Chủ Nhật, 13 Tháng mười, 2024

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 28: MÔI SINH

HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA

NỘI SAN LINH ĐẠO ĐAN TU

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM

 

 

 

 

 

 

 

MÔI SINH

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Số 28 – tháng 1 năm 2021


Mục Lục

Lời ngỏ

VƯỜN ĐỊA ĐÀNG 

THỰC HÀNH LỜI CHÚA ĐỂ BẢO VỆ MÔI SINH

GIÚP ĐỌC THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

MÔI TRƯỜNG ĐAN VIỆN THEO THÁNH BIỂN ĐỨC

“THUNG LŨNG ÁNH SÁNG”

TỪ HOANG SƠ ĐẾN KÍN NHIỆM KHÁM PHÁ NHÃN QUAN CỦA CHA BIỂN ĐỨC THUẬN VỀ MÔI SINH ĐAN TU

TÔN TRỌNG VÀ YÊU MẾN MẸ ĐẤT

THIÊN NHIÊN CÔNG BẰNG

MẠCH NƯỚC VỌT LÊN (Ga 4,14)

MỞ RA TỪNG TRANG SÁCH THIÊN NHIÊN

LỜI NGỢI CA CỦA ĐAN SĨ

THÁNH PHANXICÔ VÀ BÀI CA TẠO VẬT

ƯỚC MƠ MỘT MÔI TRƯỜNG HÒA BÌNH

NẾP SỐNG ĐAN TU THEO TINH THẦN THÔNG ĐIỆP “LAUDATO SI’”

BETANIA ẤM LÒNG

“Ô NHIỄM! Ô NHIỄM!”

THỔI HỒN VÀO NHỊP SỐNG

TỪ HỮU HÌNH ĐẾN VÔ HÌNH

NHÂN SINH “ẢO” VÀ MÔI SINH “NHÃO”

 



 

Lời ngỏ 

Kính thưa quý độc giả,

Số 28 Nội san Hạt Giống Chiêm Niệm của Hội Dòng Xitô Thánh Gia, được đặt trong niềm khát mong của Đức Thánh cha Phanxicô về bảo vệ môi trường, nhân dịp kỷ niệm năm năm (2015-2020), Thông điệp LAUDATO SI’ – Chăm Sóc Ngôi Nhà Chung Của Chúng Ta. Hơn bao giờ hết, trên khắp mọi ngõ ngách của thế giới này, từ biển cả đến núi rừng, từ thành thị đến nông thôn…, tất cả đều đang chìm ngập trong thiên tai và ô nhiễm đủ loại: ô nhiễm môi trường thể chất và tâm linh.

Nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm này có thể đến từ nhiều phía, nhưng con người -thành phần vốn được giao nhiệm vụ chăm sóc và bảo vệ trái đất (x. St 1,28-30)- đang là thủ phạm chính yếu và trực tiếp góp phần tàn phá trái đất và tâm hồn con người cách tàn nhẫn.

Hiện trạng con người đang chăm sóc và bảo vệ trái đất cách không đúng mức; khai thác và đối xử bất công với trái đất; phá vỡ tương quan giữa con người với Thiên Chúa…, đang gây ra cho chính con người những hậu quả thật là khủng khiếp. Thiên tai hạn hán, bão lụt do việc khai thác tài nguyên trong lòng đất và khai thác núi rừng cách bừa bãi, đang xảy ra khắp nơi và với mật độ ngày càng gia tăng; ô nhiễm do chất thải công nghiệp và chất thải từ cuộc sống không được xử lý đúng cách, cũng đang là một vấn đề vô cùng phức tạp…

Chia sẻ nỗi niềm với Vị Cha Chung của Giáo Hội, Nội san HGCN cũng muốn gióng lên tiếng kêu cứu thay cho “Mẹ Đất”, như muốn làm vang xa hơn lời cảnh báo của Vị Cha Chung, nhằm cứu vãn môi trường chúng ta đang sống.

Qua các bài viết đơn sơ mộc mạc, nhưng ẩn chứa trong đó một khát vọng mãnh liệt, ước mong cho môi trường -thể chất và tâm linh- mà chúng ta đang sống được tái tạo mỗi ngày. Có thế, cuộc sống của chúng ta, những người con của Chúa, sẽ có cơ may sống đúng nhân phẩm hơn và, mỗi người chúng ta cũng khả dĩ chu toàn sứ mạng ‘chăm sóc và bảo vệ ngôi nhà chung’ ngày càng tốt đẹp hơn. Với tâm tình đó, tập Nội san HGCN số 28 với chủ đề MÔI SINH, xin gửi đến quý độc giả gần xa.

Ban Biên Tập Nội san HGCN mong nhận được những chia sẻ và ý kiến đóng góp cách chân thành và xây dựng của các độc giả, để tập Nội san của Hội Dòng ngày càng hoàn thiện hơn

 Chân thành cám ơn quý vị!

Ban Biên Tập

Trở về mục lục



VƯỜN ĐỊA ĐÀNG

Mai Thương

Thánh Tôma Aquinô, khi bàn về Vườn địa đàng, nơi Chúa đặt để con người vào đó sau khi tạo dựng, đã đặt ra những vấn nạn: phải chăng Vườn địa đàng là một nơi có thật trên trái đất này? Nơi đây có xứng hợp cho con người ở không? Con người được đặt vào nơi đây để làm gì? Dựa trên Kinh Thánh (St 2) và thế giá của thánh Augustino[1], ngài xác định rằng Vườn địa đàng là nơi có thật, hiểu theo nghĩa từ chương của Kinh Thánh, và như là sự diễn tả lịch sử, dầu cho người ta có thể giải thích nó theo nghĩa thiêng liêng và thần bí[2].

Sở dĩ người ta đặt ra vấn nạn này, vì không có nơi nào trên thế giới có những điều kiện đúng với những gì Kinh Thánh đã nêu ra. Còn thánh Tôma Aquinô cho rằng vì điều kiện địa lý khó khăn hiểm trở, nên các nhà địa lý không tìm ra và không xác định được vị trí của nó.

Vườn địa đàng là nơi hoàn toàn thích hợp cho con người sinh sống với tư cách là những thụ tạo có hồn thiêng và thân xác, còn thiên đàng là nơi thích hợp cho các thiên thần với bản tính thiêng liêng[3].

Con người làm gì nơi Vườn địa đàng? Thánh Tôma Aquinô dựa theo Kinh Thánh để trả lời: “Canh tác và canh giữ đất đai” (St 2,15). Nhưng ngài xác định thêm: Nguyên Tổ làm việc mà không khó nhọc vất vả, nhưng là một điều vui thích, khi ngày ngày khám phá ra tính màu mỡ và phì nhiêu của thiên nhiên. Họ canh giữ đất đai không phải vì sợ ai cướp phá, nhưng là giữ gìn Vườn địa đàng cho chính mình để khỏi đánh mất đi vì phạm vào lỗi lầm[4].

Trong phạm vi của bài này, chúng tôi chỉ lướt qua ý nghĩa của từ ngữ và chú ý về ý nghĩa thiêng liêng: Vườn địa đàng là nơi Thiên Chúa đặt để con người vào đó để sinh sống (môi sinh). Nhưng Vườn địa đàng chính yếu là sự kết hợp hài hoà giữa ba yếu tố: thiên – địa – nhân. Hiểu theo nghĩa thiêng liêng, Vườn địa đàng không phải là một nơi chốn, nhưng tuỳ thuộc vào tâm hồn con người và đời sống thiêng liêng của họ[5]. Thiên nhiên là yếu tố trung gian cho sự kết hợp này. Nó là yếu tố không kém quan trọng giữa 3 yếu tố trên, vì nó là sự biểu lộ ra quyền năng và sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa. Qua tính cách quản trị và giữ gìn thiên nhiên mà con người trở nên giống hình ảnh của Thiên Chúa như thế nào? Thiên Chúa đã tạo nên vũ trụ và con người theo cách thức nào? Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa như thế nào? Tương quan giữa Thiên Chúa, con người và thiên nhiên phải hài hoà theo cách thức làm sao? Cả đến vấn đề tội lỗi và hậu quả theo sau đó cũng là điều cần bàn tới vì tội lỗi là bóng mờ tương phản với những nét tươi sáng trong bức tranh của Vườn địa đàng.

1. Vườn địa đàng

Vườn địa đàng, tiếng Hy Bá là Ēden, bắt nguồn từ tiếng Ác-cát (Akkad) là Edinu, có nghĩa là cánh đồng, hay thảo nguyên hoang sơ chưa được canh tác. Sau khi tạo dựng con người trong hoang mạc (St 2,4b-7), Thiên Chúa trồng một vườn cây trong vùng Ēden và đặt con người vào đó (St 2,8). Như thế cụm từ “vườn cây ở Ēden” gợi ra ý tưởng một ốc đảo tọa lạc trong một cánh đồng. Khởi thuỷ Ēden là một địa danh, sau đó cùng với thời gian, nó được chuyển thành tên của vườn: Vườn Ēden (St 2,15; 3,23.24)[6]. Ngoài ra, còn có một vài bản văn dựa vào nguyên gốc của từ Ēden là “đen” (dn), chỉ sự dồi dào, sung túc và đầy vui thú nên chuyển dịch “Vườn Ēden” thành “Vườn vui thú”, vì nơi đây có nguồn nước dồi dào do bốn con sông lớn cung cấp, thảo mộc xanh tươi, thú vật mơn mởn, sự sống phát triển một cách kỳ diệu. Một khu vườn như thế xứng đáng được nhà tiên tri gọi là Vườn thượng uyển (Ed 28,13; Is 51,3) hay Vườn địa đàng (Paradise). Tại trung tâm của vườn có cây Trường sinh và cây Biết lành biết dữ, vì theo lời của một tác giả vô danh, nếu không có sự hiểu biết thì không có sự sống. Và nếu không có sự sống chân thật sẽ không có sự hiểu biết, bởi vậy mà hai cây được đặt bên cạnh nhau[7].

Bởi vì Vườn địa đàng bị cấm lai vãng do bởi Tội Tổ Tông, và trên trái đất này không ai tìm thấy nó, nên người ta để cho mình tưởng tưởng và phóng tác ra tuỳ theo ý riêng của họ. Chẳng hạn như tác giả của Regula Magistri gợi lên Vườn địa đàng là phần thưởng dành cho đan sĩ nào đã trải qua được mười hai bậc khiêm nhường: “Nơi đây có những cảnh vườn đầy hoa hồng đỏ thắm không bao giờ tàn héo. Nơi đây có những lùm cây trổ bông mang màu sắc của mùa Xuân tươi thắm. Những đồng cỏ trong vườn được tưới đẫm bằng mật ong. Những bông hoa nhỏ của cây tỏi tây (safrant) toả ra hương thơm ngan ngát… Nơi đây những làn hơi mang sự sống trường sinh làm dễ chịu cho khứu giác. Nơi đây ánh sáng luôn luôn chiếu sáng, bầu trời không gợn chút mây đen và cặp mắt vui hưởng ngày trường cửu không hề bị che phủ bởi bóng đêm… Nơi đây không có gì làm cho niềm vui bị xáo trộn, không phải buồn phiền âu lo, tuyệt đối không, không có gì xảy đến làm xáo trộn sự an bình”[8].

Văn sĩ Papias còn đẩy sự diễn tả của ông đến mức huyền hoặc (fantasmagorie):“‘Vườn địa đàng’ có những cây nho sẽ mang mười ngàn gốc, mỗi gốc có mười ngàn nhánh, mỗi nhánh sinh ra mười ngàn chùm và mỗi chùm gồm mười ngàn trái” (Les vigne porteront dix mille ceps, chaque cep dix mille branches, chaque branche dix mille grappes, chaque grappe dix mille grains de raisin)[9].

Cũng có câu chuyện đan tu kể lại một đan sĩ đi lạc vào cõi thần tiên. Ông nghe tiếng chim hót thánh thót mà thưởng thức lắng nghe cách say mê quên cả thời gian. Khi về lại đan viện người ta không nhận ra ông là ai, và chỉ nói rằng cách đây mấy chục năm có một đan sĩ tên gọi như thế đi lạc trong rừng và không thấy trở về nữa. Thế ra, Vườn địa đàng hạ giới vui thú tốt đẹp làm cho người ta quên cả thời gian và vượt ra ngoài vòng sinh tử.

      2. Thiên Chúa tạo dựng

      2.1. Hai trình thuật tạo dựng

Ba chương đầu của sách Sáng thế ký có hai trình thuật về sự tạo thành. Trình thuật thứ nhất gợi lên Thiên Chúa sáng tạo trời đất trong sáu ngày (St 1,1 – 2,4a). Trình thuật thứ hai kể lại sự xuất hiện của người nam và người nữ. Sự bất tuân của họ đã làm cho họ bị đuổi ra khỏi Vườn địa đàng (St 2,4b – 3,24)[10].

Chắc chắn trình thuật về tạo dựng không dựa trên nhãn quan của các nhà khoa học, nhưng đúng hơn có tính suy tư triết lý. Đây chính là sự suy tư cơ bản về vũ trụ và con người trong mối tương quan với nhau và với Thiên Chúa. Sự suy tư này được nuôi dưỡng bằng kinh nghiệm lịch sử của dân Israel: sự giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập giúp họ khám phá ra Ngài là Đấng ban sự sống và tự do. Kinh nghiệm về Giao ước gợi lên ý tưởng Ngài muốn liên lạc với họ để thông chia hạnh phúc của Ngài. Còn việc Chúa ban Đất hứa rõ ràng nói lên Ngài trung tín với lời đã hứa. Sự khám phá ra những ưu phẩm của Thiên Chúa qua kinh nghiệm lịch sử của dân tộc Israel được phóng chiếu lên chiều kích toàn thể của vũ trụ và con người trong hai trình thuật sáng tạo[11].

2.2. Con người được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa

Trong chương một, sách Sáng thế ký trình thuật tạo dựng đạt đến tột đỉnh của nó với biến cố Thiên Chúa tạo dựng nên con người và đặt nó làm chủ công trình của Ngài. Thánh vịnh 8 dâng lời chúc tụng:

“Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên
cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,
đặt muôn loài muôn sự dưới chân.”

Trong sách Sáng Thế ký, chương hai, vai trò của con người có hơi khác: trước tiên được tạo dựng con người trong hoang mạc, sau đó Thiên Chúa dựng thêm các điều khác nữa: Vườn địa đàng, thảo mộc, thú vật và người đàn bà. Trong trình thuật này, vai trò con người được đặt vào vị trí trung tâm.

Căn cứ vào hai bản văn trên, người ta có thể nói rằng con người được dựng nên theo giống hình ảnh của Thiên Chúa qua sự làm chủ thế giới.

3. Thiên Chúa cai quản thế giới

Nhưng Thiên Chúa cai trị thế giới như thế nào? Theo cách thức làm sao? Để theo đó con người cai quản thế giới theo đúng ý muốn của Ngài. Hành động tuỳ theo chủ thể. Thiên Chúa vốn được định nghĩa là tình yêu (1Ga 4,7), nên Ngài quản trị tạo vật một cách yêu thương.

Chúng ta trở lại với hình ảnh của Chúa được diễn tả trong trình thuật tạo dựng để biết rõ Ngài hơn. Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng chưa có hình dạng và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước (St 1,1-2). Trái đất được bao phủ bởi bóng tối hỗn mang, chưa có sự sống. Nhưng Thiên Chúa bắt đầu chế ngự khối hỗn độn chưa có sự sống, khi đặt cho chúng một giới hạn để tạo ra những điều kiện mang lại sự sống: Ngài phân rẽ ánh sáng và bóng tối (St 1,4), phân rẽ khối lộn xộn của nước thành nước phía trên và phía dưới vòm trời (St 1,6-7). Nước dưới vòm trời dồn lại một chỗ thành biển cả và mặt đất lộ ra. Như thế những yếu tố tiêu cực không bị phá huỷ, nhưng được làm chủ bởi sức mạnh dịu dàng của Lời Chúa[12]. Đối với Đấng Tạo Hóa, trật tự hài hoà là dấu chỉ của sự làm chủ dịu dàng của Ngài trên thế giới hỗn mang.

Cuối cùng, sau khi tạo dựng vũ trụ, Chúa nghỉ ngơi. Đây là điều đáng chú ý. Sự dừng tay của Người là dấu chỉ nói lên Người làm chủ sức mạnh của mình để mở ra cho tạo vật, nhất là cho con người, một không gian để sinh sống. Khi làm chủ sức mạnh, Thiên Chúa mặc khải sự dịu dàng đích thực của Ngài và đề ra một con đường sống, để con người theo đó mà làm chủ trái đất. Đó là sự làm chủ một cách hoà bình và dịu dàng. Một câu châm ngôn của người Do Thái: “Dưới cặp mắt của Đấng Tạo Hóa sự bình an thì quan trọng như sự hiện hữu của vũ trụ”[13]. Sau này Đức Giêsu sẽ nói lên: “Phúc thay ai hiền lành thì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp” (Mt 5,4). Sự hiền lành và bình an chính là đặc điểm của Vườn địa đàng.

4. Chế độ dinh dưỡng của người trong Vườn địa đàng

Sau lệnh truyền con người làm chủ cá biển chim trời và mọi thú vật trên mặt đất, Thiên Chúa đề ra thức ăn cho con người: các loại hạt và trái cây. Thức ăn của họ hoàn toàn là thực vật, không hề có chút gì là động vật. Đây là một mệnh lệnh, nên có tầm quan trọng đặc biệt và nhất là có liên quan đến vấn đề làm chủ của con người trên trái đất. Quả thật, nếu Thiên Chúa ban cho con người một bản thực đơn hoàn toàn là thảo mộc (végétarien) sau khi truyền cho họ làm chủ thú vật, điều này nói lên con người có thể khuất phục mà không cần phải giết hại và bạo hành đối với chúng (Sans lui fare violence).

Vấn đề không ăn thịt động vật hàm chứa một ẩn ngữ (énigme): con người hãy noi theo Đấng Tạo Hóa để làm chủ sức mạnh của mình và biết tự giới hạn. Một sự làm chủ như thế mang tính hiền hoà khi dành cho các loài vật một không gian để sống. Chắc chắn thực đơn “chay kiêng” này đặt nặng trên giá trị biểu tượng: nó nói lên mối tương quan hoà hợp và hoà bình với thiên nhiên. Đằng sau dấu chỉ này, còn nói lên một khát vọng về một thế giới hoà bình, một sự sống chung trong yêu thương, và con người có thể nhường nhịn nhau để tạo nên một không gian sống và từ bỏ ảo vọng toàn trị toàn năng của mình để đi vào trong giao ước với người khác, với thiên nhiên và với Thiên Chúa. Một khi hành động như thế, con người thực hiện hình ảnh của một Thiên Chúa hiền lành và yêu thương một cách đích thực ở nơi mình[14].

5. Xấu hổ và không xấu hổ

Thánh vịnh 1 nói về con người hạnh phúc và thành công vì họ đang đi trên con đường dẫn đến sự sống. Đây là con đường đi theo lề luật và huấn điều của Thiên Chúa. Lề luật đầu tiên: “Trái cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2,17). Bản Kinh Thánh Giêrusalem, chú thích: Sự hiểu biết là một độc quyền mà Thiên Chúa dành riêng cho Ngài, và do tội lỗi con người đã chiếm đoạt nó. Sự hiểu biết nói ở đây là khả năng tự mình quyết định điều gì là tốt, điều gì là xấu và hành động theo sự quyết định đó. Nói một cách chính xác, đây là sự tự do quyết định về mặt luân lý (l’autonomie morale): Con người muốn ăn trái cây biết điều thiện điều ác nghĩa là muốn độc lập về phương diện luân lý. Hành động bất tuân và kiêu căng này làm cho họ phải chịu hình phạt đã được cảnh báo trước: bị đuổi ra Vườn địa đàng, xa cây sự sống và sẽ phải chết sau khi trải qua cuộc đời lao nhọc. Nói tóm lại, Đấng Tạo Hóa giữ chìa khóa của điều thiện điều ác, và con người nếu muốn sống (trong Vườn địa đàng) thì phải vâng phục Ngài. 

Khi nghĩ đến Tội Nguyên Tổ, người ta thường qui gán nguyên nhân cho con rắn quỷ quyệt cám dỗ ông bà Nguyên Tổ phạm tội. Chính y đã gợi lên rằng: Thiên Chúa cao hơn con người do bởi sự nhận biết điều thiện điều ác, Ngài không muốn cho con người được giống như Ngài… Không có chỗ nào trong Kinh Thánh nói như thế, chỉ có con rắn làm cho con người tin rằng sự nhận biết này là độc quyền của Thiên Chúa và Ngài lấy cái chết hù doạ con người, để họ luôn luôn phải ở dưới quyền của Ngài. Con rắn mưu mô, một cách nào đó đã xuyên tạc Lời Chúa. Ngài chỉ nói: “Hết mọi trái cây trong vườn ngươi cứ ăn, nhưng cây cho biết điều thiện điều ác thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi phải chết” (St 2,16-17). Lệnh truyền này gồm hai điều: ban hồng ân và đặt một giới hạn. Con rắn thì đảo lộn thứ tự, bắt đầu bằng giới hạn và phớt lờ đi hồng ân: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn phải không?”. Để nhận ra ý đồ đen tối của con rắn, chúng ta khởi đi từ hồng ân mà Chúa ban cho con người: hồng ân Vườn địa đàng với tất cả mọi thứ cây mang trái để ăn, ngay cả cây trường sinh. Nói cách khác, đó là hồng ân của sự sống. Cùng với hồng ân này Thiên Chúa đưa ra một giới hạn: không được ăn trái cây biết lành biết dữ. Thông thường người ta coi giới hạn này như là một lệnh cấm và nếu vi phạm, con người sẽ phải chết. Đó là cái nhìn tiêu cực về lệnh truyền của Chúa. Còn có một cái nhìn tích cực về nó. Thiết tưởng cái nhìn tích cực này làm rõ nét bản chất yêu thương của Chúa: vì yêu thương và với tư cách là người Cha, Ngài cảnh báo con cái để bảo vệ nó khỏi cái chết, và đừng nên tham lam thái quá muốn chiếm đoạt mọi thứ cho riêng mình. Nếu làm như thế là tự khép kín tâm hồn và do đó giết chết mối tương quan. Thế mà sự tương quan, trong Kinh Thánh cũng như trong đời thường là yếu tố đem lại sự sống. Sự giới hạn, cũng như ân ban, là hướng tới sự sống và mở ra cho sự liên lạc. Sự giới hạn này không phải là sự thất vọng, nhưng là khả năng để có thể nhận biết và vui vẻ đón nhận sự khác biệt của người khác, và chấp nhận giới hạn của riêng bản thân mình. Đây là chìa khoá mở ra cho sự tương giao giữa Thiên Chúa với con người và thiên nhiên.

Khi tin vào lời phỉnh gạt của con rắn, con người vượt giới hạn và không muốn chấp nhận giới hạn của mình theo như lời Chúa đã khuyên bảo. Khi hái “trái cấm” mà ăn là họ khép lại cánh cửa mở ra cho sự sống. Lúc đó mắt họ mở ra và thấy mình trần truồng. Khi chưa phạm tội, họ trần truồng mà không thấy xấu hổ. Nhưng sau khi đã phạm tội, họ thấy mình trần truồng và đương nhiên kèm theo sự xấu hổ.

Thánh Gioan Kim Khẩu giải thích về sự xấu hổ: “Bao lâu tội và sự bất tuân chưa xảy ra, Nguyên Tổ được bao phủ bởi vinh quang bởi Trời Cao, bởi vậy, chưa có căn cớ để làm cho họ xấu hổ. Nhưng sau khi lỗi phạm lệnh cấm liền xảy đến cả hai sự: thấy mình trần truồng và xấu hổ”[15].

6. Bảo vệ sự thánh thiện của Vườn địa đàng

Như đã nói trong phần nhập đề, canh giữ Vườn địa đàng là gìn giữ, bảo vệ để đừng đánh mất nó vì tội lỗi. Đây là khía cạnh tiêu cực. Khía cạnh tích cực là gìn giữ nó trong sự thánh thiện: sự thánh thiện của nơi Thiên Chúa làm ngai ngự trị[16]. Trong Cựu Ước, ý niệm thánh thiện có tương quan với ý niệm tách biệt, dành riêng. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất, vì Người là Đấng tách biệt hoàn toàn ra khỏi mọi thụ tạo. Người là Đấng Toàn Năng sáng tạo vạn vật từ hư không. Không có thụ tạo nào có khả năng này. Việc tạo dựng là dành riêng cho Thiên Chúa. Thụ tạo chỉ là thánh khi tham dự vào tính chất thánh thiêng của Thiên Chúa, hay có sự hiện diện của Người. Chẳng hạn như đất mà ông Môse đặt chân đến, đất là thánh thiện vì có sự thần hiện của Thiên Chúa.

Theo một ý nghĩa nào đó, người ta có thể nói thế giới tạo thành là thánh thiêng. Bởi vì, nó nói lên quyền năng của Thiên Chúa. Trong Thông điệp Laudato Si’, Đức Giáo hoàng Phanxicô trích lại lời của Hội đồng Giám mục Brazin: “Thiên nhiên như là một tổng thể không những bày tỏ về Thiên Chúa mà còn là một ngai toà cho sự hiện diện của Ngài”[17]. Đức Giáo hoàng cũng trưng lời của thánh Tôma Aquinô nói về sự thánh thiêng của Thiên Chúa biểu lộ ra qua sự đa dạng của tạo vật, để “điều gì nơi một thụ tạo còn thiếu để bày tỏ sự thánh thiêng thì sẽ được bổ sung bởi một thụ tạo khác”[18]. Còn Linh mục Linh Xuân Vũ nêu lên sự “thánh thiêng”, tức là quyền năng của Thiên Chúa: “Vũ trụ này thật mênh mông đến chóng mặt, vì các nhà khoa học đã bình luận rằng: trong không gian có nhiều tinh tú hơn là tổng số những hạt cát của tất cả các bãi biển trên mặt địa cầu. Để đi đến ngôi sao gần chúng ta nhất, phải đi mất 4 năm và 80 ngày ánh sáng”[19]. Có những ngôi sao cách chúng ta hàng tỷ và có khi hàng chục tỷ năm ánh sáng. Còn “mỗi vật trong thiên nhiên đều là một tác phẩm của nghệ thuật thượng đẳng. Bạn có thể nói rằng mỗi vật ấy là một phép lạ. Quả đúng vậy, những văn sĩ, hoạ sĩ, thi sĩ đã từng cố gắng diễn đạt lại vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng những công trình nghệ thuật của họ so với ‘bản gốc’ chỉ như công việc thô tháp, vụng về của các em bé vườn trẻ khi đem so sánh với các công trình của bậc đại sư nghệ thuật”[20].

Thánh Bênađô, một nhà chiêm niệm cho rằng ngài học được nơi thiên nhiên nhiều hơn là nơi sách vở. Thomas Merton đã viết: “Thế giới thiên nhiên đã được ban cho loài người như là khung cửa sổ trong suốt, qua đó ánh quang của Thiên Chúa chiếu dọi vào trong linh hồn con người. Mặt trời và mặt trăng, ngày và đêm, mưa rơi, biển cả, mùa màng, cây lá trổ bông, tất cả những vật này đều trong suốt. Chúng nói với con người không phải về bản thân chúng nhưng là về Đấng đã sáng tạo nên chúng”[21].

Cũng trong Thông điệp Laudato Si’, việc gìn giữ sự thánh thiêng của thiên nhiên, không có gì khác hơn là tôn trọng mối tương quan giữa con người với môi trường, giữa con người với nhau và giữa con người với Thiên Chúa[22]. Con người hãy khiêm tốn trở về với vai trò của mình như là người cộng tác với Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, và không bao giờ đặt mình vào vị trí của Thiên Chúa, để kích động một cuộc nổi loạn của thiên nhiên[23].

Kết luận

Vườn địa đàng nguyên thuỷ đã bị đánh mất do tội lỗi của con người khi họ “ăn” trái cấm, có nghĩa là muốn chiếm lấy tất cả mọi sự để làm của riêng mình (St 3,6). Khi muốn có tất cả, họ đã đánh mất các mối tương quan hài hoà với Thiên Chúa, với nhau và với thiên nhiên. Từ đó những mối tương quan này mang tính chất bạo lực. Khi muốn có tất cả, con người mở cửa cho bạo lực, làm xói mòn sự hiệp nhất và hoà bình, vì đó là những yếu tố của Vườn địa đàng đích thực.

Khi chép lại câu chuyện này, chắc hẳn thánh ký không muốn làm cho con người thất vọng khi đánh mất Vườn địa đàng, nhưng chỉ muốn vạch mặt chỉ tên con đường dẫn đến sự chết và giới thiệu một con đường đưa đến sự sống. Con đường ấy là con đường hoán cải. Hoán cải là trở về với Thiên Chúa, hoà giải với thiên nhiên: “Hoà bình, công lý và sự bảo tồn tạo thành, là ba chủ đề tuyệt đối liên hệ với nhau… Nếu cuộc khủng hoảng sinh thái hiện nay là dấu hiệu bên ngoài của cuộc khủng hoảng đạo đức, văn hoá và tinh thần của thời hiện đại, thì chúng ta không thể giả vờ chữa lành mối tương quan với thiên nhiên và môi trường mà không chữa lành tất cả các mối tương quan nhân loại nền tảng”, hay nói khác đi: “Mối tương quan của chúng ta với môi trường không thể bị cô lập khỏi mối tương quan của chúng ta với những người khác và với Thiên Chúa”[24].

Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, trong bài giảng khai mạc sứ vụ thánh Phêrô, ngày 24.4.2005, đã nói: “Các sa mạc bên ngoài ngày càng nhiều, vì những sa mạc bên trong đã quá bao la”. Nói khác đi, con người ngày càng vô tâm với Thiên Chúa, tha nhân và thiên nhiên, nên càng ngày càng làm tổn hại cho Vườn địa đàng.

Ngôn sứ Isaia loan báo Thiên Chúa sẽ cứu độ trần gian bởi Hoàng Tử bình an. Vị Hoàng Tử ấy chính là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Khi Ngài trải qua sự chết, sống lại và được tôn vinh bên hữu Chúa Cha là lúc Thiên đàng bắt đầu mở cửa cho con người được vào, vì Đầu ở đâu thì các Chi thể ở đó[25].

Không riêng gì con người, toàn thể tạo vật cũng đang rên siết mong chờ ngày được giải thoát khỏi cảnh hư nát, mà cũng được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang (x. Rm 8,20-22).

Ngôn sứ Isaia diễn tả cảnh thái hoà thời cánh chung với những hình ảnh đầy thi vị:

“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.
Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau,
một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.

Bò cái kết thân cùng gấu cái,
con của chúng nằm chung một chỗ,
sư tử cũng ăn rơm như bò
[26].
Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục,
trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang.

Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá
trên khắp núi thánh của Ta,
vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này,
cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is
11,6-9).

Đây chính là ước vọng tìm lại khung cảnh an hòa của Vườn địa đàng nguyên thuỷ. Nhưng Hoàng Tử bình an muốn dạy con người đến thẳng Thiên đàng để họ hưởng hạnh phúc trọn vẹn trong sự kết hợp với Thiên Chúa và hoà bình với tha nhân.

Trở về mục lục


 

 

THỰC HÀNH LỜI CHÚA ĐỂ BẢO VỆ MÔI SINH

Giuse Phan Văn Phi

Thế giới đang đứng trước cuộc khủng hoảng môi trường sinh thái trầm trọng như hiện nay, câu hỏi được đặt ra rằng, tại sao “muôn loài thụ tạo cùng rên siết”? Trái đất có cảm thấy đau chăng? Nó có thể rên rỉ và than khóc với Chúa không? Trái đất có thể nguyền rủa loài người vì tội ác của loài người chúng ta hay không? Lời Chúa có liên hệ gì tới môi sinh? Giải pháp nào để cứu môi sinh đang bị tàn phá và bị hủy diệt? Chúng ta có thể tìm thấy nơi các trình thuật Kinh Thánh nói gì về mối tương quan giữa con người với thế giới? Trong cuộc tạo dựng đầu tiên trong sách Sáng Thế, kế hoạch của Thiên Chúa đã có việc tạo dựng con người. Sau khi tạo dựng nên người nam và người nữ, “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp’’ (St 1,31). Kinh Thánh dạy rằng, mọi người nam và nữ được dựng nên vì tình yêu và được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,26). Các trình thuật sáng tạo trong sách Sáng Thế cho thấy cuộc sống con người dựa trên ba mối tương quan căn bản có liên hệ mật thiết với nhau: tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân và tương quan với trái đất (một mối tương quan Thiên – địa – nhân thật tuyệt vời, bao gồm Thiên thời – địa lợi – nhân hòa). Chiều chiều, Thiên Chúa đi dạo cùng con người tại vườn Địa Đàng, một khung cảnh thật tuyệt vời biết bao! Thế nhưng, cũng theo Kinh Thánh, ba mối tương quan thiết yếu này đã bị phá vỡ, cả bên ngoài lẫn bên trong chúng ta. Sự tan vỡ này chính là tội lỗi. Sự hài hòa giữa Đấng Tạo Hóa, nhân loại và thụ tạo đã bị đoạn tuyệt do con người muốn chiếm lấy vị trí của Thiên Chúa và khước từ nhìn nhận những giới hạn thụ tạo của mình. Điều này còn bóp méo lệnh truyền “làm bá chủ” toàn thể trái đất (x. St 1,28), lệnh truyền “canh tác và gìn giữ trái đất” (St 2,15). Hậu quả là mối tương quan hoà hợp nguyên thủy giữa con người và thiên nhiên trở nên xung khắc (x. St 3,17-19)[27]. Nhân loại cần được giải thoát và cứu rỗi. Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng, chính thụ tạo rên siết trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con (x. Rm 8,19-22). Những lời đó vẫn là sự thật trong thế giới hôm nay. Thụ tạo rên siết. Nhân loại rên siết trông đợi tự do thực sự, chờ đợi một thế giới khác tốt đẹp hơn; “chờ đợi ơn cứu rỗi”[28].

1. Lời Chúa và việc bảo vệ môi sinh

Tông huấn Verbum Domini dạy rằng: “Việc dấn thân vào trong thế giới, mà Lời Chúa đòi hỏi, thúc đẩy chúng ta nhìn bằng cặp mắt mới toàn thể vũ trụ, được Thiên Chúa tạo thành và đã mang trong mình các dấu vết của Ngôi Lời, nhờ Người mà mọi sự đã được tạo thành (x. Ga 1,2). Quả vậy, trong tư cách là Kitô hữu và là sứ giả Tin Mừng, chúng ta có một trách nhiệm đối với mọi loài thụ tạo. Trái lại, sự kiêu căng ngạo mạn của những con người sống “như thể Thiên Chúa không hề hiện hữu”, thì đưa họ tới chỗ khai thác và làm méo mó gương mặt của thiên nhiên, do không nhìn nhận thiên nhiên là một công trình của Ngôi Lời tạo dựng”[29].

2. Tin mừng về sáng tạo

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đặt tiêu đề cho chương II của Thông điệp Laudato Si’ là “Tin mừng về sáng tạo”, được mở đầu bằng thuật trình của sách Sáng Thế và kết thúc bằng giáo huấn của Đức Kitô trong các sách Tin Mừng. Nhờ nối kết sách Tin Mừng với sách Sáng Thế, chúng ta thấy “mầu nhiệm Đức Kitô là ánh sáng quyết định soi tỏ mầu nhiệm tạo dựng”[30]. Chính thánh Phaolô cũng đã nhấn mạnh sự liên tục giữa Cựu Ước và Tân Ước: Tin Mừng là sự mặc khải mầu nhiệm được ẩn giấu từ muôn thuở, nhưng nay được tỏ hiện (x. Rm 16,25tt). Thực vậy, phải chờ đến lúc Đức Kitô xuất hiện, thì mầu nhiệm Thiên Chúa tạo thành mới được mặc khải trọn vẹn (x. Ga 1; Ep 1).

Các mặc khải của Cựu Ước về vũ trụ thiên nhiên được trở nên sáng tỏ dưới ánh sáng Tin Mừng, qua đó chúng ta có thể thấy rõ ràng chương trình sáng tạo và cứu độ thế giới đã, đang, và sẽ còn được thực hiện như thế nào, và mỗi người trên thế giới được mời gọi cộng tác vào chương trình ấy, qua việc bảo tồn, phát triển và hoàn thiện môi trường thiên nhiên. Ðức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta đọc lại các trình thuật Kinh Thánh, và trình bày một cái nhìn toàn diện đến từ truyền thống Do Thái giáo đến Kitô giáo, và nêu rõ “trách nhiệm lớn lao” của con người đối với thiên nhiên, mối liên hệ sâu sắc giữa tất cả mọi loài thụ tạo và sự kiện “môi sinh là một thiện ích chung, là gia sản của toàn thể nhân loại và là trách nhiệm của mọi người”.

Sách Sáng Thế tường thuật công trình tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày. Về công trình của mỗi ngày, Sách Thánh viết: “Và Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp” (St 1,4.10.12.18.21.25). Đặc biệt, ngày thứ sáu, sau khi tạo dựng con người, như tuyệt đỉnh của công trình tạo dựng vũ trụ, Sách Thánh viết: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp” (St 1,31). “Vẻ đẹp của công trình tạo dựng phản chiếu vẻ đẹp vô biên của Đấng Tạo Hóa”[31]. Đặc biệt, con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, nên sự tốt đẹp của họ trổi vượt hơn mọi loài thụ tạo khác.

3. Tội lỗi phá đổ môi sinh

“Sự hoà hợp giữa Đấng Tạo Hóa, nhân loại và tạo thành đã bị đoạn tuyệt do con người muốn chiếm lấy vị trí của Thiên Chúa và khước từ nhìn nhận những giới hạn thụ tạo của mình. Điều này còn bóp méo lệnh truyền ‘làm bá chủ’ toàn thể trái đất (x. St 1,28), lệnh truyền ‘canh tác và gìn giữ trái đất’ (St 2,15). Hậu quả là mối tương quan hài hòa nguyên thủy giữa con người và thiên nhiên trở nên xung đột (x. St 3,17-19)”[32].

Khi phạm tội bất tuân lệnh Chúa, nguyên tổ của nhân loại đã tự ý phá hủy trật tự giữa mình với Thiên Chúa, đó là sự lệ thuộc của thụ tạo đối với Đấng Tạo Hóa. “Do ma quỷ cám dỗ, con người đã muốn trở nên ‘như Thiên Chúa’ (St 3,5) mà không cần Thiên Chúa, vượt qua Thiên Chúa, và không tuân theo Thiên Chúa”[33]. Hậu quả là sau khi phạm tội, nguyên tổ đã đánh mất tương quan hài hòa với Thiên Chúa là sự thánh thiện nguyên thủy (x. Rm 3,23). Họ đâm ra sợ hãi Thiên Chúa và phải trốn tránh Người (x. St 3,8). Hình ảnh Thiên Chúa nơi họ cũng bị tội lỗi làm tổn thương và bắt đầu có sự rối loạn nơi chính bản thân mình: khả năng làm chủ chính mình trở nên yếu ớt (x. St 3,7). Từ đó con người đánh mất sự hài hòa trong tương quan với môi trường chung quanh bao gồm tương quan giữa người với người và với vũ trụ thiên nhiên: mối quan hệ giữa người nam và người nữ trở nên căng thẳng (x. St 3,11-13), bị đánh dấu bằng ham muốn và thống trị (x. St 3,16). Sự hài hòa giữa con người với công trình tạo dựng bị phá vỡ: thế giới hữu hình trở nên xa lạ và thù nghịch với con người (x. St 3,17.19). Do tội của con người mà muôn loài phải lệ thuộc vào cảnh hư nát (x. Rm 8,20)[34]. Trong Kinh Thánh: “Thiên Chúa giải thoát và cứu vớt cũng là Ðấng đã tạo dựng vũ trụ. Nơi Chúa, lòng quý mến và sức mạnh liên kết với nhau”[35]. Ở vị thế trung tâm là trình thuật về sự sáng tạo để suy tư về tương quan giữa con người và các loài thụ tạo khác, và cho thấy tội lỗi phá vỡ sự quân bình của toàn thể thiên nhiên nói chung: “Các trình thuật này gợi ý về “Cuộc sống con người dựa trên 3 tương quan căn bản có liên hệ mật thiết với nhau: tương quan Thiên – địa – nhân, nghĩa là tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân và tương quan với trái đất”. Sự liên đới giữa con người và các thụ tạo được thể hiện rõ nét qua thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma (8,19-22): “Vì tội lỗi, con người đã lôi kéo thụ tạo vào vòng nô lệ; chúng trông mong cho con người được cứu chuộc ngõ hầu chúng cũng được giải thoát”. Khi đọc lại trình thuật Kinh Thánh dưới hiện trạng môi trường sinh thái hiện tại, chúng ta thấy rằng tuy con người được Thiên Chúa đặt làm bá chủ mọi vật dưới đất và trên trời (St 1,28), nhưng Thiên Chúa cũng giao cho con người trọng trách chăm sóc và quản lý chúng (St 2,15).

Công trình tạo dựng chưa bao giờ là của riêng con người. Trái đất và muôn loài trong đó luôn thuộc về Thiên Chúa. “Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, vì mọi loài đều là của Chúa.” (Kn 11,26). Kể cả con người cũng là loài thụ tạo Thiên Chúa dựng nên một cách đặc biệt. Sau đó Thiên Chúa ưu ái trao ban cho con người quyền chăm sóc, bảo vệ và phát triển hành tinh này. Thiên Chúa đã yêu cầu chúng ta cai trị trái đất nhân danh Người (x. St 1,28). Trong khi “canh tác” có nghĩa là cày xới hoặc làm việc, “canh giữ” có nghĩa là bảo vệ và giữ gìn[36]. Phải nhìn nhận rằng nhiều ngàn năm trước, con người đã thành công thực thi sứ mạng này. Ngôi nhà trái đất thời ấy cứ tuần hoàn theo quy luật của đất trời. Tiếc là nhiều thập niên trở lại đây, chính con người đã tác động tệ hại đến mọi góc gách của hệ sinh thái. Vậy, hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Chúng ta chỉ là người quản trị chứ không phải ông chủ của trái đất[37].

4. Kế hoạch của Thiên Chúa phục hồi vạn vật

Đứng trước sự tàn phá vũ trụ thiên nhiên do tội lỗi của con người gây ra qua các thế hệ, Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc vũ trụ cho cảnh hư nát, một vũ trụ mà Người thấy là tốt đẹp và trật tự hài hòa như một tác phẩm nghệ thuật. Vì vậy, Người đã có kế hoạch phục hồi vạn vật trong chương trình cứu độ của Đức Kitô khi thời gian đến hồi viên mãn. Chương trình cứu độ của Đức Kitô không chỉ nhắm đến con người, mà còn nhắm đến toàn thể vũ trụ bị tội lỗi con người làm cho hư hỏng. Chương trình này đã được chuẩn bị từ trong thời Cựu Ước.

a. Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa

Đức trước sự sa ngã của nhân loại, Thiên Chúa quyết định mở ra một con đường cứu độ. Bằng cách này Người đã ban cho nhân loại cơ hội một khởi đầu mới. Điều cần là một người tốt lành để khôi phục niềm hy vọng được đặt vào Đấng Cứu Thế, tác giả của thế giới mới, cũng là Đấng Tạo Hóa thuở ban đầu. Đó là một Thiên Chúa toàn năng có khả năng tạo nên một sự đổi mới toàn diện. “Các bản văn của các ngôn sứ mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm sức mạnh đổi mới trong những lúc thử thách bằng việc chiêm ngắm Thiên Chúa toàn năng, Đấng dựng nên vũ hoàn”. “Thiên Chúa, Đấng tạo nên vũ trụ từ hư không cũng có thể can thiệp vào trong thế giới này và vượt thắng mọi hình thức sự dữ. Bất công không phải là bất khả chiến bại”[38].

b. Đức Kitô, Đấng Cứu Độ trần gian

Để tiên báo về thời kỳ Đấng Cứu Thế sẽ hoàn tất chương trình cứu độ loài người và phục hồi vạn vật, ngôn sứ Isaia đã mượn những hình ảnh của vườn địa đàng: “Từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non” (x. Is 11,1.6-9). Viễn tượng “tìm lại địa đàng đã mất” mà ngôn sứ Isaia tiên báo trên đây đã được thực hiện nơi Đức Kitô. “Định mệnh sau cùng của vũ trụ là ở trong sự viên mãn của Thiên Chúa, đã được Đức Kitô phục sinh đạt tới, Người là thước đo cho sự trưởng thành của tất cả mọi sự”[39]. Trước hết, qua mầu nhiệm Nhập thể, Ngôi Lời đã từ trời bước vào thế giới và mang lấy một thân xác được cấu tạo từ những chất liệu của vũ trụ, và trở thành một thành phần của vũ trụ. Người chính là Ngôi Lời đã tạo dựng thế giới, giờ đây Người trở thành xác phàm giữa lòng thế giới. “Theo sự hiểu biết Kitô giáo về thế giới, định mệnh của tất cả mọi loài thụ tạo được tháp nhập với mầu nhiệm Đức Kitô, ngay từ thuở ban đầu: ‘vì trong Người, muôn vật được tạo thành’ (Cl 1,16). Phần lời tựa của Tin Mừng Gioan (Ga 1,1-18) mặc khải công việc sáng tạo của Đức Kitô như là Ngôi Lời (Logos). Nhưng sau đó, lời tựa ấy bất ngờ nói cùng Lời ấy ‘đã trở thành xác phàm’ (Ga 1,14). Một Ngôi trong Ba Ngôi đi vào trong vũ trụ được tạo dựng, nhưng đặc biệt là ngang qua việc nhập thể, mầu nhiệm Đức Kitô đang hoạt động theo một cách kín ẩn trong toàn thể thế giới tự nhiên, mà không tác động đến tính tự chủ của nó”.

Sách Thánh Tân Ước không chỉ nói cho chúng ta về một Đức Giêsu lịch sử, mối tương quan cụ thể và yêu thương của Người với thế giới, mà còn cho thấy Người đã sống lại hiển vinh, Người hiện diện trong mọi thụ tạo với quyền Chủ Tể vũ hoàn: ‘Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá’ (Cl 1,19-20). Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, nơi Người và qua Người, tất cả được tạo thành. Tất cả được tạo dựng “nhờ Người và cho Người”, “tồn tại cho Người”. Mọi tạo vật có được một giá trị cao đẹp nhờ Đức Giêsu. Thụ tạo đó sẽ được “hòa giải, bình an”, nói chung là được cứu độ (x. Cl 1,15-20). Sự tạo thành này đã được Thiên Chúa tạo dựng và Người sẽ dẫn nó tới cứu độ. Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa sự tạo thành và cứu độ. Chính Đức Kitô đã tạo thành vũ trụ này, đồng thời Người cũng hòa giải vũ trụ này với Thiên Chúa Cha. Sự tạo thành và Cứu độ được thực hiện nhờ Đức Kitô, trong Đức Kitô, và với Đức Kitô. Như thế mối tương quan giữa Đức Kitô và vũ trụ này là mối tương quan tạo thành và cứu độ. Đạo lý về Ơn cứu độ chỉ có ý nghĩa trong quỹ đạo của đạo lý về tạo thành[40]. Điều này hướng tầm nhìn của chúng ta đến tận cùng của thời gian, khi Người Con sẽ trao hết mọi sự cho Chúa Cha, để “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1Cr 15,28). Các loài thụ tạo của thế giới này không còn xuất hiện trước mắt chúng ta dưới dáng vẻ thuần tuý tự nhiên nữa, vì Đấng phục sinh sẽ bao phủ chúng cách nhiệm mầu và hướng chúng đến sự viên mãn tận cùng. Những bông hoa ngoài đồng và những cánh chim trời mà Người đã chiêm ngắm giờ đây được mặc lấy sự hiện diện đầy vẻ uy linh của Người”[41].

Dưới một góc nhìn tương tự, Kinh Thánh bắt đầu bằng sách Sáng Thế và kết thúc bằng sách Khải Huyền. Cả hai đều liên quan đến vũ trụ tạo thành và Đức Kitô. Thật vậy, nếu trong phần đầu của sách Sáng Thế, toàn thể vũ trụ đã được tạo thành trong Đức Kitô, thì trong phần cuối của sách Khải Huyền, toàn thể vũ trụ cũng được tái tạo trong Đức Kitô, Người phán: “Này đây Ta đổi mới mọi sự… Ta là Alpha và Omega, là Khởi Nguyên và Tận Cùng” (Kh 21,5-6). 

c. Con người góp phần bảo vệ môi sinh

Trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô hoàn tất công trình phục hồi, canh tân vạn vật và làm cho chúng đạt đến sự viên mãn cuối cùng của “trời mới đất mới” để trao hết mọi sự cho Chúa Cha, thì con người được mời gọi tích cực cộng tác vào công trình ấy. Đối với vũ trụ, mặc khải khẳng định rằng nhân loại và vũ trụ vật chất có chung một vận mệnh sâu xa: “Muôn loài thụ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người… Vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát… Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng… khi trông đợi sự cứu chuộc thân xác chúng ta” (Rm 8,19-23)[42].

Chính vì thế, “con người được phú ban sự thông minh và tình yêu, được cuốn hút bởi sự viên mãn của Đức Kitô, được mời gọi để dẫn dắt mọi loài thụ tạo trở về với Đấng Tạo Hóa của chúng”[43]. Tuy nhiên, hơn ai hết, chính các Kitô hữu là những người đã được Đức Kitô trao cho sứ mạng ấy. Thật vậy, trước khi về trời, Đức Kitô đã nói với các tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo là gì nếu không phải là làm cho ơn cứu độ mà Đức Kitô đã thực hiện được thể hiện không những nơi con người, mà còn nơi toàn thể vũ trụ. Bởi lẽ nếu vì tội lỗi của con người mà muôn loài bị hư hoại, thì khi con người được cứu độ, toàn thể vũ trụ cũng được cứu độ.

Việc con người cộng tác vào công trình cứu độ của Đức Kitô để phục hồi vạn vật phải được thực hiện dưới ánh sáng Tin Mừng của Đức Kitô, tức là theo giáo huấn và mẫu gương đời sống của Người, như chúng ta đã đề cập trên đây. Cũng chính trong ánh sáng Tin Mừng đó các Kitô hữu đọc lại tường thuật về công trình sáng tạo của sách Sáng Thế, để nhận ra ý nghĩa của toàn bộ công trình tạo dựng cũng như của mỗi loài thụ tạo, tái khám phá vẻ đẹp và trật tự hài hòa mà Thiên Chúa đã thiết lập trong vũ trụ thiên nhiên để trân trọng, giữ gìn và phát triển. “Nếu chúng ta nhìn nhận giá trị và sự mong manh của thiên nhiên, cùng với những khả năng Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta, chúng ta có thể bỏ lại phía sau huyền thoại hiện đại về sự tiến bộ vật chất vô hạn. Một thế giới mong manh, được Thiên Chúa uỷ thác cho sự chăm sóc của con người, đang thách đố chúng ta phát minh ra những cách thế thông minh của việc định hướng, phát triển và giới hạn sức mạnh của chúng ta”[44]. Nhà sinh thái học Aldo Leopold đã từng nói: “Chúng ta đã lạm dụng đất đai vì coi đó như một sở hữu của mình. Nhưng khi chúng ta coi đất đai như là một nơi mà chúng ta thuộc về, lớn lên, và sinh sống, thì chúng ta sẽ sử dụng chúng với tình yêu và sự kính trọng”[45]. Điều này tạo nên một sự mất cân bằng sinh thái quan trọng nhất, bởi lẽ con người không phải là một thụ tạo tách biệt khỏi môi trường sinh thái, nhưng cũng là một phần của môi trường sinh thái. Do đó, “công việc của Hội Thánh không chỉ là tìm cách nhắc nhớ mọi người về nghĩa vụ chăm sóc thiên nhiên, mà “Hội Thánh trên hết phải bảo vệ nhân loại khỏi sự tự huỷ diệt”[46].

Tóm lại, môi sinh là một tổng thể bao gồm không chỉ các mối tương quan giữa các loài vật với nhau, mà còn những mối tương quan giữa chúng với con người và giữa con người với nhau. “Khi tâm hồn chúng ta mở ra cách đúng đắn cho sự hiệp thông hoàn vũ, cảm thức về tình huynh đệ này không loại trừ điều gì và bất cứ một ai. Sự thờ ơ hay sự tàn bạo của chúng ta đối với các thụ tạo của thế giới này sớm muộn gì cũng ảnh hưởng đến cách hành xử của chúng ta với những anh em đồng loại khác. Chúng ta chỉ có một trái tim, và cùng một nỗi khốn khổ làm chúng ta đối xử tệ bạc với một động vật không bao lâu sẽ thể hiện trong cách đối xử của chúng ta với người khác. Mọi hành vi tàn bạo hướng đến bất kì một thụ tạo nào đều “trái với phẩm giá con người”[47]. Thật khó chấp nhận rằng chúng ta đang yêu thương một cách trọn vẹn nếu chúng ta coi thường bất kỳ một khía cạnh nào của thực tại: “Hòa bình, công lý và sự bảo tồn tạo thành là ba chủ đề tuyệt đối liên hệ với nhau, không thể tách lìa và suy xét cách cá biệt mà không một lần nữa rơi vào chủ nghĩa giản lược”[48].

Phần kết

Theo Sách Thánh, toàn thể vũ trụ được tạo thành do Đấng Sáng Tạo toàn năng và tốt lành. Do đó, vũ trụ thiên nhiên là tác phẩm tuyệt vời của Thiên Chúa vì phản ánh sự tốt lành và khôn ngoan của Người. “Một nền linh đạo lãng quên Thiên Chúa là Đấng toàn năng và là Đấng Sáng Tạo thì không thể chấp nhận được. Kết cục của nó sẽ là tôn thờ các quyền lực trần thế, hay chính bản thân chúng ta chiếm đoạt vị thế của Thiên Chúa, thậm chí đến mức công bố một quyền vô hạn để chà đạp lên công trình tạo dựng của Người. Cách tốt nhất để khôi phục người nam và người nữ về đúng vị trí của họ, là đặt dấu chấm hết cho sự công bố quyền thống trị tuyệt đối trên trái đất, là công bố thêm một lần nữa về hình tượng của Người Cha – Đấng Tạo Hóa và chỉ mình Người làm chủ thế giới này”[49]. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi một cuộc “hoán cải môi sinh”. Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, một lần nữa xác nhận tuyên bố này trong phát biểu nhân Ngày Thế giới Hòa bình 2010: “Nếu bạn muốn vun đắp cho hòa bình thì hãy bảo vệ công trình tạo dựng.” Điều này đưa chúng ta đến chiều kích sâu xa hơn của những tương quan nơi công trình tạo dựng chứ không chỉ đơn giản là những bận tâm về sinh thái mà thôi. Khi kinh nghiệm công trình tạo dựng như là nền tảng hỗ trợ và ca ngợi sự sống, chúng ta nhận ra rằng, công trình tạo dựng là một quà tặng đang diễn tiến trong những mối tương quan Thiên – địa – nhân, tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa và với tha nhân. Hoạt động sáng tạo nguyên thủy của Thiên Chúa đã thiết lập mọi sự tốt lành, và trong giao ước ký kết giữa chúng ta với Thiên Chúa như những người đồng sáng tạo, chúng ta tiếp tục duy trì sự sống này. Đức Kitô – công trình tạo dựng mới – đã hứa rằng, Người hằng ở cùng chúng ta cho đến tận thế, tìm kiếm thiết lập triều đại hòa bình của Thiên Chúa trên mặt đất, và ban ơn cứu độ cho cả công trình tạo dựng. Chúng ta cần tham gia vào hoạt động sáng tạo đang tiếp diễn này của Thiên Chúa[50]. Nhận thức rằng toàn thể vũ trụ được sáng tạo bởi Ngôi Lời (x. Ga 1,2), chúng ta ý thức trách nhiệm đối với mọi loài thụ tạo, không phải là một khối vật chất tự nhiên để khai thác bừa bãi. Như thế, “việc đón nhận Lời Chúa, như được Kinh Thánh và Thánh Truyền soi dẫn, phải khơi lên trong chúng ta một cái nhìn mới mẻ về sự vật, thúc đẩy chúng ta phát huy một môi trường sinh thái xác thực, là bén rễ sâu vào việc tuân phục đức tin[51]. Quả thật, thực hành Lời Chúa chính là bảo vệ môi sinh cách hữu hiệu nhất theo thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa từ ngàn xưa.

 Trở về mục lục


 

 

GIÚP ĐỌC THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

Leonardo Nguyễn Thế Mạnh

“Laudato sí, mí Signore” (Lạy Chúa của con, chúc tụng Chúa). Đó chính là lời cầu nguyện của thánh Phanxicô Assisi. Trong bài thánh ca này, thánh nhân nhắc cho chúng ta rằng, trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta và trái đất như người chị, người mẹ đang nâng đỡ, ôm ấp và mang lại cho chúng ta hoa trái cũng như cây cỏ xanh tươi. Hiện nay, trái đất đang phải đối mặt với việc cướp phá, ngược đãi, bóc lột và nó đã gióng lên những tiếng than trách, hòa với tiếng rên xiết của biết bao con người bị loại bỏ trên thế giới này. Thông điệp Laudato Si’ chính là lời kêu gọi bảo vệ ngôi nhà chung, đồng thời sống hòa hợp với công trình sáng tạo của Thiên Chúa và với chính mình, mà Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn gửi đến cho từng người trên thế giới này.

Thông điệp Laudato Si’ gồm 246 số, chia thành 6 chương, các chương của Thông điệp được liên kết với nhau theo một tiến trình: chương 1: Đức Giáo hoàng Phanxicô nêu lên những vấn đề nghiêm trọng đang xảy ra lúc này: cuộc khủng hoảng môi sinh; chương 2: nói lên mối liên hệ giữa con người và thế giới; chương 3: là một bản phân tích những căn nguyên về tình hình khủng hoảng môi sinh hiện nay; chương 4: nói lên chủ trương của thông điệp với đề nghị phát triển một nền sinh thái học toàn diện; chương 5: đưa ra một đường hướng tiếp cận và hành động; và cuối cùng là chương 6: nói về giáo dục và linh đạo sinh thái. 

Chương 1: Điều đang diễn ra cho ngôi nhà của chúng ta

Đức Giáo hoàng Phanxicô nêu ra những vấn đề khác nhau về khủng hoảng môi sinh mà con người đang đối diện: sự ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, ô nhiễm nguồn nước, mất sự đa dạng sinh học và bất bình đẳng.

– Ô nhiễm môi trường: Hằng ngày con người vẫn tung vào không khí những chất gây hại cho chính mình qua việc sử dụng chất đốt, các hóa chất nông nghiệp độc hại (20).

– Sự ô nhiễm rác thải: “Ngôi nhà trái đất của chúng ta, ngày càng trở nên một bãi rác khổng lồ” (21). Nguyên nhân của vấn đề này nằm ở văn hóa loại bỏ đang ảnh hưởng đến người bị loại trừ khi nó nhanh chóng giảm thiểu mọi thứ thành rác rưởi. Trong khi các loài động vật và thực vật có thể hỗ tương lẫn nhau trong hệ thống sinh thái: cây cỏ tổng hợp những chất lương thực cho loài ăn thịt, loài ăn thịt lại sản xuất ra cặn bã hữu cơ nhằm giúp cho cây cỏ lớn lên. Ngược lại, hệ thống công nghiệp lại không có khả năng tái tạo lại những cặn bã, rác thải vào cuối chu kỳ sản xuất (22).

– Biến đổi khí hậu: Khí hậu là tài sản chung của nhân loại, nó gắn liền với sự sống của con người (23). Trong những thập niên gần đây, khí hậu của chúng ta đang bị đun nóng. Theo các tham luận khoa học, việc khí hậu bị nóng lên này bắt nguồn từ những hoạt động của con người thải ra (23). Hậu quả của vấn đền biến đổi khí hậu là sự di tản của thú vật, cây cối và thậm chí cả con người nữa (25)

– Nước uống:  Nước uống là đề tài chính được Đức Giáo hoàng Phanxicô đặc biệt quan tâm trong chương 1 này: “Nước sạch là vấn đề mang ý nghĩa hàng đầu, vì đó là điều tất yếu cho đời sống con người và gìn giữ hệ sinh thái của trái đất và nước” (28). Vì thế, “tiếp cận nước uống được bảo đảm là quyền nền tảng và phổ quát của con người, vì nó giúp cho con người được tồn tại và đó là điều tất yếu cho việc thực hiện quyền con người’’ (30). Nhưng trong thực tế, nhiều nơi vẫn còn thiếu nước, nhiều người nghèo không được tiếp cận với nguồn nước sạch, đặc biệt tại Châu Phi. Vì thế, ngài khẳng định: “Thế giới của chúng ta đang mang một món nợ xã hội lớn đối với người nghèo là những người đang thiếu nguồn nước uống, vì họ bị khước từ quyền được sống nhất quán với phẩm giá bất khả xâm phạm của họ” (30).

