kiểu nhìn thế giới với tinh thần khôn ngoan trong dự phóng của Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Ngài. Cuộc sống kết hiệp trọn vẹn ấy với Chúa sẽ làm phát sinh ra niềm vui trong lòng và cuộc sống của vị linh mục. Và vì thế, giờ kinh phụng vụ có một chỗ đứng hết sức quan trọng đối với đời sống người linh mục. Công đồng Vaticano II nhắc nhở các vị linh mục nhớ tới Phụng vụ giờ kinh là lời cầu kết hiệp lời cầu cá nhân của vị linh mục với lời cầu của Giáo Hội. Trong lúc đọc kinh nhật tụng, các linh mục cho Giáo Hội mượn tiếng các vị cầu nguyện để cầu nguyện nhân danh toàn nhân loại cùng với Chúa Kitô là Đấng luôn cầu bầu cho chúng ta. Giáo Hội trao cho các linh mục nhiệm vụ cầu nguyện không chỉ nhân danh các tín hữu mà còn nhân danh toàn thể nhân loại và vũ trụ nữa, để cầu bầu cho mọi nhu cầu của Giáo Hội, của thê giới và của mỗi một người trong gia đình nhân loại[9] . Đời sống cầu nguyện là một yếu tố không thể thiếu để thực hiện đời hiến tế trong Đức Kitô. “Những điều này chỉ có thể thực hiện trừ phi người linh mục tiến sâu vào mầu nhiệm Chúa Kitô qua đời sống cầu nguyện[10]
Qua những dẫn chứng vừa trình bày trên, chúng ta rút ra được những điểm này là, ơn gọi linh mục trước hết và trên hết là một lời mời gọi sống kết hiệp, nên một với Chúa Giêsu, một ơn gọi nên thánh, không chỉ riêng cho bản thân linh mục nhưng là cho Giáo Hội, cho thế giới. Nhưng sứ vụ của người linh mục chỉ được hiện thực và có kết quả khi gắn liền với Chúa Giêsu và Giáo Hội. Đan sĩ linh mục đừng có tham vọng là nếu tôi ở ngoài hoạt động mục vụ sẽ ích lợi hơn cho các linh hồn. Công Đồng khẳng định rõ nếu chỉ chú tâm vào mục vụ mà quên đi căn cốt của đời sông thiêng liêng là một nguy hiểm. Một khi người đan sĩ linh mục sống rốt ráo đời đan tu đã là chu toàn sứ vụ một cách tuyệt hảo. Môi trường và nếp sống đời đan tu là ưu thế để từ đó hiện thực sứ vụ của người linh mục. Hay nói cách khác nếu chu toàn và kết hợp được đời đan tu và thiên chức linh mục sẽ tạo nên một người linh mục lý tưởng như lòng Chúa mong ước là được gọi để “ở” với Chúa và được sai đi, và cũng là người linh mục mà thế giới đang cần là trở nên đấng trung gian quyền thế trước mặt Chúa, nhằm đem ơn cứu độ cho muôn người. “Điều đó chỉ khả thi khi dành ưu tiên cho sự hãm mình và chiêm niệm. Các linh mục theo lòng Chúa mong ước múc lấy tinh thần mục vụ trong đời sống nội tâm cũng cao như các tu sĩ chiêm niệm thuần tuý vậy”[11]
Qua những chia sẻ của các thành viên tham dự khoá tĩnh huấn linh mục trẻ và phó tế cũng đã nêu lên những khó khăn và sự giằng co giữa đời sông đan tu chiêm niệm và công việc mục vụ bên ngoài, nhưng thực chất đó chỉ là những trở ngại có tính hình thức bên ngoài, căn cứ vào một số luật lệ, như luật nội vi, những lúng túng của công việc mục vụ mà họ không chuyên môn… những điều đó chưa hẳn là lý do chính để kết luận. Nếu người đan sĩ linh mục sông đúng căn tính của mình thì dù phải đi ra ngoài làm mục vụ không hề có sự đối kháng giữa căn tính đan tu và đời sống mục vụ của mình. Thánh Bê-na-đô là một điển dụ cho chúng ta. Hoàn cảnh và nhu cầu đòi buộc ngài phải ra ngoài mục vụ, nhưng không vì thế mà đánh mất căn tính đan tu, ngược lại chính đời sống đan tu mang lại cho ngài những thành công. Nêu lên điều này không nhằm cổ suý việc mục vụ bên ngoài của đan sĩ linh mục, nhưng là để chứng minh căn tính đan tu không phải làđiều gì hoàn toàn xa lạ và dị ứng với những công việc mục vụ. Nhưng đâu là cách thế hiện diện và hoạt động của người đan sĩ linh mục mà Giáo Hội mong muốn?

III. ĐAN SĨ LINH MỤC GIỮA LÒNG GIÁO HỘI
Sống trên đời ai cũng có một sứ mệnh nào đó. Sứ mệnh đối với Thiên Chúa và Giáo Hội, sứ mệnh đối với quốc gia dân tộc, sứ mệnh đôi với gia đình, xã hội… Sứ mệnh nào cũng cao cả, địa vị nào cũng quan trọng. Đức Hồng Y Newman đã nói như sau: vị trí của tôi cũng quan trọng chẳng khác nào vị trí của một vị Tổng Lãnh Thiên Thần trên trời.
Đời sống đan tu chiêm niệm được Giáo Hội ví như men, muối cho đời, tuy âm thầm, nhỏ bé, chịu chôn vùi và tan biến, nhưng lại có sức biến đổi kỳ diệu. “Sự đóng góp thuần tuý thiêng liêng mà đời sống đan tu cống hiến cho việc Phúc Ầm hoá cũng rất có ý nghĩa. Đó là lỉnh hồn và men của hoạt động tông đồ, dành việc đóng góp tích cực lại cho những người có ơn gọi tông đồ. Như thế, đời sống họ trở nên một suối nguồn huyềm nhiệm cho hoa trái tông đồ và là phúc lành cho Cộng Đoàn Kitô hữu và cho toàn thế giới[12] . Vì thế, “Những tu hội hoàn toàn chuyên về chiêm niệm, luôn luôn có một chỗ đứng nổi bật trong Nhiệm thể Đức Kitô: vì họ dâng lên Thiên Chúa lễ tế ngợi khen cao cả, làm vẻ vang Dân Thiên Chúa bằng rất nhiều hoa trái thánh thiện, khích lệ Dân Chúa bằng gương sáng và làm tăng trưởng Dân ấy bằng việc tông đồ âm thầm mà phong phú. Bởi thế, tuy việc tông đồ bằng hoạt động là cần, nhưng không thể kêu gọi các thành viên của tu hội này cộng tác vào các loại thừa tác mục vụ khác nhau[13].
Điều mà Giáo Hội muôn người đan sĩ linh mục là làm sao sống trọn được hai sứ mệnh trong một ơn gọi của mình là một đan sĩ và đồng thời là một linh mục. Một cách nào đó Giáo Hội đặt kỳ vọng nhiều nơi người đan sĩ linh mục, vì cuộc sống ấy được đặt trên một nền tảng cùa đời thánh hiến trong nếp sống đan tu, được xem là một môi trường thánh thiện và là “trường học để sông đức ái trọn hảo” và phụng sự Thiên Chúa cách chuyên biệt. Đặc biệt với xã hội ngày hôm nay, những biến cố bi thảm xảy ra trên thế giới trong những năm gần đây đã chồng chất lên những khó khăn hiện có của lịch sử. Một xã hội với những ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực, trong đó “không chỉ toàn cầu hoá kỹ thuật và kinh tế, mà còn có cả nỗi bất an và lo sợ, tội ác và bạo lực, bết công và chiến tranh[14] .
Trong bối cảnh đó, các người thánh hiến nói chung và đan sĩ linh mục nói riêng được mời gọi hoán cải không ngừng để chiều kích ngôn sứ của ơn gọi mang lấy một sinh lực mới. Thật vậy, khi họ “được mời gọi dâng hiến cuộc đời để phụng sự Nước Thiên Chúa, bằng cách từ bỏ mọi sự và noi gương nếp sống của Chúa Giêsu Kitô sát hơn, họ đảm nhận vai trò cao cả là giáo dục toàn thể dân Thiên Chúa[15] . Được như thế, đời sống đan sĩ linh mục chữa trị được các điều ác hại trong thời đại, trở nên phúc lành và lý do để hy vọng trong lòng Giáo Hội, cho đời sống con người và cho chính đời sống Giáo Hội[16]. Sức khoẻ của Giáo Hội trực tiếp tuỳ thuộc vào tinh thần của các linh mục. Cho nên các linh mục không những cần thành thật, chăm chỉ và trung tín, mà còn cần phải được lối cuốn bởi tình yêu Thiên Chúa, tình yêu Hội Thánh, và tình yêu đối với đức tin Công giáo trong tinh thần cầu nguyện và khổ hạnh [17].
Ngày nay, hơn bao giờ hêt Giáo Hội kêu gọi Phúc Âm hoá không chỉ cho những người chưa nhận biêt Thiên Chúa, mà còn cần tái truyền giáo cho những quốc gia được coi là “chị cả” của Giáo Hội và Phúc Âm hoá ngay chính cộng đoàn mình sống. Đây là công việc cấp bách, nhưng lại đầy khó khăn. “Nó không lệ thuộc trước tiên vào não trạng tấn công, cũng không lệ thuộc vào những phương pháp được vận dụng như một chiến lược quân sự. Chủ yếu nó lệ thuộc vào chất lượng của những chứng nhân. Mình càng thánh, càng có khả năng phổ biến Tin Mừng của Đức Kitô ‘hữu xạ tự nhiên hương’, trong bầu khí vui tươi, phấn khởi và tuyệt đối khiêm tốn. Chúa Thánh Thần được ban trong ngày lễ Ngũ Tuần, đã đưa các tông đồ lên đường làm sứ mệnh trên thế giới. Những lưỡi lửa tản ra đậu trên đầu họ như những dấu chỉ báo trước một phương pháp mới, một cách thức mới. Ngày nay, chúng chỉ có thê hành động trong Hội Thánh nơi những người lắng nghe Ngài trong sự thỉnh lặng chiêm niệm mà thôi. Để cho sứ điệp tình yêu lớn ấy được truyền đi, như âm thanh trong trẻo của một dàn Hi-Fi, trước hết người ta không yêu cầu có những ‘cái đầu bị hành động đốt cháy’ mà là những ‘con tim được tình yêu đốt cháy’ bởi sự hiện diện. Sự truyền thông thiêng liêng sẽ đi qua chúng mà không gặp trở ngại, nhanh hơn cả bức tường âm thanh ‘chẳng hạn một lời lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển’(Tv 18a). Chân lý được mặc khải chỉ được tiết lộ trên đôi cánh của tình yêu siêu nhiên (đức ái), Vì vậy mà sứ mệnh loan báo Lời Chúa (ngôn sứ) của Hội Thánh giả thiết trước đó sự cam kết của chức tinh mục: sự hiệp thông với nồng độ cao và thường trực với Đấng Trung Gian duy nhất. Muốn là chứng nhân của sự thật, linh mục trước hết phải là người của Thiên Chúa[18].
Đức Giêsu linh mục siêu việt và là kiểu mẫu cho mọi thời đại, nơi Ngài có bao hàm mọi đức tính mà chúng ta ngày hôm nay chỉ có thể bắt chước và noi gương ở một khía cạnh nào đó mà thôi. Người đan sĩ linh mục bước theo một Giêsu Nagiarét khiêm hạ và bình dân sông giữa những người dân quê, lao động và cầu nguyện; một Giêsu sau một ngày bôn ba rao giảng nhưng vẫn thức khuya dậy sớm để cầu nguyện và kết hiệp cùng Chúa Cha và qua đó tìm thánh ý của Cha, làm mới lại tình yêu của mình trong sứ vụ cứu độ. Đây là điểm cốt lõi của sứ vụ và là yếu tố quyết định cho hiệu quả của việc loan báo Tin Mừng. Không có đức ái thì mọi công việc và lời rao giảng chỉ là những tiếng sáo rỗng, như thanh la, chũm choẹ xoang xoảng không đem lại kết quả gì cả (x. 1Cr 13,1-3). Nhận chân được giá trị này, Giắo Hội trân trọng và kêu gọi người đan sĩ linh mục sống tốt hơn nữa căn tính đan tu của mình, không ngừng “xuất phát lại từ Đức Kitô” và nguồn cội đặc sủng của đời sống đan tu: Là tìm lai một lần nữa tình yêu ban đầu của ta, tia sáng lôi cuốn làm ta đứng lên đi theo Người. Chính vì thế, cha thánh Biển Đức đà không đòi hỏi người đan sĩ linh mục làm gì khác hơn là: “Đừng tự phụ kiêu căng và không tự tiện làm điều gì ngoài lệnh Viện phụ truyền, và biết rằng mình phải tuân giữ kỷ luật kỹ càng hơn, (…) ngày càng phải tiến lên hơn trong Chúa[19].
Chỉ khi ý thức mình được yêu thương vô cùng và liên lỉ kết hiệp với Thiên Chúa mới có thể giúp ta thắng vượt mọi khó khăn riêng tư cũng như cơ cấu. Người đan sĩ linh mục không thể có tính sáng tạo, có khả năng canh tân và mở ra những con đường mục vụ mới và có hiệu quả khi chưa có được tình yêu của Thiên Chúa. Chính tình yêu này làm cho họ trở nên mạnh mẽ và dám làm mọi sự trong sự thúc bách của tình yêu Đức Kitô [20] .

 

 


 

[1] Bài giảng của ĐTC Bênêđíctô XVI trong lễ phong chức cho 19 linh mục vào chúa nhật lễ Chúa chiên lành, tại Đền Thờ Thánh Phê rô

[2] nt

[3] GLCG số 1578: không ai được coi mình là xứng đáng với chức vụ này

[4] Tu Luật, ch. 72,4

[5] X. Tuyên ngôn của Tổng công nghị dòng Xitô năm 2000, bản việt ngữ của dòng Mỹ Ca, 2009, số 47-5

[6] Robert Thomas O.Cist, Các Tác Giả Thần Bí Xitô, bản dịch Lm. Phaolô Nguyễn Tuyên Phương. ĐV Phước Vĩnh, 7/2009. Tr. 266-267

[7] X.Đức Gioan XXIII, “Sacerdotii Notri Primordia”, 1959, p.I.Trích dẫn bởi ĐGH Bênêdictô XVI trong thư gửi các linh mục ngày 16/06/2009
* Xem bài viết của Đan Viện Châu Sơn Đơn Dương, trong dịp tĩnh huấn anh em linh mục và phó tế của Hội dòng Xitô Thánh Gia VN, 17-19/ 11/2009.

[8] Bài huấn đức của ĐTC Gioan Phaolô II, ngày 2/6/199

[9] Nhiều tác giả, Linh Mục, Ngài là Ai? Nxb, Tôn giáo. Tháng 04/2007. Tr. 83-86

[10] CĐ Vat.II. Sắc lệnh PO 14

[11] Jean-Marc Bot. Linh Mục Cho Ơn Cứu Độ Thế Giới. Bản dịch, Vân Thuý 2008, tr. 181

[12] X. Perfectae Caritatis, 7; Vita Consecrata, 8, 59

[13] Giáo Luật, số 674

[14] Đức Gio-an Phao-lô II, nói với Caritas Ý (24/11/2001): L’Osservatore Romano, 25/11/2001, n.4

[15] Đức Gioan Phaolô II, Sứ điệp gửi phiên họp khoáng đại của Thánh Bộ Đời sống Thánh hiến và hiệp hội tông đồ (21/9/2001)

[16] x .Huấn Thị, Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô, tr 7

[17] X.Giáo luật , số 67

[18] Jean Marc Bot, Linh Mục Cho Ơn Cứu Độ Của Thế Giới, bản dịch, Vân Thúy, 2008, tr. 227-228

[19] Tu Luật, ch.62

[20] X.Huấn Thị, Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô, số 22

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

THÁNH GIÁ, CUỐN SÁCH, CÁI CÀY

 

Vp. Dominico

Năm 1964, nhân dịp lên Monte Cassino cung hiến thánh đường của đan viện, Đức Thánh Cha Phaolo VI đã dùng ba hình ảnh: “Thánh giá, cuôn sách và cái cày” để ghi công con cái thánh phụ Biển Đức trong việc loan báo Tin Mừng, khai sáng dân trí và bảo tồn văn hoá cổ thời của Châu Âu. Châu Âu xứng đáng được Đức Thánh Cha đặt dưới sự bảo trợ của thánh Biển Đức.
Truyền thống đan tu Biển Đức còn kéo dài trong 16 thế kỷ, vượt qua mọi thăng trầm, lan rộng qua mọi châu lục. Sự hiện diện của các đan sĩ Biển Đức và Xitô tại Việt Nam hôm nay chứng minh điều đó. Một câu hỏi được đặt ra: liệu con cái thánh tổ Biển Đức còn có thể cụ thể hoá các biểu tượng “cây Thánh giá, cuốn sách và cái cày” trong đất nước Việt Nam dưới chế độ vô thần này chăng?
Trước khi trả lời câu hỏi này, thiết tưởng cần xác định nội dung của ba biểu tượng mà Đức Phaolo VI đã muốn gói ghém trong đó.
Thánh giá: đối với thánh Phaolo, là niềm hãnh diện duy nhất (x. Gl 6,14), bởi lẽ đó là chứng tích cao độ của tình yêu, một tình yêu kết nối hai chiều cao và rộng, Thiên Chúa và con người. Ước mơ duy nhất của đan sĩ là gì nêu không phải là kết nối trời với đất? Họ theo gương Đức Kitô mỗi ngày vác thập giá mình qua những hy sinh, chấp nhận trong hân hoan.