– Sự đa dạng sinh học: Mỗi giống loại trên thế giới đều mang một ý nghĩa và đóng một vai trò riêng, chúng là tài nguyên hữu ích và chứa đựng những giá trị đặc thù, đặc biệt chúng làm tôn vinh sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng, “mỗi năm mất đi hàng nghìn loại cây cối và thú vật, mà chúng ta không còn khả năng nhận ra, cả con cái của chúng ta cũng chưa thấy được, hoàn toàn mất đi vĩnh viễn” (33). Chúng mất đi, vì lỗi lầm của chúng ta (33).

– Sự bất bình đẳng: Sự hủy hoại môi trường và xã hội gây tác hại cách đặc biệt cho những  người nghèo, những người bị xã hội loại trừ (48). Nhưng khi đi vào nghiên cứu, người ta lại xem những vấn đề của những người bị xã hội loại trừ như một thứ phụ lục, bên lề (49). Đây chính là sự bất bình đẳng và nó không chỉ ảnh hưởng đến từng cá nhân nhưng trọn cả đất nước (51). Đức Giáo hoàng Phanxicô gọi đây là “món nợ môi sinh”, mà các nước giàu nợ những nước nghèo. Để giải quyết món nợ này, ngài đề nghị các nước giàu phải ngưng mọi hoạt động của họ và rút khỏi các nước nghèo” (51), và giới hạn việc sử dụng năng lượng không thể tái hồi và phải cứu trợ cho những nước cần thiết, để nâng đỡ hệ thống chính trị và những chương trình giúp họ phát triển lâu dài” (52).

Nhưng trong thực tế lại cho thấy sự yếu kém về phản ứng chính trị toàn cầu và sự thất bại của cả thế giới về vấn đề môi trường. Người ta chú tâm quá nhiều vào lợi ích kinh tế riêng tư, để rồi đưa ra những tuyên bố hời hợt với vài hành động đơn độc giả hình (54).

Chương 2: Tin mừng về sự sáng tạo

Để giải quyết những khủng hoảng về môi trường đã được nêu ra trong chương 1, Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi mọi người đọc lại các trình thuật Kinh Thánh về sáng tạo trong sách Sáng Thế: Trình thuật này muốn nói, hiện sinh con người dựa trên ba sự liên hệ căn bản: liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân và trái đất. Ba liên hệ này bị phá vỡ không những bên ngoài mà ngay cả bên trong, do tội lỗi của con người, khi con người muốn thay thế vị trí của Thiên Chúa (66).

Con người được Thiên Chúa dựng nên để cai quản, xây dựng và chở che trái đất, nhưng con người đã làm sai lệnh Thiên Chúa và hậu quả là sự hòa hợp ban đầu giữa con người và thiên nhiên bị xung khắc. Con người không phải là Thiên Chúa và con người không có quyền “thống trị” trái đất (67).

Khi ý thức được giới hạn và trách nhiệm của mình, chúng ta đồng thời được mời gọi để nhận biết, các sinh vật khác cũng có những giá trị trước mặt Thiên Chúa (69) và có ý nghĩa riêng của chúng (76). Hơn nữa, chính Thiên Chúa hiện diện trong thâm sâu vạn vật (80). Vì thế, qua vũ trụ vật chất mà chúng ta nhận ra dấu chỉ tình thương và sự âu yếm vô tận của Thiên Chúa (84). Và “khi chúng ta ý thức, tất cả những gì hiện hữu đều phản ánh Thiên Chúa, chúng ta sẽ thay cho tất cả các thụ tạo và cùng với chúng tôn thờ Thiên Chúa” (87).  Tôn thờ Thiên Chúa là xác tín rằng, Thiên Chúa là Cha sáng tạo nên các thụ tạo trong vũ trụ và liên kết chúng lại với nhau bằng một mối dây vô hình để tất cả tạo nên một gia đình (89).

Chúng ta không thể nào cảm nghiệm được sự liên kết mật thiết mà Thiên Chúa đã liên kết các thụ tạo lại với nhau nếu tự trong thâm tâm chúng ta không có một sự trìu mến, cảm thông và một sự lo lắng cho con người (91). Một khi trái tim đã mở ra cho cả cộng đoàn toàn cầu thì không có ai bị loại ra khỏi tình huynh đệ (92) và như vậy sẽ không còn sự dửng dưng hay độc ác với các tạo vật khác.

Chương 3: Nguồn gốc nhân bản của cuộc khủng hoảng sinh thái

Trong chương 1, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã cho thấy những hiện tượng của cuộc khủng hoảng sinh thái, nhưng sẽ chẳng có ích lợi gì nếu chỉ diễn tả các hiện tượng của cơn khủng hoảng sinh thái này mà không nhận thức được nguyên nhân sâu xa của nó (101). Vì thế, ngài đã dành chương 3 để phân tích những vấn đề, với hy vọng tìm ra nguyên nhân cốt yếu gây ra cuộc khủng hoảng sinh thái. Ngài định hướng vấn đề này trước tiên qua việc phân tích về những thành quả cũng như những mặt trái mà khoa học kỹ thuật mang lại cho con người.

Sức mạnh của kỹ thuật đã đưa nhân loại bước vào một thời kỳ mới với sự phát triển của y khoa, tin học, kỹ nghệ sinh học (102). Khoa học kỹ thuật phát triển đã giúp cuộc sống của con người trở nên tốt đẹp hơn nhưng nó cũng trao vào tay con người một quyền lực khủng khiếp như: năng lượng hạt nhân, công nghệ sinh học mà không ai bảo đảm rằng con người sẽ sử dụng chúng cách đúng đắn (104), bởi vì con người thời nay đã không được giáo dục để sử dụng quyền lực thật đúng đắn (105).

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chỉ trích về vấn đề ‘toàn cầu hóa của sự thực dụng kỹ thuật”, bởi vì chúng hướng đến việc thống trị kinh tế và chính trị. Trong khi đó nhiều người cho rằng kinh tế và kỹ thuật có thể giải quyết được vấn đề môi trường và nghèo đói bằng việc phát triển thị trường (109). Tuy nhiên, chủ trương thống trị thế giới bằng khoa học kỹ thuật chỉ nhằm mục đích tuyệt đối hóa thu nhập của một số người mà quên đi trách nhiệm của họ đối với môi trường và quyền lợi của thế hệ tương lai.

Mặc dầu một số người có xu hướng thống trị chính trị và kinh tế bằng sự thực dụng hóa công nghệ và kỹ thuật, nhưng với sự tự do, con người có thể tự chọn lựa và đặt ra ranh giới cho kỹ thuật, định hướng để nó phục vụ con người cách nhân bản hơn. Người ta có thể thoát ra khỏi sự thống trị thực dụng hóa kỹ thuật bằng sử dụng những hệ thống sản xuất ít ô nhiễm, giúp đỡ lẫn nhau để sống xứng đáng và ít đau khổ hơn.

Bên cạnh đó, Đức Phanxicô còn nêu ra một chủ trương như là nguồn gốc của cuộc khủng hoảng môi sinh. Đó là thuyết “nhân bản tân tiến” (Anthropocentrismus modernus). Chủ thuyết này đặt con người lên vị thế tối ưu trong vũ trụ và quy hướng tất cả về con người một cách thái quá. Con người không còn biết vị trí đích thực của mình cũng như giá trị của những người khác (115). Khi con người không nhận ra được giá trị của người khác thì con người cũng khó có thể nghe được tiếng gào thét của thiên nhiên (117). Và “hoàn cảnh này đưa chúng ta vào một thứ thần kinh phân liệt triền miên, chỉ biết tôn vinh kỹ thuật mà không nhận ra giá trị của những sinh vật khác (118).

Đức Giáo hoàng Phanxicô cho thấy hậu quả của thuyết nhân bản tân tiến là một cách sống sai lạc. Điều đó được thể hiện qua thuyết tương đối thực hành (Relativismus practicus). Khi cho rằng tất cả chỉ là tương đối, nếu như không trực tiếp phục vụ cho lợi ích cá nhân (122). Như vậy, “Văn hóa của thuyết tương đối cũng là bệnh hoạn, đẩy con người đến việc lợi dụng kẻ khác và xử sự người đó như chỉ là đối tượng, buộc họ phải thực hiện các lao động khổ sai hay vì mang nợ mà trở thành một người nô lệ. Đó cũng là lối suy nghĩ đưa đến việc hiếp dâm trẻ em hay bỏ rơi người già lão, nếu không phục vụ được lợi ích của mình” (123).

Ngoài những phê phán về hai chủ thuyết “nhân bản tân tiến” và thuyết “tương đối thực hành”, Đức Giáo hoàng Phanxicô còn cho thấy giá trị và sự cần thiết của việc làm: “Trong bất cứ tiếp cận một môi sinh học trọn vẹn, không có thể loại con người ra được, tất yếu phải hội nhập giá trị của lao động” (124), vì “lao động là một điều cần thiết, là một phần ý nghĩa của cuộc sống trên trái đất này, con đường đi đến trưởng thành, phát triển con người và hiện thực cá nhân mình” (128).

Một đề tài khác cũng được quan tâm trong chương 3 này, đó là vấn đề chuyển đổi gen (GMO) nơi cây trồng và vật nuôi trong sản xuất: những người sản xuất nhỏ dần dần biến mất, hậu quả là mất đất, những người yếu sẽ trở thành nhân công tạm thời, nhiều nông dân phải đồn trú vào những khu nghèo trong thành phố (134).

Chương 4: Sinh thái học toàn diện

Sau khi đã trình bày và tìm hiểu về các nguyên nhân dẫn đến tình trạng khủng hoảng sinh thái, ở trong chương 4 này, Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn tất cả mọi người phải dừng lại để xem xét lại một số yếu tố sinh thái học toàn diện.

– Sinh thái học môi trường, kinh tế và xã hội: Khi nói đến “môi trường”, người ta nói đến sự liên hệ giữa thiên nhiên và xã hội đang hiện diện. Nhiều người cho rằng thiên nhiên và xã hội tách biệt nhau. Nhưng thực tế thì “thiên nhiên không phải là cái gì đó tách biệt khỏi chúng ta hay như một khung cảnh của cuộc sống, nhưng chúng ta là một phần của nó và cùng sống với nó qua việc thông hiệp hỗ tương với nhau (139). Như vậy, có thể nói được rằng, những gì xảy ra cho xã hội thì đều ảnh hưởng tới môi trường. Vì thế, chúng ta đang đối diện với không phải hai cuộc khủng hoảng riêng biệt về môi trường và xã hội, nhưng đối diện với một cuộc khủng hoảng duy nhất cả về xã hội lẫn môi trường (139).

Con đường để giải quyết cuộc khủng hoảng xã hội – môi trường này đòi hỏi một lối đi trọn vẹn để chống lại đói nghèo, khôi phục phẩm giá cho con người bị loại trừ và đồng thời bảo vệ thiên nhiên.

– Môi sinh học văn hóa: Lịch sử, văn hóa, nghệ thuật là một phần gia sản của nhân loại, nhưng những gia sản này đang bị đe dọa và có nguy cơ mất đi, nhất là các nền văn hóa địa phương. Vì thế, sinh thái học cũng phải chú tâm đến việc bảo vệ các kho tàng văn hóa của nhân loại theo nghĩa rộng nhất (143).

– Môi sinh học của đời sống hàng ngày: Môi sinh học toàn diện bao trùm tất cả sinh hoạt thường nhật của con người, bởi vì những bối cảnh sinh sống ảnh hưởng đến cách cảm nghĩ, cảm nhận và hành động của chúng ta. Mặc dầu môi trường sống đang bị mất dần sự trật tự của nó, nhưng thật đáng khen vì có một số người đã biết định hướng cuộc sống giữa những ngổn ngang, bất ổn.

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã dành những lời khen cho một số người nghèo ở những khu dân cư đông đúc, bởi vì họ đã đánh tan đi những cảm giác ngột ngạt bằng việc phát triển các mối tương quan gần gũi và ấm áp trong cộng đồng (148).

“Thiện ích chung” là  điểm được Đức Giáo hoàng nhấn mạnh trong chương 4 khi nói: “Môi sinh học nhân bản không thể tách rời với khái niệm về ‘thiện ích chung’, một nguyên tắc giữ vài trò trung tâm và kết hợp trong đạo đức xã hội” (156).

“Thiện ích chung xuất phát từ sự tôn trọng con người như là điều xuất phát từ các lề luật nền tảng và bất biến” (158). Hiện nay có rất nhiều sự bất bình đẳng trong xã hội toàn cầu, vì thế, “thiện ích chung” trở nên như một mệnh lệnh và chọn lựa ưu tiên cho người nghèo (158). Ngoài ra, ‘thiện ích chung” còn nhắm tới các thế hệ tương lai. Đức Giáo hoàng nhấn mạnh: “Nếu không có sự liên đới giữa các thế hệ, thì không thể nào nói đến việc phát triển lâu dài” (159). Vì thế, ngài muốn mọi người hãy suy xét về câu hỏi: chúng ta muốn trao lại một thế giới như thế nào cho những người đến sau, cho con em của chúng ta?

Chương 5: Vài nét cho định hướng và hoạt động

Nhằm giúp nhân loại bước ra khỏi vòng xoáy của việc tự diệt, Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn đưa ra một vài nét để định hướng và hoạt động qua con đường đối thoại.

– Đối thoại về môi trường trong cộng đồng quốc tế: Hơn bao giờ hết, chúng ta đang sống trong một thế giới mà sự phụ thuộc lẫn nhau quá nhiều. “Sự phụ thuộc lẫn nhau buộc chúng ta phải suy nghĩ về một thế giới với một kế hoạch chung” (164), nhưng để có một kế hoạch chung, cần có một sự đồng thuận toàn cầu. Thực ra, cũng đã có rất nhiều cuộc tranh luận công khai về vấn đề môi trường nhưng nó lại không đáp ứng được nguyện vọng, vì thiếu quyết định chính trị, nên không đạt được thỏa thuận có ý nghĩa, có thể đem lại nhiều hiệu quả về môi trường (165-166). Theo Đức Giáo hoàng Phanxicô, để có thể giải quyết được những vấn đề này, cần phải phát huy những cơ quan quốc tế vừa mạnh mẽ vừa có hiệu lực và có quyền thưởng phạt (175).

– Cuộc đối thoại về quan niệm chính trị mới thuộc quốc gia và địa phương: Đứng trước nguy cơ con người sử dụng vô trách nhiệm các năng lực của mình, phận vụ của mỗi nhà nước là phải đưa ra những chương trình cho chính địa phương mình, phối hợp, kiểm soát và xử phạt (177). Bên cạnh đó, quốc gia cũng cần phải loại bỏ những chính sách chỉ quan tâm đến kết quả trước mắt. Nếu một xã hội mà pháp luật không đủ mạnh để loại sự huỷ hoại, thì cần có những áp lực chính trị đến từ quần chúng, hoặc ngang qua các tổ chức phi chính phủ và các nhóm trung gian để gây áp lực lên chính quyền, buộc chính quyền phải triển khai các luật lệ, thủ tục (179).

– Đối thoại và minh bạch trong các quyết định: Mở đầu về vấn đề đối thoại trong các tiến trình quyết định, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh, việc đánh giá tác động môi trường của các doanh nghiệp và dự án đòi hỏi những tiến trình chính trị minh bạch có sự tự do trao đổi quan điểm, bởi vì nạn tham ô che đẩy ảnh hưởng thực sự của các dự án đối với môi trường (182). Việc đánh giá tác động của các doanh nghiệp và dự án trên môi trường, nó đòi hỏi phải được thực hiện ngay từ đầu và được thực hiện liên ngành với một sự minh bạch và độc lập khỏi mọi áp lực kinh tế và chính trị. Mặt khác, dân cư địa phương phải có một chỗ đặc biệt trên bàn thảo luận và họ phải được cung cấp đầy đủ những thông tin về dự án, các rủi ro cũng như những cơ may (183).

– Chính trị và kinh tế trong cuộc đối thoại cho việc phát triển con người toàn diện: Việc phát triển thiện ích chung của con người phụ thuộc vào chính trị và kinh tế, nhưng chính trị và kinh tế phải có chỗ đứng riêng của mình. “Chính trị không được phụ thuộc vào kinh tế và kinh tế cũng không được phép phục tùng chế độc độc tài và thực dụng” (189). Theo Đức Giáo hoàng Phanxicô, cả chính trị và kinh tế đều phải nhắm đến mục đích chung là phục vụ sự sống, đặc biệt là sự sống của con người, bởi vì “một sự phát triển về công nghệ và kinh tế không để lại cho tương lai một thế giới tốt đẹp và chất lượng sống toàn diện hơn thì không được coi là sự tiến bộ”(194). Còn về chính trị, theo Đức Giáo hoàng Phanxicô, “chính trị phải có một tầm nhìn xa, nâng đỡ một quyết tâm mới và trọn vẹn, khi đón nhận các phương diện khác nhau của cuộc khủng hoảng trong cuộc đối thoại liên khoa học” (197).

– Các tôn giáo trong cuộc đối thoại với các khoa học: Phần cuối cùng của chương 5 là cuộc đối thoại giữa các tôn giáo và khoa học, bởi vì phần đông dân chúng trên hành tinh này là các tín hữu. Bên cạnh đó, khoa học thực nghiệm không thể giải thích đầy đủ về sự sống, cơ cấu các tạo vật và sự toàn vẹn của các thực tại (199). Đó chính là lý do mà tôn giáo phải bước vào cuộc đối thoại với nhau và với các nhà khoa học, để tìm ra con đường hoà giải với thiên nhiên, bảo vệ người nghèo và xây dựng một mạng lưới tôn trọng và huynh đệ (201).

Chương 6: Giáo dục và linh đạo môi sinh

Trong chương này, Đức Giáo hoàng Phanxicô nêu lên tầm quan trọng của vấn đề giáo dục và linh đạo về môi sinh để hướng nhân loại đến một lối sống tràn đầy niềm vui, bình an và tình yêu trên mọi bình diện của cuộc sống.

Để có thể hướng tới một lối sống mới, con người cần phải ý thức về nguồn gốc chung, một sự phụ thuộc lẫu nhau cách hỗ tương và một tương lại được chia sẻ cho mọi người (202).

Hiện tại, con người đang sống trong một cảm giác thiếu xác tín và bất an, đưa đến những hình thức tự kỷ tập thể với một con tim trống rỗng và rồi họ tìm cách lấp đầy nó (204). Dầu vậy, vẫn còn niềm hy vọng, bởi vì con người có thể tự cải hoá mình cho tốt hơn và loại bỏ những điều kiện tinh thần và xã hội đang đè nén họ. Đặc biệt, con người luôn có khả năng bước ra khỏi chính mình để đến với người khác (205-208). Mặc dầu con người có khả năng vượt qua những khó khăn, nhưng thế giới vẫn đang đối diện với một thách đố về giáo dục, bởi vì nhiều người không muốn thay đổi những thói quen cũ về tiêu thụ. Hơn bao giờ hết, thế giới đang “cần đến những nhà giáo dục có khả năng phát triển nền đạo đức sinh thái, giúp mọi người trưởng thành trong tình liên đới, tinh thần trách nhiệm và sự quan tâm đầy lòng trắc ẩn” (210).

Vậy việc giáo dục về môi trường thực hiện ở đâu? Đức Giáo hoàng Phanxicô nói rõ việc giáo dục về sinh thái có thể diễn ra ở nhiều nơi, nhiều hoàn cảnh khác nhau như: ở trường học, trong gia đình, trên truyền thông, được thể hiện với lòng biết ơn, biết nhận lỗi, sự quan tâm tới môi trường và nhu cầu của người nghèo (213). Ngài còn hy vọng rằng: “các chủng viện, các nơi đào tạo của các dòng tu, người ta giáo dục một đời sống khắc khổ có trách nhiệm, một sự chiêm ngắm với lòng biết ơn cả thế giới và  chú tâm đến những sự yếu đuối của người nghèo và của môi trường (214)”.

Cách riêng đối với Kitô hữu, Đức Giáo hoàng Phanxicô đề nghị một vài điểm của nền linh đạo sinh thái dựa trên niềm tin.

Phải luôn trân trọng những kho tàng thiêng liêng được Thiên Chúa ban cho Hội Thánh, trong đó đời sống tinh thần không tách lìa khỏi thân xác, khỏi thiên nhiên hay những thực tại thế giới, nhưng sống cùng và sống với trong sự hiệp thông với tất cả mọi sự chung quanh chúng ta. Phải sống ơn gọi làm người bảo vệ công trình tay Chúa dựng nên là yếu tố thiết yếu của đời sống nhân đức (217).

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nêu lên mẫu gương của thánh Phaxico Assisi để đề nghị một liên hệ lành mạnh với sáng tạo như chiều kích sám hối trọn vẹn của con người (218). Việc sám hối này bao gồm nhiều thái độ để có thể cùng nhau nuôi dưỡng tinh thần chăm sóc đại lượng, dịu dàng và nhận biết rằng thế giới là quà tặng yêu thương của Thiên Chúa (220).

Ngoài ra, linh đạo Kitô giáo cũng đề xuất một cái nhìn khác về phẩm chất cuộc sống và khích lệ một lối sống ngôn sứ và chiêm niệm, có khả năng vui hưởng cách sâu xa sự tự do thoát khỏi nỗi ám ảnh về tiêu thụ. Linh đạo Kitô giáo cũng đề nghị một sự phát triển nhờ điều độ và một khả năng vui hưởng với những điều nhỏ bé (222). Theo Đức Giáo hoàng Phanxicô, “sự điều độ, nếu được sống với tự do và ý thức, sẽ mang lại tính chất giải phóng” (223). Nhưng, không ai có thể xây dựng một đời sống tiết độ và vui tươi mà không bình an với chính mình. Sự bình an nội tâm có liên hệ mật thiết với việc chăm sóc sinh thái và thiện ích chung (225).

Cuối cùng, Đức Giáo hoàng quy hướng về Ba Ngôi Thiên Chúa: “Tất cả đều liên kết với nhau, và điều này mời gọi chúng ta sống một linh đạo tình liên đới với mọi thụ tạo, xuất phát từ mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa” (240). Ngài đã kết lại Thông điệp với hai lời kinh: Lời cầu nguyện cho trái đất chúng ta, và lời cầu nguyện của Kitô hữu trong sự hiệp nhất với thụ tạo.

Trở về mục lục


 

 

 

MÔI TRƯỜNG ĐAN VIỆN THEO THÁNH BIỂN ĐỨC

Sr M. Vinh Sơn

Nói đến đan viện là nói đến một nơi tĩnh lặng, một nơi chốn đặc biệt, trong đó Thiên Chúa nói với con người. Ở đó, chúng ta tìm thấy nội vi đan viện, bởi vì là một nơi được đóng kín, nhưng lại mở ra tới Thiên Đàng. Chính vì vậy, chúng ta thấy các đan viện thường được thiết lập ở những nơi đồng quê, thung lũng hay trên núi đồi. Bởi những nơi ấy kết hợp được hai yếu tố rất quan trọng cho đời sống chiêm niệm: Thứ nhất, vẻ đẹp của thiên nhiên là những nơi giúp các đan sĩ dễ dàng gặp gỡ ra Thiên Chúa. Thứ hai, sự thinh lặng được đảm bảo bằng nơi thanh vắng và xa phố thị ồn ào. Đó cũng là điều mà Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã nói: đan viện vừa là nơi tách biệt kín cổng cao tường của nội vi, lại vừa mở ra với Chúa và với tha nhân[52].

Với đề tài: “Môi Trường Đan Viện Theo Thánh Biển Đức”, thiết tưởng không có nhân vật nào phù hợp hơn với thánh phụ Biển Đức, người “anh hùng của núi đồi”, nên trong bài viết sẽ xoay quanh đến vị đan phụ ấy. Bởi vì, khi thiết lập đan viện, thánh Biển Đức đã thiết lập một môi trường phong nhiêu, nơi của sự sống, của hiệp thông và của tình huynh đệ. Trong bài viết này, người viết xin được triển khai ba phần chính: môi trường mở ra với Thiên Chúa, tạo môi trường trong lành, những tác động của môi trường đan tu.

I.  “MÔI TRƯỜNG” MỞ RA VỚI THIÊN CHÚA

Thánh Biển Đức là một người tinh tế và nhạy bén trước tình yêu của Thiên Chúa, nên ngài đã “mở tâm hồn” mình ra để đón nhận, đồng thời để tình yêu Thiên Chúa chiếm ngự trong cuộc đời. Việc ngài từ bỏ kinh thành Rôma đồng nghĩa với việc từ bỏ học vấn và mọi hy vọng về đường công danh rực rỡ trước mắt, để tìm kiếm và phụng sự một mình Thiên Chúa. Điều đó cho thấy, ngài muốn xa lánh lối sống ở giữa nơi mà “môi trường” bên ngoài đầy “ô nhiễm”: những cuộc ăn chơi sa đọa, những khát khao danh vọng hão huyền, những cuộc chiến tranh đẫm máu… thì “môi trường” tâm hồn mình cũng bị vẩn đục. Cuộc đời thánh Biển Đức được đánh dấu bằng hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, ngài sống ẩn tu, chìm đắm trong cầu nguyện và hy sinh. Giai đoạn hai, ngài mới chuẩn bị thiết lập đời sống cộng tu từ chính kinh nghiệm đời sống ẩn tu của mình.

1. Giai đoạn đầu: cuộc sống ẩn tu

a. Thánh Biển Đức khi còn ở kinh thành Rôma

Biển Đức xuất thân từ gia đình quý tộc, được gửi đến Rôma học văn chương, lúc bấy giờ khoa hùng biện ở Rôma đang được ưa chuộng. Cũng trong thời gian ấy, Biển Đức đối diện với cám dỗ về danh vọng chức quyền, địa vị, về sự thể hiện bản thân. Trào lưu văn hoá, kinh tế, chính trị trong khoảng thời gian này cũng mang phần nào quan niệm thực dụng của xã hội. Thêm vào đó, những tai ương, những cảnh cùng khổ, đói kém, dịch bệnh, bạo lực và chiến tranh ngày một gia tăng đã làm cho Biển Đức suy nghĩ nhiều về cuộc sống của con người. Biển Đức đã nhìn thấy môi trường ở đó “đầy ô nhiễm”, và vì muốn tìm kiếm và sống trọn vẹn cho Thiên Chúa, nên ngài đã quyết tâm rời bỏ  Rôma để vào rừng vắng, mong tìm được một môi trường trong lành ở nơi có sự tĩnh lặng hoàn toàn để dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa.

b. Rút vào hang Subiacô

Theo tác giả Dom Claude J. Nesmy của cuốn sách “Thánh Biển Đức và đời sống Đan tu”. Lúc đầu, Biển Đức không có ý định sống đời ẩn tu, nhưng ngài chỉ muốn rời khỏi Rôma, nơi có nhiều cám dỗ để chỉ muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa: “ngài dứt khoát rời bỏ thế gian, vì sợ được thế gian yêu chuộng… Thoạt tiên, Biển Đức chưa nghĩ đến việc đi ẩn tu. Ngài chỉ bỏ lại trường học, nhà cửa và gia sản của cha mẹ. Nhưng vẫn đem theo mình người vú nuôi trung thành… mãi khi phép lạ cái sàng xảy ra, Biển Đức mới trốn đi, không cho vú nuôi biết. Và cũng từ lúc ấy ngài mới lui vào nơi hoang vắng Subiaco và sống ẩn tu ở đó ba năm[53]. Ước muốn thánh thiện của ngài đẹp lòng Chúa, nên cuộc hành trình của ngài được Chúa chúc lành. Sau khi trốn khỏi Enfide, Biển Đức đã gặp được một vị tu sĩ tên là Rômanô, ngài trình bày về ước muốn sống đời ẩn tu và được giúp đỡ. Từ đó, Biển Đức đã chuyên chăm cầu nguyện, suy gẫm về tình yêu của Thiên Chúa. Ngài cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa! Xin tiếp tục dạy dỗ con, xin hãy cho con biết Chúa nhiều hơn, để con càng thêm yêu mến Chúa hơn, và xin hãy chỉ con cách thức cầu nguyện[54].

Ba năm sống trong hang Subiaco, ngài học được rất nhiều kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa, và Thiên Chúa cũng dùng ba năm ấy để chuẩn bị trao cho Biển Đức một sứ mạng mới và cao cả. Dù ngài rất hạnh phúc khi sống ở nơi đây, và chẳng còn tha thiết gì với thế gian, nhưng đến thời điểm Biển Đức đã thuận theo ý muốn Thiên Chúa. Thiên Chúa mặc khải cho vị linh mục thánh thiện sống gần đó biết về vị ẩn sĩ, rồi đến những nông dân chất phác tìm đến ngài ngày càng đông. Ngài tiếp tục cầu nguyện và nhận thấy Chúa muốn ngài giúp đỡ các tu sĩ thuộc đan viện Vicovaro. Do đó, ngài đã vui lòng chấp nhận lời thỉnh cầu của họ.

2. Giai đoạn hai: chuẩn bị thiết lập đời sống cộng tu

Khi đến đan viện Vicovaro, với sự nhạy bén, Biển Đức nhanh chóng nhận ra việc các tu sĩ sống “vô kỷ luật”. Bởi họ không có quy luật sống, nên mỗi người thường làm theo sở thích riêng của mình: “Mỗi người dùng thì giờ tùy tiện, không định giờ nào phải thức dậy, hay đi ngủ. Ngay cả các kinh nguyện cũng tùy ý mọi người tự chọn lấy. Công nghiệp chính của họ là sự khó nghèo[55]. Vì nhận thấy môi trường đan viện không trong lành qua sự bất phục của các tu sĩ, nên Biển Đức rất muốn tái tạo và làm cho môi trường đan viện được trong lành qua một vài quy định. Ngài đã hội ý cộng đoàn và “nóng lòng soạn thảo một quy luật cho tu viện”. Mặc dù những quy luật ngài soạn thảo rất đơn giản, ngài muốn mọi người tuân thủ giờ giấc đã quy định, giờ nào việc đó. Nhưng các tu sĩ không chịu thi hành, vì thế ngài mới khuyến cáo họ. Những lời nhắc nhở của Biển Đức chỉ muốn giúp các tu sĩ thực hiện một nếp sống để nâng đỡ tiến trình thiêng liêng của họ, hầu dẫn họ tới sự thánh thiện. Thế nhưng, các tu sĩ ấy không nghe, lại còn âm thầm công kích và hại ngài bằng ly rượu độc. Biển Đức từ bỏ đan viện Vicovaro và quay trở lại hang Subiaco, và cũng chính nơi này, ngài bắt đầu hướng đến thiết lập một cộng đoàn mới.

II.  TẠO MÔI TRƯỜNG “TRONG LÀNH”

Từ việc vào sống ẩn tu, đi phục vụ ở đan viện Vicovaro, đến việc thành lập đời sống chung cho anh em, Biển Đức chỉ tìm cách đáp lại thánh ý Chúa theo diễn tiến xảy ra. Vì vậy, khi quy tụ những môn đệ cũng khát khao sống đời hoàn thiện như mình, “ngài không hề muốn thiết định một nếp sống hoàn toàn mới. Tu Luật của ngài chứa đựng nhiều nét mà ta có thể gặp thấy trong những Tu Luật đã có trước…”[56]. Điều đó cho thấy Biển Đức là một người cầu tiến, biết tiếp thu điều hay, điều tốt từ người khác. Để từ đó rút ra một nếp sống lành mạnh cho anh em.

1. Đời sống thiêng liêng

Khi thiết lập môi trường đan tu, Biển Đức cũng đã tạo cho anh em một môi trường hoàn toàn trong lành để tìm được sự bình an đích thực. Điều này được thể hiện qua bộ Luật mà ngài đã hướng dẫn các đan sĩ trong việc thực hành các nhân đức tự nhiên và siêu nhiên rất cặn kẽ. Mục đích chính là giúp các đan sĩ tiến bộ trên đường trọn lành.

Biển Đức đề cập đến thái độ nội tâm khi cử hành phụng vụ và cầu nguyện. Bởi đó là mối tương quan của con người với Thiên Chúa, nên thánh nhân khuyên các đan sĩ hãy hát Thánh vịnh và đọc kinh như thế nào để “tâm trí hoà hợp với lời ca”. Ngài nhắc nhở đan sĩ phải luôn nhớ rằng: “Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi và mắt Người hằng nhìn xem người lành kẻ dữ”, nên bất cứ làm việc gì, đan sĩ cũng luôn ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa.

Nhờ gương lành và đời sống thánh thiện, những tâm hồn được ngài chăm sóc cũng thấm nhuần tinh thần của ngài. Biển Đức đòi hỏi những kẻ theo ngài phải cày cuốc, lao động bằng đôi tay của mình, và nhận làm những công việc khiêm tốn. Biển Đức muốn các đan sĩ phải có lòng bác ái và sự vâng phục, để xây dựng đời sống an hòa và tình bác ái[57].

Mặc dù ước ao của Biển Đức là “tạo bầu khí trong lành” nơi đan viện. Nhưng từ ước ao đến việc thực hành còn cả một quá trình dài đầy thử thách, bởi không phải ai cũng có thể giữ luật một cách trọn hảo như luật đề ra: “Tu Luật, tự nó chưa đủ để hoán cải tính ích kỷ bẩm sinh của chúng ta[58]

Nhận thấy những giới hạn và yếu đuối của những đan sĩ sống bên mình, ngài không hề ngạc nhiên, khó chịu hoặc nản lòng. Có lẽ vì thế mà Biển Đức gọi đan viện là “Trường học phụng sự Chúa”. Vì là trường học, nên bất kỳ ai vào đó cũng đều phải học, đều phải được rèn luyện, để cùng tiến tới đích điểm là sự hoàn thiện. Vì là trường học nên có người tiếp thu nhanh, có người tiếp thu chậm… nhưng tất cả đều được tôn trọng, đều có giá trị như nhau. Ngài ước mong “uốn nắn tâm hồn những người Chúa gửi đến cho mình, để trình diện họ tinh tuyền cho Thiên Chúa” bằng sự quân bình trong nếp sống.

2. Quân bình trong đời sống cộng đoàn

Một trong những điều kiện để tạo môi trường trong lành cho cộng đoàn là sự quân bình. Và đó cũng là đức tính số một trong khoa sư phạm của Biển Đức. Từ những việc nhỏ như: ăn uống, ngủ nghỉ đến những việc lớn như: lao động, cầu nguyện, hội họp… ngài luôn thể hiện sự cẩn trọng, chừng mực và quân bình trong những hướng dẫn của mình. Sự quân bình đó được thể hiện trong ba phần vụ chính: Thần vụ, lao tác và học vấn.

a. Quân bình trong cầu nguyện

Cầu nguyện là phương thế cần thiết đưa đan sĩ vào trong mối tương giao mật thiết với Thiên Chúa và tha nhân. Cho nên khi làm bất cứ việc gì, thánh Biển Đức nhắc nhở các đan sĩ: “Đừng lấy gì làm hơn việc Chúa” (TL 43,3 và 72,11), mà việc Chúa được thể hiện rõ nét qua những giờ Thần vụ. Lòng mộ mến Thần vụ cũng là một trong bốn tiêu chuẩn để trắc nghiệm ơn gọi của ứng sinh muốn sống đời đan tu (TL 58,7). Chính vì thế, thánh Biển Đức đã đặt giờ thần vụ làm nền tảng căn bản cho đời đan tu. Và theo ngài, sự quân bình trong đời sống cầu nguyện: “Lời cầu nguyện phải ngắn gọn và tinh tuyền, trừ khi được ơn Chúa thúc đẩy mà kéo dài thêm. Nhưng dù sao trong cộng đoàn, kinh nguyện phải rất vắn tắt, và khi bề trên vừa ra hiệu mọi người hãy cùng đứng lên” (TL 20, 4-5).

b. Quân bình trong lao động

Thánh Biển Đức dạy rằng: “Ở nhưng là thù địch của linh hồn, thế nên anh em phải có giờ làm việc chân tay, có giờ đọc sách… vì chỉ khi nào ta sống bằng thành quả lao động của mình như cha ông và các Tông đồ, ta mới thật là đan sĩ. Nhưng dù sao trong mọi sự phải giữ chừng mực, vì còn có những anh em yếu sức” (TL 48, 1-9). Như vậy, sự quân bình đích thực là chu toàn bổn phận một cách tốt nhất, không được coi nhẹ hay bỏ qua một phận vụ nào, nhưng tất cả đều quy về Chúa và không lấy gì làm hơn Chúa Kitô. Đó chính là nhịp cầu đem lại sự quân bình cho đời sống đan tu. 

c. Quân bình trong học hành

Học hành cũng là phận vụ mà thánh Biển Đức đặt ra trong bộ Luật. Đối với ngài, đó là công việc lao động trí óc qua việc chăm chỉ học hành, đọc sách thiêng liêng. Nhờ sự cẩn trọng, ngài đã giúp các đan sĩ tránh được mọi thái quá cũng như bất cập trong học hành như: học hỏi vì tư lợi hay sự biếng nhác trong học hỏi. Mục đích của việc huấn luyện các đan sĩ là hướng đến một sự hiệp thông hòa hợp với Thiên Chúa và với anh chị em mình trong bầu khí thinh lặng, được đảm bảo bởi đời sống hàng ngày của đan viện.

III. NHỮNG TÁC TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG ĐAN TU

1. Khía cạnh tiêu cực

Với ước mong tạo một môi trường trong lành cho những người sống đời thánh hiến được an hòa, qua việc thực thi các lời khấn, tuân giữ những gì Luật dạy, thánh Biển Đức đã thiết lập nền giáo dục của trí tuệ, của tình thương. Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội đang phải đối diện với nhiều khủng hoảng hôm nay, con người bị cuốn vào cơn lốc của trào lưu hưởng thụ, các đan sĩ cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng ấy. Trong thực tế, các đan sĩ, đặc biệt các đan sĩ trẻ, gặp rất nhiều thách đố về đức mến, về việc giữ các lời khấn. Sống trong xã hội, đang khi con người đề cao tiền bạc, vật chất, thì đời sống tu trì lại mời gọi đan sĩ sống lời khấn khó nghèo triệt để; đang khi con người sống hưởng thụ, thì đan sĩ lại được mời gọi sống khiết tịnh vì Nước Trời; đang khi con người đề cao cái tôi vị kỷ, thì đan sĩ lại được mời gọi sống vâng phục tuyệt đối theo gương Đức Kitô, “Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8); đang khi con người đề cao sự tự do, đi đây đó, thì đan sĩ lại được mời gọi sống kiên định trong đan viện; đang khi con người đề cao vẻ đẹp bên ngoài, thì đan sĩ lại được mời gọi uốn nắn bản thân để vươn lên mỗi ngày. Có những đan sĩ chỉ lo tìm kiếm sự khôn ngoan của thế gian mà ít để ý đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Nhiều người trẻ đi tu để tìm kiếm một vị thế hoặc thể hiện mình qua việc tìm kiếm danh vọng, chức quyền. Điều đó làm cho cuộc sống đan tu trở nên ngột ngạt, không còn là một nơi lý tưởng để sống đời thánh hiến.

2. Một vài giải pháp

Để tạo “môi trường” trong lành cho đan viện, trước hết phải tạo “môi trường” trong lành cho chính bản thân mỗi người. Phải chăng sự ô nhiễm về “môi trường” trong cộng đoàn cũng có một phần trách nhiệm của bản thân mình?

Trong tinh thần cộng đoàn, không thể nại vào bất cứ lý do nào để phá vỡ hay hủy hoại môi trường thinh lặng chiêm niệm đan tu của đan viện, nhất là bầu khí cầu nguyện, kết hiệp với Chúa qua mọi sinh hoạt của ngày sống. Cha Tổ Phụ xác định: “Việc bổn phận của chúng ta là cầu nguyện và kết hiệp với Chúa. Đó là việc riêng của chúng ta” (DN 118). Cầu nguyện là sứ vụ chính yếu của đan sĩ, đại diện cho toàn thể Hội Thánh chúc tụng, tôn vinh, và tạ ơn Thiên Chúa thay cho toàn thể nhân loại[59]. Cầu nguyện cũng là cách để chứng tỏ lòng yêu thương anh em và lo cho phần rỗi các linh hồn.

Cha Tổ phụ Biển Đức Thuận gọi “đan viện là một gia đình”, vì thế mọi người từ trên xuống dưới đều có một mục đích và đều làm một việc như nhau, đó là tìm Chúa và “tấn tới trong đàng kính mến Chúa, cùng làm cho nhiều người kính mến Chúa nữa” (DN 138)[60]. Các thành viên cần tạo sự cởi mở, gần gũi với anh chị em để mọi người đều cảm thấy bản thân được tôn trọng và cộng đoàn là nơi họ thuộc về. Khi diễn tả điều này, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhắc tới vị thánh của tình hiệp thông như sau: “Thánh Phanxicô đã diễn tả bản chất của một tình huynh đệ cởi mở, cho phép chúng ta nhìn nhận, quý trọng và yêu thương mỗi con người, bất kể sự gần gũi về thể lý, bất kể nơi người đó sinh ra hay sống ở đâu[61]. Ngài còn nhấn mạnh: “Các mối liên hệ của chúng ta, nếu lành mạnh và chân thực, sẽ mở ra cho chúng ta tới những người khác, những người giúp chúng ta thêm triển nở và thêm phong phú cho chúng ta[62]. 

KẾT

Khi nói đến môi trường đan viện theo thánh Biển Đức; một môi trường mở ra với Thiên Chúa, mở ra với tha nhân cũng là môi trường của đời sống đan tu hôm nay. Chúng ta cần nhắc lại lời minh định của Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI: “Đan viện vừa là nơi tách biệt kín cổng cao tường của nội vi, lại vừa mở ra với Chúa và với tha nhân”. Từ đó chúng ta xác tín rằng, từ trong môi trường nội vi, đan viện “mở ra tới thiên đàng”, qua con người và cuộc sống của các đan sĩ, những người đã và đang mở rộng đón nhận tình yêu Thiên Chúa và để Người chiếm giữ tâm hồn mình. Từ những trải nghiệm gặp gỡ, gắn bó và kết hợp trong tình yêu Thiên Chúa, từ môi trường đan viện cũng mở ra gặp gỡ với tha nhân, với thế giới một cách chân thực nhất.

Đan sĩ đáp lại tình yêu và thánh ý Thiên Chúa giữa môi trường cuộc sống thầm lặng hằng ngày của đời đan tu. Đan sĩ không nói gì, nhưng dâng lên Thiên Chúa tất cả mọi nhu cầu của cuộc sống tha nhân. Xa cách thế gian nhưng đang ôm trọn thế giới trong con tim tinh tuyền đầy ắp yêu thương, nguyện cầu và hy sinh của đời chiêm niệm. Tất cả những dòng suối mát từ nguồn tình yêu Thiên Chúa tuôn tràn đến với mọi người, tới mọi ngõ ngách của thế giới, giúp “những nơi sa mạc” được tưới mát; gieo niềm tin yêu, hy vọng giữa những thương đau của thế giới, là “ngôi nhà chung của chúng ta”.

Trở về mục lục


 

 

“THUNG LŨNG ÁNH SÁNG”

Nỗ lực của các Đan sĩ Xitô trong việc xây dựng môi sinh

Duyên Thập Tự

THUNG LŨNG ÁNH SÁNG: MỘT TÊN GỌI

Xitô được biết đến như là nơi cư ngụ của những đan sĩ sống đời chiêm niệm và các linh phụ Xitô được mang danh là các nhà thần bí. Những trước tác của các ngài – thường được hứng khởi bởi sách Diễm Ca – diễn tả mối tương giao tình yêu giữa Ngôi Lời Nhập Thể / Đấng Tình Quân với linh hồn / Hiền thê. Chính đây là nguồn sống đã làm hứng khởi bao tâm hồn bước vào đời sống “ẩn dật” trong các đan viện được che giấu khỏi tầm nhìn của con người. Các đan viện thường được tọa lạc trong các vùng đất bằng phẳng, thường ở trong các thung lũng, để có thể sống đời chiêm niệm đồng thời canh tác để tự lập.

Đan sĩ Xitô sống trong khung cảnh cô tịch bao quanh đan viện, đã biết đến những niềm vui và những vẻ đẹp của một trật tự cao hơn được phản chiếu trong chính tên gọi được đặt cho đan viện. Gắn bó với nơi này mà không bao giờ lìa xa, đan sĩ rung cảm trước vẻ mỹ miều của nó, được gợi lên bằng chính tên gọi như Beaubec – đan viện theo phương ngữ miền Normand, bec có nghĩa là dòng suối: dòng suối xinh đẹp – Beauvoir (tầm nhìn xinh đẹp), Beaupré (đồng cỏ đẹp tươi)…

Đan viện Xitô mang tên Clairvaux, Claravalle, “Thung Lũng Ánh Sáng” là tên gọi đan viện được thánh Bênađô thành lập năm 1015. Khi ấy Bênađô tuổi đời mới 23 và đã dẫn một vài đan sĩ từ Đan viện Mẹ Xitô đến cư ngụ tại vùng đất của gia đình, miền đông nam Bar-sur-Aube (miền Bar trên sông Aube), trong thung lũng Absinthe, một thung lũng sáng của giáo phận Langres; Clara vallis, được đặt cho chính đan viện này. Nơi đây, nhờ sự chói sáng của Đấng Sáng Lập, đan viện đã quang toả ra khắp nơi: sự quang toả thiêng liêng và trí thức – một thư viện phong phú mà ngày nay người ta còn bảo tồn được 1.400 thủ bản – đồng thời cũng là một nơi có sức mạnh kinh tế. Vào thế kỷ 14, đan viện đã sở hữu 25.000 mẫu đất, 41 nông trại và 43 cối xay dùng sức nước. Các đan sĩ trồng rừng, đất canh tác và vườn nho, chăn nuôi, nhất là nuôi cừu.

Đan sĩ Xitô cũng được biết đến như những con người xây dựng nên những môi sinh tốt và đẹp về nhiều phương diện, mà chính tên gọi cũng đã phản chiếu phần nào công cuộc xây dựng này. Trong bài viết về môi sinh trong mối tương giao với tu trào Xitô, tôi muốn phác họa vài nét về công cuộc tạo dựng môi sinh nơi các Đan sĩ Xitô khi họ xây dựng các đan viện. Việc xây dựng này mang nhiều chiều kích thiêng liêng và thần bí, kinh tế và mỹ thuật.

“Thung Lũng Ánh Sáng” là tên gọi của một đan viện cụ thể mà thánh Bênađô đã thành lập, nhưng trong bài viết này, qua tên gọi trên, tôi muốn nói đến công cuộc của các đan sĩ xây dựng nên những môi sinh khi thành lập các đan viện trên những vùng đất khác nhau[63]. Vì phạm vi của một bài viết, tôi giới hạn trong việc nêu lên một số khía cạnh của nỗ lực của các Đan sĩ Xitô.

1. Đi tìm sa mạc

Trong một Âu châu đã khá đông đúc – dù rằng mật độ không được phân bố đều – thì nỗi nhớ nhung sa mạc là một trong những điệp khúc của linh đạo đan tu thế kỷ thứ 12. Nỗi hoài niệm này năng động các ẩn sĩ, như thánh Nil trong miền Calabre hay ẩn sĩ Phêrô sống trong căn chòi ở khu rừng miền Mans. Nhiều đan viện được thành lập vào những năm thuộc hậu bán thế kỷ 11 đã được thành lập trong những vùng đất khác nhau, để noi gương các Linh Phụ Sa Mạc.

Nhưng việc tìm kiếm sa mạc, đối với các đan sĩ Xitô, chứa đựng một giá trị thi vị nâng cao thực tế thường nhật. Họ không bằng lòng về việc thành lập các đan viện cách xa phố thị, xa các lâu đài hay làng mạc; nhưng họ còn nghị luận về thiên nhiên hoang dã. Theo Guillaume de Saint-Thierry – người viết tiểu sử đầu tiên về thánh Bênađô – “Bênađô không bao giờ có người thầy nào khác ngoài các cây sồi và cây sến”, một câu văn danh tiếng làm vọng lại một đoạn văn trong lá thư mà chính thánh Bênađô viết vào năm 1138 cho Henri Murdach, Viện phụ Vauclair, để an ủi, vì nếu cần thiết mà phải bỏ việc học hành và giảng dạy: “Bạn hãy tin vào kinh nghiệm của tôi, bạn sẽ tìm thấy điều gì đó hơn trong những cánh rừng hơn là trong sách vở. Cây cối và sỏi đá sẽ dạy cho bạn điều mà bạn không thể học được nơi một vị thầy nào.”

Sa mạc Tây Phương đây không có gì khô cằn và đơn điệu như tại vùng Thébaïde ở Ai Cập. Nó hoàn toàn phủ đầy rừng. Guillaume de Saint-Thierry miêu tả Đan viện Clairvaux/Thung Lũng Ánh Sáng như là “nơi cô tịch được bao quanh bởi những khu rừng rậm và được thắt chặt bởi từng hàng núi đồi mà các tôi tớ Thiên Chúa sống ẩn kín, giống như thánh Biển Đức trong hang sâu.

“Vùng cô tịch đáng sợ và mênh mông” là diễn ngữ thường xuất hiện dưới ngòi bút của thánh Bênađô để diễn tả tính chất của các địa điểm Đan viện Xitô. Và các tác giả Xitô khác cũng thường sử dụng cách diễn đạt này để nói về các đan viện. Nhưng chúng ta cũng không nên hiểu hoàn toàn theo mặt chữ, như thể sa mạc mênh mông thời xuất hành của dân tộc Do Thái. Điều muốn nhấn mạnh nơi đây, đó là hoài niệm mà các Đan sĩ Xitô muốn đào sâu để tránh các ảo tưởng về vùng đất hoang sơ, mà để bảo tồn giấc mơ sa mạc bằng một cách nhìn thi vị về không gian sinh sống.

2. Đan viện, một thành phố lý tưởng

Ngày nay, khi tham quan các Đan viện Xitô không toàn vẹn và bị huỷ hoại, du khách vẫn cảm nhận sự kính phục đối với sự hoàn hảo vận hành và mỹ thuật của chúng. Là một thành phố lý tưởng, trước hết đan viện đáp ứng nhu cầu của một xã hội đoạn giao với thế giới. Với những từ ngữ của Tu Luật (Biển Đức), Còn đan viện, nếu có thể, phải thiết lập thế nào để mọi thứ cần thiết như nước, cối xay, vườn tược hay các thứ công nghệ, đều được làm trong nội vi đan viện, để đan sĩ khỏi bó buộc phải ra ngoài, vì điều đó không hề thích hợp cho linh hồn họ(TL 66,5). Ngay từ thời Thượng Trung Cổ, toàn bộ cơ sở được ví như những dinh thự lớn được tổ chức như tại Đan viện Monte-Cassino, nằm trong những tường thành rộng lớn. Ở Đan viện Cluny, toàn bộ đan viện tạo thành một thế giới của những thánh đường và nhà nguyện, của nội vi và sân, vườn tược và khu xưởng. Ngoài cơ ngơi này, một khu sản xuất nhỏ sinh sống như biểu tượng với thành phố của các đan sĩ được xếp hàng với những cửa hiệu nhỏ và những cơ xưởng trong những con đường nhỏ hẹp. Nhưng ở các Đan viện Xitô, có một khung mẫu lý tưởng nhấn mạnh đến ba điều hợp lý liên kết với nhau.

Hợp lý thứ nhất liên quan đến địa điểm: đó là nơi phân phối nước, rất cần thiết cho cuộc sống cộng đoàn, điều quyết định để xây dựng các cơ sở. Nước được tích luỹ nhờ bờ đê để chứa nước trong ao hồ, tưới cây cối và vườn tược, kéo các bánh xe cối xay, giúp nâng hạ các vật dụng, được dẫn nhờ các kênh đào để dẫn đến đan viện, nước chảy trong các bồn tắm và rủ rỉ dưới những phiến đá của nhà bếp, nó thông đi những rác rưởi và trong các nhà vệ sinh.

– Hợp lý thứ hai liên quan đến phận vụ: những không gian đáp ứng cho những phận vụ chính yếu của đời sống đan tu – orare et laborare / cầu nguyện và lao động. Những không gian rõ rệt này được phân bố để thích ứng với khối lượng và địa điểm cho những phận việc và thời khắc như là nội vi và nhà hội, nơi nói chuyện, lò sưởi, nhà cơm, nhà bếp, phòng ngủ.

– Hợp lý thứ ba liên quan đến con người: nếu đan viện là một xã hội thu nhỏ, thì xã hội này, một tiểu thế giới, lại tóm lược sự khác biệt của thế giới. Từ khu nội vi này đến khu nội vi kia, có một không gian ở phía đông dành cho các đan sĩ, với một khu nhà ngủ, tại tầng trệt thường có phòng họp, ở bên hông là phòng thánh và phòng nói chuyện; phía nam hay phía bắc, đó là nhà cơm, lò sưởi và nhà bếp. Cơ sở dành cho các anh em quy sĩ, thô sơ hơn, thường ở phía tây của khu nội vi, được cách biệt với một hẻm nhỏ, nơi tầng trệt có phòng của quản lý và nhà cơm, trên lầu là phòng ngủ.

Đan sĩ và quy sĩ, dù hưởng những cơ sở từ ban sơ, lại hiệp nhất với nhau trong toàn bộ cơ ngơi đan viện mà không giáo dân nào được đặt chân đến. Giáo dân được tiếp đón trong nhà khách đan viện có đủ giường chiếu và những gì cần thiết, trong đó cũng có phòng ngủ, nhà cơm và phòng y tế; có một nhà nguyện cho khách vãng lai.

Trong khu vực dành cho các đan sĩ và quy sĩ, có phòng y tá dành cho anh em đau ốm. Đó là một phòng lớn, phía đông, bao gồm một nhà bếp có nấu món thịt, và có một phòng ăn gọi là “phòng của lòng thương xót”. Vào cuối đời đan sĩ, đó là lúc kết thúc cuộc đời dương thế, nên có một phòng dành cho anh em lúc qua đời và một nghĩa trang.

Thánh Bênađô nhiều lần sử dụng quan niệm của ông Téctulianô rằng nội vi đối với Kitô hữu là sa mạc đối với các ngôn sứ: một nhà tù được chọn lựa một cách tự do, một nhà tù với những cánh cửa mở. Thánh Bênađô đưa ra một cách nhìn về Giêrusalem. Quan điểm chức năng và cách tổ chức xã hội của đan viện không được tách lìa khỏi chiều kích thần bí của nó: thành phố lý tưởng của con cái thánh Biển Đức tiên báo thành Giêrusalem trên trời, nơi tất cả con cái của Chúa Cha đều có chỗ cho mình.

3. Một khuôn mẫu kinh tế

Lãnh địa Xitô mà các vị sáng lập mong muốn là sự đoạn giao hoàn toàn với hệ thống lãnh chúa; đó là một thực thể được các đan sĩ và quy sĩ hiện thực, để đáp ứng những nhu cầu của cộng đoàn khi tách lìa khỏi thế giới và để quân bình đời sống được phân bổ cho cầu nguyện và lao động như Tu Luật đòi hỏi. Không có gì được sản xuất đến chỗ dư thừa, như Hiến Chương Đức Ái kêu gọi: “Nếu một Giáo hội[64] nào đó rơi vào sự nghèo khó cùng cực… thì tất cả các viện phụ, được nung nấu bởi lòng bác ái, mỗi người tuỳ theo khả năng, mau chóng trợ giúp sự thiếu thốn của Giáo hội đó với những tài nguyên mà Thiên Chúa trao ban cho.”

Tự cung tự cấp và khẳng định trực tiếp là hai nguyên tắc cơ bản.

Để có thể tự cung tự cấp, đan viện cần có những vùng đất rộng để sản xuất. Từ đó thành lập những nông trại. Những nông trại này, lúc đầu còn lệ thuộc ý muốn của những ân nhân. Đồng thời những nông trại còn lệ thuộc về đối tượng sản xuất. Tuỳ theo chất đất và nguồn nguyên liệu dưới lòng đất, có nhiều hoặc ít nước, độ cao, để có thể quyết định đối tượng sản xuất: nông trại sản xuất ngũ cốc, nông trại chăn nuôi, nông trại trồng trọt và khai thác rừng, nông trại hầm mỏ. Đan viện Clairvaux/Thung Lũng Ánh Sáng, mà một trong sáu nông trại đầu tiên xa nhất là khoảng ba dặm. Xuyên qua việc sản xuất, các Đan viện Xitô mang những hoạt động sau đây.

– Làm chủ thiên nhiên: Từ lâu, các Đan sĩ Xitô được công nhận là những người sáng tạo ra Âu châu nông nghiệp thời hiện đại. Là những đan sĩ khai phá, từ khắp Âu châu, họ đã xâm nhập vào các vùng rừng núi sâu thẳm và họ đã cải tạo những con sông, dẫn thuỷ nhập điền; từ đó họ gầy dựng nên những khu vực sản xuất mang lại những sản phẩm nuôi sống đan viện. Những thế hệ đến sau các đan sĩ đầu tiên thừa hưởng những gì để lại và những kinh nghiệm, họ lại phát triển thêm lên nhờ những khả năng và những nhân đức kiên trì; họ không thuộc hạng người khai phá, nhưng là những người phát triển làm bùng nổ sản xuất. Bao nhiêu hồ ao và những kênh rạch làm cho những mảnh đất chai sạn thành màu mỡ, và những nghề nghiệp được phát triển như nông nghiệp và ngư nghiệp. Các Đan sĩ Xitô trở thành những gương mẫu.

– Các nông trại và kho lẫm: Những nông trại ngũ cốc và kho lẫm trở thành đối tượng của việc chiêu mộ công nhân và xây dựng cơ sở. Với những nông trại rộng lớn cả mấy trăm mẫu, cần phải có một số nhân công đáng kể. Nơi những nông trại đó, những kho chứa có thể lên tới sáu ngàn mét khối. Vì thế, việc xây dựng cần thiết cho những kho chứa như vậy. Những công việc này minh chứng khả năng làm chủ thiên nhiên của các Đan sĩ Xitô. Việc lao động của họ mang lại thành quả là tạo dựng nên những môi trường thuận lợi cho việc phát triển về nhiều phương diện, tinh thần cũng như vật chất, kinh tế cũng như khoa học và kỹ thuật.

– Không ngừng xây dựng các con kênh rạch: Như đã nói trên, việc xây dựng các nông trại và kho lẫm không tạo nên những chứng nhân hữu hình trong những vùng đất Xitô. Để cải tạo những vùng đất, việc dẫn thuỷ nhập điền, thực hiện những hệ thống tưới tiêu, luôn là đối tượng mà các Đan sĩ Xitô chú tâm. Tu Luật đề cập đến “cá” là một món ăn cơ bản của đan sĩ. Vì thế, phải bắt buộc xây dựng hệ thống nước để có những hồ ao nuôi cá gần đan viện. Tại Đan viện Xitô, việc dẫn dòng sông Centfont chảy vào đất đan viện từ thế kỷ 13 là một trong những thành quả lớn mang lại rất nhiều lợi ích và làm biến đổi khuôn mặt của vùng đất.

Qua một vài điều nói trên, có thể nói rằng ngay từ thế kỷ 12, các Đan sĩ Xitô đã tỏ ra rất gắn bó một cách thuận lợi với đất đai, phát xuất từ ước muốn sống khiêm hạ của họ. Đất đai, thiên nhiên đã trở thành rất thân thiết với cuộc sống của họ, và hơn thế nữa, trở thành nơi họ sống ơn gọi đan tu của mình. Thật vậy, họ có một cái nhìn về thiên nhiên khác chúng ta ngày nay. Thiên nhiên đối với họ là công trình của Thiên Chúa và lao động là một việc cầu nguyện. Vì thế, họ không những khai thác đất đai của một lãnh địa, mà họ hoàn thành công cuộc sáng tạo. Những Đan sĩ Xitô, những con người đơn sơ này, nhìn những hiện tượng của thiên nhiên như sấm chớp, bão tố, lụt lội, những mùa thu hoạch được hay thất, là những dấu chỉ cần được chú giải, cần được tìm ra ý nghĩa. Sự cần cù thường xuyên tiếp cận thế giới cỏ cây giúp họ có những kiến thức, kinh nghiệm cách sâu xa về những loại cây và những tiềm năng y học của chúng và những thứ khác.

4. Thung lũng ánh sáng: một thiên đàng tại thế

Nơi môi sinh của đan viện Thung Lũng Ánh Sáng – tiêu biểu cho các Đan viện Xitô – hai cái nhìn liên kết với nhau để làm nổi bật giá trị của không gian địa dư là nơi sống của các đan sĩ, nơi không những kết dệt nên một cuộc sống có ý nghĩa mà còn là nơi kết liên với những thực tại cao quý.

– Thánh Bênađô so sánh đan viện “Thung Lũng Ánh Sáng”/Clairvaux như là Giêrusalem trên trời. Ngài diễn tả điều đó trong lá thư gửi Đức Alexandre, Giám mục Lincoln:

“Kính thưa ngài đáng kính Alexandre, bởi ơn Thiên Chúa mà ngài được làm giám mục Lincoln: Bênađô, viện phụ Clairvaux ước ao được tôn kính trong Chúa Kitô hơn là trong thế gian.

Philip yêu dấu của ngài, người muốn đi lên Giêrusalem, đã tìm thấy một con đường tắt và anh đã đạt đến mục tiêu sớm hơn dự tính của anh. Sau một thời gian vượt qua biển cả rộng lớn mênh mông này và cuộc hành trình tốt đẹp, anh đã đạt đến bến bờ mong đợi và cuối cùng đã cập bến cứu độ. Đôi chân anh đã bước đi trên mặt đất Giêrusalem và thành phố này mà anh đã nghe nói đến thì bên bờ sông Euphrate, anh tìm thấy nó nơi vùng chung quanh của khu rừng và thật hài lòng, anh thưởng nếm nó nơi mà anh dừng chân. Anh đã bước vào thành phố thánh, đã thông phần với những người đã được minh nhiên nói đến: Từ nay anh em không còn là khách lạ hay người ngoại bang, nhưng là đồng hương với các thánh và là những tôi tớ của Thiên Chúa. Với họ, anh có thể ra vào thành phố này, như là một người trong hàng các thánh, anh đã được tôn vinh như tất cả những người khác để có thể thốt lên rằng: Ngày tháng sống của chúng tôi ở trên trời. Như vậy, anh đã không trở nên như một người tò mò nhìn xem cảnh tượng, nhưng như một cư dân đạo hạnh và một công dân được đăng ký gia nhập vào thành Giêrusalem. Nhưng tôi không nói đến Giêrusalem dưới đất, kế cận núi Sinai ở vùng Ảrập, thành phố đã rơi vào kiếp nô lệ như tất cả con cái nó; tôi nói đến Giêrusalem tự do, mẹ trên trời của chúng ta.

Và nếu ngài muốn biết, thì đó là đan viện Clairvaux/Thung Lũng Ánh Sáng này đây. Vì Clairvaux được nối kết bởi tất cả lòng sùng mộ, được đồng hoá bởi những phong hoá và mọi thứ liên hệ tình con thảo thiêng liêng với Giêrusalem trên trời. Sự nghỉ ngơi của anh Philip là trường cửu, muôn đời, như chính anh đã minh định: anh đã chọn Clairvaux/Thung Lũng Ánh Sáng để cư ngụ, và đã tìm thấy nơi đó, nếu không phải thị kiến về bình an chân thực, thì ít ra đã mong đợi sự bình an này, sự bình an đã được đề cập đến: “Bình an của Thiên Chúa vượt xa mọi ý nghĩa. Nhưng niềm hạnh phúc này, ngay cả khi anh đã lãnh nhận từ trời cao, anh cũng muốn nếm hưởng nếu có sự đồng ý của ngài; hơn thế nữa, anh tin tưởng về những gì anh đã thực thi, vì anh biết rằng ngài hiểu được những phán quyết của Đấng Thượng Trí vì rằng người con hoàn toàn khôn ngoan là vinh quang của chính người cha”[65].

– Một tác giả vô danh thuộc thế kỷ 13 lại nhìn ngắm Đan viện Thung Lũng Ánh Sáng với ánh nhìn trần thế, nhưng dầu sao cũng là mang nét thượng giới. Thung lũng rậm rạp rừng cây, thơm ngát hương hoa, dòng nước lững lờ, tiếng chim hót vang, nơi mà sinh hoạt của các đan sĩ hòa hợp với nhịp sống của mùa màng và ngày đêm, làm sinh động trong việc miêu tả thi ca vùng đất. Đây là áng văn chương môi sinh:

“Nếu bạn muốn biết vùng đất Clairvaux/Thung Lũng Ánh Sáng, bạn chỉ cần chiêm ngưỡng hình ảnh mà tôi miêu tả đây. Hai vùng đất cao không xa đan viện bao nhiêu, tách biệt nhau và tạo thành một thung lũng càng rộng lớn hơn khi càng tiến đến gần đan viện. Một bên, vùng đất cao bao che một phần đan viện, còn vùng đất cao kia che phủ như hoàn toàn đan viện. Vùng đất cao này tốt để trồng nho, còn vùng đất cao kia phì nhiều rất hợp cho sản xuất ngũ cốc; cả hai thật đẹp và dễ khai thác, vì trên sườn đồi bên này mọc lên thức người ta ăn và bên kia cái người ta uống. Các đan sĩ thường lao động trên đồi cao công việc lao động thoải mái và dễ chịu như chính sự nghỉ ngơi để thu lượm những cành cây già cỗi, bó lại để mang đi đốt; rồi cắt những gai góc và dọn dẹp những thứ chỉ dành cho ngọn lửa, làm những con đường, khai phá, đốn hạ, cuốc cào tất cả những cây dại mọc um tùm; những thứ cỏ dại đó bao trùm các cành cây, quấn chặt các rễ cây làm cản trở sự phát triển của những cây sồi, cây sến không cho nó vươn lên đỉnh cao đến tận những tinh tú…

Phía sau đan viện mở ra một cánh đồng rộng được bao quanh bởi bức tường dài, mở ra không gian rộng rãi cho nội vi. Trong cánh đồng đó, mọc lên đủ các loại cây rất phong phú về các chủng loại, làm nên cảnh xanh tươi cho khu rừng. Cánh rừng chạm tới tu phòng của những anh em đau ốm và nâng đỡ nỗi khổ đau của họ bằng sự an ủi này; nó hiến tặng một không gian thoáng mát cho những người đi dạo và nơi trú ngụ dễ chịu khi thời tiết oi bức. Người anh em đau ốm ngồi trên thảm cỏ xanh, và đang khi cơn gió nóng thổi về như đốt cháy địa cầu và làm khô hạn các dòng sông, thì lại chở che người anh em khỏi sức nóng ban ngày. Được làm dịu những đớn đau nhờ những hương thơm toả ngát đầy tràn khứu giác. Cảnh tượng êm đềm của cỏ cây đan chen và trải dài, trao tặng cho anh ánh nhìn về những diệu kỳ lớn lao mà anh có thể thốt lên: Tôi đã ngồi dưới bóng cây này như tôi đã từng ước mong, và trái cây của nó làm dịu ngọt cuống họng tôi. Một buổi hoà tấu của lũ chim hót ca làm mê hoặc đôi tai của anh bởi giai điệu du dương. Như vậy, để trợ giúp người anh em ốm đau, lòng bác ái thiên linh đã rộng ban muôn vàn điều an ủi, bởi vì không khí cười với anh bằng sự tinh trong của nó, trái đất hít thở sự phong nhiêu và chính người anh em đau ốm, với đôi mắt, với đôi tai, với cửa mũi, đón nhận những màu sắc, những giai điệu và những hương thơm tuyệt vời.

Nơi dừng lại đồng cỏ xanh lại bắt đầu với khu vườn, được phân lô vuông vắn và những dòng nước nhỏ chảy xuyên qua. Thật vậy, dòng nước như thể đang mơ ngủ, nhưng lại chảy với nhịp điệu lững lờ. Nơi đây một cảnh tượng đẹp tươi trao tặng cho những anh em đau ốm, họ ngồi bên rìa những thảm cỏ xanh gợn sóng tinh khiết: dưới bức tường mờ ảo của dòng nước, họ nhìn thấy những chú cá nho nhỏ đang đùa giỡn, gợi lại trong tâm trí họ ngày xưa khi chơi dưới dòng nước cũng có những cuộc chiến vui nhộn. Dòng nước như vậy đã mang lại hai việc phục vụ: nuôi sống đàn cá và tưới tắm vườn rau. Dòng nước đó chính là con sông Aube/Rạng Đông, con sông danh tiếng, nuôi sống bằng rãnh chảy liên tục. Nó băng qua nhiều nhà xưởng của đan viện, nơi đâu nó cũng để lại lòng biết ơn vì sự ngoan ngùy tuyệt vời của mình. Nó vất vả dấn thân trong công việc mà không bị hao tổn cũng không trả nợ một cách lười biếng. Nó phân đôi hai thung lũng bởi đường quanh co của dòng chảy một dòng chảy không phải do thiên nhiên nhưng do tài khéo của anh em và dẫn một phần nước về đan viện như để chào mừng anh em và cũng để xin lỗi vì không thể mang tất cả về đây, mà chỉ một phần gặp gỡ được khơi nguồn. Khi xảy ra việc dòng sông tràn ứ và tuôn chảy dữ dội, nhưng bị đẩy lui bởi con đê làm nó phải chảy theo chiều bắt buộc, dòng sông tiếp tục hành trình và lại chảy đều đều và hấp thu sự chảy tràn của mình. Một bức tường như đóng vai trò của người gác cửa, trước hết nó mang sức mạnh cho cối xay, nơi nó hành động mãnh liệt và di động với sức lực bền bỉ, khi thì nghiền lúa mì dưới sức nặng của bàn đá xay, lúc lại tách bột qua những chiếc sàng mịn màng.

Không bao lâu, dòng nước lại đổ đầy nồi hơi của cơ sở bên cạnh và ban tặng lửa nóng để được sưởi lên hầu cung cấp thức uống cho anh em… Dòng nước đã làm thay cho bao sức lao công vất vả của anh em phải còng lưng làm công việc xay xát, hay bao chú ngựa phải mang ách nặng nề để kéo trục xay… Nhưng dòng sông đã làm công việc đó với chúng ta và vì công việc này, dòng nước đã thực hiện dưới ánh nắng chói chang của mặt trời, nhưng nó không chờ đợi gì khác hơn là được phép tự do tiếp tục hành trình của mình…

Dòng nước sau đó lại được đón nhận trong xưởng thuộc da, nơi đó nó tỏ ra rất nhanh nhẹn và nhiệt tâm để thực hiện những công việc cần thiết cho việc chế tác các đôi giày cho anh em. Rồi, khâu, rồi cắt chia bằng nhiều cánh tay, nó quan sát từng khâu và tìm cách can thiệp để từng bước làm nên những sản phẩm… Sau khi đã can đảm hoàn thành công việc mà nó được mời gọi đến đây, nó lại mau chóng trở về sông Aube/Rạng Đông, để dòng sông này thay mặt cho Đan viện Clairvaux/Thung Lũng Ánh Sáng cám ơn về tất cả những thiện hảo của dòng nước, đáp lại sự cứu giúp của nó, bằng một sự cúi chào cung kính. Ngay lập tức dòng nước đổ vào dòng sông những lượng nước mà nó đã kéo đến nơi chúng ta và tất cả chỉ còn là duy nhất, hòa quyện vào nhau…

Nhưng, bởi vì chúng ta đã để lại dòng nước ở nơi tốt nhất của nó, giờ đây chúng ta hãy trở lại với những khe suối mà chúng ta để chúng sau lưng. Chúng xuất phát từ dòng sông Aube/Rạng Đông, rồi đi dạo tới cánh đồng cỏ theo những hình vòng cung không mạch lạc. Như thế, chúng tưới tắm và làm phì nhiêu đất đai, vì nếu không, thì vào mùa xuân, khi đất đai mang thai chờ sinh nở, những nụ non sẽ khô héo vì thiếu độ ẩm. Và những đồng cỏ không cần được tưới đẫm nhờ cơn mưa cần van xin trời cao ban phát, bởi vì chúng đã được chăm sóc kỹ càng bằng những thiện hảo của em mình là dòng sông. Những khe suối này, hay đúng hơn những rãnh nước này nếu người ta nhìn chúng theo vai trò đảm nhận, một lần nữa lại được hấp thụ bởi dòng sông, rồi lại được sai đi khắp các sườn đồi…

Đây là một nơi đầy vẻ đẹp quyến rũ, một nơi làm thư thái những tâm trí sầu buồn và đánh tan những nỗi buồn man mác, một nơi khơi lên lòng cảm mến cho những ai kiếm tìm Thiên Chúa và cho họ tiên kiến sự dịu ngọt trời cao mà chúng ta hằng ước mong, khi mà khuôn mặt xinh tươi của đất đai mở đôi mắt nhìn những sắc màu phong phú, quang cảnh xanh tươi và toả ra hương thơm cho khứu giác tràn đầy. Nhưng, khi tôi chiêm ngưỡng những cánh hoa này, khi tôi hít thở hương thơm của chúng, những đồng cỏ đây gợi nhớ cho tôi những giai thoại ngày xưa. Thật vậy, khi tôi cảm nghiệm những tuyệt vời của hương thơm này, tôi chợt nhớ đến y phục đượm hương của tổ phụ Giacóp được sánh ví với mùi hương dìu dịu của cánh đồng hoa nở. Và khi đôi mắt tôi vui thích vì màu sắc của chúng, tôi bỗng nhớ rằng vẻ đẹp của chúng còn được đánh giá cao hơn long bào gấm vóc của vua Salômôn, mà trong vẻ cao sang tột đỉnh, cũng không thể ngang bằng vẻ huy hoàng của những cánh hoa huệ trong cánh đồng. Như vậy, trong khi tôi tận hưởng những thiện hảo bên ngoài, tôi lại được quyến rũ thật sâu bởi những biểu tượng được ẩn kín nơi chúng. Những cánh đồng này nhận được sự chăm sóc của dòng sông tưới đẫm khi băng qua chúng và cỏ cây tìm được độ ẩm ướt cho bộ rễ của mình. Như thế, chúng không còn sợ mùa hè nóng cháy. Những cánh đồng trải dài thật xa, đến nỗi khi tới lúc cỏ được cắt để dành làm cỏ khô nhờ mặt trời sấy nóng, thì anh em cũng phải vất vả đến cả hơn chục ngày. Dầu vậy, các đan sĩ không lao động một mình, họ được trợ giúp bởi đông đảo anh em quy sĩ và hiến sinh cũng như những gia nhân với những chiếc cào lật đi lật lại cỏ trên mặt đất phẳng phiu.

Hai trang trại phân đôi đồng cỏ này, và  để tránh những cãi cọ tranh giành, dòng sông Aube/Rạng Đông, đóng vai trọng tài và kiểm soát viên công bằng, giúp đỡ chúng, chỉ định mỗi trang trại phần của mình trong sự phân phối cỏ khô, và đưa ra giới hạn để không bên nào vượt qua ranh giới được chỉ định…

Và trong khi tôi rảo bước trên mặt đất trơn với những bước chân nhè nhẹ, trong khi tôi leo lên những ngọn đồi như muốn ngừng thở và trong khi tôi miêu tả lúc thì chiếc áo lụa là của đồng cỏ như được chính Đấng Thượng Trí vẽ lên với chính bàn tay của sự khôn ngoan, lúc thì những đỉnh cao của các ngọn đồi với bộ tóc xoăn của nó, thì đây tôi cảm thấy mình vô ơn với nguồn suối không thể phát hiện mà tôi đã giải khát biết bao lần nguồn suối xứng cho tôi nhưng lại được trả công tồi tệ. Nó trách mắng tôi ngay vào mặt: đã bao lần nó giúp tôi giải toả cơn khát, nó khiêm hạ chấp nhận tắm rửa tôi, không những đôi tay nhưng cả đôi chân; và với tất cả lòng chạnh thương nó mang đến cho tôi bao việc phục vụ; tóm lại, tôi đã trả công cho nó với một giá thật bèo, nó lại nằm cuối danh sách liệt kê của tôi có khi nó cũng chẳng có mặt nữa đang khi đó nó đáng được đứng đầu danh sách, xét vì những công lao huân nghiệp của nó. Nhưng chính nó, biến mình không tiếng động trong những tháp canh hay những đường hầm, mọi nơi nó che đầu kín mít và ẩn khuất khỏi tầm nhìn, như thể nó sợ bị phản bội… Nó cư ngụ và ẩn giấu bởi căn nhà tranh che chở nó khỏi mọi ô nhơ. Và ngay khi núi đồi sản sinh nó, ngay lập tức thung lũng lại nuốt chửng nó ngay: nó chết đi và được mai táng ngay tại nơi nó được sinh ra. Nhưng bạn đừng chờ đợi câu chuyện của ngôn sứ Giona, nghĩa là nó che giấu ông trong vòng ba ngày đêm, nó lại trỗi dậy trong nội vi đan viện, nghĩa là trong lòng đất, và nó xuất hiện như được tái sinh, để không chỉ trao ban chính mình cho người ta nhìn thấy mà còn để anh em sử dụng và từ đây không chia sẻ với anh khác ngoài các thánh nhân.”

KẾT: Xây Dựng Những “Thung Lũng Ánh Sáng”

Trong bài viết trên, chúng ta có thể nhận ra một phần nào nỗ lực của các Đan sĩ Xitô trong việc xây dựng môi sinh. Môi sinh được đề cập ở đây là môi trường sống của các đan sĩ, là chính đan viện của họ. Việc xây dựng này với bao nhiêu vất vả, nhưng đã mang lại rất nhiều thành công không những cho các đan viện mà còn cho xã hội.

Tuy rằng ưu tiên của các Đan sĩ Xitô là tạo dựng cho mình môi trường sống – môi sinh – nhưng chính mô hình này đã trở thành mẫu cho xã hội nông nghiệp Âu châu thời đó. Các đan sĩ đã chỉ dẫn cho dân chúng các phương pháp, kỹ thuật canh tác, chăn nuôi, để đạt nhiều hiệu năng. Bộ mặt xã hội thay đổi, mức sống của dân chúng được nâng cao. Cùng với sự phát triển kinh tế, cuộc sống trí thức và thiêng liêng cũng được cải thiện rất nhiều. Chiêm ngưỡng các đan viện, người ta được mời gọi nâng cao tâm hồn, vì những kiến trúc kia luôn toả ra một lực thu hút con người vươn lên trời cao. Nhìn thấy các đan sĩ lao động hăng say và vui tươi dù công việc nặng nhọc, người ta được mời gọi thánh hoá và thăng hoa những lo toan cuộc sống. Cuộc sống âm thầm ẩn mình trong nội vi đan viện lại có sức truyền tải những sứ điệp mạnh mẽ cho những người bên ngoài. Những phát minh kỹ thuật giúp ích cho công việc đã mang lại cho con người cuộc sống tốt đẹp hơn, để qua đó, dần dần khám phá ra chính ý nghĩa của cuộc nhân sinh. Các Đan sĩ Xitô ngày xưa đã hoàn thành công cuộc của họ khi họ nhiệt tâm tìm Thiên Chúa trong cô tịch, trong sa mạc, nhưng đã biến sa mạc thành những thành phố đông đúc của những tâm hồn khát vọng đời chiêm niệm. Qua cầu nguyện và lao động, qua sách vở cũng như thiên nhiên, cuộc sống Xitô đã là khuôn mẫu cho một Âu châu Kitô giáo sống động. Phải chăng đó cũng là lời mời gọi và cũng là thách thức cho các Đan sĩ Xitô ngày nay? Thung Lũng Ánh Sáng ngày xưa đã đưa bao nhiêu tâm hồn sống trong bóng tối đến nguồn Ánh Sáng chân thật, đã dẫn những con người khao khát Đấng Tuyệt Đối đến gặp Người là chính Đấng Tình Quân của mình. Nơi Đan viện Thung Lũng Áng Sáng đó – như biểu tượng của các Đan viện Xitô – đã là điểm hẹn của những người sống trong “thung lũng đầy nước mắt” trở thành nơi cư ngụ của những ai được sống trong ánh sáng thần hoá, và nơi đây là chính “THUNG LŨNG ÁNH SÁNG”, nơi chiếu sáng và nơi quang toả TÌNH YÊU TUYỆT ĐỐI. Và như thế, “thung lũng ánh sáng” luôn là một môi sinh hằng được mong ước!

 Trở về mục lục


 

 

TỪ HOANG SƠ ĐẾN KÍN NHIỆM

KHÁM PHÁ NHÃN QUAN CỦA CHA BIỂN ĐỨC THUẬN VỀ MÔI SINH ĐAN TU

Duyên Thập Tự

Khi được mời viết về Cha Biển Đức Thuận trong cái nhìn về môi sinh, tôi cảm thấy khó khăn: khó khăn vì vấn đề môi sinh là câu hỏi của thời đại chúng ta. Đó là vấn nạn làm day dứt biết bao nhiêu người với tiếng kêu “hãy cứu lấy trái đất” và như thế cũng là cứu lấy tương lai nhân loại, cứu lấy chính mình. Sự phá hoại môi trường làm đảo lộn cuộc sống của biết bao nhiêu người sống trên hành tinh xanh này do bao nhiêu tai ương bởi chính con người gây ra. Lòng tham vô đáy đã hủy hoại môi sinh và như thế đang đẩy con người vào những sự rủi ro.

Nhưng một điều chắc chắn là vấn nạn môi sinh được đặt ra như trên không phải là vấn đề thời sự của thời gian Cha Biển Đức sống. Thời đó, người ta vẫn khai thác các tài nguyên thiên nhiên, nhưng vẫn có một chừng mực, một hạn định nào đó. Những phương tiện kỹ thuận còn thô sơ, chưa bùng nổ như ngày nay. Môi sinh ngày xưa vẫn có vẻ an toàn, vì nhiệt độ trái đất chưa nóng lên từng năm, nạn phá hoại rừng chưa thành hệ thống và hiện tượng sa mạc hóa chưa phải là điều đáng báo động. Ngày nay, tất cả những thứ đó trở thành đối tượng của loại báo động đỏ.

Như thế, viết về môi sinh vào thời đó, e rằng dễ bị “việt vị”. Chính vì thế, tôi chọn một hướng khác, đó là trình bày môi sinh đan tu. Môi sinh đan tu được đề cập trong bài viết này, chính là Nhà Dòng Đức Bà An-nam – còn gọi là Phước Sơn -; để qua không gian này, khám phá ra ánh nhìn của Cha Biển Đức Thuận về một nơi chốn mang lại ý nghĩa và những giá trị cho những ai sống trong khung cảnh đó. Tôi dựa vào một bài giáo huấn của ngài – “Sự kín nhiệm của các thầy dòng contemplativi (chiêm niệm)” -, để từ những gì được nói lên làm nền cho những khám phá của tôi.

Để có thể khám phá ánh nhìn của Cha Biển Đức Thuận về môi sinh đan tu, tôi thiết lập một trình tự khởi đi từ vùng đất hoang sơ đến chỗ biến thành một nơi sinh sống, rồi nơi môi sinh đó, khám phá ra những chiều kích giúp nhìn ra cái “hồn” được thổi vào không gian đan tu đó.

Trước khi trình bày những suy tư và khám phá, tôi mời quý độc giả nghe lời giáo huấn của Cha Biển Đức Thuận.

“Sự kín nhiệm của chúng ta là gì?

Từ 20 thế kỷ này có vô số các thầy dòng. Các thầy dòng đi giảng, đi giúp các nhà thương trường học, thế gian còn hiểu được. Còn như thầy dòng nguyện gẫm hãm mình như chúng tôi, thế gian không hiểu được.

Vì sao đến nơi vắng vẻ rừng rú này, mà chẳng phải điên, cũng chẳng phải là vô tâm vô trí, như có người hiểu lầm như vậy? Một lần kia, có người gặp cha trên xe lửa, họ tưởng nghĩ chúng ta là hạng điên. Song, không phải vậy. Dòng chúng ta có nhiều người có trí khôn lắm lắm, như các tu viện Dòng Cha Thánh Biển Đức, đã có nhiều bậc khôn ngoan thông thái, nhiều vị vua chúa, bỏ hết mọi sự mà vào dòng.

Vậy, sự kín nhiệm Dòng chúng ta là gì?

Là hằng tìm Chúa, chuyện vãn với Chúa. Đó là sự kín nhiệm của chúng ta. Sự ấy, thế gian không hiểu được. Phước của chúng ta là đó rồi: gặp Chúa, nói khó với Chúa, kính mến Chúa, kết hợp với Chúa. Nói khó với Chúa trong tâm hồn, và trong Phép Thánh Thể. Biết có Chúa ở với mình như vậy, thì được tràn đầy an ủi. Kẻ ấy, khi thấy trời đất và cây cối hoa quả tốt tươi xinh đẹp, thì nói đó là mọi sự Cha tôi đã sáng tạo cho tôi được hưởng dùng mà cảm mến ca ngợi Cha thương tôi thể ấy.

Biết có Cha chúng ta hằng ở với chúng ta, nào có ai làm chi được, cho nên được bình an vui mừng luôn. “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu tốn gì; nơi đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi an nghỉ”. Kẻ gặp được Chúa như vậy, thật là thầy dòng. K ấy hằng khao khát linh hồn người ta, thương yêu anh em mình lắm, và hay xét lành về anh em. Kẻ gặp được Chúa như vậy, lấy làm vui thích quá chừng. Kẻ ấy dầu ai đem cho bạc tiền, cũng chẳng muốn ngó lại, vì đã gặp được Chúa là của vô giá…

Ấy là phước của đời ta. Ai nấy hãy gắng, sẵn sàng luôn cho được chịu lấy ơn Chúa, vì Chúa muốn ban ơn cho chúng ta hơn là chính chúng ta ước ao cho chúng ta.”[66]

 1. TỪ HOANG SƠ ĐẾN MÔI SINH

Trong lời giáo huấn này, Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã diễn tả quang cảnh địa dư của dòng Phước Sơn với diễn ngữ “nơi vắng vẻ rừng rú này”. Thật vậy, dòng Phước Sơn được thành lập trên một khu đất sỏi đá, không màu mỡ. Chúng ta nghe lại tường thuật những ngày đầu Cố Thuận khai phá vùng đất “cày lên sỏi đá” này:

“Cha sai thầy Chánh đi mua nhà, còn ngài, sáng ngày 25 tháng 7, thuê ít công nhân lên Phước Sơn khởi công phá rừng đào gộc dọn đất làm nhà. Buổi đầu, may nhờ nhà kẻ ngoại tên ông Hương Quát, dân cư Quan Cụ, cách xa chừng nửa cây số, cha con nhờ bếp nấu cơm và cho nhân công trọ tối. Còn cha cứ vài ngày một lần đi ngựa t An Ninh sáng đi tối về, cắt đặt công việc, chính cha cũng xắn tay làm. Song than hỡi! Đất sỏi đá rắn, lại thêm nắng hè, thân cha mình gầy, mặt võ, giơ tay da bọc xương, cuốc lấy cuốc để không quản nồng nực, mặc sức mồ hôi thi nhau chảy theo bộ râu, trông mà thảm hại! Cha con phá rú năm bảy ngày, ngọn đồi xem đã quang quẻ đẹp mắt, bớt sợ hùm cọp, thì mới làm cái rạp để nhân công tạm trú.”[67]

Và đây là tâm trạng của Cố Thuận trong thời gian đầu thật khó khăn tư bề, nhưng tràn đầy niềm vui:

“Thăm mẹ yêu dấu,

Đã tám ngày con đang ở trong một nhà nhỏ, con làm tạm, để sau làm nhà bếp, thật là một nhà khó khăn hết sức. Con ở đây cùng một người đang cùng con tập làm thầy dòng và mấy nhân công con thuê làm việc: đốn gốc xẻ rú. Nhờ ơn Chúa, chúng con khoẻ cả… Con đã khởi sự tập làm việc, cuốc đất chặt cây, chặt bổi, là những cây nho nhỏ đủ thứ mọc đầy chung quanh nhà con mới làm… Con làm chưa được cứng cáp mạnh mẽ mấy, nhưng lần sẽ quen…Con còn muôn vàn điều muốn nói với mẹ, nhưng để dành sau, nay nói chuyện thiên đàng đôi chút…”[68]

“Thiên đàng” mà Cha Biển Đức Thuận muốn nói tới, một phần chính là Phước Sơn mà ngài ví đó như là “vườn địa đàng”:

“Tuần sau, con sẽ có một nhà mới, nhà ấy con định dùng làm nhà cơm sau này, nhưng bây giờ thì dùng làm mọi việc: làm nhà thờ, nhà cơm, nhà ngủ, nhà hội chung… Còn cái nhà nhỏ con làm đầu hết kia, thì sẽ dùng nguyên để làm nhà bếp thôi. Chúng con không giàu mấy. Mẹ ôi! Con chắc chưa hề bao giờ mẹ thấy một cái nhà nhỏ mọn khó khăn như nhà chúng con đây. Thế nhưng, Chúa nhân lành hằng ban cho chúng con ở trong cái nhà nhỏ khó khăn này mà lấy làm phước lạc vui vẻ vô cùng, đến nỗi con sợ con vui khoái quá chăng. Vả cái việc nhỏ con mới tổ chức đây xem ra xuôi thuận quá… Chúng con làm việc đây, là làm việc Chúa, thế tất không làm hư mất ngày giờ… Từ khi chúng con cùng nhau bước vào “VƯỜN ĐỊA ĐÀNG” này thì mọi sự xuôi thuận lắm…”[69]

Việc khai phá mảnh đất khô cằn này, rừng rú hoang sơ đây, được tiếp diễn ngang qua ngày sống với bao vất vả của Cha Biển Đức Thuận và các môn sinh. Những mầm non đã mọc lên, phát triển, trong niềm hy vọng của những con người sống ở đó, bám trụ nơi đó. Đất hoang sơ nay trở thành ruộng vườn, rừng rú vắng vẻ này có những người đến sống. Chốn hoang sơ nay trở thành nơi của những con người cảm thấy hạnh phúc.

Niềm hạnh phúc đó, ngay cả những người đến thăm nhà dòng, ở lại một thoáng thời gian cũng đã cảm nghiệm thấy, như chính cụ Nguyễn Hữu Bài, người đã dâng đất cho Cố Thuận lập dòng, đã diễn đạt qua những vần thơ:

Đăng cao tìm cảnh ruổi xe hơi,

Trăm dặm đường xa mới tới nơi.

Bốn phía Phước Sơn đều núi trọc,

Một nhà tu viện giữa rừng còi.

Gió thu như giục hao lòng khách,

Mùi đạo càng suy, ngán sự đời.

Khổ hạnh khen ai tu quả phúc,

Vui chưng bần tiện mấy lăm người.[70]

Đến lượt mình, Ưng Bình Thúc Gia Thị, cũng sáng tác một bài thơ tả phong cảnh đan viện Phước Sơn và nhắc lại công ơn người đã dâng đất để Cố Thuận lập dòng:

Rừng sâu rú rậm cảnh bao la,

Gọi Phước Sơn đây đã đến à!

Thấy chỗ công phu trường khổ hạnh,

Khác nơi danh lợi cõi phiến ba.

Quanh năm dưa muối, ngày hai bữa,

Bốn bể anh em, bạn một nhà.

Ơn Chúa cũng ơn người sáng tạo,

Bùi ngùi nhớ cụ Phước Môn ta.[71]

Qua những điều được viết trên đây, khi trích một vài tường thuật cũng như thư tín của Cha Biển Đức Thuận, tôi muốn nhấn mạnh đến cấp độ thứ nhất của môi sinh, đó là sự biến chuyển từ hoang sơ đến chỗ con người có thể sinh sống và sống vui vẻ, hạnh phúc. Môi sinh là thế, là nơi mà con người có thể sinh hoạt và sống thích hợp với phẩm giá của mình. Để có thể đạt được điều đó, không phải “tự nhiên thành” mà phải có công sức của chính con người, và những công sức đó làm nên những giá trị vừa nhân văn vừa thánh thiêng.

a. Giá trị thứ nhất là lao động

Cha Biển Đức Thuận cùng với các môn sinh, đã “đổ mồ hôi trán, rán mồ hôi lưng”, và hằng ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để có thể cải tạo vùng đất khô cằn trở thành nơi đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống. Chính Đức Cha Allys Lý có những e ngại về tương lai của Phước Sơn – những lo ngại về khó khăn hiện tại báo trước một tương lai quá bấp bênh – và đã hơn một lần ngài truyền cho Cha Biển Đức Thuận đi tìm hiểu đất Ngân Sơn tại Quảng Bình để dự trù một cuộc di chuyển. Nhưng rồi, với thời gian, với sự cần cù của “những người đang tập làm thầy dòng”, vùng đất đó không những nuôi sống và còn có thể phát triển, để trở thành bàn đạp, cho sự rộng mở các cộng đoàn tương lai, như chính Đức Cha mong muốn và nhìn thấy viễn cảnh tương lai. Như vậy, lao động mang một giá trị nhân văn và thiêng liêng. Chúng ta hãy nghe Cha Biển Đức Thuận giáo huấn các môn sinh của mình:

“Trong chúng ta ai nấy làm việc xác làm nặng nề, buồn bực, chán ngán, thì ở Nhà Dòng này không được. Ở Nhà Dòng này phải làm việc xác, ai theo sức nấy. Việc xác là việc đền tội, và cũng là việc các thánh đã làm. Sự ăn chay cũng là việc đền tội, nhưng cũng không bằng việc xác. Khi ở trong nhà thờ, miệng nói: Lạy Chúa, con kính mến Chúa! Đến khi ra làm việc, phải ép mình chịu khó một chút, lại chán ngán buồn phiền. Như vậy, chưa phải là kính mến Chúa thật đâu, mới có ở nơi miệng thôi. Cha biết lúc chúng ta nói: Lạy Chúa, con kính mến Chúa, thì cũng muốn lắm đó, dẫu chưa thật vì trong việc làm chưa có. Cố gắng lần lần sẽ được, hễ muốn thật chắc sẽ được, không mau thì lâu.… Việc xác là điều thế gian ghê tởm làm, họ chỉ lo tìm đàng mà lánh đi cho khỏi, khỏi chừng nào hay chừng ấy… Việc xác cũng là việc Chúa Giêsu đã lấy làm cần, chính Người đã tra tay làm việc nặng nề khó nhọc lâu năm ở Nazareth. Lại các thánh xưa nay cũng làm việc xác mà nuôi mình. Vậy, chúng ta đã hiểu, việc xác là điều có ích, giúp chúng ta cả phần hồn lẫn phần xác.”[72]

b. Giá trị thứ hai là sự hiệp nhất và liên đới

Trên phạm vi toàn cầu, sự hiệp nhất và liên đới đó được đặt nền tảng trên sự kiện “gia đình nhân loại”. Tất cả mọi người, mọi quốc gia đều là một gia đình và phải hướng về gia đình rộng lớn hơn. Hình ảnh rất gợi ý, đó là “mái nhà chung”. Cùng nhau xây dựng nơi ở cho mọi người.

Quay trở lại với nhãn quan của Cha Biển Đức Thuận về môi sinh ở cấp độ thứ nhất là “từ hoang sơ đến môi sinh”, chúng ta nhận ra giá trị thứ hai mà ngài và các môn sinh đã sống khi xây dựng Dòng Phước Sơn. Một mình Cha Biển Đức Thuận sẽ không làm được gì. Nếu chỉ có các môn sinh, thì công cuộc cũng chẳng đến đâu. Và nếu chỉ có “cha con mình” thì chắc không đi đến chỗ thành công. Cần những người ngoài cộng đoàn trợ giúp, các ân nhân với nhiều đóng góp khác nhau. Tất cả làm thành một gia đình.

Nhưng tôi muốn nhấn mạnh đến đời sống cộng đoàn, tình huynh đệ. Chính tình yêu này làm biến đổi nơi hoang sơ thành nơi của sự sống, chốn rừng rú thành nơi  trú ngụ của con người, của những con người cùng mang trong mình một lý tưởng, xây dựng một nếp sống. Tình huynh đệ – với sự hiệp nhất và liên đới, với sự đồng lao cộng khổ, với ý thức đồng sinh đồng tử – đã làm nên những điều kỳ diệu là xây dựng một môi sinh vừa nhân văn vừa thánh thiêng. Một lần nữa, chúng ta lắng nghe một vài tâm tư của Cha Biển Đức Thuận về sức mạnh tình yêu huynh đệ này:

“Phần chúng ta, chớ ăn ở, yểu điệu nhát gan, mạnh khoẻ thì làm việc nặng, yếu thì làm việc nhẹ. Xét trong một gia thất thì thấy rõ việc ấy, không cần phải cha nói dài lời. Nhà Dòng này cũng là một gia thất, cha con, anh em thương yêu nhau, giúp đỡ nhau.”[73]

“Đức khiêm nhường bậc thứ nhất, là nhìn biết mình có sự gì lành, là bởi Chúa ban mới có. Cho nên, trong chúng ta có kẻ có trí khôn hơn. Vậy anh có trí khôn hơn vì Chúa ban cho anh có trí hơn, còn em có trí khôn thua vì Chúa ban cho em ít; anh có trí sáng học mau, em có tối trí thì học lâu; vì Chúa muốn vậy. Anh có sức mạnh mẽ vì Chúa ban cho anh, em yếu sức vì Chúa ban cho em như vậy… Vậy, chúng ta ai nấy cũng là anh em với nhau cả, đang đi cùng nhau một đường, tiến về cùng Cha chúng ta ở trên trời, và lãnh nhận mọi ơn huệ nơi Người.”[74]

“Chúng ta là anh em với nhau, đi đàng nhân đức như nhau, cho nên phải thương yêu nhau, chẳng những anh em ở một nhà với chúng ta đã rồi, lại phải thương yêu hết mọi người.”[75]

Nếu tất cả các khả năng, tất cả những ân huệ Chúa ban, được đầu tư để cùng xây dựng thì chắc chắn sẽ có một môi sinh đầy triển nở và phong nhiêu. Tình huynh đệ, tình gia đình của những ai sống đời thánh hiến có khả năng làm nên những điều cao cả, hình thành những môi sinh tuyệt vời.

c. Giá trị thứ ba là niềm tin

Không có niềm tin, không thể có thành quả, không thể biến cái hoang sơ thành nơi phong nhiêu được. Chính niềm tin mang đến hy vọng và hy vọng cưu mang những điều lớn lao.

Khi bước vào nơi rừng rú mà “hàng xóm” lại là những dã thú rình rập gây nguy hiểm cho tính mạng, chắc chắn Cha Biển Đức Thuận phải mang trong mình một niềm tin sắt đá, kiên vững như bàn thạch. Đối diện với bao thử thách – mà chúng ta có thể biết khi đọc cuốn Hạnh Tích, tiểu sử viết về ngài từ chính những gì ngài viết lên trong các thư tín –, Cha Biển Đức Thuận đã trải nghiệm muôn vàn gian nan thuộc mọi phương diện và dưới mọi khía cạnh của cuộc sống. Nhưng, một khi đã quyết – một cái quyết được chín muồi trong suốt thời gian dài cưu mang và chờ đợi chín năm – thì không trở ngại nào có thể cản bước ngài đi. Chính nhờ niềm tin – tin vào con đường đã chọn – mà mảnh đất hoang sơ đã trở thành một môi sinh đong đầy hạnh phúc, niềm vui cho chính ngài và những ai bám trụ nơi đó.

Niềm tin đó, ngài đã xây dựng trên chính đức tin vào Thiên Chúa, Đấng một khi muốn thì sẽ thành sự. Rất nhiều lần ngài đã khẳng định, điều Chúa muốn là quan trọng nhất. Danh xưng THUẬN đã diễn tả chính cuộc sống của ngài: trong mọi hoàn cảnh, thuận theo ý Chúa.

“Cần gì mà lo lắng. Chúng con làm việc ở đây, là làm việc Chúa, thế tất không làm hư mất ngày giờ. Nếu Chúa nhân lành không muốn cho nên việc, thì chúng con cũng không ưng cho thành công: đó là mọi ý chỉ của con.”[76]

Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận tự hỏi mình và những ai bước vào sống trong Nhà Dòng Phước Sơn: “Vì sao đến nơi vắng vẻ rừng rú này, mà chẳng phải điên, cũng chẳng phải vô tâm vô trí, như có người hiểu lầm như vậy”. Những con người đã đến và ở lại nơi đây, họ không điên – họ rất tỉnh – họ không vô tâm vô trí – họ rất hiểu và dấn thân – để biến nơi đây thành nơi sinh sống được, để chính ở nơi đây, ý nghĩa cuộc đời họ được tìm thấy. Họ đầu tư con tim khối óc, sức lực vào công cuộc này. Lao động, tình gia đình, niềm tin: đó là ba sức mạnh được đầu tư vào công cuộc khai hoang vùng đất khô cằn để biến thành môi sinh, nơi con người sinh sống và triển nở. Nhưng đó mới chỉ là cấp độ thứ nhất. Môi sinh này không chỉ có nhiệm vụ cung cấp điều kiện sống, mà còn hơn thế nữa, phải mở ra những chiều kích của những ai sống nơi đó.

2. MÔI SINH: NƠI CỦA CHIÊM NIỆM

Cha Biển Đức Thuận hỏi: “Vì sao đến nơi rừng rú này?” Chắc chắn những người đến đây – ngài và những người khác – đều mong muốn là “trở nên thầy dòng”, mà là “thầy dòng nguyện gẫm hãm mình”. Kiểu nói “thầy dòng nguyện gẫm hãm mình” – một kiểu nói ngày xưa – để diễn tả ơn gọi và đời sống đan tu. Như vậy, những con người đến rừng rú này không phải để trở thành những “robinson” hay “tarzan” thời đại, mà chính yếu là sống cuộc sống của những thầy dòng “contemplativi”, nghĩa là chiêm niệm. Nhưng tại sao nơi rừng rú này lại có thể trở thành nơi của chiêm niệm?

Trong lời giáo huấn – chúng ta đang suy niệm –, Cha Biển Đức Thuận nói: “Kẻ ấy, khi thấy trời đất và cây cối hoa quả tốt tươi xinh đẹp, thì nói đó là mọi sự Cha tôi đã sáng tạo cho tôi được hưởng dùng mà cm mến ca ngợi Cha thương tôi thế ấy. Biết có Cha hằng ở với chúng ta, nào có ai làm chi được, cho nên bình an luôn. “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì, nơi đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi an nghỉ”.

Chúng ta chợt nhận ra rằng “nơi rừng rú” hoang sơ ngày nào đó khi mới khởi công thành lập Nhà Dòng, nay đã có “cây cối hoa quả tốt tươi xinh đẹp”, đó là cây chè, cây mít, đồng lúa, củ mì, củ khoai… mà Cha Biển Đức Thuận, khi viết cho bà kế mẫu, đã diễn tả là “ngon quá sức!” Nơi đó đã trở thành một môi sinh phong nhiêu mang lại sự “ấm no” cho những người sống nơi đó. Và, còn hơn thế nữa – hơn những thứ đáp ứng nhu cầu vật chất – môi sinh đó trở thành nơi của sự chiêm ngưỡng, đối tượng của chiêm niệm, mà chiêm niệm chính là “hồn sống” của những con người cảm nghiệm những tốt lành nơi “rừng rú” đó. Nơi đây chúng ta thấy giá trị của đôi mắt, giá trị của miệng lưỡi và giá trị của sự nghỉ ngơi.

a. Giá trị của đôi mắt

Động từ “thấy” diễn tả sự chiêm ngắm, chiêm niệm. Môi sinh là đối tượng của sự chiêm niệm, khi những gì hiện hữu nơi đó, trở thành lời mời gọi để “nâng tâm hồn lên”. Thật vậy, thụ tạo, khi được Thiên Chúa tạo dựng và khi con người cộng tác để làm tươi tốt hơn, phải là nơi của sự chiêm ngưỡng những kỳ công của Thiên Chúa. Nơi đây, chúng ta nhận ra một sự vượt thoát ra khỏi “chủ nghĩa hưởng thụ”, một thứ “văn hoá tiêu thụ”. Đương nhiên, những gì mọc lên, sinh sống trên địa cầu này là để cho con người hưởng dùng; nhưng chúng cũng cần được “thăng hoa” khi tâm trí của con người vươn cao lên tận Thiên Chúa. Vì thế, đôi mắt trở thành “cửa sổ” nhìn thấy vẻ đẹp của thế giới, để “cửa sổ tâm hồn” mở ra cho những chiều kích cao hơn.

Hình ảnh Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, như những hình ảnh biểu trưng của ngài, là cúi mặt xuống, nhắm mắt lại. Như vậy, thì làm sao có thể chiêm ngắm được vẻ đẹp của cảnh vật, nhìn thấy những gì xảy ra trên mặt đất hay chuyển động trong không gian. Đâu có phải lúc nào ngài cũng nhắm nghiền đôi mắt lại; nếu như vậy thì làm sao đi đứng và sinh hoạt? Nhưng thái độ “nội tâm hoá” này luôn đi sau sự quan sát của các quan năng thể lý, để đưa những gì “tai nghe, mắt thấy” vào một không gian khác, một môi sinh khác, đó là “cảnh vực chiêm niệm”. Làm sao có thể chiêm niệm được từ những tốt đẹp của thụ tạo mà lại không có nỗ lực “đưa vào” và “nâng cao”: đưa vào nội tâm và nâng cao lên khung trời của Thiên Chúa. Như vậy, môi sinh lại là nơi phát sinh ra sự chiêm niệm cho những ai “có hồn chiêm niệm”. Môi sinh được thăng hoa thành một “cảnh vực thần linh”.

b. Giá trị của miệng lưỡi

Miệng lưỡi sẽ đi sau đôi mắt, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thụ tạo sẽ dẫn đến “cám mến ca ngợi”. Khi nhìn thấy vẻ đẹp của thụ tạo và khám phá trong đó quyền năng, tình thương của Thiên Chúa, tâm hồn chiêm niệm chuyển động trong sự ngất ngây và vọt lên bằng những ngôn từ diễn tả lòng cảm mến. Môi sinh chứa đựng những điều tốt lành của Thiên Chúa không những đáp ứng nhu cầu cho miệng lưỡi khi đón nhận thức ăn mà còn là nơi để miệng lưỡi phát xuất ra những tâm tình cảm tạ từ sâu thẳm tâm hồn. Tâm hồn chiêm niệm không ca ngợi vật chất, nhưng ca ngợi Thiên Chúa; vật chất trở thành chất liệu cho hồn chiêm niệm. Chúng ta có thể đọc lại một giáo huấn của Cha Biển Đức Thuận khi ngài mời gọi “Hãy cất lòng lên”.

“Bởi đâu các thánh hay đặt ca vãn? – vì sự đọc ca vãn hay hát kinh, có sức đem linh hồn người ta lên cao, còn xác thịt hèn hạ, thì ưa những sự trầm trệ thấp hèn ở đời… Chúng ta hãy cất lòng lên quá khỏi thế này. Phước chúng ta cao trọng lắm, đó là được chính Chúa. Hãy ra sức tìm Chúa cho được.”[77]

Như vậy, môi sinh là cơ hội, là lực đẩy để tâm hồn chiêm niệm hướng tới Chúa, đạt tới Chúa. Môi sinh được thăng hoa nhờ việc con người biết chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Và đó là sự cao cả của môi sinh, là điểm tới của không gian sống của thụ tạo: nơi thụ tạo, sự gặp gỡ sống động giữa con người và Thiên Chúa.

c. Giá trị của sự nghỉ ngơi cho tâm hồn

Khi đề cập đến việc ca ngợi Chúa vì những điều tốt đẹp Chúa ban cho hưởng dùng, Cha Biển Đức Thuận đã trích Thánh vịnh 22: “Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trong đồng cỏ xanh rì, Người cho tôi nằm nghỉ”. Nơi đây, chúng ta thấy giá trị của sự an nghỉ mà Chúa ban cho tâm hồn chiêm niệm. Thật vậy, sự an nghỉ đây không những là sự nghỉ ngơi sau khi được ăn no, nhưng còn hơn cả sự no thoả vật chất dành cho bao tử, mà là sự no thoả khi chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong tình thương chăm sóc của Người.

Theo truyền thống của Xitô, chiêm niệm là sự nghỉ ngơi của tâm hồn. Linh hồn chiêm niệm tìm được nơi Thiên Chúa sự thoả mãn tất cả mọi khát khao và chờ mong. Bởi chính Thiên Chúa làm cho con người no thoả và sự chiêm niệm dẫn đưa đến sự nghỉ ngơi của ngày sabát trường cửu. Thánh Bênađô, trong tác phẩm De Consideratione đã trình bày ba cách thức đối diện với những gì bao quanh. Thứ nhất là linh hồn sử dụng vật chất như phương tiện để phục vụ tha nhân và Thiên Chúa. Thứ hai là linh hồn sử dụng của cải vật chất không để dừng lại nhưng như một chiếc xe – velut quodam vehiculo – chuyên chở đến tận Thiên Chúa. Cách thức thứ ba như là điểm tới và hoa trái của hai cách thức trên – quod prima aptat, secunda odorat, tertia gustat – linh hồn tĩnh niệm trong chính mình, và với sự trợ giúp của Thiên Chúa, vượt thoát trần gian để bay lên chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Đó là sự vui thỏa, hưởng nếm Thiên Chúa và nghỉ ngơi trong Tình Yêu.

Môi sinh đã đạt đến điểm hẹn của nó là Thiên Chúa. Và đó là giá trị tuyệt vời của không gian sinh sống của con người: trở thành bàn đạp, đôi cánh giúp bay lên Thiên Chúa. Tâm hồn chiêm niệm đã thăng hoa môi sinh vật chất để biến thành một cảnh vực thần linh. Đó là cấp độ thứ hai của môi sinh.

3. MÔI SINH, NƠI CỦA CUỘC SỐNG KÍN NHIỆM

Trong lời giáo huấn mà chúng ta đang suy tư, Cha Biển Đức Thuận đề cập đến sự kín nhiệm: “Vậy sự kín nhiệm Dòng chúng ta là gì? Là hằng tìm Chúa, chuyện vãn với Chúa, kết hiệp với Chúa. Đó là sự kín nhiệm của chúng ta. Sự ấy thế gian không hiểu được. Phước chúng ta là đó rồi: gặp Chúa, nói khó với Chúa, kính mến Chúa, kết hiệp với Chúa. Nói khó với Chúa trong tâm hồn mình, và trong Phép Thánh Thể. Biết có Chúa ở với mình như vậy, thì được đầy tràn an ủi.”

Qua những lời trên, chúng ta khám phá ra “nơi vắng vẻ rừng rú” này – Dòng Phước Sơn, môi sinh đan tu – lại xảy ra những điều thật nhiệm mầu: mầu nhiệm của sự hiện diện của Thiên Chúa, mầu nhiệm của mối tương giao giữa Thiên Chúa và những con người sống trong môi sinh đó. Nơi môi trường này vẫn có những gai góc, thú dữ và cuộc sống vất vả, lại hiện diện những điều vượt quá trí hiểu của người đời, “thế gian không hiểu được”. Những điều “thế gian không hiểu được” lại là những điều làm nên hạnh phúc của các “thầy dòng hãm mình đền tội”, nhưng đó lại là hạnh phúc mang tính “kín nhiệm”. Nơi đây, trong môi sinh là Dòng Đức Bà An-nam, chúng ta có thể khám phá ra ba giá trị mang tính huyền nhiệm.

a. Giá trị của huyền nhiệm Thiên Chúa

Cha Biển Đức Thuận nói về huyền nhiệm của sự hiện diện Thiên Chúa trong “phép Thánh Thể”. Đây là một sự hiện diện vừa mang tính mầu nhiệm vừa mang tính kín nhiệm. Mầu nhiệm vì Chúa Giêsu hiện diện thật sự, nhưng chỉ có thể nhận ra nhờ đức tin, nghĩa là sự hiện diện đó trở nên sống động cho những ai đi vào chính mầu nhiệm nhờ đức tin soi sáng. Nhưng sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể lại được đặt trong một không gian – một môi sinh –, đó chính là nhà nguyện của đan viện. Thánh Thể Chúa không thể lơ lửng trên không trung, nhưng được đặt ở một nơi cụ thể, trong một không gian địa dư. Như vậy, chính Thánh Thể Chúa làm rạng sáng môi sinh đan viện. Thánh Thể Chúa mang lại chiều kích linh thánh cho môi sinh, đồng thời đem đến niềm vui hạnh phúc cho những ai sống trong môi sinh đó. Trái lại, sự vắng bóng của Thánh Thể trong môi sinh là Nhà Dòng, diễn tả một sự thiếu vắng quan trọng nhất. Cha Biển Đức Thuận đã viết cho mẹ kế của ngài:

“Xin mẹ thưa cùng Chúa rằng: không có Mình Thánh Người ở với chúng con thì chúng con cực lắm, xin Người mau mau đến ngự giữa chúng con để chúng con chầu chực hầu kính mến Người hết sức chúng con.”[78]

Vào nhà nguyện để cầu nguyện trước Thánh Thể Chúa là một thói quen đạo đức của Cha Biển Đức Thuận, nơi không gian đó, trong thời điểm ấy, tâm hồn của ngài được rạng sáng và từ đó mọi sinh hoạt của cuộc sống được quang toả bởi sự hiện diện thần linh. Như vậy chúng ta có thể nói rằng môi sinh thần linh là Thánh Thể Chúa – vì đó là sự hiện diện thật sự và thánh thiêng nơi Chúa Giêsu – thấm nhập vào môi sinh nhân văn là nơi sống của các thầy dòng, để biến không gian sống của con người – những con người chiêm niệm – thành một cảnh vực thần linh. Đồng thời, không gian đó mang chiều kích kín nhiệm, vì tất cả xảy ra trong thinh lặng, trong sâu thẳm, mà “giác quan không cảm thấy gì”, nhưng thật sự đã xảy ra.

b. Giá trị của huyền nhiệm tâm hồn

Cha Biển Đức Thuận cũng nhấn mạnh đến một nơi mà sự hiện diện huyền nhiệm và kín nhiệm của Thiên Chúa thật quan trọng, đó là tâm hồn con người: “Chúa trong tâm hồn mình”. Không gian nội tâm và đúng hơn là trọn vẹn con người là nơi Chúa hiện diện. Nhưng Thiên Chúa hiện diện một cách tràn đầy nhờ ơn thánh sủng của Người. Cha Biển Đức Thuận đã dạy các môn sinh của ngài:

“Cha xin nhắc lại cho chúng con, xin chúng con hãy nhớ, khi chúng ta được ơn nghĩa thánh, thì chúng ta được điều rất quí trọng, là được chính mình Chúa. Khi chúng ta đã được Chúa rồi, chúng ta đâu còn thiếu điều gì nữa.”[79]

Như vậy, không gian nội tâm là chính con người – những thầy dòng contemplativi – có sự hiện diện của Thiên Chúa, mà những con người đó sống trong nhà dòng, thì chính môi sinh là nhà dòng đây được toả sáng bởi sự hiện diện của Thiên Chúa. Một cuộc sống ân nghĩa thánh có khả năng làm rạng sáng môi sinh địa dư. Huyền nhiệm của Thiên Chúa trong cuộc sống của con người ân nghĩa thánh làm cho môi sinh thấm được huyền nhiệm. Điều đó khẳng định rằng con người thánh mang lại chất thánh cho môi sinh. Chính Cha Biển Đức Thuận xác tín điều này khi ngài mời gọi các môn sinh “cám ơn Chúa đã gọi chúng tôi vào dòng”: “Chúng tôi hãy năng nhớ mà cám ơn Chúa, vì Chúa đã thương chúng tôi vào dòng này. Thật là một ơn rất trọng… Các thánh hằng quí trọng ơn phước ấy, như bà thánh Maria Madalêna de Pazzi năng hôn vách tường nhà dòng, và hằng cám đội ơn Chúa…”[80].

Chúng ta có thể “cười” về thái độ của bà thánh trên. Nhưng, chúng ta cần nhận ra thái độ đó phát xuất từ xác tín rằng nhà dòng là một môi sinh thánh thiêng, một cảnh vực thần linh, mà chỉ có những ai hết lòng yêu mến ơn gọi và biết ơn Chúa mới có thể diễn tả như vậy.

c. Giá trị của huyền nhiệm hiệp thông giữa Thiên Chúa và tâm hồn

Huyền nhiệm của sự hiện diện Thiên Chúa, huyền nhiệm của tâm hồn tràn đầy ơn nghĩa thánh, được gắn kết với nhau bằng sự thông hiệp. Sự thông hiệp đó, Cha Biển Đức Thuận diễn tả một cách dễ hiểu qua các diễn ngữ: “tìm Chúa”, “chuyện vãn với Chúa”, “kết hiệp với Chúa”, “kính mến Chúa”, “nói khó với Chúa”. Những hành động đó diễn đạt mối tương giao: tương giao của những người tìm nhau, yêu nhau, đối thoại với nhau và gắn kết với nhau nên một thần trí.

Những hành động đó nối kết Thiên Chúa với thầy dòng contemplativi, là những con người sống đời chiêm niệm của mình trong một không gian là nhà dòng, là chính đan viện của mình. Như thế, môi sinh lại chất chứa những điều kỳ diệu, cao cả. Kỳ diệu, cao cả đến nỗi “thế gian không hiểu được”, vì vượt quá tầm hiểu và thẩm định, nó thuộc một lãnh vực khác, đó là lãnh vực của mầu nhiệm: mầu nhiệm tương giao giữa Thiên Chúa và con người. Mầu nhiệm này không thể cân đo đong đếm với những dụng cụ nhân loại. Nhưng chỉ những ai đã trải nghiệm, đã nếm cảm, mới hiểu được đó là gì, thế nào là đời sống thiêng liêng.

Cha Biển Đức Thuận giải thích:

“Chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse, xưa ở thế hằng sống thiêng liêng cùng Chúa, xin các ngài giúp chúng ta cũng đặng như vậy. Nếu trong nhà dòng này đặng như vậy, thì vui biết mấy. Cha nói lại, kẻo có người không hiểu, nghe nói sống thiêng liêng mà không biết sống thiêng liêng là làm sao. Vậy sống thiêng liêng là sống với Chúa, với Đức Mẹ và các thánh trên trời; cũng như chúng ta sống trong Nhà Dòng này, với bề trên và các anh em vậy. Sự sống thiêng liêng thiết thực là như thế đó. Có như vậy, ở trong Nhà Dòng này mới vui thích.”[81]

Khi giải thích về đời sống thiêng liêng, Cha Biển Đức Thuận đã dùng phép so sánh về các mối tương giao và đồng thời nhấn mạnh đến môi sinh là nhà dòng: sống các tương giao trong một môi trường cụ thể, và môi trường đó phải là một môi sinh, vì là nơi của sự sống. Đời sống thiêng liêng, mối tương giao mật thiết với Thiên Chúa biến môi sinh thành nơi của mầu nhiệm và kín nhiệm, nơi của những cuộc gặp gỡ trong chiều sâu thẳm nhất của Thiên Chúa và con người.

Sự “kín nhiệm”: vừa ẩn kín và vừa huyền nhiệm là hai chiều kích của cuộc sống các thầy dòng contemplativi (chiêm niệm). Cuộc sống đó không rõ nét về các mục đích thứ hai như giảng dạy, coi nhà thương…, nhưng làm nổi bật mục đích duy nhất là sống huyền nhiệm Thiên Chúa. Chính vì thế, ơn gọi đan tu luôn là một huyền nhiệm mà không bao giờ có thể hiểu được và giải thích được với các phạm trù nhân loại. Đó là cuộc sống đi vào ẩn kín của chính sự ẩn kín của Thiên Chúa. Nếu cuộc sống là như thế, thì không gian địa dư, môi trường sống – môi sinh – cũng mang dáng dấp của huyền nhiệm và kín nhiệm.

KẾT:

“TỪ HOANG SƠ ĐẾN KÍN NHIỆM”, đó là mong muốn của tôi khi cố gắng khám phá ra ánh nhìn của Cha Biển Đức Thuận về môi sinh là Nhà Dòng Đức Bà An-nam hay còn gọi là Phước Sơn. Khi nói đến Phước Sơn, tôi không muốn chỉ dừng lại ở một nơi chốn nhất định, mà qua đó, muốn nhìn đến môi trường rộng lớn hơn, đó là bao gồm tất cả các đan viện khác nữa. Mong ước của tôi khi suy niệm lời giáo huấn của Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, khi ngài đề cập đến “sự kín nhiệm của các thầy dòng contemplativi”, là khi khám phá ánh nhìn của ngài về môi sinh, mong muốn anh chị em Hội Dòng làm sao toả sáng không gian sống của mình thành một cảnh vực thần linh, nơi vừa đậm chất nhân văn vừa rõ nét thánh thiêng. Muốn được như thế, thiết tưởng cần thực hiện những giá trị để như Cha Tổ Phụ, biến nơi hoang sơ thành nơi vui sống, thăng hoa môi sinh đan viện bằng một cuộc đời chuyên về chiêm niệm, để rồi dù kín ẩn trước mắt người đời, những tinh hoa huyền nhiệm của ơn gọi đan tu được quang tỏa một cách kín nhiệm cho toàn Dân Chúa, để họ ngợi khen Thiên Chúa, Đấng thực hiện những việc kỳ diệu nơi những con người bé mọn.