Còn cuốn sách là gì? Vào thời cổ, khi chưa có máy in mọi văn bản đều được viết tay, quen gọi thủ bản (manuscrit). Những tấm da thuộc bỏ vào các hộc tủ. Do đó danh từ “cuốn sách” thường dành riêng cho Kinh Thánh. Kinh Thánh Cựu hay Tân Ước là cuốn sách duy nhât để đọc, nghiền ngẫm sống và loan báo cho mọi người. Như thế Sách Thánh là tài liệu duy nhât để loan báo Tin Mừng. Hay nói vắn tắt: phổ biến “Sách” cũng đồng nghĩa loan báo Tin Mừng.
Cái cày: Trong đời sống đan tu, lao động chân tay chiếm một chỗ quan trọng. Đan sĩ tự lực mưu sinh và khi truyền giáo, họ cũng giúp lương dân canh tác đất đai. Ngày nay, người ta khám phá ra hàng ngàn địa điểm truyền giáo của các đan sĩ giữa các nông trại. Nơi đây, con người tân tòng được khai sáng cách toàn diện, đạo đức, văn hoá và lao động sản xuất. Các đan sĩ thời xưa có cái nhìn vừa quân bình vừa toàn diện: vì làm phát triển mọi khả năng của con người về mặt tâm thể lý và tôn giáo. Phải chăng đó là mô hình truyền giáo lý tưởng và phù hợp cho các đan sĩ Biển Đức – Xitô?

 

TÍNH THỜI SỰ CỦA BÀI HỌC, RÚT TỪ CÁC BIỂU TƯỢNG “THÁNH GIÁ, CUỐN SÁCH VÀ CÁI CÀY”. 
Giáo Hội Việt Nam mở Năm Thánh để kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm và 350 năm hạt giông Tin Mừng được gieo vào đất nước Việt Nam. Mọi thành phần Dân Chúa, trong đó có các đan sĩ Biển Đức – Xitô, được mời gọi đào sâu ý nghĩa căn tính, đồng thời góp phần vào việc loan báo Tin Mừng cho dân tộc.
Đối với đan tu, ba phương thế vừa nêu trên phải chăng còn hiệu nghiệm? Hẳn nhiên rồi!
Chúng ta làm gì để thánh giá toả sáng tình yêu giữa thế giới của sự chết? Chúng ta phải sông thế nào để lời Tin Mừng không chỉ nằm trong những trang giấy, nhưng trở thành chứng từ của cuộc sống kitô. Chúng ta nỗ lực cày xới những mảnh đất gai góc của cuộc sống hơn là những mảnh vườn cà phê hay các thửa ruộng thần nông. Đây, xin đi vào từng điểm.

 

THÁNH GIÁ TOẢ ÁNH SÁNG TÌNH YÊU
Nói đến Thánh giá ta nghĩ ngay đến Núi Sọ, nơi Con Thiên Chúa đã bị lột sạch từ mảnh áo đến danh dự và sự sống. Các đan sĩ Việt Nam trên nửa thế kỷ nay đã được diễm phúc uông chung chén đắng của thầy Giêsu. Những cuộc xuất hành đầy bi thương còn để lại vết hằn trên khuôn mặt những ai đã một thời tù tội: nước mắt, tiếng kêu xen lẫn với lời ca tạ ơn trong những đêm thâu cô quạnh … những lớp trẻ bị đẩy ra khỏi nơi kín cổng cao tường để nhập đoàn bộ đội, xung phong hay với những công nhân lô sáu. Từ kenosis mà thánh Phaolo đã dùng để diễn tả sự tự hủy của Đức Kitô quả thật đã được tô đậm nét trên những người “vì danh Thầy mà bị thế gian ghét bỏ” (Mt5, 11).
Nhưng thánh giá không chỉ có thế, nó phải toả ánh sáng tình yêu vào mọi ngóc ngách của đời đan tu mang tính khổ hạnh! Nếp sống cộng đoàn không luôn “ngọt ngào và tốt đẹp lắm thay”, có chăng là nhờ Dầu Thần Khí được chảy tràn trên bộ râu và khuôn mặt của Aharon (x.Tv 133)! “Muốn theo Thầy thì hãy vác thánh giá mỗi ngày mà theo” (Lc 9, 23). Chữ mỗi ngày đòi hỏi sự kiên trì vượt mức! Lời thư Do thái còn đó: “chúng ta không thuộc loại người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin để bảo toàn sự sống ” (Dt 10, 39).
Lòng tin mà tác giả thư Do thái nói đây được nuôi dưỡng và lớn lên nhờ lời Chúa. Hẳn thật như đã xác định trên, Kinh Thánh là cuốn sách duy nhất chất chứa những lôi “mang lại sự sống thần linh ” (Ga 6, 68).
Thánh Biển Đức dành phần lớn thời gian mỗi ngày cho các đan sĩ học hỏi lời Chúa. Thế rồi, suốt bao năm tháng nghiền ngẫm, các bậc thầy đan tu đã trước tác những tác phẩm tu đức, khả dĩ nuôi dưỡng đời sông tâm linh cho các kitô hữu. Nhiều đan viện thời cổ như Monte Cassino, Fulda, Vivarium, Ligugé, v.v … đã là những trung tâm tu đức và văn hoá của Âu Châu. Sự ra đời của trường đại học Paris năm 1226 không làm lu mờ ảnh hưỡng của các đan viện này. Đạo lý mạc khải rút từ cuốn sách Kinh Thánh vẫn tiếp tục nuôi sống cộng đoàn tín hữu.
Vai trò của đan tu, trong lãnh vực này ngày nay vẫn được tôn trọng. Các tác giả đương thời như Columba Marmion, André Louf, Thomas Merton, v.v đang được các tầm hồn say yêu Chúa săn đọc.
Hiệp hội liên đan tu Biển Đức – Xitô trong hơn một thập niên nay đã cố gắng phiên dịch hay sáng tác những tác phẩm tu đức. Những tác phẩm này mới chỉ phọ biến trong nội bộ, nhưng theo sự đánh giá của nhiều tu sĩ nam nữ ngoài đan tu, các tác phẩm ấy nên được “trình làng” cách rộng rãi hơn nữa. Tại sao liên đan tu hoặc mỗi đan viện không lập ra một tủ sách tu đức chiêm niệm do một số cây viết khá thành thạo trong lãnh vực thiêng liêng?
Một yếu tố cần ghi nhận: phờ ơn Chúa, số đan sĩ được gởi đi du học hay tu nghiệp ở các trường đại học ở nước ngoài đã đạt tới con số kỷ lục: trên 60 vị. Đó là “số’ vốn chất xám” rất qúy cho liên đan tu và Giáo Hội trong tương lai. Học xong đương nhiên phải chia sẻ cho người khác kiến thức kinh thánh, thần học, tu đức qua việc dạy dỗ và cả qua các sách thiêng liêng. Các vị giáo phụ như Augustino, Gregorio, các giáo sư như Thomas Aquino hay Bonaventura đã để lại nhiều tác phẩm thời danh. Những tác phẩm này ban đầu cũng chỉ là những bài dạy trong trường lớp hay những bài giảng cho cộng đồng dân Chúa tại thánh đường; dần dà được thu góp thành sách, hoặc do chính tác giả, hoặc do các thính giả của các ngài.
Cuốn sách có ảnh hưởng vừa rộng rãi vừa lâu bền, cuốn sách chất chứa kinh nghiệm tu đức lại càng ảnh hưởng sâu đậm nơi người đọc. Ước mong của người cầm bút này đã trở thành hiện thực phần nào, nay xin viết lên như một lời động viên tha thiết với thế hệ đan sĩ tương lai.
Nhiệm vụ truyền giáo thật cần thiết. Do đó trong khả năng của mình, đan sĩ phải làm gì để cuốn sách Lời Chúa được đón nhận và nuôi sống các tâm hồn khát Chúa.
Cái cày: người Việt Nam ta rất thực tế: “có thực mới vực được đạo”. Người sống đạo cũng phải là người có bộ tiêu hóa tốt, nhưng bộ tiêu hoá tốt mà không có gì để nuôi nó thì thử hỏi sống đạo và sống hạnh phúc được chăng? Các đan sĩ Biển Đức -Xitô có một cái nhìn rất hiện sinh. Đối với họ, việc rao giảng Tin Mừng cũng đồng nghĩa với việc khai hoá con người toàn diện: trước hết, các đan sĩ truyền giáo cho “man dân” biết khai khẩn đất đai. Quả thật, họ đã thành công khi cùng những người tân tòng biến những cánh rừng mênh mông thành những đồng lúa hay vườn nho đầy ắp trái mọng. Song song với các đan viện bao giờ cũng có những nông trại mầu mỡ. Các đan sĩ canh tác đất đai trong tinh thần “truyền giáo”. Sản phẩm thu được sẽ bán đi để góp vào công cuộc mở Nước Chúa hôm qua và hôm nay.
Các đan sĩ chúng ta hôm nay, nếu tôi không lầm đang hiểu biểu tượng “cái cày” theo nghĩa đen, nghĩa là như một khí cụ canh tác đất đai. Các cha ông đan tu còn cho cái cày ý nghĩa cứu độ. Lao động trong hiệp thông với “bác thợ thành Nazareth”. Mỗi đường cưa, mỗi mũi đục, mỗi nhát búa … đối với chàng thanh niên Nazareth được thực hiện trong hiệp thông với Chúa Cha. Theo nghĩa này, lao động luôn đi đôi với cầu nguyện hay đúng hơn lao động là cầu nguyện đúng như Cha Biển Đức Thuận nói: “ta không lao động theo tinh thần culi mà theo tính thần nghĩa tử”. Tinh thần cầu nguyện nơi các đan sĩ tiền bối đã giúp họ luôn hướng thượng: hướng về Thiên Chúa; đồng thời đạt tới thiện mỹ. Chúng ta phải phục sát đất những công trình nghệ thuật mà các đan sĩ đã thực hiện trong thầm lặng và kiên tri. Những bức vách ghép bằng kiếng màu, những ca toà chạm trổ các sự tích Kinh Thánh, những thánh đường Gothique chứng minh trì óc thông minh về nghệ thuật thánh nơi các đan sĩ cần cù đã đạt tới đỉnh cao.

KẾT 
“Thánh giá, cuốn sách, cái cày” ba biểu tượng của sinh hoạt đan tu, khởi đi từ thánh tổ Biển Đức cho đến thế hệ đan sĩ hôm nay. Ba biểu tượng ấy nói lên những nỗ lực đặc thù mà các đan sĩ góp phần vào việc truyền bá Tin Mừng Đức Kitô. Nếu công lao của các đan sĩ Biển Đức thời xưa đối với Âu Châu được Đức Phaolô VI tóm gọn vào ba biểu tượng: cây thánh giá, cuốn sách và cái cày, thì ba biểu tượng ấy cũng đang mời gọi các đan sĩ thế kỷ XXI ý thức lại bổn phận mở nước Chúa giữa trần gian. Nước Chúa cũng chính là quyền năng và tình thương của Chúa. Tình thương làm sao đơm hoa kết tói nếu cây Thánh giá chưa được trồng trong cộng đoàn và trên bản thân? Nói đến Thánh giá, chúng ta không khỏi rùng mình khi nhớ lại quá khứ đầy bi thương. Phải chăng để có đủ can đảm bước theo “Con Chiên”, ta đặt tất cả niềm tín vào lời Ngài: “tên chúng ta sẽ được ghi vào Cuốn Sách Hằng Sống”. Những vất vả do lao động sản xuất, khi vật lộn với cái cuốc, cái cày nơi đồng nội nếu kèm theo lòng mến cũng có giá trị cứu rỗi [1].  Hạnh phúc biết bao khi được bảo đảm rằng: “dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu hao tàn tạ, nhưng con người bên trong chúng tôi ngày được canh tân đổi mới. Thật vậy, chút gian truân nhẹ bổng hiện tại sẽ mang lại cho chúng tôi một khối vinh quang siêu vời tuyệt đỉnh” (2 Cr 4,16-17).

 

 


 

 [1] X. Benedicto XVI, Spe Salvi, số 35

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NHIỆT TÂM VUN TRỒNG GIÁO HỘI

NƠI CHA BIỂN ĐỨC THUẬN 

 

FM.Duyên Thập Tự

Toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng Năm Thánh kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm (1960-2010). Một bước trưởng thành của Giáo Hội địa phương đạt được sau hơn 300 năm Tin Mừng được rao giảng trên đất nước Việt Nam.
Mừng Năm Thánh là dịp rất thuận lợi để chúng ta – với tư cách đan sĩ – cùng nhịp đập với Giáo Hội trong những thao thức về một Giáo Hội làm sao được lớn mạnh trong lòng dân tộc mình và tái xác định vị trí cũng như đóng góp đặc thù của đời đan tu trong Nhiệm Thể của Chúa Kitô.
Cha Biển Đức Thuận, Tổ Phụ Hội Dòng Xitô Thánh Gia, đã dùng hình ảnh “bộ rễ” để xác định chỗ đứng và chức năng của đan sĩ và đan viện đối với Dân Chúa. Đó là một diễn tả đẹp nhưng cũng đầy thách đố, vì đòi hỏi một sự ẩn mình thật sâu kín, một chứng từ âm thầm của một cuộc sống chìm trong tĩnh lặng.
Trong bài viết này, khi đề cập đến Nhiệt Tâm Vun Trồng Giáo Hội của Cha Biển Đức Thuận, tôi chỉ muốn nêu lên một vài “bước đi” mà ngài đã thực hiện trong hoàn cảnh và môi trường thời đại ngài sông, tức đầu thế kỷ 20. Những bước đi này có thể đã trở thành quen thuộc đốì với thời đại chúng ta, dầu vậy, chúng vẫn còn mang tính thời sự. Những bước đi này chỉ là “mặt nổi” của một vị thừa sai đã trở thành đan sĩ, muốn cho Giáo Hội hiện diện một cách sống động
trên quê hương chúng ta để khuôn mặt Giáo Hội trở nên gần gũi và đáng yêu đối với dân tộc này.

 

1. Tìm hiểu nền văn hoá và văn chương Việt Nam
Như bao nhiêu vị thừa sai, Cố Thuận đã thực hiện công việc đầu tiên khi đặt chân lên mảnh đất truyền giáo là học ngôn ngữ của dân tộc địa phương. Việc học hỏi này cho phép ngài tương giao với họ để công cuộc truyền giáo trở nên dễ dàng. Ngôn ngữ luôn là một khí cụ khẩn thiết. Không những học tiếng quốc ngữ, ngài còn miệt mài học chữ Hán. Trong công cuộc truyền giáo, ngài không chỉ học ngôn ngữ, mà còn đi xa hơn bằng việc đào sâu nền văn hoá Việt Nam. Ngài chú trọng đến nền văn chương bình dân, vì, trong một mức độ nào đó, hồn Việt được biểu lộ và não trạng của dân tộc Việt được diễn đạt qua những điệu dân ca, những câu ca dao, tục ngữ.
Người Việt Nam, vào thời đó, phần đông là nông dân. Vì thế, thiên nhiên, những mối tương giao gia đình, làng xóm, v.v. đều có chỗ trong nền văn chương bình dân. Người ta có thể khám phá nơi đó những ước muốn, những khao khát, những tư tưởng và tình cảm, trong nhiều điạ hạt.
Cố Thuận, khi tiếp cận với loại hình văn chương này [1] , ngài thấy được giá trị trong đó. Việc ý thức tầm quan trọng của việc tìm hiểu và đào sâu nền văn hóa bản xứ – mà văn chương là một khía cạnh đã giúp ngài có những điều kiện tôt để có thể đi vào tương giao và công cuộc truyền giáo đạt nhiều kết quả.

Nhưng công cuộc truyền giáo không chỉ hạn hẹp vào chuyện hoán cải lương dân, mà còn để Giáo Hội được hiện diện trong vùng đất dân ngoại. Nhưng làm sao Giáo Hội có thể hiện diện trong lòng một dân tộc, nếu Giáo Hội không ý thức được điều gì là trọng tâm của suy tư, tình cảm và hành động của dân tộc đó. Việc hoán cải phải là thành quả của cả một tiến trình thấm nhuần tinh thần Tin Mừng, được diễn tả qua nền văn hóa địa phương. Chính việc thấm nhuần nền văn hoá của người Việt Nam đã từng bước làm lớn lên trong cha tình yêu đối với dân tộc này.

 

2.Xây dựng những nguyện đường và thành lập các giáo xứ

Chúng ta đang nói đến việc ươm trồng Giáo Hội trong một xứ truyền giáo. Công cuộc này được diễn tả dưới nhiều diện mạo và bao gồm nhiều hoạt động. Trong vòng 15 năm truyền giáo, Cố Thuận đã thực hiện hai hoạt động để Giáo Hội trở thành hữu hình trong lòng dân tộc Việt Nam : xây dựng thánh đường và thành lập họ đạo mới.

Liên quan đến việc xây dựng thánh đường, dù sống trong cảnh nghèo cá nhân và thiếu nguồn tài chánh, cha vẫn nhiệt tâm và cố gắng làm điều gì tốt nhất cho các bổn đạo của mình, nghĩa là có một nơi thờ phượng xứng đáng. Ngài đã trùng tu toàn bộ thánh đường xứ Nước Mặn; và hơn thế nữa, ngài đã mặc cho nơi thờ phượng này một tấm áo mang đậm màu sắc văn hoá Việt Nam. Những hoa văn ưạm trổ, những chữ viết bằng Hán tự, màu sắc, đều toát lên một điện thờ vừa uy nghiêm vừa gần gũi với Thiên Chúa. Dù mang một món lớn do việc xây dựng nguyên đường, ngài vân luôn hài lòng vì có nơi chốn xứng đáng cho việc cử hành các lễ nghi phụng tự. Ngài chỉ nhắm đến vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn.

Dầu vậy, công cuộc ươm trồng Giáo Hội không chỉ hạn hẹp vào việc xây dựng các ngôi thánh đường vật chất, nhưng còn sâu xa hơn, đó là việc thành lập các cộng đoàn kitô. Đã nhiều lần, chúng tôi đề cập đến sự kiện là trong vòng 15 năm truyền giáo, cố Thuận không muốn giam mình trong nhà xứ; trái lại, ngài đi đến các gia đình, gặp gỡ giáo dân và những người chưa gia nhập Giáo Hội khi họ đi lao động về. Việc tiếp xúc này cho phép dần dần thành hình những cộng đoàn mới.

Trong sách Hạnh Tích, Viện phụ Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, đã kể lại những hoạt động của cố Thuận trong việc tạo lập những cộng đoàn mới như giáo họ Lập Yên. Giáo họ này được thành lập chỉ sau một thời gian ngắn khi ngài coi sóc xứ Nước Mặn.

Để minh hoạ những gì vừa được đề cập trên, chúng tôi muốn nêu lên một chứng từ về cố Thuận: “Ngài năng thúc giục học trò: “Sau này làm cha rồi phải làm ba điều: lập hai họ đạo, xây hai nhà thờ, chép hai quyển sách, sau cùng liệu sao ít là vào trong câu tóm chung Lịch Tử Đạo “Et alibi aliorum plurimorum, sanctorum, martyrum et confessorum, atque sanctarum virginum : Lại nơi khác còn nhiều thánh tử đạo, ẩn tu và đồng trinh nữa[2]

 

3.Lòng kính phục những người bản xứ
Một nét độc đáo nơi Cố Thuận trong nhiệt tâm ươm trồng Giáo Hội trên quê hương Việt Nam, đó là lòng kính phục đốì với những người bản xứ, giáo dân cũng như giáo sĩ. Lòng kính phục này được diễn tả bằng nhiều cách và trong một sự chân thật sâu xa.
Những hoạt động truyền giáo của ngài khởi đầu bằng công việc giáo dục các tiểu chủng sinh với tư cách là giáo sư tại tiểu chủng viện An-Ninh. Vai trò này giúp ngài có cơ hội nhận ra các phẩm tính của các học trò muốn dâng hiến đời mình cho Chúa Kitô và xây dựng Giáo Hội Việt Nam.
Khi được sai đến giáo xứ Nước Mặn, dù gặp nhiều khó khăn trong nhiều lãnh vực, Cố Thuận không bao giờ thất vọng. Khi các hoạt động truyền giáo được vận hành, ngài khám phá ra những phẩm chất của bổn đạo và những dự tòng. Nhiều lần, trong các thư tín, ngài kể cho song thân, Đức Cha Allys hoặc Bề Trên cả Hội Thừa Sai Paris về các lớp giáo lý và những thực hành đạo đức của bổn đạo, ngài thường kết luận bằng câu hô khẩu hiệu: “Muôn năm Việt Nam”. Trong sâu thẳm lòng mình, ngài là người luôn hy vọng vào thiện chí của người khác và luôn mong ước các kitô hữu ngày càng tốt hơn; và sự thật đã xảy ra như vậy.
Còn đối với hàng giáo sĩ, ngài luôn tỏ lòng tôn kính.
Một cha phó Việt Nam đã được sai đên giúp cố Thuận. Cha tên Lược. Ngài nhìn vị phụ tá của mình với con mắt thiện cảm, như được diễn đạt trong lá thư gởi Đức Cha Allys, ngày tháng 5 năm 1908:
“Kính thưa Đức Cha,
Giờ này cha Lược đang giáo huấn một người lương dân khôn khổ mà con đã săn sóc y tế cho ông. Con chẳng bao giờ có thể dạy dỗ như vị cha phó của con. Ngài nói rõ hết sức giải thích bằng những so sánh. Hỏi và lập lại. Đó thật sự là một người dạy giáo lý tài giỏi”.
Thời gian sau ngài viết cho Cha Bề Trên Cả Hội Thừa Sai Paris về cha phó Việt Nam này :
“Con được lợi thế là có một cha phó Việt Nam tuyệt vời, một linh mục thánh thiện, dành cả thời gian để ở với các trẻ em, và ở với Chúa trong nhà thờ”[3] .

Chúng ta cũng cần đặt những lời nói của C Thuận trong bối cảnh thời đó. Bối cảnh đó được Léon Joly [4] tóm lược và nhận định:

“Thứ bậc được xác định một cách rõ ràng. Những thừa sai Âu Châu là đạo trưởng, còn linh mục An-Nam, không phải là bạn đồng môn, mà là người phụ tá, phó. Nhưng tính chất phó đó không chính xác, nó thu ngắn rất nhiều khoảng cách biệt. Tại Âu châu, cha xứ và cha phó cùng tham dự tuần tĩnh tâm. Linh mục An-Nam không tham dự vào bàn tiệc thiêng liêng của vị linh mục Âu châu. Một nơi riêng dành cho họ… Những linh mục An-Nam, Trung Hoa, một cách tổng quát, tất cả mọi linh mục bản xứ, ở Viễn Đông, có thể là những linh mục tốt iành, nhưng với điều kiện là phải luôn có trước mắt một gương mẫu noi theo, và sống trong mối tương giao lệ thuộc vị linh mục Âu Châu”.

Một khi từ nhiệm vai trò thừa sai để sống đời đan tu, cố Thuận chỉ có những bạn đồng hành là các thanh niên đơn sơ và quê mùa. Dầu vậy, ngài kính yệu họ chân tình. Ngài luôn hy vọng về những phẩm tính và nhiệt tâm của họ vào đời sống đan tu dù họ chưa có một chút ý niệm nào. Ngài không thất vọng về một ai. Ngài tin vào thiện chí của họ. Trong thư tín gởi cho song thân hay cho Đức Cha Allys, ngài diễn tả tâm tình yêu mến và kính phục đôi với những thanh niên đang học sống đời đan tu :

“Những thanh niên ở với con, họ vâng lời, chăm chỉ... Họ đạt được nhiều tiến bộ”[5] 

“Con muốn trình với Đức Cha rằng những thỉnh sinh đó rất sốt sắng. Họ tuân giữ Luật Dòng, có chút giờ rảnh là vào nhà nguyện ngay, quì xuống lập tức để tạ lỗi vì lỗi luật mà con chẳng biết. Rõ ràng là Chúa giúp đỡ họ. Nếu họ có một bề trên và có vài đan sĩ cùng sống với họ, họ sẽ mau chóng trỏ thành những đan sĩ thật sự..”[6].

Và đây ngài kể về một thỉnh sinh vừa mới qua đời tại nhà dòng:
“Kính thưa Đức Cha,
Ngày 20 tháng 7, chúng con đã chôn cất một chú thỉnh sinh tên Nghi thuộc Nghệ An. Em chết vì thổ tả. Con đã đưa đi Huế. Nhưng đến Quảng Trị, bác sĩ chích cho một mũi thuốc mê, nhưng chẳng giúp được gì. Con liền gấp đưa về nhà dòng. Em muốn rước lễ lần cuối. Nhưng Chúa lại không cho phép: em đã qua đời và chúng con mang tang chế.
Trong sáu tháng ở đây, em đã là gương sáng của một tu sĩ cho tất cả chúng con. Con không thấy gì, thật sự không thấy gì đáng trách nơi em; và không kể đến các phép lạ, con không biết rằng một vị thánh có thể làm gì hơn nữa.
Về cái chết của em, con không thấy điều gì khác yên ủi như thế. Em biết mình sắp chết và em rất hạnh phúc, và cảm tạ Thiên Chúa. Em đã nhận tất cả các bí tích với lòng sốt sắng và đáp trả bằng những lời cầu nguyện; và hai ngày hai đêm lênh đênh trên thuyền, em không ngừng nói về Thiên Chúa Tốt Lành, dọn mình tình diện trước mặt Chúa. Xin tạ ơn Chúa.
Con kính xin Đức Cha thương cầu nguyện cho người anh em bé nhỏ vừa từ giã chúng con”[7] .

Những trích đoạn thư tín trên cho phép chúng ta chợt thấy Cha Biển Đức Thuận đánh giá cao những người trẻ ở với ngài để cùng tập sông đời đan tu. Điều này giúp chúng ta có cơ sở nhận định về phán đoán mà một vài viện phụ Âu Châu khi từ chối gởi các đan sĩ của mình đến lập dòng tại Việt Nam. Họ cho rằng những người Việt Nam không thích hợp cho một đời sống đan tu với bao nhiêu là đòi hỏi khắt khe. Nhưng Cha Biển Đức Thuận nhìn vấn đề cách khác. Và chính nhãn quan “khác” này cho phép ngài khám phá ra những phẩm tính đáp ứng một cách đúng đắn những yêu sách của đời đan tu.
Nét cuối cùng của lòng tôn trọng của cố Thuận đối với người bản xứ là cách xưng hô với hàng giáo sĩ Việt Nam. Trong thư đề ngày 16 tháng 5 năm 1926 kính gởi Đức Cha Allys, cha viết:
“Kính thưa Đức Cha, 
Con xin Đức Cha một lần nữa là cho anh em linh mục chúng con và cả con nữa được phép xưng là “con” khi nói chuyện cũng như khi viết thư cho các cha bản xứ. Thánh Giáo Hoàng của chúng ta muôn làm biến mất đi tất cả những tàn tích của sự phân biệt giữa các giáo sĩ Âu Châu và bản xứ. Con thích được xưng “con” với những vị xưng “con” với con, và còn hơn thế nữa, với những vị xưng “tôi” với con. Nhưng con tin sẽ không còn gặp như thế nữa… Con cũng xin mạn phép mọi nơi mọi lúc được xếp hàng sau những linh mục triều…”.
Để có thể hiểu được lời thỉnh cầu của cha Biển Đức Thuận, chúng ta phải đặt vào bối cảnh của thời đại và trong nền văn hoá Việt Nam. Người Việt Nam, khi ngỏ lời với ai, sử dụng nhiều từ khác nhau trong tương giao họ hàng để diễn tả tình cảm với người đó. Từ “con” được dùng để diễn tả lòng tôn kính đối với người trên, chẳng hạn với các linh mục. Khi cha Biển Đức Thuận xin Đức Cha được xưng hô “con” với các linh mục bản xứ, ngài đã thực hiện một bước đi thú vị và táo bạo. Thật vậy, đó là thời Pháp thuộc và những người Pháp luôn ở thế thượng phong trên người Việt Nam trong mọi lãnh vực. Ngay cả trong cấp độ Giáo Hội, giữa hàng giáo sĩ, cũng không thể tránh khỏi hô” sâu ngăn cách giáo sĩ Âu châu và bản xứ. Và đây là một ví dụ điển hình. Thượng Hội Đồng
vùng Đông Dương, họp tại Sài Gòn, từ ngày 7 đến 13 tháng năm 1880, có đoạn viết:
“Chương 1, triệt 5 : Các linh mục Âu Châu, vì nhân quyền thừa sai từ Rôma, nên có quyền trên các linh mục ban xứ… Người ta xưng các linh mục Âu Châu là cố và các linh mục An-Nam là Cụ, phù hợp với phong tục xưa”.
Khi trích dẫn Đức Giáo Hoàng , cha Biển Đức Thuận nhận [8] thấy trong quan điểm này một cơ may để Giáo Hội có thể được ươm trồng một cách tốt đẹp trong những xứ truyền giáo, và hình ảnh của một Giáo Hội trở thành đáng yêu hơn dưới mắt những lương dân.

 

4.Một Giáo Hội với những người nghèo
Cuộc đời của cha Biển Đức Thuận được ghi dấu bởi cái nghèo. Gia đình ngài nghèo và ngài đã sống cuộc đời nghèo khi thụ huấn tại chủng viện hay khi là một vị thừa sai hoặc là một đan sĩ. Nhưng sông nghèo nơi ngài không chỉ là chuyện cá nhân, mà còn liên quan đến chiều kích Giáo Hội. Vì Giáo Hội luôn luôn được mời gọi và chọn lựa sốing gần gũi những con người mà Tin Mừng Chúa Kitô được loan báo. Và Giáo Hội luôn là của người nghèo.

a. Chọn những người nghèo để phục vụ
Cuộc sống của Cha Biển Đức Thuận là sông với những người nghèo. Tại tiểu chủng viện An-Ninh, hay khi là cha xứ Nước Mặn, rồi sau này nơi Dòng Đức Mẹ An-Nam, ngài có cơ may sát cánh với nhiều hạng người mà tuyệt đại đa số là những người nghèo. Việc tương giao với lớp người nghèo, bệnh tật, bần cùng đủ loại, cho phép ngài có những kinh nghiệm quí giá và giúp ngài hiểu rằng Giáo Hội phải hiện diện một cách nào đó trong xứ truyền giáo.
Trong các thư tín, cha Biển Đức Thuận diễn tả một niềm vui sướng, hạnh phúc được sông với những người nghèo, để có thể phục vụ họ với trái tim vui tươi. Đó là một thứ linh hoạt và sức sống thần linh của người chỉ tìm lợi ích cho những người được phục vụ.
Ngài xác định đường hướng của Dòng Đức Bà An-Nam là sông nghèo như bao nhiêu người nông dân nghèo bản xứ. Ngay cả trong kiến trúc, cũng phải mang đậm nét đơn sơ. Ngài muốn mời các đan sĩ Âu châu sang lập dòng tại Việt Nam, nhưng lại e ngại rằng sẽ mọc lên những toà nhà lớn. Và điều đó đối với ngài là một tai họa không nhỏ, không những cho công cuộc rao giảng Tin Mừng mà còn cho cả phẩm chất sự hiện diện của Giáo Hội trong một xứ nghèo như Việt Nam thời đó [9].

Ngài đã chọn những người nghèo, một cuộc sống nghèo, để những người nghèo có cơ may sống đời đan tu. Khi chọn lựa phục vụ những người nghèo – trong trường hợp này, các ứng sinh đời đan tu cha Biển Đức Thuận cảm thấy một yêu sách phải thích ứng một số yếu tố cho phù hợp với cuộc sống và não trạng của người Việt Nam nghèo. Đây không chỉ là một việc lý tưởng hoá mà là một nhận thức sâu sắc về bốì cảnh cụ thể chung quanh. Và còn hơn thế nữa, ý thức này còn dẫn đến việc trở nên giống người nghèo. Cha Biển Đức Thuận không định vị mình như một người ở bên ngoài, nhưng mọi nơi mọi lúc, như người bước vào trong con đường đó,và hoàn toàn dấn thân.

 Trở nên nghèo như người nghèo

Như chúng ta vừa nói, một đòi hỏi của những ai muốn phục vụ người nghèo là phải trở nên nghèo như họ[10].  Việc trở nên đồng hình này là kết quả của chính mầu nhiệm Nhập Thể và phải là tự ý. Nói khác đi, cái nghèo bên ngoài phải đi đôi với cái nghèo bên trong.

Trong nếp sống, khi tại tiểu chủng viện An-Ninh hay khi tại giáo xứ Nước Mặn, cha Biển ĐứcThuận luôn cư xử một cách đơn giản, không cầu kỳ, ngay cả trong vật dụng và lương thực. Nơi ngài toát ra một sự thanh thoát. Ngài sống nghèo đích thực.
Một cách trở nên giống người nghèo, đó chính là sống giữa anh em đan sĩ và như mọi anh em. Là bề trên, là đấng sáng lập, nhưng ngài không muốn nhận một chút gì gọi là quyền lợi đang được hưởng. Hơn nữa, ngài đã chu toàn công tác dọn nhà vệ sinh cho đến khi sức khoẻ không còn cho phép. Đã rất nhiều lần, ngài xin Đức Cha cho ngài một vị bề trên, để ngài sống tuân phục như mọi anh em. Ngài muốn tuân phục hơn là ra lệnh. Đó là một trong những cách thế mà ngài muốn thực hiện trong suốt cuộc đời.
Tóm lại, nhiều lần chúng tôi đã đề cập đến vấn đề sống nghèo như là một dấu chỉ của một Giáo Hội phục vụ. Thật vậy, sự nghèo khó bên ngoài và bên trong luôn là một điều kiện để Giáo Hội có thể được ươm trồng trong một vùng đất truyền giáo như Việt Nam. Đại đa số người Việt Nam là nông dân nghèo. Sự hiện diện của những vị thừa sai ngoại quốc sống hoà mình với đám dân nghèo đã là một bài giáo lý quí giá hơn muôn ngàn lý thuyết đẹp. Họ là những chứng nhân sống động của một Giáo Hội vì và cho người nghèo, khi dám sống nghèo như những người nghèo.
Sự hiện diện của Giáo Hội qua nếp sống của những người đại diện luôn là một điều kiện cần thiết để Giáo Hội tìm thấy một chỗ dựa vững chắc trong lòng một dân tộc chưa nhận biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội Ngài.