Đây cũng là mong ước mở rộng chất nhân văn và thánh thiêng cho mọi môi sinh của con người. Thay vì phá hoại môi trường, biến nơi sinh sống của con người thành “vùng đất chết”, thì chúng ta cùng chung sức, góp thêm tình huynh đệ và niềm tin, để không những bảo tồn mà còn làm cho thế giới này thành ngôi nhà chung cho cuộc sống vui tươi, hạnh phúc. Hơn nữa, thế giới này chính là một môi sinh, là nơi dành cho sự chiêm ngưỡng, dành cho những sự rung cảm của tâm hồn, để những thi ca, những bản tình ca, được sáng tác nhờ những điều chân thiện mỹ được xây dựng trên hành tinh này và cả vũ trụ. Để rồi, huyền nhiệm sáng tạo – công trình tình yêu của Thiên Chúa – đạt tới đích của nó là nuôi sống chính huyền nhiệm tương giao giữa Đấng Tạo Thành và thụ tạo trong một bản trường ca bất tận, trong đó muôn loài được thăng hoa và giải phóng trong sự tự do của con người, sự tự do của con cái Thiên Chúa. 

 Trở về mục lục


 

 

TÔN TRỌNG VÀ YÊU MẾN MẸ ĐẤT

Tôma Aquninô Hoàng Nghiêm

Dẫn nhập

Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi, vì Chị chúng tôi, là Mẹ Đất, Mẹ đỡ nâng, Mẹ dưỡng nuôi, Mẹ sản sinh bao trái trăng, hoa muôn sắc giữa ngàn cỏ dại[82]. Có lẽ trong dòng lịch sử nhân loại, không có lời tán tụng nào hay hơn lời ca ngợi của thánh Phanxicô Assisi khi nói về công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Lời tụng ca này vừa mang tâm tình cảm tạ Đấng Sáng Tạo, vừa nêu bật vai trò của trái đất đối với con người. Ở đây, trái đất không còn là vật vô tri vô giác, nhưng được vị thánh sáng lập dòng Phanxicô nhân cách hóa thành “Chị” và “Mẹ” của chúng ta.

Sự nhân cách hóa này vốn ẩn hiện trong nhiều nền văn hóa từ Đông sang Tây. Truyền thuyết về thần Nữ Oa được thêu dệt trong nền văn hóa Trung Hoa và Việt Nam, cho biết con người được tạo nên bằng đất sét. Văn hóa Hy Lạp cho rằng, đất mẹ Gaia là nơi sinh cơ lập nghiệp của con người và muôn vàn sinh linh. Đối với truyền thống Do Thái giáo – Kitô giáo, Thiên Chúa đã lấy bụi đất sáng tạo ra con người (x. St 2,7).

Nhìn vào chính mình, chúng ta có thể cảm nhận được những thành tố của trái đất đang có đủ trong thân xác của mỗi con người. Hiện hữu trên thế gian, chúng ta tồn tại nhờ tiếp nhận các dưỡng chất tồn tại trong tự nhiên. Trên “thân mình” Mẹ Đất, chúng ta xây dựng và kiến tạo ý nghĩa cuộc sống của mình, cũng như bảo tồn và lưu truyền những giá trị tinh thần từ thế hệ này đến thế hệ kia. Hơn nữa, Mẹ Đất cũng là nơi mà sau cùng con người sẽ gửi gắm thân xác mãi mãi, hay nói đúng hơn, ta trả lại cho Mẹ Đất những gì đã nhận được để hiện hữu trên thế gian. Vì thế, “Bài ca Vạn vật” của thánh Phanxicô như một lời nhắc nhở chúng ta: trái đất là ngôi nhà chung của mỗi người và tất cả nhân loại. Chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ cuộc sống với Mẹ Đất.

Sự thật là thế! Nhưng khi nhìn vào tình trạng thực tế của trái đất hôm nay, chúng ta có thể nói rằng, tương quan giữa con người và Mẹ Đất ngày càng xuất hiện những rạn nứt trầm trọng. Nguyên nhân của sự rạn nứt này đến từ nhiều phía. Trong số những nguyên nhân đó có cả những sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật của con người gây ra: chất thải đủ loại, tàn phá núi rừng, hủy hoại biển cả… Tình trạng này khiến cho trái đất bị tổn thương và tàn lụi đi mỗi ngày; đồng thời, nó cũng tác động trực tiếp đến cuộc sống chúng ta, như: ô nhiễm môi trường, bầu khí quyển bị phá vỡ, nhiều thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tục, đến nỗi con người có thể phần nào xác định ngày diệt vong của trái đất và những sinh vật sinh sống trên đó, bao gồm cả con người – vốn là tác nhân được trao quyền chăm sóc và bảo vệ trái đất (x. St 1,28-30). Cùng chung nỗi lo âu của cả nhân loại, nhân dịp kỷ niệm năm năm Đức Giáo hoàng Phanxicô ban hành Thông điệp Laudato Si’, Giáo hội lại một lần nữa kêu gọi con cái mình ý thức việc gìn giữ môi trường và bảo vệ Ngôi Nhà Chung là trái đất.

Mẹ Đất đang “kêu trách” vì những đau khổ do con cái mình gây nên, tiếng kêu đó buộc ta phải nhìn lại thái độ mình đã xử sự với Mẹ Đất. Nếu có sự tôn trọng và yêu mến thì Mẹ Đất sẽ không phải chịu nhiều nỗi đau và thương tổn. Sự sống của chúng ta và vạn vật sống trong ngôi nhà chung chỉ được bảo đảm khi trái đất không bị hủy hoại. Đây cũng là chủ ý của người viết muốn chia sẻ qua đề tài: Tôn trọng và yêu mến Mẹ Đất.

Tôn trọng và yêu mến là “cửa ngõ” mời gọi chúng ta tham dự vào cuộc sống của người khác. Với Mẹ Đất cũng vậy, ta được mời gọi cùng sống và chăm sóc Ngôi Nhà Chung bằng cách xét lại những tổn thương ta đã gây ra cho Mẹ Đất, để từ đó dấn thân bước vào công cuộc tái tạo và rút ra ý nghĩa sống cho mình.

1. Tiếng “kêu cứu” của Mẹ Đất

Nền văn minh kỹ nghệ giúp cuộc sống con người cải thiện mạnh mẽ, nhưng nó cũng có nguy cơ dẫn con người đến bờ vực diệt vong. Thực tế cho thấy, trái đất đang bị hủy hoại đến độ tan rã dần; hay nói theo cách của Đức Phanxicô “Mẹ Đất đang kêu khóc” do việc con người khai thác và sử dụng trái đất một cách vô trách nhiệm. Trải dài trong Thông điệp Laudato Si’ từ số 20 – 42[83], Đức Phanxicô đã nêu lên thực trạng khiến Mẹ Đất phải “kêu cứu” con người như: sự ô nhiễm, biến đổi khí hậu, vấn đề nước và sự đa dạng sinh học bị mất dần… đó là hậu quả phát sinh từ sinh hoạt lệch lạc khác nhau của cuộc sống con người.

Sự ô nhiễm trái đất do những sinh hoạt của con người như: các phương tiện giao thông quá nhiều, khí thải công nghiệp, những chất thải gây axít hóa đất đai và nguồn nước, các loại phân bón hóa học, thuốc diệt thực vật và côn trùng. Ngoài ra những rác thải từ khu dân cư không được xử lý đúng cách, chất thải từ các công trình xây dựng và các nguồn y tế, đặc biệt rác thải công nghệ độc hại và phóng xạ đã biến trái đất thành bãi rác khổng lồ. Hậu quả của việc bị tiêm nhiễm nhiều loại chất độc khác nhau khiến tuổi thọ trái đất ngày càng bị bào mòn.

Sự ô nhiễm ấy còn góp phần làm cho khí hậu nóng lên, khiến cho “khuôn mặt Mẹ Đất” bị biến dạng méo mó. Theo các nghiên cứu khoa học mới đây, phần lớn việc “đun nóng” toàn cầu trong những thập niên vừa qua, do sự kết tập của các loại khí nhà kính do hoạt động của con người thải ra. Khi các loại khí này tích tụ trong bầu khí quyển, sẽ ngăn chặn sức nóng của các tia mặt trời phản chiếu trên mặt đất và không thể phân tán ra không gian. Hậu quả là khí hậu biến đổi và tạo nên những ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, sức khỏe, kinh tế, chính trị ở mỗi quốc gia và các vùng miền trên thế giới.

Cùng với sự ô nhiễm môi trường, sự ô nhiễn nguồn nước cũng đáng lo ngại do tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa ngày càng phát triển dẫn đến lượng rác thải lớn chưa được xử lý triệt để, đã thải trực tiếp ra môi trường, hay ra các con sông, khiến nguồn nước sạch ngày càng ô nhiễm trầm trọng, kéo theo hậu quả là: tỉ lệ người mắc các bệnh cấp và mãn tính liên quan đến ô nhiễm nước như viêm màng kết, tiêu chảy, ung thư… Cặn bã do nông nghiệp và công nghiệp khiến các mạch nước ngầm, dòng sông, ao hồ và biển cả bị ô nhiễm và hư hoại. Đó cũng là lý do dẫn đến nguồn nước sạch ngày càng khan hiếm. Và vô hình chung nguồn sạch là tài nguyên chung đã trở nên sở hữu của một số người giàu, khiến những người nghèo thiếu nước sạch để sinh hoạt.

Cuối cùng, sự đa dạng sinh học trong tự nhiên ngày càng mất dần, vì thiếu những điều kiện cần thiết để các giống loài tiếp tục sinh tồn. Sự sống trên địa cầu được sinh ra, duy trì và phát triển nhờ vào sự đa dạng của môi trường sinh học; nhưng dòng chảy tự nhiên ấy đang bị biến đổi vì các rừng nguyên sinh, rừng rậm và thảo mộc mất mát dẫn đến tình trạng sự hỗ tương giữa các giống loài không còn trong môi trường tự nhiên. Mỗi năm nhiều giống loài động và thực vật biến mất do việc săn bắt trái phép, bị nhiễm độc bởi các chất hóa học và thiếu nơi cư trú. Trong các đại dương cũng vậy, việc đánh bắt cá quá mức và sử dụng phương tiện độc hại như thuốc nổ, tạo nên sự giảm sút nhiều giống loài hải sản.

Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc ngày 12/10/2020[84]: từ năm 2000 tới năm 2019, thế giới đã ghi nhận 7.348 thảm họa thiên nhiên lớn, khiến hơn 1,2 triệu người thiệt mạng và ảnh hưởng tới 4,2 tỷ người, gây thiệt hại kinh tế lên gần 3.000 tỷ USD. Bão và lũ lụt chiếm tới 72% các thảm họa thiên nhiên lớn. Mỗi năm, thế giới thải ra 300 triệu tấn rác thải nhựa, gần 1/3 số túi nilon do con người thải ra không được thu gom và xử lý. Hơn 9,1 tỷ tấn rác thải nhựa đang tích tụ trên trái đất và 8 triệu tấn nhựa đi vào lòng đại dương.

Những hình thức ô nhiễm và con số thống kê nêu trên cho thấy một hình ảnh khái quát về thực trạng trái đất hôm nay. Trái đất luôn luôn biến đổi, và kết quả của sự biến đổi tùy thuộc vào chất liệu được cung cấp. Khi mang trong mình mầm bệnh, trái đất sẽ bị hủy diệt, nghĩa là toàn bộ hệ sinh thái tồn tại trên trái đất, bao gồm cả loài người cùng chung số phận. Điều nghịch lý ở đây là nguyên nhân làm cho trái đất ô nhiễm, tổn thương và có nguy cơ bị hủy diệt đều trực tiếp hay gián tiếp do con người tạo ra qua các hình thức sinh hoạt hằng ngày của họ, thế hệ này tiếp nối thế hệ kia.

2. Chúng ta đã gây tổn thương cho Mẹ Đất như thế nào?

Có nhiều nguyên nhân khiến trái đất bị tổn thương. Xét trên bình diện khách quan, trái đất nằm trong vòng xoay của tự nhiên và chịu tác động bởi các qui luật vận hành tự nhiên. Những quy luật này có thể thay đổi cấu trúc và tạo nên những hậu quả khó lường đối với sự tồn vong của trái đất. Nhưng trong giới hạn của bài viết, chúng tôi tập trung đi sâu vào nguyên nhân chủ quan, nghĩa là những tác động do con người gây ra từ chính lòng tham, sự ích kỷ và kiêu ngạo của con người.

Có thể nói sự tổn thương trầm trọng đến Mẹ Đất đã khởi đi từ những ý tưởng thái quá, ví dụ như triết gia hiện sinh Descartes chẳng hạn, khi ông đề cao một lý trí con người một cách thái quá, đến mức ông coi con người có khả năng nắm bắt những chân lý chắc chắn. Điều này thúc đẩy khoa học phát triển và nâng cao giá trị con người, nhưng nó cũng khiến con người tự mãn đến độ tự khẳng định mình quan trọng nhất trong vũ trụ, có quyền tuyệt đối trên vạn vật như chủ thuyết Duy nhân đề xướng. Tuy nhiên, đây cũng là lối rẽ đưa con người đến sự sai lầm, vì khi “không tìm thấy vị trí thật sự của họ trong thế giới này, họ sẽ hiểu lầm và hành động chống lại chính bản thân[85]. Đặt bản thân trên mối tương giao hài hòa với tự nhiên, con người rơi vào nguy cơ để cho tính cá thể của mình phủ lấp tính toàn thể của tự nhiên, dẫn đến việc chia nhỏ tự nhiên ra từng phần nhằm mục đích phân tích và mổ xẻ. Đó là cơn cám dỗ làm cho con người tự xem mình như “những người chủ và người thầy của trái đất, được phép bóc lột khi muốn”[86].

Thực ra, đây chỉ là biểu hiện của tình trạng tha hóa trong tâm hồn con người. Hay nói như Đức Phanxicô, bạo lực trong tâm hồn con người do tội lỗi gây nên, nó phản chiếu trong những triệu chứng của bệnh tật nơi đất đai, nguồn nước, không khí và mọi dạng thức sự sống. Chúng ta phạm tội và trở thành nguyên nhân khiến đất đai bị nguyền rủa (x. St 3,17). Tội lỗi xóa nhòa mối liên hệ giữa bản thân và trái đất, khiến chúng ta “nổi loạn” trước sự lệ thuộc vào vật chất hoặc theo cách diễn tả của cha Teilhard de Chardin: “Cái gai nhọn đâm chọc vào lý trí chúng ta là cảm thức rõ rệt và không dứt về việc các hoạt động của chúng ta phụ thuộc vào các sức mạnh của vật chất và đồng thời lại độc lập với các sức mạnh đó[87]. Theo sau sự “phản kháng”, con người “trả đũa” bằng cách áp đặt những ước muốn của mình lên thiên nhiên như nhà kinh tế Schumacher nhận xét: Từ thái độ xem thiên nhiên như người chị, người mẹ của con người được tạo ra từ bàn tay Thiên Chúa thì khoa học hiện đại có xu hướng xem thiên nhiên như một kẻ thù cần chinh phục hay là một nguồn khai thác và lợi dụng[88].

Khi tự coi mình là chủ tể tự do độc lập và lấy bản thân làm điểm quy chiếu, con người dễ dàng gây những tổn thương cho trái đất vì những lợi ích nhất thời. Ý thức trách nhiệm của con người bị nhấn chìm trong sự thực dụng, dẫn đến việc quả quyết rằng không hề có chân lý tuyệt đối nào cả và khẳng định rằng tự do của con người là vô hạn. Thực tế này bắt nguồn từ việc con người không nhận ra bản chất thực sự của mình là một hữu thể hữu hạn: tuy con người có khả năng tinh thần nhưng họ không phải tự hữu mà được tạo dựng bởi Thiên Chúa. Do đó, khi loại trừ Đấng Sáng Tạo, “các quyền lực trần thế, hay chính bản thân chúng ta chiếm đoạt lấy vị thế của Thiên Chúa, thậm chí đến mức công bố một quyền vô hạn để chà đạp công trình tạo dựng của Ngài[89]. Hậu quả của thái độ này là tâm tính con người ngày càng ích kỷ, tham lam và chỉ lo vun vén cho mình.

Lòng ích kỷ phủ lấp lòng nhân ái của con người và mỗi người chỉ nhìn thấy nhu cầu bản thân, những lợi ích của mình; tinh thần trách nhiệm đối với tha nhân và vạn vật trở thành thứ yếu. Do đó, tiếng kêu cứu từ thiên nhiên bị ngăn chặn bởi nhiều tiếng gọi khác nhau và vì thế, dễ dàng phớt lờ tiếng kêu trách từ thiên nhiên. Nhà thần học Bernard Haring nhận xét chí lý về điểm này: “Bao lâu cá nhân ích kỷ không bị sự đe dọa của hệ sinh thái đã bị xáo trộn và đầu độc trực tiếp đụng đến, thì bấy lâu họ sẽ không dễ dàng bị thôi thúc mang lấy những trăn trở vì lợi ích của các thế hệ hiện tại và tương lai[90]. Thái độ vị kỷ tạo nên sự hời hợt và nông cạn nơi mỗi người trước tiếng kêu của trái đất đang bị tàn phá, để rồi bình thản tiếp tục giữ thói quen, duy trì lối sống sản xuất và tiêu thụ. Sự nhạy bén về tình trạng môi trường sống không được chủ thể chú trọng, hay thực tế cuộc sống chỉ được nhìn nhận qua lăng kính phiến diện dựa trên những dữ liệu ít ỏi, khiến ta không nhận ra được thực trạng môi trường đang ở vạch mức báo động nào. Về thái độ dửng dưng, Đức Phanxicô đã ví nó như “giấy thông hành” để tiếp tục với lối sống hiện tại của con người và nỗ lực để không nhìn thấy, không nhận biết những điều đó, trì hoãn những quyết định quan trọng và giả vờ rằng không có điều gì đang xảy ra cả”[91]. Thái độ này là biểu hiện của con virus “chủ nghĩa cá nhân” khó diệt trừ trong tương quan con người vì nó được phục trang bằng những động cơ xem ra thiện ích cho mọi người. Trong Thông điệp Fratelli Tutti mới ban hành, Đức Phanxicô chỉ rõ: “Nó làm cho chúng ta tin rằng mọi sự hệ tại ở việc thả phanh cho những tham vọng của riêng mình, như thể bằng cách theo đuổi những tham vọng lớn hơn và tạo ra những mạng lưới an toàn thì đó là chúng ta đang phục vụ cho thiện ích chung vậy[92]. Chủ nghĩa cá nhân là một trong những yếu tố cấu thành và bồi đắp tính tham lam trong con người.

Tính tham lam là nguyên nhân khiến tình trạng giàu nghèo trên thế giới ngày càng chênh lệch. Điều Aristote nói cách đây gần 2500 năm vẫn còn đúng với ngày hôm nay: “Những gì cần thiết cho sự sống đã được thiên nhiên cung ứng đầy đủ cho mọi người từ lúc sinh ra cho đến lúc trưởng thành[93]. Tuy nhiên, theo sự phát triển của các thể chế xã hội, những tài nguyên thiên nhiên dành cho tất cả mọi người đã bị lòng tham, ước muốn chiếm hữu của một số người, hoặc một số tổ chức biến thành của riêng. Vì lẽ đó, Mahatma Gandhi, nhà giải phóng người Ấn Độ, đã nhận định cách chua chát: “Trái đất có đủ cho nhu cầu của mọi người nhưng không đủ cho lòng tham của họ”. Lòng tham khiến con người trở nên tha hóa, thiếu lòng bác ái, keo kiệt và bủn xỉn với tha nhân; cũng như thiếu tinh thần trách nhiệm đối với ngôi nhà chung và tàn phá, hủy hoại vạn vật.

Tóm lại, thái độ coi mình là chủ tể toàn quyền trên vạn vật và sự tham lam, ích kỷ vun vén cho bản thân, chúng ta đã khiến Mẹ Đất không ngừng bị bức hại mỗi ngày. Vì lẽ đó, để có môi trường sống tốt, chúng ta phải bước vào con đường tái tạo Mẹ Đất, bằng cách yêu mến và tôn trọng Mẹ Đất.

3. Tôn trọng và yêu mến, con đường tái tạo Mẹ Đất

Ở mục trên, chúng ta đã tìm hiểu nguyên nhân khiến Mẹ Đất phải “kêu cứu” là do tội lỗi trong tâm hồn con người, nhất là những người có lòng tham vô độ. Tôn trọng và yêu mến Mẹ Đất không gì hơn là bước vào con đường hoán cải để tái tạo lại môi trường sống của ta. Vì thế, ta phải nhận thức được vị trí và vai trò của bản thân trong vũ trụ.

Nhận thức chỗ đứng bản thân giữa vũ trụ

Đây là nền tảng căn bản để ta có thể thực hiện các hành động khác. Trên nền tảng này, ta ý thức được ba khía cạnh liên kết mật thiết và đan xen vào nhau trong việc kiến tạo cuộc sống của mình.

Thứ nhất, giữa ta và trái đất đều có chung một nguồn cội là Thiên Chúa. Dưới ánh sáng Lời Chúa, chúng ta biết được rằng, Thiên Chúa đã sáng tạo nên trái đất và sau khi tạo nên mọi sự, Người đã lấy chất liệu từ đất tạo nên con người. Nhờ ánh sáng này, ta tránh được tình trạng xem thiên nhiên như thần thánh tuyệt đối như các triết gia Hy Lạp trước và sau Plato đã rơi vào; chúng ta cũng tránh được thái độ xem vũ trụ là trương độ, một quan niệm toán học của Descartes; hoặc vũ trụ hiện tượng lệ thuộc hoàn toàn vào chủ thể tri thức của Kant. Trái đất chúng ta đang sống và hoạt động “có nguồn gốc từ ý chí tự do của Thiên Chúa, Đấng muốn cho các loài thụ tạo được tham phần vào sự hiện hữu, sự khôn ngoan và tốt lành của Ngài[94]. Hiện hữu trong trái đất, chúng ta lãnh trách nhiệm chăm sóc vạn vật Thiên Chúa đã trao. Điều này đòi ta cần khiêm tốn khi sử dụng tài nguyên thiên nhiên, vì ta chỉ có quyền sử dụng chứ không phải sở hữu chủ; hơn nữa, vì trái đất cũng được Thiên Chúa sáng tạo nên. Như thế, tôn trọng và yêu mến trái đất cũng chính là yêu mến Đấng tạo nên nó, thật khó để nghĩ về sự tàn phá lại được Thiên Chúa tán thành. Khi ngẫm suy về giá trị của vạn vật, Gabriel Marcel đã chân nhận: “Thiên Chúa không muốn chúng ta yêu mến Ngài ngược với vật thụ tạo, nhưng muốn được chúng ta ca ngợi Ngài qua vật thụ tạo và khởi xuất từ vật thụ tạo[95].

Thứ hai, chúng ta là những cá thể hiện diện trong toàn thể vũ trụ. Xét theo trình tự tạo dựng, chúng ta xuất hiện sau khi vạn vật đã hình thành, hay nói khác đi, chúng ta chỉ xuất hiện khi trái đất, cùng với mọi hình thái sinh học của nó đã đạt đến một trình độ tiến hóa cân bằng và phức tạp nhất định. Sự tiến hóa ấy chuẩn bị những điều kiện để sự sống của con người có thể thích nghi tồn tại. Do đó, dù con người là sinh vật cấp cao trong thiên nhiên nhưng không tách rời mà là “một phần của tự nhiên, được hội nhập trong thiên nhiên và liên tục tương tác với thiên nhiên[96]. Tuy vậy, chúng ta không lệ thuộc vào tự nhiên, trái lại chúng ta kiến tạo, biến đổi và thiết lập tính nhân bản nơi thiên nhiên. Trong học thuyết Tam Tài của Nho giáo diễn tả rõ nét ý nghĩa này. Con người “là sức mạnh của Trời Đất, là giao điểm của Âm Dương, là điểm quy hội của quỷ thần và là túc khí của ngũ hành[97]. Do đó, vai trò của chúng ta, Tài Nhân, là điều phối và nối kết giữa Trời với Đất, để thiên nhiên vận hành đúng trật tự.

Thứ ba, chúng ta hiện hữu với người khác. Ý nghĩa này nêu bật tính hỗ tương giữa người với người. Xuất hiện trong vũ trụ bao la, con người cộng tác và cùng nhau xây dựng cuộc sống của mình. Cộng tác là phương thế giúp con người tồn tại trong thiên nhiên. Mối liên kết này cho ta biết, ngôi nhà chung chỉ tốt khi tất cả mọi người cùng chia sẻ và giữ gìn ngôi nhà của mình. Phẩm chất chia sẻ được Thiên Chúa đặt trong cơ cấu nội tại của chúng ta, sách Giáo lý Hội thánh Công Giáo dạy ta biết: “Con người có khả năng tự hiểu biết, tự sở hữu, tự trao ban chính mình và đi vào sự hiệp thông với người khác[98]. Đi ngược với bản chất đó, cảm thức “thuộc về và sẻ chia” bị thay thế bằng sự ích kỷ và tham lam, chỉ biết nghĩ đến lợi lộc của bản thân. Trong buổi tiếp kiến phái đoàn của Pháp về bảo vệ môi trường, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh: “Chúng ta hiểu rằng chúng ta được liên kết với nhau, và việc ngược đãi ngôi nhà chung này gây ra những hậu quả nghiêm trọng, không chỉ về môi trường, mà còn cả xã hội và con người[99]. Hơn nữa, trong phần nhập đề của Thông điệp Fratelli Tutti, Đức Phanxicô đã mời gọi rằng: “Chúng ta hãy ước mơ trở thành một gia đình nhân loại duy nhất, như những khách lữ hành cùng chia sẻ thân phận phàm nhân, như những người con của cùng một đất mẹ cưu mang, là ngôi nhà chung của chúng ta, mỗi người với sự phong phú của những tín ngưỡng riêng, hoặc với những xác tín riêng của mình, mỗi người với một giọng nói riêng, nhưng tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau[100].

Như vậy, nhận thức được vị trí của ta trong vũ trụ, ta biết rằng bản thân chỉ là một phần của vũ trụ, nhưng ưu việt hơn nhờ được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, do đó ta cần một thái độ tương xứng với phẩm giá của mình trong tương quan với Thiên Chúa và vạn vật chung quanh.

Giáo dục: con đường học biết yêu mến và tôn trọng

Ý thức được chỗ đứng của ta giữa vũ trụ chính là thành quả của giáo dục. Cổ nhân nói: “Vô tri bất mộ”, không biết không thể yêu mến. Hiểu biết là khả năng ưu việt của con người, dù xuất hiện trong vũ trụ với tư thế yếu đuối của “cây sậy” như Blaise Pascal đã miêu tả, nhưng giá trị của con người không thua kém đối với vạn vật, vì nhờ khả năng hiểu biết con người tìm kiếm phẩm giá của mình, bằng cách nỗ lực đào sâu và làm chủ suy nghĩ để hiểu vũ trụ bao quanh để xây dựng cuộc sống của mình [101].

Hiểu biết là hoa trái của giáo dục hay nói cụ thể hơn, đó là kết quả của một tiến trình học hỏi, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm sống của mỗi người. Tiến trình này có mặt trong mọi khía cạnh của cuộc sống, từ trường học cho tới công sở, từ sách vở cho tới phương tiện truyền thông, từ các buổi họp đoàn thể cho tới các diễn đàn quốc tế. Đặc biệt, sự giáo dục khởi đầu và đặt trên nền tảng từ gia đình. Vì gia đình là hạt nhân của xã hội, là nơi mỗi người lớn lên và học cách làm người. Từ gia đình, nhận thức về thế giới chung quanh của mỗi người được khai mở. Do đó, Đức Phanxicô nhấn mạnh gia đình “là nơi chúng ta học cách thể hiện tình yêu và tôn trọng sự sống; chúng ta học biết sử dụng đúng mọi thứ, ngăn nắp và sạch sẽ, tôn trọng hệ sinh thái địa phương và chăm sóc mọi loài thụ tạo[102]. Gia đình là bệ phóng đưa mỗi người vào môi trường xã hội, với ý thức và trách nhiệm tôn trọng quyền lợi của người khác, chăm sóc giữ gìn ngôi nhà chung là trái đất.

Nhờ hiểu biết, chúng ta hòa nhập vào nền văn minh hiện đại, được hình thành từ nhiều nền văn hóa quốc gia khác nhau. Ta kế thừa những di sản văn hóa tinh thần và vật chất do tổ tiên kiến tạo trong quá khứ. Ta nhận ra bản thân thuộc về một truyền thống văn hóa, một lịch sử được hình thành và phát triển trên trái đất. Đồng thời ta cũng học cách chấp nhận mặt trái của văn minh là địa cầu đang bị hủy diệt bởi bàn tay con người. Tiến trình của sự hủy diệt song hành với tiến trình văn minh nhân loại theo tỷ lệ nghịch, càng phát triển vật chất, cấu trúc tự nhiên càng bị thay đổi theo chiều tiêu cực. Khi mỗi người lãnh hội kiến thức đầy đủ, tinh thần dấn thân bảo vệ trái đất sẽ thay thế cho sự tham lam ích kỷ, sự dửng dưng đã tàn phá ngôi nhà chung của mọi người.

Chúng ta chỉ có thể yêu mến vẻ đẹp nơi thiên nhiên khi biết giá trị ẩn chứa trong đó. Vẻ đẹp ấy giúp ta lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn, thay thế lòng tham bằng tinh thần dấn thân, bác ái và vượt qua những ham muốn ích kỷ để vươn tới thực tại tinh thần đầy tự do. Hơn thế nữa, khi ta học biết rằng chính sức khỏe, hạnh phúc và cuộc sống của ta phụ thuộc vào trái đất, ta sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc thay đổi thái độ đối với Ngôi Nhà Chung chúng ta đang cư ngụ.

Như vậy, bằng việc truy tầm tri thức, đào sâu kinh nghiệm, và cập nhật kiến thức mỗi ngày, chúng ta tự giáo dục và đào luyện cho bản thân một cái nhìn thấu suốt về sự vận hành trong cấu trúc tự nhiên. Nhờ đó, ta mới đủ khả năng bắt kịp sự phát triển của khoa học xã hội và có thể bảo vệ trái đất qua những giải pháp phục hồi hiệu quả. Hiểu biết giúp ta ý thức được bản thân “là kẻ đồng tạo dựng sau Thiên Chúa, có quyền điều khiển mọi tiến trình của thiên nhiên, tại bất cứ nơi nào ta thấy, với sự chắc chắn về luân lý, rằng hành động của ta có lợi cho thế hệ hiện tại mà không gây thiệt hại cho thế hệ tương lai[103].

Tương lai của trái đất phụ thuộc vào thái độ của ta ở hiện tại, do đó, giáo dục là chìa khóa giúp ta hoạch định kế hoạch sử dụng và phát triển tài nguyên thiên nhiên có trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Để điều đó được thực hiện cách hiệu quả, ta phải bước vào công cuộc phục hồi trái đất bằng những hành động cụ thể.

Dấn thân xây dựng qua những hành động cụ thể

Hành động là thực hiện hóa những ý tưởng, dự án bảo vệ môi trường đã được thảo luận trong các diễn đàn hoặc cuộc họp ở nhiều phạm vi khác nhau. Bằng hành động, chúng ta có thể tái tạo, xây dựng và giữ gìn trái đất đúng với ý định sáng tạo của Thiên Chúa.

Từ mỗi cá nhân, chúng ta có thể bắt đầu bằng những hành động nhỏ bé trong cuộc sống thường nhật của mình như những gợi ý của Đức Phanxicô: “Tránh sử dụng nhựa và giấy, giảm việc tiêu thụ nước, việc tách rác ra, việc chỉ nấu điều gì có thể được tiêu thụ hợp lý, thể hiện sự quan tâm đến những sinh vật khác, sử dụng phương tiện giao thông công cộng hay đi xe chung, trồng cây, tắt hết những đèn không cần thiết, hoặc bất cứ thứ số lượng việc đang thực hiện khác[104]. Những hành động này tuy bình thường, nhưng nếu được thực hiện với ý thức trách nhiệm, sẽ tạo nên được nhiều kết quả trong cuộc sống của ta. Vì nó không chỉ thay đổi thói quen, lối sống của chủ thể thực hiện, mà còn tạo nên ảnh hưởng tích cực đối với những người xung quanh.

Trong phạm vi của các thành phần Giáo hội như: cộng đoàn, giáo xứ, giáo hạt, giáo phận… những hoạt động chăm sóc thiên nhiên không chỉ dừng lại tính tự phát ở mỗi cá nhân, mà những chương trình ấy cần trở thành phong trào phát động lớn trong cộng đồng. Hành động ấy sẽ tạo hiệu quả “lan tỏa điều thiện trong xã hội ngày càng tạo nên những hoa trái đi xa hơn những gì chúng ta có thể nhận thấy, vì chúng khơi dậy giữa lòng trái đất này một điều thiện hảo ngày càng lan tỏa, nhiều khi vô hình[105]. Một số phong trào đã được phát động trong cộng đồng, như trong thông báo của Đức Giám mục Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Giám mục Giáo phận Phan Thiết, nhân dịp “Mừng kỷ niệm 5 năm ban hành Thông điệp Laudato Si’” về bảo vệ môi trường, đã mời gọi mọi người: hãy suy tư và đào sâu, đánh giá lại sự dấn thân của mình về trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ ngôi nhà chung, đồng thời tìm kiếm những hướng dẫn hữu ích, lên kế hoạch thực hiện và có những hành động cụ thể, tùy theo hoàn cảnh của mỗi giáo xứ, mỗi cộng đoàn dòng tu và mỗi gia đình Công giáo[106].

Hình ảnh Giáo hội Nhật Bản qua chương trình sống cụ thể “Thời gian của Thụ Tạo” trong tháng 9 năm 2020, là một phong trào tuyệt vời về cách sử dụng tài nguyên nước. Mục đích của chương trình hướng đến việc mời gọi mỗi người nhận trách nhiệm của mình và thực hiện những hành động như: tưới nước và trồng thêm cây mới xung quanh khu vực mình sống; suy tư về giá trị thanh tẩy của nước thánh được sử dụng trong nhà thờ; thu thập tài liệu giúp hiểu giá trị văn hóa xã hội của tài nguyên nước đại diện cho một dạng “ký ức chung của nhân loại” và sử dụng nước uống hợp lý[107].

Trong phạm vi xã hội, công cuộc tái tạo ngôi nhà chung sẽ tạo được nhiều hiệu quả, khi đó là chủ đề quan trọng trong mỗi dân tộc và mọi quốc gia. Trên bình diện quốc tế, sự thiết lập các liên kết hỗ tương giữa các quốc gia sẽ tạo nên sự đồng thuận về trách nhiệm bảo vệ môi trường. Bởi cùng sống trong một ngôi nhà chung, mỗi quốc gia đều có sự liên hệ với nhau, như Đức Phanxicô nhận xét: “Sự phụ thuộc lẫn nhau buộc chúng ta phải nghĩ đến một thế giới duy nhất, một chương trình chung với nhau” và “đề ra những cách giải quyết có viễn cảnh toàn cầu chứ không phải chỉ bảo vệ lợi ích cho vài quốc gia[108]. Trên bình diện quốc gia và địa phương: một mặt, thiết lập những qui tắc ứng xử có thể chấp nhận dưới ánh sáng thiện ích chung, sử dụng luật pháp để can thiệp nạn tham nhũng, cùng những hoạt động gây ra nhiều rủi ro cho môi trường; mặt khác, thực hiện những cách thức bảo tồn nguồn năng lượng, sản xuất công nghiệp hóa tối ưu nguồn năng lượng và giảm nguồn nhiên liệu thô, loại bỏ những sản phẩm kém chất lượng, cải tiến hệ thống giao thông, xử lý rác thải hữu hiệu và phát triển những kỹ thuật nông nghiệp an toàn…[109].

Sự dấn thân tái tạo môi trường ở mọi tầng lớp trong xã hội con người, đều đưa tới cùng đích hòa vào nhịp sống của tự nhiên, và cùng nhau bước vào một thực tại mới như viễn tượng cha Teilhard de Chardin miêu tả: “Hòa bình trong vâng phục, lao động trong niềm vui, những điều đó đang chờ đợi chúng ta vượt trên mọi đế chế đối kháng nhau, ở một sự toàn thể hóa nội tại của Thế giới lên chính nó, tức là sự đồng lòng nhất trí xây dựng một tinh thần của Trái Đất[110].

4. Giá trị nhận được từ sự yêu mến và tôn trọng Mẹ Đất

Một hành tinh xanh – sạch – đẹp chứa đựng bầu không khí trong lành, nguồn nước mát xanh, sản sinh nhiều hoa thơm cỏ lạ và là ngôi nhà chung ấm áp cho muôn vàn sinh linh, chính là cùng đích của việc yêu mến và tôn trọng Mẹ Đất. Đó không chỉ thể hiện vai trò “ông chủ” nơi chúng ta trọn vẹn, mà còn giúp chúng ta hiện hữu trong thế gian một cách tích cực qua việc ta nhận lãnh những điều thiện hảo từ Mẹ Đất.

Trước hết, sống hài hòa với bản thân

Một thân xác khỏe mạnh hòa vào nhịp sống của trái đất sẽ không cần những liều thuốc hóa chất kích thích “siêu vượt bản thân”, là thứ đã làm cho nhiều cá nhân hoặc tổ chức sa đọa vì sự khai thác tài nguyên thiên nhiên vô độ và lòng tham lam ích kỷ. Tiếp nhận năng lượng tích cực từ tự nhiên, tinh thần chúng ta tránh được những áp lực trong cuộc sống, những suy nghĩ vụn vặt toan tính được thay thế bằng sự an bình thư thái trong tâm hồn. Tâm trí không còn bị chiếm lĩnh bởi ảo tưởng: chỉ những công trình sáng tạo của mình mới thỏa mãn được sự trống vắng trong tâm hồn. Hòa vào tự nhiên giúp cho tâm hồn chúng ta bình an và vui tươi, sống với sự buông bỏ, không lệ thuộc và tự do khỏi những ràng buộc của ý muốn sở hữu vật chất hằng ngày. Sự kiện nhiều người chọn lựa các đan viện trong các dịp tĩnh tâm để làm mới cuộc sống của mình, không phải do ngẫu nhiên hay bởi cảm tính thúc đẩy nhưng vì trong các đan viện có những điều kiện giúp họ “tìm được yên hàn và an bình, cảm thấy được đổi mới và nâng đỡ khi họ tiếp xúc trực tiếp với vẻ đẹp và sự hài hòa của thiên nhiên[111]

Như vậy, chăm sóc trái đất vừa giúp môi trường sống của ta tốt lành và an toàn, vừa nâng cao phẩm giá của mình. Tồn tại theo dòng chảy tự nhiên, tính lưỡng phân trong cơ cấu nội tại của ta giữ được thế cân bằng khi suy xét và hành động như một hữu thể hiểu biết và tự do. Hơn nữa, vai trò của ta cũng trọn vẹn hơn khi không nghiêng chiều về ước muốn khai phá thiên nhiên để thỏa mãn lòng ích kỷ của mình, và không nhu nhược phó mặc bản thân buông trôi theo dòng chảy tự nhiên, mà luôn cải thiện cuộc sống của mình bằng cách vượt lên những giới hạn của kiếp người để kiến tạo ý nghĩa cho cuộc sống của mình.

Sống hòa hợp với tha nhân

Công đồng Vaticanô II nhắc nhở chúng ta rằng: “Thiên Chúa đã dành trái đất và tất cả những gì chứa đựng trong đó cho tất cả mọi người và mọi dân tộc được sử dụng[112]. Vì lẽ đó, trách nhiệm tôn trọng và yêu mến Mẹ Đất không chỉ nhằm đến lợi ích cá nhân mà còn cho cả tha nhân. Khuôn vàng thước ngọc Chúa Giêsu dạy: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12), điều này mang nhiều ý nghĩa rõ rệt. Bởi vì, ước mong có một hệ sinh thái xanh – sạch – đẹp, hít thở không khí trong lành, ăn những thức ăn bổ dưỡng và uống những nguồn nước mát trong luôn là những tiêu chí hàng đầu về sức khỏe trong tâm khảm của mỗi người.

Chúng ta có thể sống hòa hợp với tha nhân khi cùng nhau giữ gìn ngôi nhà chung. Đức Phanxicô cho rằng: “Chăm sóc thiên nhiên là một phần của một lối sống vốn bao gồm khả năng sống cùng nhau và sự hiệp thông”[113].  Quả vậy, tồn tại cùng nhau không phải để chiếm hữu và làm tha hóa nhau, vì mỗi người đều cần đến nhau, nếu ai đó là một hải đảo cô độc thì họ không thể hiện hữu trọn vẹn. Bản chất con người không phải được sáng tạo để tồn tại cho riêng mình trong sự ích kỷ và tham lam. Phẩm chất làm con người trở nên giống Đấng Sáng Tạo nên mình là yêu thương, hy sinh và chết đi trong mỗi khoảnh khắc để lãnh nhận sự sống bất diệt. Do đó, sống hòa hợp với tha nhân trong một ngôi nhà chung là cùng nhau kiến tạo cuộc sống và cùng tìm kiếm những điều tốt đẹp nhất cho nhau. Đó là điểm căn bản của tình yêu, vì “yêu chính là muốn điều thiện cho người khác[114].

Sống hiệp thông với người khác bằng cách chia sẻ vẻ đẹp độc đáo của riêng mình cho họ, theo lời nhận định của Đức Phanxicô: “Một người có căn tính càng sâu sắc, vững chắc và phong phú, thì người ấy càng muốn làm cho những người khác được phong phú bằng những đóng góp của riêng mình[115]. Khi ý thức được điều ấy, chúng ta sẽ suy nghĩ kỹ càng về những hành động của mình liệu có gây tổn hại đến họ hay không và nỗ lực thực hiện những hành động mang lại điều tốt đẹp cho họ. Đồng thời, chúng ta có thể tránh được sự đánh giá phiến diện về giá trị của vạn vật chung quanh, cũng như ý thức những giới hạn nơi bản thân chúng ta, để tránh gây bất lợi cho những người khác hoặc làm suy thoái những môi trường xung quanh của chúng ta. Khi chúng ta vượt thắng được chủ nghĩa cá nhân, chúng ta sẽ thực sự có thể phát triển một lối sống khác và mang lại những thay đổi quan trọng trong xã hội[116]. Như thế, sống hòa hợp với tha nhân là cùng nhau hiện hữu cách tích cực trong vũ trụ, trong cùng một hành tinh (trái đất) bằng chính khả năng riêng của mỗi người.

Qua trái đất, chúng ta tôn kính Đấng Sáng Tạo

Thiên Chúa đã biểu lộ yếu tính của Ngài cho chúng ta qua thiên nhiên. Những nỗ lực tái tạo trái đất của chúng ta chính là khám phá ý nghĩa Thiên Chúa gửi gắm trong vạn vật, và thực hiện công cuộc kiến tạo trái đất“trở thành vườn của Thiên Chúa và là vườn của loài người[117]. Vì lẽ đó, chúng ta tôn trọng và yêu mến trái đất không gì hơn là thể hiện lòng tôn kính của mình ngang qua tác phẩm Ngài đã sáng tạo nên.

Qua thiên nhiên, chúng ta chiêm ngưỡng được vinh quang của Thiên Chúa. Cảm nghiệm của thánh Bonaventura giúp ta hiểu rõ: “Chiêm ngắm giúp chúng ta ngày càng đào sâu những cảm nghiệm về tác động của ân sủng Chúa trong tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta học biết gặp gỡ Chúa trong những thụ tạo bên ngoài chúng ta[118]. Thật thế, nước, dầu, lửa đã trở thành những biểu tượng của các Bí tích và các Nghi lễ Phụng vụ. Bánh và rượu là biểu tượng cho Mình và Máu của Ngôi Hai Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Thánh Thể, “Thiên Chúa chạm đến chiều sâu tận cùng của chúng ta qua xác thể. Ngài không đến từ trên cao, nhưng từ bên trong, Ngài đến để chúng ta có thể tìm thấy Ngài trong thế giới của chúng ta[119]. Để rồi trong ánh sáng Thiên Chúa chiếu giãi, chúng ta được mời gọi bước vào “trời mới đất mới” (Kh 21,1), ở đó vạn vật đều biến đổi huy hoàng và vạn vật được trao vị trí tương xứng với mình.

Tóm lại, tự sức riêng, con người không thể tham dự vào sự sống của Thiên Chúa nếu thiếu những yếu tố vật chất. Thiên nhiên vừa là phương thế Thiên Chúa đã dùng để biểu lộ chính Ngài cho con người; vừa là cầu nối giữa chúng ta với Thiên Chúa. Thiên nhiên giúp con người truy nguyên về sự hiện hữu của mình và dẫn ta vào mối thông hiệp với Thiên Chúa. Nhận diện được vị trí của mình trong mầu nhiệm sáng tạo, mọi nhãn hiệu ảo tưởng gắn trên đôi mắt chúng ta sẽ được gỡ xuống và có thể nói lên cách khiêm tốn như Hoàng đế Aurelius Marcus: “Tôi là một bộ phận của thế giới do Tạo Hóa cai quản[120] và chúc tụng Thiên Chúa đã dựng nên mọi sự “bằng đôi tay quyền năng” và “tình yêu dịu dàng” của Ngài.

Kết luận                                   

Đất là Mẹ hay đất là thứ gì khác? Câu trả lời tùy thuộc vào cảm nhận của ta đối với trái đất, ngôi nhà chúng ta cư ngụ. Câu hỏi ấy là lời cật vấn mang tính hiện sinh dành cho cuộc sống mỗi người. Hiện diện trên trần gian, chúng ta luôn được mời gọi chung tay kiến tạo một hệ sinh thái tự nhiên sạch đẹp và xây dựng một xã hội thực sự nhân sinh. Cách riêng, đối với chúng ta, những đan sĩ chọn đời sống chiêm niệm lấy châm ngôn: “Cầu nguyện và Lao động” làm lẽ sống, việc tôn trọng và bảo vệ Mẹ Đất còn cần thiết hơn nữa. Giá trị của đời đan tu như Đức Phanxicô nhận xét là sự “phát triển và thánh hóa cá nhân được thực hiện trong nhịp điệu đan xen giữa hồi tâm và làm việc. Kinh nghiệm này giúp chúng ta bảo vệ và tôn trọng môi trường hơn; mối tương quan của chúng ta và thế giới thấm đượm sự điều độ lành mạnh[121]. Cuộc sống đan sĩ là hòa quyện với trái đất, mỗi khoảnh khắc hiện hữu là những nỗ lực để tâm hồn thấm nhập vào tự nhiên và lắng nghe tiếng gọi của Thiên Chúa ghi khắc trong đó. Sống không gì khác hơn “là thực hành sự thuần hóa tự nhiên và quá trình làm người tức là quá trình biến thế giới thành nhà và biến vũ trụ thành nơi có thể cư ngụ[122]. Để kết thúc những dòng suy tư, xin mượn những vần thơ của Kahlil Gibran, thi sĩ xứ Ly Băng, nhằm diễn tả tâm tình với Mẹ Đất:

Ngươi là ai, Đất ơi, và ngươi là gì?

Ngươi chính là “ta”, Đất ơi!

Ngươi là thị lực và sáng suốt của ta.

Ngươi là hiểu biết và giấc mộng của ta.

Ngươi là cơn đói và cơn khát của ta.

Ngươi là sầu khổ và hân hoan của ta.

Ngươi là hờ hững và cảnh giác của ta.

Ngươi là vẻ đẹp sống trong mắt, là cơn khát khao trong tâm hồn,

và là sự sống bất tận của linh hồn ta.

Ngươi là “ta” đó, Đất ơi!

Nếu không vì bản thể ta, thì chắc ngươi đã chẳng hề hiện hữu[123].

  Trở về mục lục


 

 

THIÊN NHIÊN CÔNG BẰNG

Catherina

Nói đến công bằng, người ta nghĩ ngay đến loài có lý trí; có trí khôn mới biết phân biệt phải trái, đúng sai để sống sao cho ra sống, sống sao cho có ý nghĩa. Chúng ta đều hiểu, công bằng là một trong bốn nhân đức căn bản của con người. Nếu chúng ta nói: “Thiên nhiên công bằng” thì chúng ta phải hiểu sự công bằng này như thế nào?

Nhìn ngắm thiên nhiên hùng vĩ, trong đó mọi loài mọi vật xoay vần một cách trật tự lớp lang, tinh vi, kỳ diệu. Người ta không chỉ có mắt để thấy nhưng còn có trí để suy; dùng trí khôn suy nghĩ thì sẽ nhận ra có một Ai đó vô cùng thông minh, và một quyền năng vô hạn đã tác tạo, sắp đặt mọi sự trong trật tự, chắc chắn phải có Đấng tạo dựng nên chúng; vạn vật không thể tự mình mà có được. Người Công giáo luôn đầy thán phục vì tin rằng tất cả mọi sự đến từ tay Thiên Chúa, và Thiên Chúa đã giao vũ trụ này cho con người. Mọi Kitô hữu đều tin nhận rằng Thiên Chúa đã ban cho con người quà tặng thiên nhiên để họ hưởng dùng, và mọi người đều có bổn phận chăm sóc, bảo vệ và canh tác thiên nhiên; con người cũng có quyền khai thác và hưởng dùng thiên nhiên trong mức độ thích hợp cho phép.

Chủ đề “Thiên nhiên công bằng” như một lời mời gọi mọi người hãy nhìn lại cách sống của mình đã và đang đối xử với thiên nhiên như thế nào? Với chút suy tư đơn sơ, người viết sẽ khai triển chủ đề này với năm điểm sau: 1/ Càn khôn tay Chúa sáng tạo. 2/ Sự hài hòa của thiên nhiên. 3/ Thiên nhiên công bằng hơn con người. 4/ Cộng tác hay bóc lột trái đất. 5/ Kinh nghiệm sống với thiên nhiên.

1. Càn khôn tay Chúa sáng tạo

Không những mọi sự đến từ tay Thiên Chúa, mà tất cả đều thuộc về Người. Cách đây gần 3000 năm, tác giả Thánh vịnh 104 (103) đã chứng minh chân lý này và nó vẫn giữ nguyên giá trị cho đến hôm nay. Tất cả mọi loài thọ tạo đều tốt đẹp và sống hài hòa với nhau; từ những kỳ vĩ trong vũ trụ cho đến muông thú, chim trời, côn trùng bé nhỏ và mọi loài thảo mộc,… tất cả đều được dựng nên để phục vụ và sinh ích cho con người. Thiên Chúa đặt con người vào giữa Vườn Eden để con người canh tác, cai quản mọi loài để sống hài hòa hạnh phúc với chúng. Bởi đó, con người được mời gọi nỗ lực cộng tác, xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ đồng thời chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Thiên Chúa ẩn dấu trong vũ trụ càn khôn. Đó là toàn thể thiên nhiên trong một trật tự tốt đẹp, phản chiếu sự giàu sang và quyền năng vô biên của Thiên Chúa, hài hoà giữa con người và vũ trụ tạo thành[124].

2. Sự hài hòa của thiên nhiên

Sự hài hòa của thiên nhiên được thể hiện qua việc Thiên Chúa tạo dựng nên muôn loài theo trật tự lạ lùng loài nào giống đó. Chúng được mọc đúng nơi và sống đúng chỗ, hợp với bốn mùa: Xuân – Hạ – Thu – Đông, và theo bản năng sinh tồn của chúng. Vì vậy, cây nào sống nhầm nơi, loài nào sống nhầm chỗ thì sẽ không phát triển được hết khả năng của chúng, nên sẽ èo ọt. Có để lại ở vùng đất ấy, chúng cũng không thể sinh hoa thơm trái ngọt như ý định của Chủ Nhân tạo ra nó.

Chính bởi vì Thiên Chúa tạo dựng thiên nhiên đa dạng phong phú, muôn loài muôn vẻ có những loại cây ưa mọc nơi ẩm ướt quanh năm cành lá xum xuê, có những loại cây lại thích mọc trên núi cao làm nên những cánh rừng nguyên sinh, nhiều cây mọc chen vào những kẽ đá, và cũng có những cây như thể được dựng nên để sống ở chỗ đất khô cằn, khi mùa hè tới chúng bị những tia nắng gắt gao với sức nóng mặt trời thiêu đốt, làm cho chúng trở nên thưa thớt tàn tạ, đến nỗi chỉ cần một ngọn lửa nhỏ cũng có thể biến chúng thành đống tro tàn. Nhưng khi mùa mưa tới, chúng đã chuyển mình một cách bất ngờ với những chồi non mơn mởn đầy sức sống.

Với niềm tin của người kitô hữu nhìn thế giới trong nội tâm mình để nhận ra sự hài hòa giữa thiên nhiên vạn vật với con người trật tự năng động để mọi loài được sống và sống dồi dào. Nhờ sự hiệp nhất ấy đã phản ánh nét diệu kỳ của Thiên Chúa qua từng sinh vật, đặc biệt hơn đối với con người, Thiên Chúa ban cho tự do để hưởng dùng tài nguyên thiên nhiên, có điều là đừng lợi dụng tự do để khai thác thiên nhiên cách bừa bãi, làm hại môi trường sinh thái, nhưng hãy lấy tình thương mà đối xử. Vì ý định của Thiên Chúa là muốn cho muôn loài trong vũ trụ vạn vật sống hài hòa với nhau. 

3. Con người phá vỡ sự công bằng của thiên nhiên

Chúng ta thử nhìn vào một số cây nông nghiệp sẽ thấy sự công bằng của thiên nhiên thật đáng khâm phục, nhưng trong thực tế nó đang bị con người phá vỡ. Những loài thảo mộc ngắn ngày được người nông dân trồng cấy quanh năm, đang bị con người thúc ép phải lớn nhanh, phải chín sớm bất thường cho kịp thời vụ, nhằm kịp đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của con người. Quả thật, qua những tác động từ bên ngoài của con người đã làm cho vòng đời của những giống cây này phải thu ngắn lại. Nói cách khác, con người đã trực tiếp hay gián tiếp tác động đến bản chất đã được Tạo Hóa đặt để bên trong và làm cho chúng buộc phải “hy sinh” bản thân mình nhằm đáp ứng nhu cầu của con người.

Đối với các loại động vật nuôi (gia súc gia cầm,…) cũng không khá hơn, chúng vẫn đang phải chịu chung số phận khi con người lạm dụng những loại “thức ăn tăng trọng” trong chăn nuôi gia súc gia cầm. Thực ra ở đây, con người đã can thiệp một cách phi tự nhiên chỉ nhằm rút ngắn tuổi thọ của con vật nhằm vào lợi ích của những cá nhân ông chủ.

Tất cả những cách can thiệp và hành xử một cách quá lạm dụng các sản phẩm khoa học trên đây của con người, đều là những can thiệp phá vỡ sự công bằng trong tự nhiên. Con người cắt ngắn tuổi thọ của chúng để “kéo dài” cuộc sống con người một cách bất công.

Nói cách khác, thiên nhiên đã dạy cho con người một bài học vô giá về sự công bằng của chúng. Ngay từ thuở khai thiên lập địa, Tạo Hóa đã đặt để trong mỗi loài thọ sinh những quy luật bất khả xâm phạm. Cây nào giống ấy, loài nào đặc tính ấy (x. St 1,11-12). Cây cối không mọc nhầm chỗ, thú vật không sống “lộn chuồng”, chúng có bị xáo trộn hay đảo lộn là do con người gây ra. Phải chăng vì sau khi phạm tội mà tính tình con người, vốn là hình ảnh Thiên Chúa, đã bị thay đổi. Con người có thói quen ích kỉ, thích chiếm đoạt… nên nghĩ ra nhiều cách để đảo lộn và tìm mọi cách khai thác thiên nhiên một cách quá trớn?

Tác giả Đỗ Đức[125] đã có lý khi đưa ra nhận xét: Phải chi người ta biết quan sát thiên nhiên, biết học thiên nhiên, chắc chắn sẽ biết sống nhân ái hơn, không còn cảnh nhầm chỗ hay tham lam chiếm đoạt của công để rồi chen lấn đồng loại. Dường như một đời người sống đến một trăm tuổi cũng là quá ngắn so với thiên nhiên trường cửu, nên sự tham lam vơ vét có lẽ phát xuất từ đó.

4. Cộng tác hay chiếm đoạt trái đất[126]

 Thiên Chúa đã trao trái đất cho con người và con người phải có bổn phận chăm sóc bảo vệ và gìn giữ môi trường trước mọi biến cố xảy đến (x. St 2,15-17). Vậy nếu chúng ta có sứ vụ chăm sóc và gìn giữ môi sinh thì tại sao chúng ta lại gây nên những thiệt hại chống lại thiên nhiên? Chúng ta không thể phủ nhận mình vô tội, dù mức độ chúng ta gây ra lớn hay nhỏ. Đức Giáo hoàng Phanxicô trong Thông điệp Laudato Si’ đã mời gọi con người cộng tác với thiên nhiên để xứng đáng được hưởng thành quả do thiên nhiên mang lại, chứ không phải chỉ biết hưởng thụ, ngài viết: “Sáng tạo đang bị hư hoại, đây là nơi chúng ta hiện diện, nơi toàn thể không thuộc về chúng ta mà chúng ta lại hưởng thụ cho riêng mình[127].

Đó cũng là cách con người trả lại sự công bằng cho “Mẹ Vạn Vật”. Đang khi chúng ta bóc lột trái đất từ những cánh rừng nguyên sinh, làm dơ bẩn nguồn nước, ô nhiễm đất đai và thải ra những chất độc hại (x. số 8), thì thiên nhiên vẫn luôn bao bọc chúng ta. Bởi vì chúng ta không sống ngoài các thực tại của thế giới này. Hơn thế nữa, những ai sống ơn gọi làm Kitô hữu, là những người có sứ mạng cộng tác vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Chúng ta có thể làm mới lại mối tương quan giữa chúng ta với môi trường xung quanh, trả lại vị trí đúng đắn cho mọi tạo vật. Học gương thánh Phanxicô, ngài sánh ví mỗi tạo vật đều là anh chị của con người và nối kết con người bằng sự cảm thông và yêu thương, tràn đầy sự âu yếm với tất cả (x. số 11). Vì vậy, mỗi người cố gắng ý thức đóng góp phần nhỏ bé của mình bảo vệ môi trường, tạo môi trường xanh, sạch, sống quảng đại yêu thương, tránh làm tổn thương sáng tạo của Thiên Chúa.

5. Kinh nghiệm sống với thiên nhiên

Con người cần thiên nhiên để tồn tại và phát triển, hơn nữa, qua thiên nhiên con người có thể tìm gặp bản thân, Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Bonaventura nói: “Chiêm niệm chỉ đạt đến đỉnh cao, khi con người cảm nghiệm hồng ân Thiên Chúa trong chính mình, hay khi con người càng hiểu rõ để gặp gỡ Thiên Chúa trong mọi tạo vật bên ngoài” (số 233). Hãy thử một lần, mở rộng lòng để kinh ngạc, để ngỡ ngàng trước thiên nhiên và thế giới vạn vật, chúng ta sẽ cảm nhận được những điều thú vị tuyệt mỹ của Đấng Hóa Công như bài Thánh Thi dưới đây mô tả:

Chim đàn ríu rít ngọn cây xanh

Uống giọt sương mai đón hòa bình

Líu lo ca tụng Vua Công Chính

Phơn phớt trời mai đã nhuốm hồng

Đẹp lá hoa vườn đẹp núi sông

Con muốn đồng ca cùng vũ trụ

Ánh Người đẹp quá ánh bình minh

Chúa Tể càn khôn tạo dựng cách tài tình.

Lời quyền năng ban hơi thở,

Muôn loại sống động khắp nhân gian[128].

Chúng ta không chỉ “ngạc nhiên” trước vẻ đẹp của các thụ tạo, nhưng các thụ tạo cũng khai sáng cho ta nhận biết chính hiện hữu của mình giữa muôn loài. Điều này mời gọi chúng ta phải bước ra khỏi bản thân để sống trong sự quan phòng của Thiên Chúa, sống tình tương thân tương ái với tha nhân và đối xử công bằng hài hoà với muôn loài muôn vật.

Thiết tưởng, để sống tốt mối tương quan công bằng hài hòa với thiên nhiên vạn vật người ta cần lắng nghe, yêu thương và nhiệt thành.

* Lắng nghe

Chúng ta không quán triệt thực tại bằng các khái niệm suông hay những tư tưởng hàm hồ, nhưng kinh nghiệm cuộc sống dạy cho ta biết cách nghe được tiếng “Mẹ Thiên Nhiên” than thở. Lắng nghe để yêu thương để biết mở lòng ra với các thực tại, vì nếu không có tình yêu thì không nhận thức được thực tại. Chẳng hạn, khi ta nghe tiếng tí tách của hạt mưa rơi trên lá, tiếng rì rào của gió xuân, hay ngắm những chồi non đang nhú lên từ những gốc cây tưởng chừng như đã khô chồi. Tâm hồn nhạy bén không thể dửng dưng trước những kỳ công ấy mà không thán phục. Ai đã làm nên chúng, ai đã cho chúng hiện hữu? Thiên nhiên như bản hòa ca của muôn tạo vật đang cất lời chúc tụng Chúa, cần chúng ta lắng tai lòng để hợp lời cùng “trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm…” (Tv 119), để cộng tác với Người và làm cho trái đất này đáng yêu hơn.