 

Kết luận
Trong bài viết này, tôi cố gắng trinh bày một cách đơn giản một vài “bước đi” mà cha Biển Đức Thuận đã thực hiện với ý thức sâu đậm muôn Giáo Hội được hiện diện một cách hữu hình trên vùng đất truyền giáo Việt Nam này. Ý thức này đi đôi với ý thức về một Giáo Hội là Nhiệm Thể Chúa Kitô, mà mỗi chi thể có phần đóng góp để làm lớn mạnh.
Nhận thức rằng Giáo Hội là Nhiệm Thể Chúa Kitô và sứ mệnh là ươm trồng Giáo Hội, đòi hỏi phải sống sự liên kết và tính liên đới. Nói cách khác, đó là sự gắn kết kép: gắn kết với Chúa Kitô, vì Ngài là Đầu, Thủ Lãnh; gắn kết với mọi kitô hữu, vì chi thể giữ vững cho toàn thân.
Chính lòng yêu mến Chúa Kitô và Giáo Hội đã linh hoạt và linh hứng cha trong thực tế cuộc sống. Những chọn lựa, hoặc là cách hành động, hoặc là nếp sống, chỉ có thể được thấu hiểu trong niềm theo thức muốn Gíao Hội hiện diện một cách trung thực.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

[1] Ngài đã dịch hai tác phẩm “Trê Cóc” và “Lục Súc Tranh Công” sang tiếng Pháp, với những chú thích cho thấy ngài biết khá rõ về cuộc sông người Việt Nam.

[2] Hạnh Tích, tái bản năm 2008, te. 84-85

[3] Thư ngày 2 tháng 12 năm 1911.

[4] L. Joly, Le Christianisme et l’Extrême-Orient, Tome 1 “Missions catholiques de l’Inde, de L’Indochine, de la Chine, de la Corée” Lethielleux, 1970.

[5] Thư ngày 12 tháng 2 năm 1919

[6] Thư ngày 8 tháng 4 năm 1919

[7] Thư ngày 23 tháng 7 năm 1922.

[8] Đó là đức giáo hoàng Benedicto XV và thông điệp “rerum Ecclesiae”, trong đó, ngài đòi phải có sự bình đẳng giữa các thừa sai ngoại quốc và sác linh mục bản xứ.

[9] Thư ngày 31 tháng 1 năm 1912 gởi đức cha Allys.

[10] Chúng tôi xin giới thiệu với quí độc giả cuốn sách : “Mẹ Teresa – Hãy đến làm ánh sáng của Ta”, Tác giả Brian Kolodiejchuk, người dịch Cam Thảo, Nhà xuất bản Văn Học, 2008.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐỜI SỐNG BIỂN ĐỨC

NHƯ TRƯỜNG DẠY HIỆP THÔNG

 

Armand Veilleux, OCSO
Viện phụ đan viện Scourmont
Đây là bài thuyết trình trước hội nghị các đan sĩ Biển Đức
tại đan viện Thánh Anselmo, Rôma, ngày 20.3.1996.
Trích từ Website O.C.S.O.
Chuyển ngữ : FM.Phan Bảo Luyện

Có thể nói gì với hội nghị các đại biểu của fortissimum genus coenobitarum (loại đan sĩ cộng tu hùng mạnh nhất), nếu không phải là về thực thể cấu tạo nên trái tím của đời sông cộng tu, tức là sự hiệp thông.
Tuy nhiên, tôi không có ý định trình bày một nghiên cứu thần học hay thiêng liêng về đề tài hiệp thông, nhưng đúng hơn chỉ là một số suy tư đơn giản có tính cụ thể chung quanh đề tài này, trước tình hình đời sống đan tu hiện nay, như tôi nhận thấy. Bằng thuật ngữ “đời sống đan tu” tôi muốn nói trước hết về đời sống đan tu biển đức, tức là đời sống của đại gia đình các đan sĩ nam nữ sông theo Luật thánh Biển Đức và chiếm hầu như toàn bộ Ordo monasticus (Dòng đan tu) của Giáo Hội la tinh, mà tôi được vinh dự trực thuộc, mặc dầu tôi không phải là phần tử của Liên Hiệp Biển Đức.
Đan sĩ Biển Đức được mời gọi sống hiệp thông ở mức độ. Trước hết là hiệp thông với Thiên Chúa trong nguyện và chiêm ngưỡng, rồi hiệp thông với anh em hay chị em trong một đan viện. Sau đó là hiệp thông với các Giáo Hội địa phương nơi mà các đan viện được thiết lập và với Giáo Hội toàn cầu, cũng như với các kitô hữu thuộc các nhóm kitô khác và những phần tử các tôn giáo ngoài kitô giáo. Sau cùng, không nên quên sự hiệp thông với xã hội dân sự và với toàn vũ trụ.

a.Trước hết xin nói về sự hiệp thông với Thiên Chúa, tức là nói tới chiều kích chiêm niệm của đời sống đan tu. Tôi có chủ ý dùng thuật ngữ “chiều kích chiêm niệm” hơn là cụm từ “sự chiêm niệm”, vì hiện nay cụm từ này được dùng với nhiều nghĩa khác nhau tới độ nó đã trở nên hết sức hàm hồ. Cả thuật ngữ “đời sống chiêm niệm” cũng hàm hồ nữa.
Đan tu trào nguyên thủy vẫn liên tục và minh nhiên dạy rằng cách cầu nguyện riêng của đời đan tu là cầu nguyện liên lỉ. Tất cả những sinh hoạt khác, như đọc lời Chúa, Phụng Vụ Giờ Kinh, suy niệm v.v. đều là những cách diễn tả việc cầu nguyện liên lỉ hay những phương tiện giúp nuôi dưỡng việc đó. Bằng việc cầu nguyện liên lỉ đan sĩ tìm kết hiệp thân tình với Chúa liên tục bao nhiêu có thể, điều đó ta gọi là chiêm niệm.
Khi nói về đời sống hoạt động và đời sống chiêm niệm, các tổ phụ đan tu trào nghĩ tới hai chiều kích không thể tách biệt và cần thiết như nhau của đời sống thiêng liêng. Từ thời kinh viện, những diễn ngữ này – thêm vào đó kiểu nói “đời sống hỗn hợp” nữa – bắt đầu diễn tả những nếp sống khác nhau. Và hiện nay, chúng ta nói tới các cộng đoàn sống đời
hoạt động và các cộng đoàn sông đời chiêm niệm, rồi những hội dòng chuyên về chiêm niệm. Dường như hầu hết các văn kiện của Tòa Thánh nói về những cộng đoàn “chuyên về chiêm niệm” đó đều chỉ nghĩ tới các cộng đoàn nữ tu có nội vi giáo hoàng.
Những kiểu nói trên đây dường như hoàn toàn bất cập, vì dễ dàng khiến cho các đan sĩ quên rằng họ cũng được gọi sống đời chiêm niệm, không nguyên chĩ vì đó là ơn gọi của mọi ki tô hữu, nhiừig còn vì tất cả những hình thức hiệp thông mà họ được mời gọi thực hiện trong tư cách đan sĩ cộng tu sẽ chẳng có giá trị và ý nghĩa gì nếu họ không sống hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa. Và nếu một cuộc sống hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa mà không được gọi là “đời sông chiêm niệm” thì tôi không biết thuật ngữ này có ý nghĩa gì nữa.
Đối với một đan sĩ cộng tu, sự hiệp thông với Thiên Chúa không chỉ được diễn tả qua sự hiệp thông với một cộng đoàn anh em hoặc chị em đan sĩ, mà còn thâu nhập vào đó nữa. Điều ấy thật tới độ khi mà đan sĩ không còn ý thức sự hiệp thông thân tình sâu xa với Chúa như mục đích đời đan tu, sự hiệp thông huynh đệ sẽ sút giảm ý nghĩa và cộng đoàn sẽ dễ dàng chỉ còn là nơi qui tụ một số’ người để cùng thực hiện hay cùng lo toan những công việc chung nào đó mà thôi.
Một coenobium (cộng đoàn cộng tu) không chỉ là một nhóm người sống chung và cùng nhau thực hiện những công việc chung, cho dù là cử hành Phụng Vụ Giờ Kinh, giảng dạy, hay mưu sinh bằng việc canh nông hoặc kỹ nghệ. Thánh Biển Đức viết tu luật cho những con người sau khi nhận định chín chắn đã hứa sống vĩnh viễn với anh em hay chị em trong một cộng đoàn, theo một tu luật, dưới quyền một viện phụ và vâng phục lẫn nhau như hình thức hiệp thông.
Đốì với thánh Biển Đức, ba yếu tố này: cộng đoàn tu luật, viện phụ, là ba yếu tố cấu tạo nên đời sông cộng tu, và thứ tự của ba yếu tố ấy rất quan trọng. Lịch sử cộng tu trào cho thấy mỗi khi thứ tự của ba yếu tố ấy hay sự lệ thuộc giữa chúng với nhau bị thay đổi, đều có lệch lạc về đoàn sủng, ở một số thời kỳ, người ta đề cao tu luật tới độ rơi vào vị luật, ở những thời kỳ khác người ta đề cao cộng đoàn khiên cộng đoàn trở thành một thứ nghị viện dân chủ, và có những khi vai trò viện phụ được nhân mạnh tới độ biên ngài thành như một ông vua. Rồi dù muôn hay không, khái niệm về cộng đoàn và về vai trò của viện phụ luôn luôn bị điều kiện hóa bởi tình hình xã hội ở mỗi thời kỳ.
Khi tìm hiểu thế kỷ mười một, Dom Germain Morin, đại sử gia người Pháp, nói tới một “cơn khủng hoảng cộng tu trào”. Quả thực, hình như mỗi khi đan tu trào giáp mặt với một thay đổi văn hóa quan trọng là lại xảy ra một “khủng hoảng cộng tu trào”. Như vậy, chúng ta có thể tự hỏi ở thời chúng ta cũng có khủng hoảng cộng tu chăng.
Trong truyền thống biển đức, vai trò viện phụ như người mang trách nhiệm về cộng đoàn là điều cơ bản. Và do đó, ở bất cứ thế kỷ nào, một khủng hoảng cộng tu luôn luôn bao hàm một tái định nghĩa vai trò viện phụ trong cộng đoàn. Chúng ta tự hỏi phải chăng những nghiên cứu khoa học trong thời gian bốn mươi năm vừa qua đã không góp phần vào cuộc khủng hoàng này. Nguồn nghị lực cộng hiến cho việc nghiên cứu và phân tích các kho tư liệu về . đan tu trào ẩn tu và bán ẩn tu thì lớn hơn rất nhiều so với những nỗ lực dành cho việc học hỏi truyền thống cộng tu.
Đặc biệt, nhiều nghiên cứu về truyền thống viện phụ đã ngừng lại ở truyền thông linh phụ đặc sủng trong sa mạc, một con người truyền đạt kinh nghiệm thiêng liêng cho một nhóm môn đệ (những người có thể sẽ bỏ ngài để đi xa hơn vào hành trình ẩn tu của họ). Đó là một khuôn mặt khá khác biệt với viện phụ trong tu luật của thánh Biển Đức hay trước đó trong tu trào cộng tu của thánh Pacôm. Qua các thế kỷ, mỗi khi lẫn lộn hai khuôn mật này, nghĩa là-mỗi khi muốn thể chế hóa đặc sủng linh phụ, người ta đã gặp phải những hậu quả thê thảm.
Điều được chờ đợi nơi người cha của một đan viện cộng tu là dệt tấm vải cộng đoàn, giúp cộng đoàn phát triển và bồi đắp căn tính tập thể riêng của cộng đoàn. Trong một cộng đoàn như thế, đan sĩ nhận được định hướng thiêng liêng trước hết từ chính cuộc sống của cộng đoàn, còn cộng đoàn tất nhiên do viện phụ dẫn dắt. Đôi khi người ta nói tđi “những viện phụ lớn” hay “những viện mẫu lớn”. Các vị thuộc hai mẫu người khác nhau. Có những viện phụ hoặc viện mẫu đắc thủ một đoàn sủng đích thực về phụ tính hay mẫu tính thiêng liêng, và các vị sử dụng đoàn sủng ấy giông như cách làm của các linh sư trong tu viện ân độ giáo hay vị linh sư của một đoàn ẩn tu. Phần lớn các thành viên trong cộng đoàn tùy thuộc vào sự hướng dẫn và vào đoàn sủng của các vị tới nỗi không còn nghĩ là có thể có một viện phụ nào khác. Khi những vị ấy qua đời hay mãn nhiệm, nhóm môn đệ đã được các vị đào tạo thường rất khó qui tụ quanh một vị khác. Đó là một linh phụ trong sa mạc đi lạc vào đời sông cộng tu. Cũng có những viện phụ lớn khác đắc thủ đoàn sủng xây dựng một cộng đoàn và hướng dẫn để cộng đoàn ấy có khả năng đào tạo các thành viên của mình. Trong những cộng đoàn ấy, Chúa Kitô thực sự là viện phụ. Và khi vị đại diện của ngài ở giữa anh em một thời gian qua đời hay mãn nhiệm, cuộc số vẫn tiếp tục chung quanh Chúa Kitô nay được một vị khác là đại diện, mà không nảy sinh những vấn đề đặc biệt về chuyển tiếp.

b.Điều đó dẫn chúng ta tới một chiều kích hiệp thông khác: hiệp thông với Giáo Hội. Tôi hơi ngần ngại khi sử dụng thuật ngữ này, vì dường như nó cho ta cảm tưởng đan sĩ không phải là thành phần của Giáo Hội… Nếu cộng đoàn đan tu là tế bào độc lập với Giáo Hội toàn cầu và do đó với một Giáo Hội địa phương, nó vẫn được liên kết theo giáo luật cũng như theo cách thiêng liêng và bí tích, không những với Giáo Hội toàn cầu, mà cả với Giáo Hội giáo phận và Giáo Hội quốc gia.
Từ Công đồng Vatican II Giáo Hội đã gặp khó khăn khi làm quen với ngôn ngữ hiệp thông. Việc gây dựng các tập đoàn trong những năm tiếp theo Công đồng đã không luôn luôn mang lại kết quả tốt đẹp. Cố những cứng rắn từ mọi phía đưa tới tình trạng thường khó cổ thể gặp được một thái độ trung gian giữa vâng phục thụ động và chống đối. Mà hiệp thông thực sự lại ở giữa hai điều đó. Trong những văn kiện chuẩn bị Thượng hội đồng về đời tu chẳng hạn, có nói nhiều tới việc “các tu sĩ hiệp thông với Giáo Hội”, nhưng cách diễn đạt, trong hầu hết mọi trường hợp, dường như chỉ có nghĩa là sự tuân phục các quyết định của hàng giáo phẩm. Dĩ nhiên tuân phục là cần, nhưng nó chỉ lành mạnh khi là một trong những thành phần của một thực thể rộng lớn hơn gọi là hiệp thông.
Tôi nghĩ rằng, từ kinh nghiệm hằng trăm năm về hiệp thông, các đan sĩ có thể đóng góp nhiều cho Giáo Hội trong lãnh vực này, mặc dầu chúng ta biết kinh nghiệm này không phải là không bao giờ có vấn đề. Vào thế kỷ thứ tư, thánh Athanasiô đã viết tiểu sử thánh Antôn, không chỉ để cống hiến cho các nhóm đan sĩ đông đảo trong Giáo Hội của ngài một định hướng mục vụ, nhưng cũng để Giáo Hội Rôma đón nhận phong trào đan tu ỡ buổi sơ khai. Thánh Basiliô cũng làm gần như thế ở Cappadoce. Từ khi đó, mặc dầu có những lúc căng thẳng (gắn liền với sự hiệp thông), các đan sĩ đã sống hiệp thông sâu sắc với các Giáo Hội địa phương và với Giáo Hội toàn cầu. Tuy nhiên, về sau này, phản ứng lại ảnh hưởng của các lãnh chúa đời cũng như đạo, họ đã xin được độc lập và miễn trừ khỏi quyền bính giám mục để chỉ trực tiếp suy phục quyền của Đức Giám Mục Rôma. Dường như đã có một sự quân bình mới trong lãnh vực này.
Trong các gia đình đan tu lớn đã luôn luôn có hiệp thông giữa các đan viện nam và các đan viện nữ. Ngay cả khi vì ảnh hưởng do những bối cảnh văn hóa và giáo hội, trong một số trường hợp mối tương quan đó đã biến thành một bên là suy phục thụ động một bên là cai tri, nhưng cơ bản vẫn là tương quan hiệp thông và luôn luôn mang lại lợi ích cho cả hai bên. Ngày nay, khi chúng ta biết nhạy cảm để quan tâm hơn tới sự kiện người nữ bị người nam cai tộ trong mọi nền văn hóa, từ nhiều ngàn năm, và khi Giáo Hội khó tìm ra được vai trò của người nữ trong các thừa tác vụ của mình, chắc chắn các cộng đoàn đan tu công hiến cho Giáo Hội và xã hội một phần đóng góp độc nhất vô nhị.
Những tranh luận về nội vi của các nữ đan sĩ đã chiếm quá nhiều thời gian trong Thượng Hội Đồng về đời sống thánh hiến cho hay đó là một điểm nóng tới mức độ nào. Nơi một số Hội dòng có sự căng thẳng ngày càng lđn giữa một phe muốn duy trì các luật lệ từ thời trung cổ với những chìa khóa, những hàng song sắt, những cuộc kiểm tra của các vị thuộc phái nam, và một phe muốn thích ứng các luât lệ truyền thống đó.
Đối với các nữ đan sĩ cũng như với mọi đan sĩ sự thanh vắng luôn luôn là một thành phần quan trọng của đời đan tu. Trong những thế kỷ có chiến tranh hay bị quân man di đè đọa, đôi khi các đan viện nữ cần phải được bảo vệ bằng sư tách biệt với thế giới bên ngoài cách nghiêm ngặt hơn các đan viện nam. Về sau, khi xuất hiện những kiểu mẫu mới về các cộng đoàn nữ, Tòa Thánh xét thấy cần phải soạn thảo một qui luật thống nhất cho mọi cộng đoàn nữ sống trong nội vi. Sau đó, trong những Dòng mới này đã phát triển chung quanh nội vi vật chất một thứ nội vi thần bí hoàn toàn xa lạ với truyền thống đan tu. Có lẽ các nữ đan sĩ thuộc truyền thống biển đức sẽ có thể giúp những cộng đoàn khác, và cả những cơ quan ở giáo triều Rôma, tái khám phá, trong tất cả những yêu sách cũng như sự đơn giản của nó, giá tri thiêng liêng của sự thanh vắng, được thanh tẩy khỏi mọi cơ cấu ý thức hệ mà mới đây đã muôn, chẳng hạn, làm cho một hàng song sắt hay một chùm chìa khóa trỏ thành biểu tượng huyền bí về tính cách hiền thê của Giáo Hội.
Là con người hiệp thông, đan sĩ nam hay nữ phải được đặc biệt chuẩn bị để đối thoại liên tôn cũng như đối thoại đại kết với các kitô hữu thuộc những giáo hội khác.
Một đan sĩ đúng nghĩa, tức là một con người đã được thống nhất hóa, chỉ có một bận tâm, một tình yêu, một mục đích trong đời, sẽ phải là một người tự do, hoàn toàn được chân lý chiếm đoạt, trong khi chẳng chiếm giữ điều gì nhất là không nghĩ rằng mình đang nắm giữ chân lý. Trong trường hợp đó, đan sĩ ấy đang sống ở tầm mức hiệp nhất với sự và mọi người.
Đó là lý do khiến Tòa Thánh dành cho các đan sĩ nam nữ một vai trò rất đặc biệt trong việc đôì thoại giữa kitô giáo và các truyền thống thiêng liêng lớn khác của nhân loại, đặc biệt những truyền thống đã có trào lưu đan tu đôi khi lâu đời hơn kitô giáo.

c. Vì các cộng đoàn thuộc đại gia đình Biển Đức có mặt khắp nơi trên thế giới, nên đương nhiên vấn đề hội nhập văn hóa tân truyền giảng Phúc Âm được đặt ra cho các cộng đoàn ây một cách đặc biệt, ở đây cũng có thách đố về hiệp thông: hiệp thông với các nền văn hóa. Tôi vừa nói tới “hội nhập văn hóa” và “truyền giảng Phúc Âm” cùng một lúc, vì dường như hai cụm từ này diễn tả cùng một thực tại. Hội nhập văn hóa là sự gặp gỡ giữa một nền văn hóa và Phúc Âm trong tiến trình truyền giảng Phúc Âm. Nhưng mỗi khi một nền văn hóa thay đổi và chúng ta biết rằng ngày nay mọi nền văn hóa đều thay đổi nhanh chóng nền văn hóa áb lại phải giáp mặt với Phúc Âm một lần nữa, nghĩa là nó cần một cuộc phúc âm hóa mới. Theo nghĩa này, các Giáo Hội Tây Phương, bắt đầu từ các Giáo Hội Tây Âu và Bắc Mỹ, cần phải hội nhập văn hóa cũng như các Giáo Hội Phi châu, Mỹ châu la tinh hay Á châu.
Chỉ có hội nhập văn hóa thật sự khi đọ là hiệp thông với văn hóa, chứ không phải là hành xử một phán đoán kẻ cả trên nền văn hóa hay lợi dụng nền văn hóa đó. Các đan sĩ cũng có một phần đóng góp lớn vào việc này.
Ở đây cũng có một nguy cơ. Trong các xã hội tây phương, trong đa số các trường hợp, các đan viện tuyển ơn gọi từ những giai cấp giữ vị thế cao trong xã hội, là những lớp giai câp có khuynh hướng phản động (?) hơn cả. Trong một thời kỳ có biến đổi sâu sắc về văn hóa, khi mà nơi mọi nền văn hóa đều thấy những yếu tố chết chóc và những yếu tố sinh động mới, các đan sĩ có nguy cơ mang một thái độ kẻ cả trước những thay đổi văn hóa và biểu lộ tác phong phản văn hóa, một điều hoàn toàn xa lạ với đại truyền thông đan tu. Ngày nay người ta quá dễ dàng nói về tính hậu hiện đại, khi đắc thắng trước hiện đại tính bị coi như dã chết hoặc đã lỗi thời, mà không ngờ rằng đôi với đa số các triết gia của cái gọi là hậu hiện đại đó thì hậu hiện đại có nghĩa là tận cùng của tư tưởng mạnh và như vậy là tận cùng của mọi khoa siêu hình học và mọi hình thức giáo điều.
Trong xã hội ngày nay, tôi nghĩ rằng sa mạc đích thực, sa mạc mà có lẽ các đan sĩ nam nữ phải ẩn mình, là khoảng cách càng ngày càng hẹp hơn – nơi xã hội dân sự cũng như nơi Giáo Hội giữa cái cực hữu và cái cực tả. Tính cẩn trọng theo truyền thông Biển Đức mời gọi đan sĩ ngày nay đi vào sa mạc đó. Có lẽ đây là nơi họ phải ở với chính mình, theo gương cậu thanh niên Biển Đức.
Nếu khoảng cách giữa những ý thức hệ hữu khuynh và tả khuynh càng ngày càng hẹp lại, con số những người nghèo và người bị áp bức sống trong khoảng cách này, nghĩa là những nạn nhân của hai phía, càng ngày càng lớn. Với sứ mệnh là “những con người của hiệp thông” các đan sĩ ngày nay được đòi hỏi phải hiệp thông với đám đông khổng lồ những người di cư, không quê hương, không việc làm. Lòng hiếu khách cùa đan sĩ Biển Đức trở nên cần thiết hơn bao giờ. Thánh Biển Đức đã tiên liệu điều đó đôi với những người nghèo, khách hành hương và người vô gia cư. Thật đáng tiếc là ở một số nơi người ta lại xíu tiên đón tiếp những kẻ vạch định kế hoạch cho những phong trào tả khuynh hay hữu khuynh.

d. Một chiều kích hiệp thông khác có tầm quan trọng đặc biệt vào thời nay là hiệp thông với trái đất và với vũ trụ. Được kêu mời sống hiệp nhất, do ơn gọi của mình, đan sĩ dễ cảm nhận được những môi giây liên kết họ với toàn thể tạo thành, xuất thân như một tổng thể duy nhất từ bàn tay và tình yêu của cùng một Tạo Hóa. Bận tâm phục hồi tất cả theo mối hòa điệu ban đầu trước khi có tội, đan sĩ cũng bận tâm phục hồi sự hòa điệu giữa bản thân mình với thiên nhiên đang bị khai thác và đang lâm nguy. Mối bận tâm đó bao gồm ý muốn loại trừ việc hưởng thụ bừa bãi các tài nguyên và đòi buộc phải có những lựa chọn kinh tế cụ thể.

 

KẾT LUẬN
Như tôi đã nói lúc đầu, thay vì một khảo luận thiêng liêng nghiêm túc về thực tại hiệp thông, tôi muôn công hiến quí vị vài suy tư cá nhân về hiệp thông, như tôi thấy được thể hiện trong thực tế ngày nay. Những suy tư đó tất nhiên đều là chủ quan. Nhưng tôi có thế nói chúng nảy sinh từ hiệp thông: từ việc tôi hiệp thông với Giáo Hội và với đại gia đình Biển Đức cũng như với thế giới hiện nay, nhưng trước hết – ít là tôi hy vọng thế – từ việc tôi hiệp thông với Thiên Chúa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CON SẼ LÀ TÌNH YÊU  

 

Sr. M.Thiên Tâm

“Ơn gọi của con là Tình yêu. Trong lòng Hội Thánh, Hiền Mẫu của con, con sẽ là tình yêu”. Đây là câu nói của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu mà có lẽ không ai trong chúng ta là không biết đến. Chính tâm tình này đã giúp chị sống thánh thiện, qua đời sống âm thầm cầu nguyện hy sinh, dâng hiến tất cả vì tình yêu mến Chúa, yêu mến Hội Thánh và các tâm hồn, mà chị nữ tu trẻ dòng kín này đã được Đức Piô XI tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1925, làm bổn mạng các xứ truyền giáo (1927), cùng với Thánh Phanxicô Xaviê là vị thánh đã bôn ba đi rao giảng Tin Mừng khắp năm châu, đồng thời, Đức Gioan Phaolô II đã tôn phong Chị lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh (1997).
Qua gương chị thánh Têrêxa đã mở ra cho các tín hữu một ơn gọi mới để nên thánh, một lộ trình thiêng liêng mới để phục vụ Hội Thánh và loan báo Tin Mừng của Đức Kitô. Đó là TÌNH YÊU.
Chúng ta cùng nhìn qua con đường Tình yêu mà Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã đi, và đã trở nên con đường tuyệt hảo để mời gọi mọi người, cách riêng mời gọi đan sĩ chúng ta hôm nay cùng dân bước theo, để phục vụ Chúa và Hội Thánh.

 

1.Con đường Tình yêu của thánh nữ Têrêsa Hài Đổng Giêsu

a.Ơn gọi “Là Tình Yêu” trong lòng Hội Thánh
Các thánh khi đã cảm nghiệm được tình yêu vô bờ bến của Chúa đều có cùng một xác tín: “Tình yêu phải được đáp lại bằng tình yêu”. Đó cũng là câu khẳng định của thánh Bênađô: “Khi Thiên Chúa yêu ta, Người chỉ đòi ta đáp trả bằng tình yêu”.
Qua hình ảnh người cha trong gia đình, chị thánh đã có một cảm nghiệm sâu xa về Tình yêu của Vị Cha trên trời. Nói theo kiểu Đức Gioan Phaolô II, chị “đã bắt gặp được ánh mắt yêu thương của Chúa[1], tức là đã bắt gặp được tình yêu vô biên của Chúa, từ đó chị muôn hiến trọn vẹn con người và cả cuộc đời của mình làm lễ dâng tình yêu đáp lại tình yêu của Chúa. Chị thấy “trên đời này, số tâm hồn hoàn toàn tận hiến để đáp lại tình yêu âu yếm vô tận của Chúa quá ít”, nên chị muôn mở rộng tâm hồn như biển cả bao la để đón nhận tất cả tình yêu nồng nàn của Chúa bị đa số nhân loại từ khước[2].Chị Têrêsa đã diễn tả tư tưởng ấy như sau: “Con ước ao được yêu Chúa Giêsu như chưa từng có ai yêu đến thế”, và “Con chẳng muốn chi hơn là được yêu Chúa Giêsu đến điên dại”. 
Chính đời sống ướp đậm Tình yêu của chị thánh đã chứng minh cho khát vọng đó. Và với khát vọng yêu Chúa như thế, chị thánh đã cháy bừng lửa yêu mến Hội Thánh và các linh hồn. Trong nếp sông dòng kín, chị đã nói lên thao thức truyền giáo của mình là muốn đi rao giảng Phúc Âm khắp năm Châu, muốn được làm thừa sai từ tạo thiên lập đia cho đến tận thế. Và chị còn ao ước qua sông trên cánh đồng truyền giáoViệt Nam.
Là một nữ tu dòng kín, chị không thể đi truyền giáo bằng đôi chân, nhưng chị đã đi bằng trái tìm rực lửa tình yêu đối với Chúa và các tâm hồn, trong niềm khao khát được hiến dâng mạng sống để các tâm hồn được ơn cứu độ và Hội Thánh được tăng triển. Và chị đã coi việc anh tử tội Pranzini ôm hôn Thánh giá trước khi lên đoạn đầu đài như là thành công đầu tiên của chị trong việc truyền giáo. Chị Têrêsa cũng hiểu rằng trong Thân Thể Hội Thánh có một trái tim luôn bừng cháy tình yêu, là động lực chính cho mọi hoạt động tông đồ của Hội Thánh. Chị thánh còn nhắc lại lời của Thánh Tông Đồ dân ngoại: “Không có tình yêu, những ơn hoàn thiện nhất cũng chẳng ra gì, yêu là con đường hoàn hảo chắc chắn đưa tới Thiên Chúa” (1Cr 13). Từ đó, chị hiểu ra rằng tình yêu bao trùm mọi ơn gọi, bao trùm mọi nơi và mọi thời. Tình yêu là tất cả, tình yêu tồn tại mãi [3] . Và trong lúc tình yêu đang dạt dào ngây ngất, chị đã khám phá ra ơn gọi tình yêu của mình.

Nhưng có phải thánh nữ Têrêsa đã sốt sắng suy nghĩ ra hay vì tình cảm ướt át mà tự nhận cho mình ơn gọi cao quý ấy, hay do một động lực nào? ơn gọi ây đã ảnh hưởng đến cuộc đời chị thánh ra sao?

b.Động lực và hệ quả của ơn gọi “Là Tình Yêu”
Theo quan niệm của Kitô giáo, có phải chúng ta có công tu luyện lâu năm thì chúng ta cũng sẽ trở thành Chúa thành Tình yêu chăng? Thưa, kinh nghiệm bản thân cho chúng ta nhận thấy thân phận con người quá yếu đuối mỏng dòn, tự sức mình chẳng làm được gì. Chính Chúa Giêsu cũng đã tuyên bô: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5). Nhưng những gì con người không làm được thì Thiên Ghúa làm được: “Đối với loài người thì không thể được nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”(Lc 1, 37).
Thánh Irênê đã xác tín: “Thiên Chúa xuống trần gian làm người để làm cho con người trở nên Thiên Chúa”. Chính Thiên Chúa muôn cho con người được trở nên Thiên Chúa, trở nên tình yêu như Người, và chính Người đã dùng quyền năng của Người để thực hiện điều đó qua mầu nhiệm Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, đổ tràn ân sủng và tình yêu thánh hóa và nâng con người lên.
Thánh Têrêsa dù có cố gắng yêu mến Chúa hết lòng hết sức, và có khổ công tu luyện cả đời thì cũng chẳng thể đạt được gì nếu không có tác động từ phía Thiên Chúa. Điều quan trọng ở đây là, Têrêsa đã biết ngoan ngoãn để cho Thánh Thần Chúa tự do hoạt động nơi bản thân mình, biết hoàn toàn buông mình theo Ân sủng, và Thiên Chúa đã làm một bước nhảy vọt khi thánh hóa và nâng Têrêsa lên. Chính Chúa Thánh Thần đã soi sáng để Têrêsa khám phá ra ơn gọi của mình, khi chị đã reo vui với ơn gọi “Là Tình Yêu” thì chị cũng phải trả giá cho ơn gọi cao quý bậc nhất ấy. Và cái giá mà chị phải trả, đó cũng chính là cái giá của tình yêu.
Theo chị thánh, sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Chúa Giêsu leo lên đồi Canvê, nên chị đã uống cạn chén đắng hy sinh và khổ đau, đã đi trọn con đường thánh giá cùng với Chúa Giêsu, chị thánh đã trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu” (Rm 8, 29) trong mầu nhiệm tự hủy của Người. Chính tình yêu của Chúa đã biến đổi con người của Têrêsa. Nên không còn phải là Têrêsa sống nhưng là chính Chúa sống trong Têrêsa. Không còn phải là Têrêsa làm nhưng là chính Chúa làm. Không còn phải là Têrêsa yêu nhưng là chính Chúa yêu. Chỉ có tình yêu, Têrêsa mới có khả năng sống khiêm nhường, nhỏ bé, đơn sơ và phó thác tất cả theo tinh thần Tin Mừng. Têrêsa đã phải hoàn toàn xóa mình đi để chỉ còn lại Giêsu mà thôi. Từ đây, Têrêxa đã được Giêsu hóa và trở nên “là Tình Yêu” như Giêsu.
Điều đó ai làm được? Và ai dám mơ tưởng tới điều đó? Thưa chỉ có một mình Thiên Chúa làm được và Người đã thực hiện cách hoàn hảo trong cuộc đời các thánh, nhưng không phải chỉ có các Thánh thôi, mà cả chúng ta nữa – những đan sĩ đang sống ơn gọi tình yêu trong thế giới hôm nay.

2. Ơn gọi “sẽ là Tình Yêu” của người đan sĩ thời đại hôm nay
a.Sẽ là tình yêu trong lòng Hội Thánh.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã nói: ‘Tu sĩ phải là người cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa[4]. Vậy hơn ai hết, đan sĩ phải là người đã bắt gặp được cái nhìn âu yếm của Chúa vả nghe được tiếng gọi tình yêu của Chúa từ thẳm sâu lòng mình, đồng thời cảm nhận được “tình yêu Đức Kitô thôi thúc” (2Cr 5, 14) nên mới dũng cảm bước vào đời sống thánh hiến đan tu, để đáp lại tiếng gọi tình yêu ấy, và quyết tâm sông cho một mối tình – mối tình có tên gọi là Giêsu, để cùng với Giêsu làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng cho mọi người, bằng đời sống cầu nguyện và hy sinh âm thầm.