* Yêu thương

Từ sự thán phục và cộng tác vào công trình tạo dựng của Đấng Hóa Công, chúng ta nhận ra mọi loài là anh chị em với nhau, cùng đang trông chờ ngày được Thiên Chúa Cứu chuộc, nhờ đó ta có thể sống trong sự “ngạc nhiên” về vẻ đẹp của thiên nhiên. Tôi có cơ hội được chứng kiến sự ngỡ ngàng của một dự tu mới gia nhập Đan viện, em được phân công phụ làm vườn cây cảnh với một vị Đan sĩ cao niên. Em chăm chú dõi theo cách chăm sóc vườn tược của  “đấng” lão thành. Bỗng nhiên em thốt lên: “Dì ơi, dì sinh ra vào giờ nào mà loại cây nào Dì cũng yêu quý như vậy? Dì chăm sóc chúng như thể chăm sóc cho con người vậy?”. Nở một nụ cười hóm hỉnh, vị Đan sĩ trả lời: “Dì sinh ra vào giờ thiên nhiên ưu đãi… nên mình phải yêu thương “những người bạn tốt” của mình chứ. Mình được bao bọc bởi thiên nhiên, sống nhờ thiên nhiên nên mình phải có bổn phận trân trọng và yêu thương chúng”. Thật vậy, khi sống thân thiện với thiên nhiên tâm hồn chúng ta thanh thản, dễ hướng tâm hồn lên với Chúa, vả lại khi chăm sóc môi sinh là chúng ta đang cộng tác vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Điều ấy có thể giúp chúng ta nhiệt thành yêu mến mọi loài trong vũ trụ này.

* Nhiệt thành

Trong bản Tu Luật, thánh Biển Đức dạy rằng: “Các đan sĩ phải nhiệt thành. Có một thứ lửa đam mê đắng cay tách lìa ta ra khỏi Thiên Chúa và dẫn đi xa Người đời đời. Nhưng cũng có một thứ lửa nhiệt thành tách lìa ta ra khỏi các thói xấu và đưa tới Thiên Chúa, tới sự sống vĩnh cửu. Đó là thứ nhiệt tâm mà đan sĩ phải say mê tập luyện[129].  Thánh nhân còn khuyên: “Trước tiên, mỗi khi khởi sự làm điều gì tốt, con hãy khẩn khoản nài xin Chúa đưa công việc ấy đến viên thành[130]. Vì thế, chúng ta được thúc bách canh tác vũ trụ này, nhưng không phải theo ý riêng hay lòng tham của mình. Như thế, bất kể làm việc gì, chúng ta cũng làm tận tâm “như thể làm cho Chúa” và với tất cả lòng yêu mến, mở rộng con tim để nhận ra những nhu cầu của anh chị em mình, của thiên nhiên vạn vật, nhằm mưu ích cho bản thân và để làm sáng Danh Chúa qua các công việc hằng ngày. Đối với các đan sĩ Xitô, cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận cũng dạy: “Mọi sự đều vô ích chóng qua thay thảy, trừ ra sự kính mến Chúa mà thôi” (DN số 113). Chính từ sự kính mến Chúa giúp chúng ta nhận ra mọi loài thụ tạo đều là anh chị em của mình, đó là điều thánh Phanxicô Assisi đã chứng nghiệm trong cuộc sống của mình.

Kết luận

Trong một thế giới muôn hình muôn vẻ, mọi sinh vật hiện hữu trong sự lệ thuộc và tương tác lẫn nhau, bổ túc cho nhau, cùng nhau vươn tới điều Thiện Hảo Duy Nhất là Đấng sáng tạo muôn vật muôn loài. Bởi vì, như Đức Giáo hoàng Phanxicô quả quyết trong Thông điệp Laudato Si’:“Môi trường là điều thiện hảo chung, gia tài của toàn thể nhân loại là một trách nhiệm chung cho mọi người”[131]. Bổn phận của con người là chăm sóc môi trường thiên nhiên với một tình yêu chân thành, một sự dấn thân không mệt mỏi đối với mọi loài thọ sinh; trái tim quảng đại luôn mở ra cho các tạo vật. Khi làm như thế là con người cùng chung tay góp phần xây dựng ngôi nhà chung. Ngôi nhà trái đất là mái ấm hạnh phúc tuyệt vời cho con người. Vì là thụ tạo, con người không sống ngoài các thực tại của thế giới này, con người cũng không thể phủ nhận rằng, chính thiên nhiên đang bao bọc con người. Tất cả vũ trụ vật chất là dấu chỉ yêu thương của Thiên Chúa đối với con người. Sự hiện hữu của mỗi thụ tạo là một sứ điệp yêu thương, hiệp nhất trong đa dạng mà Thiên Chúa ban cho con người. Theo thánh Augustinô: Tất cả vạn vật trên trần gian đều nằm trong trật tự của Đấng Tạo Hóa trên những cấp bậc cao thấp hoàn hảo khác nhau. Do đó, vũ trụ này được trào tràn sự tốt lành của Thiên Chúa và con người đã đón nhận được hết ơn này đến ơn khác từ nguồn sung mãn của Người (x. Ga 1,16).

Với đức tin Công giáo, người tín hữu nhìn ngắm thế giới trong nội tâm mình để nhận ra dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa là Cha trên trời đã ban cho họ. Chính vì thế, sống trong đời sống cần có một tấm lòng để sống công bằng với nhau và với thiên nhiên vạn vật. Nếu mỗi người đều ý thức sống hài hòa thân ái với thiên nhiên vạn vật thì đã không xảy ra tình trạng “thiên nhiên nổi giận” như hiện nay, nhưng tất cả sẽ hòa hợp, chăm sóc và phục vụ lẫn nhau trong ngôi nhà chung có Thiên Chúa là Cha!

  Trở về mục lục


 

 

 

MẠCH NƯỚC VỌT LÊN (Ga 4,14)

Mai Vương An

Laudato Si’, …

Laudato Si’, mi’ Signore” (Xin chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con), đây là lời chúc tụng của thánh Phanxicô Assisi trong Bài Ca Của Các Thụ Tạo khi thánh nhân dùng các đại danh từ: Anh Mặt Trời, Chị Mặt Trăng… để nhân cách hóa các loài thụ tạo đang hiện diện xung quanh chúng ta trở nên một nhân vị thực hữu như chính con người hầu giúp nhân loại biết yêu thương và bảo vệ môi sinh trên trái đất này[132].

Từ ngữ ‘con người’, theo nguyên nghĩa của Kinh Thánh Cựu Ước trong tiếng Hipri là Adam, phát sinh bởi gốc từ (adamah – bụi đất).[133] Với ý nghĩa này, con người chúng ta được cấu thành từ những yếu tố nền tảng của trái đất: đất, nước, khí… và các nguyên tố khác hợp thành… nhưng với sự phát triển vượt bậc của nhân loại, càng ngày con người dường như đã và đang bóp chết một nền môi sinh của trái đất.[134]

Trong chiều hướng đó, chúng ta hãy cùng nhau nhìn đến nguồn tài nguyên “nước” chính là nguồn tài nguyên không thể thiếu đối với hành tinh nhỏ bé này. Đó cũng là cách nhìn của Đức Giáo hoàng Phanxicô về môi sinh mà tôi sẽ trình bày trong đề tài: “Một Mạch Nước Vọt Lên”, đã được gợi hứng từ Tin Mừng Gioan trong bối cảnh Đức Giêsu gặp người phụ nữ Samari bên giếng nước Giacóp. Qua đó, tôi cũng xin đề cập đến một thứ “nước” mà Đức Giêsu nói đến, đó chính là NƯỚC HẰNG SỐNG.

Nước – Tài nguyên thiết yếu

Chúng ta đã biết rằng toàn thể hành tinh nhỏ bé này được cấu tạo từ nước và các nguyên tố khác, nhưng nước lại chiếm một tỷ lệ lớn so với diện tích bề mặt hành tinh. Nước chiếm hết 70% khối lượng của trái đất.

Trong 70% khối lượng nước ấy thì có đến 97% nước trên Trái Đất là nước muối, chỉ có 3% còn lại là nước ngọt. Nhưng trong số 3% ấy thì gần 2/3 lượng nước là ở dạng sông băng và các mũ băng ở các cực (Bắc Cực, Nam Cực). Phần còn lại không bị đóng băng được tìm thấy chủ yếu ở dạng nước ngầm, và chỉ một tỷ lệ nhỏ tồn tại trên mặt đất và trong không khí[135].

Vậy tỉ lệ nước ngọt mà con người có thể dùng được trên hành tinh này là rất ít so với khối lượng nước xem ra là vô tận.

Ngay cả trong cơ thể con người, tỷ trọng của nước cũng chiếm đến 70%, một số lượng quá lớn mang tính quyết định cho sự sống của con người. Do đó, khi lượng nước trong cơ thể không đạt đủ chỉ số của nó, chúng ta buộc phải tiếp nước vào cơ thể theo nhiều cách khác nhau. Bởi lẽ đó, nước trở nên một vấn đề có tầm quan trọng thiết yếu, vì nó không thể thiếu cho sự sống con người và cho việc hỗ trợ các hệ thống sinh thái trên cạn và dưới nước”[136].

Trên thực tế, chúng ta thấy ngày nay nguồn nước sạch đang dần cạn kiệt, sự cân bằng của hệ sinh thái trên địa cầu ngày một giảm đi vì sự bóp nghẹt môi sinh của con người. Các nguồn nước không còn được dồi dào như trước, do có những nơi xảy ra hạn hán kéo dài, cùng với sự ô nhiễm rác thải, các chất khí thải độc hại… mà con người đã gây ra cho thế giới. Bên cạnh đó, sự phân bố giàu nghèo và phân cấp tầng lớp trong xã hội đôi khi đã biến nguồn nước trở thành một thứ vật liệu tư hữu như là món hàng cao cấp của những kẻ có tiền của, trong khi đó dân nghèo lại phải đối diện với cảnh chết khát từng ngày[137].

Qua đó, chúng ta nhận ra rằng nước trở thành yếu tố sống còn của nhân loại và vạn vật trên hành tinh nhỏ bé này. Nước được xem như là nguồn sống thực sự cho thế giới vật chất của chúng ta. Nhưng trong dòng suy tư này, bản thân tôi không nhắm đến việc phân tích tầm quan trọng của nước hay nói đến một thế giới môi sinh đang ngày bị đe dọa… nhưng với việc trình bày thoáng qua tầm quan trọng của nước trong thế giới vật chất này, tôi muốn hướng bạn đọc nhìn đến một nguồn “nước mới” mang lại sự sống trường tồn cho nhân loại từ một con người duy nhất. Nơi người ấy “Một Mạch Nước” sự sống sẽ vọt lên, người đó mang tên Giêsu Kitô.

Đức Kitô, Mạch Nước Sự Sống

* Đức Kitô, niềm khát mong

Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa, Nhờ Người muôn sự đều có và được tạo thành, một “Lời” phán ra mọi sự đều hiện hữu và tốt đẹp, đó là quyền năng tình yêu của Thiên Chúa (x. St 1,1 – 2,4a; Ga 1,1-4).

Đức Giêsu Ki-tô trở thành nguồn mạch tuôn trào sự sống cho hết thảy những ai đến với Người. Khi đến và tiếp cận với Đức Giêsu, chính Người sẽ làm cho đối tượng được gặp gỡ với mình cũng trở thành “mạch nước vọt lên” sự sống mới cho hết thảy những ai khao khát và mong đợi “nguồn nước đích thực”.

Đến đây mọi người sẽ hỏi tôi: Anh dựa vào đâu để nói và giúp chúng tôi xác tín điều anh nói đó là sự thật?

Tôi sẽ dựa vào đức tin và Kinh Thánh. Tại sao tôi dựa vào đức tin và Kinh Thánh?

Tôi dựa vào đức tin vì đây là điều Thiên Chúa phú ban cho tôi qua Lời Chân Lý của Người là Đức Giêsu Kitô, đây là sự khôn ngoan mà Thiên Chúa đã dùng Con của Người để mạc khải cho tôi. Bởi không ai có thể thấu hiểu và nhìn thấy những điều kín nhiệm của Người Con mà không do Thiên Chúa Cha mạc khải cho (x. Mt 16,15-17).

Tôi dựa vào “Kinh Thánh” vì đó là bằng chứng xác thực mà Thiên Chúa muốn nói với nhân loại qua chính Lời Hằng Hữu của Người. Bởi đó là Lời Thiên Chúa được nói với bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng… và Lời đó xác thực cho tôi tin vào chính điều mình muốn nói và sẽ nói (x. Rm 10,8-10).[138]

Trong Tin Mừng Gioan, chúng ta được tác giả Tin Mừng Thứ Tư này chứng thực rất rõ khi trình bày cho chúng ta thấy các cuộc gặp gỡ quan trọng giữa Thiên Chúa với con người qua Đức Giê-su. Cuộc gặp gỡ đầu tiên là giữa Người với ông Ni-cô-đê-mô, cuộc gặp gỡ thứ hai giữa Người với phụ nữ Samari, cuộc gặp gỡ thứ ba với người phụ nữ ngoại tình, và cuộc gặp gỡ sau cùng là giữa Người và anh mù bẩm sinh (x. Ga 3,1-21; 4,1-42; 8,1-11; 9,1-40). Trong tất cả các cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu đều làm cho đối tượng được gặp gỡ trở nên nguồn sống mới và niềm hy vọng mới cho mọi người. Nhưng trong bài viết này, tôi chỉ xin dừng lại nơi người phụ nữ Samari bên giếng Giacob.

* Đức Ki-tô, gặp gỡ từ tự nhiên đến siêu nhiên

Trong trình thuật Tin Mừng Gioan, khi nói đến cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari, tác giả cho chúng ta thấy một tiến trình đi từ tự nhiên đến siêu nhiên cách tiệm tiến. Với việc Đức Giêsu xin người phụ nữ Samari cho Người mượn gầu để kín “nước” – thứ nước tự nhiên mà con người cần đến để duy trì sự sống; từ điều tự nhiên đó, tác giả dần cho chúng ta thấy một thứ “nước” mới đem lại sự sống đời đời – “nước” phát xuất từ nguồn mạch duy nhất là Đức Giêsu Kitô (x. Ga 4,7-14).

Qua sự kiện Đức Giêsu gặp gỡ người phụ nữ Samari bên giếng Giacob, chúng ta nhận ra điều gì?

Trong cuộc gặp gỡ này, chúng ta thấy một điều khát vọng sâu thẳm nơi nhân loại, nhân vật đại diện là người phụ nữ Samari, đó chính là sự khát khao một tình yêu đích thực, khát khao một chân lý và sự bình an đích thực trong tâm hồn. Con người luôn mang trong mình nỗi khát khao hướng về Chúa và vươn lên tới Chúa là sự thiện tuyệt đối. Cũng như chính ông Giakêu (x. Lc 19,1-10), dù sự giàu có của ông có thể nói đã lên đến tột cùng, nhưng nơi ông vẫn thấy một sự thiếu thốn nào đó không thể diễn tả… sự thiếu vắng một tình yêu và một chân lý của sự sống đích thực. Sự thiếu vắng này đó là chính Chúa. Tại sao? Do hậu quả của Nguyên Tội, con người đã khước từ ánh sáng chân lý, tình yêu vĩnh cửu, nguồn mạch sự sống đích thực… họ đã khước từ đi chính Đấng Tác Tạo nên họ và vũ trụ này.

Với dấu tích của tội Nguyên Tổ, con người trở nên giống như kẻ ngoại bang khi đứng xa xa nhìn hướng về “địa đàng”, nơi họ đã có đầy đủ vẻ huy hoàng, tình yêu, và sự sống đích thực từ Thiên Chúa. Con người đã hối hận về việc tự do lựa chọn của mình khi họ nghĩ: Tôi có thể tách rời “nguồn mạch sự sống” từ Thiên Chúa, bởi tự nơi tôi vẫn có thể trở thành “nguồn sống” cho chính mình. Nhưng than ôi: khi con người dùng tự do ấy để tự rứt mình ra khỏi Tình Yêu Sáng Tạo này, họ đã vô tình đi vào một vùng tối tăm đầy khô hạn để rồi họ phải đau đớn trong cơn “khát” của Sự Sống Tình Yêu thực sự. Chính từ sự khát khao này, người phụ nữ Samari đã được Chúa cho “giãn khát”, qua cuộc gặp gỡ có một không hai này.

Từ việc kín nước tự nhiên, Đức Giêsu đã khơi lên khát vọng nhỏ bé của con người khi nói: Nếu chị biết tôi là ai và nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban cho chị, hẳn chị đã xin tôi thứ nước đem lại cho chị sự sống đích thực (x. Ga 4,10).

Với một vài lời đối thoại ngắn ngủi ấy, cùng với lời xin có vẻ “ngây thơ” của một người phụ nữ đang cần nước (vì thực tế có thể chị này vẫn chưa thực sự xác tín rằng Đức Giêsu có thể cho chị một điều lớn lao như thế: Nước Trường Sinh (x. Ga 4,11-15). Người đã dẫn đưa chị đến “Mạch Nước” đích thực, mạch nước phát sinh sự sống cho những ai tin vào Người.

Từ cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu đã làm sống lại một con người, một tâm hồn dường như đã chết và bị chôn vùi trong huyệt mộ của “tội lỗi”. Đức Giêsu không chỉ cứu chữa và giúp cho chị được “hết khát” trong cõi lòng, Người còn biến chị trở nên “mạch nước” đích thực để làm tươi mát những mảnh đất tâm hồn cằn cỗi và giúp họ được nhận biết Tin Mừng của Thiên Chúa mang lại cho con người đó là Giêsu Kitô.

Như vậy, với việc gặp gỡ Đức Kitô thực sự, chúng ta không chỉ được giãn khát từ “mạch nước” tình yêu của Người mà còn được trở nên MẠCH NƯỚC đem lại sự sống cho tha nhân. Vì hễ ai uống nước từ Đức Giêsu ban tặng thì nơi người ấy cũng sẽ trở nên “một mạch nước vọt lên” sự sống đời đời (x. Ga 4,13).

Thay lời kết

Lạy Chúa! Chúa chính là Mạch Suối Tình Yêu, chỉ nơi Chúa mới làm cho chúng con thỏa niềm khát mong, niềm khát mong một tình yêu vĩnh tồn, khát mong của sự sống bất diệt và hạnh phúc miên trường.

Xin Chúa thương ban Thần Khí của Chúa cho chúng con và dẫn đưa chúng con đến cuộc gặp gỡ thần linh với Người. Bởi chỉ khi nào chúng con được gặp gỡ Chúa, được kín múc nguồn Nước Hằng Sống từ chính Chúa, lúc ấy chúng con mới có thể trổ sinh hoa trái và đồng thời chúng con cũng trở nên Mạch Nước đem lại sự sống đời đời cho bản thân và tha nhân (x. Ga 4,14).

  Trở về mục lục


 

 

MỞ RA TỪNG TRANG SÁCH THIÊN NHIÊN

Martino de Porres

Sách là kết tinh của trí tuệ nhân loại, chứa đựng nguồn tri thức khổng lồ về mọi lĩnh vực trong cuộc sống. Sách đem lại nhiều lợi ích, mở ra nhiều cơ hội, khẳng định nhiều giá trị… Tuy nhiên, không có quyển sách nào bao gồm được hết mọi kiến thức, mọi lĩnh vực, mọi phạm trù, cho dù đó là bách khoa toàn thư. Duy chỉ có một quyển sách do chính Chúa là tác giả, vô cùng phong phú, thú vị, sống động và chứa đựng mọi điều tinh túy nhất; đồng thời cuốn sách do Chúa “xuất bản” này còn chất chứa rất nhiều những thông điệp quý giá, đó chính là “quyển sách” thiên nhiên.

“Quyển sách” thiên nhiên được chính Thiên Chúa là tác giả, chứa đựng nhiều khía cạnh phong phú, có khám phá cả đời cũng không hết. Bài viết với giới hạn nhất định không thể kể hết ra được, vì cả một quyển sách thiên nhiên vĩ đại làm sao nói được trong vài trang giấy. Chính vì thế, mỗi người hãy tự cầm lấy quyển sách thiên nhiên quý giá và mở ra từng trang để thưởng thức. Người viết xin giới thiệu trong quyển sách này sẽ có những trang sách thiên nhiên tuyệt đẹp, những trang sách thiên nhiên đang bị phá hủy và những trang sách thiên nhiên ẩn chứa những bài học vô giá để mọi người tự mở ra khám phá theo cách của mình.

1/ Những trang sách thiên nhiên tuyệt đẹp

Vẻ đẹp của thiên nhiên luôn hấp dẫn và “mê hoặc” con người. Đó là một bức tranh với đủ màu, đủ cảnh từ những gam màu rực rỡ đến những gam màu bình dị, từ những nét hùng vĩ đến những nét hoang sơ, từ những cảnh sống động đến những cảnh tĩnh lặng.

Đầu tiên là vẻ đẹp của bầu trời. Khi ánh nắng rực rỡ chiếu tỏa, bầu trời xuất hiện với một màu xanh êm dịu, những vầng mây uốn lượn đủ kiểu như vẫy chào, như muốn quyện, muốn vờn lấy mọi vật dưới mặt đất. Bầu trời ấy về đêm lại càng đẹp hơn bội phần với muôn ngàn tinh tú lấp lánh cùng ánh trăng huyền mơ hòa cùng những chú đom đóm như những vì sao di động lập lòe dưới đất và đường phố xa gần giăng đèn rực sáng… Cả không gian lung linh huyền ảo như thế giới thần tiên. Nàng trăng e thẹn lúc ẩn lúc hiện sau những áng mây, tỏa ánh sáng dịu dàng, êm dịu. Cùng với nàng trăng là chị gió thướt tha, uyển chuyển khẽ đu đưa hàng cây, tắm mát cả không gian. Nàng trăng và chị gió làm dịu đi cái nóng, lau khô những giọt mồ hôi, trấn an những lo toan phiền muộn trong cuộc sống của con người.

Tiếp theo, là cảnh núi rừng thiên nhiên. Núi rừng luôn chứa đựng những vẻ đẹp kì bí hoang sơ đến lạ, bước vào những khu rừng hoang sơ là như bước vào một thế giới hoàn toàn thoát tục, không còn bận tâm về thời gian, không gian. Khắp không gian là bản nhạc hòa tấu khi du dương, lúc hùng tráng đôi khi là những âm thanh man mác, có chút hoang mang huyền bí. Như người tí hon lạc vào vương quốc khổng lồ, khi bước vào núi rừng sẽ có vô vàn những cảnh đẹp, những bí ẩn để khám phá, để “ngỡ ngàng”, con người tha hồ tận hưởng và thưởng thức. Con người như được ban thêm sức mạnh và dưỡng khí từ “lá phổi” khổng lồ và tuyệt diệu này.

Ra khỏi những trang sách bí ẩn của núi rừng, chúng ta bước vào vẻ đẹp hùng vĩ của biển cả. Ai đã từng ngắm bình minh trên biển thì sẽ chẳng quên được hình ảnh mặt trời như lòng đỏ một quả trứng cực lớn chui từ dưới nước lên, mang theo đó là đủ màu sắc phản ánh dưới thảm nước mênh mông, hơi nước của biển và sức nóng của mặt trời lan tỏa như vòng tay ấm áp của người mẹ hiền nâng niu con thơ. Mặt trời càng lên cao càng rực rỡ, thì mặt biển lại càng được nhuộm màu xanh thêm, từng cơn sóng như muốn vờn theo mặt trời, vờn những áng mây đưa tâm hồn người lữ khách mơ về nơi cuối chân trời bình yên… thật là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ. Trong bức tranh ấy, con người thấy mình nhỏ bé và mong manh quá đỗi; đại dương như muốn hút con người vào một thế giới khác, như một đôi cánh khổng lồ sẵn sàng đưa con người đi bất cứ nơi đâu.

Quang cảnh thiên nhiên tự nhiên còn ban tặng cho con người biết bao là những hang động kỳ bí, những đồi hoa dại với vẻ đẹp “mê hoặc”, những thác nước kỳ vĩ, những núi băng sừng sững, những cánh hoa tuyết rơi lãng mạn, những dòng sông uốn lượn hiền hòa… Bên cạnh đó là những loài sinh vật vô cùng phong phú bao trùm cả chốn rừng sâu đến tận đáy đại dương thăm thẳm và cả vùng trời mênh mông.

Chỉ vội vàng lướt qua một vài trang sách thiên nhiên tuyệt đẹp chứ làm sao kể hết được vì trời đất ngập tràn vinh quang và kỳ công của Chúa. Tuy chỉ lướt qua, nhưng cũng kịp để lại trong lòng người nhiều cảm xúc, để tâm hồn thêm rộng mở, trái tim cùng hòa nhịp với thiên nhiên tuyệt vời. Biết nói gì ngoài tâm tình cảm phục và biết ơn sâu sắc Đấng Tạo Hóa. Tâm tình ấy thật là đúng đắn, thật đáng trân trọng, đáng phát huy nhưng lại ít được để ý đến và càng ít được thể hiện bằng hành động. Thay vào đó là sự thờ ơ và vô trách nhiệm, vì vậy những trang sách thiên nhiên tuyệt đẹp ấy đang bị vò nát, đang bị hủy hoại một cách tàn nhẫn.

2/ Những trang sách thiên nhiên đang bị hủy hoại

Thế kỷ XX và XXI chứng kiến thế giới chuyển mình một cách nhanh chóng, vĩ đại nhờ vào sự phát triển khoa học kỹ thuật; nhưng hai thế kỷ này cũng làm cho thiên nhiên bị hủy hoại một cách tàn khốc. Đức Giáo hoàng Phanxicô lên tiếng cảnh báo về mức độ tàn phá khủng khiếp đã làm tổn thương chưa từng có ngôi nhà chung của chúng ta như trong những thế kỷ gần đây[139].

Điều đáng lo ngại nhất và ảnh hưởng rộng nhất là vấn đề khí hậu đang nóng lên. Vấn đề này thực sự là một thảm họa đối với “bức tranh” thiên nhiên và đối với chính con người. Thảm họa này do chính con người gây nên, “bức tranh” tươi đẹp do chính con người làm cho ra nhàu nát khi hàng ngày có cả triệu tấn khí thải độc hại lên bầu khí quyển. Các khu rừng bị phá hủy không thương tiếc, các tài nguyên bị khai thác vô trật tự. Chất thải và sức nóng từ nền công nghiệp thải ra đã làm ảnh hưởng đến khả năng bảo vệ của bầu khí quyển, để rồi sức nóng của mặt trời như được mời gọi thiêu đốt trái đất nhỏ bé. Hàng năm, nhiệt độ lại càng tăng cao và biến trái đất trở thành như một nồi nung[140].

Khí hậu nóng lên, làm cho rất nhiều loài sinh vật vĩnh viễn “không thèm ở lại với con người”. Bức tranh thiên nhiên bị mất đi nhiều màu sắc đa dạng đã trở nên hoang tàn, buồn tẻ: “Mỗi năm mất đi hàng nghìn loại cây cối và thú vật, mà chúng ta không còn khả năng nhận ra, cả con cháu chúng ta cũng không còn cơ hội chiêm ngưỡng, hoàn toàn mất đi vĩnh viễn…không còn tôn vinh sự hiện hữu của Thiên Chúa, cũng không trao lại cho chúng ta sứ điệp của chúng”[141]. Khí hậu nóng lên cũng là nguyên nhân làm cho nước biển dâng cao, nhiều vẻ đẹp thiên nhiên bị dìm vào trong vũng bùn nước, nhiều công trình của Tạo Hóa bị những dòng nước ích kỷ của con người tàn phá.

Nhiều nơi bề mặt trái đất được phủ bằng thảm cỏ xanh, đồi hoa thơ mộng bây giờ bị cày xới tan nát để đào bới tài nguyên; loang lổ những đất đá khô cứng, chằng chịt những hố sâu, vực thẳm do nhiều tấn bom đạn dội xuống. Những thác nước bị phá hủy, những quả đồi bị san bằng, những cây xanh với tuổi đời hàng trăm năm bị đốn gục thay thế vào đó là những khối bê tông thô cứng sừng sững để mở ra những sòng bạc lạnh lẽo, những nhà hàng xa xỉ, những khu nghỉ mát cho nhiều người “đốt tiền”. Rất nhiều nơi bị ngập tràn trong rác công nghiệp, một cảnh tượng vô cùng ghê tởm, xấu xí của hành tinh nhỏ bé này.

Thiên nhiên gào thét, không còn gần gũi con người, không còn là bạn của con người. Thay vào đó là những trận cuồng phong như trút đầy sự giận giữ, những cơn động đất rung chuyển đất đai đe dọa con người, những núi lửa hãi hùng phun trào sự phẫn nộ, những cơn sóng thần cuốn băng mọi thứ… Tại sao lại có những tai họa khủng khiếp như vậy? Thiên nhiên vốn xinh đẹp, hiền hòa bây giờ lại để lộ ra bộ mặt thật kinh khủng. Cần phải đọc ra, phải nhận ra thông điệp mà thiên nhiên muốn truyền tải cho con người, vì tất cả những điều đó chẳng phải là ngẫu nhiên, càng không phải là do sự bất hoàn thiện của thiên nhiên. Muốn đọc ra thông điệp đó là gì, chúng ta cần mở những trang sách thiên nhiên bằng chính trải nghiệm cuộc sống của mình.

3/ Những trang sách chứa đựng thông điệp ý nghĩa

Bất cứ một hành động nào của Thiên Chúa đối với con người đều từ lòng nhân hậu và yêu thương vô bờ bến của Người. Mọi tạo vật đều mang đậm “nét tình”, chất chứa “chữ yêu” của Thiên Chúa để “tỏ tình” với con người. Không một vật nào, không một yếu tố nào trong thiên nhiên được tạo nên để chống lại con người, nhưng tất cả đều để phục vụ con người: “Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên trái đất đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất hủy hoại” (Kn 1,14). Đó chính là thông điệp tất cả mọi người cần ghi nhớ.

Cảnh vật thiên nhiên mời gọi con người ca tụng Chúa, kết hợp với Chúa. Chính thiên nhiên đã thực hiện rất tốt sứ vụ này, và dạy cho con người cách ca tụng Chúa thực sự. Như những núi đồi, biển cả, cây cối… không cần phải nhiều lời, không cần phải đi thật nhiều nơi, không cần làm những điều thật vĩ đại… chỉ cần là chính nó thì đã trở thành lời ca tụng vinh danh Chúa thật tuyệt vời. Như những loài chim không cần lo làm giàu, không tranh giành vàng bạc đá quý mà chỉ cần bay lượn, chỉ cần cất tiếng hát líu lo thì đã trọn vẹn sứ vụ ca tụng Chúa. Như những bông hoa không bon chen, không lo lắng vinh hoa phú quý chỉ cần đón lấy ánh mặt trời thì đã trở thành vẻ đẹp ca tụng Chúa vi diệu thay. Thông điệp dành cho mọi người, hãy ngẫm nghĩ lại, dường như có rất nhiều việc con người đang theo đuổi, đang tham vọng nhưng không hề để tôn vinh Chúa.

Thiên nhiên được Thiên Chúa ban tặng cho con người để cai quản, để làm chủ chứ không phải để phá hủy. Con người phá hủy thiên nhiên thì cũng chính là đang phá hủy cuộc sống của mình, vì vận mệnh của toàn vũ trụ được gắn liền với vận mệnh của con người, tất cả tạo vật đang rên siết, quằn quại, ngong ngóng chờ đợi ngày được cứu cùng với con cái loài người (x. Rm 8,19-22). Chính vì thế, thiên nhiên luôn giúp đỡ con người thực thi sứ vụ cao cả đó một cách thuận lợi nhất. Con người cần soi mình, cần hòa nhập với thiên nhiên để học biết phụng sự Thiên Chúa. Nếu thiên nhiên là một quyển sách, thì không thể chỉ nhìn vào trang bìa là có thể biết được nội dung, nhưng cần phải lật mở từng trang và đọc; con người cần phải đi sâu, cần thiết lập mối tương quan thực sự sâu sắc với thiên nhiên và coi đó cũng như vận mệnh của mình thì mới mong học biết phụng sự Chúa cho trọn tình.

Thiên nhiên phản ánh vinh quang Thiên Chúa, nơi thiên nhiên in đậm dấu chỉ tình yêu của Chúa, là “nụ hôn” Thiên Chúa ban cho con người. Vì vậy, thiên nhiên được Thiên Chúa ban cho chúng ta cai quản, nhưng thiên nhiên lại là của chính Chúa. Chúng ta đã được Chúa dạy: “Những gì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21). Trong mỗi người chúng ta luôn mang hình ảnh của Thiên Chúa nơi trái tim, nơi linh hồn; chúng ta mắc nợ Thiên Chúa về sự hiện hữu của chính mình[142]. Chúng ta cũng sẽ mắc nợ nặng nề nếu chúng ta phá hủy thiên nhiên không còn cho thiên nhiên trở thành một bức tranh phản ánh vinh quang Thiên Chúa. Con người không có quyền phá hủy thiên nhiên, sử dụng thiên nhiên cách thái quá đến mức “ngược đãi”, vì đó là một tội ác.

Thiên nhiên còn cảnh báo con người về tình trạng nhân phẩm và đạo đức của mình. Nếu cần trả lời câu hỏi, thế hệ hôm nay có còn giữ được một nhân phẩm tốt và đạo đức không? Chắc chắn nhiều nhà lãnh đạo quốc gia sẽ tự hào rằng nhân phẩm và phẩm giá của con người ngày nay rất được chú trọng, các quyền lợi không ngừng được đặt ra nhằm bảo vệ những người yếu đuối nhất. Nhưng đó chỉ là lý thuyết, thực tế thì còn rất xa vời, có nhiều bằng chứng cho thấy điều đó và một trong những bằng chứng đanh thép nhất là tình trạng tồi tệ của thiên nhiên ngày nay. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã mạnh mẽ nhận định: “Việc làm ô nhiễm các điều kiện môi trường và ô nhiễm trên bình diện nhân phẩm và đạo đức, liên kết mật thiết với nhau[143]. Thế giới ngày nay đang ô nhiễm khủng khiếp như thế nào thì chắc chắn chúng ta cũng đã biết, đó chính là lời cảnh báo cho sự ô nhiễm trầm trọng trong tâm hồn của con người thời nay. Lòng đầy thì mới tràn ra, lòng không thanh sạch, không đạo đức thì làm sao giữ cho môi trường xung quanh trong sạch được. Người buồn thì cảnh cũng chẳng thể vui, tâm tư ngổn ngang những điều ô uế thì làm sao có thể giữ cho cảnh vật được thanh bình.

Bức tranh thiên nhiên cũng đang tố cáo thế giới ngày nay công bằng đến đâu, yêu thương đến đâu? Con người đang đánh mất đi khả năng yêu thương, khả năng bao dung của mình. Thực vậy, ngay sự thiêng liêng và cao cả nhất là sự sống của con người không được tôn trọng, không được yêu thương thì làm sao còn tin vào một thứ tình yêu nào khác. Mỗi ngày, có biết bao nhiêu trẻ em vô tội bị giết hại? Biết bao người bị “bỏ đói”, bị “diệt khẩu”? Ngay cả mạng sống con người còn không được tôn trọng thì biết bao loài vật quý hiếm đang có khả năng bị tuyệt chủng cũng chẳng là gì. Từ vấn nạn này để thấy rằng biết bao nhiêu loài tảo thực vật, vi sinh vật nhỏ bé, vô danh lại còn bị nguy hiểm đến chừng nào. Vị cha chung của chúng ta cũng phải đau lòng nhận định rằng: “Có lẽ, chúng ta bất an khi cảm nghiệm về cái chết của loài động vật có vú, hay của loài chim, vì chúng thường xuất hiện trước mắt chúng ta. Nhưng các cây nấm, tảo, các con sâu, côn trùng, rắn rết và biết bao loài vi sinh vật rất cần thiết cho hoạt động tốt của hệ sinh thái. Nhiều giống loài nhỏ bé lại không được chú ý tới[144].

Ngày nay, con người đang phải gánh chịu nhiều thiên tai hơn, nhiều những sự “tấn công” từ thiên nhiên hơn. Bởi vì con người không còn tôn trọng thiên nhiên, ngược đãi thiên nhiên quá mức nên tự chuốc lấy hậu quả. Phải chăng đó là cách thiên nhiên trả thù lại con người, chống lại con người? Không phải như vậy. Thiên nhiên không bao giờ chống lại con người, nhưng chính con người đang chống lại chính mình. Đi ngược lại với quy luật thì ắt hẳn phải gánh hậu quả. Thiên nhiên là quà tặng Chúa ban, nhưng chúng ta lại chà đạp món quà đó thì làm sao đón nhận được điều tốt đẹp từ nơi quà tặng. Con người, ý thức rằng cần phải tái tạo thiên nhiên, như việc trồng cây gây rừng chẳng hạn. Nhưng chính những phân bón, thuốc kích thích sinh trưởng trái quy luật tự nhiên mà con người đổ vào cây cối lại làm chết đi bao nhiêu loài sinh vật khác. Còn nhiều trường hợp khác, con người muốn can thiệp để cải tạo thiên nhiên nhưng mức độ can thiệp của con người thường là để phục vụ cho tài chính và tiêu thụ. Khi con người cố gắng tạo ra những nét đẹp cho thế giới thì lại đẩy thế giới đến gần sự tàn lụi. Khi không có tình yêu thực sự, khi làm việc không để tôn vinh Chúa thì mọi sự chỉ đưa đến diệt vong.

Phần kết

Quyển sách thiên nhiên vẫn còn nhiều điều bí ẩn, nhiều trang dang dở để mọi người khám phá. Mở từng trang sách thiên nhiên cũng là mở ra từng trang sách cuộc đời mình, thấy vận mạng và sứ vụ của mình ở trong đó. Soi mình vào từng trang sách thiên nhiên để biết mình phải làm gì, cần làm gì và nên làm gì. Không cần phải làm những việc quá phô trương, vĩ đại và tham vọng, vì những điều âm thầm, nhỏ bé cũng ẩn chứa sức mạnh phi thường. Ví như một cây từ lúc đâm chồi và lớn lên chẳng bao giờ phát ra một tiếng động nào, nhưng khi nó đổ xuống lại làm xôn xao cả khu rừng. Những việc xem ra thật vĩ đại, to lớn đôi khi lại trở thành phá hủy và để lại hậu quả mà con người không lường được. Người đan sĩ với đời sống âm thầm, hy sinh, cầu nguyện luôn ẩn chứa một sức mạnh có thể biến đổi cả thế giới. Ngắm nhìn vẻ đẹp một bông hoa, chăm sóc một cây cảnh, nhặt một cọng rác, tiết kiệm một chút nước, bớt một chút khí thải… cũng là đang mở ra những trang sách thiên nhiên với sự nâng niu trìu mến. Đó chính là những việc vĩ đại, có khi còn quan trọng hơn cả vá trời lấp bể hay đắp lũy xây thành, như tác giả bài thơ Lá Xanh đã so sánh thật thi vị:

Người vá trời lấp bể,

Kẻ đắp lũy xây thành.

Ta chỉ là chiếc lá,

Việc của mình là xanh”  (Nguyễn Sĩ Đại)

Là một chiếc lá xanh nhỏ bé hợp với muôn ngàn lá xanh khác, đem lại hơi thở và sự sống cho trái đất còn quan trọng hơn muôn ngàn việc vĩ đại khác. Người đan sĩ Xitô Thánh Gia cũng hãy là chiếc lá nhỏ bé, nhưng mãi xanh.

  Trở về mục lục


 

 

LỜI NGỢI CA CỦA ĐAN SĨ

FM. Grégoire Phan

Thiên Chúa tạo ra loài người, tự bản chất, con người đã biết thờ phượng Thiên Chúa. Có thể nói rằng nhu cầu tôn thờ và ca ngợi bên trong con người cần thiết cho sự tồn tại của họ, như hơi thở cần thiết cho sự sống. Vì thế, nếu không ca ngợi Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành, con người sẽ hướng sự ca ngợi vốn có nơi mình đến những đối tượng khác, những thần tượng khác. Bản chất của việc tôn thờ và ngợi ca là hướng về Thiên Chúa như là đối tượng duy nhất đáng được tôn thờ và ca ngợi. Đi ra khỏi quỹ đạo tôn thờ và ca ngợi này, con người sẽ lạc lối trong cung cách và trong đối tượng của việc thờ phượng.

Đối với các đan sĩ, suốt ngày sống trong nội vi đan viện, bầu khí thinh lặng luôn được ưu tiên hàng đầu, thì việc tôn thờ ngợi ca Thiên Chúa là một nhu cầu không thể thiếu vắng, không thể chuẩn miễn. Việc tôn thờ ca ngợi của đan sĩ không chỉ được thực hiện qua những câu kinh trong các giờ thần vụ, nhưng còn kéo dài suốt cả ngày sống trong âm thầm thinh lặng.

Chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa và giá trị đích thực của việc tôn thờ ca ngợi nơi người đan sĩ, cũng như nhìn lại cung cách ngợi ca của chúng ta trong hành vi thờ phượng Thiên Chúa qua các thụ tạo của Người.

 1. Đánh mất lời ngợi ca đích thực

Sống trong văn hoá thời hiện đại, con người ngày nay, nhất là đối với những người trẻ, họ thích hưởng thụ, thích tìm kiếm những gì trước mắt, thích nghe những điệu nhạc pop-rock giật gân, thích thưởng thức những điệu nhảy hip-hop bắt mắt,… thì liệu việc tôn thờ ngợi ca nói chung và việc tôn thờ ca ngợi của đan sĩ có bị ảnh hưởng trong cung cách cử hành các nghi lễ tôn thờ hay không?

Thực tế cho thấy rằng có vô số những cung cách và điệu nhạc mà người đương thời thuộc mọi tầng lớp đang dùng để diễn tả tâm tình tôn thờ và ca ngợi Thiên Chúa, nhằm bày tỏ niềm tin và văn hóa của họ. Tuy nhiên, trong cung cách ca ngợi của người đan sĩ luôn chứa những nét riêng của truyền thống đan tu trong Giáo hội, nếu đánh mất đi tính đặc thù và độc đáo này, người đan sĩ sẽ đánh mất gia sản quý báu mà Chúa đã trao vào tay họ, qua các bậc tiền bối.

Trong số mười hai chi tộc Israel, như được ghi lại trong Kinh Thánh Cựu Ước, chúng ta cũng sẽ thấy tính đặc thù của từng chi tộc qua việc phụng thờ Thiên Chúa của họ. Điển hình là, nếu chi tộc Lêvi được dành riêng để thờ phượng Đức Chúa (x. Ds 1,49), thì chi tộc Giuđa có nghĩa là “ngợi khen Thiên Chúa”. Tính đặc thù của mỗi dân tộc, của từng sắc dân hay của từng nhóm người cho thấy Thiên Chúa đặt tất cả họ vào vị trí và cách thức riêng biệt để thi hành sứ vụ tôn thờ ca tụng Ngài. Nếu đánh mất tính đặc thù ấy, con người sẽ đánh mất bản sắc riêng và sẽ bị đồng hoá bởi những hình thức bên ngoài của tha nhân và cũng đánh mất giá trị trong tương quan đối với tha nhân.

Mặc dù, yếu tố đa dạng về hình thức tôn thờ ca ngợi trong từng môi trường văn hoá là cần thiết, nhưng cung cách tôn thờ và ca ngợi của đan sĩ luôn là tuyệt vời và chiếm một vị trí ưu tiên, cần được trân quý và bảo tồn giữa muôn vàn hình thức tôn thờ đa dạng ấy. Tuy nhiên, sự rủi ro có thể xảy ra nếu đan sĩ tiếp cận với một cung cách tôn thờ và ca ngợi mới lạ và tìm cách hội nhập, nhưng lại theo cách hời hợt và thiếu cân nhắc, thì dần dần sẽ dẫn đến tình trạng đồng hóa và có nguy cơ đánh mất bản sắc đan tu quý giá vốn đã được Giáo hội nhìn nhận qua bao thế hệ.

Ngược lại, nếu chúng ta có thái độ khép kín và từ chối những hình thức tôn thờ và ca ngợi phong phú từ các nền văn hóa khác nhau, thì chúng ta sẽ trở nên khô cứng, nghèo nàn và đánh mất đi suối nguồn ân sủng chứa đựng trong đó. Đây thật sự là một thách thức lớn, chúng ta cần nghiêm túc đánh giá và áp dụng. Hơn nữa, những nguy cơ của việc tôn thờ và ngợi ca thường bị tách ra khỏi đời sống cộng đoàn và bị chi phối bởi những phong trào nhất thời, hay bởi việc lệ thuộc vào những thứ tình cảm tạm bợ, hoặc bởi những lối sống lập dị,… sẽ có nguy cơ làm giảm đi giá trị đích thức thực trong cung cách thờ phượng chân chính của người đan sĩ.

Mặt khác, nhiều khi đan sĩ cũng dễ đánh mất ý nghĩa của việc thờ phượng đích thực khi họ tập chú vào việc cố ý phô diễn cái tôi của mình – cho dù là công khai hay kín ẩn- giữa những truyền thống chân chính trong các cộng đoàn. Bởi vì, chính sự ích kỷ và kiêu căng trong lối sống “thánh thiện” của các đan sĩ dễ làm cho việc tôn thờ và ngợi ca của họ không còn chỗ đứng trong tâm tình cầu nguyện. 

Cuối cùng, lối tôn thờ và ca ngợi mang tính thực dụng và xu thời, luôn cố công tìm kiếm những “giải pháp” thay thế, hoặc loại bỏ những giá trị truyền thống và cốt yếu,… luôn có nguy cơ làm cho giá trị Tin Mừng của việc thờ phượng bị giảm thiểu hay đánh mất tác dụng/ý nghĩa. Tất cả những quan niệm về việc phụng thờ ấy cần phải nghiêm túc được suy xét và lựa chọn, sao cho những nét đẹp đích thực của lời ngợi ca được duy trì và phát triển không ngừng. 

Vì vậy, việc tôn thờ và ngợi ca được vang lên từ muôn dân nước, muôn loài thụ tạo hướng lên Đấng Tạo Thành, cần được duy trì trong sự tôn trọng và canh tân. Cả những đặc thù của mỗi loài, cả những sự hội nhập từ muôn loài,… đều mang một ý nghĩa đích thực là tôn vinh Đấng Hóa Công của mình.

2. Ca ngợi Danh Thánh Chúa

2.1. Lời ngợi khen trong Kinh Thánh

Khi tôn thờ ngợi khen Thiên Chúa, chúng ta không làm những gì phi thường, nhưng chỉ là công việc của bổn phận của tạo vật đối với Đấng Tạo Hóa. Thánh Luca đã xác quyết: “Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).

Trong sách Sáng Thế, động từ “ngợi khen” được Thánh ký sử dụng là từ:  “yadah” (ידה). Nghĩa gốc của động từ này là những cử động của bàn tay. Theo nghĩa văn chương, bàn tay của Thiên Chúa đưa ra và hướng về dân của Ngài. Cánh tay của Thiên Chúa đã chúc lành cho các tôi tớ của Ngài. 

Chúng ta tìm thấy nghĩa thứ hai của từ “ngợi khen” trong sách Lêvi chương 19,24: Tiếng Do Thái dùng từ: “il-lool’” (הלּוּל), từ này được dịch là mừng vui hoan hỷ (réjouissances) diễn tả việc cử hành hy lễ tạ ơn. Tiếp theo, trong sách Đệ Nhị Luật, chương 10,21 lại dùng hạn từ: “teh-hil-law’” (תּהלּה) và được dịch là vinh quang (gloire), đúng hơn từ ngữ này thông thường có nghĩa là một bài ca ngợi khen. Còn trong sách Daniel 2,23 thì viết: “Lạy Ngài là Chúa của tổ tiên chúng con, con cảm tạ và ngợi khen Ngài, vì Ngài đã cho con sự khôn ngoan và sức mạnh. Tóm lại, động từ “sheb-akh’” (שׁבח) có nghĩa là ngợi khen hay chúc tụng.

Vậy nên, việc tôn thờ ngợi ca là việc thờ phượng Thiên Chúa với ánh mắt hướng nhìn về trời để ca ngợi vinh quang của Ngài. Việc ca ngợi này là hành động của những con người sống, ca ngợi Đấng làm ra sự sống và Đấng làm cho sự sống hữu hạn trở thành vô hạn trường tồn. Đây cũng là điều Isaia đã xác tín khi viết: “Chỉ người sống, vâng chỉ người sống mới ca tụng Ngài như thể con nay. Người cha sẽ dạy cho con cái rõ Ngài là Đấng tín trung” (Is 38,19). Tiếp theo xác tín của Isaia, tác giả Thánh vịnh 88 lại dùng một kiểu nói khác, ông nói: “Trong âm phủ nào ai ca ngợi Chúa. Cõi âm ty nào ai kể về lòng thành tín của Ngài” (Tv 88,12) .

Thật vậy, ngợi khen Chúa là phẩm chất của một người đang sống. Đó cũng chính là đặc tính của người Kitô hữu, vì Chúa là Đấng Hằng Sống, Đấng đáng được ngợi khen và đáng được chúng ta ca tụng.

2.2. Những chiều kích của lời ngợi ca

Chúng ta có thể sơ lược một vài chiều kích khác nhau của lời ngợi ca để thấy được tầm mức quan trọng của lời ngợi ca.

Điều thứ nhất, hãy cùng nhau thể hiện lòng tin qua việc ca hát: “Lạy Chúa trời, xin mở miệng con và miệng con sẽ tung hô Chúa! Vì ngày mới được mở ra, khi mở miệng là mở ra của ánh sáng ban ngày và bóng đêm sẽ bị đẩy lùi[145].

Lời ngợi khen mang đặc tính của lòng biết ơn. Khi nhận được ơn, chúng ta không quên ngợi khen Thiên Chúa và công bố những ân huệ vật chất và thiêng liêng mà Người ban cho, để hành động cảm tạ và ngợi khen này có tính liên tục. Đó là điều Vịnh gia đã chia sẻ: “Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” (Tv 30,13). Trong một hoàn cảnh khác, tác giả Thánh vịnh 89 cũng tuyên dương: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài” (Tv 89,2).

Thứ đến, lời ngợi ca được phát sinh trong lòng tín hữu. Những tâm tình trào dâng thúc đẩy người tín hữu chia sẻ và làm chứng vì đã nhận được ân huệ Chúa ban: “Giữa lòng đại hội, con sẽ tạ ơn Chúa, trước mặt quần chúng, con sẽ tán dương Ngài” (Tv 35,18). Đó cũng là một hành động cách công khai và cũng là lời tuyên xưng đức tin.

Tiếp theo, lời ngợi ca còn được diễn tả qua hình thức là một lời thề (x. Lv 7,16). Đó là một hành động thờ phượng đặc biệt, do cá nhân dâng tiến. Thật vậy, lời ca tạ ơn của người hiến dâng cho Thiên Chúa, khi thực hiện việc ca ngợi luôn luôn là việc lập lại lời thề hứa hiến dâng.

Lời ngợi ca mang chiều kích vinh danh đó là lời “Gloria”, một trong những bài hát rất cổ xưa (antiquissimus) của Giáo hội, cùng với lời kinh “Pros hilarion” (Ôi nguồn sáng huy hoàng) và lời kinh “Te Deum” (Chúng con ca ngợi Chúa Trời). Kinh ca ngợi Gloria, được tìm thấy trước tiên trong nguồn phụng vụ Hy Lạp và Syria của nghi lễ Đông Phương, được sử dụng trong bài “Ca Rạng Phục Sinh” và dần dần trở thành phần kết thúc của giờ Kinh ban Sáng. Về sau, bên Tây Phương, lời kinh Gloria được hát trong Thánh Lễ[146].  Như vậy, Lời ca ngợi này nên trọn vẹn khi người đan sĩ hát ca cảm tạ ngợi khen của một khúc ca “Te Deum”; khúc ca cổ xưa này (khoảng thế kỷ IV hoặc thứ V) của một bài thánh ca bằng tiếng Hy Lạp trong buổi cử hành phụng vụ cổ xưa, cũng như ngày nay mỗi đan sĩ khi hoàn tất cuộc đời cũng đều vang lên tâm tình cảm tạ khi được an nghỉ trong phần mộ.

Như vậy, khi nào chúng ta chỉ ca ngợi Thiên Chúa với hy vọng đạt được mục đích theo ý muốn của mình là chúng ta đang lừa dối mình chứ không phải chúng ta đang thực sự muốn ca ngợi Thiên Chúa. Khi đó, chúng ta không thể đổi mới, không thể có được tâm tình cảm tạ và ngợi khen đúng nghĩa.

3. Đan sĩ Xitô với lời ngợi ca

Con người chỉ có thể trở nên viên mãn khi họ trở nên thầm lặng trong cuộc sống nội tâm. Lời ngợi ca của người đan sĩ được thực hiện trong đền thánh Chúa, với không gian trầm lặng. Lời ca ngợi ấy được vang lên trong “cung điện” thiên nhiên, hoà quyện với tiếng vi vu của núi rừng và của muông thú. Như tác giả Thánh vịnh 150, đan sĩ hoà tiếng ca đàn hát của mình với vũ trụ để ca tụng Thiên Chúa Chí Tôn:

Halêluia!
Ca tụng Chúa đi, trong đền thánh Chúa, 
ca tụng Người chốn cao thẳm uy linh.

Ca tụng Chúa vì công trình hùng vĩ, 
ca tụng Người lẫm liệt uy phong.

Ca tụng Chúa đi, rập theo tiếng tù và, 
ca tụng Người, họa tiếng cầm tiếng sắt.

Ca tụng Chúa, bằng vũ điệu trống đưa, 
ca tụng Người, theo cung đàn nhịp sáo.

Ca tụng Chúa đi, với chũm chọe vang rền, 
ca tụng Người cùng thanh la inh ỏi.

Hỡi toàn thể chúng sinh, ca tụng Chúa đi nào! 
Halêluia!”

Qua những lời ca ngợi trên đây (Tv 150), chúng ta thấy rằng những lời ca ngợi ấy được mở đầu và kết thúc với tiếng Haleluia, như là một sự kết nối trực tiếp với con tim, vang lên tâm tình tôn thờ ngợi khen. Con tim ấy không thuộc về một phân nửa nhưng là thuộc về toàn thể, thuộc về viên mãn.

Trong lời ngợi ca, tiếng hát hoà quyện với tiếng của các nhạc cụ khác nhau, cùng với những âm thanh vang vọng của tự nhiên, của công trình sáng tạo, để tấu lên tâm tình tôn thờ và ngợi ca Thiên Chúa.

Tuy nhiên, người đan sĩ không chỉ dừng lại nơi tiếng hát tiếng đàn, nhưng họ còn được mời gọi bước vào cõi thinh lặng để cảm nhận và ngợi ca tình Chúa sâu thẳm dường bao. Nếu người đan sĩ đã ngợi ca trong tiếng hát tiếng đàn, thì với đặc sủng riêng của mình, đan sĩ cũng phải ngợi khen Chúa trong âm vọng của sự thinh lặng. Như nhà thần học Maurice Zundel đã chia sẻ kinh nghiệm của ông khi viết rằng: “Chỉ có thinh lặng của toàn thể bản thể con người, trong cái chết của cái tôi mới có thể nghe được tiếng vang vọng nhiệm mầu của cái thinh lặng nơi Thiên Chúa[147].

Quan sát thiên nhiên, chúng ta thấy cỏ cây, hoa lá ruộng đồng,… tất cả chúng đều lớn lên trong thinh lặng hoàn toàn. Khi chiêm ngắm các vì sao, mặt trăng và muôn vì tinh tú trên bầu trời,… tất cả cũng đều ở trong thinh lặng. Nhưng đó chính là những lời tôn thờ ngợi ca ‘vô ngôn’ trong âm thầm. Tất cả những lời tôn thờ ngợi khen đó hoà quyện với nhau tạo nên kỳ công kỳ diệu của Thiên Chúa Tạo Thành. Các Vịnh gia cũng mời gọi mọi tạo vật khác nhau hãy ca tụng Thiên Chúa: “Ca tụng Chúa đi, này vầng ô bóng nguyệt, ca tụng Người, muôn tinh tú rạng soi. Ca tụng Chúa đi, hỡi cửu trùng cao vút, cả khối nước phía trên bầu trời. Nào ca tụng Thánh Danh Đức Chúa, vì Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành” (Tv 148,3-5).

Âm vang ấy không chỉ dừng lại trong không gian và thời gian và có thể nghe được bằng tai thường, nhưng cả những âm thanh vang lên trong cõi thinh lặng thẳm sâu nhất. Tất cả những âm vang ấy được hoà quyện với muôn sinh vật để tôn thờ ngợi ca tình Chúa.

Nói cách khác, những âm vang của sự tĩnh lặng ấy không phải là sự kỳ bí hay sự im lặng của xác chết, nhưng là âm vang tràn trề sức sống và sinh động. Vì trong cõi thinh lặng thẳm sâu, tâm hồn người đan sĩ đang kết hiệp với Nguồn Mạch Sự Sống. “Sự tôn vinh Thiên Chúa chúng ta hay sự ca ngợi chính là đặc tính của người sống. Đó không phải là người sống đặc sủng nhưng là đặc tính của người đã được thánh tẩy và người sống[148]. Thật vậy, khi đan sĩ cất cao lời ca tụng Thiên Chúa, thì họ cũng đang hòa nhịp điệu của tâm hồn trong yêu thương với thiên nhiên để ngợi ca Thiên Chúa, chứ không phải là âm thanh vô hồn.

Trong Thông điệp Laudato Si’, Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn chúng ta chuyển tiếp lời ngợi ca trong tình yêu và muốn tất cả trở nên một bản hoà ca của việc ca ngợi Thiên Chúa: “Khi chúng ta yêu thương một người, mỗi lần như thế, người đó sẽ chiêm ngắm mặt trời, mặt trăng hay là một sinh vật bé nhỏ nhất, phản ứng của anh là ca hát lên và lôi kéo tất cả tạo vật vào bài ca của mình[149]

Âm thanh từ việc tôn thờ ngợi ca ấy của đan sĩ không bao giờ phá vỡ âm thanh tự nhiên, không làm cho thiên nhiên hoảng sợ; trái lại, âm thanh ấy là lời ngợi ca thực sự; âm thanh của một tâm hồn tìm kiếm Thiên Chúa không ngơi nghỉ. Trong chiều hướng này, thánh Biển Đức nhắn nhủ các đan sĩ rằng: “Hãy ca ngợi Thiên Chúa cho thật khéo” (TL 19,4).

Kết:

Tôn thờ và ca ngợi là đi vào trật tự mà Đấng Tạo Thành đã thiết lập. Chỉ khi nào âm thanh tôn thờ ca ngợi toát lên từ tâm hồn con người, thì âm thanh ấy hoà quyện với trầm hương lên trước toà Chúa.

Thật vậy, người đời vì muốn tìm kiếm vinh quang và danh dự trần thế mà người ta ca ngợi nhau và họ gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi lời ngợi ca của họ. Nói các khác, khi “tôn vinh” tạo vật và từ chối tôn vinh Tạo Hóa là bất công và bất hiếu.

Hơn nữa, khi làm như thế là con người đã đánh mất căn tính của mình, căn tính tôn thờ và ca ngợi Đấng Tạo Dựng nên họ. Vậy nên, khi có trách nhiệm với lời cầu nguyện và cuộc sống của mình là con người đang biết nhìn lên Trời Cao mà tiến bước. Lời tôn vinh và ngợi ca của họ tựa hương thơm ngào ngạt cùng với thiên nhiên và hoà quyện với lời ca bay tỏa trước Tòa Thiên Chúa. Lời ấy có sức thanh tẩy tâm hồn, có sức biến đổi nhân tâm và có sức mạnh chuyển hoá thế giới nên tươi đẹp hơn.

Ước gì tất cả cuộc sống và con người chúng ta -cả phần động và phần tĩnh, cả lời ca tiếng hát bên ngoài và khoảng thinh lặng sâu thẳm bên trong- đều trở thành lời tôn vinh và ca ngợi vinh quang Thiên Chúa, như thánh Phaolô hằng mong ước: “Như thế, anh em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa” (Pl 1,11).