Như chị thánh Têrêsa, mỗi đan sĩ cũng phải là trái tim của Hội Thánh, phải sống ơn gọi “Là Tình yêu”, nung đốt cho ngọn lửa tình yêu trong lòng Hội Thánh luôn mãi được cháy sáng, để công cuộc loan báo Tin Mừng của Hội Thánh không bao giờ ngơi nghỉ, và Chúa Giêsu luôn mãi được thêm nhiều người nhận biết và yêu mến.

Có lẽ chúng ta tự cảm thấy rằng mình bất lực quá, bất xứng quá, tội lỗi quá, sao có thể làm trái tim của Hội Thánh được? Sao có thể sống ơn gọi “Là Tình Yêu” trong lòng Hội Thánh như thánh Têrêsa được? Phải, chúng ta sẽ không bao giờ có thể làm được và cũng không bao giờ dám mơ để làm điều ấy, nhưng vì Thiên Chúa đã gọi mời và chính Người sẽ thực hiện. Nếu chúng ta biết mở lòng ra để hứng lấy tình yêu dạt dào từ Thánh Tâm Chúa Giêsu tuôn xuống cho nhân loại, biết từ bỏ cái tôi kiêu ngạo và ích kỷ của mình đi, biết hoàn toàn buông mình cho ân sủng và tình yêụ Chúa hoạt động, thì Chúa sẽ thánh hóa chúng ta, biến đổi chúng ta thành những con người có trái tim biết yêu như Chúa, có tấm lòng biết cảm thông và chạnh thương như Chúa. Khi làm được như vậy thì chúng ta sẽ nghe được tiếng gọi của tình yêu từ khắp nơi trên thế giới đang kêu cứu.

Tiếng gọi của tình yêu là lời gọi của Thiên Chúa “Ngươi ở đâu?” (St 3, 9), là tiếng kêu “Tôi Khát” (Ga 19,28) của Chúa Giêsu trên thập giá đang còn vang vọng mãi trong lịch sử loài người.

Tiếng gọi của tình yêu là tiếng kêu cứu của biết bao mảnh đời đang quằn quại trong khổ đau vì phải sống trong chiến tranh, khủng bố, đàn áp, bạo lực, hận thù, chia rẽ, bất công, đói nghèo, nhân phẩm bị chà đạp, quyền được sống bị chối bỏ, quyền làm người bị tước đoạt… Tiếng gọi của tình yêu ấy cũng là tiếng kêu cứu của môi trường sinh thái đang bị đe dọa. Trái đất ngày càng nóng hơn và bị ô nhiễm nhiều hơn; không còn khí sạch, nước sạch, thức ăn sạch cho con người và mọi loài thọ sinh hưởng dùng.

Tất cả đang thiếu tình yêu. Tất cả đang cần tình yêu. Đan sĩ chúng ta phải làm gì? Tấm lòng của chúng ta có đủ rộng để cưu mang được mọi nỗi trăn ữở khổ đau bất hạnh của con người vào trong đời sống cầu nguyện và hy sinh của chúng ta không? Trái tim của chúng ta có đủ lớn để góp phần vào việc bảo vệ môi sinh thoáng sạch, biết tiết kiệm trong tiêu dùng và chia sẻ cho người nghèo về mọi phương diện không? Trách nhiệm của chúng ta, những con người được Chúa yêu thương và giao phó sứ mệnh chuyển tải tình yêu của Chúa đến cho mọi người như thế nào?

b.Sứ vụ làm chứng cho Tình yêu Thiên Chúa của người đan sĩ hôm nay: Hiệp thông, Yêu thương và Phục vụ

Chúng ta đang sống trong thế giới “toàn cầu hóa”, nền lãnh tế thị trường và nền khoa học kỹ thuật phát triển như một phép mầu lôi cuốn nhiều người, nhất là giới trẻ. Người ta có xu hướng đề cao tiện nghi vật chất, thích hưởng thụ và hưởng lạc. Giá trị của tình yêu chân chính đã bị bóp méo và có nhiều lạm dụng.

Hơn ai hết, đan sĩ là người đã có bề dày kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa, và là người đang sống ơn gọi “sẽ là Tình Yêu”, chắc chắn chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ Một khi đã được tình yêu Thiên Chúa nung nấu trong lòng chúng ta đâu thể ngồi yên được. Thánh Têrêsa Hài Đồng cảm nghiệm: “Những tâm hồn đã được lửa tình yêu thiêu đốt, không thể không hoạt động được”.

Trong Năm Thánh này, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mời gọi các tín hữu làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giữa lòng dân tộc bằng cách nối tiếp sứ vụ của Chúa Kitô là sống “Hiệp Thông, Yêu Thương và Sứ Vụ”. Là đan sĩ, chúng ta cần thực hiện sự hiệp thông, tình yêu thương đến cùng và khiêm tốn phục vụ trong Cộng đoàn chúng ta trước hết, để từ đó trở nên như một lời chứng hùng hồn về tình yêu củaThiên Chúa. Đó là cách thức chúng ta giới thiệu về Thiên Chúa tình yêu và loan báo Tin Mừng cứu độ hay hơn cả. Chúng ta chỉ có thể cho thế giới thấy được tình yêu Thiên Chúa qua đời sống cộng đoàn yêu thương và hiệp nhất.

Như thánh nữ Têrêsa, cuộc sống hằng ngày của chúng ta cũng không ra khỏi khuôn viên đan viện, từ nhà nguyện đến phòng học, từ nhà bếp đi ra vườn rồi về phòng riêng… nhưng làm sao để mỗi bước chân chúng ta đi là mỗi bước gieo mầm tin yêu. Chúng ta không làm việc gì lớn lao nối bật, nhưng làm sao để trong những công việc tầm thường nhỏ mọn chúng ta làm hằng ngày, như nhặt một cọng rác, khâu một mũi kim… được ướp đậm bằng một tình yêu phi thường đối với Chúa và các tâm hồn. Một ánh mắt cảm thông, một  nụ cười thân ái, một lời thăm hỏi chân tình, một bàn tay đưa ra giúp đỡ đối với những người anh chị em sống quanh mình, nhất là những anh chị em không hợp tính và không đồng cảm được với mình. Tất cả đều là ngôn ngữ của tình yêu, rất quan trọng và cần thiết trong đời sống chung, để trở nên lời chứng cho tình yêu.

Trong đời sống cộng đoàn, chúng ta cần thăng hoa tình yêu theo bản năng tự nhiên (eros) và tình bạn (philo) lên thành tình yêu bác ái (Agape)[5]. Chỉ có tình yêu bác ái mđi đúng thật là tình yêu của Chúa Kitô: làm ơn cho kẻ ghét mình, cầu nguyện và chúc phúc cho người làm hại mình, yêu cả kẻ thù của mình (x. Mt 5,43-48) và tình yêu cao cả nhất là hy sinh mạng sống cho người mình yêu (x. Ga 15, 13). Nếu “chúng ta yêu thương tất cả mọi người, nhưng có một người nào đó ta không yêu thương được, thì đó cũng không phải là tình yêu của Chúa Kitô, vì Ngài đã chết cho mọi người” (thánh Augustino). Tình yêu của chúng ta phải vừa mang tính cá biệt cho riêng từng người, vừa phải mang tính phổ quát cho tất cả mọi người không loại trừ ai. Đó là con người của tình yêu.
Ơn gọi “sẽ là Tình Yêu” mà Chúa Thánh Thần đã khơi lên trong Hội Thánh, là một phương thế tông đồ tuyệt hảo, đã được thánh tiến sĩ Têrêsa đáp lại và hoàn tất một cách tuyệt vời, mang lại biết bao lợi ích cho các tâm hồn. Đó cũng là lời mời gọi mỗi đan sĩ chúng ta dấn bước đi theo, để góp phần vào công cuộc loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.
Nếu như ngày nay, có nhiều người đang chạy theo hấp lực của khoa học, kinh tế, lợi nhuận; hoặc là đang đi tìm một cuộc sống hưởng thụ và hưởng lạc vồ độ; giá trị của tình yêu chân chính bị coi rẻ, có nhiều lệch lạc và lạm dụng trong tình yêu; thì đó là một sự thúc bách đan sĩ chúng ta phải cống hiến cho đời một tình yêu trung thực, cao đẹp, siêu thoát, thanh khiết và hy sinh vô vị lợi…. Đó là “tình yêu trong chân lý” để chứng tỏ cho đời thấy rằng không phải khoa học, kinh tế của cải vật chất, cũng không phải lạc thú đem lại hạnh phúc và giải thoát con người; nhiữig con người chỉ được hạnh phúc, “được giải thoát bởi tình yêu, và chỉ có tình yêu mới mang lại cho cuộc đời con người một ý nghĩa mới[6] .

Con người bao giờ cũng cần tình yêu. Và tình yêu cao cả nhất, tuyệt hảo nhât, chỉ có được nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã yêu đến cùng và yêu đến chết trên thập giá để cứu độ mọi người. Một khi ta giới thiệu cho người khác gặp được tình yêu của Đức Giêsu, thì đó là việc phục vụ cao nhất mà ta có thể hiến tặng cho dân tộc[7] .

Không phải chúng ta làm được gì, nhưng chỉ cần chúng ta biết mở rộng lòng ra đón nhận tình yêu của Thiên Chúa đổ vào (x. Rm 5,5). Chính Thiên Chúa sẽ thực hiện điều kỳ diệu nơi chúng ta, biến đổi chúng ta thành con người yêu thương và phục vụ, thành Cộng đoàn yêu thương và phục vụ, có thế đáp lại được ơn gọi “Sẽ là Tình yêu” trong lòng Hội Thánh và xã hội hôm nay.

 

 

 

 

 


 

[1]x. Vatican  II, Tông huấn “Đời Sống Thánh Hiến”. Số 18-19

[2] Tinh thần thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, trg 25

[3] Sách ‘Tự Thuật” của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

[4] Vatican II. Tông Huấn “Đời sống Thánh Hiến”  

[5] X.Bênêdictô XVI, Thông điệp Thiên Chúa là tinh yêu, số 3-18

[6] Benedicto XVI Thông diệp Spe Salvi, số 25 

[7] X. Huấn từ của Đức Benedicto XVI cho HĐGMVN, ngày 27.6.2009

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐÔN ĐÁO HAY THINH LẶNG   

 

FM.Benado Trần Nghiêm
FM.Max. Kolbé Hoàng Thái

 

Sống là động. Chết là bất động. Đó là qui luật của mọi sinh vật. Tuy nhiên, đôn đáo và tĩnh lặng là hai mặt khác biệt thường.phát sinh trong cuộc sông của con người. Có người thích đôn đáo, vội vàng đi tìm hạnh phúc; có người thích tĩnh lặng, suy tư để chìm sâu vào nội tâm. Là đan sĩ, bạn chọn con đường nào cho mình: đôn đáo hay tĩnh lặng? Chắc có lẽ nhiều người sẽ trả lời ngay rằng: đương nhiên, tôi chọn tĩnh lặng, vì tôi là đan sĩ chiêm niệm. Thế nhưng, cuộc đời luôn luôn có hai mặt. Không thể có cái này nếu không có cái kia. Mọi khía cạnh của cuộc đời luôn có tương quan biện chứng với nhau. Trong dương có âm, và trong âm có dương. Không thể có động nếu không có tĩnh và ngược lại. Đôn đáo xuất phát từ tĩnh lặng và tĩnh lặng phát xuất từ sự đôn đáo. Hai thực thể này bổ túc cho nhau.
Đọc lại Tin Mừng, chúng ta thấy hai mẫu gương nổi bật, đó là Mác-ta và Ma-ri-a. Mác-ta thì thích đôn đáo, lo lắng cho Chúa Giêsu, còn Ma-ri-a thì ngồi lặng lẽ bên chân Chúa, nghe Chúa giảng dạy. Bạn cho rằng ai sai, ai đúng? Vấn đề thật ra phức tạp rất nhiêu! Sau đây, bạn cùng tôi thử phân tích từng khía cạnh của các lối sống này.

1.Khái niệm
Đôn đáo và tĩnh lặng
Đôn đáo là khả năng hoạt động nơi tính cách một con người như: sự nhanh nhẹn, linh hoạt, mau mắn, linh động sáng tạo,… của một tâm hồn. Và khi người ta biết sử dụng no một cách đúng mức, đúng công việc, đúng hoàn cảnh đúng lúc, không gian và thời gian thì nó trở nên tốt. Nhưng kỷ người ta dùng sự đôn đáo của mình cách thái quá, thiếu sự kiềm chế, hay thiếu cẩn trọng, thiếu khôn ngoan, thiếu hiểu biết trong cách sống, công việc, không trung dung, thì đó là một hành động xấu.
Tĩnh lặng có hai khía cạnh hoàn toàn ngược nhau: nhìn từ phía không gian vật lý là một không gian chết, bất động. Nhưng nó trở nên ý nghĩa, sông động khi người ta dùng nó như một không gian hay như một phương thế để nhìn về sự thật vấ những giá tri sống tâm linh mà ta có thể tìm đến để gặp gỡ, tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Như vậy, không phải lúc nào người ta cũng cần sự tĩnh lặng, mà người ta phải biết dùng nó vào đúng hoàn cảnh, không gian, thời gian, công việc,… thì nó trở nên hữu ích cho cuộc sống chúng ta.

2.Đôn đáo và tĩnh lặng trong Tin Mừng
Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ” (Lc 10,38-40).
Chúng ta thấy, hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a đều có lòng tốt. Họ đón tiếp Chúa Giêsu mỗi người một cách. Mác-ta thì đôn đáo lo lắng tất cả mọi việc đón tiếp khách, chị chạy ngược chạy xuôi tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Còn Ma-ri-a có vẻ vô tâm, chẳng làm việc gì, cứ ngồi bên chân Chúa. Chúa đánh giá công việc của họ như thế nào: “Mác-ta ! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” (Lc 10,41-42). Thế thì chúng ta tự hỏi tại sao Chúa Giêsu nhắc nhở việc làm của Mác-ta? Có thể vì công việc bề bộn cần người giúp đỡ, trong khi cô Maria lại “ngồi không”, nên chị đã tỏ ra không hài lòng về Maria.
Tuy nhiên, xin mạn phép đặt lại vấn đề, giả sử cô Maria nhìn Mác-ta cũng không hài lòng và nói: sao Chúa không bảo chị con bỏ công việc đến nghe lời Chúa? Chúa sẽ trả lời như thế nào? Nếu thế thì Ma-ri-a cũng coi thường việc tốt của người khác và không tập trung để nghe lời Chúa dạy, như vậy Chúa sẽ nói với Maria như thế nào?
Một cách nào đó cuộc đời của Chúa Giêsu cũng có lúc tĩnh lặng cầu nguyện một mình, có lúc Ngài đôn đáo khắp mọi nẻo đường để giảng dạy cho dân chúng. Dù trong trạng thái nào, Ngài chỉ muốn thực hiện ý của Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy’ (Ga 4,34); “lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất! ” (Lc 12,50).