  Trở về mục lục


 

 

THÁNH PHANXICÔ VÀ BÀI CA TẠO VẬT

Sr. M. Têrêsa Tin

Cuộc sống trần thế với biết bao ưu phiền và lo lắng, với biết bao vất vả và lo toan đã làm cho con người mệt mỏi và chán chường, chai lỳ và khô cứng. Tuy nhiên, ở một nơi nào đó, trong góc khuất tâm hồn của con người vẫn tồn tại những nét ngây thơ và đáng yêu, hồn nhiên và vô tư lự. Vui với gió, đùa với trăng chẳng phải chỉ có nơi những tâm hồn trẻ thơ mà cả nơi những tâm hồn tưởng chừng như đã chai sạn với thời gian. Vì thế, sau những bộn bề lo lắng của cuộc sống thường nhật thì giây phút được thả hồn vào trong thiên nhiên để ngắm những cánh hồng tươi nở, để hít thở làn hương thoang thoảng của cánh hoa là giây phút đem lại cho con người cảm giác nhẹ nhàng và an bình hơn bao giờ hết. Chính khi được hoà quyện với thiên thiên và đất trời, được quên đi mọi lắng lo của phận người để dìm mình trong cái bao la của vũ trụ và muôn tạo vật mà con người trở nên gần gũi với Đấng Tạo Thành. Sự gần gũi hài hoà giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với muôn ngàn tạo vật như thế đã có từ khởi thuỷ, trong vườn Eden, từ khi con người rung những nhịp đập tình yêu đầu tiên:

Tình yêu như một đóa hồng

 Loài hoa hạnh phúc nở trong vườn đời”.

Hình ảnh vườn địa đàng thuở ban sơ rất đẹp và nên thơ, trong đó Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, ban cho con người sống thân mật với Ngài, và cho họ quyền làm chủ, canh tác và tự do sử dụng mọi cây trái, hoa cỏ, súc vật[150] (x. St 1,27.29-31). Sự thích ứng của con người với môi trường sống tự nhiên như là cách bảo đảm nguồn sống về ăn, mặc và nơi ở. Đồng thời việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên như là việc thỏa mãn các nhu cầu sinh tồn thiết yếu.[151] Trong ý tưởng đó, thánh Phanxicô Asissi đã diễn tả cảm nhận sâu sắc của mình về tạo vật khi nói rằng: “Mọi tạo vật là một linh hứng, là sự thể hiện lòng bao la cao cả của Thiên Chúa.[152] Cảm nhận này được thánh nhân họa lại trong chính đời sống của mình. Ngài sống trong sự đơn sơ và hòa hợp với Thiên Chúa, với tha nhân, với vạn vật và với chính mình. Ngài thể hiện sự tôn trọng tuyệt đối với cả những gì là yếu đuối, hèn kém và lôi kéo tất cả tạo vật vào bài ca của mình, Bài Ca Tạo Vật [153].

Bài Ca Tạo Vật nhắc nhở chúng ta rằng, nhân loại chúng ta tùy thuộc vào những yếu tố của tạo vật và tạo vật tùy thuộc vào chúng ta. Với lòng kính trọng mọi tạo vật, từ mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, nước, gió, lửa, và trái đất, thánh Phanxicô nhận ra mọi tạo vật đều ca tụng Thiên Chúa. Chúng ta có thể nói rằng, thánh Phanxicô đã trở nên nhạy cảm trước sự tốt lành của mọi tạo vật nên ngài đã hiểu, đã nghe và đã thấy mặt trời, mặt trăng ca tụng Thiên Chúa. Bài Ca Tạo Vật như báo trước một tạo vật mới mà trong đó chúng ta thấy mình gần gũi với mọi loài thụ tạo trong tinh thần hòa giải và bình an. Nó giúp chúng ta nhận ra mọi loài thụ tạo đều mang sự thiện hảo của Thiên Chúa và do đó, ngay cả trong đời sống viên mãn, thụ tao vẫn ca ngợi và tôn vinh Đấng Tối Cao.[154]

Bài Ca Tạo Vật mời gọi chúng ta chiêm ngắm bầu trời bao la với sự quyến rũ tuyệt vời của muôn tạo vật, và tình yêu hải hà của Thiên Chúa luôn tràn ứ trong thế giới huyền ảo ấy. Đồng thời cũng mời gọi chúng ta cùng với muôn loài tạo vật cất cao giọng ca, ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa, đưa thiên nhiên vào trong cuộc sống, và dùng thiên nhiên như một lối đường mới trở về với Đấng Tạo Thành. 

I. Thánh Phanxicô và Bài Ca Tạo Vật

1. Bầu trời bao la

Thánh Phanxicô diễn tả vũ trụ một cách tuyệt mỹ và sâu sắc, trong đó bầu trời bao la được ngài diễn tả như Anh Chị Em đại đồng: Anh Mặt Trời, Chị Mặt Trăng, Chị Gió.[155] Ngài cũng muốn mời gọi chúng ta cùng với Vịnh Gia cung chiêm cái bao la huyền ảo của đất trời:

       “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo

         Muôn trăng sao Chúa đã an bài…

        Nào chiên bò đủ loại, nào thú vật ngoài đồng

Nào chim trời cá biển, mọi loài ngang dọc khắp trùng dương” (Tv 8,4; 8-9).

Mọi loài trong vũ hoàn, từ tinh tú trăng sao, chim trời cá biển, chiên bò thú vật đến cả những loài không linh khí vẫn tạo nên một sự hài hoà, một mối liên hệ mật thiết, tạo thành những sinh quần, và một sự cân bằng sinh thái trong quan hệ cư trú và thức ăn. Vì vậy nếu làm thu hẹp nơi cư trú, thay đổi hoặc hủy diệt nguồn thức ăn sẽ làm cho sự đa dạng sinh học bị biến đổi theo.[156] Bởi thiên nhiên như là ngôi nhà che chở cho con người, là mặt trời sửa ấm, là thức ăn, là chính sự sống của con người. Thiên nhiên góp phần định đoạt bản tính của con người, đến phiên mình, con người góp phần định đoạt thiên nhiên. Trái đất nói với chúng ta bằng thứ ngôn ngữ của sức mạnh, của ràng buộc và của tương quan qua lại. Con người và thiên nhiên sống bằng cộng sinh, sống bằng hỗ tương đến nỗi bên này cho bên kia sự sống nếu không thì chết cả hai.[157]

Với một tâm hồn rộng mở và khả năng vượt qua mọi khoảng cách về nguồn gốc, quốc tịch, màu da hay tôn giáo[158], thánh Phanxicô đã nhận ra cái bao la của bầu trời, nơi chất chứa muôn tạo vật trong sự hoà điệu tuyệt vời, đến độ con người phải kinh ngạc và thốt lên lời ca ngợi về những giá trị mà thiên nhiên đã vô cùng ưu ái ban tặng cho loài người.[159] Vẻ đẹp của sự hoà điệu trong thiên nhiên cũng là lời tuyên xưng Đấng Tạo Thành, như thánh Augustinô đã nói: “Hãy hỏi vẻ đẹp của trái đất, của biển khơi, của khí trời và bầu trời…hãy hỏi tất cả những thực tại ấy. Tất cả sẽ trả lời cho bạn, vẻ đẹp của chúng tôi là một lời tuyên xưng.” Vậy nếu tạo vật chất chứa những vẻ đẹp, thì nơi tạo vật cũng chất chứa một sự quyến rũ vô hình, có sức mạnh lôi cuốn con người hướng về nó.

2. Sự quyến rũ của tạo vật

Bầu trời dẫu bao la nhưng luôn vận hành trong trật tự, vạn vật dẫu ngàn trùng nhưng vẫn hoà quyện cách diệu kỳ. Vẻ đẹp của đất trời và tạo vật có khả năng tạo nên sức quyến rũ đặc biệt cho con người, nhất là với các thi sĩ. Khi ngắm nhìn tạo vật, những tâm hồn thi sĩ đã được gợi hứng và sáng tác nên những vần thơ bất hủ, soạn những bài hát để đời, tạo ra những tình yêu lãng mạn. Người ta có thể nhìn mặt trăng để ca hát và cầu nguyện, ăn uống và vui chơi. Chính sự hấp dẫn, nét đẹp và sự hài hòa của vạn vật đã làm cho con người sảng khoái và bình an. Hãy thử đưa thiên nhiên tới ngưỡng cửa nhà mình, như đặt một bông hoa trên bàn, trồng một gốc cây trước cửa nhà, ngoài ngõ, sau vườn…, người ta sẽ cảm nhận được hơi thở của đất trời trong chính môi trường sống, người ta sẽ cảm nhận được sự tươi mát và hạnh phúc mà thiên nhiên mang lại.[160]

Đối với Phanxicô, tạo vật luôn tạo được sức hấp dẫn mãnh liệt bởi nét đẹp của nó. Nét đẹp nổi bật của thiên nhiên chính là không ngừng thì thầm về Thiên Chúa. Tất cả những vẻ đẹp của cánh đồng hay vườn nho, của chim muông hay dã thú, của làn gió hay ánh mặt trời, của băng tuyết hay mưa rơi chính là lời ca ngợi của tạo vật trước kỳ công của Thiên Chúa. Thánh Phanxicô đã khẳng định cách vui sướng về sự hiện diện của nét đẹp thần linh này và Ngài coi sự hiện diện của chúng như những mắt xích tạ ơn không ngơi nghỉ của tạo vật đối với Đấng Tạo Thành.

3. Mắt xích tạ ơn

Thánh Phanxicô cảm nhận rằng tất cả mọi tạo vật được nối kết với nhau bởi Thần Khí một cách chặt chẽ, không chia cắt, đến độ mỗi thành phần của tạo vật có liên hệ với tất cả những thành phần khác.[161] Thánh nhân đã dành tình yêu phổ quát cho tất cả mọi tạo vật và liên kết chúng lại như chuỗi mắt xích tạ ơn, chúc tụng và ngợi khen Thiên Chúa.

Thông thường, con người hay có thành kiến với vẻ bề ngoài xấu xí của một số loài vật hoặc có ác cảm với những loài vật hoang dại và nguy hiểm. Ví dụ: người ta thường ác cảm với rắn, vì sự nguy hiểm và nọc độc của chúng có thể giết chết người. Tuy nhiên, chẳng phải loài rắn nào cũng độc, chẳng phải lúc nào rắn độc cũng nguy hiểm, cũng xấu, đáng kinh tởm và tránh xa. Thật ra chúng không đáng phải chịu sự ác cảm như thế, vì loài rắn đâu chủ động tấn công, nếu con người không đe dọa sự sống của nó. Bởi đó, rắn cũng như những tạo vật khác, chúng giúp ích cho con người nhiều hơn là hại người, nên chúng ta cần phải công tâm xem xét, cân nhắc để lưu tâm bảo vệ mọi tạo vật, góp phần gìn giữ cho sự đa dạng sinh học được vững bền.[162]

Thánh Phanxicô như đã nghe được tiếng thiên nhiên.[163] Có lần ngài đã cứu mấy con chim gáy, ngài đã làm tổ và chăm sóc chúng và không bao giờ chúng bay đi nơi khác khi chưa được thánh Phanxicô đồng ý và chúc phước lành.[164]  Hành động của thánh Phanxicô là một điển hình cho lối xử sự trong quan hệ với thụ tạo, chính là thái độ biết ơn và quý trọng; thật vậy thế giới mặc khải mầu nhiệm một Thiên Chúa sáng tạo và bảo vệ công trình sáng tạo.[165] Không một loài nào là vô ích, không có loài nào là dư thừa, không có loài nào bị tách ra khỏi mắt xích tạ ơn. Tất cả muôn vật sống động đang không ngừng cất tiếng ngợi khen vinh quang Thiên Chúa và thế giới cũng đầy ắp tình yêu của Ngài. 

4. Thế giới này đầy ắp Thiên Chúa

Trời xanh tường thuật vinh quang Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19,2). Đó là lời được thốt lên từ sự cảm nhận sâu sắc của Vịnh gia trước tình yêu bao la của Thiên Chúa, Đấng không ngừng trải rộng lòng yêu thương đến muôn đời trên toàn cõi địa cầu. Trước Thiên Chúa toàn năng, mọi loài tạo vật đều phải cất tiếng ca tụng kỳ công và vinh quang của Người. Mặt trời chiếu sáng hay hoàng hôn mờ lịm, hoa cỏ tươi nở hay tiếng chim hót líu lo trong chiều xuân, mùa màng cây trái trĩu cành hay đàn súc vật đầy núi, tất cả mọi sự vật trong thiên nhiên[166] đều đang cất cao giọng ca chúc tụng Thiên Chúa, tất cả mọi tạo vật trong thiên nhiên đều đang góp phần tô điểm cho thế giới chúng ta đang sống trở nên xinh đẹp và hoàn mỹ hơn, làm cho thế giới trở thành ngôi nhà chung cho toàn thể tạo vật.

Khi đặt con người vào trong tương quan với mọi tạo vật khác, trong một ngôi nhà chung, không có nghĩa là con người bị hạ giá ngang hàng với những sự vật khả giác như muông thú, chim trời, cá biển và những vật vô tri vô giác như củ khoai, củ sắn, cỏ cây, cọng ngò, nhưng là diễn tả mối tương quan hỗ tương của mọi tạo vật trong thế giới khả giác này. Sự chung sống với những người khác và với vũ trụ là nằm trong bản chất của con người.[167] Con người đóng vai trò quan trọng và quyết định trong việc diễn tả vẻ đẹp của những kỳ công và tình yêu của Thiên Chúa trong thế giới này. Như vậy, mọi tạo vật như là dấu chỉ hiện diện của Thiên Chúa sáng tạo, quyền năng, quan phòng và cứu chuộc. Đấng “không chỉ ban cho tôi tất cả những gì tôi đang có, những gì đang là tôi, nhưng Ngài đang thực sự ban cho tôi chính Ngài.[168] Thế giới chúng ta đang sống là thế giới đầy ắp Thiên Chúa. Vì thế, con người chúng ta được mời gọi cùng với tạo vật và qua tạo vật cất cao lời ca chúc tụng Thiên Chúa.

II. Chúng ta ca tụng Chúa qua các tạo vật

1. Khám phá vẻ đẹp thiên nhiên

Mỗi chúng ta đều cảm nhận được Chúa yêu thương và chính Thiên Chúa cũng luôn yêu thương con người bởi vì Ngài không thể chối bỏ hình ảnh của Ngài trong con người, Ngài không bao giờ thất vọng về con người.[169] Thiên Chúa say mê con người, vì đó là hình ảnh của chính Ngài; Thiên Chúa yêu quý tạo vật, vì đó là công trình tay Chúa làm nên. Vì thế, trong công trình sáng tạo, cứ sau một ngày làm việc, Thiên Chúa lại phán: “Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp”. Tạo vật tốt đẹp vì chúng là những tác phẩm dưới bàn tay kỳ tài của Hóa Công.

Thế nhưng, cho dù thiên nhiên có đẹp, có huyền diệu, có đa dạng và phong phú đến đâu mà không có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, không có tinh thần học hỏi và khám phá, và không đặt mình vào trong tương quan với tạo vật thì chúng ta cũng khó lòng cảm thụ được vẻ đẹp của Hóa Công. Cần một tâm hồn nhạy cảm để có thể khám phá ra nét đẹp từ những sinh vật hạ đẳng như các phiêu sinh, rệp cánh kiến, ong bướm cho đến những con vật to lớn như trâu, bò, voi… Cần một tâm hồn nhạy cảm mới nhận ra ích lợi tuyệt vời – nguồn thực phẩm, nguồn dược liệu, nguyên liệu, nguồn sức kéo và phương tiện vận chuyển[170] – mà mọi tạo vật đều phục vụ đời sống con người. 

Tạo vật không chỉ mang những nét đẹp và sự hữu ích cho con người mà thôi, nó còn giúp con người biết trở về với lòng mình, với Thiên Chúa. Mọi sự trong “vũ trụ này là một mầu nhiệm thật thân thương, để chúng ta chiêm ngắm trong niềm vui và ca tụng,[171] như thi hào Tagore từng say mê ngồi chiêm ngưỡng thiên nhiên và suy tư cầu nguyện.[172]

2. Những rung động của các tạo vật

Tạo vật cũng đầy tràn những rung động muốn chuyển trao cho con người, dù đôi khi là sự thinh lặng nhưng lại nói với chúng ta nhiều điều như một tin vui mà qua đó Thiên Chúa muốn gửi gắm tình yêu của Người cho chúng ta. Walt Disney đã nói rằng: “Bây giờ, hãy mở to đôi mắt của bạn.[173] Mởi to mắt để nhìn, mở to mắt để thấy rằng, vạn vật cũng tràn đầy những rung động, cũng “biết lên tiếng” khi bị tổn thương. Khi bị thương ở mỗi trường hợp khác nhau thì chúng phát ra những tín hiệu cảnh báo khác nhau.[174] Bởi đó sự hòa hợp, trật tự, quyền lợi… vốn là điểm đặc trưng của con người, nhưng cũng được áp dụng chan hòa, vô tư, đồng đều cho cả cỏ cây, hoa lá, rong rêu, đám mây, làn gió. Cái nền tảng, sức nuôi dưỡng cho sự thể hiện và hoạt động của sự sống phải là sự đồng cảm, chia sẻ trách nhiệm, hay nói khác đi là tình thương, là lòng đại từ bi.[175] Đức Giáo hoàng Phaolô VI từng nhắc nhở rằng: “Đột nhiên con người hôm nay nhận thức rằng, do khai thác thiên nhiên một cách vô đối và vô ý thức, mình bị đặt trước nguy cơ phá hủy thiên nhiên và trở thành nạn nhân của chính hành động phá hoại có tác động dội lại trên con người.[176] Vì vậy, chẳng cần là gì lớn lao, cũng chẳng phải tìm chi xa xôi: “Nếu bạn muốn xây dựng hòa bình thì hãy bảo tồn thiên nhiên[177]. Bởi vì, tạo vật hiện diện mọi nơi, chúng cũng có những rung động, chúng trò chuyện với nhau không chỉ bằng âm thanh mà bằng cả màu sắc, mùi vị và điệu bộ nữa… đôi khi chúng cũng ca hát tạo nên bài giao hưởng tuyệt vời.[178] Vì vậy, hãy đưa thiên nhiên vào chung lời tạ ơn Thiên Chúa để lời cảm tạ của chúng ta là sự hoà điệu của ngàn muôn tạo vật.

 3. Đưa thiên nhiên vào chung lời tạ ơn Thiên Chúa

Qua bài ca tạo vật của thánh Phanxicô thành Assisi cho chúng ta thấy tất cả thụ tạo đều tôn thờ Thiên Chúa với chúng ta. Thánh Phanxicô rõ ràng đã muốn mang tình yêu thánh thiện của thánh lễ tạ ơn vào trong toàn bộ thế giới.[179] Với ngài, không có gì trong tự nhiên là xa lạ. Ngài đã thuộc về môi trường như con cái thuộc về gia đình.[180] Ngài từng giảng giải Lời Chúa cho bầy chim, hướng dẫn chúng: Anh em chim của tôi ơi, anh em mang ơn Chúa Tạo Thành rất nhiều, bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu, vì Chúa đã ban cho anh em bay khắp đó đây, ban cho anh em của ăn, áo mặc để anh em hát líu lo tạ ơn Chúa cùng với mọi thọ tạo.[181] Trong ý tưởng đó, chúng ta không thể tách rời tạo vật ra ngoài lời tạ ơn. Chính Đức Giáo hoàng Benedictô XVI đã nói: “Thiên nhiên xuất hiện trước con người và được Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta làm không gian sống. Thiên nhiên nói với chúng ta về Đấng Tạo Hóa (x. Rm 1,20) cũng như về tình Người yêu thương nhân loại[182].

Khi chúng ta cầu nguyện hay khấn xin điều gì, thì chúng ta ý thức tập trung tất cả sự chú ý và tất cả tâm tình vào điều duy nhất khấn xin cùng Chúa. Những lúc ấy chúng ta không còn là một người đang cầu nguyện, mà trở nên chính sự cầu nguyện.[183] Khi đó lời kêu gọi của chúng ta trở nên chính lời mời gọi: “Hỡi toàn thể chúng sinh ca tụng Chúa đi nào” (Tv 150,6). Nếu mọi tạo vật được đưa vào trong lời ca tụng là vì “tất cả đều tồn tại nhờ Người và cho Người (Ep 2,20). Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành và không có Người thì chẳng có chi được tạo thành” (Ga 1,3). Như vậy, trời sinh vạn vật, đất nuôi vạn vật, còn con người hoàn thành vạn vật.[184] Cho nên khi chúng ta chiêm ngưỡng hay sống tương quan với tạo vật, chúng ta sẽ đưa mối tương quan vào trong sự thánh thiêng và nhờ đó chúng ta được thánh hóa.

4. Những nẻo đường dẫn tới Thiên Chúa

Thiên Chúa mở ra rất nhiều con đường để con người đến với Ngài trong tương quan tình yêu. Qua tạo vật, chúng ta nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, qua tạo vật, chúng ta nhận ra quyền năng của Thiên Chúa và qua tạo vật, chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa tràn ngập khắp địa cầu. Tạo vật trở thành những nẻo đường dẫn ta đến với Thiên Chúa và tha nhân, tạo vật trở thành những nẻo đường dẫn ta đến với nhau trong tương quan yêu thương và phục vụ. Thánh Phanxicô đã nhận ra nẻo đường kỳ diệu này nên ngài đã chỉ cho thánh Clara phải luôn chúc bình an cho tạo vật, Ngài nói: Chúa đã tỏ cho tôi phải chào bằng lời này: “Xin Chúa ban bình an cho quý vị.[185]

Tình yêu mến tạo vật, được thánh Phanxicô thể hiện rõ trong suốt cuộc đời, và ngay cả những giây phút cuối đời, trên môi ngài vẫn luôn vang lên Bài Ca Tạo Vật, đến nỗi cha Bề Trên nói: “Chẳng biết Phanxicô có thánh thiện chân thật không bởi toàn ca hát.” Nhưng thánh Phanxicô trả lời: “Hỡi anh, thông cảm cho tôi, vì tôi vui mừng trong Chúa, cả trong vinh quang của Người lẫn trong đau khổ của tôi. Bởi vì nhờ hồng ân của Chúa Thánh Thần, tôi cảm thấy mình hiệp nhất với Chúa đến nỗi tôi cần ca hát.”[186]

Nếu khi sống, thánh nhân không ngừng hát Bài Ca Tạo Vật, thì khi ngài về với Chúa, mọi tạo vật ca hát đón rước Ngài vào nơi thiên đàng vĩnh cửu. Tạo vật trở thành một nẻo đường mới, nẻo đường huyền diệu dẫn Phanxicô đến với Chúa. Những ai có tâm hồn đơn sơ, gần gũi với tạo vật sẽ dễ dàng cảm nhận điều này, và đấy cũng là một lối đường thực sự dẫn con người đến với Thiên Chúa, Đấng sáng tạo càn khôn.

Tóm lại, chúng ta có thế nói rằng: Thiên Chúa thì vô hình, nhưng chính thiên nhiên giúp con người hướng về Đấng Tạo Hóa. Bởi mọi hữu thể sinh ra bởi tình yêu, nhờ tình yêu và mọi hữu thể khi chết trở về trong tình yêu.[187] Cho nên không một ai có thể đặt giới hạn cho tình yêu của Thiên Chúa, vì Ngài là tình yêu tròn đầy và khoan dung tuyệt đối.[188]

Ngày nay, nhân loại đứng trước những vấn đề to lớn và hệ trọng như nguy cơ hủy diệt do chiến tranh hạt nhân, chạy đua vũ trang, ô nhiễm môi trường sống, phân biệt chủng tộc, bất công trong các mối quan hệ,[189] thì mỗi chúng ta cần phải tham gia vào cuộc chiến bảo tồn bài ca tạo vật, mỗi người phải ý thức về sự nguy hiểm của sự tàn phá thiên nhiên, để rồi cố gắng bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên, cố gắng làm cho trái đất nhiều hơn những gì mà chúng ta đã tìm thấy, khi ấy chúng ta sẽ tiến tới mục đích của sự bảo tồn thực sự.[190]

Thế giới động vật tự nhiên, hoang dã ở Việt Nam rất phong phú nhưng tiếc rằng ngày nay đang bị hủy diệt bởi bàn tay con người. Cùng với sự tàn phá những cánh rừng nhiệt đới và á nhiệt đới nguyên sinh, người ta đã làm mất đi nơi cư trú và nguồn thức ăn của các loài động vật sinh sống trong đó.[191] Chúng ta phải thiết lập hòa bình giữa chúng ta với nhau để cứu vãn vũ trụ, chúng ta phải thiết lập hòa bình với vũ trụ để cứu chúng ta.[192] Đức Giáo hoàng Benedictô đưa ra kết luận quan trọng: “Cách thức con người đối xử với môi trường ảnh hưởng đến cách thức con người đối xử với chính mình và ngược lại.”[193] Ngày nay, con người dường như đang đánh mất cảm thức kết nối với tạo vật.

Tuy nhiên, trên thế giới cũng có biết bao nhiêu người yêu thiên nhiên đến nỗi đã bỏ ra phần lớn cuộc đời của mình để nghiên cứu những loại bướm và hải ly, những hòn đá, cây cối và những bông hoa.[194] Những cố gắng đó làm sáng tỏ một chân lý nền tảng, rằng: “Thiên nhiên là ân huệ của Thiên Chúa ban cho chính con người.” Thiên nhiên cùng với con người ca ngợi Thiên Chúa: “Muôn Tạo Vật ơi, cùng tôi hát lên một bài. Ca tụng Thiên Chúa quyền uy tác sinh muôn loài… Ngợi khen Chúa Trời chan hoà ngàn tiếng nơi nơi”. Bởi vậy thiên nhiên giúp con người khám phá Thiên Chúa và là nẻo đường dẫn con người đến với Thiên Chúa. Vì thế, mọi tư tưởng, lời nói và hành động của con người phải qui hướng về Chúa, phải ca tụng Chúa và làm vinh danh Ngài: “Cả con người chúng ta đã thành lời ca ngợi rồi”. Để cùng với thánh Phanxicô và bao thế hệ tiếp nối chúng ta ca tụng Chúa với Bài Ca Tạo Vật:

Chúc tụng Chúa, chị Trăng với các sao

Chị quý giá, sáng ngời và xinh đẹp.

Chúc tụng Chúa, Anh Gió với mây cao

Trời bão tố và trời im bể lặng

Chúa ban cho để nâng đỡ muôn loài.

Chúc tụng Chúa vì Chị Nước trong lành

Tuy khiêm tốn mà vô cùng hữu ích.

Chúc tụng Chúa, Anh Lửa đến soi đêm

Anh thật đẹp, vui tươi và dũng mãnh.

Chúc tụng Chúa, Mẹ Đất của con người

Nuôi chúng con bằng muôn ngàn cây trái

Hoa muôn màu và cỏ dại thơm tho.

Xin chúc tụng và ngợi khen Thiên Chúa

        Cảm tạ Ngài và khiêm tốn hiến dâng.[195]

 Trở về mục lục



 

ƯỚC MƠ MỘT MÔI TRƯỜNG HÒA BÌNH

                                                          (Is 2,2-5…)

Ân Thiên

Ô nhiễm môi trường là một trong những vấn nạn của nhân loại ngày nay, từ ô nhiễm không khí đến ô nhiễm nguồn nước. Nguyên nhân chính là do diện tích rừng bị thu hẹp, các nhà máy, xí nghiệp được mở rộng kéo theo lượng khí thải và chất thải ra môi trường cũng gia tăng. Cuộc sống con người hưởng lợi từ việc gia tăng các nhà máy, xí nghiệp, nhưng chất lượng cuộc sống có vẻ giảm đi nhiều vì sự ô nhiễm, thiếu một môi trường sạch và xanh. Một môi trường sạch và trong lành là điều rất cần thiết cho cuộc sống con người.

Tuy nhiên, ngoài môi trường thiên nhiên, môi trường theo nghĩa vật lý, con người còn rất cần một môi trường khác, một môi trường mang nghĩa “tinh thần”. Đó là môi trường của tình huynh đệ và bình an. Nếu sống trong một môi trường ô nhiễm và khói bụi, hẳn người ta sẽ cảm thấy ngột ngạt, khó thở và một cuộc sống không trọn vẹn. Cũng vậy, làm sao người ta có thể sống hạnh phúc và an bình trong một môi trường đầy thù hận, ghen tương, bạo lực. Với một môi trường sạch và đầy ắp tình huynh đệ, sự bình an, người ta sẽ cảm thấy cuộc sống tươi đẹp và đáng sống. Chính vì thế, để kiến tạo một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc, người ta không chỉ cần một môi trường xanh, sạch, nhưng họ còn cần và rất cần kiến tạo một bầu khí huynh đệ, bác ái và bình an. Có một môi trường và xã hội như thế là ước vọng của tất cả mọi người. Viễn cảnh về một môi trường hòa bình lý tưởng nhất mà chúng ta cần hướng tới là môi trường mà ngôn sứ Isaia đã nói tới trong những chương đầu cuốn sách của ông.

1. Viễn cảnh nền hòa bình trong sách Isaia

Mở đầu chương 2 của sách, Ngôn sứ Isaia được nhìn thấy viễn cảnh hòa bình giữa các quốc gia:

“Trong tương lai, núi nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi. Rằng: “Đến đây ta cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người dạy ta biết lối của Người và bước theo đường Người chỉ vẽ. Vì từ Xi-on, thánh luật ban xuống, từ Giê-ru-sa-lem, lời Đức Chúa phán truyền. Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến. Hãy đến đây nhà Gia-cóp hỡi, ta cùng đi nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường!” (Is 2,2-5)

Thị kiến về một thế giới hòa bình của Isaia thật đẹp! Đó cũng là ước mơ của mọi người trên thế giới này. Câu nói: “đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái” của Isaia trở thành lời bài hát rất nổi tiếng của ông vua nhạc pop Michael Jackson, trong bài Heal the World. Trong bài hát đó, tác giả còn thúc giục mọi người hãy kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn cho chính mình và toàn thể nhân loại (make it better place, for you and for me and entire human race…). Trong xã hội mà Isaia nói đến, tất cả những thứ vũ khí mà con người thường dùng cho chiến tranh để giết chóc, hay để làm tổn thương nhau…, đều đã trở thành dụng cụ cải tạo và xây dựng thế giới thành một môi trường hòa bình và sung túc: “đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Mọi quốc gia sẽ không phải lo chế tạo vũ khí, tổ chức quân đội để chỉ lo đối phó lẫn nhau. Trái lại, tất cả mọi dân nước đều tiến về núi thánh của Đức Chúa, lên Nhà của Thiên Chúa. Tất cả đều được lắng nghe lời của Thiên Chúa và hành động theo thánh luật của Người. Mọi tranh chấp hay xung đột đều được giải quyết dựa trên phán quyết của Thiên Chúa. Thế giới mà vị ngôn sứ nói đến thật an bình và huynh đệ, không còn chiến tranh, xung đột và bạo lực nhưng mọi người đều sống hài hòa với nhau, cùng nhau xây dựng một thế giới xinh đẹp và đáng sống.

Trong sách ngôn sứ Isaia, chương 11,1-9, vị ngôn sứ còn cho chúng ta thấy một xã hội đại đồng và hài hòa: hài hòa giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với thiên nhiên:

“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.

Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau,

một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.

Bò cái kết thân cùng gấu cái,

con của chúng nằm chung một chỗ,

sư tử cũng ăn rơm như bò.

Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục,

trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang.

Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá

trên khắp núi thánh của Ta,

vì sự hiểu biết Ðức Chúa sẽ tràn ngập đất này,

cũng như nước lấp đầy lòng biển.”

                                              (Is 11,6-9)

Hình ảnh về một xã hội đại đồng và hòa bình mà Ngôn sứ Isaia nói đến trên đây mang đầy tính “nghịch lý”. Nói cách khác, con người và thiên nhiên vạn vật không chỉ sống với nhau cách hài hòa nhưng là sống với nhau cách hiền hòa. Hài hòa và hiền hòa đến nỗi chúng như thể đi ngược lại bản tính vốn có của mình: tất cả những con vật như đi ngược lại bản tính của chúng. Không còn phân biệt loài ăn thịt hay ăn cỏ, không còn phân biệt dã thú hay gia cầm, vật nuôi. Những loài mang nọc độc không còn gây hại bởi độc chất của nó. Con người không cần phải đề phòng trước những nguy hiểm do rắn rết hay thú dữ, ngay cả bé thơ măng sữa có thể chơi đùa với rắn lục và rắn hổ mang mà không hề hấn gì. Tất cả đều hài hòa trong sự khác biệt. Tất cả dường như phải bỏ đi cái “bản ngã” riêng biệt để hòa vào cái chúng, cái “chúng ta”. Hình ảnh này như đưa con người trở về với cuộc sống thanh bình của cõi địa đàng thuở hồng hoang, nơi mà con người sống hài hòa với Thiên Chúa, với đồng loại và với thiên nhiên vạn vật.

Nền hòa bình mà Ngôn sứ Isaia nói đến trở thành hiện thực vào thời sau cùng, thời của Đấng Mesia. Do đó, nền hòa bình này có mối liên hệ chặt chẽ với Đấng Mesia, chính Người là thủ lãnh, là vị mục tử. Khi Người đến, thế giới sẽ được bao trùm bởi một bầu khí hòa bình. Vị này xuất thân từ gốc tổ Giêse, Thần Khí của Thiên Chúa sẽ ngự trên người và người cai trị cách tuyệt vời (Is 11,1-4). Người sẽ mang tước hiệu là “Emmanuel – Thiên Chúa ở với chúng ta” (Is 7,8), là “Thái tử Hòa bình”, và triều đại của Người được đánh dấu bằng “hòa bình bất tận” (Is 9,5-6,)[196]. Nền hòa bình địa đàng mà Người mang lại là kết quả của việc hiểu biết Thiên Chúa: “sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11,9).

Thế giới hòa bình mà Isaia nói đến quả là một thế giới rất lý tưởng, lý tưởng đến nỗi trở thành một thế giới không tưởng, không tưởng hơn cả thế giới không tưởng mà thánh Thomas More nói đến trong cuốn sách của ngài với tựa đề Utopia Xã hội không tưởng[197]. Nhưng một thế giới quá lý tưởng đến nỗi không tưởng hẳn là một thế không hiện thực. Nếu đặt niềm tin vào một thế giới như thế chắc chắn kết quả nhận được chỉ là sự thất vọng. Thế giới đó chỉ là là lý tưởng và sự khích lệ cho người ta hướng tới để xây dựng thế giới thực tế mà người ta đang sống.

2. Từ viễn cảnh hòa bình của Isaia đến thực tế cuộc sống

Thế giới mà Ngôn sứ Isaia nói đến quả là một thế giới đang mơ ước và khát vọng. Nhưng ước mơ và khát vọng về một thế giới như thế vẫn mãi chỉ là một ước mơ dang dở và một khát vọng mãi khôn nguôi. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta vẫn cầu chúc cho nhau được bình an và ước vọng một thế giới hòa bình, huynh đệ. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là chúng ta gián tiếp nhìn nhận rằng chúng ta chưa có bình an thật và thế giới này vẫn còn nhiều bất an. Vì nếu cuộc sống thật sự an bình thì đâu cần cầu chúc nữa. Bởi thiếu nên phải khao khát và mơ ước.

Trong thực tế, thế giới chúng ta đang sống có quá nhiều bất an: chiến tranh vẫn còn đó; chủ nghĩa khủng bố đe dọa khắp nơi; những cuộc xung đột, bạo lực nhân danh chủng tộc, giai cấp, đảng phái vẫn còn tiếp diễn; thậm chí lãnh vực thánh thiêng và đề cao hòa bình như tôn giáo cũng được nhân danh để gây ra các cuộc chiến đẫm máu mà người ta gọi bằng một cái tên khá trang trọng là “thánh chiến.” Pascal thật có lý khi nói: “Con người không bao giờ làm sự dữ một cách phấn khởi và trọn vẹn cho bằng khi họ làm sự dữ do một xác quyết tôn giáo.” Các quốc gia vẫn không ngừng chế tạo và mua sắm vũ khí, thay vì dùng số tiền đó để kiến tạo hòa bình và thăng tiến nhân phẩm. Tình trạng mất an ninh, bất ổn xảy ra nhiều nơi trên thế giới và trong đất nước chúng ta. Những tình trạng, bất công, bấp bênh về kinh tế, làm cho hàng triệu người di cư hay nhập cư trái phép. Trong số họ có người thành công nhưng cũng không ít người phải bị bắt quay trở về, đau đơn hơn là có người phải bỏ mạng trên đường tìm về miền “đất hứa”.

Nơi các gia đình, chúng ta lại nhận thấy những bi kịch rất riêng như cái chết của người thân, hôn nhân tan vỡ, gia đình ly tán, sức khỏe suy sụp, mất việc, mất thời gian, mệt mỏi và chán nản. Tình trạng mất bình an không chỉ xảy ra bên ngoài nhưng còn diễn ra nơi chính bản thân của mỗi người: chúng ta cũng luôn cảm thấy bất an, xâu xé và phân tán bởi tội lỗi, muộn phiền, khắc khoải.

 Bất an và đau khổ trong thế giới dường như là một phần tất yếu của cuộc sống, một số mệnh gắn liền với con người trong thế giới này.

3. Kiến tạo hòa bình cho thế giới bình an của lòng mình

Theo bà Nersessian, giáo sư và nhà phê bình văn chương tại đại học California, trong cuốn Utopia, Limited: Romanticism and Adjustment cho rằng: nếu phải có Xã hội Không tưởng, thì chỉ có thể có được bằng cách tìm ra những giới hạn thực tế trong đời mình và điều chỉnh bản thân theo đó. Như thế, con người muốn xây dựng một thế giới hòa bình, một xã hội lý tưởng thì trước hết phải điều chỉnh, loại trừ những xung đột, bạo lực trong cõi lòng mình trước đã; đồng thời phải kiến tạo sự an bình đích thực trong chính bản thân mình.

* Bình an nội tâm đích thực 

Chúng ta thấy rằng nền hòa bình mà ngôn sứ Isaia nói đến xảy ra vào thời cánh chung, thời sau hết, và gắn liền với một Đấng Mesia. Chính người sẽ là hoàng tử bình an đến trong thế giới. Chúng ta tin rằng những gì mà ngôn sứ Isaia nói về Đấng Mesia và thời kỳ cuối cùng này được thực hiện nơi Đức Giêsu. Bởi chính Ngài là Đấng Mesia hay Đấng Kitô- Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Chính Ngài là Đấng Thiên Chúa dùng để dạy dỗ dân Người, làm cho sự hiểu biết Đức Chúa tràn ngập đất này (Is 11,9). Câu đầu của Thư Do Thái như vang vọng lại lời ngôn sứ Isaia nói về thời cánh chung và Đấng Mesia : “Vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,2).[198]

Nhiều lần trong Tin Mừng của mình, thánh Mattheu cho thấy Đấng mà sách Isaia nói đến được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu: “Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” (Mt 1,23). Hoặc trong Mt 4,12-14: “Khi Ðức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Galilê.  Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum, một thành ven biển hồ Galilê, thuộc địa hạt Dơvunlun và Náptali, để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: Này đất Dơvunlun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Ðoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.

Như thế, vị hoàng tử bình an là Đức Giêsu đã đến trong thế giới này. Tuy nhiên, thế giới vẫn chưa thể có được một nền hòa bình như Isaia đã loan báo. Ngày Ngài giáng sinh, các cơ binh thiên thần tưng bừng hát mừng: vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương. Biến cố chào đời của Ngài chưa thấy bình an đâu thì chính Ngài vừa là nguyên nhân, vừa là đối tượng của một cuộc truy sát tàn độc của vua Herode đối với các trẻ em, nhằm củng cố ngai vàng. Ngày mà vị Hoàng Tử Bình An đến trong nhân loại khổ đau này được đánh dấu bằng một biến cố bi thương và bất an như thế, thì đâu là ý nghĩa của bình an?

 Bình an đích thực có thể được diễn tả bằng những khái niệm khác nhau; dưới cái nhìn của mầu nhiệm nhập thể, cha Ron Rolheiser có một cách giải thích rất riêng, ngài nói: Thiên Chúa nhập thể mang tên Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Thế giới của chúng ta vẫn còn thương tích, chiến tranh, bạo lực, ích kỷ, và cay đắng. Tâm hồn chúng ta vẫn còn bị tổn thương. Những đau đớn dai dẳng. Với một Kitô hữu, cũng như với tất cả mọi người khác, sẽ vẫn luôn bất toàn, bệnh tật, chết chóc, vẫn luôn chịu những tổn thương vô lý, những giấc mơ tan vỡ, lạnh lẽo, đói khát, cô đơn cay đắng và một cuộc đời không trọn, và dù bất cứ lúc nào Thiên Chúa vẫn là Đấng Emmanuel là bảo đảm rằng, ngài vẫn mãi hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã đảm bảo điều đó với chúng ta: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Sự hiện diện này biến đổi cuộc đời. Bởi khi biết Thiên Chúa ở cùng mình, là chúng ta thêm sức mạnh để từ bỏ cay đắng, để tha thứ, và ra khỏi tâm thức yếm thế chua cay. Khi Thiên Chúa ở cùng chúng ta, thì đau đớn và hạnh phúc không loại trừ lẫn nhau, và những thống khổ cuộc đời không loại trừ ý nghĩa và niềm vui sâu xa.

George Orwell đã tiên đoán rằng thế giới chúng ta cuối cùng sẽ chìm trong bạo tàn, tra tấn, mơ hồ và tinh thần nhân văn sụp đổ. Điều này đúng nếu xét theo mức độ nào đó. Chúng ta còn lâu mới được bình an và hạnh phúc. Chúng ta vẫn chìm sâu trong cuộc sống lưu đày. Nhưng một sự quan trọng vẫn còn, cụ thể là ý thức rằng Thiên Chúa ở với chúng ta trong đời, trong những niềm vui cũng như nỗi buồn của chúng ta.”[199]

Như thế, hòa bình thiếu vắng trên trái đất này là bởi nó cũng thiếu vắng trong lòng mỗi người. Chỉ khi có an bình trong cõi lòng mình, con người mới có thể biểu lộ bình an ra bên ngoài. Sự bình an có Chúa ở cùng là một sự bình an bền vững, dù giữa những bất an bất trắc của cuộc sống. Đó là tiền đề để chúng ta đem bình an cho người khác và xây dựng một thế giới hòa bình và tốt đẹp hơn.

Chúng ta không chỉ được kêu gọi để nhận biết Đấng Emmanuel cho riêng mình nhưng còn có bổn phận đem Đấng ấy đến cho người khác để họ cũng được nhận biết Người, đón nhận ân sủng và bình an của Người nữa. Nền hòa bình dựa trên sự hiểu biết Thiên Chúa của Đấng Kitô vẫn chưa hoàn thành. Chính mỗi người phải tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu. Đó cũng là lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi về trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Do đó, rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô là đem bình an của Người cho người khác, đó là một cách thế để xây dựng nền hòa bình đích thực. Bình an là sứ điệp đầu tiên mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ trao ban khi đi rao giảng Tin Mừng cho người khác (x. Lc 10,5). Xây dựng cuộc sống bình an và loan báo Tin Mừng có một mối liên hệ hỗ tương. Chính khi xây dựng một cuộc sống an bình và tốt đẹp là lúc chúng ta đang loan báo và xây dựng triều đại Thiên Chúa giữa cuộc sống và trong lòng tha nhân. Ngược lại một khi nơi nào Tin Mừng được loan báo thì ở đó cũng có bình an.

* Loại trừ hạt giống chiến tranh

Hòa bình vắng bóng trên trái đất này là bởi nó cũng thiếu vắng trong lòng người. Hơn nữa, có chiến tranh, xung đột trên thế giới là bởi nó đã có trong cõi lòng mỗi người như những hạt giống: “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng” (Mc 6,21-22). Từ những ý định xấu bên trong con người sẽ là nguyên nhân làm cho con người ra ô uế, đánh mất an bình của bản thân mình và của người khác.

Theo cha Henri Nouwen, những xung đột, chiến tranh, bất công mà chúng ta thấy trên các phương tiện truyền thông chỉ là những phóng chiếu những gì xảy ra trong lòng chúng ta mà thôi: “Nếu thành thật, chúng ta phải công nhận mình có phần trong mọi chuyện này, dù không phải rõ rành rành, nhưng là theo một kiểu tinh vi hơn nhiều. Chuyện chính chúng ta là gốc rễ của nhiều xung đột trên thế giới, thật quá đỗi xa lạ không thể tin được. Nhưng, chính chúng ta cũng khó lòng chấp nhận những người khác biệt với mình. Chúng ta bám vào các đặc quyền và làm gần như tất cả các việc có thể làm để bảo đảm tiện nghi cho bản thân. Chúng ta cũng dùng tài nguyên một cách không công bằng để phục vụ cho cơn khát tiện nghi và trải nghiệm của mình. Và những phán xét tiêu cực của chúng ta, những lời cay nghiệt, những lần đàm tiếu, chính là những hành động bạo lực. Chính Henri Nouwen đã nói: “Không ai bị bắn bằng súng, mà trước đó không bị bắn bằng lời nói cả. Và không ai bị bắn bằng lời nói mà trước đó không bị bắn bằng một suy nghĩ ác tâm!” Ta tưởng mình là ai cơ chứ? Bản tin thời sự chỉ phóng lên cho chúng ta thấy những gì đã có trong lòng chúng ta mà thôi.”[200]

Trong ý hướng ấy, dưới cái nhìn của một thiền sư, một nhà hoạt động cho nhân quyền và hòa bình, thiền sư Thích Nhất Hạnh đưa ra nhận định: “Chúng ta thường cho rằng hòa bình là vắng bóng chiến tranh, và nếu các cường quốc cắt giảm khí tài quân sự, súng ống thì chúng ta sẽ có hòa bình. Nhưng nếu quán chiếu vào những thứ vũ khí, chúng ta sẽ nhận thấy nơi tâm trí của chúng ta – những thành kiến, sợ hãi, vô minh của mình. Ngay cả khi chúng ta có vận chuyển hết tất cả bom đạn, vũ khí lên mặt trăng đi nữa thì gốc rễ của chiến tranh và bom đạn vẫn còn ở đây, trong tâm trí chúng ta và sớm muộn gì, chúng ta lại sẽ chế tạo những quả bom mới. Bởi vì hoạt động kiến tạo hòa bình là nhổ tận gốc rễ chiến tranh ra khỏi chính mình và khỏi tâm trí của con người. Để chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh, người ta tạo dịp cho hàng triệu con người thực hành việc giết người ngày đêm nơi tâm hồn mình, đó là người ta đang ươm trồng hàng triệu hạt giống của bạo lực, giận dữ, thất vọng và sợ hãi và điều này sẽ được truyền lại cho những thế hệ kế tiếp.”[201]

Như thế, để có thể có hòa bình trên trái đất này, con người cần phải loại bỏ những hạt giống của bạo lực, của ganh tỵ, xảo trá… những gì xấu xa trong lòng mình trước đã. Vì ý chí của con người yếu đuối và bị tội lỗi làm tổn thương, do đó muốn có hòa bình mỗi người phải luôn luôn kiềm chế dục vọng của mình.[202] Đương nhiên, chúng ta không ngây thơ cho rằng chỉ cần kiến tạo bình an trong lòng mình là đủ để thế giới có hòa bình, chúng ta cần phải có những hoạt động cụ thể. Và cách xây dựng hòa bình cụ thể nhất là tạo bầu khí hòa bình và huynh đệ trong cộng đoàn và môi trường mình đang sống, qua lời nói và hành động hòa nhã và mang tính xây dựng. Nhưng để được như vậy, chúng ta phải cần đến sự hướng dẫn của công lý và tình yêu, nhất là tình yêu. Vì hoà bình tự chính bản thân là một hành động và là những thành quả chỉ xuất phát từ tình yêu.[203] Những lời khuyên dạy của thánh Phaolô thật thiết thực cho ý tưởng này: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (Ep 4,2-4). Và “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12,9-10).

Như thế, nhờ kết hiệp trong bác ái, con người thắng vượt tội lỗi và cũng thắng vượt bạo động cho tới khi lời sau đây được hoàn tất: “Họ sẽ rèn gươm thành lưỡi cày và giáo thành lưỡi liềm. Các dân tộc sẽ không rút gươm đâm chém nhau và sẽ không còn tập luyện để chiến đấu” (Is 2,4)[204]. Chúng ta có thể nói được rằng: trong vương quốc của bình an thì tình yêu sẽ là vị vua ngự trị.

 Qua những gì trình bày trên đây, chúng ta thấy rằng: nền hòa bình mà ngôn sứ Isaia nói đến là nền hòa bình lý tưởng. Vì là lý tưởng nên cũng không là hiện thực nhưng chỉ có thể giúp chúng ta dựa vào đó mà xây dựng cuộc sống thực tế của thế giới mà mình đang sống. Mặc dù không thể đạt đến tình trạng thành toàn như viễn cảnh trong sách ngôn sứ Isaia, nhưng chúng ta có thể làm cho thế giới này tiệm cận hơn với một nền hòa bình như thế qua những cố gắng hằng ngày, trong khả năng, ơn gọi và trong môi trường sống của mình. Trong ơn gọi và khả năng của mỗi một Đan sĩ Xitô Thánh Gia, chúng ta có thể đóng góp vào công cuộc kiến tạo hòa bình cho thế giới bằng lời cầu nguyện, bằng những hy sinh của mình; kiến tạo bình an trong cõi lòng, kiến tạo một cuộc sống bác ái, huynh đệ và thuận hòa trong cộng đoàn và nơi môi trường mình đang sống. Tuy nhiên, kiến tạo bình an trong tâm hồn mình cũng như cho môi trường xung quanh vẫn mãi là thách đố không nhỏ cho mỗi người và là một hành trình kéo dài và liên tục, như lời Công đồng Vaticanô II: “Hòa bình không bao giờ đạt được một lần là xong, nhưng phải xây dựng mãi mãi”[205].

 Trở về mục lục



 

NẾP SỐNG ĐAN TU THEO TINH THẦN

THÔNG ĐIỆP “LAUDATO SI’”

Gioan Newman, AP

Trong Thông điệp “Laudato Si’”, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đề cao đời sống chiêm niệm. Ngài nhắc đến công lao của Thánh Tổ Biển Đức trong việc thiết lập đời sống cộng tu với châm ngôn sống của các đan sĩ “Cầu nguyện và lao động”. Thật vậy, việc lao động chân tay kết hợp với đời sống cầu nguyện là điều hết sức rất cần thiết vì nó giúp nâng cao đời sống thiêng liêng; đồng thời nó cũng góp phần không nhỏ trong việc bảo tồn và phát triển sinh thái.

Thực tế cho thấy rằng khi nhu cầu của con người ngày càng gia tăng thì sẽ thúc đẩy việc phát triển ngành khai thác tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách không đồng đều và quá mức sẽ làm cho Trái đất bị ảnh hưởng và tổn thương nặng nề. Đó chính là điều mà chúng ta nên phản tỉnh, ý thức lại cách sống của chính chúng ta, cách mà chúng ta đối xử với Trái đất sao cho công bằng và hợp lý.

Với tư cách là các đan sĩ sống trong đan viện, chúng ta phải nêu cao tinh thần canh tân môi trường sinh thái, trước hết là trong đan viện, đồng thời cũng có trách nhiệm đồng hành với nhân loại và cầu nguyện cho thế giới sớm khắc phục hậu quả gây ra do việc khai thác thiên nhiên theo cách bất cân đối. Những hành động này tuy bé nhỏ, âm thầm nhưng sẽ góp phần giúp cải thiện việc biến đổi khí hậu, nâng cao đời sống của người dân, nhất là những người nghèo và dễ bị tổn thương… để họ được hưởng đủ mọi quyền căn bản của con người.

I. Cầu nguyện theo tinh thần “Laudato Si’”

Cầu nguyện là phương thức chính yếu để kết hiệp cùng Chúa và củng cố mối tương quan với Ngài. Những người không chăm chỉ cầu nguyện thì dễ dàng trở thành mồi ngon cho mọi thứ sự dữ lẻn vào xâm chiếm, khuấy đảo linh hồn, khiến họ ra chai cứng, khô khan nguội lạnh và dễ dàng rời xa Thiên Chúa. Theo kinh nghiệm của Thánh Phụ Biển Đức thì cầu nguyện là tiêu chuẩn đứng đầu và thiết yếu để xác định tình trạng thiêng liêng của một đan sĩ. Vì thế, để kiểm nghiệm xem những người xin gia nhập đan viện có thực tâm tìm Chúa hay không, thì Cha Thánh Biển Đức đã tế nhị nhắn nhủ các vị hữu trách là hãy xem họ có ham chuộng đời sống cầu nguyện hay không (x. TL 58,7). Thực tế cho thấy những người thường xuyên trò chuyện với Thiên Chúa, kết hợp với Người thì được củng cố niềm tin, luôn vượt qua được các cơn thử thách. Và như một đứa trẻ, họ chấp nhận và phó thác mọi sự vì lòng yêu mến Chúa.

Nhưng, với lối sống duy vật của một số người thời nay, sự dư dả về của cải vật chất khiến họ không thấy cần phải cầu nguyện, chẳng phải đi lễ nhà thờ, chẳng cần quan tâm đến sự tồn tại của Thiên Chúa … ấy vậy mà tiền bạc rủng rỉnh cứ theo vào nhà. Cuộc sống của họ bề ngoài xem ra vẫn vui vẻ, hạnh phúc. Vì vậy, họ tiếp tục thụ hưởng, tiếp tục đàng điếm ăn chơi vui hưởng cuộc sống với những tiện nghi vật chất mà không cần phải cầu nguyện…

Từ quan niệm duy vật vô thần đó, con người tiếp tục tự mãn rằng sự phát triển của nhân loại là vô tận. Vì họ đề cao thái quá nền văn minh vật chất và hưởng thụ, họ tiếp tục khai thác và tàn phá thiên nhiên; họ hủy diệt địa cầu để phục vụ cho những nhu vật chất của cá nhân, và từ đó, sự đối xử bất bình đẳng nơi con người cứ thế mà leo thang. Kẻ thì quá giàu mà người thì quá nghèo, giống như câu tục ngữ trong dân gian Việt Nam đã phản ánh được phần nào sự bất công đáng lên án này: “Kẻ ăn không hết, người lần không ra”. Sự ích kỷ của con người là nguyên nhân chính yếu sản sinh ra quyền lực, chiến tranh, bạo loạn và bất bình đẳng…, góp phần thúc đẩy cho sự suy vong của nhân loại. Họ tự hào về sự phát triển của kỹ thuật công nghệ mà không quan tâm đến phát triển con người toàn diện, phát triển an sinh xã hội, chăm lo những người nghèo, những người đáng lẽ ra được hưởng những thứ mà họ xứng đáng được hưởng. Thật vậy, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhận định rất rõ rằng:  “Con người thời nay đã không được giáo dục để sử dụng quyền lực thật đúng đắn chỉ vì sự phát triển kinh khiếp về mặt kỹ thuật không đi cùng với việc phát triển con người trong trách nhiệm, giá trị và lương tâm[206]. Ngài còn nhấn mạnh: “Con người không hoàn toàn độc lập. Sự tự do của họ sẽ bị ảnh hưởng xấu, khi đẩy mình vào những sức lực mù quáng của vô thức, những nhu cầu trực tiếp, chủ thuyết ích kỷ và bạo lực[207].

Quay trở lại với khung cảnh đan viện, chúng ta sống trong đan viện gắn liền với đời sống nội tâm, mà đỉnh cao là việc cử hành thần vụ. Đó là lý do vì sao Cha thánh Biển Đức trong Tu Luật đã thiết lập đến bảy giờ kinh để các đan sĩ dành phần lớn ngày sống của mình cho việc phụng sự Thiên Chúa. Nét độc sáng trong truyền thống đan tu đó chính là sự thinh lặng. Quả vậy, sự thinh lặng đóng vai trò thiết yếu đối với việc hình thành nhân cách và đời sống tâm linh người đan sĩ Biển Đức – Xitô. Người đan sĩ trung thành với việc thinh lặng thì mới có thể nghe được tiếng nói của Thiên Chúa trong đáy lòng mình – tiếng nói mà chỉ người có một đời sống nội tâm sâu xa mới có thể nghe và nhận ra được những gì mà Ngài nói với mình. Tiếng nói của Thiên Chúa có thể là tiếng xào xạc của lá, tiếng vỗ của sóng biển, tiếng gió hiu hiu, tiếng lửa và cả tiếng lòng của ta nữa. Khi thinh lặng, chúng ta cũng sẽ cảm thụ được những những công trình, những tác phẩm do Thiên Chúa tạo dựng. Quả thế, Thiên Chúa, vị “kiến trúc sư” tối thượng, đã “thiết kế” nên một kiệt tác siêu nhiên và tự nhiên vượt quá tầm hiểu biết hữu hạn của con người: Ngài đã sáng tạo nên vũ trụ vạn vật. Khi thánh Phanxicô Assisi chiêm ngắm thiên nhiên, cỏ cây nơi tu viện… ngài đã xúc động mà thốt lên: “Con xin chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con!”.

Đọc qua hạnh tích của thánh nhân, chúng ta thấy được ngài là một con người say mê Thiên Chúa, say mê cả thiên nhiên, cả vũ trụ, cây cỏ, và cả những côn trùng nhỏ bé. Ngài ý thức được mọi sự đều do bởi bàn tay quan phòng của Chúa. Ngài chấp nhận tất cả, kể cả những khổ đau, những vết thương mà Chúa gởi đến cho Ngài. “Bài ca Trái đất” được thánh Phanxicô Assisi cất lên thời ấy thì cho đến bây giờ vẫn là một bài ca bất hủ của những người yêu mến công trình Thiên Chúa sáng tạo. Vì thế, không lạ gì khi ngài được đặt làm bổn mạng của những người tìm hiểu và làm việc trong lãnh vực sinh thái.

Nhưng một thực tế đau lòng đang diễn ra mỗi ngày là, kiệt tác thiên nhiên của Thiên Chúa, giờ đây cũng bị chính con người phá hoại, thay vào đó là các tòa nhà, những khu ăn uống vui chơi, công viên v.v. Đức Giáo hoàng Phanxicô cảm thấy đau buồn khi nói về vấn nạn của cái gọi là “văn hóa đào thải” nơi con người, ngài viết:  Ngày nay, chúng ta quan sát sự phát triển vô giới hạn, vô trật tự của các cơ sở hạ tầng, không những vì việc ô nhiễm do khí thải độc hại, nhưng còn vì sự lộn xộn trong thành phố, vì vấn đề giao thông và ô nhiễm tiếng ồn và màu sắc. Nhiều thành phố đã trở thành cơ cấu không chút kinh tế, sử dụng năng lượng và nước quá tải. Có những khu phố tuy mới được xây dựng, bị tắc nghẽn và vô trật tự, không có đủ các mảng xanh. Điều này không thích ứng cho dân cư của hành tinh, bị chết nghẹt vì xi-măng, dầu đường, các tấm kiếng, kim loại và bị cướp đi sự liên hệ thể lý với thiên nhiên.[208]

Khác hẳn với lối sống ồn ào xô bồ của thế trần, đời sống đan tu yêu chuộng sự tĩnh lặng, cụ thể là đời sống nội vi, các đan sĩ triệt để giữ thinh lặng để phát triển đời sống cầu nguyện. Bởi vậy, nếu một đan sĩ bỏ cầu nguyện tất sẽ đi tìm những sự thế gian để lấp đầy chỗ trống trong tâm hồn, và như thế sẽ gây hại cho linh hồn của chính họ và của người khác. Ý thức được sự phù phiếm của thế gian luôn có hại cho linh hồn người đan sĩ thế nào, nên trong Tu Luật, Cha thánh Biển Đức đã dạy các đan sĩ chỉ được phép xuất hành khi có việc cần, và cũng đừng đem chuyện ở ngoài thế gian về mà nói cho anh em, vì đó là điều tai hại khủng khiếp, và sẽ có một hình phạt thích đáng cho kẻ nào vi phạm (x. TL 67,5-6).

Các đan sĩ khi sống và học tập trong đan viện, luôn luôn phải để con mắt linh hồn mình tránh xa mọi thứ trần tục, cụ thể nhất là tuân giữ các lời khuyên Phúc Âm, để cho đời sống tâm linh được triển nở trong ân sủng của Chúa, và dành hết thời gian để chăm sóc linh hồn mình cũng như phục vụ cộng đoàn. Nên khi lần đầu tiên bước chân vào đan viện, mỗi ứng sinh phải ý thức và xác tín rằng ta vào đây để làm gì, giống như Lời Chúa nói trong tiếng lương tâm của thánh Bernard de Clairvaux: “Hỡi Bernard, ngươi đến đây làm gì?(Bernado, ad quis venisti?).

Vậy nên, trước khi nghĩ đến việc canh tân đời sống môi sinh, người đan sĩ được mời gọi phải thay đổi từ trong chính bản thân mình, giống như lời mời gọi của Đức Giáo hoàng là phải hoán cải môi sinh, hoán cải linh hồn mình, để khi con mắt tội lỗi của ta được Thiên Chúa chiếu sáng, ta mới có thể đồng cảm với những thao thức của cộng đoàn, đồng cảm với những nỗi đau của nhân loại trong một thế giới tối tăm này.