3.Một thoáng suy tư về ơn gọi đan tu
Khi suy tư về cuộc đời theo Chúa trong đời sống đan tu, chúng ta thấy hiện lên trước mắt chúng ta hai “thực trạng” quen thuộc: ‘đôn đáo’ và ‘tĩnh lặng’ trong đan viện. Vậy chúng ta có loại trừ một trong hai thực thể này không? Như đã nói, đôn đáo và tĩnh lặng là hai khía cạnh của một cuộc đời. Chúng không thể tách rời nhau. Tuy nhiên, có những sự đôn đáo tốt, có những thứ đôn đáo không tốt. Cũng vậy, có những thứ tĩnh lặng tích cực, nhưng cũng có những sự lặng tiêu cực.
Sự đôn đáo theo gương Chúa Giêsu, thi hành thánh ý Chúa Cha là tốt. Đó là sự đòi hỏi nên thánh của tất cả mọi người ki-tô hữu, đặc biệt là đan sĩ như lời Chúa dạy: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Thế nhưng, cũng có những sự đôn đáo không tốt. Khi đôn đáo làm những việc theo ý mình. Họ theo chủ thuyết hiệu quả và cho rằng: càng làm nhiều việc càng mau được lên Thiên Đàng. Trước một xã hội thiên về hiệu quả bề ngoài, thiên về hoạt động, thiên về những nhu cầu xã hội, các đan sĩ dễ bị lung lay niềm tin khi thấy rằng mình chẳng đóng góp gì cho xã hội, cho những người xấu số…, nhất là không thấy được hiệu quả của lời cầu nguyện âm thầm trong đan viện, nên dễ để tâm hồn xáo trộn, muốn ra khỏi nội vi để hoạt động hoặc tuy không ra ngoài luỹ cấm, nhưng lòng họ vẫn cứ hướng ra ngoài và muốn thay đổi ơn gọi.
Trái lại, sự tĩnh lặng tích cực là giờ phút linh thiêng của cuộc đời. Vì sao nó được gọi là linh thiêng? Vì tĩnh lặng là gặp gỡ trực tiếp với Chúa, như cô Ma-ri-a đã ngồi bên chân Chúa Giêsu để nghe lời giáo huấn của Ngài; cũng như Chúa Giêsu có những giây phút tĩnh lặng bên Chúa Cha để lắng nghe thánh ý của Cha. Sự tĩnh lặng này mang ý nghĩa sâu sắc: huỷ mình ra không để được ân sủng đổ tràn. Sự tĩnh lặn? này không phải là tĩnh lặng của sự-chết mà là sự tĩnh lặng đôi. với thế gian và mở cửa tâm hồn cho Thiên Chúa.
Hơn nữa, tĩnh lặng tích cực cũng mang một ý nghĩ thiêng liêng khác, đó là trở về với con người nội tâm mình để xét lại cách sống của mình. Sau một ngày, một tháng, một năm đôn đáo làm việc, khi tĩnh tâm lại, chúng ta mđi thấy được những ưu điểm và khuyết điểm của mình. Từ đó, chúng ta phát huy những điều tốt và sửa chữa những thiếu sót. Người đan sĩ là người có cơ hội rất lớn vì họ có nhiều thời gian hơn để đến với Chúa qua sự thinh lặng nội tâm. Vì thế, đây cũng là khoảnh khắc cần thiết mà ai cũng cần phải có.
Sự tình lặng tích cực cũng mang một ý nghĩa khác, đó là sự chiêm ngưỡng Chúa qua tạo vật mà Chúa dựng nên. Khi đứng trước những kỳ công của Thiên Chúa, người đan sĩ cần có những khoảng lặng để chiêm ngắm mọi vật và nhận thấy được tình thương của Chúa dành cho tạo vật bé nhỏ cũng như dành cho minh. Vì thế, khoảng khắc tĩnh lặng này rất cần thiết, vì nó làm nẩy nở tình mến đôi với tạo vật. Thánh Phan- xi-cô Át-xi-di-ô là chứng nhân cho sự chiêm ngắm thần diệu này. Ngài đã nhân cách hoá tạo vật và coi chúng như là anh chị em của mình. Do đó, nếu thiếu sự tĩnh lặng này, đan sĩ dễ khinh chê những kỳ công của Thiên Chúa và lạc vào chủ thuyết nhị nguyên: coi tạo vật này là xấu, tạo vật kia đẹp. Họ dễ bị cuốn theo những vẻ đẹp bên ngoài; họ chạy theo những mẫu mã mà xã hội cân, đo, đong, đếm. Họ dễ chạy theo những tiếng khen chê của người đời. Nếu tĩnh lặng nhìn sâu vào từng tạo vật, chúng ta sẽ thấy mọi sự Chúa tạo dựng thật tốt đẹp.
Do đó, một sự tĩnh lặng bị coi là tiêu cực khi con người không tự huỷ mình ra không và mở ra cho ân sủng, không trở về với nội tâm, chạy theo những sự giả trá bên ngoài. Đó là những hạng người đống chặt nội tâm, họ không mở ra với Chúa cững như tha nhân. Những người này thường xa tránh mọi người, không muốn tiếp xúc với ai. Họ khép kín tương quan. Nhiều khi vì một lỗi lầm nào đó, họ không tin tưởng vào sự tha thứ của Thiên Chúa nhân từ Đây là trạng thái tâ hồn của Giuđa Iscariot.
Hơn nữa, có một sự thật là: nhiều người quá nhấn mạnh đến sự tĩnh lặng bên ngoài nhưng lại ít quan tâm đến sự thinh lặng nội tâm. Nếu không có sự thinh lặng nội tâm thì tất cả những sự tĩnh lặng bên ngoài trở thành vô nghĩa. Trạng thái động hay tĩnh tùy thuộc vào chiều sâu của tâm hồn con người. Khi tâm hồn bình an tự tại, họ không bị thế giới chung quanh lôi cuốn. Ngược lại, nếu tâm hồn bị xáo động, đôn đáo, thì dù có cố gắng để nén giữ vẻ tĩnh lặng bên ngoài, họ cũng không thể trỏ nên hoàn thiện.

Kết luận 
Dù bạn chọn cách sống đôn đáo hay tĩnh lặng, bạn cũng phải bước theo sự chỉ dẫn của nội tâm. Điều tĩnh lặng, sự an nhiên tự tại trong tâm hồn mới là yếu tố giúp ta nhận ra chân giá trị cuộc sống. Vì thế, khi đã có sự tĩnh lặng trong tâm hồn, bạn sẽ cảm thấy mọi việc làm bên ngoài nhẹ nhàng. Dù thành công hay thất bại, bạn vẫn thấy an vui. Bạn không vội vàng, không lo lắng vì những sai sót của mình, bởi vì giá trị luân lý không nằm ở sự vật mà nằm sâu trong hành vi nhân linh của mình.
Đời đan tu là một cuộc sống thiên về chiều sâu nội tâm. Tuy nhiên, muốn sống quân bình, nội tâm phải là động lực thúc đẩy ta dấn thân hy sinh cho cộng đoàn mình, anh em mình, vì đức tin mà không có việc làm thì đức tin cũng chết (x. Gc 2,17). Do đó, sự đôn đáo và tĩnh lặng luôn đi đôi với nhau và không ngừng bổ túc cho nhau, vì “Đạo đức tinh tuyền vừa phải tĩnh và động[1].Tuy nhiên, chúng phải luôn được tôi luyện để trở nên tích cực và hoàn hảo. Nếu không, sự tĩnh lặng và đôn đáo trở nên kẻ thù giết chết sự sông động nội tâm của người đan sĩ và trở thành lệch lạc theo một chủ nghĩa duy động hoặc duy tĩnh nào đó.

 

 

 

 


 

 [1] Lm.An-rê Đỗ Xuân Quế, OP, Sống Đạo Thời WTO, tr. 125

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐỒNG CẢM 

 
FM.Andre Thông- Giáo

Nếu con người được định nghĩa là con vật có lý trí, ý chí và tình cảm, thì không thể có một con người đúng nghĩa mà lại sống vô cảm. Thật thế, “không ai là một hòn đảo”. Nói đúng hơn, không ai có thể đứng vững và tồn tại được, nếu sống cô đơn một mình không cần đến một ai đó. Con người mang nơi mình xã hội tính, nên con người sống là sống với, sống cùng và sống cho người khác. Nói đến con người là nói đến một xã hội, một cộng đoàn, một gia đình, nghĩa là nói lên tình liên đới, sự hợp tác, chia sẻ, cảm thông… Vì vậy, có thể nói nỗi đau của một người là nỗi đau của toàn thể nhân loại; và ngược lại, niềm vui của một người là niềm vui của mọi người.
Là đan sĩ- môn đệ của Đức Kitô- người thuộc về Thiên Chúa và chỉ “dành riêng” cho một mình Thiên Chúa thì không thể có một trái tim bằng đá, hay mang trong mình “dòng máu lạnh” được. Nếu Đức Kitô đã nhập thể và nhập thế là vì Ngài yêu thương con người, muốn đồng cảm với con người để có thể chia sẻ những đau thương vui buồn của kiếp người. Cũng vậy, những đan sĩ chiêm tu cũng mang nơi mình dòng máu của Đức Kitô, trái tim của Đức Kitô và cả con người của Đức Kitô, nên đan sĩ cũng đồng cảm với thế giới và con người bằng một trái tim mở ra cho mọi người.

 

1. Thế nào là đồng cảm?
Nói đến đồng cảm là nói đến cảm thông, chia sẻ với người khác về những ưu tư lo lắng hay những đau khổ thất bại trong cuộc sống mà họ đang phải chịu. Nói khác đi, “đồng cảm chính là có chung một cảm xúc, cảm nghĩ: đồng cảm với khó khăn của bạn[1] . Khi ta nói tôi đồng cảm với anh, tức là ta liên đới và chia sẻ với người đó, đặt mình trong hoàn cảnh của người đó. Như vậy, đồng cảm chính là nhập cuộc, coi việc của người khác là việc của mình, coi những ưu tư lo lắng hay khắc khoải của người khác là của ta để cảm thông chia sẻ. 

 

2. Phải chăng con người ngày nay sống vô cảm?
Chúng ta đang sống trong một thế giới tuy văn minh và tiến bộ về nhiều mặt, nhưng lại là một thời đại có nhiều thảm trạng, có nhiều khó khăn và thách đố. Biết bao nhiêu con người đang sống trong đau khổ và tuyệt vọng; biết bao người đang phải bán đứng nhân phẩm của mình chỉ vì miếng cơm manh áo; biết bao gia đình, quốc gia đang chịu những thế lực bên ngoài đè bẹp không ngóc cổ lên được… Thế nhưng bên cạnh đó không thiếu những con người ăn chơi phung phí tiền bạc. Họ dám bỏ ra cẵ chục ngàn đôla cho một đêm vui chơi. Họ là những người chỉ biết hưởng thụ, sống vô cảm trước những đói khổ của người khác. Họ là những người giàu có trước những “Ladarô thời đại” đang ngửa tay xin từng miêng cơm mà không ai cho.
Nếu con người chỉ biết lo cho mình mà sông ích kỷ, vô cảm trước những nỗi đau của người khác, thì tự hỏi thế giới này sẽ ra sao và sẽ đi về đâu? Vì con người là con vật mang xã hội tính, nghĩa là sống với, sống cũng và sống cho người khác. Nhiứig làm sao có thể sống đồng cảm với người khác, nếu như người ta không có một con tim biết nhạy cảm hay rung động trước những nỗi đau của người khác? Vì thế, điều cần thiết là phải có một trái tim nhạy bén biết rung cảm trước những nỗi đau của con người.
Hơn ai hết, Đức Giêsu là một con người sông trọn vẹn kiếp người nhất. Ngài đã đến, đã cư ngụ và ở giữa con người, và đồng hóa với những người cùng khổ nhất (x. Ga 1, 14). Ngài đã đồng cảm và thương yêu con người. Cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá là bằng chứng tình yêu nói cho mọi người biết sự đồng cảm tột cùng của Ngài với con người.

3.Đức Giêsu Kitô mẫu gương của sự đồng cảm.
Chúa Giêsu đến trần gian, mang thân phận tôi đòi, làm người và ở giữa chúng ta (x. P1 2, 6- 11) để làm gì nếu không phải để cảm thông chia sẻ thân phận “đau khổ” của kiếp người. Ngài có một trái tim rất nhạy bén và tinh tế trước những người nghèo đói và đau khổ, Ngài luôn đứng về phía những con người thấp cổ bé miệng và cảm thông với họ.
Đối với những người tội lỗi, Ngài không kết án nhưng yêu thương và và tha thứ. Câu chuyện người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và các dụ ngôn Người cha nhân hậu, con chiên lạc, đồng bạc bị đánh mất… là những bằng chứng nói lên tình yêu diệu kỳ của Thiên Chúa đối với con người (X. Ga 8, 1-11; Lc 15 132, Lc 7,11-17; Ga 11, 33).
Chúa Giêsu, Ngài không ngoảnh mặt làm: ngơ trước những người nghèo khổ nhưng cảm thông trước những nỗi đau bằng cách xoa dịu, chữa trị và điều quan trọng là Ngài cho họ ăn. Ngài cũng muốn các tông đồ và các môn đệ theo Ngài đồng cảm với người khác bằng một con tìm nhạy hay một tình yêu như Ngài, vì “cứ dấu này mà người ta nhà biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35)

 

4.Đan sĩ đồng cảm với Giáo Hội và xã hội
Là đan sĩ, phải chăng chúng ta được phép sống “khác người”, nghĩa là sống vô cảm trước những vấn đề của thời đại, của con người, của Giáo Hội? Phải chăng chúng ta tự cho mình được phép miễn trừ mọi công việc “trần thế” để chỉ lo phụng sự một mình Chúa, mà quên đi con người đang khắc khoải lo âu của Giáo Hội và con người theo kiểu “sống chết mặc bay”? Nếu nhìn bề ngoài thì các đan sĩ là những con người ăn bám xã hội, không muốn nói là vô tích sự chẳng làm được chi cho đời, chẳng giúp ích được gì cho ai, không “cứu độ” được ai. Tuy vậy, đâu phải cứ năng nổ lăn xả cho đời, làm việc này việc nọ thật tưng bừng lớn lao mới giúp ích cho nhiều người, mới được coi là đồng cảm và liên đới với con người? Một Têrêxa Hài Đồng Giêsu chỉ quanh quẩn trong bốn bức tường nhà dòng, thế mà được gọi là “thánh cả, thánh lớn” ngang hàng với thánh Phanxicô Xavier bôn ba đây đó.
Là đan sĩ, chúng ta làm gì để nói cho mọi người biết chúng ta không phải là “cái gì” khó hiểu, hay những con người vô tích sự, nhưng là những con người có ích cho xã hội và Giáo Hội. Khi đan sĩ là những môn đệ Đức Giêsu, mang nơi mình dòng máu, con tim, khối óc, bàn tay của Đức Kitô.“ nên cũng biết đồng cảm, chia sẻ, hiệp thông, liên đới và mình với mọi người bằng chính đời sống đan tu chiêm niệm của mình.
Có người nói rằng: “Trước khi là kitô hữu tôi là người Việt Nam…”. Là người môn đệ Đức Giêsu, thì sự đồng cảm lại càng triệt để hơn nữa. Thật vậy, Đức Giêsu đã nhập thể và nhập thế là gì nếu không phải để nhập cuộc và đồng cảm chia sẻ nỗi đau của kiếp người. Là môn đệ Đức Giêsu, đan sĩ phải là con người của mọi người, nghĩa là con người biết đồng cảm, chia sẻ những niềm vui nỗi buồn của người khác, biết thương xót hết mọi người. Vì thế, “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô[2].

Nói cách khác, chúng ta phải có tâm tình như thánh Phaolô: “Vì anh em, tôi mang nỗi đau của mọi người… Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu... ” (2Cr 11, 29). Như thế, đan sĩ không thể dửng dưng vô cảm trước những nỗi đau của con người, nhưng là đồng cảm và liên đới với hết mọi người bằng cách sống đúng căn tính đan tu chiêm niệm của mình. Căn tính đan tu chiêm niệm chính là lấy việc Chúa làm trên hết, chỉ tìm kiếm và phụng sự một mình Thiên Chúa, sống kết hiệp với Chúa rồi sau đó mở lòng ra với mọi người.

– Đồng cảm bằng lời cầu nguyện
Đan sĩ được ví như các thiên thần ngày đêm không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện tha thiết cho mọi người. Nếu đan sĩ không có một con tim nhạy cảm, không biêt rung động và cảm thương trước những nỗi đau của người khác, thì làm sao có thể đồng cảm được, làm sao có thể dâng lên Thiên Chúa những tâm tình đau khổ bi ai của biết người để kéo ơn Chúa xuống được?
– Đồng cảm bằng sự chia sẻ vật chất
Không thể có đồng cảm một cách mông lung hay chỉ bằng lời nói suông, nhưng phải được cụ thể hoá bằng chính hành động. Hành động ở đây chính là sự cho đi bằng ánh mắt nụ cười cảm thông, bằng một sự động viên an ủi và nhất là được cụ thể hoá bằng vật chất. Vì thế, việc lao động của đan sĩ ngoài việc cộng tác với Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, thánh hoá bản thân, nó còn mang một chiều kích quan trọng không kém đó là giúp vào việc truyền giáo, chia sẻ với những ai khốn khổ nghèo hèn…

 

* Kết luận:
Đứng trước những HỒNG ÂN của Giáo Hội hoàn vũ nói chung và Giáo Hội Việt Nam nói riêng như: Năm Linh Mục, Năm Thánh 2010 kỷ niệm 350 năm thành lập Giáo Phận Đàng Ngoài và Đàng Trong, kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam…, đan sĩ cũng được mời gọi nhập cuộc và đồng cảm với Giáo Hội. Vậy đan sĩ phải làm gì, hay đâu là sự đồng cảm của đan sĩ chiêm tu trước những HÔNG ÂN quá lớn của Giáo Hội Việt Nam?
Như thế, đan sĩ phải biết đồng cảm trước những niềm vui nỗi đau của con người, nghĩa là không sốhg ích kỷ chỉ biết đến mình, hay sống cho riêng mình, nhưng là người của mọi người, là người mang trong mình dòng máu của Đức Kitô, mang nơi mình trái tim của Đức Kitô để thổn thức, chia sẻ và nhất là mở rộng vòng tay và trái tìm để đến với mọi người bằng một tình yêu cho đi “không mức độ”.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NÉT DUYÊN TƯƠI

TRONG ĐỜI SỐNG ĐAN TU 

 

 

Cát Trắng

 

Chúng ta đang sống trong một thời đại khoa học kỹ thuật phát triển không ngừng. Xã hội càng phát triển, con người càng phải chạy, chạy thật nhanh mới kịp với đà tiến của thế giới. Chạy quá làm mệt mỏi, tạo căng thẳng. Cũng chính trong xã hội đôn đáo đó, số người thất nghiệp càng gia tăng do suy thoái nền kinh tế của các cường quốc. Những lo lắng như: cơm áo gạo tiền, thiên tai bão lụt, chiến tranh, kỳ thị tôn giáo, chủng tộc… Người ta lo âu về sự sống còn của mình. Ưu tư, căng thẳng, sợ hãi đầy dẫy trong kiếp nhân sinh. Như thế, đời người chỉ mang một màu xám ảm đạm, con người chỉ hát lên những khúc ca trầm buồn!!!
Phải chăng nét duyên tươi không còn hiển hiện trên thế giới này? Còn nữa không “giai điệu hạnh phúc”?