II. Lao động theo tinh thần “Laudato Si’”

Lao động, được mô tả như là một hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội[209]. Lao động là một điều cần thiết, là một phần ý nghĩa của cuộc sống trên trái đất này, là con đường đi đến trưởng thành, phát triển con người và hiện thực cá nhân mình[210]. Đối với đời sống đan tu, Cha Thánh Biển Đức mong muốn các đan sĩ hãy gắng làm việc vì chỉ khi nào ta sống bằng thành quả lao động của mình như các tổ phụ và các tông đồ, khi ấy chúng ta mới thực là Đan Sĩ (x. TL 48,8). Chính vì việc lao động tự nó có giá trị cho đời tu như thế, nên Cha Thánh không bằng lòng khi chứng kiến các đan sĩ mình sống trong tình trạng lười biếng, theo ngài: “Ở nhưng là thù địch của linh hồn” (TL 48,1). Nhờ lao động đời sống đan sĩ được trổ sinh hoa trái thiêng liêng thêm phong phú khi họ được tham gia vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa.

Công việc của các đan sĩ quả thật rất phong phú và đa dạng: Họ có thể làm công việc đồng áng, cũng có thể là nội trợ, hoặc làm ở xưởng thợ…. Với Cha Thánh Biển Đức, lao động là cần thiết nhưng không vì thế mà coi nó như cứu cánh tối hậu của đời đan tu chiêm niệm. Điều ngài cần nhất chính là tinh thần hiệp nhất dấn thân của các thành viên trong cộng đoàn, sự khiêm tốn trong cách sống của anh chị em, nên trong Tu luật ta thấy ngài cũng không quá khắt khe trong việc lao tác. Thế nên, thánh Biển Đức tôn trọng khả năng Chúa ban riêng cho từng cá nhân mỗi con người, ai theo sức nấy mà phục vụ Chúa và anh chị em qua công việc tay chân cũng như trí thức hay tâm linh, để thánh hóa bản thân, góp phần làm cho vũ trụ này được “cứu rỗi” theo ý định của Thiên Chúa. Một điều nữa nơi thánh Biển Đức là ngài rất trân trọng tài năng cá nhân, nhưng người ấy cần khiêm tốn. Thật vậy, trong Tu Luật thánh Biển Đức đã viết rằng: “người ấy sẽ bị ngưng việc, không được làm nữa cho đến khi đền tội xứng đáng (TL 57,3). Điều ấy chứng tỏ Cha thánh Biển Đức sống rất công bằng, đức độ và nghiêm minh, không thiên vị ai và cũng không loại trừ ai.

Đời sống đan tu cụ thể là việc lao động, cũng ảnh hưởng tích cực đến vấn đề môi sinh, điều mà Đức Giáo hoàng Phanxicô đặc biệt quan tâm trong tình hình hiện nay. Việc giảm bớt công ăn việc làm của người dân đã dẫn đến tình trạng thất nghiệp đó là vấn đề nhức nhối của xã hội. Đáng ra con người là tác giả, trung tâm và mục đích tất cả đời sống xã hội[211], thì bây giờ các phương tiện máy móc kỹ thuật hiện nay lại đang trở thành trung tâm thế chỗ cho con người từ những công việc đơn giản như nông nghiệp đến những công việc phức tạp trong các nhà máy. Chúng ta thấy rằng giá trị của con người được biểu lộ qua việc lao động dù là chân tay hay trí óc, nên chúng ta cần tạo cơ hội để con người được tiếp cận với lao động và bảo vệ quyền lao động. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã tái khẳng định trong Thông điệp: “Lao động chính là nơi mà con người phát triển về nhiều mặt, là nơi nhiều chiều kích đang triển nở: sự sáng tạo, dự phóng cho tương lai, phát triển mọi khả năng, thực hành các giá trị, liên hệ với kẻ khác, thái độ thờ phượng. Vì thế, thực tế xã hội toàn cầu trong hiện tại, vượt qua các lợi ích được hạn định của các nhà kinh doanh và một suy luận kinh tế có thể bàn thảo được, cần thiết phải xem điều ưu tiên cần phải theo đuổi là tạo cho mọi người được tiếp cận với lao động[212]. Ngài ủng hộ việc trợ giúp người nghèo, bằng cách tạo điều kiện cho họ có công ăn việc làm hầu giúp họ có một đời sống xứng đáng với phẩm giá của họ. Trong đời sống đan tu, Thánh Luật cũng nhắc nhở các đan sĩ về thành quả lao động của mình (x. TL 48,8), bởi lao động đồng nghĩa với việc nâng cao giá trị của chúng ta, góp phần thánh hóa tâm hồn và giúp chúng ta sống trọn căn tính của mình.

Tóm lại, đời sống trong đan viện gắn liền với việc cầu nguyện và lao động. Hai yếu tố này không thể tách rời nhau nhưng bổ sung cho nhau và giúp cho người đan sĩ trưởng thành hơn trong đời sống đan tu. Với tinh thần mới của thông điệp “Laudato Si’” của Đức Giáo hoàng Phanxicô, ta hãy cố gắng cải thiện nếp sống của bản thân và canh tân môi sinh theo đường hướng của Ngài. Đồng thời ta cũng hãy cầu xin cho thế giới biết đổi mới ý thức về nền sinh thái, và quan tâm hơn đến các anh chị em khó khăn đặc biệt là những người dễ bị tổn thương, được hưởng quyền sống đúng với những thứ mà họ đáng được hưởng.

  Trở về mục lục


 

 

BETANIA ẤM LÒNG

Hoa Tím

“Căn nhà Betania, Chúa dừng chân ngơi nghỉ,

Bếp lửa hồng tỏa hơi ấm tình thương.

Betania Chúa tìm được ủi an,

Bên những tâm hồn như cánh hoa đồng nội”.

Trong những hành trình ngược xuôi lên Giêrusalem loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng cần một nơi chốn để nghỉ ngơi và dùng bữa. Đó là căn nhà Betania – nơi dừng chân lý tưởng của Chúa. Tại đây, Chúa cảm thấy ấm lòng. Chúa đã tìm được tình thầy trò thân thiết, tình bạn hữu đích thực, tình yêu thương ấm áp của một gia đình. Cộng đoàn thánh hiến Đan tu của chúng ta cũng học được điều gì đó từ mái ấm Betania này.

I. BETANIA

Betania theo tiếng Do thái, có nghĩa là “nhà của người nghèo”. Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số. Tại đây, có gia đình của ba chị em Mátta, Maria và Lazarô. Cha mẹ của họ chắc không còn, vì không nghe Tin Mừng nhắc đến. Chúa Giêsu hiện diện ở đây như người thân của gia đình.

1. Tình thầy trò

 Chúa Giêsu là vị Tôn Sư đích thực, tối cao. Người đã đến trần gian để rao truyền chân lý của Chúa Cha. Người chỉ dạy và làm những gì Chúa Cha truyền. Chính bản thân Người là Lời Thiên Chúa, nên tất cả những gì Người nói hay làm đều có Thiên Chúa hiện diện. Ai đón nhận Lời Người vào cuộc sống thì sẽ được cứu độ.

 Khi Chúa đến thăm gia đình Bêtania, cô Maria cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Người dạy (x. Lc 10,39). Cô là nhân vật nổi bật với tư thế học hỏi của người môn đệ, ngồi, lắng nghe và chiêm ngắm, để Lời Chúa thấm vào tâm hồn, đi vào con tim và chuyển thành hành động. Maria đã nhận thức trong lúc này đây mọi việc đều là hàng thứ yếu, chỉ có Chúa Giêsu là quan trọng nhất. Được ở với Chúa, nghe Chúa nói là hạnh phúc nhất cho cô, và cô cũng thấy điều đó làm Chúa vui, Chúa hài lòng.

2. Tình bạn

Theo dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa làm bạn với ông bà Nguyên tổ Ađam – Evà, rồi tới với Tổ phụ Abraham và ngôn sứ Môsê. Trong hành trình loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu, Người cũng cần có những người bạn để chia sẻ mọi nỗi vui buồn. Mười hai Tông đồ là những người bạn chí cốt, thân tình của Người; rồi các môn đệ như: Madalena, Nicodemo, Giuse Arimathe …

Vào thời Tân Ước, có ba chị em gia đình Bêtania. Họ cũng là những người bạn thân với Chúa. Lazaro được Chúa gọi là bạn (x. Ga 11,11), là người được Chúa thương mến (x. Ga 11,3), và Chúa quý mến cả ba chị em (x. Ga 11,5). Cả ba chị em đều thể hiện tình bạn với Chúa. Một gia đình rất nhiệt tình, thân thiện, quảng đại, hiếu khách.

 3. Tình gia đình

Chúa Giêsu gặp được tình gia đình nơi cả ba chị em. Cô Mátta thì rất vui, nhiệt tình khi được phục vụ Chúa. Cô đon đả mời Chúa vào nhà (x. Ga 11,20; Lc 10,38). Cô tất bật lo việc phục vụ, hầu bàn (x. Lc 10,40; Ga 12,2). Còn cô Maria thì rất quan tâm, chăm chú nghe Lời Chúa (x. Lc 10,39). Cô thể hiện sự khiêm nhường, tình yêu thắm thiết. Cô đã dành cho Chúa những gì cao quý nhất, qua việc cô lấy dầu thơm cam tùng nguyên chất đắt giá mà xức chân Chúa, rồi lấy tóc mình mà lau (x. Ga 12,3). Cô đã dâng cho Chúa thật hào phóng, cho đi mà không tính toán, không tiếc nuối gì. Tình yêu này khiến cô cảm nhận và chiêm ngưỡng Người cách diệu huyền hơn. Cả ba chị em đều rất thật lòng. Họ đón Chúa rất tận tình theo tính cách riêng của mỗi người. Vì thế, chính Người trở lại nhà họ mỗi chiều trong tuần lễ cuối cùng, trước ngày chịu khổ hình (x. Mt 21,17; 26,6; Ga 11,1-18).

Gia đình Bêtania thì cũng bình thường như mọi gia đình, nhưng vì sao gia đình này lại được Kinh Thánh nhắc tới? Thưa, vì nhờ có sự hiện diện của Chúa Giêsu trong căn nhà này. Chính Chúa Giêsu đã bước vào cuộc đời của họ. Người làm cho mái ấm này thêm nổi bật và Người đã nối kết tình yêu thương của cả ba chị em hơn, Người nâng tầm hiểu biết, yêu mến Chúa của họ lên cao hơn, cho họ hiểu giá trị đích thực của người theo Chúa là làm theo thánh ý Người.

II. ĐAN VIỆN – MỘT BETANIA

1. Lắng nghe và thực thi Lời Chúa

Mở đầu Tu Luật, thánh Biển Đức mời gọi các môn sinh mở tai lòng lắng nghe Lời Người dạy qua cuốn Tu Luật: “Con ơi, hãy lắng nghe lời thầy dạy, ghé tai lòng con mà thuận tình đón nhận lời cha hiền khuyên nhủ và thực hiện cho bằng được” (Lời mở, 1). Đan sĩ không chỉ lắng nghe từ sớm tinh sương: “Sáng sáng, Người đánh thức tôi, để tôi lắng nghe như một người môn đệ” (Is 50,4), mà còn phải lắng nghe suốt ngày, ngay cả trên giường ngủ “Chúa hằng thương chỉ dạy, ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con” (Tv 15,7). Đan sĩ không phải chỉ lắng nghe một ngày, mà mọi ngày trong suốt cuộc đời “tiếng Chúa ngày ngày văng vẳng bên tai” (Tu Luật – Lời Mở).

Để nghe được tiếng Chúa như một người môn đệ, thì đan sĩ phải tỉnh thức, phải trầm lắng, an tĩnh nội tâm; và phải khiêm tốn, sẵn sàng mở lòng ra đón nhận, ngoan ngùy theo tiếng Chúa. Tiếng Chúa được phán dạy qua Lời Chúa, qua Giáo huấn của Giáo hội, qua Luật Dòng, qua Bề trên và anh chị em đồng tu, qua các biến cố trong cuộc sống.

Người môn đệ chân chính của Đức Giêsu là người biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Khi chúng ta biết để cho Lời Chúa thấm nhập trong tâm hồn, chi phối toàn thể con người mình, thì lúc đó chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra được ý Chúa và đem ra thực hành trong cuộc sống.

Cuộc sống hôm nay có quá nhiều tiếng ồn, tạp âm, khiến chúng ta khó nhận ra được tiếng Chúa. Điều này đòi hỏi chúng ta càng phải ý thức hơn, phải lắng đọng con tim thật tinh tuyền mới nhận ra được tiếng Chúa.

2. Sống tình bạn hữu với Chúa

Tình bạn là món quà quý của Thiên Chúa ban tặng, là điều cần thiết cho cuộc sống. Qua tình bạn nhân loại, chúng ta được trở nên phong phú và làm cho đời sống người khác phong phú.

Trong bữa Tiệc ly, chính Chúa Giêsu đã để lại lệnh truyền cho các môn đệ: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy” (Ga 15,14). Và Chúa Giêsu đã sống rất trung thành với tình bạn này, Người đã yêu các môn đệ đến cùng (x. Ga 13,1), ngay cả khi họ phản bội Người (x. Mt 26,50). Đức Giáo hoàng Phanxico, trong Tông huấn Christus Vivit, đã mời gọi các bạn trẻ xây dựng tình bạn với Chúa Giêsu “mỗi ngày gặp gỡ người bạn tốt nhất của mình, là Đức Giêsu” (s. 150), vì Người là người bạn “không bao giờ phản bội và có thể ở với con liên lỉ bất cứ khi nào”[213].

Là đan sĩ, chúng ta sống tình bạn mật thiết với Chúa Giêsu, chúng ta tâm sự với Người mọi chuyện vui buồn sướng khổ trong cuộc sống; có những lúc bằng sự hiện diện không lời nhưng chứa chan sự an ủi trong tâm hồn. Như Chúa Giêsu, trong tình bạn, chúng ta cũng phải sẵn sàng chết đi mỗi giây phút “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu (Ga 15,13). Khi chúng ta có tình bạn thân tình với Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ có tình bạn tốt đẹp với anh chị em của chúng ta.

3. Tình gia đình

Tình gia đình khơi lên trong chúng ta hình ảnh một gia đình hạnh phúc. Nơi đó có những con người liên đới với nhau bằng sự đồng cảm thiêng liêng, tinh khiết và trổ sinh hoa thơm trái ngọt yêu thương. “Tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng tôn kính đối với Thiên Chúa và tha nhân”[214]. “Gia đình là khung cảnh ấm êm đầu tiên có thể ban tặng cho con người sự chung sống”[215]. Khi Nhập thể, Ngôi Hai Thiên Chúa sinh ra làm người trong một gia đình đầy tình yêu thương. Đó là mái ấm gia  đình Nazareth, có cha là thánh Giuse, có mẹ là Đức Maria.

Sống trong cộng đoàn đan tu, không phải chúng ta chọn nhau, nhưng chính “tình yêu Đức Kitô quy tụ chúng ta nên một”[216]. Mỗi thành viên trong cộng đoàn đoàn được liên kết với nhau trong tinh thần gia đình. Cha Tổ Phụ nói “Nhà Dòng là một gia thất” (DN 139). Trong đó mọi người kính yêu viện phụ trong tình mến chân thành khiêm tốn và yêu thương nhau trong tình huynh đệ thanh khiết (Tu Luật ch.72). Gia đình đan viện tỏa sáng sự thánh thiện của một gia đình thánh được biểu lộ cho nhân loại là gia đình có Chúa, làm lan tỏa tình thương vô biên của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Khi chúng ta yêu thương nhau thì chắc chắn sẽ có Chúa hiện diện. Lúc đó cộng đoàn sẽ trở thành cộng đoàn “truyền giảng Phúc Âm quan trọng nhất”[217]. Thể hiện tình yêu thương bác ái đó đối với mọi khách đến đan viện, vì theo thánh Biển Đức: Mọi khách đến đan viện phải được đón tiếp như Chúa Kitô, vì chính Người đã nói: ‘Ta là khách và các con đã đón tiếp Ta” (Tu Luật ch.53). Chúng ta thể hiện sự hiếu khách theo tinh thần Chúa Kitô là cầu nguyện cho khách, tôn trọng, trọn tình bác ái nhiệt thành, khiêm tốn, dịu dàng (x. Tu Luật ch. 53 và 66). Từ đó, khách sẽ cảm thấy được ấm lòng khi đến đan viện.

KẾT

Đa số các đan viện đã tạo được một không gian, môi trường, quang cảnh thật là thích hợp cho các khách tĩnh tâm. Điều quan trọng hơn, là chúng ta xây dựng được hồn sống của đan viện bằng tình yêu tha thiết; vì tình yêu gia đình nơi đan viện: “Sẽ biểu hiện trước mặt mọi người sự hiện diện sống động của Đấng Cứu Độ trong thế giới và bản chất đích thực của Giáo hội qua tình yêu… qua sự hiệp thông và trung tín… cũng như qua sự hợp tác của mọi thành phần trong gia đình”[218].

Điều mà Chúa muốn nơi mỗi đan sĩ chúng ta là xây dựng mối tương quan thân tình với Chúa, với anh chị em và với quý khách. Từ đó, đan viện trở thành Betania mới, nơi dừng chân lý tưởng cho khách bộ hành, cho những ai muốn được gặp gỡ Thiên Chúa trong sâu thẳm lòng mình.

  Trở về mục lục


 

Ô NHIỄM! Ô NHIỄM!

La San Vỹ

Dẫn nhập

Ngày nay, “ô nhiễm” là một hiện tượng phổ biến, và dường như nó thâm nhập rộng khắp vào các môi trường: tự nhiên, văn hóa, giáo dục, kinh tế, xã hội và thậm chí cả tôn giáo nữa. Các phương tiện truyền thông, phát thanh, truyền hình, báo chí, phim ảnh đã phản ánh khá nhiều về vấn đề này, và các nhà chính trị, tôn giáo cũng không ngừng lên tiếng báo động.

Trong giới hạn bài này, người viết xin nêu lên một vài hiện trạng về: ô nhiễm môi trường tự nhiên, “ô nhiễm các mối tương quan”, qua đó đưa ra một vài gợi ý khả dĩ giảm bớt tình trạng ô nhiễm vừa nêu.

1. Ô nhiễm môi trường tự nhiên

Ô nhiễm môi trường tự nhiên là hiện trạng môi trường đất, nước, không khí… có lẫn các chất độc hại. Hậu quả hiển nhiên của vấn nạn là ảnh hưởng tiêu cực, trực tiếp hay gián tiếp đến đời sống của con người trong nhiều phương diện.

Nguyên nhân ô nhiễm môi trường đất, như Thông điệp Laudato Si’ nêu ra: “Mỗi năm có hằng trăm triệu tấn rác thải được sản xuất, mà phần nhiều không dễ phân hủy do tác nhân sinh học” (số 21). Mặt khác, đất mẹ cũng đang bị nhiễm một lượng lớn các hóa chất độc hại do hoạt động sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Chỉ tính riêng tại Trung Quốc, theo khảo sát các mẫu đất từ năm 2005 – 2013, 16,1% tổng diện tích đất đã bị ô nhiễm, riêng với đất nông nghiệp, tỉ lệ tương ứng là 19,4%[219]. Vì thế, các hoa màu từ đất ít nhiều cũng bị nhiễm độc gây hại cho các loài động vật.

Môi trường nước cũng bị ô nhiễm đến mức báo động. Theo báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Cộng đồng về tình hình ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam: chất lượng nguồn nước mặt ở nước ta đang ngày càng suy thoái nghiêm trọng. Nước tại các sông, ngòi, kênh, rạch đặc biệt ở các đô thị và vùng công nghiệp bị biến chất và nguy hiểm. Ước tính có tới 70% tổng số nước thải từ các khu công nghiệp vẫn xả thẳng ra môi trường mà không qua xử lý[220]. Có lẽ do ăn uống sinh hoạt với nguồn nước bẩn mà con người có nguy cơ mắc bệnh nhiều hơn.

Về ô nhiễm môi trường không khí, Thông điệp Laudato Si’ đã nêu lên các nhân tố chính yếu tạo ra sự ô nhiễm này: “Vẫn biết còn có nhiều nhân tố khác như hiện tượng núi lửa, những thay đổi quỹ đạo và trục của trái đất, chu kỳ mặt trời, nhưng nhiều nghiên cứu khoa học chỉ ra rằng phần lớn việc làm nóng toàn cầu trong những thập niên vừa qua là do sự tập trung quá lớn các loại khí gây hiệu ứng nhà kính (điôxít cácbon, mêtan, ôxít nitrogen và nhiều loại khác) phát sinh chủ yếu do hoạt động của con người” (số 23).

Như thế, chúng ta thấy hiện tượng ô nhiễm môi trường tự nhiên: có sự can thiệp rất lớn từ phía con người. Con người đang tự tạo ra cái chết cho chính bản thân khi thiếu ý thức bảo vệ môi trường sống của mình.

Đất nước Việt Nam ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, cùng với những lợi ích về kinh tế, cũng kéo theo những hiểm họa về môi trường. Đất nước chúng ta giàu tài nguyên, có “rừng vàng, biển bạc” thiên nhiên ưu đãi, thế nhưng hiện nay đang dần trở nên cằn cỗi, cạn kiệt vì những cánh rừng bị khai thác không thương tiếc, biển bị nhiễm chất độc (đơn cử ở vùng biển Vũng Áng), rác thải bừa bãi không được xử lý thích hợp. Nếu đi dọc trên một số con đường lớn nhỏ ở Việt Nam chúng ta thấy xuất hiện những bãi rác ngổn ngang, bốc mùi… điều trớ trêu là những chỗ gắn bảng cấm đổ rác thì rác càng dồn về nhiều hơn.

Thế nhưng, công tác vệ sinh môi trường nơi các gia đình nói chung và nơi các gia đình Kitô hữu chúng ta và ngay trong các dòng tu có lẽ chưa được quan tâm đủ, đâu đó vẫn thấy nhiều rác rưởi, chai lọ, túi nhựa ngoài sân vườn, giữa lối đi hay trong hành lang… đặc biệt các khu vệ sinh chung chưa hẳn đã đảm bảo vệ sinh sạch sẽ. Hiện trạng đó, đã và đang góp phần làm ô nhiễm môi sinh, tác hại đến sức khỏe và gây nguy hiểm cho tính mạng con người, điều ấy giúp chúng ta hiểu được về những chứng đột tử, ung thư xảy ra thường xuyên hơn ngay cả với những người trẻ (x., số 20).

Chính vì thế, mỗi cá nhân, mỗi tập thể cần nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường. Hiển nhiên “sự thay đổi là không khả thi nếu không có động lực và một tiến trình giáo dục” (số 15), Đức Giáo hoàng Phanxicô đưa ra cho chúng ta những gợi ý cụ thể, khả dĩ ngăn ngừa và giải quyết vấn đề ô nhiễm là: “Chúng ta cần một cuộc trao đổi có hết mọi người, vì thách đố môi trường mà chúng ta đang trải qua, và những cội rễ nhân bản của nó liên quan và ảnh hưởng đến tất cả chúng ta” (số 14). Hơn thế nữa, “Là Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi “đón nhận thế giới như một bí tích của sự hiệp thông, một cách chia sẻ cùng Thiên Chúa và anh chị em đồng loại trên quy mô toàn cầu” (số 9).

Theo sách Sáng Thế, Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ muôn loài và đặt con người “bảo vệ và canh tác” (x. St 2,15), điều ấy có nghĩa là con người được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu để thăng tiến nhân phẩm, đồng thời con người có bổn phận phải bảo vệ và chăm sóc cho trái đất ngày càng tươi đẹp theo kế họach cứu độ của Thiên Chúa. Giả như cả nhân loại này ai ai cũng có ý thức bảo vệ môi trường, thì trái đất của chúng ta đã tươi đẹp biết bao! Để đi đến mục đích lớn lao đó, chúng ta cần những hành động nho nhỏ thường ngày. Chẳng hạn: không lạm dụng hóa chất, không xả rác bừa bãi, phân loại các rác thải, gom, hạn chế dùng túi nilon, đồ nhựa… (x. số 21).

2. “Ô nhiễm tương quan

Sống trong thế giới này, con người tương quan mật thiết với vũ trụ thiên nhiên, với bản thân với tha nhân và với Thiên Chúa.

Khi tạo dựng vũ trụ này, Thiên Chúa thấy chúng “thật là tốt đẹp”, Ngài đặt con người vào đó (x. St 1,4-2,15). Bởi vậy, con người có mối tương quan mật thiết với thiên nhiên, thiên nhiên tạo nên cuộc sống của con người, không thể tách rời. Tuy nhiên, con người đã làm rạn nứt mối tương quan hài hòa với chúng, nên “thiên nhiên nổi giận” qua những hiện tượng núi lửa, sóng thần, lũ lụt… Chúng ta phải ăn để sống, thế mà đồ ăn thức uống và cả đến không khí cũng bị nhiễm bẩn, khiến cho chúng ta dễ bị nhiễm độc, trở nên yếu nhược mắc nhiều chứng bệnh gây chết người…

Do lòng tham của một số người hám tiền đã buôn gian bán lận, không từ một thủ đoạn nào, miễn sao kiếm được nhiều tiền. Nhiều khi nhìn những thực phẩm chúng ta đang sử dụng hằng ngày cũng bị lạm dụng hóa chất một cách quá mức. Phải chăng lương tâm của con người bị ô nhiễm bởi lợi nhuận đến mức không còn coi trọng sinh mạng con người nên đã làm lây lan sự ô nhiễm sang mọi loài?

Đến như đời sống tâm linh cũng không tránh khỏi sự “ô nhiễm” làm cho đời sống của chúng ta ra trần tục, èo uột, thiếu sức sống. Ngày nay, một số người mang danh Kitô hữu, mặc dù tin Chúa song vẫn còn nhiều mê tín dị đoan như: cầu cơ, bói toán. Đối với họ, có Chúa hay không cũng chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống của họ, nên họ không cần bận tâm đến việc sống đạo. Họ thấy sống đạo như một điều vướng bận, nặng nề và muốn tự do sống theo cách của mình.

Một cuộc thăm dò những người Công giáo Pháp cho thấy một hiện trạng đáng buồn này[221]:

–  95% muốn có nhà thờ, nhưng phần lớn lại chẳng hề bước chân tới.

–  88% đòi cho con họ chịu phép rửa tội, nhưng hơn một nửa không biết Đức Giêsu là ai.

–  2/3 không tin Đức Giêsu đã phục sinh.

Ngược lại, tại Việt Nam, phần đông các Kitô hữu vẫn nhiệt thành sống đạo. Nhưng cũng phải kể đến một số Kitô hữu chỉ giữ đạo chiếu lệ. Họ chẳng còn thuộc kinh, chẳng còn tham dự những buổi lần hạt chung của giáo xứ; tham dự lễ Chúa nhật thì ngồi ngoài nhà thờ, thì nói chi đến việc vào nhà thờ cầu nguyện cách riêng tư với Chúa. Có trăm ngàn lý do để biện minh cho cung cách sống đạo theo kiểu “đoàn thể” này. Điều ấy phần nào nói lên rằng tự sâu xa, có lẽ chúng ta chưa cảm nhận được niềm vui gặp Chúa, trái lại còn mang nặng tâm trạng, mặc cảm tội lỗi, sợ hãi trong tương quan với Chúa. Bởi đó mà có những người lâu năm không xưng tội, có những người đi dự lễ quá muộn, lại ra về thật sớm, ngồi gốc cây, nói chuyện phiếm cho hết giờ. Họ tham dự thánh lễ như một kẻ bàng quan, chia trí với những cuộc điện thoại và mải mê lướt web chứ không có tâm tình của một người con phó dâng, cảm tạ, xin ơn với Chúa là Cha của mình. Lối sống ấy, đang gây “ô nhiễm” và lây lan cách nghiêm trọng cho cuộc sống đức tin của chúng ta và con cháu chúng ta.

Nhiều khi, chúng ta mới đang chỉ “giữ đạo” mà chưa “sống đạo”, chỉ chú trọng vào việc “cử hành bí tích” mà chưa chú trọng đủ vấn đề “sống và loan báo Tin Mừng” tình bác ái và yêu thương. Có một số người nghiêm chỉnh giữ đạo ở trong nhà thờ, nhưng trong cuộc sống đời thường lại thiếu vị yêu thương, kém hương bác ái. Như thế, chúng ta không còn là những chứng nhân đức tin, vì đã làm cho tinh thần bác ái vị tha của Đạo ra “ô nhiễm”.

Hơn lúc nào hết, Lời Chúa đang thúc giục chúng ta: “Người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Thánh Phaolô còn quả quyết rằng: yêu thương thì không làm hại đồng loại, yêu thương là tha thứ tất cả tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả… yêu thương là chu toàn lề luật vậy (x. 1Cr 13,7; Rm 13,9-10).

Từ sự “ô nhiễm” của cá nhân trong tương quan với gia đình , nó lây lan, tiêm nhiễm vào tương quan Chúa và tha nhân, thấy rõ qua việc thực hành đạo hiếu. Truyền thống dân tộc Việt Nam ta vốn trọng chữ “hiếu”, nhưng trong xã hội hiện nay, cùng với sự khá giả hơn về mặt vật chất, thì chúng ta lại phải chứng kiến một hiện tượng đáng buồn bởi sự suy đồi đạo đức. Có những đứa con bạo hành và bỏ rơi cha mẹ khi về già, coi bổn phận phụng dưỡng cha mẹ là một gánh nặng – cực chẳng đã, anh chị em đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Phải chăng những đứa con này, quên ơn nghĩa sinh – dưỡng như trời bể của cha mẹ dành cho mình, đúng như ca dao: “Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”.

Nguyên nhân dẫn đến những hành vi trên hẳn có rất nhiều. Từ phía cha mẹ có lẽ vì phải kiếm miếng cơm manh áo, hay mải mê làm giàu, nên cha mẹ sao lãng việc giáo dục con cái, không dành nhiều thời gian ở bên con để chia sẻ vui buồn, những bữa cơn gia đình, những giờ kinh tối – sáng, khiến cho con cái khó cảm nhận được tình thương của cha mẹ. Từ phía con cái, do ảnh hưởng của “nền văn hóa gạt bỏ”: khi cha mẹ già yếu, bệnh tật, không còn sức lao động nên dễ dàng bị gạt ra khỏi gia đình. Có những đứa con không có lòng thảo hiếu thì chúng không muốn tốn kém tiền bạc, uổng phí thời gian, sợ hại sức khỏe vì phải lo phụng dưỡng cha mẹ. Còn gì đáng buồn hơn một xã hội đầy đủ vật chất nhưng lại thiếu vắng tình người. Hành động cha mẹ “vứt bỏ” con cái (phá thai) đáng lên án thế nào, thì chuyện con cái bất hiếu với cha mẹ cũng đáng lên án như vậy.

Bởi đó, cha mẹ cần nêu gương sáng và giáo dục con cái về lễ nghĩa gia phong, hiếu kính thuận thảo; về phía con cái, hãy lấy ân nghĩa mà đáp lại công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, theo giáo huấn của thánh Phaolô: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Ðó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Ðể ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6,1-4). Chỉ có tình yêu mới có sức cảm hóa và làm cho gia đình nên tổ ấm yêu thương.

Trong truyền thống đan tu, đan viện được tổ chức theo hình mẫu gia đình, có bề trên là cha là mẹ và các tu sĩ là anh chị em với nhau cùng dìu nhau nên thánh. Nhưng giữa một thế giới đang bị “ô nhiễm” nặng nề, gia đình này cũng chịu sự tác động. Bởi não trạng “dân chủ”, quyền bính bị xem nhẹ, bị áp lực phụ thuộc vào số đông, so bì về tuổi tác, trình độ học vấn hoặc có thái độ bất mãn, nên xem thường bề trên và các giáo huấn của ngài.

Quyền bính trong Giáo hội là để phục vụ. Thế nhưng, đâu đó vẫn thấy có chuyện lạm quyền “thay trời hành đạo”, “thay quyền Chúa”, đồng hóa bề trên với Chúa:“Hậu quả của nguyên tắc này được biểu lộ ngay trong các cơ cấu cai trị: tất cả đến từ bề trên và trở về cùng bề trên. Mọi quyền bính đều tập trung trong tay bề trên, và vì thế, tất cả các quyết định đều do bề trên đưa ra”[222]. Điều đó phản ánh mối tương quan bề trên – bề dưới trong dòng còn bị “o ép”, chưa “thuận thảo”, gây ra những đổ vỡ trong cộng đoàn.

Còn tương quan giữa anh chị em với nhau thì cũng lắm chuyện để bàn. Tính ganh tị – đố kỵ cũng rất có thể xảy ra trong dòng tu, khi một anh chị em nào đó có những ưu điểm, thay vì nỗ lực phấn đấu như họ, thì người ganh tị lại tỏ thái độ hằn học, cay cú, buông lời nói xấu, gièm pha, thậm chí còn nghĩ ra những mưu hèn – kế bẩn nhằm hạ giá, “tẩy chay” người anh chị em. Sự “ô nhiễm” này phát xuất từ thâm tâm, như Chúa Giêsu đã cảnh báo: lòng có đầy miệng mới nói ra và cái làm cho người ta ra ô uế là tự trong lòng người, từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, phỉ báng, ghanh tị… (x. Mc 7,14-23).

Chúng ta có thể thấy, bệnh ganh tị biểu hiện qua lời nói và việc làm. Kinh Thánh kể rằng: khi Đavít chiến thắng quân Philitinh, khải hoàn trở về được các phụ nữ tung hô: “Vua Saul hạ hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn”, thì vua Saun bực mình vì những lời ấy. Vua nói: “Người ta cho Đavít hàng vạn, còn ta thì họ cho hàng ngàn. Nó chỉ còn thiếu ngôi vua nữa thôi!”, từ ngày đó về sau, vua Saul nhìn ông Đavít với con mắt ganh tị (x. 1Sm 18,6-9).

Thật vậy, do lòng ganh vua Saul lệnh cho Gionathan và bề tôi thủ tiêu Đavít (x. 1Sm 19,31). Ba lần (x. 1Sm 18,11; 19,10) nhà vua lấy giáo phóng vào Đavít; một lần định dùng tay quân Philitinh giết Đavít; hai lần triệu tập lực lượng hùng hậu để truy sát Đavít (x. 1Sm 23,8; 24,3), nhưng Đavít đều thoát nạn. Cũng bởi lòng ganh tị mà Cain đã giết Aben – em mình vì lễ vật của Aben đẹp lòng Thiên Chúa, còn lễ vật của Cain thì không (x. St 4,1-15). Chính Chúa Giêsu cũng bị nhóm Biệt phái và Kinh sư ganh tị, soi mói và lập mưu giết Ngài. Như thế, lòng ganh tị giống như quả “bom nguyên tử” tự hủy chính đương sự, đồng thời reo rắc chết chóc cho tha nhân.

Đức Giáo hoàng Phanxicô nhiều lần lên án thói ganh tị gièm pha, ngài gọi đó là “thói xấu của ma quỷ”, gây ra hậu quả khôn lường: “Vì ghen ghét, người ta đã giết hại nhau bằng miệng lưỡi và ngôn từ của mình. Khi không thích hay ghen ghét một điều gì đó, người ta bắt đầu xì xầm, bàn tán… Và chính những lời bàn tán đó sẽ giết chết người khác!”[223]

Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để chúng ta có thể tránh thói xấu này, để mang đến sự an vui, tình huynh đệ chân thành cho anh chị em mình? Có lẽ trước tiên chúng ta cần xây dựng mối tương quan khăng khít với Chúa trong cầu nguyện và sám hối, bởi nếu chúng ta không nhìn lên Chúa là nguồn sức mạnh, nguồn an vui hạnh phúc, thì không ai có thể cho chúng ta sức mạnh, hạnh phúc, bình an. Với cảm nghiệm sâu sắc của mình, Vịnh gia xác tín: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con” (Tv 18,2); “Ngoài Chúa ra đâu là hạnh phúc?” (Tv 16,2) và “ở bên Ngài hoan lạc chẳng hề vơi” (Tv 16,11). Chắc hẳn, khi cảm nghiệm được niềm hoan lạc: Chúa sống trong ta, khi ấy chúng ta được phấn khích tài bồi mối tương quan với bề trên và với anh chị em trong cộng đoàn thêm chan hòa mến thương.

Thứ đến, chúng ta chỉ có thể chân thành yêu thương tha nhân với ơn Chúa. Cho nên, chúng ta không chỉ cầu xin cho mình biết tha thứ mà còn phải cầu xin cho những anh chị em đang ganh tị cảm nhận mình được tình Chúa đang yêu thương họ. Chúa trao những nén bạc phù hợp với khả năng của họ và Người không đòi hỏi họ phải làm lời ra “mười nén” như những người khác. Có như thế, họ mới được an vui cảm tạ tình thương của Chúa, và không còn tự ti, mặc cảm để sống an hòa với hết mọi người.

Cuối cùng, loại vaccine giúp chúng ta ngăn ngừa và chống lại sự xâm nhiễm của con ‘virus’ kiêu ngạo gây ra sự ganh tị – đố kỵ, đó chính là đức khiêm nhường. Khiêm nhường giúp chúng ta biết tôn trọng người khác, biết nhẫn nhịn để xây dựng lợi ích chung, biết bao dung và tha thứ, biết nhận mình hèn kém và bất toàn trước mặt Thiên Chúa và anh chị em. Khiêm nhường là một vẻ đẹp của đức ái. Khiêm nhường giúp cộng đoàn sống bình an và hiệp nhất trong Chúa Giêsu Kitô.

Kết

Những gì vừa trình bày trên phần nào cho thấy hiện trạng, nguyên nhân và hậu quả của “ô nhiễm” môi trường tự nhiên, cũng như “ô nhiễm” trong các mối tương quan. Trong đó, con người vừa là nạn nhân nhưng cũng đồng thời là tác nhân chính yếu gây nên tình trạng này. Thế nên, vấn đề “ô nhiễm” có được cải thiện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức trách nhiệm của mỗi người. Nếu như sự “ô nhiễm môi trường” gây ra bệnh tật và chết chóc, thì sự “ô nhiễm tương quan” còn gây ra tác hại khôn lường cho chính đương sự và tha nhân, đồng thời hủy hoại tình nghĩa trong gia đình, trong cộng đoàn dòng tu, cũng như trong Giáo hội và xã hội.

Bởi vậy, chúng ta cần sám hối với “mẹ thiên nhiên”, cần ý thức và liên đới với anh chị em thiện chí bảo vệ “ngôi nhà chung” của chúng ta, bằng những hành động thiết thực trong cuộc sống thường ngày. Mặt khác, chúng ta cần xác tín: do lòng yêu thương vô cùng, Thiên Chúa đã tạo dựng muôn loài và mọi điều thiện hảo đều xuất phát từ Chúa, chính Ngài là nguồn tình yêu, nguồn bình an hạnh phúc. Cho nên, càng gắn bó thân tình với Thiên Chúa, chúng ta càng biết quý mến vũ trụ này và đặc biệt biết yêu thương hết mọi người, đó là điều các thánh đã minh chứng cho chúng ta. Nhờ đó, chúng ta có thể làm cho “men Tin Mừng” được dậy lên trong thế giới đang bị “ô nhiễm” hiện nay.

  Trở về mục lục


 

 

THỔI HỒN VÀO NHỊP SỐNG

M. Phaolô Thánh Giá và Augustinô

Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở; Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn”.

Qua hai câu thơ trên, tác giả đã cảm nghiệm, đã thổi hồn mình vào trong những vần thơ này để làm cho ý thơ đi vào lòng người. Quả thực, ai trong chúng ta cũng ước muốn thổi hồn vào nhịp sống của mình, dù là ở bậc sống nào hay làm bất cứ công việc gì, lớn hay nhỏ. Nhưng để thật sự thổi hồn vào những công việc đó, ta cần có tình yêu, hy vọng, lúc đó ta mới thật sự hiểu được giá trị của của công việc, hiểu được tầm quan trọng của đất đai, cỏ cây, của từng lời kinh tiếng hát ta đọc, từng tâm hồn ta tiếp xúc.

Trong thông điệp Laudato Si, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh về môi sinh như sau: Chúng ta xem xét những hệ thống này không chỉ để tìm cách sử dụng chúng hợp lý nhất, nhưng còn vì chúng có giá trị nội tại độc lập với việc sử dụng chúng. Mỗi sinh vật trong tư cách là thụ tạo của Thiên Chúa, đều tốt lành và đáng trân trọng; tương tự như thế, mỗi sinh vật đều có ý nghĩa trong tổng thể hài hòa của một không gian nhất định và có chức năng như một hệ thống.[224] Vì có xã hội tính, con người không sống đơn độc, nhưng có tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và với thiên nhiên. Vậy ta phải làm gì để các mối quan hệ của ta trở nên hài hòa tốt đẹp, phải chăng là thổi hồn vào nhịp sống, thêm sức sống cho các mối tương quan của ta. Trong giới hạn của bài viết, người viết xin lướt qua vài điểm: Vậy hồn là gì? Thế nào là một cuộc sống thiếu hồn? Tại sao phải thổi hồn vào nhịp sống? Thổi hồn vào nhịp sống bằng cách nào?

1. Hồn là gì?

“Từ xa xưa, người cổ đại đã có thuyết nói về linh hồn, được gọi là thuyết “Vạn vật linh” nghĩa là vạn vật có linh hồn. Thuyết này coi mọi thứ trên trái đất từ con người đến con thú và ngay cả cỏ cây đất đá cũng đều có linh hồn”.[225] 

Theo Từ điển Công giáo gọi linh hồn (Anima, Âme, Soul) là Linh : Phần linh hồn; hồn: sự sống: Linh hồn là sự sống thiêng liêng.[226] Và trong sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo đã minh định rất rõ nét như sau: “Linh hồn thiêng liêng được tạo dựng bởi Thiên Chúa chứ không phải do cha mẹ “sinh sản” Hội thánh cũng dạy ta rằng, linh hồn thì bất tử; linh hồn không hư hoại khi lìa khỏi xác trong giờ chết”.[227] Chính vì thế mà một số người cho rằng: “Con người là một tổng hợp gồm thể xác và linh hồn, dĩ nhiên, linh hồn là phần cao quý hơn cả. Một triết thuyết lành mạnh phải công nhận thực vật có sinh hồn (vegetative soul), động vật có giác hồn (sensitive animal soul), và linh hồn bất diệt, thiêng liêng và thông suốt của con người”.[228]

Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh thì Hồn là phần tinh thần hay Linh tính của con người, là ý thức, tư tưởng của con người. Theo Từ điển và Danh từ triết học của Trần Văn Hiến Minh thì Hồn là nguyên sinh lực hội tụ nơi sinh vật. Linh hồn là cái yếu tố quyết định quan trọng. Nhờ linh hồn mà sinh vật mới có sự sống.[229]

Linh hồn trong nhiều truyền thống tâm linh, triết học, và tâm lý là bản chất tinh thần (incorporeal) và bất tử của một người. Thường thì linh hồn được hiểu là phần tinh anh, cái tinh thể, tinh thần của con người, đối lập với vật chất, với bất cứ cơ quan sinh học nào của cơ thể.[230]

Hồn là cái gì đó rất linh thiêng, vô hình, vô chất, tồn tại trong mỗi hữu thể. Chúng ta luôn tin rằng, vạn vật đều có hồn. Nhưng khái niệm về hồn lại không giống nhau theo quan điểm của các triết gia, các nền văn hóa và các tôn giáo khác. Khái niệm về Hồn rất đa dạng, phong phú. Trong giới hạn của bài viết, chúng ta không thể nào nghiên cứu sâu xa, dàn trải về Hồn được, nên chúng ta chỉ cần nắm được cái cốt lõi của Hồn, chính là cái làm nên sự sống của vạn vật. Thổi hồn vào nhịp sống chính là làm cho cuộc sống đời thường thêm tươi mát, thêm sinh động, thêm sức sống, để cuộc sống của ta trở nên ý nghĩa và đáng sống hơn.

2. Thế nào là một cuộc sống thiếu hồn?

Trong cuộc sống thường ngày, nếu ta chỉ sống và làm mọi việc như một cái máy, thì những thành quả chúng ta làm sẽ ít giá trị. Như khi ta cắm một bình bông, nấu một món ăn, hay làm bất cứ công việc nào, nếu ta không đặt vào đó tất cả tâm hồn thì những công việc đó rất tầm thường. Quả thật, một con người không có linh hồn, thì là một thân xác không có sự sống. Bằng ngôn ngữ biểu tượng, Thánh Kinh khẳng định: Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7)[231]. Chính vì vậy, hơi thở tượng trưng cho thần khí, cho sự sống của Thiên Chúa, cho cái Hồn mà Thiên Chúa đặt vào mỗi người. Thiên Chúa thổi hơi cho con người, tức là Thiên Chúa trao ban cho con người sự sống từ chính sự sống của Ngài.

Trong sách Ngôn sứ Êdêkien cũng thuật lại câu chuyện các bộ xương khô không có sự sống, Thiên Chúa đã truyền cho ngôn sứ Êdêkiel tuyên sấm để gởi thần khí và đem lại sự sống cho các bộ xương khô ấy: “Ta sẽ đặt thần khí vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa” (Ed 37,6). Sự sống, hay nói cách khác, chính là cái Hồn mà Thiên Chúa ban tặng cho con người không đơn thuần như sự sống vật lý của các sinh vật khác, mà nó cao trọng và thánh thiêng hơn nhiều, là nguồn năng lượng mang giá trị tích cực và tốt lành. Vì vậy chúng ta có trách nhiệm làm cho sự sống đó triển nở sung mãn và tạo ra các giá trị tích cực trong cuộc sống. Trong các hữu thể được Thiên Chúa tạo dựng, thì linh hồn con người là cao cả, sống động và linh thiêng nhất.

Chính vì ta không cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời mình, nên ta có thái độ sống thờ ơ, khiến nó trở nên nguội lạnh, khô khan thua cả gỗ đá khi chỉ biết sống ích kỷ cho riêng mình mà dửng dưng với mọi người, mọi vật, mọi việc. Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết trong bài hát Diễm Xưa là: “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”, huống hồ gì là con người. Chính trong tông huấn Querida Amazonia, Đức Giáo hoàng nhắc nhở chúng ta đừng vô cảm khi ngài viết: “Con người cho rằng tất cả đều tốt đẹp, nhưng lại gây nên những gánh nặng tự hủy hoại chính mình”[232].

3. Tại sao phải thổi hồn vào nhịp sống?

Cuộc sống của một con người mà đầy ắp Thần Khí của Thiên Chúa sẽ trổ sinh biết bao hoa thơm trái lành như lời thánh Phaolô: “Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế (Gl 5,22-23). Tâm hồn mỗi người cũng như một mảnh đất, có khả năng sinh hoa màu nếu con người biết chăm sóc, cày cấy, gieo trồng hạt giống tốt vào đấy. Ngược lại nếu ta lơ là, lười biếng không chịu gắng công vun xới mà để hoang thì nó sẽ mọc lên đủ loại cỏ dại, gai góc um tùm. Một người đang bị thần khí xấu chi phối, dù bề ngoài vẫn đang có vẻ sống bình thường như mọi người, nhưng thực ra họ như một người đang chết, chết đi một phần tâm hồn khi sống ương ương dở dở, chẳng nóng hẳn mà cũng chẳng lạnh hẳn, mà họ chỉ sống một cách nửa vời. Lời Chúa phán trong sách Khải huyền đối với những kẻ như thế: Vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,16).

Quả thực, đời đan tu với nhịp điệu hằng ngày: kinh – cơm, với những công việc quẩn quanh trong nội vi đan viện, cùng ăn, cùng ngủ, cùng đọc kinh, chung sống với bằng ấy người trong một nhà… Cái nhịp điệu đều đặn hằng ngày ấy, dễ làm cho con người cảm thấy buồn chán, tẻ nhạt, trì trệ, mất đi sự hăng say, hứng thú. Từ đó ta dễ có thái độ thờ ơ, lãnh đạm, làm mọi việc cách chiếu lệ, thiếu đi sự nhạy bén, sáng tạo, tìm tòi… Nói chung là bị “mất lửa”, mất đi bầu nhiệt huyết, ta có thể gọi tình trạng này là “chú quỷ thời đại”, biến thể của “con quỷ ban trưa” của Jean Cassien[233]. Nhưng đó cũng chỉ là một nguyên nhân trong số nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đan sĩ sống thiếu hồn mà ta hay vô hồn. Những người như thế thì sống mà như chết, xác đây nhưng hồn ở chỗ khác, họ kéo lê cuộc sống mình, sống nguội lạnh, vô cảm, thờ ơ với mọi người, mọi việc. Tình trạng này ảnh hưởng tất cả vào mọi sinh hoạt của đời đan tu.

Ơn gọi của chúng ta là phải nên thánh, nên giống Đấng đã tác tạo và kêu gọi chúng ta: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19,2; 20,7). Mà nên thánh tức là phải sống cuộc đời mình một cách viên mãn, triển nở, sống cuộc đời một cách hết mình với tất cả tâm tình, sức lực, khả năng, tình yêu với một nhiệt huyết tràn đầy. Về mặt cá nhân, những người thiếu hồn sống thì bước đi một cách nặng nề, uể oải, đọc kinh ngáp ngắn ngáp dài, đi làm thì đi trễ về sớm, nguyện gẫm thì suy chiêm thành chiêm bao, đi học thì biến bàn học thành giường ngủ. Trong tương quan huynh đệ thì họ còn hay bới móc, tọc mạch, càm ràm, nói xấu, phê phán lẫn nhau, như thế thì làm sao có thể kéo cộng đoàn đi lên được. Dựa vào những hoa trái họ sinh ra hằng, ngày ta có thể thấy những người sống vô hồn, thiếu lửa ấy là những người thiếu sự hướng dẫn của Thần Khí Thiên Chúa. Bên cạnh đó, cũng có những người khí thế bừng bừng nhưng toàn làm những điều tồi tệ: kéo bè kéo cánh, gây chia rẽ, xích mích, huỷ hoại lẫn nhau.

 Cuộc sống chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết thổi hồn vào đó. Mọi người phải biết thương yêu, che chở, giúp đỡ lẫn nhau, không ganh ghét, không đua đòi và không kỳ thị lẫn nhau. Chính mỗi người trong chúng ta phải góp phần làm cho xã hội này tốt đẹp hơn. Vì vậy, khi không sống đời tu hết mình với tất cả tâm hồn là ta chưa sống đúng với căn tính của mình, chưa chu toàn bổn phận của một đan sĩ. Thổi hồn vào nhịp sống là hâm nóng lại cái sốt sắng ban đầu, tìm lại giá trị và mục đích cho cuộc sống, làm cho mọi sự có sức sống hơn.

4. Làm thế nào để “thổi hồn vào nhịp sống” ?

a. Qua thiên nhiên vạn vật

Chúng ta đang sống trong một môi trường thiên nhiên ưu đãi có bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, được sống hòa mình với cỏ cây, chim trời, cá biển, tạo nên một nguồn sống sung túc. Con người có được những món quà này là do Thiên Chúa ban cách nhưng không, chính mỗi người  phải sống làm sao để khi tiếp xúc với thiên nhiên vạn vật, chúng ta có thể thổi vào đó tất cả tình yêu của mình, sự tôn trọng và lòng yêu mến với Mẹ Thiên Nhiên. Khi đã thẩm thấu được vẻ đẹp của đất trời, các họa sĩ đã thổi hồn mình vào bức tranh qua việc dùng cọ vẽ và những gam màu trên những bức tường trắng trên các vỉa hè. Để tạo nên những cây bonsai tuyệt đẹp, nghệ nhân đã phải từng ngày cắt tỉa, chăm bón, với tất cả tấm hồn của mình. Cũng thế, qua những mảnh gỗ vô tri, thợ điêu khắc đã miệt mài trạm trổ để có được những bức phù điêu, những hoa văn, hay những chân dung đáng mọi người ca ngợi hết đời này sang đời kia vẫn còn lưu danh hậu thế. Bên cạnh đó, cũng có những tảng đá sần sùi, thô kệch được các thợ điêu khắc nên những bức tượng Chúa hay các thánh rất sống động.

Chỉ khi nào ta cảm nhận được thiên nhiên đang ở xung quanh mình, đang cùng ta nhịp bước, lúc đó ta mới cảm nhận được từng cây hoa, từng chiếc lá, từng chim trời cá biển, từng giọt sương, từng suối nước, dòng sông, biển cả đang song hành cùng ta trong cuộc sống hàng ngày. Tất cả những thứ đó cũng có hồn, nếu ta hòa mình vào những gì nhỏ bé nhất Chúa ban, ta cũng tìm thấy hồn mình trong đó. Tông huấn Querida Amazonia đã viết: “Bên cạnh những sinh thái tự nhiên, còn gọi là một hệ sinh thái ‘nhân bản’, một hệ sinh thái đòi phài có một hệ sinh thái ‘xã hội’. Tất cả điều này có nghĩa nhân loại. Phải ngày càng ý thức được các mối liên kết sinh thái tự nhiên, hay tôn trọng đối với Thiên nhiên và sinh thái nhân bản”.[234] Thật vậy, chỉ khi nào ta thấu hiểu được sức sống thiên nhiên vạn vật, ta mới không còn làm tổn thương đến muôn vàn thụ tạo Chúa đã dựng nên. Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh tác hại của Thiên Nhiên ảnh hưởng đến các dân tộc đó là một cách rất trực tiếp và có thể không kiểm chứng được, vì theo lời họ: “Chúng tôi là nước, không khí, trái đất và sự sống của môi trường do Thiên Chúa tạo dựng. Vì lý do này, chúng tôi yêu cầu chấm dứt việc ngược đãi và hủy diệt Mẹ Đất. Đất có máu, và bà đang chảy máu; các công ty đa quốc gia đã cắt đứt mạch máu của Mẹ Đất chúng tôi[235]. Có lẽ cuộc sống của chúng ta có biết bao nhiêu lần không làm tốt nhiệm vụ của mình là bảo bệ thiên nhiên trong chính môi trường sống của mình. Cũng thế, trong mọi sinh hoạt hằng ngày, cũng như trong mọi tương giao với Thiên Chúa, với tha nhân và thiên nhiên vạn vật, ta cần đặt tất cả tình yêu vào đó thì nó mới trở nên tốt đẹp hơn.

b. Qua việc hồi tâm xét mình

Thổi hồn vào nhịp sống là một việc rất có ý nghĩa và giá trị, giúp chúng ta sống lời khấn canh tân của mình, vì cuộc sống như một cuộc hành trình, buộc ta phải đi tới, đi trong niềm tin yêu và phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa. Điều quan trọng hơn cả của đan sĩ Thánh Gia là :“Mỗi ngày, anh em xét mình hai lần, mỗi lần khoảng 5 phút sau kinh trưa và Kinh Tối”.[236] Chỉ khi nào ta sống dưới con mắt của Thiên Chúa, tâm hồn ta mời được bình an. Như trong Thánh vịnh 138 có viết: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi” (Tv 138,1). Chính Chúa thấu suốt tâm hồn chúng ta đang cần gì và đang thiếu gì, điều quan trọng ta luôn khiêm tốn hồi tâm và duyệt xét lại tâm hồn mình. Linh phụ Guerric d’Igny đã cảm nghiệm sự bất toàn của mình và đã thốt lên như sau: “Hạnh phúc thay sự khiêm hạ của các tội nhân! Ôi sự cy trông của những người thú nhận khiếm khuyết của mình, vì bạn đã mau chóng làm cho chiến thắng người bất khả chiến bại”.[237]

Quả thật, chúng ta đang sống an bình trong đời thánh hiến đan tu, chúng ta cũng phải nhìn lại cách sống của mình, và suy xét lại những lần mình đã làm tổn hại đến thiên nhiên, cũng như làm tổn thương đến tâm hồn của mình. Tâm hồn chúng ta là những mảnh đất diễm phúc được Thiên Chúa gieo trồng, cắt tỉa, uốn nắn bằng ân sủng, thế mà nhiều lúc ta đã vô tình hay cố ý làm cho mảnh đất tâm hồn mình trở nên cứng cỏi, khô héo, khiến cho hạt giống Lời Chúa gieo vào không thể lớn lên và phát triển được.

Khi ta không nhận ra con người bất toàn, yếu đuối, ích kỷ và nhỏ nhen của mình trong tương với anh chị em, lúc đó ta đang đánh mất cơ hội đón nhận ân huệ Thiên Chúa qua anh chị em mình. Trong bất cứ cuộc hành trình nào, chúng ta cũng phải ngồi lại suy xét: mình phải đi đâu, đi bằng cách nào, và tôi phải làm gì để bảo đảm an toàn cho cuộc hành trình của tôi sau mỗi đoạn đường đã qua? Cũng vậy, trên hành trình tiến vế quê trên trời, ta cần có thời gian hồi tâm xét mình để cảm nhận được tình yêu và thổi hồn vào nhịp sống. Lúc đó, ta mời thật sự cảm nghiệm được tình yêu và lòng thương xót của Chúa được trào tràn trong đời ta.

c. Qua đời sống cầu nguyện

Cầu nguyện là căn cốt không thể thiếu trong đời sống của người tín hữu, chưa nói đến đan sĩ là người sống gần gũi với Chúa, hiến trọn toàn thân cho Chúa thì việc cầu nguyện càng cần thiết và quan trọng hơn. Một đan sĩ mà không cầu nguyện thì không còn là đan sĩ nữa. Trong sách Thói Lệ Hội Hội Dòng Xitô định nghĩa như sau: “Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là điều kiện phát triển đời sống thiêng liêng. Vì thế, anh em không những học hỏi cho biết cách cầu nguyện, mà phải tập cho mình có thói quen cầu nguyện”[238]. Tu Tuật thánh Phụ Biển Đức viết: “Đan sĩ có thể nán lại nhà nguyện sau giờ kinh thần vụ  để cầu nguyện… nhưng phải cầu nguyện  trong giọt lệ với lòng sốt sắng thiết tha”.[239]  Nhờ đó, tâm hồn chúng ta được liên kết với Chúa trong chính lời kinh tiếng hát của mình, với tất cả thiện chí, tình yêu và lòng mến chân thành. Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận cũng khuyên dạy con cái mình: “Cầu nguyện chính là việc của chúng ta. Thầy dòng phải là con người cầu nguyện. Cầu nguyện là thực sự gặp Chúa cách thân tình, như Cha với con[240]. Nhờ đó, chúng ta được liên kết với Đức Giêsu trong cầu nguyện, và cùng Ngài cất tiếng chúc tụng, ngợi khen tôn vinh Thiên Chúa trong chính cuộc đời của mình.

Kết luận

Để cuộc sống được sung mãn, có giá trị và ý nghĩa, chúng ta cần thổi hồn vào nhịp sống mỗi ngày, bằng cách không còn sống cho mình nữa mà sống cho Thiên Chúa, cho tha nhân và muôn loài. Tất cả chúng ta cần trở nên những mắt xích tình yêu, để có thể nối kết với anh chị em tạo nên một sức mạnh dẫn đưa thế giới đi đến mức thành toàn trong chương trình của Thiên Chúa. Được như thế, chúng ta cần sống bằng Thần Khí của Thiên Chúa, và trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể làm người. Chúng ta cần có tâm tình như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20); và làm tất cả vì vinh danh Chúa: “Dù ăndù uốnghay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).

  Trở về mục lục


 

 

TỪ HỮU HÌNH ĐẾN VÔ HÌNH

                                                   (Rm 1,20)

Theophane Vénard Phạm Hữu Ái

“Quả thật, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa” (Rm 1,20).

Khẳng định của thánh Phaolô trong đoạn văn trên phải chăng là một điều hiển nhiên theo nghĩa: lý trí có khả năng nhận biết Thiên Chúa qua vạn vật? Xa hơn một chút có thể ngầm hiểu: từ thế giới hữu hình có thể nhận ra “Đấng vô hình” được không? Bài chia sẻ không nhằm giải đáp vấn nạn này vì đã được các triết gia và thần học gia trình bày:

  • Trên bình diện triết học, các triết gia như Leibniz, dựa trên nguyên lý túc lý[241] đã chứng minh lý trí có khả năng để nhận ra thực tại vô hình qua vạn vật hữu hình, mặc dù không có chứng cứ mà chỉ có chứng lý hay luận chứng. Nhưng dù sao nó cũng làm thoả mãn một phần nào lý trí.
  • Với thần học, đây là một điều hiển nhiên cho dù các nhà vô thần phản đối, nhưng phản đối của họ rất yếu, vì tất cả đều dựa trên những chứng lý, luận chứng. Do đó, điều họ đưa ra để thuyết phục mọi người là Thiên Chúa không hiện hữu cũng chẳng rõ ràng hơn điều mà các tín hữu tin xét về mặt lý trí.

Bài chia sẻ chỉ muốn trình bày một số kinh nghiệm đã được biết đến để đối chiếu với kinh nghiệm sống của thánh Phaolô, biết đâu với công việc này giúp chúng ta có được những hiểu biết hữu ích khi đối diện với thế giới đang hiện hữu “ở đây và vào lúc này”?