NÉT DUYÊN TƯƠI TRONG CUỘC SỐNG
Nét duyên tươi là một hình ảnh rất ý nghĩa, vừa vui tươi, vừa duyên dáng. Vui tươi ở bên ngoài nhưng nhất là rạng rỡ bên trong, thâm trầm, sâu sắc, an bình. Duyên dáng là nét đơn sơ, trong sáng, hồn nhiên đáng yêu, cuốn hút người khác.
Như vậy, nét duyên tươi rất cần cho cuộc sống đời thường. Người duyên tươi tạo được hạnh phúc trong gia đình, gây được thiện cảm, tạo nhiều bạn bè, dễ thành công hơn trong công ăn việc làm. Đó là cách để đắc nhân tâm Fletcher, “Nụ cười chỉ nở trong khoảnh khắc, nhưng có khi làm ta nhớ suốt đời”. Sự vui tươi giúp con người thích sống là thuốc thần diệu chữa mọi thứ mệt nhọc, ngã lòng, buồn sầu lo âu, vì “Cười là quy tắc hoàng kim của chúng ta”. Pierre Vacnet quan niệm như vậy.
Nét duyên tươi đó thực sự xuất phát từ nội tâm con người cách chân thành, khiêm tốn chứ không đóng kịch, giả tạo, hời hợt. Nó là một phẩm tính riêng của con người.
Vì thế, duyên tươi không chỉ tạo sinh lực cho cuộc sống con người, nhưng còn là một đức tính nhân bản rất cần cho cuộc sống công danh sự nghiệp, trong giao tế hằng ngày. Để đạt được cuộc sống hạnh phúc tạm bợ ở đời này mà người ta còn phải trau dồi cho mình có được một sự duyên tuơi, dễ mến như thế, thì đối với người đan sĩ càng cần thiết biết bao, vì mục đích của họ là nhằm đạt đến con người viên mãn của Đức Kitô (x. Ep 4,13).

NÉT DUYÊN TƯƠI TRONG ĐỜI SỐNG ĐAN TU
Khách đến đan viện dù vãng lai, tĩnh tâm hoặc tìm hiểu ơn gọi, nếu gặp đan sĩ với bộ mặt “bánh bao chiều” hoặc nét mặt “đưa đám”, thử hỏi quý khách sẽ suy nghĩ thế nào? Có dám nhập cuộc, hay cao chạy xa bay? Thiết nghĩ rằng, đan sĩ đánh động lòng người không hệ tại ở những gì là cao siêu, à “ăn nói mặn mà đẩy đưa”, nhưng là nhờ ở nét vui tươi, trầm lắng, bình an, đơn sơ, mộc mạc, hồn nhiên, chân chất kiểu con nhà nông theo truyền thống Xitô. Đơn sơ trong y phục không kiểu cách; lương thực đạm bạc; thái độ, cách hành xử giản đơn. Người ta bị bén duyên vì cái nét “ngây ngô” ấy của đan sĩ. Như thế, nét duyên tươi có thể trở thành một khí cụ khá kiến hiệu gieo vào lòng người gặp gỡ những câu hỏi dẫn đến khám phá Tin Mừng của Chúa Kitô. Muốn được như vậy, chính đan sĩ trước hết phải cảm nghiệm nét duyên tươi trong đời sống thánh hiến như cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã nhận định: “Đan sĩ không vui thì không ở trong nhà dòng được”.
Nhưng đâu là nơi đan sĩ tiếp nhận nét duyên tươi của chính Thiên Chúa và diễn tả qua thái cử của mình?

Niềm Vui Trong Phụng Vụ
Sinh hoạt trung tâm của đời đan tu là phụng vụ, nơi đan sĩ cảm nghiệm niềm hạnh phúc được ca hát, ngợi khen Thiên Chúa-Tình Yêu.
                                        “Phúc thay người ở trong thánh điện,
                                        Họ luôn luôn được hát mừng Ngài” (Tv 91,5)
Cái phúc của chúng ta là được ca tụng Chúa. Nhiều người muốn được hưỏng bầu khí vừa thánh thiêng vừa vui tươi đó, nhưng không thể được. Còn đan sĩ chúng ta, có cảm thấy hạnh phúc khi được thay mặt cho cả Hội Thánh thi hành sứ vụ cao cả này? Chúng ta vui vì được sống trong niềm hạnh phúc sung mãn, được kết hiệp với Chúa, vui vì được làm công việc của các thần thánh trên trời. Niềm hạnh phúc đó dẫn chúng ta “hoà hợp tâm trí với lời ca”, thân xác, linh hồn được hoà quyện với nhau để cử hành phụng vụ một cách xứng đáng và chất đầy hồn sống. Giờ cử hành phụng vụ thể hiện cái đẹp, sự hiệp nhất trong cộng đoàn. Đó là cách chuyển tải sứ điệp yêu thương đến cho người khác; là dấu chỉ về Thiên Chúa Tạo Hóa vĩnh hằng, qua cái đẹp. Cái đẹp của phụng vu của lời ca ngợi Thiên Chúa, nói về Thiên Chúa, cầu nguyện bằng ngợi ca là cách cầu nguyện qúy giá và trong sáng nhất vì nó mang tính vô vị lợi và thể hiện lòng biết ơn.
Phụng vụ là một nghệ thuật, nghĩa là mang nét đẹp; chỉ với nét duyên tươi rạng rỡ và con tim nồng cháy, đan sĩ mới có thể cử hành một bản hợp xướng hoàn vũ mà mỗi người là một ca công có một chỗ đứng đặc biệt. Chúa Giêsu điều khiển bản hợp xướng dâng lên Chúa Cha với tất cả tâm tình hiếu tử và nghệ thuật của Thánh Thần. Khi cử hành phụng vụ, đan sĩ chúng ta có chiêm ngắm được nét duyên tươi rạng rỡ trên khuôn mặt Đức Kitô và niềm hân hoan của chư thánh khi cùrig chúng ta dâng lên Thiên Chúa Cha bài tình ca muôn thuở.
Nét duyên tươi được đón nhận và khám phá trong phụng vụ dẫn đưa đan sĩ vào những tương giao huynh đệ, một tương giao cũng đầy ắp nét duyên tươi.

Ngọt Ngào Tình Chị Em 
Người ta thường nói: “Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng thương hại”. Có người lại cho rằng đời sông cộng đoàn là một việc đền tội nặng nhất. Nhưng, theo các linh phụ Xitô, đan viện là “trường học đức ái”, trong đó điệp khúc “tốt đẹp thay chị em sống chung một nhà” được cất lên suốt cả chiều dài cuộc sống, từ hừng đông tới lúc chiều tà của cuộc đời.
Vì thế, đời sống huynh đệ càng đòi hỏi phải có nét duyên tươi. Không có niềm vui trong đời tu, không chóng thì chày ứng sinh cũng sẽ đào ngũ, như cha Tổ Phụ đã từng dặn dò: ‘Trong nhà Dòng không vui thì không ở được”. Chúng ta vui vì được sống trong một cộng đoàn yêu thương hiệp nhất. Vui vì có người đồng lao cộng khổ, có người đồng cảm, cùng nhau xây dựng Giáo Hội, xây dựng Nước Chúa.
Trong cộng đoàn, không thể tránh khỏi những hiểu lầm, trái tính, trái nết. Những khác biệt có thể gây ra đau khổ cho nhau. Nhưng làm sao ta có thể vượt lên trên những giới hạn của kiếp người để cố nét duyên tươi? Làm sao ta có thể thăng hoa những đau khổ? Têrêsa Hài Đồng cho. ta bài học đầy ý nghĩa qua những vần thơ rất duyên dáng:
“Bình an con khi mắt tràn khóe lệ
Trước tha nhân con tỏ mặt mỉm cười
Đau khổ nào lại không có duyên tươi
Nếu ta biết chôn vùi dưới hoa thắm”.
Tại sao trong đau khổ mà Têrêsa vẫn mỉm cười được? Vì chị ý thức sứ mạng của mình trong Giáo Hội ‘Trong lòng Giáo Hội, con sẽ là tình yêu”. Có tình yêu sẽ có mỉm cười; có tình yêu sẽ có tất cả, và cuộc đời sẽ mang màu xanh hy vọng.
Để có duyên tươi trong đau khổ, ta phải trả giá đắt. Đâu có gì mua với giá rẻ mà đẹp, bền đâu! Muốn gặt được niềm vui thì phải gieo niềm vui. Người can đảm ỉà người dám mỉm cười với Chúa.
“Ngươi có tìm thấy niềm vui không?” và “Ngươi có mang lại niềm vui cho người khác không?” đây là hai câu hỏi của người Ai Cập cổ khi trình diện thần Osisis để định đoạt về số phận đời đời của mình. Vậy thì đây là yêu sách cho ngưdi xưa và cũng cho chúng ta hôm nay.
Nhưng nét duyên tươi của tình nghĩa chị em cần phải được thể hiện trong nỗ lực đồng lao cộng khổ.

Hăng Say Trong Lao Động
“Lao động là vinh quang” – Châm ngôn sống của Cộng sản. Nhưng vinh quang của chúng ta không mang dáng dấp của những tìm kiếm thấp hèn, mà là vinh quang của chính Thiêh Chúa. Vinh quang đó là “con người sống” và công cuộc sáng tạo là một diễn tả sự sống được Thiên Chúa trao ban cho con người. Chúng ta lao động là cộng tác vào chính công tình sáng tạo của Thiên Chúa, góp phần mang lại sự sống cho chính mình và chị em. Hơn thế nữa, noi gương Chúa Kitô, chúng ta vui khi lao động, vì đó là một nơi để xây dựng Nước Chúa hiện diện trên trần gian này trong công bình và bác ái.
Chính trong hướng nhìn này, một hưđng nhìn đưa lên cao, giúp chúng ta tận tâm với công việc, phát huy mọi sáng kiến, dể đạt những thành quả mang lại lợi ích cho Giáo Hội và cộng đoàn nhân loại. Người đan sĩ, khỉ lao động không chỉ vì lương thực mau qua, nhưng xây dựng một mô hình mà tình huynh đệ và phẩm giá con người phải là tiêu chuẩn hàng đầu. Mong ưđc của xã hội chủ nghĩa: “làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu” được thực hiện một cách hết sức bình thường trong các cộng đoàn tu trì Kitô giáo. Như vậy, lao động trở thành một nơi để xây dựng xã hội, một xã hội công bằng và bác ái. Hơn nữa đan sĩ cũng góp phần xây dựng Giáo Hội khi “chân lấm tay bùn”, mồ hôi nhễ nhại, để diễn tả chính Nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa và sự đồng hành của Giáo Hội trong những lắng lo cụ thể của kiếp nhân sinh.
Nhưng phải chăng những nét duyên tươi đửợc diễn Jj trong phụng vụ, quà đời sốnh huynh đệ và công việc lao động, đến với chúng ta một cách ngẫu nhiên hay tự động? Có cần thiết chăng một số điều kiện để những “nét”, trỏ. thành “duyên tươi” thật sự?

Trật Tự
Đan viện theo tiếng latin là Ordo, Ordre theo tiếng pháp, mang ý nghĩa trật tự. Đây không phải là một trật tự theo kiểu nhà binh, nhưng là môt sự hài hoà giữa những con người sống cùng một lý tưởng, giữa những yếu tố câu thành đời tu trì. Trật tự đây mang tính năng động như một guồng máy vận hành để sản sinh những kết qủa tốt đẹp.
Theo truyền thống Biển đức, sống là mang đến cho cuộc sống trật tự, quân bình và an vui. Trong cộng đoàn, có trật tự sẽ có niềm vui. Trật tự về cơ cấu, trật tự về công việc theo nguyên tắc: Giờ nào việc nấy, vật nào chỗ đó. Được như vậy sẽ không gây nên sự rắc rốì, phiền phức. Một người sống có trật tự, nghiêm túc sẽ tạo sự quân bình, an hảo cho bản thân và cho nguời khác, sẽ gặt hái được nhiều thành công, tạo duyên tươi cho cộng đoàn. Khi có trật tự, ắt sẽ có bình an.

Bình An
“Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ” (Tv 4,9). Bình an do ta biết sống nếp sống quân bình. “Hữu ư trung, xuất hình ư ngoại”: một tâm tĩnh lặng được diễn tả trên khuôn mặt bình an thư thái, sẽ quang toả nét duyên tươi cho những ngựời chung quanh và tạo nên một bầu khí an hoà.
Thánh Biển Đức cho ta kim chỉ nam: “Muốn có sự bình an, trước hết phải an vui với chính mình, với ngườỉ khác và với cả trái đất” Phải chăng giữa niềm vui và bình an có sự hỗ tương nhau…Làm sao để có an vui thực trong lòng ta, trong cộng đoàn, ta? Thưa phải chiến đấu, phải luôn cố gắng dấn thân liên lĩ, phải bắt đầu lại, phải hy sinh cho người khác sẽ có sức mạnh nội tâm. Từ đó ta sẽ có sự bình an.
Nhưng trật tự và bình an là hai hoa trái của một tâm đi đến tận nguồn của niềm vui và hạnh phúc.

Kết Hợp Với Chúa
Dù sống trong thân phận con người với những niềm vui chóng qua đắp đổi, đan sĩ, ngày qua ngày thực hiện một tiến trình “vượt qua”. Niềm vui của những cuộc dã ngoại – dù rằng họa hiếm – niềm vui của những buổi văn nghệ giải trí, đem lại cho chị em những giây phút thư giãn và mang lại một vài hương vị của cuộc sống. Nhưng mục tiêu của đời đan tu hướng tới một niềm vui, một niềm hạnh phúc vĩnh cửu. Niềm vui đó, hạnh phúc đó trần gian và những gì trong trần gian không thể trao ban được, vì không thể cho điều mình không có.
Trái lại, niềm vui và hạnh phúc của chúng ta là chính Chúa (x. Tv 103,35). Chỉ những ai sống mối tình kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa mới có thể cảm nghiệm được và đạt đến “cái trường cửu”, tiên hưởng “điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không nghĩ tưởng tới” (x. lCr 2,9). Nói cách khác, đan sĩ có duyên tươi là nhờ ân sủng của Chúa. Và một khi được ân sủng Chúa biến đổi, đan sĩ cầm thấy trách nhiệm xây dựng nét duyên tươi cho chính môi trường đang sống. Như vậy, ai là người chịu trách nhiệm tạo nét duyên tươi cho cộng đoàn? Bạn hay là tôi? Thưa, mỗi chúng ta phải là người tiên phong. Muôn gặt được duyên tươi, mình phải gieo duyên tươi. Cá nhân duyên tươi tạo thành cộng đoàn duyên tươi.
“Nụ cười là ân huệ cao cả nhất Chúa ban cho ta”. Với niềm vui thâm trầm, sâu lắng, với nét đơn sơ, hỗn nhiên mộc mạc, chân tình tạo nên duyên tươi cho đan sĩ. Nét duyên tươi rất cần cho cuộc sống sinh hoạt đời thường, giao tiếp trong xã hội. Phương chi đối với đời đan tu, điều đó càng cần biết bao. Chúng ta phải biết trân trọng, kết dệt nên nét duyến tươi. Đó là cái đẹp của đan sĩ. Cái đẹp của một cuộc sống có trật tự, quân bình. Cái đẹp của một tâm hồn bình an, đầy Chúa.
Thời gian rồi sẽ qua đi, chúng ta rồi cũng sẽ ra đi như vậy. Thử hỏi ta còn gì để lại cho chị em, cho những người ta đã gặp gỡ? Phải chăng là nét duyên tươi?

 

 

 

 

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

BÀI VIẾT MỚI

spot_imgspot_img

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Hạt Giống Chiêm Niệm số 32: Cầu Nguyện Đan Tu

CẦU NGUYỆN ĐAN TU Số 32 – Tháng Giêng năm 2024 ĐÔI LỜI ... Kính thưa quý độc giả, Như chúng ta đã biết, cầu nguyện là hành...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 31: Hướng Vọng Trời Cao

 Số 31 – Tháng 7 năm 2023 Lời ngỏ Kính thưa quý độc giả, Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày qua đời của cha Biển Đức...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 29: Tứ Hải Giai Huynh Đệ

Số 29 – tháng 07 năm 2022 Cùng Độc giả, Các sinh hoạt của Ban Biên Tập Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm (HGCN) của Hội...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 30: Một Đi Chung Cùng Nhau

LỜI NGỎ   Kính thưa Quí Độc Giả! Nội san Hạt Giống Chiêm Niệm số 30 phát hành vào tháng Giêng năm 2023 này mang chủ đích...

Giới Thiêu nội san “HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM” (Viện phụ Dominico Phạm Văn Hiền)

  NỘI SAN   HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     LỜI GIỚI THIỆU      ...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 1: NGUỒN SUỐI CHIÊM NIỆM

    HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM       Nội...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 2: HƯƠNG VỊ LỜI CHÚA

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 3: THAO THỨC

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 4: Những Nẻo Đường Sống Đạo

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     Nội san linh đạo đan tu   NHỮNG NẺO ĐƯỜNG SỐNG ĐẠO   Số 4 tháng 7 năm 2007 LỜI NÓI ĐẦU     Một người nọ hỏi...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số đặc biệt: Cội nguồn hy vọng

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 7: Thử Thách

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 9: Dám Đối Diện

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...