I. Kinh nghiệm sống của chúng ta

Dầu là Kitô hữu hay người chưa tin thỉnh thoảng cũng cảm thấy mình sống trong tình trạng giữa ranh giới tin và nghi ngờ về sự hiện hữu về Đấng Tạo Hóa. Với trí khôn, ta không thể không chấp nhận về sự hiện hữu của “Đấng vô hình” khi nhìn vào vũ trụ thiên nhiên. Cũng với trí khôn đó, nhiều lần ta nghi ngờ hay phủ nhận điều này. Thật mâu thuẫn, nhưng đó chính là kinh nghiệm trong cuộc đời của mỗi người.

Trước hết, trật tự thế giới thật kỳ diệu và được tổ chức vô cùng phức tạp. Theo từng cấp độ, từ sự hiện diện của sự sống, nhiều tác nhân đồng loạt xảy ra làm cho sự sống trở nên có thể. Trái đất có một khoảng cách lý tưởng với mặt trời, một khoảng cách làm cho trái đất không nóng mà cũng không lạnh quá để cho muôn vật sinh sống được. Bầu khí quyển được tổ chức càng kỳ lạ hơn làm cho sự sống sinh mầm, luân chuyển theo sự tuần hoàn nhịp nhàng của từng chu kỳ.

Kế đến, liên hệ nhân quả là một nguyên lý đang xảy ra trong trái đất này, không thể phủ nhận, mặc dù đôi khi không lý giải được, nhưng bắt buộc phải giả định là nó có mới có thể giải thích được các hiện tượng. Luôn luôn có một điều gì đó tạo nên những điều này hay điều kia. Những tác nhân này không phải là ngẫu nhiên, vì người ta thấy có một mối liên hệ, chịu trách nhiệm cho việc làm một điều gì đó hay nguyên cớ cho một điều gì đang xảy ra.

Ngoài ra, tính bất tất của vạn vật cũng là một vấn nạn để ta truy vấn. Tất cả đều có khởi đầu và sẽ kết thúc. Con người được sinh ra và rồi sẽ chết, trở thành tro bụi; cây hoa mọc lên, ra hoa, rồi sẽ héo tàn. Nếu tất cả vạn vật đều bất tất nghĩa là đồng ý rằng: chấp nhận một chuỗi nguyên nhân bất tất mãi về quá khứ mà không có tận cùng? Điều này không thể chấp nhận được, vì đặc tính của sự bất tất là phải có một sự khởi đầu, nên cần phải có một nguyên nhân để giải thích cho sự khởi đầu của nó. Ngay cả cách khoa học giải thích về sự xuất hiện vũ trụ qua vụ nổ “Big bang”, nhưng cũng không thể có một giải thích hoàn hảo là làm thế nào mà đám vật chất có tính bất tất trong vụ nổ này đã có một khởi đầu như thế nào? Đến từ đâu?

Hơn nữa, kinh nghiệm luân lý nơi con người cho thấy: con người luôn hướng đến sự thiện. Ý thức luân lý vốn tồn tại trong cuộc sống, vì những phán đoán luân lý là tiêu chuẩn để con người phân biệt phải trái, hướng dẫn cuộc sống mình. Cũng như phải tuân theo những bổn phận luân lý, nó không chỉ tồn tại trong tôn giáo, nhưng nằm ngay trong bản tính tự nhiên của con người. Điều đó khởi từ hiện tượng con người có khuynh hướng thấy bản thân mình là “tốt” và muốn trở nên tốt hơn. Thế mà, dễ nhận ra nơi con người sự hiện diện của một ý thức về một sự tốt lành tuyệt đối. Điều này nuôi dưỡng niềm hy vọng và thúc đẩy con người hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, người ta không tìm thấy một sự tuyệt đối nào trong thế giới này. Do đó, đời sống luân lý dẫn chúng ta vượt ra thế giới hữu hạn để đến với “Đấng Tuyệt Đối”.

Từ những dẫn chứng trên cho ta một kinh nghiệm, một cảm nhận về “Đấng Vô Hình”, nhưng chưa hẳn giúp ta sống đức tin trọn vẹn, nghĩa là đụng chạm được “Đấng Ấy” đang hiện diện. Bởi lẽ thiên nhiên cũng có “gương mặt” của sự dữ. Trí khôn bị thuyết phục bởi sự huyền bí của thiên nhiên để chấp nhận “Đấng Vô Hình”, nhưng thiên nhiên cũng là nguyên cớ để trí khôn nghi ngờ về sự hiện hữu của một Thiên Chúa.

Sự dữ mà con người thường xuyên phải đối diện chính là đau khổ. Khổ vì bệnh tật, khổ vì bị bỏ rơi, và nhất là có những cái khổ mà người ta không thể lý giải được. Mặc dầu có nhiều giải thích hợp lý, và ngay cả Chúa Giêsu cũng đã đưa ra câu trả lời cho chúng ta (x. Ga 9,1-41). Thực tế, người ta vẫn đau đáu cho thực tế này, đôi khi phản loạn và đánh mất đức tin. Một bé gái 13 tuổi đã hỏi Đức Phanxicô khi ngài đến dự đại hội giới trẻ tại Phi Luật Tân: “Tại sao người ta bỏ rơi chúng con? Tại sao Thiên Chúa bỏ rơi chúng con?”. Đâu đó, có những người không còn chấp nhận có Thiên Chúa khi đối diện với một đau khổ không thể vượt qua. Nếu có Thiên Chúa, tại sao có những người vô tội phải đau khổ. Một đôi vợ chồng đang hạnh phúc thì đột nhiên, chị vợ bị bệnh mất trí nhớ. Không còn nhớ chồng mình là ai, sống như một đứa trẻ thiểu năng. Người chồng vừa làm việc, vừa chăm lo vợ. Anh đã mất đức tin và chống lại Thiên Chúa, vì theo anh chấp nhận Thiên Chúa đầy lòng yêu thương hiện hữu là phi lý. Anh nhìn Thiên Chúa như một ông vua đang “hằm hằm sát khí” muốn giết người vợ yêu quý của anh. Chị phải chết dần chết mòn mà không hiểu tại sao mình phải chịu nỗi bất hạnh này. Anh muốn dành lại chị, nhưng không dành được, vì y khoa cũng bất lực, nên anh chỉ còn cách “lao thẳng” vào Thiên Chúa để dành lại bằng sự phản kháng và từ bỏ Người[242].

Hơn một tháng nay, những trận bão liên tiếp đổ vào Miền Trung nước ta, gây ra thiệt hại về người, về của. Con mất cha, vợ mất chồng; vợ chồng mất con chỉ trong nháy mắt. Của cải bao năm tháng chịu thương, chịu khó gây dựng đã tan tành theo dòng nước. Chưa nói đến việc người dân phải đối diện với đói rét, bệnh tật trước mắt… Lý trí có thể lý giải về một “Đấng Vô Hình” yêu thương chăng?

Ngay trong mỗi người chúng ta cũng có sự dữ như những khiếm khuyết và yếu đuối của bản tính. Sự hèn nhát của chúng ta ngăn cản mình đối diện với cuộc sống cách tròn đầy. Những tham, sân, si hỗn loạn khiến chúng ta không có sự khôn ngoan trong lựa chọn. Hơn nữa, khi lấy mình làm trung tâm, chúng ta vô cảm với người khác, với thiên nhiên và với cả Thiên Chúa.

Ngoài ra, xã hội với rất nhiều khiếm khuyết giữa người với người, giữa bạn với bạn. Gia đình nền tảng của xã hội lại bị lung lay với những mâu thuẫn, nhất là những bất công lớn lao trong xã hội khiến người ta không thể lý giải được nguyên do. Bất công xảy ra khắp nơi, trong mọi tầng lớp. Người bất lương vẫn bình an vô sự, kẻ thật tâm phải chịu thiệt. Sinh ra cùng một môi trường, một hoàn cảnh, người khỏe mạnh, thành đạt; kẻ thì dị tật bẩm sinh, cuộc sống như ở trong địa ngục. Vấn nạn này tiếp nối vấn nạn khác khiến cho trí khôn phải bất lực thường rơi vào tâm thế giao động khi đứng trước những thực tại hữu hình hỗn độn.

II. Quan điểm của người vô thần

Có nhiều dạng vô thần khác nhau tuỳ vào việc họ nhấn mạnh vào lý trí, nhân bản, duy vật hay đạo đức. Một điều chung nhất mà họ khẳng định: việc hiện hữu của Thiên Chúa thì không hợp lý, tha hoá con người.

Với những người theo chủ nghĩa duy lý, họ đề cao sức mạnh của lý trí, nhấn mạnh trên việc thực nghiệm. Điều được coi là chân lý, là thật khi chúng ta thực nghiệm được nó. Điều gì không thể thực nghiệm thì không thể khẳng định gì về nó được. Auguste Comte được xem là ông tổ của duy thực chứng đã chia lịch sử thế giới thành ba thời kỳ: siêu hình, thần học và khoa học. Thời kỳ đầu, con người gán cho các hiện tượng thiên nhiên như sấm sét, bão tố là dấu chỉ sự tức giận của các vị thần. Người ta chạy đến các thần xin cứu chữa khi bệnh tật, đau khổ. Dựa vào quyền phép các thần để giải thích các hiện tượng thiên nhiên. Thời kỳ thần học là thời kỳ tôn giáo ra đời, có tổ chức, có giáo lý, luật lệ nhưng nhấn mạnh Đấng Tối Cao, tuyệt đối tạo nên vũ trụ và tất cả vạn vật chỉ có thể tồn tại khi phụ thuộc vào Đấng Tạo Hóa. Đến thời khoa học, nhờ lý trí con người tìm ra được các nguyên lý để giải thích các hiện tượng thiên nhiên. Lý trí giúp làm chủ được những vấn đề bệnh tật với việc khám phá ra những kỹ thuật y khoa hiện đại, những phương thuốc tốt; vấn đề đói kém, thiên tai có thể được khắc phục và giảm nhẹ; có thể làm mưa nhân tạo hay dự báo được thời tiết mưa bão ra sao để phòng ngừa… Tất cả nhưng gì ngày xưa tin là quyền năng của Thượng Đế, ngày nay lý trí con người có thể lý giải và thực hiện được mà không cần phải cầu xin.

Chủ nghĩa duy vật không chấp nhận một thế giới được sáng tạo, vì cơ sở hạ tầng là vật chất, nghĩa là từ khởi đầu là vật chất bất tất. Vật chất phát sinh ra tinh thần là kiến trúc thượng tầng. Trải qua quá trình lịch sử phát triển của con người, sự biến đổi xã hội không tuỳ thuộc vào một sức mạnh “siêu nhiên” mà tuỳ thuộc vào công cụ và phương thức sản xuất. Công cụ và phương thức sản xuất nào thì sẽ hình thành nên xã hội đó, tạo đà phát triển của lịch sử con người. Chủ trương này coi tôn giáo chỉ là sản phẩm của giai cấp thống trị, có tính cách bảo thủ, làm trở ngại cho mục tiêu phát triển. Chủ nghĩa duy vật coi Kitô giáo là “thuốc phiện của con người” vì mang đến cho Kitô hữu một niềm hy vọng hão huyền vào thiên đường, bị ru ngủ và quên rằng phải tìm kiếm tình yêu, công bình và bình an trong thế giới họ đang sống.

Những người khác theo chủ nghĩa nhân bản như Feuerbach tấn công tôn giáo vì tôn giáo tha hoá con người. Theo ông, tôn giáo chỉ là một sự phóng chiếu của con người vào trong Thượng Đế tất cả những phẩm chất mà đáng lẽ ra là thuộc về họ. Con người gán cho Thượng Đế nào là hoàn hảo, tốt lành, quyền năng và vinh quang. Sự phóng chiếu đặt con người vào tư thế nhìn mình như là đối nghịch với Thượng Đế, nghĩa là nhận vào mình những gì là không hoàn hảo, xấu xa, yếu đuối và thấp kém. Con người tự làm giảm giá trị của mình bởi tôn giáo. Ngược lại, J.P.Sartre chủ trương phải chối bỏ Thượng Đế, vì Thượng Đế là một nhà lập pháp, xác định bản tính của con người, thiết lập một trật tự thần linh về luân lý và giá trị hợp lý. Nếu chấp nhận sự hiện hữu của Thượng Đế, con người bị tước mất tự do, là quyền lực tuyệt đối mà họ dùng để xác định phương hướng và đặc tính của đời sống. Mất tự do, con người không còn là chính mình.

Dầu theo lập trường nào, vô thần phủ nhận “Đấng Vô Hình”. Thế giới vật chất hữu hình không nói lên được điều gì cả. Nó nằm trong tầm tay của con người, là đối tượng của nghiên cứu. Con người có thể sử dụng nó cho những mục đích của mình và giải mã được những gì người xưa gọi là huyền bí. Trí khôn chỉ nhìn thấy hữu hình và có thể tìm ra được những nguyên lý “tự nhiên” tạo ra cái mà người ta gọi là huyền diệu.

III. Trở về với kinh nghiệm sống của thánh Phaolô

Khi đọc thư Rôma (1,20) nhiều người lầm tưởng thánh Phaolô đã trình bày chứng lý vũ trụ học. Một chứng lý mà thánh Tôma Aquinô và một số triết gia sau này đã xây dựng và dùng để chứng minh thế giới là công trình sáng tạo của một “Đấng Vô Hình”. Thật ra xét về nội dung, khẳng định của thánh Phaolô và các triết gia rất giống nhau, nhưng về nền tảng lại hoàn toàn khác. Các triết gia dựa trên nguyên lý túc lý để chứng minh về sự hiện hữu của một Thiên Chúa. Nó chỉ có giá trị theo nguyên lý của lý trí, vì nó chỉ chứng minh về sự khẩn thiết phải có một “Đấng” tạo nên vũ trụ hữu hình, chứ không nói lên được điều gì. Trong khi đó, thánh Phaolô đã được Chúa thu phục trên đường đi Đamát, được Người dạy dỗ, được sai đi và được đưa lên tầng trời thứ ba. Ngài đã gặp gỡ một Đấng đang sống đến nỗi cuộc sống của ngài là Đức Kitô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20) và ngài nhất quyết: “Tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô” (Pl 3,8). Trong kinh nghiệm sống đó, thánh nhân đã nhấn mạnh trí khôn nhận biết “quyền năng vĩnh cửu và Thần tính của Thiên Chúa” qua công trình sáng tạo. Như vậy, việc nhận biết của trí khôn được diễn tả trong Rm 1,20 là một nhận biết sau khi gặp gỡ và sống chính sự sống của Đức Kitô. Nó không đơn thuần là một nhận biết thuần lý, mà là “cái biết” từ một cuộc gặp gỡ, đã trải qua một kinh nghiệm sống và đã tin.

Điều này cũng đúng ngay cả trước khi “ngã ngựa trên đường Đamát”, vì ngài là một người Do thái, và cũng là một Pharisêu nhiệt thành. Những gì người Do thái đã sống, đã tuyên xưng đức tin thì đó cũng chính là môi sinh nuôi dưỡng Saolô trở thành một Pharisêu nhiệt thành, thông hiểu đạo lý.

Chắc hẳn Saolô hiểu rất rõ các mối tương quan giữa Thiên Chúa và vũ trụ, cũng như lý do mà mối tương quan này bị rạn nứt, gãy đổ như thế nào. Mối tương quan giữa Thiên Chúa và vũ trụ là mối tương quan giữa Đấng Tạo Thành và thụ tạo, được mặc khải chứ không phải dựa trên chứng cứ hay chứng lý. Với người Do thái, đây là một chân lý. Chân lý được Thiên Chúa thực hiện và cha ông họ đã nhận lãnh, đã sống và truyền lại cho con cháu[243]. Họ nhìn, họ đụng chạm vũ trụ hữu hình nhờ ngũ giác, nhưng nhận biết thực tại sâu xa của nó bằng kinh nghiệm tôn giáo. Kinh nghiệm này giúp họ nhận ra “Đấng Vô Hình” từ những gì “hữu hình” với một “ánh nhìn” trực giác siêu nhiên, mặc dù họ vẫn đụng chạm, cảm nhận nhờ giác quan như mọi người.

Chính vì thế, họ có thể dễ dàng ca ngợi Thiên Chúa và hoà chung lời tụng ca với vạn vật, với đất trời: “Ca tụng Chúa đi, này vầng ô bóng nguyệt, ca tụng Người muôn tinh tú rạng soi. Ca tụng Chúa đi, hỡi cửu trùng cao vút, cả khối nước phía trên bầu trời. Nào ca tụng thánh danh Đức Chúa, vì Người ra lệnh, thì hết thảy được tạo thành” (Tv 148,3-5). Họ ca tụng vì xác tín rất rõ ràng và quyết liệt: “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời” (Tv 33,6). Nó là kết quả của một quyết định khôn ngoan và yêu thương, chứ không phải là ngẫu nhiên: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên” (Kn 11,24). Bởi thế, họ như cảm nhận trực tiếp Đấng “trải mặt đất này trên làn nước bao la, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136,6). Cứ thế mà dân tộc Do thái phát triển và lớn mạnh nhờ tâm tình tôn giáo trong tiếng hát tạ ơn, được nuôi dưỡng từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Thánh Phaolô không những đã cùng với dân tộc mình chúc tụng Thiên Chúa qua các thánh vịnh tạ ơn, ngài còn vươn lên và vượt xa hơn sau khi gặp gỡ Đức Kitô trên đường Đamát. Gặp Đức Kitô, thánh nhân nhận ra ơn cứu độ đích thực nhờ tin vào Đấng cứu độ trần gian. Do đó, việc trí khôn khám phá ra “quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người” nơi (Rm 1,20) không chỉ dừng lại việc nhận ra Thiên Chúa là ai, hay mối tương quan giữa Người và vạn vật thế nào, nhưng dẫn chúng ta vào một chiều kích mới, chiều kích sự sống. Trong chiều kích này, việc biết được “thần tính Thiên Chúa” không phải để thoả mãn lý trí, mà là biết để được biến đổi, trở nên con người mới trong Chúa Kitô và sống sự sống mới (x. Rm 1,18-3,31).

Thế nhưng, cần phải có đức tin, vì “người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô” (Rm 3,22). Tin ở đây không phải là tin có, mà “đón nhận” Thiên Chúa (x. Ga 1,12). Tin có Đấng tạo thành là chuyện hiển nhiên (x. Rm 1,19), kẻ ngu si tự nhủ: làm chi có Chúa Trời! (Tv 14,1). Tự bản chất, tin là đón nhận Thiên Chúa vào cuộc sống chúng ta. Đón nhận là một cuộc tiếp đón, thân tình và trao hiến, nên cần mở rộng cõi lòng. Mở cõi lòng không phải chỉ là mở rộng cánh cửa mà còn là một sự thay đổi để sống một kinh nghiệm mới. Khi tin ai, người đó chấp nhận ra khỏi mình và hướng về người mình tin; giao cho người đó quyền nắm giữ một bí mật, một công việc làm ăn hay ngay cả vận mệnh của mình. Người nào mà ta càng yêu mến, càng tín thác, ta sẽ càng giao phó bí mật của mình mà không do dự. Giao phó cho ai có nghĩa là sẵn sàng đón nhận người đó, và có thể nói rằng: để cho người đó “chiếm hữu” mình.

Điều này đồng nghĩa với việc ta mở lòng ra đón nhận một kinh nghiệm mới. Chân trời của ta được hoà vào trong chân trời khác để mở ra một chân trời mới rộng lớn hơn: chân trời ơn cứu độ, được nên công chính nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Ở đây, sau khi gặp Đức Kitô, ngài chỉ biết một Đức Kitô chịu đóng đinh, và sẵn sàng thực hiện một cuộc mạo hiểm: “Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3,13-14).

Như thế để có thể đi “từ hữu hình đến vô hình”, chúng ta cần phải sống kinh nghiệm sống của thánh Phaolô. Lúc đó, chúng ta mới thực sự siêu vượt trên trí khôn nhân loại để đến với trí khôn đã được cứu độ. 

 Kết

Thực tế, có nhiều kinh nghiệm khi đối diện với thế giới hữu hình: do dự, chối bỏ hay nhận ra và tin nhận “Đấng Vô Hình”. Những gì diễn ra trong kinh nghiệm thường ngày đôi khi làm cho chúng ta dao động. Dao động vì ta không nắm bắt được nó một cách chắc chắn, nên có thể xem niềm tin như là một điều phi lý. Từ phi lý để đi đến vô thần chỉ là một làn ranh rất nhỏ. Tuy nhiên, hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa như một người vô thần là một hành động liều lĩnh, vì Thiên Chúa mà người tin xác tín là có và vô thần bảo là không có, là một thực tại mà cả hai không thể hiểu được bằng lý trí. Do đó, không thể chỉ dựa trên niềm tin vào một kinh nghiệm nào đó về cuộc sống, về tình yêu, về nỗi đau của nhân loại để từ chối có một “Đấng Vô Hình” mà chúng ta không nắm bắt được hay công nhận là có. Điều quan trọng là phải gặp gỡ, đụng chạm được.

Theo các nhà hiện tượng học như Merleau Ponty, con người không có sự phân tách giữa lý trí, tình cảm và thân xác. Tất cả mọi hành động con người đều được nhìn trong một toàn thể. Con người tiếp xúc với thế giới trước hết không phải bằng lý trí, trí khôn mà qua thân xác. Suy nghĩ, hành động, vui, giận, hận… đều trong thân xác và với thân xác. Nên sự hiểu biết căn bản nhất là một thông hiểu trong cảm nghiệm sống, kinh nghiệm sống. Đây là con đường dài cần phải được giáo huấn, thực hành và sống “hết lòng, hết trí khôn và sức lực” đầy say mê.

  Trở về mục lục


 

 

NHÂN SINH “ẢO” VÀ MÔI SINH “NHÃO”

                                                                                Nguyên Sy

Ngày xưa, nhờ sống gần thiên nhiên, con người còn nhận thức được thiên nhiên. Ngày nay, con người càng trở nên xa lạ và hờ hững với thiên nhiên. Vì thế, môi sinh ngày càng trở nên tồi tệ như: sự ấm lên toàn cầu do khí thải các nhà máy, suy giảm tầng Ozone, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, mất đa dạng sinh học và khủng hoàng năng lượng. Vì vậy, vấn đề môi sinh là vấn đề sống còn với vận mệnh nhân loại. Với tầm mức nguyên nhân và hậu quả rộng lớn như thế, người viết không có tham vọng trình bày hết và càng không thể có được “tiếng nói sau cùng”. Trong bài này, người viết chỉ tập trung nói về mối tương quan giữa con người và môi trường qua chủ đề: nhân sinh “ảo” và môi sinh “nhão”.

1. Tương quan giữa nhân sinh và môi sinh

Mối tương quan giữa nhân sinh và môi sinh không tách rời nhau nhưng hỗ tương cho nhau. Một nhân sinh tốt sẽ có một môi sinh sạch và ngược lại. Một sự nhận thức đúng về nhân sinh cũng kéo theo một sự nhận thức đúng về môi sinh. Tuy nhiên, con thường dừng lại ở nhận thức kinh nghiệm thường nghiệm, hơn là vươn tới sự nhận thức siêu nghiệm. Đó là sự nhận thức bằng con tim và đức tin; Đó là sự nhận thức vượt qua và vượt lên trên vật lý. Từ sự nhận thức này, con người mới biết quý trọng những gì mình đã, đang và sẽ lãnh nhận trong trách nhiệm và tình thương.

Chúng ta thấy rằng, nhân sinh không tách rời môi sinh và môi sinh cũng không nằm ngoài nhân sinh. Mối tương quan này không chỉ dừng lại ở lợi ích nhưng còn là mối tương quan sinh tử. Thiên nhiên là những gì Thiên Chúa đã dựng nên để phục vụ con người và Ngài giao cho con người làm chủ, cùng quản lý nó. Vì thế, mỗi yếu tố tự nhiên đều có một cứu cánh riêng và sự thiện hảo riêng. Sáng Thế, quyển sách đầu tiên của Kinh Thánh Kitô giáo, đã diễn tả mối tương quan hài hòa giữa con người với thiên nhiên qua những hình ảnh và biểu trưng sống động. Chính Người đã tạo dựng vạn sự từ hư vô và khi nhìn lại từng tạo vật “Người đều thấy nó tốt đẹp”[244]. Do đó, thiên nhiên không những không phải là sức mạnh thù địch ghê gớm, mà còn là “cách thế biểu lộ chương trình yêu thương và sự thật”[245] của Thiên Chúa đối với loài người. Thật vậy, đối với Đức Bênêđictô XVI: “Thiên nhiên xuất hiện trước chúng ta và được Thiên Chúa ban tặng như không gian sống cho chúng ta. Thiên nhiên nói với chúng ta về Đấng Sáng Tạo (Rm 1,20) và về tình yêu của Ngài với con người. Thiên nhiên được hướng đến thời cuối cùng, cũng sẽ được “qui tụ trong Đức Kitô” (Ep 1,9-10; Cl 1,19-20). Do đó chính thiên nhiên cũng là một “tiếng gọi”. Thiên nhiên nằm trong tầm tay sử dụng của chúng ta không phải như “một đống đối tượng được tung rải một cách ngẫu nhiên”, nhưng như là quà tặng của Đấng Sáng Tạo, Đấng đã định cho chúng những trật tự nội tại để con người có thể rút ra từ đó những định hướng cần thiết để “gìn giữ và canh tác” chúng (St 2,15)[246]. Từ đó, chúng ta thấy rằng: khi con người khủng hoảng thì môi sinh cũng khủng hoảng; khi con người điên đảo thì môi sinh cũng rối loạn.

2. Nhân sinh ảo và môi sinh nhão

Sở dĩ, người viết có ý tưởng trên là nhờ việc liên hệ đến cuộc sống con người hiện nay và tình trạng đáng thương tâm của những nạn nhân bị chết trong bão lụt ở Miền Trung nước ta vừa qua. Chúng ta đang sống trong một thời đại văn minh mang lại những thành quả tốt đẹp phục vụ lợi ích con người, bên cạnh đó vì sự lạm dụng của con người đã gây nên việc mất quân bình khi phải đương đầu với bao nhiêu là sợ hãi và buồn chán. Vũ trụ trở thành một cơ xưởng mênh mông, ở đó tất cả được diễn tả bằng những con số và hiệu năng. Có thể nói rằng thế giới đang rơi vào một cuộc khủng hoảng toàn diện: khủng hoảng kinh tế, đạo đức, môi sinh và nhân sinh. Đại dịch Covid 19, chiến tranh và thiên tai (như Miền Trung của chúng ta đang chèo chống từng ngày) là một minh chứng cho thực trạng của thời đại. Quả thực, không ít người đang lạm dụng văn minh kỹ thuật số để sống trong ảo tưởng và làm cho họ bay bổng trong môi trường lung linh đầy sắc màu. Từ đó, họ vô tư vẽ ra đủ thứ bức tranh ảo với những mơ ước viễn vong. Đại dịch covid 19 và thiên tai như là những cú tát vào khuôn mặt đang ngủ vùi trong ảo tưởng. Nhưng điều đó có làm cho họ tỉnh ngủ hay vẫn còn ‘nướng mình’ trên chiếc giường của nhân sinh ảo? Thông điệp Laudato Si’ về “Chăm Sóc Ngôi Nhà Chung, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói về việc suy giảm chất cuộc sống và suy thoái của xã hội rằng: “Nếu chúng ta nhận thức con người là một thụ tạo trên trái đất này, họ có quyền sống và hạnh phúc, ngoài ra còn có một phẩm giá rất đặc biệt; chúng ta không thể bỏ qua các hậu quả của việc tàn phá môi trường, của mẫu phát triển hiện hành và văn hóa đào thải đối với sự sống của con người[247].

Chúng ta có thể đưa ra ví dụ cụ thể như thiệt hại do thiên tai tại Miền Trung -Việt Nam vừa qua có một điều đặc biệt là các vụ bão lụt xuất hiện nhiều ở miền núi như ở Thủy điện Rào Trăng 3; khu vực đóng quân của Đoàn Kinh tế – Quốc phòng 337, Quân khu 4 trên địa bàn xã Hướng Phùng, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị; Phước Sơn thuộc Quảng Trị, Trà Leng thuộc tỉnh Quảng Nam… Đó là nguyên nhân của việc sạt lở đất, hay nói cách khác, đó là hậu quả của một môi sinh nhão.

Chúng ta thấy rằng con người đóng góp vào nguyên nhân gây sạt lở, vì sạt lở và lũ quét là do nguyên nhân chính từ thảm thực vật bị giảm. Thật thế, thực trạng nạn chặt phá rừng ở Việt Nam hiện nay đang là vấn đề hết sức nghiêm trọng. Trong Tông huấn Querida Amazonia, ĐGH Phanxicô kêu gọi: “Không có một hệ sinh thái lành mạnh và bền vững, có khả năng biến đổi một điều gì đó, nếu mọi người không thay đổi, nếu họ không được khuyến khích chọn một cách sống khác, bớt tham lam hơn, thanh thản hơn, biết tôn trọng hơn, ít lo lắng hơn và huynh đệ hơn[248].

3. Đời tu ảo và bầu khí nhão

Sống trong thế giới văn minh, khi con người lạm dụng công nghệ và kỹ thuật số làm cho họ phải oằn mình giữa hai thế giới ảo và thực. Con người phải sống cho hai thế giới trong khi một ngày vẫn chỉ có 24 tiếng đồng hồ. Tình trạng này không chỉ đứng ngoài ranh giới nội vi đan viện, mà còn có thể thâm nhập vào đời sống tu trì. Từ đó, nó khiến chúng ta, thay vì chìm đắm trong cầu nguyện chúng ta lại nguy cơ ngụp lặn trong mạng xã hội. Khi đó, chúng ta đánh mất dần căn tính đời tu và nô lệ cho những chuyện phù phiếm trên mạng. Nhiều người than phiền mình bị thiếu ngủ và không đủ thời gian nhưng lại quá dư tràn những thông tin và hình ảnh làm phai nhạt cuộc sống thiêng liêng và đức tin của chúng ta. Những lối sống ảo dễ làm cho chúng ta trở nên gần gũi với người xa lạ và trở nên xa lạ với người gần gũi, trở nên những hữu thể vô danh với nhau và với môi sinh. Đồng thời, nó làm chúng ta mất hết sức đề kháng trước những thách đố của thời đại và cám dỗ của đời tu.

Kết

Vấn đề nhân sinh và môi sinh vẫn đã và đang là thách đố cho mỗi người chúng ta. Đứng trước thực trạng trên, Đức Giáo hoàng Phanxicô kêu gọi chúng ta đừng đánh mất niềm hy vọng. Niềm hy vọng này không phải là một sự lạc quan ngây ngô nhưng phải là một cảm thức để lên tiếng và là một phương châm để hành động. Vì thế, qua hai Thông điệp Laudato Si’ về bảo vệ môi sinh, và Thông điệp “Fratelli Tutti – Tất Cả Anh Em” cho thấy, Đức Giáo hoàng đã nhận thức được thế hệ này, thời đại này bằng con tim của một người cha và bằng một đức tin vững vàng vào tình yêu của Thiên Chúa. Đức Giáo Hoàng kêu gọi chúng ta “bớt nói và hãy hành động” vì một môi sinh bền vững và phát triển lâu dài. Tông huấn Amazon Dấu Yêu, Đức Giáo hoàng Phanxicô nói: “Nếu chúng ta bước vào hiệp thông với rừng, tiếng nói của chúng ta sẽ dễ dàng hòa quyện với tiếng nói của nó và trở thành một lời cầu nguyện: ‘khi chúng ta nghỉ ngơi dưới bóng cây bạch đàn cổ xưa, lời cầu xin ánh sáng của chúng ta hòa vào lời ca của tán lá muôn thuở[249].

    Là những đan sĩ trong thời đại hôm nay, chúng ta cần quan tâm đến kiến tạo một nhân sinh lành mạnh để tái tạo một môi sinh xanh, sạch, đẹp. Chúng ta cần sống đơn giản và gần gũi môi sinh hơn. Chúng ta cần xây dựng một đời tu chân thực để phát triển một bầu khí tươi đẹp và đầy tình thương.

  Trở về mục lục

 

 

[1] Super Gen. Ad lit., VIII.

[2] Tổng luận Thần học, I, Q.102.

[3] Id. a. 2.

[4] x. Tổng luận Thần học, I, Q.102. A.III

[5] x. Thomas Merton, Zen and the Bird of appetite, p.116, cit. in The Paradise Man according to Thomas Merton by Linh Xuan Vu, Bản dịch tiếng Việt 2017, tr 16.

[6] Dictionnaire encyclopédique de la Bible, Brepols, Eden.

[7] x. Letter to Diognetus 12.2, Ancient Christian Commentary on Scripture, T.1, Old Testamant, p.55.

[8] Règle du maitre 10, 94-101; ed. Et trad. A. de Vogüé, SC 105, 1964, p.440-441.

[9] Irinée, Adversus haereses, V.33,3-4 ; SC 153, 1969, p.414-416.

[10] Hai đoạn văn này được viết lên trong các thời điểm khác nhau. Bản văn thứ nhất được gọi là bản E (vì gọi Thiên Chúa là Elohim) xuất hiện vào khoảng Thế kỷ VI TCN. Bản văn thứ hai có trước bản thứ nhất vài thế kỷ (M. Vervenne, “genesis 1,1 – 2,4. The compositional Texture of the Priesly Overture to the Pentateuch”, p.55.64)

[11] André Wénin, l’homme biblique, éd. Du cerf, Paris, 2004, p.36

[12] Ils sont maîtrisés par la douce puissance de la Parole divine, André Wénin, op. cit. P.43.

[13] Midrash Sifré sur Nb 7, 26, cit. in André Ménin, op. cit, p.44.

[14] P. Beauchamp, “Création et fondation de la loi”, p.140-149, cit. in André Wénin, op. cit. p.43.

[15] Ancient Christian Commentary on Scripture, T.1, Old Testamant, p.72.

[16] Nouveau Commentaire Biblique, éd. Emmaus, 1978, p.88.

[17] Thông điệp Laudato Si’, số 88.

[18] Tổng luận Thần học, I, q.47. art.1.

[19] 1 giây ánh sáng = 300.000 km; 1 năm ánh sáng = 300.000 x 60 x 60 x 24 x 365 = 9,460,800,000,000 km.

[20] Linh Xuân Vũ, Người Cõi Địa Đàng, Bản dịch của Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Thiên Phước, 2017, tr 73-76.

[21] Thomas Merton, Bread in The Wildeness, p.50, cit. in Linh Xuan Vu, op. P.82.

[22] Thông điệp Laudato Si’, số 119.

[23] x. Thông điệp Laudato Si’, số 117.

[24] Thông điệp Laudato Si’, số 119.

[25] Jesus le Christ, Paris, 1976, p.228.

[26] Theo Isaia, trong thời cánh chung những con thú độc ác ăn thịt (carnivore) sẽ ăn rơm cỏ như những có thú hiền lành ăn thảo mộc (végétarien), để không giết hại lẫn nhau và sống chung hoà bình. Những con thú có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng là những con người hiền lành (chiên, dê, bò cái) hay những con người độc ác (rắn hổ mang, sư tử, gấu) (x. Tv 22,13.14.17)

[27] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 66.

[28] Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, Sứ điệp ngày truyền giáo, 2008.

[29] Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, Tông huấn Verbum Domini, số 108.

[30] Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, tiếp kiến chung (9.11.2005), 3: Giáo lý 1 (2005), 768.

[31] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 341.

[32] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 66.

[33] Thánh Maximô Hiển tu, Ambiguorum liber, PG 91, 1156. GLTHCG, 398.

[34] Sđd., 400.

[35] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 73.

[36] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 67.

[37] Giuse Phạm Đình Ngọc SJ, Trả cho Thiên Chúa môi trường tươi đẹp, Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật XXIX Thường Niên A.

[38] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 74.

[39]  Sđd., số 83.

[40] Thánh Gioan Phaolô II, những bài huấn giáo về sự tạo dựng, từ ngày 8.1 đến ngày 2.4.1986.

[41] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 100.

[42] Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo, số 1046

[43] Thông điệp Laudato Si’, số 83.

[44] Sđd., số 78.

[45] J.L. Ruiz de la Pena, Teologia della creazione, Borla, Roma, 1988.

[46] GLHTCG, 1046

[47] Sđd., 2418.

[48] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC DOMINICA, Thư mục vụ Mối tương quan của con người với thiên nhiên (21.01.1987).

[49] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 75; x. ĐGM Matthêu Nguyễn Văn Khôi, bài Môi Sinh dưới nhãn quan Thần học của Thông điệp Laudato Si’.

[50] x. “Our Environmental Way of Proceeding” trong tài liệu “Reconciliation with Creation” – Jesuit Conference of Asia Pacific (JCAP) – Task Force on Ecology, 2013, tr. 175-185, Philipphê Trần Thanh Minh, S.J., chuyển ngữ.

[51] Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, Tông huấn Verbum Domini, số 108.

[52] x.  Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, Cầu nguyện, chuyển ngữ: Giuse Phan Văn Phi, O.Cist., Nxb Đồng Nai, tr. 89.

[53] Dom Claude J. Nesmy, Thánh Biển Đức và Đời sống Đan tu, tr. 10-11.

[54] Mary Fabyan Windeatt , Thánh Biển Đức- Anh Hùng Của Núi Đồi, Dòng Biển Đức chuyển ngữ, Ủy ban Đoàn kết Công giáo, Tp. HCM, tháng 8.1991, tr.16

[55] Sđd, tr.23.

[56] Sđd, tr. 30-31.

[57] x. Dòng Biển Đức chuyển ngữ, Thánh Biển Đức anh hùng của núi đồi, ủy ban đoàn kết công giáo, Tp. HCM, tháng 8.1991, tr.30

[58] Sđd, tr. 40.

[59] x. DN 37,77, 78, 79, 80, 112, 118, 127.

[60] Hiếu Liêm, http://hoidongxitothanhgia.com/linh-dao/dan-si-xito-huong-toi-tuong-lai-trong-tinh-than-cua-cha-to-phu-bien-duc-thuan-1830.html (tải ngày 06.11.2020).

[61] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Thông Điệp Fratelli Tutti (Tất Cả Anh Em), chuyển ngữ: Giuse Phan Văn Phi, O.Cist. Nxb Tôn Giáo, 2020, số 1.

[62] Sđd, số 89.

[63] Bài viết này được thực hiện qua các thu tập những dữ liệu được trình bày trong một số tác phẩm trình bày về Xitô như: LE RÊVE CISTERCIEN (ƯỚC MƠ XITÔ) của Léon PRESSOUYRE, nhà xuất bản Gallimard, năm 1990. LES CISTERCIENS (CÁC ĐAN SĨ XITÔ), tổng hợp các bài viết và hình ảnh, nhà xuất bản Grabas, năm 2007.

[64] Đan viện được gọi là Giáo Hội, như Giáo Hội Pontygny, Giáo Hội Clairvaux…

[65] Thánh Bênađô, lá thư 64 gửi Đức Alexandre, Giám mục Lincoln.

[66] Di Ngôn, “Sự kín nhiệm của các thầy dòng contemplativi” (s.141), ấn bản năm 2018, tr. 203-205.

[67] Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến, Hạnh Tích Cha Benoit, tái bản lần hai, 1998, tr. 114-115.

[68] Hạnh Tích, tr.117-118.

[69] Hạnh Tích, tr.121.

[70] Nguyễn Thúc, Thơ Nôm Phước Môn, in lần thứ hai, 1977, tr.58.

[71] Ưng Bình Thúc Gia Thị, “Cảnh vật Phước Sơn” trong Vì Chúa, số 121, 01.11.1941, tr. 1941.

[72] Di Ngôn, “Trong Nhà Dòng chúng ta có ba phần việc” (s.139), ấn bản năm 2018, tr.199-201.

[73] Di Ngôn, “Trong Nhà Dòng chúng ta có ba phần việc” (s.139), tr.200.

[74] Di Ngôn, “Người Pharisieu và người Publicanô” (s.125), tr.174-175.

[75] Di Ngôn, “Về đức mến” (s.112), tr.151.

[76] Hạnh Tích, tr.121.

[77] Di Ngôn, “Hãy cất lòng lên” (s.130), tr.182-183.

[78] Hạnh Tích, tr.132.

[79] Di Ngôn, “Khi được ơn nghĩa thì được gì?” (s.109), tr.143.

[80] Di Ngôn, “Cám ơn Chúa đã gọi chúng tôi vào dòng” (s.133), tr.187-188.

[81] Di Ngôn, “Sống kết hiệp với Chúa” (s.107), tr.139-140.

[82] Tác Phẩm Của Thánh Phanxicô Assisi, (dịch) Norberto Nguyễn Văn Khanh, OFM, Văn phòng Tỉnh Dòng 2015, tr.100.

[83] x. ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 20 – 42.

[84] x. Thiên Trường, Những con số bất an, https://www.thiennhien.net/nhung-con-so-bat-an. Truy cập ngày 2020/10/16.

[85] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 115.

[86] x. ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 2.

[87]  P. T. Chardin, Hiện tượng con người, Tri Thức, Hà Nội 2017, tr. 81.

[88] x. E. F. Schumacher, Một chỉ dẫn cho người bối rối, Tri Thức, Hà Nội 2019, tr. 153.

[89] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 75.

[90] B. Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, Tập 5, tr. 308.

[91] x. ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 59.

[92] ĐGH Phanxico, Thông điệp Fratelli Tutti, (dịch Lê Công Đức), số 105.

[93] Aristote, Chính trị luận, Thế giới, Hà Nội 2018, tr. 63.

[94] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 295.

[95] Gabriel Marcel, Đại Chủng viện Huế 1996 – 1997, tr. 183

[96] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 139.

[97] Lễ Ký, Thiên Lễ Vận, 9.

[98] Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 357.

[99] ĐGH Phanxicô tiếp phái đoàn bảo vệ môi trường Pháp, sáng thứ năm 03/9/2020.

[100] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti, số 8.

[101] x. Blaise Pascal, Suy tưởng, Nxb Khoa học xã hội, Tp. HCM, 2019, tr. 145 – 146.

[102] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 213.

[103] B. Haring, Tự do và trung thành trong Đức Kitô, Tập 5, tr. 300.

[104] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 211.

[105] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 212.

[106] x. Thông báo “Năm Kỷ niệm đặc biệt Thông điệp Laudato Si’”, Tòa Giám mục Phan Thiết, ngày 22 – 5 – 2020.

[107] x. Giáo hội Nhật sống thời gian thụ tạo, https://vaticannews.va/vi/church/news/2020-09/giao-hoi-nhat-thoi-gian-thu-tao.html, Truy cập ngày 9 – 9 – 2020.

[108] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 164.

[109] x. ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 177- 180.

[110] P. T. Chardin, Hiện tượng con người, tr. 434.

[111] ĐGH Biển Đức XVI, Sứ điệp nhân ngày hòa bình thế giới lần thứ 43, số 13.

[112] Gaudium et Spes, số 69.

[113] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 228.

[114] Thomas Aquino, Tổng luận thần học, I-II, q. 26. a. 4.

[115] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Querida Amazonia, số 106.

[116] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 208.

[117] ĐGH Biển Đức XVI, Vì một sinh thái học nhân bản, Tôn giáo, Hà Nội 2017, tr. 23.

[118] Trích lại ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 233.

[119] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 236.

[120] M. A, Antonius, Suy tưởng, Tri thức, Hà Nội 2020, tr. 297.

[121] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, số 126.

[122] Costica Bradatan, Chết cho tư tưởng, Tri thức, Hà Nội 2017, tr. 94

[123] Kahlil Gibran, Trầm tưởng, (dịch) Nguyễn Ước, Văn Học, Hà Nội 2012, tr. 138.

[124]x. Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Lời Chúa Cho Mọi Người, Nxb Tôn giáo, Chú giải Thánh vịnh 104 (103),  tr 943- 944.

[125] Người viết tình cờ đọc thấy tư tưởng của tác giả Đỗ Đức trên một mảnh báo cũ, xin được ghi lại nơi đây.

[126] x. ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, ban hành ngày 24/ 05/2015

[127] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, ban hành ngày 24/05/2015, số 6.

[128] x. Thánh Thi Kinh Sáng, thứ bảy, Tuần I.

[129] Thánh Biển Đức, Tu Luật 72, 1-2

[130] Thánh Biển Đức, Tu Luật Lời mở, câu 4

[131] Thông điệp Laudato Si’, số 95.

[132] Xem, Laudato Si’, số 1.

[133] Xem, Từ Điển Công Giáo 500 Mục Từ, Hội Đồng Giáo Mục Việt Nam, NXB Tôn Giáo, 2011, tr 66.

[134] Xem, Laudato Si’, số 2.

[135] Dựa vào bài viết Tài Nguyên Nước, được truy câp trên website https://vi.wikipedia.org/wiki/Tài_nguyên_nước, ngày 25/11/2020.

[136] Thông điệp Laudato Si’, số 28.

[137] x. Laudato Si’, số 28-30.

[138]8 Vậy Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin.9 Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ.10 Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10,8-10).

[139] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, bản dịch: Augustino Nguyễn Văn Trinh, số 53.

[140] x. Thông điệp Laudato Si’, số 23-24.

[141] Thông điệp Laudato Si’, số 33.

[142] x. ĐTC Phanxico, Buổi đọc kinh truyền tin trưa Chúa Nhật 18-10-2020, trích đài Vatican ngày 19-10-2020.

[143] x. Thông điệp Laudato Si’, số 56.

[144] Thông điệp Laudato Si’, số 34.

[145] x. Marie-Dominique Minassian, La spiritualité de frère Christophe, moine de Tibhirine: éléments d’une théologie du Don, Fribourg, 2007, p.281.

[146] x. Lm Giuse Phan Tấn Thành, Cử Hành Bí Tích Tình Yêu, p.146.

[147] Marc Donzé, Tư tưởng thần học của Maurice Zundel, chuyển ngữ Nguyễn Thị Chung, Nxb Tôn Giáo, tr. 609.

 

[148] Bertrand Georges, Sống trong ca ngợi, Nxb Các Mối Phúc Thật, tr. 30.

[149] ĐGH Phanxico, Thông điệp Laudato Si’, số 11.

[150] x. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, tr. 456.

[151] x. Vũ Minh Chi, Nhân học văn hóa con người với thiên nhiên, xã hội và thế giới siêu nhiên, tr. 18-19.

[152]  https://sbfranciscans.org/uncategorized-vi/bai-ca-tao-vat/?lang=vi

[153] Nguyễn Văn Trinh, Thông điệp Laudato Si’, tr. 11-12.

[154] https://sbfranciscans.org/uncategorized-vi/bai-ca-tao-vat/?lang=vi

[155]http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThongDiep/06GiaiThich_Laudato_Si/Bai02.htm

[156] x.Tôn Thất Sam, Những hiểu biết lý thú về thiên nhiên Việt Nam, tr. 125.

[157] x.Cao Huy Thuần, Thượng Đế, thiên nhiên, Người, tôi và ta, tr. 120.

[158] x. ĐGH Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti – Tất cả anh em, chuyển ngữ, Giuse Phan Văn Phi, Nxb Tôn Giáo, 2020, số 3.

[159] x. Hà Sơn- Khánh Linh, Những giá trị văn hóa thiên nhiên ban tặng cho con người, tr. 6.

[160] x. Lưu Văn Hy, Tri thức thế giới: Đưa thiên nhiên tới ngưỡng cửa nhà bạn, tr. 13-17.

[161] Kerry Walters, Tìm kiếm niềm vui trọn hảo với thánh Phanxicô Assisi, Dg: Lê Đình Trị, tr. 140.

[162] x.Tôn Thất Sam, sđd, tr. 181.

[163] Phanxico, Sđd, tr. 101.

[164] x. Anton, Những bông hoa nhỏ của thánh Phanxicô, tr. 68-69.

[165] Tóm lược Học Thuyết Xã Hội Công Giáo, số 487.

[166] Xuân Hương, Ngôn ngữ tình yêu, tr. 93.

[167] Cao Huy Thuần, Thượng Đế, thiên nhiên, Người, tôi và ta, tr. 125.

[168] Lê Công Đức, Biết bao nhiêu tình, tr. 153.

[169] Thiên Phúc, Tất cả là hồng ân, tr. 93-94.

[170] x.Tôn Thất Sam, sđd, tr. 66.

[171] Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, Dg: Nguyễn Văn Trinh, tr. 14.

[172] Thiện Cẩm, Siêu nhiên trong tự nhiên, tr. 88.

[173] Lưu Văn Hy, Tri thức thế giới: các loài hoa ở đầm lầy và suối, tr. 6.

[174] x. Trương Văn Nguyên, Bí ẩn về thế giới thực vật, tr. 13-14.

[175] x. Cao Huy Thuần, Thượng Đế, thiên nhiên, Người, tôi và ta, tr. 13-14.

[176] Phaolô VI, Thông điệp bát thập niên, Năm 1967, số 21.

[177] Gioan XXIII, Thông điệp hòa bình trên thế giới, Năm 1963, số 1.

[178] x. Quốc Tín- Phú Nam, Mật mã bí ẩn của thiên nhiên, tr. 992.

[179] Kerry Walters, Tìm kiếm niềm vui trọn hảo với thánh Phanxicô Assisi, Dg: Lê Đình Trị, tr. 197.

[180] Sđd, tr. 141.

[181] x. Anton, Những bông hoa nhỏ của thánh Phanxicô, tr. 54-55.

[182] ĐGH Biển Đức XVI, Tình yêu trong chân lý, số 48.

[183] x. Kerry Walters, sđd, tr. 158.

[184] x. Thiện Cẩm, Siêu nhiên trong tự nhiên, tr. 87.

[185] Kerry Walters, sđd, tr. 200.

[186] René Fülöp-Miller, thánh Phanxicô Assisi- vị thánh của tình yêu, tr. 191.

[187] x. Thiện Cẩm, sđd, tr. 79.

[188] Phanxico, Danh Ngài là thương xót, Dịch gia: Thái Hòa, tr. 101.

[189] x. Duy Ân Mai- Hồng Hà, Cây đàn của thánh Phanxico, tr. 173-174.

[190] x. Lưu Văn Hy, Tri thức thế giới: Đưa thiên nhiên tới ngưỡng cửa nhà bạn, tr. 201-204.

[191] Tôn Thất Sam, Những hiểu biết lý thú về thiên nhiên Việt Nam, tr. 79.

[192] Cao Huy Thuần, Thượng Đế, thiên nhiên, Người, tôi và ta, tr. 121.

[193] Benedictô XVI, Tình yêu trong chân lý, số 51.

[194]x. Lưu Văn Hy, Tri thức thế giới: Đưa thiên nhiên tới ngưỡng cửa nhà bạn, tr. 22-23.

[195] René Fülöp-Miller, Thánh Phanxicô Assisi- vị thánh của tình yêu, tr. 183.

[196] x. https://catechesis.net/hoa-binh-theo-kinh-thanh/;   Học thuyết xã hội của Giáo Hội Công giáo số 490

[197]  Trong sách này, tác giả mô tả mô hình xã hội gần như hoàn hảo trên một hòn đảo giả tưởng ở đại tây dương: Trên hòn đảo đó có 54 thành phố, bố trí giống nhau, có một thành phố trung tâm. Có hai ngành chính là nông nghiệp và thủ công, dân chúng hoán đổi nơi ở thường xuyên giữa nông thôn và thành thị. Đảo Không tưởng là một xứ sở xanh, hài hoà, có lối kiến trúc thân thiện với môi trường. Lao động được tổ chức một cách hợp lý, không vắt kiệt sức con người. Chế độ làm việc 6 tiếng mỗi ngày cho phép dành nhiều thời gian cho vui chơi, giải trí, đọc sách, nghiên cứu khoa học.  Dân đảo Không tưởng yêu hoà bình, chống chiến tranh, nhưng sẵn sàng tự vệ trước sự xâm lăng từ bên ngoài. Đảo cũng không ký hiệp ước với các dân tộc khác, mà chủ trương lấy lòng tin làm tiêu chuẩn giao tiếp.

Người ở đảo Không tưởng sống theo nguyên tắc cộng đồng xã hội, làm chung, hưởng chung, thậm chí ăn chung. Không có trộm cắp, tệ nạn xã hội, không có hiện tương mua chức tước. Hệ thống luật pháp trên Đảo hầu như không cần thiết, vì con người có tinh thần tự giác cao. Tại đảo Không tưởng không tồn tại thị trường, tất cả hoạt động đều theo kế hoạch thống nhất, từ ăn mặc đến lao động, giải trí. Nhà nước của ông không cần vàng bạc, tiền tệ, không cần sự giàu sang, no đủ về vật chất, không cần hưởng lạc, vui thú. Trên đảo, người ta dùng vàng bạc trang trí nhà vệ sinh và làm đồ đựng rác, hoặc làm dây xích và những chiếc gông để trói và khống chế nô lệ. Người Không tưởng cố sức làm cho vàng bạc ở nước họ bị coi khinh, thậm chi cảm thấy xấu hổ nếu đeo ngọc trai, kim cương trên người…

[198] Trong bản LXX, “thời sau hết” trong Thư Do Thái và “trong tương lai” trong Isaia có cùng một gốc từ là:  εσχάτος (cuối cùng, tận cùng, sau hết) và ημέρα (ngày). Trong Anh ngữ và Pháp ngữ cùng là the last daysderniers jours. X. https://biblehub.com/sepd

[199] https://ronrolheiser.com/nhap-the-thien-chua-o-cung-ch/#.X7PTnuw3vIU

[200] https://ronrolheiser.com/luc-ket-xe/#.X5lv1-w3vIU

[201] Thích Nhất Hạnh, Living Buddha, Living Christ, tr 131 – Tác giả bài viết lược dịch từ tác phẩm Living Buddha, Living Christ của Thích Nhất Hạnh.

[202] Gaudium et Spes, số 78.

[203] x. Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, số 494.

[204] Gaudium et Spes số 78

[205]Gaudium et Spes, số 78.

[206] ĐGH PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, Bản dịch của Lm Aug. Nguyễn Văn Trinh, số 84.

[207] ĐGH PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, Bản dịch của Lm Aug. Nguyễn Văn Trinh, số 85.

[208] ĐGH PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, Bản dịch của Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh, số 44.

[209] VIỆN NGÔN NGỮ HỌC, Từ điển Tiếng Việt, Chủ biên Gs. Hoàng Phê, Nxb Hồng Đức, năm 2018.

[210] ĐGH PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, Bản dịch của Lm Aug. Nguyễn Văn Trinh, số 128.

 

[211] ĐGH GIOAN PHAOLÔ II, Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, số 63

[212] ĐGH PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, Bản dịch của Lm Aug. Nguyễn Văn Trinh, số 103.

[213] Fx. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, s. 130.

[214] Công đồng Vaticanô II, Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo, số 3.

[215] Gioan Phaolo II, Thông điệp Redemptor Hominis, số 14.

[216] Huấn thị Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn. Dẫn Nhập

[217] x. Tông hiến Vultum Dei Quaerere s. 27

[218] Công đồng Vaticano, Gaudium et Spes, số 48.

[219] https://vtv.vn/quoc-te/15-dien-tich-dat-o-trung-quoc-bi-o-nhiem-136429.htm, cập nhật ngày 20.04.2014.

[220] https://vtv.vn/trong-nuoc/chat-luong-nguon-nuoc-mat-suy-thoai-ngay-cang-nghiem-trong-20180302143619017.htm, cập nhận ngày 02.03.2018.

[221] x. Lm Giuse Đỗ Văn Thụy, MSV, Tân Phúc Âm Hóa Cuộc Sống Đời Thường, Nxb Tôn Giáo, tr.12

 

[222] Lời Đức TGM José Rodriguez Carballo, Tổng thư ký Bộ các Dòng tu, Nhân Ngày Thế Giới về Đời Sống Thánh Hiến lần thứ 23, 2-2-2019.

[223] Radiovatican 2016/01/21

[224] Thông điệp Laudato Si’ của Đức Thánh Cha Phanxicô, chuyển ngữ HĐGMVN, số 140.

[225] https://kenhphatphap.com/su-ton-tai-cua-linh-hon-duoi-goc-nhin-khoa-hoc-va-triet-hoc-9Vev3oJKrx.html/ tải ngày 10/11/2020

[226] Từ điền Công giáo, trang 205.

[227] GLHTCG, số 366.

[228] Câu hỏi số 1, và 3 mục Linh Hồn trong https://www.nguoitinhuu.org/kienthuc/ho-giao/linh-hon.html/tải ngày 20/10/2020

[229] x. https://tusachcaodai.files.wordpress.com/2013/04/54cauhoidap.pdf/ tải ngày 10.11.2020

[230] x. https://www.daotam.info/booksv/54chdvlhvcn/54chdvlhvcn.htm/tải ngày 20/10/2020

[231] GLHTCG số 362.

[232] Tông huấn Querida Amazonia,  Amazon Dấu Yêu, dịch giả Giuse Phan Văn Phi O.Cist , số 53.

[233] x. FM. Thomas Nguyễn Văn Giang, HGCN số 24, Chú Quỷ Ban Trưa Và Cơn Cám Dỗ Thời Đại ,Tr. 200-208.

[234] Tông huấn QUERIDA AMAZONIA,  AMAZON DẤU YÊU, dịch giả Giuse Phan văn Phị O.Cist , số 41.

[235]  Sđd, số 42.

[236] Thói lệ số 192  – HP số 123.

[237] Giáo trình linh đạo đan tu, Những Nhà Thần Bí Xitô,  tr.152.

[238] Thói lệ Hội Dòng số 191.

[239] TL chương 52.

[240] DN số 118.

[241]  Nguyên lý của lý trí, theo đó mọi vật đều có lý do đủ để hiện hữu hay tồn tại và đều có thể hiểu được.

[242] Câu chuyện có thật, anh chị sống tại California

[243] Xh 12,25-27:  “Khi được vào đất mà Đức Chúa ban cho anh em như Người đã phán, anh em sẽ giữ nghi lễ đó. Khi con cháu anh em hỏi anh em : ‘Nghi lễ này có ý nghĩa gì đối với quý vị?’, anh em sẽ trả lời: Đó là lễ tế Vượt Qua mừng Đức Chúa, Đấng đã vượt qua các nhà của con cái Ítraen tại Aicập, khi Người đánh phạt Aicập và cho các nhà chúng ta thoát nạn.” Dân quỳ xuống và phủ phục”.

 

[244] x. St 1,4

[245] Bênêđictô XVI, Tình Yêu Trong Chân Lý, số 48.

[246] Tình yêu trong chân lý, số 48.

[247] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’  về “chăm sóc ngôi nhà chung” bản dịch của Linh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh, số 43.

[248] ĐGH Phanxico, Tông Huấn Querida Amazonia, Phan Văn Phi, O. Cist dịch, Nxb  Đồng Nai, 2020, số 58.

[249] Đức Giáo Hoàng Phanxico, Tông Huấn Querida Amazonia, Phan Văn Phi, O. Cist dịch, Nxb  Đồng Nai, 2020, số 56.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

BÀI VIẾT MỚI

spot_imgspot_img

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Hạt Giống Chiêm Niệm số 32: Cầu Nguyện Đan Tu

CẦU NGUYỆN ĐAN TU Số 32 – Tháng Giêng năm 2024 ĐÔI LỜI ... Kính thưa quý độc giả, Như chúng ta đã biết, cầu nguyện là hành...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 31: Hướng Vọng Trời Cao

 Số 31 – Tháng 7 năm 2023 Lời ngỏ Kính thưa quý độc giả, Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày qua đời của cha Biển Đức...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 29: Tứ Hải Giai Huynh Đệ

Số 29 – tháng 07 năm 2022 Cùng Độc giả, Các sinh hoạt của Ban Biên Tập Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm (HGCN) của Hội...

Hạt Giống Chiêm Niệm số 30: Một Đi Chung Cùng Nhau

LỜI NGỎ   Kính thưa Quí Độc Giả! Nội san Hạt Giống Chiêm Niệm số 30 phát hành vào tháng Giêng năm 2023 này mang chủ đích...

Giới Thiêu nội san “HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM” (Viện phụ Dominico Phạm Văn Hiền)

  NỘI SAN   HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     LỜI GIỚI THIỆU      ...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 1: NGUỒN SUỐI CHIÊM NIỆM

    HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM       Nội...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 2: HƯƠNG VỊ LỜI CHÚA

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 3: THAO THỨC

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 4: Những Nẻo Đường Sống Đạo

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM     Nội san linh đạo đan tu   NHỮNG NẺO ĐƯỜNG SỐNG ĐẠO   Số 4 tháng 7 năm 2007 LỜI NÓI ĐẦU     Một người nọ hỏi...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số đặc biệt: Cội nguồn hy vọng

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 7: Thử Thách

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...

HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM số 8: Trong Lòng Giáo Hội

  HẠT GIỐNG CHIÊM NIỆM      Nội san linh đạo...